Vụ Bắc Sơn: chủ tịch và trưởng công an xã tuyên bố từ nhiệm

Vụ Bắc Sơn: chủ tịch và trưởng công an xã tuyên bố từ nhiệm
Sunday, April 13, 2014

Nguoi-viet.com

BẮC SƠN, Hà Tĩnh (NV) – Chủ tịch xã Bắc Sơn và trưởng công an xã vừa cho biết họ sẽ xin từ nhiệm. Sự giận dữ của dân chúng đã khiến các viên chức trong xã phải đưa thân nhân trốn đi nơi khác.

Vài ngày qua, dân xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh đã rào làng để tự phòng thủ. Hệ thống chính quyền tại Bắc Sơn được mô tả là hoàn toàn tê liệt.

 

Xe hai bánh gắn máy của trưởng công an xã Bắc Sơn bị dân đốt đêm 10 tháng 4. (Hình: VN Express)

Vụ phản kháng ở Bắc Sơn bùng phát hôm 10 tháng 4. Khởi đầu bằng việc dân chúng bắt sáu sĩ quan công an đến thôn Trung Sơn thực hiện lệnh bắt ông Trương Văn Trường, 30 tuổi, với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng.”

Việc bắt ông Trường được xem như một hành vi nhằm răn đe những người phản kháng “Dự án khu nghĩa trang sinh thái Vĩnh Hằng.”

Theo dân chúng xã Bắc Sơn, cách đây 50 năm, vùng này chỉ có đồi núi, hoàn toàn hoang vu. Năm 1965, chính quyền Việt Nam dồn dân đến đó “khai hoang, lập nghiệp.” Sau năm thập niên định cư, sinh sống ổn định, năm ngoái, dân chúng được chính quyền thông báo sẽ thu hồi 38 héc ta để giao cho một nhà đầu tư thực hiện “dự án khu nghĩa trang sinh thái Vĩnh Hằng.” Nếu dự án này được thực thi, nhiều người dân xã Bắc Sơn sẽ mất sạch ruộng, vườn, nhà cửa, hoàn toàn trắng tay.

Công an Hà Tĩnh đã điều động hàng trăm cảnh sát cơ động đến xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà để “giải cứu” cho sáu sĩ quan công an bị dân chúng bắt. Dân chúng chống trả quyết liệt và 4 trong số hàng trăm cảnh sát “tham gia giải cứu” bị đánh trọng thương, phải chuyển đến bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh cấp cứu.

Phản kháng vẫn chưa ngừng ở đó! Ðêm 10 tháng 4, khoảng 200 người đã đến phá nhà tám viên chức xã: bí thư xã, chủ tịch xã, trưởng công an xã, bí thư đoàn xã,… Trong đó, hai căn nhà của trưởng công an xã và bí thư đoàn xã được mô tả là bị “đập phá tan tành.” Sau khi đốt, phá nhà của 8 viên chức trong xã, dân Bắc Sơn kéo đến trụ sở xã đập, phá nơi làm việc và một số tài sản trong xã. Ðến 1 giờ sáng ngày 11 tháng 4, dân Bắc Sơn tự giải tán.

Mới đây, ông Trần Bá Hoành, chủ tịch xã Bắc Sơn, tiết lộ với báo chí, cả đảng ủy lẫn chính quyền xã Bắc Sơn không đồng tình với việc thực hiện “dự án khu nghĩa trang sinh thái Vĩnh Hằng.” Hồi đầu năm nay, ông Dương Công Tự, bí thư xã Bắc Sơn đã từng thay mặt đảng ủy xã gửi văn bản cho huyện ủy và chính quyền huyện Thạch Hà, đề nghị xem lại dự án này vì có nhiều vấn đề không khả thi: Không hợp với lòng dân vì thu hồi quá nhiều đất canh tác. Dự án sẽ bít tất cả những con đường nối xã Bắc Sơn với bên ngoài.

Mồ mả người thân của dân chúng bị xâm hại. Không còn quỹ đất để thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo qui định chung.

Trong văn bản vừa kể, viên bí thư xã Bắc Sơn nhấn mạnh, nếu tiếp tục thực hiện dự án, dân chúng sẽ phản kháng mạnh hơn, Bắc Sơn sẽ thành điểm nóng, hậu quả sẽ rất lớn. Ðáp lại, huyện ủy huyện Thạch Hà chỉ đạo đảng ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và các đoàn thể trong hệ thống chính trị xã Bắc Sơn phải kiểm điểm nghiêm túc về trách nhiệm khi không quyết tâm thực hiện dự án. Chủ tịch huyện Thạch Hà ban hành công văn phê bình chủ tịch xã Bắc Sơn vì không có các giải pháp hữu hiệu bảo đảm an ninh trật tự. Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh chỉ đạo tiếp tục tìm các nhà thầu tham gia “dự án khu nghĩa trang sinh thái Vĩnh Hằng.”

Sau hàng loạt các sự kiện vừa kể, ông Trần Bá Hoành, người từng làm chủ tịch xã Bắc Sơn trong 13 năm, nói với báo chí, ông ta và chính quyền xã bị kẹt giữa cấp trên và dân. Nay, do sự phản kháng mạnh mẽ của dân, ông ta và gia đình phải trốn khỏi xã. Ông Hoành bảo rằng: “Tốt nhất là cấp trên nên cho tôi nghỉ việc, nếu không, tôi cũng sẽ làm đơn xin nghỉ.”

Ông Nguyễn Khắc Sơn, trưởng công an xã Bắc Sơn, một trong hai người mà tư gia bị “đập phá tan tành,” tâm sự với báo giới rằng, ông ta không dám đi ra ngoài và “sẽ làm đơn xin nghỉ việc.”

Tin mới nhất cho biết, công an huyện Thạch Hà đã bắt 4 người, trong đó có một phụ nữ liên quan đến các hành động phản kháng vừa kể và sẽ còn tiếp tục bắt nhiều người khác. Cũng vì vậy, Bắc Sơn vẫn là một thùng thuốc súng. (G.Ð.)

Xin xem thêm:

Điều gì khiến người dân Bắc Sơn nổi loạn? (RFA)

Trung Quốc và hành động “Ngư Ông đắc lợi”

Trung Quốc và hành động “Ngư Ông đắc lợi”

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-04-13

thanhquang04132014.mp3

000_Nic6300125-305.jpg

Ngoại trưởng Iraq Hoshyar Zebari (phải) và Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Wang Yi trong một cuộc họp báo vào ngày 23 tháng 2 năm 2014 tại thủ đô Baghdad, Iraq.

AFP PHOTO / Sabah ARAR

Trung Quốc ngoài chuyện ngày càng đẩy mạnh tham vọng bành trướng bá quyền, như tại vùng biển Đông và cả biển Hoa Đông nhưng luôn lớn tiếng “sống chung hòa bình”, “không hề chủ trương tạo thêm căng thẳng”, “ luôn theo đuổi mục tiêu giải quyết mọi tranh chấp bằng đường lối ngoại giao”…, thì hiện có một đặc điểm gây nhiều chú ý của Hoa Lục là trong thế “tọa sơn quan hổ đấu” để trở thành “Ngư Ông đắc lợi”.

Trục lợi ở Trung Đông

Chuyện “Ngư Ông đắc lợi” của Trung Nam Hải nổi bật nhất là kể từ khi Bắc Kinh vững mạnh về kinh tế và đặc biệt là về quân sự sau khi ông Đặng Tiểu Bình theo đuổi chủ trương “mèo đen hay mèo trắng không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột” và chỉ thị thuộc cấp “giấu mình chờ thời”.

Có lẽ công luận bắt đầu lưu ý đến hành động “Ngư Ông đắc lợi” của Trung Quốc diễn ra tại Trung Đông sau khi lực lượng đa quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu tiến vào Afghanistan hồi năm 2001 vì bị khủng bố tấn công và sau khi Tổng thống George W. Bush đưa quân chiếm đóng Iraq hồi năm 2003 với cớ ngăn chận võ khí tàn sát hàng loạt của Saddam Hussein.

” Hoa Kỳ bị dính sâu vào những vùng nóng ở các khu vực khác thì tiến trình tái cân bằng cũng như trở lại Á Châu của Hoa Kỳ bị chậm đi. Điều đó là có lợi cho Trung Quốc.
-LS Vũ Đức Khanh”

Qua bài tạm dịch là “Chiến tranh vì dầu hỏa: Trung Quốc trục lợi từ cuộc chiến 10 năm của Mỹ ở Iraq”, chuyên gia Ken Schortgen Jr. nhận xét rằng “trong khi trên thực tế Hoa Kỳ chẳng kiếm được bao nhiêu dầu qua nỗ lực dân chủ hóa xứ Iraq, thì hàng ngàn chiến binh Mỹ đã bỏ mình ở đó mà xem chừng như để cho Trung Quốc “đắc lợi” (qua những hợp đồng) từ chính phủ Iraq mới được dựng lên”. Theo bài báo , “Trung Quốc kiên nhẫn nằm chờ bên lề trong khi Hoa Kỳ cùng đồng minh lo ứng phó với nội tình mới, thường hỗn độn, tại Iraq sau khi lật đổ Saddam Hussein năm 2003, thì Trung Quốc tái xuất hiện hồi năm 2008 và ký kết hợp đồng béo bở đầu tiên thời hậu Saddam”.

Tạp chí The Diplomat còn cho hay Bắc Kinh hồi năm 2010 đã ký với Baghdad nhiều hiệp ước thương mại trị giá nhiều tỷ đô la trong nhiều lãnh vực, từ công nghiệp, du lịch cho tới giao thông.

Chuyên gia Ken Schortgen vừa nói cũng không quên nhắc tới chuyện Trung Quốc đã đặt nền tảng cho hoạt động hầm mỏ ở Afghanistan, nơi “lính Mỹ chiến đấu và bỏ mạng để mở hành lang kinh tế tự do và dân chủ” tại xứ này. Chuyên gia vừa nêu khẳng định rằng qua hậu quả một thập niên tử vong của lính Mỹ tại cả Iraq lẫn Afghanistan, liên minh kinh tế và hợp tác ngoại quốc do Hoa Kỳ hình thành chẳng mang lại thành quả bao nhiêu, nên cái “khỏang trống” đó được cường quốc Trung Quốc đang trỗi dậy nhảy vào”.

001_GR346140-250.jpg

Bản đồ hình lưỡi bò trên Biển Đông do Trung Quốc đơn phương công bố. AFP PHOTO.

Hoặc, chuyện “Ngư Ông đắc lợi” của Trung Quốc ở Ả Rập Saudi, khi ý định công khai của Riyadh qua chính sách ngoại giao quay lưng với Mỹ thì nó cũng hàm ý một sự chuyển hướng sang Bắc Kinh dù Ả Rập Saudi khó có thể hoàn toàn từ bỏ “ô dù an ninh” của Mỹ.

Hai phân tích gia Hoa Kỳ Daniel Wagner và Giorgio nêu lên câu hỏi qua bài “Liệu Hoa Kỳ có mất Ả Rập Saudi vào tay Trung Quốc hay không?”, lưu ý rằng “Trung Quốc hài lòng dù không được xem là nước tích cực xúc tiến ổn định trong khu vực (Trung Đông), nhưng lại trục lợi từ hoạt động quân sự của Mỹ”, “Trung Quốc cũng hài lòng là chơi trò trở ngại cho nỗ lực quốc tế do Mỹ dẫn đầu cô lập kinh tế Iran, để (Bắc Kinh) trở thành nước xuất khẩu số một sang thị trường Iran”. Bài báo kết luận rằng “Trung Quốc nằm chờ cho đúng thời cơ để khai thác cơ hội trong tương lai khi xảy ra rạn nứt giữa Washington và Riyadh”.

Có lẽ hành động “Ngư ông đắc lợi” rõ rệt nhất của Bắc Kinh hiện giờ – nói theo lời tác giả Jeanette Seiffert – là “Trung Quốc thấp thỏm đợi chờ trong vụ Crimea” và cả Ukraine.

“Tọa sơn quan hổ đấu”

Qua tiểu tựa hàm ý “Bắc Kinh làm ngư ông đắc lợi”, tác giả nhận định rằng biện pháp phương Tây cấm vận kinh tế đối với Nga có thể có lợi cho Trung Quốc. “Trung Quốc, đã là nước mua dầu nhiều nhất của Nga, chắc chắn hài lòng trước diễn biến này, và có thể trở thành ‘Ngư Ông đắc lợi’ trong vụ khủng hỏang Ukraine, trục lợi trong khi những nước khác đánh đấm nhau”, mà một cái lợi hàng đầu cho Trung Nam Hải hẳn là có cơ may mua được võ khí tối tân cùng lượng dầu hỏa với ‘giá hữu nghị” của Maxtcơva.

Theo Chủ tịch Ecrhard Cordes của Ủy ban Quan hệ Kinh tế Đông Âu Đặc trách Các Hiệp hội Công nghiệp Đức, thì Nga sẽ ngày càng xa lánh Âu Châu, thì Trung Quốc sẽ là kẻ được lợi. Hay nói đúng hơn, cuộc đấu nhau giữa con hổ Mỹ/EU và con hổ Liên bang Nga tiếp diễn càng lâu thì con “tàng long” Trung Nam Hải trong thế ‘tọa sơn quan hổ đấu” càng đắc lợi.

“Việc Nga chiếm Crimea một cách dễ dàng như vậy tạo nên một tiền đề pháp lý và chiến lược để một ngày nào đó, TQ nhân danh một lý do lịch sử cũng như việc bảo vệ Hoa Kiều ở đâu đó.
-GS Nguyễn Hưng Quốc”

Về vấn đề này, từ Canada, LS Vũ Đức Khanh, chuyên về bang giao quốc tế và vấn đề biển Đông, nhận xét:

“Trong bối cảnh chính trị thế giới hiện giờ, nếu như Hoa Kỳ bị dính sâu vào những vùng nóng ở các khu vực khác thì tiến trình tái cân bằng cũng như trở lại Á Châu của Hoa Kỳ bị chậm đi, hoặc có thể phải có những thay đổi chiến thuật khác. Điều đó là có lợi cho Trung Quốc. Và trong mối quan hệ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Nga hiện giờ, coi như Trung Quốc đạt được lợi nhiều nhất trong vấn đề đó. Vì khi Hoa Kỳ đụng với Nga trong hiện tại bằng những đòn kinh tế, Nga bắt buộc phải có những thỏa hiệp với Trung Quốc để tiếp tục đứng vững về kinh tế; đồng thời Nga hoặc Hoa Kỳ cũng phải đổ thêm nguồn nhân lực, vật lực vào Cimea và Ukraine.”

Qua bài “ Bàn cờ mới: Trung Quốc được lợi”, GS Nguyễn Hưng Quốc ở Úc nhận xét rằng nước có lợi lớn nhất trong cuộc xâm lấn Crimea của Nga vừa rồi chắc chắn là Trung Quốc, như ông phân tích:

“Lợi ở hai điểm chính: Một, kế hoạch bao vây và kiềm chế Trung Quốc của Mỹ chắc chắn sẽ chậm lại và yếu hơn; như vậy, Trung Quốc sẽ có đủ thời gian để phát triển quân sự ở châu Á; hai, việc Nga lấn chiếm Crimea một cách dễ dàng như vậy cũng tạo nên một tiền đề pháp lý và chiến lược để một ngày nào đó, Trung Quốc nhân danh một lý do lịch sử cũng như việc bảo vệ Hoa Kiều ở đâu đó có thể xua quân lấn chiếm lãnh thổ hoặc một phần lãnh thổ của các nước khác. Đối tượng đáng lo nhất trước mắt là nhóm đảo Điếu Ngư / Senkaku hiện đang tranh chấp với Nhật, đảo Hoàng Nham / Scarborough hiện đang tranh chấp với Philippines; Trường Sa và rộng hơn, Biển Đông hiện đang tranh chấp với Việt Nam.”

Sau khi phân tích về việc “Ngư Ông TQ đắc lợi”, GS Nguyễn Hưng Quốc không quên nêu lên câu hỏi rằng “Chuyện liên quan đến Nhật và Philippines thì đã có hai nước ấy lo; còn chuyện liên quan đến Việt Nam thì sao? Ai lo?”

Giọt nắng hồng – Dậu Nguyễn

Chuyện mình đừng quên nghe anh: Gọi nắng cho vừa mắt ai”. Một lời nhắn thiết thực nhưng thường ít được quan tâm.
“Giọt nắng hồng”. Nhạc và lời: Ngô Thụy Miên. Tếng hát: Thủy Tiên. Hình ảnh: Internet. Nhạc cảnh: Dau Nguyen.

httpv://www.youtube.com/watch?v=IUcVypUd9Js&list=UUBoUB-hqnQqJw-dGnS_a09g

Ca sĩ Hiền Thục

Ca sĩ Hiền Thục

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-04-13

1239842_559469937435480_1283013673_305

Ca sĩ Hiền Thục, ảnh chụp năm 2013.

Courtesy FB Hiền Thục

Cô ca sĩ bé nhỏ với cái tên thật nữ tính Hiền Thục ấy dù tuổi đời mới bước qua 30, nhưng đã đứng trên sân khấu ca nhạc tròn một phần tư thế kỷ. 25 năm thăng trầm với nhiều bước ngoặt, khó khăn chất chồng nhưng dường như những chông gai mà cô nếm trải vẫn không thể hạ gục được nghị lực của người mẹ đơn thân, vì con mà vươn lên tiếp bước. Những biến cố cá nhân khiến cô thành người mẹ đơn thân bất đắc dĩ, cộng dồn việc cha bị tai biến, tiền của dành hết để chữa trị cho ông, tưởng chừng Hiền Thục sẽ gục ngã, thế nhưng không, cô đứng lên làm lại từ đầu với con số 0 tròn trĩnh… và sau hơn 10 năm, giờ đây Hiền Thục thực sự tỏa sáng, cô tỏa sáng vì tài năng, cô tỏa sáng vì nghị lực, cô tỏa sáng vì năng lượng dồi dào và một sự dẻo dai, tươi trẻ, đầy bản lĩnh.

Quãng đường nghệ thuật 25 năm đã đưa Hiền Thục lại gần hơn với khán thính giả ở nhiều thể loại, cô hát rất đa dạng từ pop ballad, trữ tình, nhạc trẻ, quê hương và dân ca… ở thể loại nào cô cũng cố gắng ghi dấu cá nhân bằng những album nhạc hay single riêng của mình, cả thảy, Hiền Thục đã sở hữu khoảng 20 albums CD, DVD với nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế huy chương vàng, cup vàng, album vàng, giải bài hát yêu thích, làn sóng xanh… Mặc dù, giới chuyên môn không cho rằng cô hát thiên về kỹ thuật nhưng tình cảm và hồn âm nhạc mà cô cảm nhận và chuyển tải vào bài hát thì được đánh giá rất cao. Mời quí vị cùng theo dõi cuộc trò chuyện giữa Vũ Hoàng và ca sĩ Hiền Thục:

Phù hợp nhiều thể loại nhạc

” Hiền Thục nghĩ rằng bất kỳ ai đã là người nghệ sĩ rồi thì đều giữ phong độ trên sân khấu bởi công việc phục vụ cho khán giả đòi hỏi lúc nào mình cũng phải tươm tất, tươi mới.
-Ca sĩ Hiền Thục”

Vũ Hoàng: Trước hết cám ơn Hiền Thục đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện hôm nay, Vũ Hoàng được nghe Hiền Thục hát rất rất lâu rồi, hôm nay mới có cơ hội được hỏi chuyện, vì sao Hiền Thục không chọn một loại nhạc để theo đuổi mà lại thích được biến hóa như vậy?

Hiền Thục: Hồi em còn nhỏ, em có được dạy hát rất nhiều thể loại, thầy giáo dạy hát nhạc dân ca, nhạc thiếu nhi, hát giọng Bắc, giọng Nam rất nhiều thể loại, Hiền Thục được nuôi dưỡng trong một môi trường như vậy, và khi càng lớn thì Hiền Thục càng biết cách để làm thế nào để phù hợp với tất cả các thể loại nhạc. Nhưng khi lớn rồi, mình bắt đầu đi hát thì thấy rằng mình đi hát được nhiều thể loại hơn như dân ca mình cũng hát, nhạc trẻ mình cũng hát, nhạc tiền chiến hay thậm chí là một chút xíu nhạc quê hương, hát càng nhiều các thể loại thì khán giả của mình càng nhiều hơn, mình sẽ đến được gần hơn với khán giả, em cho rằng đó là một điều tốt.

487997_575327672516373_63373480_250

Ca sĩ Hiền Thục, ảnh chụp năm 2013. Courtesy FB Hiền Thục.

Vũ Hoàng: Nghe Hiền Thục hát thì thấy rất tự sự trữ tình, nhưng nhìn Hiền Thục thì lại rất trẻ trung, nhí nhảnh, bí quyết nào giúp Hiền Thục có được hình ảnh đó của ngày hôm nay?

Hiền Thục: Dạ, em đi hát từ khi còn 8 tuổi, còn là một em bé thiếu nhi, cho đến nay đã được 25 năm ca hát rồi, với Hiền Thục câu anh nói là một lời khen và Hiền Thục rất cám ơn, nhưng Hiền Thục nghĩ rằng bất kỳ ai đã là người nghệ sĩ rồi thì đều giữ phong độ trên sân khấu bởi công việc phục vụ cho khán giả đòi hỏi lúc nào mình cũng phải tươm tất, tươi mới, đem lại cho khán giả những sản phẩm thật thú vị để khán giả không có thể quên mình.

Vũ Hoàng: Mình rất tò mò vì biết Hiền Thục hát bài Nhật Ký Của Mẹ cực kỳ tuyệt vời và được biết là bé Gia Bảo là động lực để Hiền Thục thực hiền thành công ca khúc này?

Hiền Thục: Gia Bảo là con gái của Hiền Thục, đối với Hiền Thục con gái là tất cả, tất cả những gì mình có. Ban đầu những ngày tháng khó khăn khi mới có con thì thấy chật vật nhưng  Gia Bảo càng ngày lại càng là lẽ sống của mình hơn, nhờ con mình có nhiều động lực để làm việc hơn. Ban đầu em nghĩ rằng nếu mình không có việc để làm, không cố gắng thì con gái mình sẽ không có được cuộc sống tốt. Do đó, mình cố gắng, nhưng dần dần nó mang lại cho mình giống như là thần hộ vệ, một sự may mắn đó! Người ta nói có nhiều điều mình không thể tin được nhưng có khi một đứa con của mình ra đời sẽ mang lại nhiều may mắn cho mình hơn, đứa con gái của em rất mến mẹ, rất tế nhị cho nên là, mình làm điều gì mình cũng nghĩ đến nó, có cái hay là khi mình hát những bài về cha về mẹ về gia đình, trải nghiệm sẽ giúp ích rất nhiều cho mình trong việc thể hiện bài hát.

Vũ Hoàng: Được biết là thời gian qua, ngoài thực hiện công việc là ca sĩ, Hiền Thục còn tham gia làm huấn luyện viên chương trình truyền hình thực tế The Voice Kid và The Voice Kid đã rất thành công, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Hiền Thục, Thục có thể chia sẻ đôi chút về việc này?

” Khi mình nhận một bài hát, mình cố gắng thể hiện bài đó thật trọn vẹn, thật là hay, đặt hết tình cảm của mình vào bài hát đó thì em nghĩ đó là thành công riêng của mình.
-Ca sĩ Hiền Thục”

Hiền Thục: Khi nhận lời làm huấn luyện viên của The Voice Kid ban đầu em chỉ nghĩ là bây giờ mình lớn rồi, đây là cơ hội để mình trở lại tuổi thơ của mình, một vé đi về tuổi thơ như vậy là quá hoành tráng, cho nên mình nhận lời làm huấn luyện viên. Ở The Voice Kid mùa đầu, em có cơ hội được nhìn thấy mình từ những lúc còn rất nhỏ, được trải nghiệm hát trên những sân khấu. Bây giờ con nít may mắn hơn nhiều, sân khấu hoành tráng hơn, hiện đại hơn rất nhiều, đó là một cơ duyên, một may mắn và có lẽ đó sẽ là kỷ niệm không bao giờ có thể quên được cho dù là mùa này hay mùa sau thì em cũng sẽ vẫn rất nhớ những gì mình đã trải qua trong Tiếng Hát Việt Nhí mùa đầu tiên.

Vũ Hoàng: Hiền Thục được đánh giá là một ca sĩ thành công, theo Hiền Thục, một ca sĩ Thành Công là người như thế nào?

Hiền Thục: Em nghĩ rằng mỗi một người nghệ sĩ đều có sự thành công riêng của mình, tuy nhiên, với quan niệm của mình thế nào là thành công, thí dụ, ở góc độ của em nhìn thấy nếu mình đã cố gắng thực sự, cố gắng hết sức để làm một điều gì đó, khi mình nhận một bài hát, mình cố gắng thể hiện bài đó thật trọn vẹn, thật là hay, đặt hết tình cảm của mình vào bài hát đó thì em nghĩ đó là thành công riêng của mình. Còn chuyện bài hát đó có được công chúng, khán giả đón nhận hay không thì đó còn tùy vào may mắn. Sự thành công bao gồm nhiều yếu tố như thiên thời, địa lợi, nhân hòa, có khi mình hát bài đó thật hay nhưng khán giả không nghe vừa tai và không thích, thì đối với khán giả bài đó không thành công, nhưng đối với mình nếu đã thể hiện trọn vẹn, đã cố gắng làm hết sức thì đó đã là thành công riêng của mình rồi. Em quan niệm dễ dàng vì em là người dễ hài lòng, những gì mình đã cố gắng hết sức, những gì mình đã làm thật tốt thì kết quả có ra sao thì mình cũng hài lòng với bản thân mình.

Vũ Hoàng: Trước khi chia tay khán thính giả, Hiền Thục có một điều gì gửi tới khán thính giả gần xa không?

Hiền Thục: Hiền Thục cám ơn chương trình của anh đã mang Hiền Thục gần lại hơn với thính giả, không chỉ là những khán giả ở VN mà còn được nói chuyện rộng hơn, phần giao lưu được nhân rộng ra hơn vì là một đài nước ngoài. Hiền Thục cám ơn những gì mà quý khán thính giả đã dành cho mình, không có gì to tát hết, Hiền Thục chỉ mong là quý vị những ai đang nghe Hiền Thục nói, hoặc cả những ai không nghe cũng không sao, Hiền Thục chúc quý vị có một cuộc sống thật thảnh thơi, hạnh phúc, cầu được ước thấy. Bây giờ Hiền Thục thấy cuộc sống của mình tốt vì mình đã có được nhiều những điều mình đã mong ước rồi.

Vũ Hoàng: Cám ơn Hiền Thục rất nhiều và chúc Hiền Thục thành công hơn trên con đường nghệ thuật.

Hiền Thục: Vâng, cám ơn anh.

 

Chúa Nhật Lễ Lá: thấy gì qua sự tung hô của con người

Chúa Nhật Lễ Lá: thấy gì qua sự tung hô của con người

Chuacuuthe.com

VRNs (13.04.2014) –Sài GònJoe Tremblay là một ký giả cho những sự kiện của một blog Công Giáo. Ông cũng góp bài cho học viện Edmund Burke, đồng thời cũng là khách mời thường xuyên của chương trình Relevant Radio’s. VRNs giới thiệu với các bạn bài viết mới nhất của ông cho ngày Lễ Lá.

triumphal-entry-zoom

Các nhà lãnh đạo như Alexander Đại đế, Mohammad và Napoleon cưỡi ngựa với những chiến binh đầy vũ trang để chiến thắng kẻ thù. Nhưng Chúa của chúng ta vào Chúa Nhật Lễ Lá, cưỡi một con lừa con vào Giêrusalem để chinh phục kẻ thù. Điều này được tiên báo bởi lời ngôn sứ Dacaria: “Vì kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (9,9)

Một con lừa như vậy đã được Mẹ Maria và thánh Giuse dùng để thoát khỏi cơn thịnh nộ của vua Hêrôđê khi chạy trốn sang Ai Cập, giờ đây được dùng để chở Chúa Giêsu đến với kẻ thù. Trớ trêu thay đó là cách Chúa dùng để làm công cụ cho việc chinh phục thế giới. Như Fulton Sheen nói: ” Chúa Giêsu đã dùng công cụ tồi tệ nhất để chinh phục thế giới và rồi tội ác không bao giờ chiến thắng một lần nữa.”

Điều thú vị là con lừa được dùng cho những khách hành hương chứ không phải dùng cho những kẻ chinh phục thế giới. Chúa Kitô đã tuyên bố, chính Ngài là một vị vua và là khách hành hương nhưng không thuộc về thế giới này. Ngai vàng của Ngài không thiết lập ở Giêrusalem hay Rôma. Trong thực tế, Ngài đã đội triều thiên ở trên trời! Và như một khách hành hương về trời, Ngài đã không quan tâm đến quyền lực thế gian.

Sự xuất hiện với con lừa cho thấy Ngài đến không phải để chinh phục thế giới bằng gươm giáo và chiến binh như cách của Mohammad. Thay vào đó, vũ khí của Ngài là Lời. Trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ðấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (4:12-13)

Hơn nữa, những khách hành hương lên Giêrasalem vào dịp lễ đó đến từ khắp nơi. Thật ra, một phần lớn những người Do Thái vào thế kỷ thứ I sống ngoài Palestine. Trong Chúa Nhật lễ lá ấy của Chúa Giêsu, cũng có rất nhiều người đến từ Ai Cập, Syria và Persia. Họ lên Giêrusalem theo luật buộc để tham dự Lễ Vượt Qua được tổ chức hằng năm. Và ngay cả những người ngoại kiều họ cũng lên đó vì nghe nói đến sự sống lại kỳ lạ của Lazarô do Chúa Giêsu thực hiện. Trong đám đông hỗn hợp đó, họ đã tung hô Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít”, giống như Vua Solomon (con vua Đavít) cưỡi lừa tiến vào Thành vua Đavít.

Trước đó trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nói rằng ngôn sứ không được đón nhận tại quê hương mình. Thực tế là nhiều đối thủ của Ngài, tức là những người Biệt Phái, Sađốc và Kinh sư, là người Do Thái từ xứ Giuđê không quá xa Nazareth. Nhưng cũng nhiều khách hành hương lên Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ Lá đã không từ quê hương của Ngài, thậm chí cũng không từ làng của Ngài. Như vậy, họ đã không nuôi định kiến ​​ chống lại Ngài như những người đồng hương của Ngài. Và có vẻ như đám đông, đại diện cho thế giới dân ngoại, cuồng nhiệt chào đón vị Chúa chúng ta ở Giêrusalem là Đấng Mêsia của người Do Thái. Tin Mừng nói rằng họ kêu lớn tiếng: “Hosanna! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vương quyền vua Đavít đang đến! Hosanna trên trời cao! “

Chúa Nhật Lễ Lá như là thành của Thiên Chúa và thành của Con Người được hiện diện tại Giêrusalem. Có những người muốn Chúa Giêsu làm vua của họ và có những người khác muốn giết Ngài. Lời tung hô “hosannas” đã được hát lên vào Chúa Nhật lễ lá sẽ bị lấn áp bởi giọng gào to hơn “đóng đinh nó đi!” vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

Không nghi ngờ gì nữa, Chúa chúng ta đã gây tác động trên các Tông Đồ. Trong những năm sau đó, các Tông Đồ là các giám mục đầu tiên của Giáo Hội, sẽ phải nhớ rằng, họ sẽ không có được sự thoải mái, dễ dàng với các đặc quyền như là nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ đã cảm nghiệm được rằng chỉ trong vòng vài ngày ngắn ngủi mà sự tung hô nhường đường cho những lời kết án. Họ nhớ lại những gì Chúa Giêsu nói trong bữa Tiệc Ly là môn đệ không lớn hơn Thầy. Những gì xảy đến với Chúa Giêsu cũng sẽ xảy ra với họ.

Đây là một bài học hữu ích cho những người người lãnh đạo Giáo Hội. Nếu chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa trên hết và hướng mắt về Thiên Đường, sẽ chẳng bị ảnh hưởng gì cho dù có ai đề cao hay xem thường chúng ta. Như vậy, người môn đệ của Chúa Kitô sẽ không bị tác động gì với những lời hứa giả dối của thế gian vì họ đang theo đuổi phần thưởng trên trời.

Hoàng Minh

 

Chẳng lẽ dân cứ mãi cam chịu?

Chẳng lẽ dân cứ mãi cam chịu?

chuacuuthe.com

VRNs (13.04.2014) – Thanh Hóa – Vào sáng 11.4.2014 Ủy ban Thường vụ Quốc hội  họp  để bàn về quy định xử lý trách nhiệm liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư công. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã có những phát biểu rất đáng được ghi nhận. Ông đã “hạ mình, khiêm tốn” trước tập thể Quốc Hội. Ông khẳng định:   “Chủ tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội”. Bới lẽ tất cả những gì Quốc hội đã “quyết” đều do lá phiếu “dân chủ” của tất cả 500 vị đại biểu Quốc hội, bản thân chủ tịch không tự “quyết” nên lẽ đương nhiên là nếu có sai là do tất cả 500 lá phiếu kia, đây cũng là vấn đề xưa nay vẫn thế.

Ai bảo Đảng giao trách nhiệm cho ông đứng vào vị trí đó? Đảng giao trách nhiệm cho ông thì ông buộc phải  chấp hành thôi, chứ làm sao ông dám thoái thác? Thủ tướng chính phủ cũng đã từng nói vậy đó thôi.

140413003

Nhưng có câu này thì tôi thấy ông nói đúng có một một phần thôi ông ạ.

“Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai.”

1.  ”Quốc hội tức là dân.” Theo nguyên tắc và trên danh nghĩa thì Quốc Hội là của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu sự dám sát của dân. Đại biểu nào không làm tròn bổn phận, trách nhiệm thì phải bị nhân dân loại bỏ, để chọn người khác. Nhưng ở chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa này thì người dân đâu có được bầu “ Đại biểu Quốc hội đâu ” Tất cả 500 thanh viên Quốc hội đều được “ Mặt trận tổ quốc ” một tổ chức ngoại vi của Đảng giới thiệu; do sự hướng dẫn của Bộ chính trị; dự nguồn từ Trung ương Đảng chứ thằng dân chúng tôi có biết mặt mũi gì đâu mà bầu với cử. Vậy Quốc hội này đâu phải là dân. Ông nói vậy là oan cho các đồng chí của ông rồi. Các đồng chí ấy  là quan chứ đâu phải là dân.

2. “Dân quyết sai thì dân chịu.” Chổ này thì ông nói đúng!  Dân chúng tôi đã sai. Cái sai của chúng tôi là đã để cho Đảng của các ông lừa bịp và lợi dụng. Từ những năm 1945 thằng dân chúng tôi đã bị các ông lừa đi cướp chính quyền về cho Đảng của các ông. Sau đó thằng dân chúng tôi lại bị các ông tịch thu tài sản, nhiều người bị đưa ra đấu tố bị tử hình… Ấy vậy mà Thằng dân chúng tôi vẫn chưa sáng mắt ra. Thằng dân miền Bắc chúng tôi vẫn tiếp tục nghe theo Đảng các ông, để tiến vào miền Nam gây nên cuộc chiến “ Huynh Đệ tương tàn”, khiến máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát cả hai miền. Đúng là chúng tôi sai thì chúng tôi phải chịu. Sau năm 1975 tới nay thì thằng dân cả hai miền chúng tôi đã hoàn toàn bị khống chế. Đảng các ông đã thiết lập các chân rết chui sâu vào quần chúng.  Uy hiếp cưỡng bức bắt buộc thằng dân chúng tôi phải cúi đầu. Từ đó tới nay thằng dân chúng tôi đâu có được “quyết ” gì đâu. Nhưng chí ít câu nói này của ông cũng đã nhắc cho thằng dân chúng tôi nhớ lại. Tại sao chúng tôi phải chịu cảnh ngậm đắng nuốt cay này. Bởi trước đây vì thằng dân chúng tôi đã “ quyết ” sai nên bây giờ phải chịu. Nhưng thưa ông vấn đề đầu tư công thì thằng dân chúng tôi đâu có biết gì. Nhưng dù ai làm sai đi nữa thì thằng dân chúng tôi cũng đành phải chịu.

3. “Chứ kỷ luật ai.” Chổ này ông nói hay thật đấy! Đảng ta làm gì cũng tài tình sáng suốt.  Chỉ có thằng dân đen chúng tôi mới sai chứ, làm sao mà kỷ luật được ai trong số các đồng chí “Đảng hội” của các ông được. Vì họ là người do Đảng cử, Đảng giao trách nhiệm mà có sai thì cứ sửa, sửa không được thì mặc dân. Dân chịu tuốt chứ các đồng chí của ông có phải chịu đâu mà sợ. Chổ này ông cũng đã học được từ ngài thủ tướng Dũng khi ngài nói trước chính phủ rằng: Ngài cũng sẽ noi gương cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, không kỷ luật đồng chí nào trong chính phủ. Bây giờ ông chủ tịch Quốc hội cũng sẽ chẳng kỷ luật đồng chí nào trong Quốc hội.

Vậy là sau nhiều năm làm phó thủ dưới trướng của ngài Dũng, ông đã trở thành học trò xuất sắc rồi đấy. Ngay cả bây giờ ngồi trên ghế chủ tịch Quốc hội rồi ông vẫn còn áp dụng rất tốt những bài học đó hết sức hiệu quả còn gì.

•  Nói tóm lại; Đảng các ông không bao giờ có thể thừa nhận mình đã  sai được, vì Đảng của các ông là một tập thể của những kẻ luôn luôn dùng thủ đoạn mưu mô để hút máu nhân dân, dần đưa dân tộc này trở lại thời kỳ “ Đồ đá” qua cái gọi là “ Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” mà nạn nhân của cuộc thử nghiệm không bao giờ thành của các ông chính là nhân dân Việt nam.

Thưa ông: Ông nói đúng, Thằng dân chúng tôi đã sai thì chúng tôi phải chịu. Nhưng chúng tôi chịu hết nổi rồi. Chúng tôi không thể chịu hơn được nữa. Chúng tôi đã, đang và sẽ vùng dậy để hành động và sẽ chọn cho mình một con đường đúng đắn. Lúc đó chắc chắn ông không còn phải lo biết tìm ra ai để kỷ luật, vì tất cả những kẻ gây nên tội ác với nhân dân sẽ do chính nhân dân định đoạt.

Nguyễn Trung Tôn

ĐT: 01628387716.

Email: nguyentrungtonth@gmail.com

 

Nhà cầm quyền cấm xuất cảnh và câu lưu phóng viên Anna Huyền Trang, VRNs

Nhà cầm quyền cấm xuất cảnh và câu lưu phóng viên Anna Huyền Trang, VRNs

chuacuuthe.com

VRNs (14.04.2014) – Sài Gòn – An ninh cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất đã chặn, cấm xuất cảnh và câu lưu phóng viên Anna Huyền Trang của Truyền thông Chúa Cứu Thế Việt Nam, lúc 21:30, ngày 13.04.2014.

140413008

Những viên an ninh làm việc đã cấm xuất cảnh và đòi thu hộ chiếu, nhưng không đưa ra được văn bản có hiệu lực nào cho biết nhà hữu trách cấm phóng viên Huyền Trang xuất cảnh và bị tịch thu hộ chiếu.

Phản ứng với việc làm sai luật này, phóng viên Huyền Trang đã không chấp nhận biên bản, và đòi các nhân viên thừa hành phải trưng ra văn bản cấm xuất cảnh. Lúc ấy họ bảo Huyền Trang liên lạc với công an thành phố. Cô Trang không đồng ý, vì đó là trách nhiệm nội bộ của họ. Họ đã liên lạc một thời gian dài.

Sau đó, họ bắt giam cô Trang vào một căn phòng khác, có hai nữ an ninh canh. Đến lúc 23:30, ba nam an ninh đã vào đánh, kẹp cổ phóng viên Huyền Trang, và lôi ra ngoài trước sự chứng kiến của rất đông dân chúng,và bạn hữu của phóng viên này.

Như vậy, không hề có biên bản và quyết định hay bất kỳ văn bản hợp luật nào đã được thực hiện trong việc cấm xuất cảnh và thu hộ chiếu của phóng viên Huyền Trang. Hành động này đi ngược lại với quyền tự do đi lại của công dân đã được Hiến định.

Đây là việc làm đã diễn ra thường xuyên, gần đây, đối với một nước là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, đang vận động 11 nước khác chấp nhật thông qua thỏa thuận để trở thành thành viên chính thức của Hiệp ước thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Nhân đây, chúng tôi xin gởi đến quý vị một chút chia sẻ của Huyền Trang về lý do “Tại sao tôi lại chọn con đường hoạt động truyền thông”

PV. VRNs

Mục đích tôi làm truyền thông để loan báo Tin mừng và dấn thân cho người nghèo, người bị bỏ rơi, người không có tiếng nói… vì tôi là một người Kitô hữu, con cái của Chúa.

Tôi tham gia các hoạt động truyền thông vào cuối năm 2011. Trong những năm đầu, tôi còn bỡ ngỡ, chưa có khái niệm thế nào là dân oan, tù nhân lương tâm chính trị, chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa – Trường Sa của VN… Lúc đó, đối với tôi đất nước VN chỉ có một đảng cs và ông Hồ.

Sau những trải nghiệm trong các chuyến tác nghiệp của VRNs cùng với niềm tin tưởng của các Cha trong Ban quản trị VRNs, các ngài đã giao cho tôi phụ trách chương trình VNTQ, là một chương trình chuyên bình luận về các sự kiện VN. Từ đó, tôi đã tiếp cận được nhiều nguồn thông tin trái chiều khác nhau, tiếp xúc được nhiều người yêu chuộng Công lý và Hòa Bình trong cũng như ngoài nước. Đặc biệt, tôi có nhiều cơ hội trò chuyện và lắng nghe những nỗi oan khuất của những người nghèo bị bỏ rơi và không có tiếng nói như Dân oan, thân nhân gia đình và các tù nhân lương tâm,… Hoặc cảm nghiệm được sự ý chí, tính khí phách kiên cường của các cựu tù nhân lương tâm mà tôi may mắn có dịp tiếp xúc. Nơi những con người ấy, tôi cảm nghiệm được nguồn sức sống mới trong sự khốn cùng và bĩ cực của chính cuộc sống của họ. Điều này, đã đánh động, thúc đẩy tôi chọn người nghèo, tù nhân lương tâm, dân oan… trong hành trình Đức tin của tôi, để sẵn sàng và khiêm nhường đón nhận Chúa trong thử thách mới.

Tôi thiết nghĩ, những gì tôi đã nói ở trên mang tính lý luận vả cảm tính của con người, không mang lại nguồn sức mạnh nội tâm cho tôi dấn thân trên con đường dài. Nỗi lo sợ bị trả thù, bị đánh đập, sách nhiễu, bỏ tù vẫn đeo bám tôi mỗi ngày. Nhưng sau biến cố, tôi bị câu lưu trong thời gian ngắn ngủi hồi cuối tháng 10.2012, tại phường Cầu Kho – Q1- Sài Gòn, tôi thực sự được biến đổi vì chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria đã cứu thoát tôi khỏi sự dữ. Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã ở bên tôi.

Ngay sau đó, tôi được một người bạn tặng cho tôi cuốn sách “Đường Hy Vọng” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Một vị Hồng y bị nhà cầm quyền cs biệt giam trong suốt 13 năm trời không thông qua một phiên tòa xét xử và sau khi ra khỏi nhà tù, ngài đã bị trục xuất ra khỏi đất nước VN. Trong suốt thời gian bị biệt giam, ngài đã sống trọn con đường mới Chúa trao và ngài đã làm con đường ấy tràn đầy hy vọng, đầy sự yêu thương nơi ngục tù tưởng như vô vọng. Chính năm tháng đó, ngài đã biến đổi được nhiều loại người và giúp họ nhận biết Chúa. Ngài mất vào ngày 16.09.2002. Và, hiện nay, ngài đang trong quá trình được phong thánh.

Đó là nguồn nội lực thôi thúc tôi dấn thân trong sứ mạng truyền thông cho người nghèo, những người bị gạt ra bên lề xã hội và không có tiếng nói.

Huyền Trang, VRNs

 

Ế ẩm, lại kêu gọi bán nhà cho người ngoại quốc

Ế ẩm, lại kêu gọi bán nhà cho người ngoại quốc
Friday, April 11,  2014

nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Tham dự cuộc họp mang chủ đề “Ðối thoại giữa chính quyền thành phố và doanh nghiệp” do chính quyền Sài Gòn tổ chức hôm 10 tháng 4, 2014 tại Sài Gòn, Hiệp Hội Bất Ðộng Sản Sài Gòn yêu cầu nhà nước Việt Nam “bán nhà hạng sang cho người ngoại quốc.”



Khu nhà ở hạng sang Dolphin Plaza. (Hình: KienViet.net)

Báo Tiền Phong dẫn phúc trình của bà Ðỗ Thị Loan, tổng thư ký Hiệp Hội Bất Ðộng Sản Sài Gòn công bố tại cuộc họp trên nói rằng, Sài Gòn hiện có hàng chục ngàn người ngoại quốc, kể cả người Việt hải ngoại đang làm việc, sinh sống và học hành.

Theo bà, lớp người này có nhu cầu mua một căn nhà thuộc sở hữu của mình để ở, trong khi rất nhiều căn hộ thuộc các khu nhà chung cư sang trọng cho đến nay vẫn còn bỏ trống. Bà Loan còn nại lý do rằng, chính phủ Singapore cho phép người ngoại quốc cư ngụ thường xuyên tại nước họ từ 6 tháng trở lên được phép mua đến 4 căn nhà.

Tại cuộc hội nghị kể trên, đại diện một số công ty kinh doanh bất động sản cảnh cáo rằng, rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã rút vốn khỏi các dự án bất
động sản tại Việt Nam.



Nhà ở đắt tiền tại Việt Nam. (Hình: báo Tiền Phong)

Dư luận này cho rằng việc rút vốn của các công ty ngoại quốc khỏi các dự án đầu tư tại Việt Nam sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, theo giới kinh doanh, nhiều cản ngại từ phía chính sách, thủ tục hành chính, việc giải tỏa đất đai… khiến giới đầu tư nản lòng.

Một số tài liệu nói rằng ở Sài Gòn và cả Hà Nội trong hơn 10 năm qua, mọc lên nhiều khu đô thị mới sang trọng. Tại Hà Nội có khu Linh Ðàm, còn Sài Gòn thì có Phú Mỹ Hưng. Nhiều khu nhà ở khác như Times City, hoặc Dolphin Plaza được sử dụng kết cấu đắt tiền và hết sức tiện nghi.

Theo dư luận, các loại nhà hạng sang này vượt khỏi tầm tay của người có thu nhập trung bình tại Việt Nam. Còn thị trường chung cư nhà ở cao cấp thì có dấu hiệu đóng băng lâu nay vì không có người mua. Vì vậy, theo Hiệp Hội Bất Ðộng Sản Sài Gòn, cho phép người ngoại quốc mua nhà hạng sang thì mới hy vọng làm tan băng thị trường bất động sản. (PL)

HỒI HƯƠNG

HỒI HƯƠNG

Minh Sư bảo: ” Có ba giai đoạn trong tiến trình tu đức đối với mỗi người: giai đoạn thể chất, giai đoạn tâm linh và giai đoạn thần linh.”

Các đệ tử nôn nóng hỏi: “ Giai đoạn thể chất là gì?

“Đó là giai đoạn mà người ta thấy cây cối là cây cối và núi non là núi non. “

“Giai đoạn tâm linh là gì?”

“Đó là khi người ta nhìn sự vật thâm sâu hơn- và rồi người ta nhận thấy cây cối không còn là cây cối nữa và núi non không còn là núi non nữa.”

“Và giai đoạn thần linh là gì?”

Minh Sư cười sảng khoái trả lời: “À! Đó là Giác Ngộ, khi cây cối trở lại cây cối và núi non trở lại núi non.”

Sách “Một Phút Minh Triết”

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Người dịch:

Đỗ Tân Hưng và Trần Duy Nhiên

Con đường cong mang tên Trường Chinh

Con đường cong mang tên Trường Chinh

An Nhiên, thông tín viên RFA
2014-04-11

04112014-duongcong-an.mp3

vietgiaitri.com-305.jpg

Tuyến đường Trường Chinh đã bị nắn cong để tránh hàng loạt nhà của quan chức

Courtesy of vietgiaitri.com

Hiện nay dư luận đang xôn xao về việc một con đường mang tên Trường Chinh ở Hà Nội bị uốn cong để tránh những căn nhà của các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Đây là con đường kỳ lạ và báo chí không bỏ lỡ cơ hội khai thác sự kiện hiếm có này.

Áp lực từ đâu?

Theo Quyết định 108 được Thủ tướng phê duyệt vào ngày 20/6/1998, quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2020, dự kiến hướng tuyến của tuyến đường Trường Chinh là chạy thẳng dài khoảng 2,2km, có mặt cắt ngang quy hoạch rộng 53,5m. Hướng quy hoạch, mở rộng đường đối với đoạn Vĩnh Tuy – Minh Khai – Trường Chinh – Ngã Tư Sở – Cầu Cót được định hướng chủ yếu về phía Bắc. Đoạn đường Trường Chinh đi qua địa bàn các quận Thanh Xuân và Đống Đa. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện thì con đường Trường Chinh bị uốn cong khoảng 800 mét khi qua khu đất của Quân chủng Phòng không Không quân, đoạn từ Hồ Hố Mẻ đến Cống chéo sông Lừ.

Khi dư luận phản ảnh tình trạng quá lộ liễu này của Sở quy hoạch Hà Nội vào chiều ngày 8/4/2014, ông Dương Đức Tuấn, Phó Giám đốc Sở Qui Hoạch Kiến Trúc Hà Nội nói với các phóng viên quốc nội rằng đoạn cong khoảng 800 mét này của đường Trường Chinh là “đường cong mềm mại” và không ảnh hưởng đến tình trạng giao thông. Quan trọng hơn ông Tuấn nói rằng đoạn cong ở đường Trường Chinh mở rộng là do yêu cầu của Bộ Quốc phòng.

Ông Trịnh, một kiến trúc sư đang công tác tại Hà Nội nói rằng việc bẻ cong con đường Trường Chinh chỉ có lợi cho một nhóm người có nhà không bị giải tỏa:

“Thật ra bẻ cong như thế thì nó rất là bất cập, tức là xét về một gốc độ nào đấy. Ban đầu mình có thể tiết kiệm được kinh phí giải tỏa, không phức tạp về vấn đề xã hội thì thật ra việc giải tỏa rất là khó, mỗi người dân thì người ta cũng có quyền của người ta, thì bây giờ, thật ra nhà nước mình cứ phải ép buộc người ta cứ như thế này thế kia, thì tất nhiên đây là lợi ích lâu dài cho xã hội, chứ còn người ta phải chuyển đi đến một khu tái định cư, trong khi mà cuộc sống người ta đang rất bình thường rất là ngại chuyển.”

Ông Nghiêm Việt Anh nhà ở ngay gần đường Trường Chinh cho biết, con đường này đã có gần một trăm năm nay rất thẳng, có từ thời Pháp trước 1954, người dân vẫn thường gọi là đường Tàu Bay, nó như là một phần lịch sử và đã có rất nhiều lần làm đường nhưng lần nào cũng thẳng mà giờ đây:

“Tránh một cái đọan là khoảng mấy trăm mét có các biệt thự của các ông tướng trong đó có Nguyễn Đức Phát, Phó tổng tham mưu, rồi có Trung tướng Phạm Tuân, có đại khái là năm ông tướng đấy. Thật ra thì cũng không phải là cái nhà của các ông ấy bỏ tiền ra xây từ ngày xưa mà thực tế đấy là những nhà công vụ, công lao do quân đội xây bằng cái tiền của dân, tiền của quốc phòng và sức của bộ đội, sức lính thôi.”

Rõ ràng con đường bị uốn cong là đề tránh những ngôi nhà của tướng tá cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam mà cụ thể là đơn vị Phòng không Không quân. Ông Việt Anh bức xúc nói thêm:

“Bây giờ ở các ông đó về hưu rồi. Các ông ở rất rộng như thế, cái biệt thự gần đường như thế, bây giờ làm nhà thì cắt của các ông đó khoảng mấy chục mét, giả sử làm đúng qui hoạch thì nhà các ông ấy vẫn còn, mà thật ra có làm hết đất đi thì các ông ấy vẫn còn có nhiều nhà khác. Vẫn có rất nhiều tiêu chuẩn để bố trí các ổng đi, nhưng mà đây là người ta không muốn lợi ích bị xâm phạm. Thành thử ra người ta vì cái quyền cao chức trọng, áp lực của bộ quốc phòng, áp lực đến Thành phố Hà Nội, chắc không phải tự nhiên thành phố thỏa thuận từ đường thẳng xuống đường cong thế đâu mà chắc lợi ích gì đấy đã thỏa thuận phía trong.“

Chuyện bình thường?

Ông Đỗ Xuân Thọ – Tiến Sỹ Cơ Học Ứng Dụng – công tác tại Viện khoa học và công nghệ GTVT nói rằng người dân Hà Nội đã quen với việc các quan chức làm những chuyện lợi ích riêng như vậy và lâu dần đã trở nên bình thường:

“Tôi chỉ biết rằng là, cái hiện tượng mà uốn cong các con đường qua các nhà của các con ông cháu cha, là thường xuyên ở Hà Nội, chắc chắn như thế. Tất là họ xây một cái biệt thư hay một cái khách sạn lên trước, sau đó họ xây một con đường chay qua đấy thì bao giờ cũng đón đầu các dự án. Đấy là một cái hiện tượng phổ biến ở Hà Nội. Rồi cái việc uốn cong đường Trường Chinh là dể hiểu thôi ….đấy có một đại gia nào đấy mà bị phá thì con đường bị uốn cong ngay giống như uốn con pháp luật bây giờ đó mà.”

Hiện tượng uốn con đường qua các nhà quan chức chính phủ, hay là quan chức hay con ông cháu cha chuyện bình thường Hà Nội này, dân Hà Nội ở ngoài vỉa hè nói chuyện đó, họ coi như chuyện bình thường.
– Ông Đỗ Xuân Thọ

Đối với một con đường chỉ dài hơn 2 km trong một thành phố đầy xe qua lại thì việc uốn cong chỉ làm cho người lái xe thêm khó khăn và tất nhiên phát sinh thêm nhiều kinh phí. Kiến trúc sư Trịnh nói rằng nếu làm thẳng thì con đường Trường Chinh sẽ tiết kiệm được nhiều kinh phí và có lợi cho xã hội:

“Con đường Trường Chinh ở Việt Nam thì chắc chắn không thể so sánh được rồi, vì nó rất là ngắn vì nếu mình làm đường thẳng, nó sẽ tiết kiệm nó sẽ tốt cho sau này. Thứ nhất nó tiết kiệm được khoảng cách con đường, kinh phí xây dựng một con đường dài hơn khoảng độ một vài chục mét, vài trăm mét thôi là tốn hơn rất nhiều kinh phí. Nếu mà vấn đề giải tỏa làm tốt thì tất nhiên con đường thẳng sau này xã hội sẽ được hưởng lâu dài, con đường ấy là một sản phẩm mãi mãi về sau, con người ta đựơc tận hưởng chứ không phải là trước mắt.”

Ông Trịnh cho biết tiếp nếu muốn làm những con đường cong trong thành phố thì phải tùy theo vị trí của từng khu vực trong nội thành:

“Tùy theo những vị tri, tức là mình ở những cái nơi khu vực có cảnh quan thì đôi khi, người ta cũng làm một con đường cong queo, ngoằn ngoèo, để dẫn hướng cho người ta đi thế này, thế kia, để người ta khám phá. Chứ còn ví dụ ở trong một quãng đường hay bị ách tắc giao thông, thì thật ra tạo một cái con đường cong, không lợi gì cả chỉ làm cho nó thêm phức tạp thôi.”

Việc công khai dùng kinh phí nhà nước để thỏa mãn yêu cầu của một số cán bộ tướng lĩnh hưu trí để bảo vệ tài sản cho họ là trái với pháp luật. Không những làm mất lòng tin của người dân mà còn khiến hố bất công ngày càng lớn và hình ảnh của người chiến sĩ không còn đẹp đẽ dưới con mắt của cả xã hội nữa

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa

chuacuuthe.com

VRNs (12.04.2014) – Wikipedia – Giáo dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.[1] Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và quy định “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.[2] Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[3] chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam – được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.[4]

Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[5] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[4] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng).[6]

Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam.[4]

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản”, “dân tộc”, và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này.[7][8] Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967).

1.         Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

2.         Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.

3.         Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.[1]

Mục tiêu giáo dục

Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?

1.         Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.

2.         Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

3.         Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.[1]

Giáo dục tiểu học và trung học

Giáo dục tiểu học

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).[13] Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[14] Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%[15] tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi[16] theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long, và Sa Đéc).[17]

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.[18] Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).[19] Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.[20] Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[21]

140412003

Giáo dục trung học

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức 24%[15] tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[16] có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).[17] Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

Trung học đệ nhất cấp

Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1970 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1970 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%);[22] tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.[23] Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.[24] Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[25] rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.[26]

Số liệu giáo dục bậc trung học[9]

Niên học          Số học sinh      Số lớp học

1955                51.465             890

1959                132.529[11]

1960                160.500[10]

1963                264.866           4.831

1964                291.965[12]

1967-68           471.000[15]

1968-69           554.000[15]

1969-70           632.000[15]     9.069

Trung học đệ nhị cấp

Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[27] Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệmhay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[28] Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[29] Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.[30] Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi.[31] Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình” (14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).[32] Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Cường Để (Qui Nhơn), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ) dành cho nam sinh. Các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế),Trường Nữ Trung Học Hồng Đức (Đà Nẵng), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.[33]

Trung học tổng hợp

Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ. Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.[34] Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh Lễ ởLong Xuyên.[35]

Trung học kỹ thuật

Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.[36] Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[37], Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[36][38]

Các trường tư thục và quốc gia nghĩa tử

Các trường tư thục và Bồ đề

Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.[12] Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.[39] con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[40] Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo hội Công giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.[41] Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie-Curie, Colette, và Saint-Exupéry.[42] Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.[43] Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).[44]

Các trường Quốc gia Nghĩa tử

Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia Nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia Nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.[45][46] Vì vậy trường Quốc gia Nghĩa tử khác trường thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường Quốc gia Nghĩa tử cũng bị giải thể.

Giáo dục đại học

Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện đại học, trường đại học, và học viện trong nước. Tuy nhiên, ở một số nơi vì số chỗ rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ thuật, Quốc gia Hành chánh, và Sư phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đếnlý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.[18]

Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur de troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.[49]

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học. Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ. Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tương đương với đơn vị khoa hiện nay).[50]

Trong thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị hòa bình diễn ra ở Paris, Việt Nam Cộng hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết hậu chiến, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành: trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.[51]

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa,xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.[51]

Vào năm 1973, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về nông nghiệp, kỹ thuật, giáo dục, khoa học và nhân văn, kinh tế và quản trị, và thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.[51]

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.[52] Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học.[53]Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật. Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập hai “đại học” cấp quốc gia và ba “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học.[54] Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu Quốc hội đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.[55]

Các viện đại học công lập

140412002

Học viện Quốc gia Hành chánh, đường Alexandre de Rhodes, Sài Gòn

•           Viện Đại học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại học Quốc gia Việt Nam (1955) – còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955.[56] Riêng Trường Đại học Y khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.[57]

•           Viện Đại học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.[58]

•           Viện Đại học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.

•           Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).

Các viện đại học tư thục

•           Viện Đại học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.[59]

•           Viện Đại học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật học, Khoa học xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.[60][61]

•           Viện Đại học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967, tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3 Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.[60]

•           Viện Đại học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm.[62] Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.

•           Viện Đại học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo[63] ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm.[64][65] Viện Đại học này trực thuộc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

•           Viện Đại học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công giáo điều hành.

Các học viện và viện nghiên cứu

Học viện Quốc gia Hành chánh, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, Viện Hải dương học Nha Trang, và Viện Khảo cổ (Việt Nam Cộng hòa)

Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn

•           Học viện Quốc gia Hành chánh: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn[66] đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3 tháng 2), Quận 10, Sài Gòn.[67][68] Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.[69]

•           Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức năm 1974.

•           Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.[70]

Các trường đại học cộng đồng

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho,[71] Duyên Hải ở Nha Trang,[72] Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974),[73] và Long Hồ ở Vĩnh Long.[51] Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp.[72] Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.[74] Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.[72]

Các trường kỹ thuật và huấn nghệ

Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tương đương với cấp đại học.

•           Trường Quốc gia Nông lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, lúa thóc.[75] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế,Cần Thơ, và Bình Dương.[76]

•           Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng hòa gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức.[77][78]

•           Học viện Cảnh sát Quốc gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.[79]

Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo), và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).

Các trường nghệ thuật

•           Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điển Tây phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.[80]

•           Trường Quốc gia Âm nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế,[81] chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh thành Huế làm nơi giảng dạy.[82]

•           Trường Quốc gia Trang trí Mỹ thuật: thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).

•           Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).

Sinh viên du học ngoại quốc

Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.[12]

Tài liệu và dụng cụ giáo khoa

140412001

Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục xuất bản năm 1967

Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[83]

Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.

Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[84] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.

Nhà giáo

Đào tạo giáo chức

Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[85] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn[86] Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.[87] Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.[88] Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp.[89] Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.[90] Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm).[91] Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.[92]

Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…[88]

Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.[57]

Trường Đại học Sư phạm, một trường thành viên của Viện Đại học Sài Gòn

Đời sống và tinh thần giáo chức

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.[88]

Thi cử và đánh giá kết quả học tập

Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.[29]

Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.[29]

Tổ chức quản trị

Hệ thống quản trị giáo dục

Bản đồ hành chính với địa giới các tỉnhcủa Việt Nam Cộng hòa và bốn khu học chánh (cũng tương ứng với bốn vùng chiến thuật)

Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, Bộ Quốc gia Giáo dục có Tổng Nha Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục phụ trách giáo dục tiểu học và trung học; đứng đầu là một Tổng Giám đốc. Tổng Nha này (văn phòng đặt tại số 7 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn) bao gồm Nha Trung học, Nha Tiểu học, Nha Tư thục, Sở Khảo thí, và Ban Thanh tra và Soạn Đề thi. Ở địa phương, mỗi tỉnh có một Ty Tiểu học để quản lý tất cả các trường tiểu học trong tỉnh. Nhưng các trường trung học ở Sài Gòn và ở các tỉnh lỵ và quận lỵ đều làm việc thẳng với Nha Trung học ở Tổng Nha. Khi số trường trung học gia tăng quá nhiều thi Nha Trung học hoạt động không còn hữu hiệu nữa. Ở tại các tỉnh, hiệu trưởng trường trung học tỉnh lỵ kiêm luôn việc kiểm soát các trường bán công và tư thụckhiến vị trí công việc này rất nặng nề.[93] Năm 1958 lập Ban Tu thư để soạn sách giáo khoa, phần lớn in ở ngoại quốc với viện trợ của Mỹ.[94]

Tháng 6 năm 1971, dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, Bộ Quốc gia Giáo dục mở rộng thành Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên (VH-GD-TN). Cơ quan đầu não của Bộ bào gồm: Một Tổng trưởng (ngày nay gọi là Bộ trưởng), một Thứ trưởng, và bốn Phụ tá đặc biệt (ngang hàng thứ trưởng) đặc trách Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục, Văn hóa, Thanh niên, và Kế hoạch. Điều hành văn phòng cơ quan đầu não có Đổng lý văn phòng (chức vụ này bị bãi bỏ từ năm 1974), Chánh văn phòng của Tổng trưởng, Chánh văn phòng của Thứ trưởng, Bí thư của Tổng trưởng, Bí thư của Thứ trưởng, Tham chánh Văn phòng của Tổng trưởng, các Công cán Ủy viên của Tổng trưởng, Thứ trưởng, Phụ tá đặc biệt, và một số Thanh tra đặc biệt tại Bộ.[93]

Tổng thư ký và Phó tổng thư ký của Bộ trông coi khối điều hành ở trung ương với 13 nha, 1 sở, và 1 trung tâm: (1) Nha Sưu tầm và Nghiên cứu Giáo dục, (2) Nha Kế hoạch và Pháp chế, (3) Nha Học chánh (tức là Quản trị Giáo dục), (4) Nha Sinh hoạt Học đường, (5) Nha Sinh hoạt Văn hóa, (6) Nha Sinh hoạt Thanh niên, (7) Nha Công tác Quốc tế, (8) Nha Sư phạm và Tu nghiệp, (9) Nha Khảo thí, (10) Nha Y tế Học đường, (11) Nha Nhân viên, (12) Nha Tài chính, (13) Nha Tạo tác (tức là Kiến thiết và Hậu cần), (14) Sở Văn thư, và (15) Trung tâm Học liệu. Thanh Tra Đoàn được lập ở trung ương, bên cạnh khối điều hành của Tổng thư ký. Tổng Nha Trung Tiểu học và Bình Dân Giáo dục được giải tán và tất cả các công việc thuộc Tổng Nha được đưa về Bộ và nằm dưới sự điều hành trực tiếp của Phụ tá đặc biệt đặc trách Trung Tiểu học và Bình Dân Giáo dục.[93]

Vào năm 1972, Bộ VH-GD-TN thiết lập 4 Khu Học chánh để đại diện cho Bộ ở 4 vùng chiến thuật (quân khu) để đôn đốc, kiểm soát và giúp đỡ công việc văn hóa, giáo dục, và thanh niên ở các tỉnh thuộc phạm vi quân khu của mình. Đây là một cơ quan hoạt động rất hữu hiệu. Tuy nhiên vì ngân sách eo hẹp và vì nhu cầu cải tổ công vụ trên toàn quốc nên Khu Học chánh bị giải tán sau hơn một năm hoạt động. Tại mỗi tỉnh, Bộ VH-GD-TN cho thiết lập một Sở Học chánh để phụ trách tất cả các công việc liên quan đến văn hóa và giáo dục trong tỉnh; Ty Tiểu học được sáp nhập vào Sở Học chánh. Bộ VH-GD-TN mong muốn rằng cơ quan học chánh ở mỗi tỉnh phải có địa vị quan trọng và càng ít bị áp lực của địa phương càng tốt cho nên đã nâng cơ quan này lên thành Sở. Tuy vậy, do tình hình đất nước, điều này không thể thực hiện được, và công cuộc cải tổ công vụ toàn quốc đã đưa đến quyết định chuyển Sở Học chánh thành Ty Văn hóa Giáo dục tại địa phương từ năm 1974. Trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 50 Ty Văn hóa Giáo dục đặt tại 48 tỉnh lỵ và 2 thị xã.[93]

Về mặt ngân sách vào thời điểm năm 1961 thời Đệ nhất Cộng hòa với ngân sách quốc gia là 15.276 triệu đồng, chính phủ chi 811,4 triệu cho ngân sách giáo dục; chính quyền địa phương góp 563,3 triệu đồng tính tổng cộng là 8,99% ngân sách quốc gia.[70]

Bộ Quốc gia Giáo dục còn điều hành Viện Khảo cổ và quản lý các viện bảo tàng quốc gia như Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam ở Sài Gòn, Viện Bảo tàng Huế và Viện Bảo tàng Chàm.

Giáo dục là của những người làm giáo dục

Ở Việt Nam, ngay từ thời xa xưa, giáo dục là của những người làm giáo dục. Các vương triều của Việt Nam thường chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo đó là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào hoạt động giảng dạy của các cơ sở giáo dục. Sang thời Pháp thuộc, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành và soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn, dù là người Pháp hay người Việt.[95]

Đặc điểm trên được tôn trọng trong suốt thời Quốc gia Việt Nam của Cựu hoàng Bảo Đại và đặc biệt là thời Việt Nam Cộng hòa. Các chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng các chức vụ khác trong Bộ Giáo dục đều là những nhà giáo chuyên nghiệp đảm trách (ngoài trừ một số chức vụ có tính chất chính trị như đổng lý văn phòng, bí thư, v.v…). Họ là những người am hiểu công việc, có kinh nghiệm, giàu tâm huyết, và xem chính trị chỉ là nhất thời, tương lai của dân tộc mới quan trọng. Trong các cơ quan lập pháp, những người đứng đầu các ủy ban hay tiểu ban giáo dục của Thượng viện và Hạ viện (của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa) đều là những nghị sĩ quốc hội xuất thân từ nhà giáo. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đều ngưng lại trước ngưỡng cửa học đường.[95]

Riêng trong lĩnh vực giáo dục đại học, Điều 10 của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967) nêu rõ: Nền giáo dục đại học được tự trị.[2] Ở miền Nam trước 1975 không có “Bộ Đại học” cũng không có cơ quan chủ quản kiểu như Bộ Y tế quản lý các trường đại học Y-Dược. Trong ban lãnh đạo của Bộ Quốc gia Giáo dục của Việt Nam Cộng hòa có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học. Công việc của vị này chủ yếu là lo về chính sách chung vì các viện đại học là cơ quan ngoại vi đối với Bộ ở trung ương. Về học vụ và điều hành, các cơ sở giáo dục đại học được tự trị. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay phân khoa đại học) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ thị từ bất cứ ai.[50] Các hiệu trưởng hay khoa trưởng của các trường đại học hay phân khoa đại học khong do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.[96]

Về mặt tài chính, tuy các viện đại học công lập có ngân sách riêng nhưng đây là một phần của ngân sách chung thuộc ngân sách quốc gia và phải được Quốc hội chấp thuận. Tất cả các chi tiêu phải qua thủ tục “chiếu hội ngân sách” (“chiếu hội”=kiểm nhận) do Bộ Tài chính kiểm soát và thực hiện. Ngoài ra, giảng viên và nhân viên là công chức quốc gia. Việc tuyển mới, chuyển ngạch, bổ nhiệm, thăng chức, v.v… phải qua thủ tục “chiếu hội công vụ” do Phủ Tổng ủy Công vụ thực hiện để kiểm soát. Trong thực tế, thủ tục này được thực hiện một cách khá dễ dàng và nhanh chóng. Như vậy, về mặt tài chính các viện đại học công lập ở miền Nam không được nhiều quyền tự trị như các viện đại học ởHoa Kỳ. Lý do của việc này là do các viện đại học này không thu học phí của sinh viên, không có nguồn thu riêng.[50]

Các kỳ đại hội giáo dục quốc gia

•           Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I: tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958. Triết lý giáo dục nhân bản – dân tộc – khai phóng được chính thức hóa ở hội nghị này.[97]

•           Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II: tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1964. Đại hội này tái xác nhận ba nguyên tắc căn bản nhân bản – dân tộc – khai phóng và tổ chức lại hệ thống học đường nhấn mạnh đến sự học tập liên tục từ lớp 1 đến lớp 12.[97]

Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:[98]

•           Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

•           Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-1953 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.[99]

•           Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.

•           Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.

•           Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[100]

•           Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn,[101] làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969.[102]

•           Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.

•           Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

•           Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Nam California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ởCalifornia (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.

•           Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.

•           Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình

Trợ giúp của quốc tế

Những nỗ lực phát triển giáo dục của Việt Nam Cộng hòa nhận được sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Một vài ví dụ có thể kể đến: UNESCO giúp thiết lập một hệ thống các trường tiểu học cộng đồng. UNDP giúp đỡ trang thiết bị cho Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ. New Zealand xây dựng các tòa nhà cho Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Phápcung cấp nhiều giáo sư, trang thiết bị, khoản tài trợ giúp phát triển nhân sự, đặc biệt là trong lĩnh vực toán học hiện đại. Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) giúp xây dựng và cung cấp trang thiết bị cho một trường trung học kỹ thuật, ngoài ra còn hỗ trợ Trường Đại học Y khoa của Viện Đại học Huế, v.v…[103]

Phần lớn sự trợ giúp đến từ Hoa Kỳ. Trong đó có sự giúp đỡ trong việc ấn loát sách giáo khoa, xây dựng Trường Đại học Sư phạm của Viện Đại học Sài Gòn và các trường sư phạm khác ở các tỉnh, 11.000 phòng học trong các ấp chiến lược, 18 trường trung học kỹ thuật, một trung tâm y khoa cho Viện Đại học Sài Gòn, một trường sư phạm và cùng với nó là một trường trung học kiểu mẫu, một trường sư phạm kỹ thuật, một trường đại học nông nghiệp, một trường đại học kỹ thuật, một trung tâm hành chính cho viện đại học, v.v… Tất cả các chương trình này được thực hiện thông qua các nhóm chuyên gia gồm các giáo sư, nhà quản trị, và sinh viên của các viện đại học Hoa Kỳ.[103]

Chữ viết

Vào thời đó, chính tả tiếng Việt khác với bây giờ ít nhiều. Điểm khác biệt gồm có việc dùng gạch nối “-” giữa các từ trong một từ kép, ví dụ như “ngân-hàng”, “Việt-Nam”. Cách viết tên riêng thì có khi viết thành “Nguyễn-văn-Mỗ” thay vì viết hoa mỗi chữ (Nguyễn Văn Mỗ). Những khác biệt này không phải do chính quyền tạo ra hay chỉ mới xuất hiện vào thời buổi đó mà đúng ra là tiếp nối cách viết từ thời tiền chiến.

Đánh giá

Lời đánh giá về nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa trên trang mạng chính thức của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Định: “Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã thay chân Pháp, nhảy vào miền Nam Việt Nam. Mỹ-ngụy đã cố sử dụng giáo dục làm công cụ xâm lược Việt Nam. Chúng đã gieo rắc trong học sinh, sinh viên tư tưởng hoài nghi, mơ hồ, tư tưởng an phận, sợ Mỹ, phục Mỹ. Chúng phát triển trong học sinh, sinh viên lối sống thực dụng, quay lưng với hiện tại, chấp nhận cuộc sống vị kỷ ương hèn… Mặt khác, Mỹ-ngụy tìm mọi cách tiêu diệt nền giáo dục cách mạng, tìm cách ngăn chặn, loại trừ những mầm mống cách mạng trong nhà trường.”[104][105] Trong một giáo án về Lịch sử Giáo dục huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị: “Giáo dục Mỹ-ngụy tuy có phát triển về số lượng và có những cải cách nhất định, nhưng không thoát khỏi mục đích nô dịch, thống trị.”[106]

Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam.[107]

Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[108] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc […] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…”[109]

Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.”[110]

Chú thích

1.         ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 24-26.

2.         ^ a ă “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967”. ‘Điều 26, Hiến pháp năm 1956: “Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí. Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn. Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định. Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận.” Điều 10, Hiến pháp năm 1967: “1- Quốc gia công nhận quyền tự do giáo dục. 2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí. 3- Nền giáo dục đại học được tự trị. 4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. 5- Quốc gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật.” Điều 11 phát biểu: “1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản. 2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.”’

3.         ^ “Lịch sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam”. Việt Đông xuất bản cục. 1945. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.

4.         ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 19-21.

5.         ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 22-23.

6.         ^ Nguyen Van Canh, tr. 156

7.         ^ “Giáo dục Việt Nam Cộng hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

8.         ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 54.

9.         ^ a ă Nguyen Ngoc Bich, tr. 46.

10.       ^ a ă â Trần Văn Lục. Một thời để nhớ: những sự thật về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ nhất Cộng hòa. Westminster, CA: Nguyệt san Diễn đàn Giáo dân, 2011. tr 265-266.

11.       ^ a ă â Phan Xuân Hòa. Việt Nam gấm vóc. Paris: Institut de l’Asie du Sud-est, 1960?. Trang 268-9.

12.       ^ a ă â b c d Smith, Harvey et al. Area Handbook for South Vietnam. Washington, DC: US Government Printing Office, 1967. 146-56.

13.       ^ Sales, Jeanne M. tr 7

14.       ^ Smith, Harvey et al. tr 148

15.       ^ a ă â b c d Embassy of Viet-Nam. “Secondary Education in Viet-Nam”. Viet-Nam Bulletin No 36, Oct 1970. Washington, DC.

16.       ^ a ă Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 43.

17.       ^ a ă Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 47.

18.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 28-29.

19.       ^ “Báo Người Việt: Giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

20.       ^ Masur, Matthew B., tr. 58.

21.       ^ Smith, Harvey et al., tr. 148.

22.       ^ Nguyễn Thanh Liêm, tr. 28.

23.       ^ “Giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa”. Báo Người Việt. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

24.       ^ “Lược sử Vovinam”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

25.       ^ “Nền giáo dục Phú Yên từ 1611 đến 1975″ do Hội Đồng hương Phú Yên soạn

26.       ^ “Sơ lược về Trường Trần Bình Trọng Ninh Hòa”

27.       ^ “Phân ban trung học”. Vietnamnet. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

28.       ^ Nguyen Thanh Liem (2006), tr. 32.

29.       ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 38-44.

30.       ^ Smith, Harvey et al. tr 149

31.       ^ “Sự Giáo dục và Thi cử ở Việt Nam qua các thời đại, phần 7”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

32.       ^ “Xếp hạng trong các kỳ thi trung và đại học”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

33.       ^ “Nhớ lại trường trung học Hoàng Diệu, Ba Xuyên”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

34.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 189-198.

35.       ^ “Phát triển thư viện tại Miền Nam trước năm 1975”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

36.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 199-213.

37.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 284-285.

38.       ^ “Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh”. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2010.

39.       ^ Education and Poverty in Vietnam. tr 14

40.       ^ “Education – Vietnam”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

41.       ^ “Collège Fraternité”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

42.       ^ “Dòng La San”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

43.       ^ Smith, Harvey et al. tr 153

44.       ^ Nguyen Van Canh, tr. 157.

45.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 312-317.

46.       ^ “Gia đình Quốc gia Nghĩa tử”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

47.       ^ Press Information Office. Embassy of the Republic of Viet-Nam. News from Viet-Nam. Trang 9.

48.       ^ Giáo dục Việt Nam

49.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 174-175.

50.       ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 168-169.

51.       ^ a ă â b Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 152-157.

52.       ^ The Higher Education System in Vietnam

53.       ^ “Đào tạo liên thông và chuyển tiếp của Trường CĐCĐ”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

54.       ^ “Về xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới”. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.

55.       ^ “Báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận ở tổ của đại biểu quốc hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 28 tháng 10 năm 2009 (mục 8)”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

56.       ^ Masur, Matthew B., tr. 61.

57.       ^ a ă “Higher Education”. Viet Nam Magazine. Vol IV, No 5, 1971. tr 4-15

58.       ^ Sales, Jeanne M., tr. 8.

59.       ^ “Viện Đại học Đà Lạt giữa lòng dân tộc Việt Nam”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

60.       ^ a ă “Hội thảo 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Tp. Hồ Chí Minh”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

61.       ^ “Viện Đại học Vạn Hạnh”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.[liên kết hỏng]

62.       ^ “Niên biểu An Giang qua các thời kỳ”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

63.       ^ “Giáo dục Văn hóa Cao Đài”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

64.       ^ “Viện Đại-học Cao-Đài: Chỉ-Dẫn (1971-1972)”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

65.       ^ “Viện Đại học Cao Đài”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

66.       ^ “Duyên Quốc gia Hành chánh…”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

67.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 171.

68.       ^ “Lần theo vết dấu…”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

69.       ^ “Lịch sử Học viện Quốc gia Hành chánh”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

70.       ^ a ă “UNESCO Profile: Viet-Nam”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

71.       ^ “Đại học cộng đồng Tiền Giang”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

72.       ^ a ă â “Community Colleges in Vietnam”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

73.       ^ “Đà Nẵng vang bóng một thời”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

74.       ^ “Nhà văn Hứa Hoành”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

75.       ^ “Trường Nông lâm súc”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

76.       ^ “Cựu học sinh Nông lâm súc tái ngộ”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

77.       ^ “Nhóm lợi ích công cộng… lưu vực sông Cửu Long”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

78.       ^ “Trường Đại học Nông lâm”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

79.       ^ “Quá trình thành lập Học viện Cảnh sát Quốc gia”

80.       ^ “Kỷ niệm 50 năm thành lập Trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch nghệ Việt Nam”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

81.       ^ “Nghệ nhân Trần Kích khổ luyện và tài hoa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

82.       ^ “Duyệt Thị Đường: Nhà hát cổ nhất Việt Nam”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

83.       ^ Masur, Matthew, tr. 57.

84.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 34.

85.       ^ “Lịch sử Đại học Sư phạm Sài Gòn”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

86.       ^ “Khoa Sư phạm”. Thế giới Tự do Số 4, Tập X. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 34-5

87.       ^ “Những con đường dẫn vào tương lai…”

88.       ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 135-138.

89.       ^ “Giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

90.       ^ Nguyen Ngoc Bich. tr 46

91.       ^ Sales, Jeanne M. tr 9

92.       ^ “Trường Đại-học Sư-phạm Sài Gòn”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

93.       ^ a ă â b Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 44-47.

94.       ^ Duncanson, Dennis. Government and Revolution in Vietnam. New York: Oxford University Press, 1968. tr 250.

95.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 127-128.

96.       ^ Vũ Quốc Thúc. Thời đại của tôi Cuốn II. Paris: Người Việt, 2010. Tr 372-408

97.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 136-138.

98.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 8.

99.       ^ Nhân vật lịch sử con người Đồng Tháp, Nguyễn Thành Giung

100.     ^ “Viện Việt-Học”. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.

101.     ^ “Y khoa Đại học Saigon: Nhìn lại 60 năm lịch sử” theo Thời báo Onlinée

102.     ^ “South Viet Nam: The Price of Honesty” báo Timé

103.     ^ a ă Do, Khe Ba (1995), tr.9-10.

104.     ^ “Sở Giáo dục – Đào tạo Bình Định”. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.

105.     ^ “Giáo dục Bình Định: Những chặng đường”. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.

106.     ^ “Lịch sử Giáo dục Triệu Phong”. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.

107.     ^ Deborah Shapley (tháng 8 năm 1975). “Science in Vietnam: The Postwar North Seeks American Assistance”. Science 189 (4204): 705–707.doi:10.1126/science.189.4204.705. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010. “[Nguyên văn tiếng Anh đoạn trích dẫn]: In science and education, unification will probably be patchy at best, since the two countries have developed along different lines for decades. But despite a host of difficulties Galston found the leaders in the North to be openly admiring of many features of science and education in the South; they planned to incorporate them in the North when the much-discussed (but still not formalized) unification takes place.”

108.     ^ “Kỷ niệm về một ngôi trường”. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2010.

109.     ^ “Hãy trút cơn giận vào nơi đáng trút”. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.

110.     ^ “Văn học miền Nam”. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a

 

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ: Trung Quốc nguy hiểm

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ: Trung Quốc nguy hiểm

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô Đốc Harris, tố cáo Trung Quốc hiếp đáp các nước láng giềng, làm leo thang căng thẳng, dẫn tới nguy cơ đối đầu.

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô Đốc Harris, tố cáo Trung Quốc hiếp đáp các nước láng giềng, làm leo thang căng thẳng, dẫn tới nguy cơ đối đầu.

10.04.2014

Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ chỉ trích thái độ hành xử ‘nguy hiểm’ của Trung Quốc và mô tả chính sách tăng cường quân sự của Bắc Kinh trong khu vực là ‘hung hăng’.

Những lời lẽ mạnh mẽ của Đô Đốc Harry Harris được đưa ra nhân bài diễn văn đọc tại Đài Tưởng niệm Chiến tranh Australia tối ngày 9/4.

Trao đổi với các lãnh đạo quân sự Australia, ông Harrry Harris lên án việc Trung Quốc tự ý lập vùng nhận dạng phòng không bao trùm các khu vực có tranh chấp ở Biển Hoa Đông không cần tham khảo ý kiến các bên.

Đô Đốc Harris cũng tố cáo Trung Quốc hiếp đáp các nước láng giềng, làm leo thang căng thẳng, dẫn tới nguy cơ đối đầu.

Đô đốc Harris nói ông quan ngại trước sự bành trướng quân sự hung hăng, không minh bạch cùng với thái độ ngày càng gây hấn của Trung Quốc trong đó bao gồm các tuyên bố chủ quyền không căn cứ trên luật lệ quốc tế.

Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khẳng định Hoa Kỳ mạnh mẽ phản đối việc giải quyết tranh chấp bằng các hành động áp bức.

Nhân vật quân sự có nhiều ảnh hưởng của Mỹ nhấn mạnh các thách thức này càng nêu bật tầm quan trọng của chính sách chuyển trọng tâm về Châu Á của Washington.

Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong cuộc họp thượng đỉnh quốc phòng Mỹ-ASEAN ở Haiwaii hôm 3/4, đã gửi một thông điệp tới Bắc Kinh qua tuyên bố rằng Hoa Kỳ ngày càng quan ngại về các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và kêu gọi các nước tự chế, minh định chủ quyền thông qua luật lệ quốc tế, và cư xử đúng mực.