Dân chủ, bắt đầu từ mỗi cá nhân

Dân chủ, bắt đầu từ mỗi cá nhân
Friday, April 18, 2014 5

Song Chi/Người Việt

Trong những tính xấu khác nhau của người Việt mà dạo gần đây cũng thường bị dư luận mổ xẻ, có một tính xấu hay nhược điểm có thể gây cản trở nhiều cho công cuộc đấu tranh đòi lại tự do, dân chủ cho đất nước và dân tộc. Ðó là sự thiếu khoan dung, độ lượng, thói đố kỵ, hoặc là một dạng thiếu dân chủ trong tư duy, quan điểm của chính chúng ta.

Nói chế độ này, nhà nước này thiếu khoan dung, độ lượng thì đã rõ. Nếu biết nhìn xa, nghĩ rộng, có lẽ đảng và nhà nước cộng sản đã không hành xử như vậy từ sau khi thống nhất được đất nước cho đến tận bây giờ.

Vợ chồng Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ khi đến thăm văn phòng hãng luật WilmerHale ngày 16 tháng 4, 2014, sau khi đến Hoa Kỳ. (Hình: BPSOS)

Khi là “phe thắng cuộc,” họ đã thi hành hàng loạt chính sách sai lầm, trái nhân tâm như bỏ tù hàng trăm ngàn, hàng triệu dân quân cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa dưới danh nghĩa đi “học tập cải tạo,” trong đó có nhiều người bị tù hàng chục năm, có những người phải vĩnh viễn gửi xác lại trại cải tạo.

Cướp nhà, đày ải hàng triệu gia đình người dân tại các thành phố lớn miền Nam phải đi kinh tế mới, tiến hành cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp…khiến kinh tế miền Nam sụp đổ nhanh chóng, cả nước trở thành đói nghèo như nhau. Rồi những chính sách tiêu diệt văn hóa, phân biệt về lý lịch, nạn đấu tố, phê bình…khiến hàng triệu người, chủ yếu từ miền Nam phải liều mình bỏ nước ra đi để tìm tự do.

Suốt gần bốn thập niên, sự thiếu khoan dung độ lượng đó vẫn tiếp tục thể hiện trong mọi chính sách đường lối của nhà cầm quyền, từ những dịp lễ lạc ăn mừng các ngày lễ cách mạng, ăn mừng chiến thắng được tổ chức tưng bừng hàng năm. Từ những bài học trong sách giáo khoa cho tới ngôn ngữ trên báo chí, truyền thông và trên cửa miệng quan chức cán bộ các cấp khi viết, nói về cuộc chiến và “phe thua cuộc.”

Một nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa bị bỏ hoang phế bao nhiêu năm, gần đây mới cho phép thân nhân người đã chết được vào chăm sóc sửa sang đôi chút các mộ phần, cho đến những gia đình có con em tử trận vì cầm súng cho chế độ miền Nam, những thương phế binh lặng lẽ sống trong nghèo khó, hờn tủi.

Và mãi đến gần đây dưới sức ép của người dân, nhà cầm quyền mới bắt đầu cho phép nhắc đến trận hải chiến Hoàng Sa nhưng vẫn chưa thật sự công nhận những người lính Việt Nam Cộng Hòa ngã xuống trong trận hải chiến này là liệt sĩ v.v…

Sự hẹp hòi đó còn thể hiện rất rõ trong những chính sách đối với tù nhân chính trị. Từ tù chính trị có liên quan đến Việt Nam Cộng Hòa trước đây cho đến các thế hệ tù chính trị, người bất đồng chính kiến, dân oan, nạn nhân của các vụ đàn áp tôn giáo…được gọi chung là tù nhân lương tâm sau này, luôn luôn bị đối xử tàn tệ hơn tù hình sự gấp nhiều lần và hiếm khi nào được đặc xá, thả trước thời hạn.

Chỉ lâu lâu, trước sức ép của dư luận trong và ngoài nước, hoặc vì lý do muốn đổi chác về kinh tế hay quyền lợi gì đó với Hoa Kỳ và phương Tây, nhà cầm quyền mới thả nhỏ giọt vài người. Như gần đây nhất với các tù nhân chính trị Nguyễn Hữu Cầu, Ðinh Ðăng Ðịnh, Cù Huy Hà Vũ, Vi Ðức Hồi, Nguyễn Tiến Trung.

Sự chậm chạp trong việc cải thiện nhân quyền, thay đổi quan điểm trong nhiều vấn đề là một bằng chứng nữa về sự thiếu khoan dung của nhà cầm quyền. Chưa kể việc làm lơ không sửa sai, thậm chí một lời xin lỗi cũng không có cho dù đã hàng chục năm, đối với những nạn nhân trong các vụ án cải cách ruộng đất, nhân văn Giai phẩm, thảm sát Tết Mậu Thân 1968 v.v…

Nhà cầm quyền thiển cận như vậy nhưng còn người dân thì sao?

Ðiều đáng buồn là sau bao nhiêu năm sống trong một chế độ tồi tệ, kém văn minh, chúng ta cũng bị ảnh hưởng nhiều mà không tự ý thức được. Sự hoài nghi, thiếu lòng tin vào những điều tử tế, cái thiện, cái đẹp. Sự đố kỵ, thấy ai hơn mình là không chịu được. Sự thiếu khoan dung trong quan điểm, cách nhìn. Tóm lại là chưa được dân chủ.

Trong ngày thường, tại cơ quan, đi đến nơi này chỗ kia chúng ta đều có thể chứng kiến vô số những ví dụ về điều đó.

Ngay trong những người đang đấu tranh chống lại cái chế độ không có tự do dân chủ, chà đạp nhân quyền này, cũng vẫn có những biểu hiện của sự thiếu dân chủ trong suy nghĩ và hành động.

Từ trong các cộng đồng chống cộng của người Việt ở nước ngoài lâu nay với rất nhiều phe nhóm, đảng phái, nghi kỵ nhau, sẵn sàng chửi bới, chụp mũ nhau là “thân cộng” nhưng rất khó ngồi lại với nhau, tạo thành một thế lực vững mạnh, yểm trợ đồng bào trong nước.

Ðối với những người đã từng thuộc về “phe thắng cuộc,” từng là cán bộ đảng viên hay sinh ra và lớn lên ở miền Bắc XHCN nhưng nhận thức được vấn đề và lên tiếng chống lại chế độ, như nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà báo Bùi Tín, nhà văn Dương Thu Hương…cũng bị người thuộc “phe thua cuộc” nghi kỵ suốt. Còn đối với những người từ trong nước đi ra theo diện tỵ nạn chính trị thời gian gần đây, cũng không phải dễ mà tiếp tục sống và tranh đấu trong lòng cộng đồng.

Gần đây khi Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ cùng vợ quyết định sang Mỹ ngay sau khi được nhà cầm quyền phóng thích khỏi nhà tù, nhiều người cũng đã chỉ trích, lên án, hoặc nhẹ hơn, tỏ ra thất vọng trước quyết định của ông Vũ. Và cho rằng rồi ông Vũ cũng sẽ chìm lỉm, tắt lặng khi sống ở nước ngoài, con đường đấu tranh chính trị coi như chấm dứt.

Những sự phê phán, chỉ trích, thậm chí quy kết ông Vũ đấu tranh cuối cùng chỉ để tìm đường sống ở nước ngoài cho sung sướng hơn, chứng tỏ một số người trong chúng ta không dân chủ trước quyết định của người khác.

Không ai có quyền bắt người khác phải là anh hùng, phải hy sinh cả đời. Cuộc đấu tranh giành lại tự do dân chủ, quyền làm người cho dân tộc Việt Nam là một con đường rất dài, trên hành trình đó có người có thể chỉ đi được một quãng đường, có người dừng lại, có người thay thế, bước tiếp, cũng là điều bình thường.

Hay chuyện những người cứ cho là thuộc phe tiến bộ ở cả trong và ngoài nước, nhưng đôi khi vẫn hành xử chẳng khác nào bọn công an, an ninh, bồi bút, dư luận viên và nhà cầm quyền nói chung.

Nhà cầm quyền dùng đủ mọi chiêu trò để phân tán lực lượng, gây chia rẽ, hạ thấp những người lên tiếng bằng cách chụp mũ họ là dân chủ cuội, nhận tiền của bên ngoài để chống phá hoặc ỡm ờ tung tin một số là người của an ninh cài vào; bôi nhọ, vu khống đời tư họ một cách hèn hạ bỉ ổi…Thì có những lúc chúng ta cũng lại chụp cho nhau những cái mũ là tay sai của an ninh, hay đảng viên của đảng này đảng kia, hoặc chỉ trích, bới móc đời tư của nhau.

Tự do dân chủ trước hết phải bắt đầu từ trong những suy nghĩ, nếp sống, quan điểm hàng ngày, trước mọi vấn đề của xã hội, từ những vấn đề tưởng như chả liên quan gì đến đấu tranh đòi tự do dân chủ, như quyền được ăn mặc, suy nghĩ, sống, yêu và chết khác người, miễn không phạm pháp và không hại tới ai.

Phải thấy rằng những suy nghĩ, hành xử dân chủ, rộng lượng, nhân bản đó không thể ngày một ngày hai mà có, đối với cả một cộng đồng, một dân tộc.

Trong các xã hội tự do, dân chủ và phát triển, người ta sống và thở với cái môi trường đó suốt cả cuộc đời nên trở thành tự giác. Người ta tôn trọng sự khác biệt, sự tự do của người khác, với một tinh thần hết sức dân chủ, hành xử văn mình, suy nghĩ nhân bản.

Còn người Việt Nam chúng ta, thiệt thòi vì chưa kịp là một nước dân chủ, văn minh ngày nào thì đã phải chịu cái nạn của một chế độ tệ hại do Ðảng Cộng Sản cầm quyền suốt bao nhiêu năm, nên không thể không ảnh hưởng. Ðó là chưa nói đến việc chỉ có người Việt sống với nhau trong một đất nước chưa chắc đã tốt như một quốc gia có người nhập cư đến từ nhiều nước, khác nhau về ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán…Như vậy con người dễ chấp nhận những sự khác biệt hơn, dễ rộng lòng hơn.

Dù sao, nếu không bắt đầu từ việc xây dựng một ý thức, quan điểm, tư tưởng, cách nhìn cách nghĩ cách sống dân chủ trong mỗi cá nhân, thì khoan hãy tính đến việc xây dựng một quốc gia dân chủ sau này, khi cộng sản sụp đổ.

 

Nhà văn lớn nhất của Nam Mỹ vừa qua đời

Nhà văn lớn nhất của Nam Mỹ vừa qua đời
Friday, April 18, 2014

Nguoi-viet.com


Hà Tường Cát/Người Việt

MEXICO CITY – Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.

Gabriel Garcia Marquez những năm cuối cùng ở Mexico. (Hình: Suzana Gonzalez/Bloomberg via Getty Images)

Bản tuyên dương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn Học năm 1982 cho ông viết: “Mỗi tác phẩm mới của G.G Marquez được đón nhận bằng những lời chỉ trích, và độc giả đón nhận như một biến cố trọng đại trên thế giới.”

Tổng Thống Mexico Enrique Pena Nieto gọi Marquez là “một trong những nhà văn vĩ đại nhất của mọi thời đại.”

Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Bill Clinton, cho rằng Marquez đã “nắm bắt được trọn vẹn niềm vui, nỗi buồn của cả loài người,  bằng trí tưởng tượng thiên tài, cách suy nghĩ mạch lạc và một sự trung thực hiếm có trong cảm xúc.” Gia đình Tổng Thống Clinton gặp và ăn tối với Marquez ở nhà của văn sĩ  nổi tiếng người Mỹ, William Syron (1925-2006) năm 1994, sau nhiều năm ông bị từ chối visa vào nước Mỹ vì quá trình hoạt động chính trị.

Marquez được coi như nhà văn Nam Mỹ sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha vĩ đại nhất kể từ thời Miguel de Cervantes (1547-1616), tác giả “Don Quixote de la Mancha,” tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở Âu Châu  và là một trong những tác phẩm lớn nhất trong văn học Tây Phương.

Chủ nghĩa hiện thực là căn bản trong những tác phẩm của Garcia. Những tác phẩm đầu tay của ông phản ánh hiện thực cuộc sống ở quê hương Colombia. Nhưng sau đó vì dự tính quá nhiều chi tiết trước khi sáng tác nên ông chuyển sang hướng được gọi là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism).

Chủ đề chính yếu trong sáng tác của Marquez là sự cô độc. Tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông và đã đưa đến giải thưởng văn chương Nobel năm 1982 là Trăm Năm Cô Đơn (Cien anos de soledad), viết trong 18 tháng, bắt đầu năm 1965, xuất bản năm 1967 ở Tây Ban Nha. Cuốn sách được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, kể cả Việt Ngữ, và bán được khoảng 30 triệu bản.

Trăm Năm Cô Đơn bao gồm nhiều bình diện, phản ánh cuộc sống của các dân tộc châu Mỹ La Tinh và những sự kiện quan trọng trong lịch sử của miền đất này. Sự pha trộn giữa những yếu tố hiện thực và giả tưởng trong tiểu thuyết diễn tả giá trị thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của văn học. Sự tham lam, tính ích kỷ làm mất đi bản chất của những con người có đầy đủ thể lực, trí tuệ và chỉ có tình yêu thương mãnh liệt mới có thể là yếu tố cần thiết để vượt thoát khỏi sự cô đơn.

Bài phát biểu đọc ngày 8 tháng 12 năm 1982 tại Stockholm khi nhân lãnh giải Nobel do Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng, mang tựa đề “Sự cô đơn của Châu Mỹ La Tinh,” phác họa những nội dung Marquez viết trong các tiểu thuyết và truyện nngắn của mình. Ông nêu ra chủ nghĩa thực dân Âu Châu và di sản của nó, sự hủy diệt văn hóa Mỹ La Tinh và ông đặc biệt nhấn mạnh đến những quốc gia chịu ảnh hưởng tiêu cực do chính sách đối ngoại của các cường quốc với tình hình chính trị rối ren qua nhiều năm.

Theo Marquez, Nam Mỹ đã trải qua 5 cuộc chiến tranh và 17 vụ đảo chính mà hậu quả là đem đến những nhà lãnh đạo độc tài và sự thoái hóa trên mọi mặt của sinh hoạt xã hội. Ông phê phán quá trình giải phóng đất đai nhưng thay thế bằng sự áp đặt nền văn minh ngoại nhập. Ông đề cập đến một thực trạng là trong khi Âu Châu sẵn sàng chấp nhận văn hóa nghệ thuật của dân Mỹ La Tinh thì họ lại nhìn những nguyện vọng chuyển đổi bằng con mắt nghi ngờ và đồng ý với những hành động trấn áp của chính quyền quân phiệt. Marquez tin rằng mỗi dân tộc ở đây nên được có cơ hội để tạo dựng lý tưởng riêng cho vận mệnh của mình thoát ra khỏi nỗi cô đơn.

Trăm Năm Cô Đơn là chuyện về bảy thế hệ của một gia đình ở tỉnh Macondo, một địa danh tưởng tượng mà Marquez tạo nên phần nào theo mô hình của khu đô thị Aracataca, quê hương ông tại Colombia. Mặc dầu câu chuyện diễn tiến theo trình tự nhưng thời gian và lịch sử không hẳn đã là sự nối tiếp tự nhiên mà được linh động hóa. Không gian Macondo, một tỉnh được thành lập trong khu rừng nhiệt đới xa xôi hẻo lánh ngay đầu tiên đã là thể hiện cho nỗi đơn độc.

Biện bạch về nỗi cô độc tận cùng trong các tác phẩm của mình, Marquez cho rằng “cô độc  là điều mà tất cả mọi con người đều phải đối mặt lúc này hay lúc khác và mỗi người có những phương cách không giống nhau để thể hiện.” Do đó theo ông, “cô độc là cảm xúc xuất hiện trong tác phẩm của rất nhiều nhà văn, thâm chí có người không ý thức được rằng mình đang thể hiện sự cô độc qua ngòi bút.”

Những tác phẩm khác của ông không chỉ dựa theo chủ đề cô đơn. Ông đã giải thích: “Qua mỗi cuốn sách, tôi cố gắng đi theo một đường khác. Không thể áp đặt ý chí trong việc chọn lựa phong cách vì nếu gượng ép sẽ bất thành.” “La Violencia” lấy khung cảnh là cuộc nội chiến giữa các đảng phái chính trị Colombia trong thập niên 1960. “Tình Yêu thời (Dịch) Thổ Tả” (1985) là bản cáo trạng đối với một xã hội đánh giá con người không bằng phẩm giá mà bằng của cải sở hữu. Xã hội như thế bóp chết những tình cảm trong sáng tốt đẹp, muốn có tình yêu và hạnh phúc thì phải giải phóng con người khỏi xã hội ấy. “Vị Đại Tá Chờ Thư” (1961) mang tính cách huyền ảo đến mức nhân vật chính cũng không được gọi tên, tạo cho người đọc ấn tượng về sự vô danh của số phận con người. Luận điểm của truyện này là một lời nhắn nhủ, rằng đời người có khi phải sống bằng hy vọng dẫu rằng niềm hy vọng ấy có khi chỉ là ảo vọng.

Marquez có tổng cộng gần 20 truyện dài và 5 tuyển tập truyện ngắn. Cho đến những năm cuối cuộc đời, khi sức khỏe đã suy kém nhiều, ông vẫn còn sáng tác: “Sống Để Kể  Chuyện” (2002) là cuốn tự truyện về cuộc đời của chính ông. Cuốn hồi ký được coi là khá chân thực, đề cập rõ hơn về sự cô đơn, những trải nghiệm và ký ức còn lắng đọng trong một con người cô độc với những niềm đau, ước mơ, khát vọng và suy tư trăn trở về ý nghĩa cuộc sống qua cuộc đời đó.

Gabriel Garcia Marquez sinh năm 1927 ở Aracataca, theo học luật khoa đại học Cartagena, Colombia, nhưng chán ngán các môn học khô khan, quyết định bỏ học để chuyển sang lãnh vực văn chương dù rằng đã phải trải qua một giai đoạn rất khó khăn về sinh kế.

Ngay khi còn đi học, từ 1948 ông viết báo cho tờ El Espectador và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên bằng 10 truyện ngắn đã nhanh chóng nổi tiếng. Sau khi bỏ học ông chuyển về Barranquilla và tham gia một nhóm các nhà báo có tinh thần tiến bộ và nhờ đó có cơ hội tiếp cận với các nhà văn sau này nổi danh như William Fulkner và Ernest Hemingway. Năm 1955 ông làm đặc phái viên cho tờ El Espectador ở Thụy Sĩ, có dịp đến Ý và qua Paris. Ở đây ông được tin tờ báo bị đình bản, nhưng không nhận vé máy bay về nước mà ở lại Paris tiếp tục viết văn. Ba năm sau, ông trở về nước, đi qua Venezuela.

Năm 1960 khi cách mạng Cuba thành công, Marquez đến Havana làm phóng viên cho hãng thông tấn nhà nước Prensa Latina và trở thành bạn của Fidel Castro. Từ 1961 đến 1965, ông không viết được tác phẩm văn học nào trong khi làm phóng viên thường trú cho Prensa Latina ở New York rồi Mexico City.

Năm 1974, sau khi nổi tiếng trên thế giới với Trăm Năm Cô Đơn (1967), Marquez sống ở Mexico, Cuba, Paris và  tham gia các hoạt đông chính trị. Từ 1981, ông hoàn toàn sống lưu vong tại Mexico sau khi chính quyền bảo thủ Colombia lên án ông bí mật cung cấp tài chính cho phong trào du kích cánh tả M-19.

Bây giờ, những gì khiến người ta luyến tiếc Marquez không chỉ ở văn chương của ông mà còn vì những đặc điểm của con người ông: thể hiện qua tính cách hài hước, dí dỏm, ấn tượng sâu sắc về nỗi cô đơn, vẻ huyền ảo nhưng rất gần thực tế. Là người có lý tưởng cách mạng và hoạt động chính trị, các tác phẩm của ông luôn phản ánh chính trị và thời cuộc, nhưng ông không bao giờ để bị trói buộc vào ý thức hệ ấy khi viết. Đối với ông, sứ mệnh của một nhà văn cách mạng là phải viết hay, để tiểu thuyết của mình trình bày ra lý tưởng nhưng không bỏ quên khả năng lôi cuốn tác động người đọc bằng hiện thực.

Cuối cùng, có thể kể ra dưới đây một vài trong số 1,038 danh ngôn của Gabriel Garcia Marquez do trang goodreads.com  sưu tập:

Ký ức của trái tim thường xóa đi cái xấu và phóng đại cái tốt / Không thuốc nào có thể chữa nếu hạnh phúc không trị nổi / Già không ở tuổi tác mà do cảm nhận / Ai chờ mong nhiều chỉ có thể nhận được ít / Ít ai xứng đáng với nước mắt của ta nhưng kẻ nào xứng đáng sẽ không làm ta khóc. (HC)

Cà phê nhân quyền sẽ kiện CA Nha Trang’

Cà phê nhân quyền sẽ kiện CA Nha Trang’

Chủ nhật, 20 tháng 4, 2014

Cà phê nhân quyền lần thứ II ở Hà Nội

Cuộc cà phê nhân quyền lần thứ II được nhóm sáng kiến tổ chức ở Hà Nội.

Các nhà hoạt động trong nhóm sáng kiến Cà phê Nhân quyền vừa được công an thả tự do ở Nha Trang hôm thứ Bảy nói với BBC họ sẽ ‘khiếu kiện’ công an ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, vì đã ‘hành hung’ và ‘bắt giữ, câu lưu’ họ trái phép.

Trao đổi với BBC hôm 20/4, các blogger Mẹ Nấm (tức Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) và Paulo Thành Nguyễn (tức Nguyễn Hồ Nhật Thành nói với BBC trong khi đang chuẩn bị tổ chức bàn tròn với chủ đề “Công ước chống Tra tấn và vấn nạn công dân chết trong đồn công an” vốn được dự định diễn ra ở một quán cà phê ở Nha Trang hôm 19/4, thì họ bị an ninh ‘hành hung’ và ‘bắt giữ’.

Các nhà hoạt động nói họ đã bị ngăn cản tiếp cận hội thảo ở quán cà phê Swing ở số 20 đường Trần Phú, phường Thọ Lộc, ở thành phố biển du lịch miền Trung Việt Nam và sau đó bị an ninh bắt buộc rời địa điểm nói trên.

“Một an ninh của thành phố yêu cầu chúng tôi giải tán, nhưng chúng tôi nói là chúng tôi không làm gì để phải giải tán, nên anh ta đã quay đi,” blogger Paulo Thành Nguyễn nói với BBC.

“Sau đó, một nhóm côn đồ đầu gấu đã tới gây sự với chúng tôi, họ vu cáo chúng tôi “đi xe ôm” không trả tiền, điều mà chúng tôi khẳng định là không có, rồi họ tiến vào hành hung chúng tôi.”

“Ở trên xe taxi họ tiếp tục đánh, đấm chúng tôi, vợ tôi bị tát, bị bịt mồm, bị bẻ tay, và khi vào tới đồn công an, người ta tiếp tục đánh đấm tôi và một thành viên nam giới tham dự sự kiện,” Paulo Thành Nguyễn”

Blogger Paulo Thành Nguyễn

Theo lời blogger này, sau khi vụ ‘lộn xộn’ diễn ra mà phía những nhà hoạt động không có động thái nào chống cự lại, một nhóm đông cảnh sát mặc sắc phục, công an giao thông và an ninh tiến vào và đẩy bốn người trong nhóm lên một xe taxi.

“Ở trên xe taxi họ tiếp tục đánh, đấm chúng tôi, vợ tôi bị tát, bị bịt mồm, bị bẻ tay, và khi vào tới đồn công an, người ta tiếp tục đánh đấm tôi và một thành viên nam giới tham dự sự kiện,” Paulo Thành Nguyễn đưa ra lời cáo buộc.

“Những côn đồ lui ra, và an ninh mặc thường phục xông vào đánh đấm chúng tôi, vợ tôi bị tát vào mặt và chị Như Quỳnh, blogger mẹ Nấm cũng bị tấn công.”

‘Sẽ tiếp tục tọa đàm’

Hôm Chủ Nhật, blogger Mẹ Nấm khẳng định với BBC đã xảy ra sự việc này như blogger Paulo Thành Nguyễn tường thuật và cho hay mặc dù bị hành hung, nhóm sáng kiến Cà phê Nhân quyền sẽ vẫn tiếp tục tổ chức các cuộc tọa đàm, trong đó có chủ đề về công an hành hung và làm tử vong thường dân trong các đồn, trụ sở cảnh sát, cơ quan công quyền.

Blogger Paolo Thành Nguyễn nói với BBC anh đã bị bất ngờ vì không ngờ sau hai lần tổ chức ‘khá suôn sẻ’ ở Sài Gòn và Hà Nội, thảo luận cà phê nhân quyền và các thành viên ban tổ chức hoặc khách mời lại bị ‘hành hung, trấn áp quyết liệt’ tại một thành phố biển vốn được nhiều du khách trong nước và quốc tế biết đến là ‘hiền hòa’.

Cuộc cà phê nhân quyền ở Sài Gòn

Cuộc cà phê nhân quyền lần đầu được tổ chức ở Sài Gòn đã không bị ngăn cản.

“Họ đẩy chúng tôi lên xe như con vật, khi vào đồn, họ tự tiện tước đoạt, lục soát các đồ đạc, tư trang của chúng tôi, từ ví, bóp, tới điện thoại, máy tính v.v…,

“Họ còn bắt chúng tôi phải cởi áo phông đang mặc ra vì cho rằng chúng tôi không có quyền mặc những chiếc áo in những dòng chữ đề nghị chấm dứt việc công an đánh và giết dân trong đồn cảnh sát.”

Cũng hôm Chủ Nhật, một nhân chứng đi theo nhóm bị bắt giữ, ông Hải, một lập trình viên tự do ở Nha Trang có mặt ở trong đồn Công an phường Lộc Thọ, số 17 Yersin, phường Vạn Thạnh, nói ông chứng kiên cả ba blogger Mẹ Nấm, Trịnh Kim Tiến và Paulo Thành Nguyễn bị đánh đập ‘thô bạo.’

‘Đánh, tát phụ nữ’

Ông Hải nói với BBC: “Ngay cả khi có các cảnh sát mặc cảnh phục ở trong đồn Công an, những người là an ninh mặc thường phục đã đánh anh Thành Nguyễn, ngay khi chị Kim Tiến xuống xe vào đồn, có người đã nhảy ra tát thẳng vào mặt chị Tiến,

“Khi ở trên xe, chị Tiến còn bị bóp cổ, bẻ quặt tay, chị Như Quỳnh cũng bị đánh đập, xô đẩy.”

Những nhà hoạt động khẳng định với BBC, từ đầu tới cuối sự việc, họ đã ‘không hề’ có bất cứ hành động nào để chống cự lại bạo hành.

“Ngay cả khi có các cảnh sát mặc cảnh phục ở trong đồn Công an, những người là an ninh mặc thường phục đã đánh anh Thành Nguyễn, có người ngay khi chị Kim Tiến xuống xe vào đồn, đã nhảy ra tát thẳng vào mặt chị Tiến”

Một nhân chứng có mặt ở Đồn Công an

Blogger Mẹ Nấm nói an ninh đã bắt buộc cô phải đưa máy vi tính cá nhân cho họ kiểm tra, và dù không có sự đồng ý của cô, an ninh tiếp tục tước máy và in từ đó ra các dữ liệu ‘phục vụ điều tra’, theo lời của nhà hoạt động này.

Chiều hôm Chủ Nhật, blogger Trịnh Kim Tiến, con gái của ông Trịnh Xuân Tùng, nạn nhân trong một vụ bị công an hành hung tới chết ở một đồn Cảnh sát ở Hà Nội vài năm về trước, nói với BBC cô đã bị ‘đánh đập, bẻ tay, bịt miệng’, ngay khi cô bày tỏ ý định muốn rời xe taxi cho con mới sinh được ‘bú mẹ’.

Blogger này cũng khẳng định lại lời cáo buộc về bạo lực của công an và an ninh là có cơ sở khi nói rằng cô đã bị đánh đập, bóp cổ, bẻ quặt tay trên xe, bị tát và đánh đập tiếp tại đồn cảnh sát.

‘Chồng che đòn cho vợ’

Blogger Paulo Thành Nguyễn nói với BBC: “Ở trong đồn, các an ninh và công an thường phục vẫn hành hung vợ tôi, và tôi đã phải lao vào để lấy thân mình che chắn cho Tiến và gánh các trận đòn của họ,

“Chúng tôi không kháng cự và chống lại, họ thực sự đã đánh đập chúng tôi rất dã man và thẳng tay, chúng tôi bị đối xử như những con vật.”

Blogger Mẹ Nấm

Blogger Mẹ Nấm (đứng) là một trong hai phụ nữ cáo buộc bị công an Nha Trang hành hung.

Nhân chứng Hải ở Nha Trang nói với BBC: “Họ đã đánh đập vợ chồng anh Paulo Thành Nguyễn, Kim Tiến rất thô bạo, là phụ nữ nhưng họ cũng không nương tay, tuy nhiên khi họ thẩm vấn thì họ lại lập biên bản ‘gây mất trật tự trị an.”

Blogger Mẹ Nấm, Thành Nguyễn và Kim Tiến cũng nói với BBC họ rất bức xúc và không ký bất cứ một giấy tờ nào được coi là biên bản vì công an sau khi hành hung nhóm bị bắt, lại lập biên bản họ về việc ‘gây rối trật tự’ mà họ không hề gây ra với nhóm ‘côn đồ giả danh xe ôm’ trước khi vào đồn, buổi sáng ngày thứ Bảy.

“Họ tra hỏi chúng tôi lý do vì sao lại chọn chủ đề thảo luận về Công ước chống Tra tấn, rồi chủ đề Công an hành hung hoặc đánh chết thường dân trong đồn cảnh sát,

“Họ đặc biệt bực mình vì chúng tôi mặc các áo phông trên phố mang dòng chữ ‘chấm dứt việc công an đánh chết thường dân’, và tôi nghĩ đây là những lý do vì sao họ ngăn cản chúng tôi tổ chức buổi Cà phê nhân quyền, cũng như bày cớ hành hung, đánh đập chúng tôi.”

‘Xuyên tạc, vu khống’

“Họ đặc biệt bực mình vì chúng tôi mặc các áo phông trên phố mang dòng chữ ‘chấm dứt việc công an đánh chết thường dân’, và tôi nghĩ đây là những lý do vì sao họ ngăn cản chúng tôi tổ chức buổi Cà phê nhân quyền, cũng như bày cớ hành hung, đánh đập chúng tôi”

Blogger Paulo Thành Nguyễn

Theo lời các nhà hoạt động, hôm Chủ Nhật, một tờ báo của chính quyền địa phương đã đăng một bài báo ‘xuyên tạc’ sự việc và vu khống cho nhóm Cà phê Nhân quyền đã vi phạm pháp luật, gây rối trật tự xã hội và đồng thời ‘lừa dối’ lôi kéo các gia đình nạn nhân tham gia ‘chống phá chính quyền’.

BBC chưa có điều kiện kiểm chứng nội dung bài báo cũng như liên hệ với chính quyền địa phương trong dịp cuối tuần.

Trong khi đó, các bloggers đưa ra lời cáo buộc với chính quyền nói với BBC họ sẽ có các hình thức từ khiếu nại tới khiếu kiện công an, an ninh và chính quyền thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hòa vì các hành vi ‘ngược đãi, hành hung’ mang tính ‘khủng bố, trấn áp’ trái phép nói trên.

Thảo luận nhân quyền lần thứ II tại Hà Nội

Blogger Paulo Thành Nguyễn (thứ hai, từ phải) tại cà phê nhân quyền lần II ở Hà Nội.

Được biết hai sự kiện Cà phê Nhân quyền lần trước của nhóm sáng kiến là thành viên của Tổ chức Mạng lưới Blogger Việt Nam đã được tổ chức hai lần ở Hà Nội trong quý đầu năm 2014.

Trong sự kiện gần nhất ở Hà Nội, cuộc thảo luận đã có sự tham dự với tư cách khách mời của các đại diện ngoại giao của một số sứ quán và đoàn ngoại giao Bắc Âu và Liên Minh Châu Âu.

Một số trí thức, nhân sỹ cũng đã tham gia sự kiện ở Hà Nội, như Giáo sư Chu Hảo, cựu Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, TS Chu Hảo, nguyên Viện trưởng Viện phản biện chính sách độc lập (IDS đã giải thể), ông Trần Tiến Đưc, nguyên Vụ trưởng Ủy ban Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình.

Ngay sau cuộc cà phê ở Hà Nội, một thành viên tham dự sự kiện đã cáo buộc với BBC anh bị các nhân viên ‘an ninh hiện diện’ trước đó tại quán cà phê đi theo và hành hung trên đường anh về nhà.

 

Các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu

Các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu

Thưa cha,

Các Tin Mừng kể nhiều cuộc hiện ra của Chúa Giêsu sau khi sống lại, mà lại kể khác nhau. Thế thì có tin được không? (Têrêsa Ngọc Nga)

Chị Ngọc Nga thân mến,

Trong Tân Ước, có những đoạn sau đây nói về việc Đức Giêsu Phục sinh hiện ra:

Mt 28,9-10: Hiện ra với các phụ nữ;

Mt 28,16-20: Hiện ra với mười một môn đệ và sai đi đến với muôn dân;

Mc 16,9-10: Hiện ra với bà Maria Mácđala, với hai người môn đệ, với Nhóm Mười Một;

Lc 24,13-32: Hện ra với hai môn đệ trên đường Emmau;

Lc 24,36-49: Hiện ra với các Tông đồ, ăn cá nướng để chứng minh là chính Người, rồi giải thích Kinh thánh và dặn dò;

Ga 20,11-18: Hiện ra với bà Maria Mácđala;

Ga 20,19-28: Hiện ra với các Tông đồ và ban quyền tha tội, hiện ra với ông Tôma và nói về đức tin;

Ga 21,1-23: Hiện ra với các môn đệ bên hồ Tibêria, và trao quyền mục tử cho ông Phêrô;

– Theo 1 Cr 15,5: Hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai;

– Theo 1 Cr 15,6:Hiện ra với hơn 500 anh em một lượt;

– Theo 1 Cr 15,7: Hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ;

– Theo 1 Cr 15,8: Hiện ra với ông Phaolô.

Nói chung, các tác giả này không kể những câu chuyện giống nhau, trừ đoạn văn của Mc 16,9-10 vừa giống với Ga 20,11-18, vừa giống với Lc 24,23-32, và Mt 28,16-20. Tuy nhiên, bản văn này tuy là đoạn văn kết Mc và được coi là Kinh Thánh, nhưng không chắc là do chính tác giả Mc viết: dường như đoạn này chỉ tóm những bản văn của các tác giả Tin Mừng khác kể về Đức Giêsu hiện ra.

Lý do của tình trạng khác nhau này là vì: Hẳn là đã xảy ra chuyện đó, và chuyện đó quá phong phú, thì mới có nhiều thông tin đa dạng như thế: không ai nói được trọn vẹn các sự cố. Nếu các tác giả muốn lừa dối, thì hẳn là các ngài đã phải viết cho thật giống nhau chứ! Đàng khác, mỗi tác giả thánh lại theo những truyền thống khác nhau và chọn lựa trong các truyền thống đó những chất liệu phù hợp với chiều hướng thần học của tác phẩm của ngài. Do đó, chính tình trạng đa dạng này lại đáng tin.

Thân ái hiệp thông với chị, để tiếp tục tôn vinh Chúa Phục Sinh và ca ngợi Thiên Chúa Cha.

Mến,

Lm PX Phan Long, ofm

Anh chị Thụ Mai gởi

Were You There When They Crucified My Lord?

Were You There When They Crucified My Lord?

httpv://www.youtube.com/watch?v=MPmGcridHQ8

Song: “Were You There When They Crucified My Lord”
Song by: Tatiana (I Thirst)-album
Movie Scenes: “The Passion of The Christ”
Directed by: Mel Gibson
20th Century Fox Film

“Were You There?”

Were you there when they crucified my Lord?
Were you there when they crucified my Lord?
Oh sometimes it causes me to tremble, tremble, tremble
Were you there when they crucified my Lord?

Were you there when they nailed Him to the tree?
Were you there when they nailed Him to the tree?
Oh sometimes it causes me to tremble, tremble, tremble
Were you there when they nailed Him to the tree?

Were you there when they laid Him in the tomb?
Were you there when they laid Him in the tomb?
Oh sometimes it causes me to tremble, tremble, tremble
Were you there when they nailed Him to the tree?

Were you there when He rose up from the grave?
Were you there when He rose up from the grave?
Oh sometimes it causes me to tremble, tremble, tremble
Were you there when He rose up from the grave?
Were you there when He rose up from the grave?

Lyrics by Randy Travis

Việt Nam ‘mất chủ quyền’ trong vụ đấu súng ở biên giới

Việt Nam ‘mất chủ quyền’ trong vụ đấu súng ở biên giới
Saturday, April 19, 2014

Nguoi-viet.com


QUẢNG NINH 19-4 (NV) –
Bảy người chết ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh tỉnh Quảng Ninh là hậu quả của một vụ vượt biên tỵ nạn chính trị bất thành của nhóm người Hồi Giáo gốc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương?

Tấm hình này trên tờ Tiền Phong được chú thích: “Bộ đội Biên phòng Việt Nam bàn giao nhóm đối tượng cho phía Trung Quốc” hiện đã bị lấy xuống. Các người phụ nữ che mặt và trang phục thường thấy của người Hồi giáo. (Hình: Tiền Phong)

Đây là nghi vấn được một số bloggers ở Việt Nam nêu ra và cũng là nhận xét của báo New York Times khi viết về vụ nổ súng xảy ra tại cửa khẩu nói trên của Việt Nam với Trung Quốc vào trưa 18 tháng Tư, 2014, gây sửng sốt dư luận.

Báo chí nhà nước tại Việt Nam đăng tải tin tức và hình ảnh nói rằng 16 người quốc tịch Trung Quốc vượt biên vào Việt Nam bất hợp pháp, gồm 10 đàn ông, 4 phụ nữ và 2 trẻ em. Phía Trung Quốc thông báo cho biên phòng Việt Nam về nhóm người này từ 5 giờ 30 phút sáng, theo tờ Thanh Niên, và họ đã bị lực lượng biên phòng Việt Nam bắt đưa về đồn, chuẩn bị thủ tục trao trả cho Trung Quốc. Tuy nhiên, TTXVN thuật lời viên chức tỉnh Quảng Ninh nói rằng lực lượng biên phòng đã thấy những người đó xâm nhập khoảng một giờ trước đó.

“Khoảng 12 giờ cùng ngày, trong khi đang chờ làm thủ tục để bàn giao cho phía Trung Quốc, bất ngờ vài người đàn ông trong nhóm trên cướp súng của một chiến sỹ biên phòng xả đạn vào lực lượng biên phòng Việt Nam, khiến 1 chiến sỹ hy sinh tại chỗ. Lập tức, lực lượng Biên phòng Việt Nam buộc phải bắn chỉ thiên nhưng các đối tượng vẫn lao vào tấn công và khống chế văn phòng làm việc tại cửa khẩu Bắc Phong Sinh.” Báo Tiền Phong tường thuật, và cho hay rằng “Mặc dù lực lượng chức năng phía Việt Nam và Trung Quốc kêu gọi, thuyết phục các đối tượng giao nộp vũ khí và đầu hàng nhưng các đối tượng vẫn quyết cố thủ, đập phá trụ sở. Lực lượng chức năng phải dùng các biện pháp nghiệp vụ tiếp cận, khống chế và bắt giữ. Các đối tượng đã chống trả lực lượng biên phòng, đồng thời tự gây sát thương, một số tự sát và nhảy lầu tự tử.”

Hệ quả của vụ đấu súng là 7 người thiệt mạng, gồm có 2 sĩ quan Biên phòng CSVN, 5 người đàn ông Trung Quốc và nhiều người bị thương, trong đó có 4  lính Biên phòng Việt Nam. Không thấy nói 5 người đàn ông Trung Quốc còn sống có bị thương không và có bị còng hay không. Báo chí Việt Nam cho hay tất cả 5 thi hài và 11 người còn sống đều được giao trả cho phía Trung Quốc ngay trong buổi chiều 18 tháng Tư.

Tuy nhiên, nhìn tấm hình của tờ Tiền Phong về trao trả người “vượt biên trái phép” cho Trung Quốc, người ta chỉ thấy có 4 phụ nữ và 2 trẻ em. Bốn người phụ nữ đều có mạng che mặt và mặc trang phục quen thuộc của người Hồi Giáo. Tất cả đều được hướng dẫn di chuyển thong thả và không bị còng. Hiện tấm hình này đã bị lấy xuống. Chỉ còn trên internet tấm hình trên báo điện tử VNExpress cảnh trao trả người cho phía Trung Quốc mà người ta chỉ nhìn thấy từ phía sau lưng các người phụ nữ.

Sau sau vụ việc xảy ra, ông Đặng Duy Hậu, phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh vội vã lên tiếng cho hay “Vụ gây mất an ninh trật tự ở khu vực cửa khẩu Bắc Phong Sinh, huyện Hải Hà, Quảng Ninh vào trưa cùng ngày không phải là vụ tấn công khủng bố mà chỉ là phản ứng manh động của các đối tượng người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam,” TTXVN tường thuật.

Không có thông tin chắc chắn, nhưng nhìn những tấm hình của hai tờ Tiền Phong và VNExpress, nhiều người tin rằng nhóm người “vượt biên trái phép” nói trên là người tìm đường tị nạn chính trị thuộc sắc tộc Uighurs (Duy Ngô Nhĩ) ở khu vực Tân Cương (Xinjiang) bị người Hán Trung Quốc cướp đất và đang tiến hành kế hoạch đồng hóa diệt chủng.

Các phụ nữ có vẻ là dân Ngô Duy Nhĩ (Uighurs), được Biên phòng CSVN vội vã trả cho Trung quốc sau vụ nổ súng, chỉ nhìn thấy từ phía sau lưng hiện còn trên báo điện tử VNExpress. (Hình: VNExpress)

Người Uighurs theo đạo Hồi hệ phái Sunny và nói ngôn ngữ giống người Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Tân Cương, những năm gần đây xảy ra rất nhiều cuộc đụng độ đẫm máu giữa người Hán nắm giữ quyền cai trị và người Uighurs, hậu quả của chính sách cai trị hà khắc của Bắc Kinh. Còn người Hán di cư tới đây cũng ra sức chèn ép, khủng bố, kỳ thị người Uighurs làm cho xung đột chủng tộc ngày càng leo thang.

Các nỗ lực vùng vẫy của người Uighurs chống áp bức, bất công bị nhà cầm quyền Bắc Kinh gọi là “khủng bố” và ra lệnh đàn áp thẳng tay. Một số người Uighurs cảnh cáo rằng các thành phần cực đoan sẽ hành động nếu như nhà cầm Trung quốc không thay đổi chính sách kìm kẹp người Uighurs.

Những biến cố gần đây khiến người Hán cảm thấy bất an. Đầu Tháng Ba vừa qua, một nhóm người cầm dao đã sát hại ít nhất 29 người và làm bị thương khoảng 150 người khác tại một trạm xe lửa ở thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam. Báo chí chính thức của Trung Quốc nói 9 người đã bị bắt và gọi đó là những phần tử “khủng bố” dù khong chính thức nói đó là người Uighurs.

Nhiều nhóm người Uighurs đông đảo đã tìm cách đi khỏi Tân Cương và Trung Quốc. Các đường bộ tới một số quốc gia Đông Nam Á là một lộ trình ngày càng có nhiều nhóm người này tìm cách vượt biên. Trong Tháng Ba vừa qua, một nhóm khoảng hơn 400 người di dân bất hợp pháp bị bắt giữ tại một đồn điền cao su của miền nam Thái Lan mà người ta tin họ là người Uighurs. Tin tức cho hay nhóm người này tìm cách đến Malaysia, xứ có nhiều người Hồi giáo, rồi từ đó tìm cách đến Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong bản thông cáo công bố hôm 26/03/2014, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch lên tiếng tố cáo Cambodia đã câu lưu rồi trục xuất qua Thái Lan một nhóm 15 người Uighurs. Đây chính là số người bị Thái Lan bắt giữ sáng Chủ nhật 23/03 tại tỉnh Sakaeo sát biên giới Cambodia.

Việc nhà chức trách Việt Nam bàn giao cho phía Trung Quốc mà không thông qua điều tra, xét xử, có thể đã bỏ qua một các nguyên tắc về ‘độc lập chủ quyền quốc gia’, ‘tôn trọng nhân quyền’ và ‘nhân đạo’, theo luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội CSVN  nói với đài BBC trong cuộc phỏng vấn.

“Trao trả một cách gấp gáp như thế, tôi nghĩ cũng là một vấn đề phải suy nghĩ, bởi vì phải coi những người đó lý do tại sao họ sang Việt Nam, lý do là gì, bởi vì trong Hiến pháp của Việt Nam cũng nói rằng những người tị nạn chính trị vì lý do này khác, đôi khi cũng có thể xem xét, chứ không phải là tất cả những người nước ngoài chạy vào Việt Nam thì mình (Việt Nam) bắt và mình trao trả liền.” Ông Thuận nói.

Bản tin Tân Hoa Xã tường thuật vắn tắt biến cố tại cửa khẩu Bắc Phong Sinh và cho hay Bộ Ngoại Giao Trung Quốc “đang kiểm chứng” sự việc. Ông Trần Quốc Thuận chỉ trích hành động giao trả người vội vã cho Trung quốc là “không đúng quy trình, không đúng thủ tục về hoạt động tư pháp. Nghĩa là “không phù hợp với quy định của luật pháp Việt Nam”.

Một số bloggers tại Việt Nam tỏ vẻ ngạc nhiên trước cách hành sử của nhà cầm quyền Việt Nam. Nhà báo Huy Đức viết trên mạng xã hội facebook: “Sẽ không có 7 người chết (trong đó có 2 bộ đội biên phòng Việt Nam) và nhiều người khác bị thương nếu những người (có thể là) Duy Ngô Nhĩ “vượt biên trái phép” đó được giữ lại điều tra và trước khi trao trả, chính quyền hai bên đàm phán các điều kiện đảm bảo an toàn cho họ”.

Ông Huy Đức viết tiếp rằng “Đành rằng, vẫn biết Hà Nội và Bắc Kinh là hai nhà nước có thể “chia sẻ” với nhau cách đối xử với những người bất đồng với chính quyền. Đành rằng, tiêu diệt một nhóm người có vũ trang thì không ai trách cứ được mình. Nhưng, nếu 16 người vượt biên (có 4 phụ nữ và 2 trẻ em) này không bị đối xử quá lạnh lùng thì người Việt đã không phải đổ máu và bàn tay người Việt đã không phải dính máu người Duy Ngô Nhĩ.” (TN)

Xin xem thêm:

‘VN muốn bị coi là đồng lõa với TQ?’ (BBC )

Rao truyền ơn Phục Sinh

Rao truyền ơn Phục Sinh

ĐGM Ngô Quang Kiệt

Thanhlinh.net

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ. Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.

Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1.    Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?

2.    Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?

3.    Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?

4.    Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

Chứng cớ phục sinh

Chứng cớ phục sinh

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (19.04.2014) – Sài Gòn – Ngôi mộ thực sự trống trơn. Chúa Giêsu phục sinh hay thi thể Ngài bị đánh cắp? Chắc chắn có điều bất thường đã xảy ra, vì những người theo Chúa Giêsu không còn khóc thương Ngài, che giấu Ngài, và bắt đầu can đảm rao giảng: CHÚA GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH.

14041901

Các nhân chứng đều nói rằng Chúa Giêsu bất ngờ hiện ra với họ trong thân xác như trước khi Ngài chết, trước tiên Ngài hiện ra với các phụ nữ. Trong thế kỷ đầu, các phụ nữ không có quyền gì, số phận lép vế lắm. Thế mà chính Chúa Giêsu lại ưu tiên hiện ra với họ trước, nghĩa là phụ nữ là những người đầu tiên thấy Chúa Giêsu phục sinh. Thật là độc đáo vô cùng. Phụ nữ cũng là những người đầu tiên phát hiện ngôi mộ trống, được nói chuyện với Ngài và đi làm chứng về Ngài.

Sau đó, các tông đồ mới được thấy Chúa Giêsu, và thấy hơn 10 lần. Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn và bảo sờ thử xem sao. Ngài còn ăn uống với họ, và có lần Ngài hiện ra với hơn 500 người đi theo Ngài.

Học giả John Warwick Montgomery cho biết: “Năm 56 sau công nguyên, tông đồ Phaolô cho biết rằng có hơn 500 người đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh và nhiều người trong số đó vẫn còn sống (1 Cr 15:6-8). Điều đó không có nghĩa là các Kitô hữu thời sơ khai có thể dựng chuyện như vậy rồi rao truyền cho những người nhẹ dạ cả tin bằng cách làm ra thân thể Chúa Giêsu” (1).

Các học giả Kinh Thánh Geisler và Turek nói: “Nếu sự phục sinh không xảy ra, tại sao tông đồ Phaolô lại dám đưa ra con số nhiều các chứng nhân như vậy? Nếu không đúng, tông đồ Phaolô sẽ mất uy tín với các tín hữu Côrintô vì ông nói dối trắng trợn” (2).

Tông đồ Phêrô nói với đám đông ở Xê-da-rê về lý do ông và các tông đồ khác đã tin Chúa Giêsu sống lại: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41).

Học giả Kinh Thánh Michael Green (người Anh) nói: “Những lần Chúa Giêsu hiện ra chính xác như bất cứ thứ gì cổ xưa… Không thể nói rằng những điều đó đã không xảy ra” (3).

Sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là một sự kiện lịch sử đã thực sự xảy ra, không là huyền thoại như nhiều người vô thần đã nói. Các cuộc nghiên cứu khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện sự chính xác mang tính lịch sử của Kinh Thánh. Ngoài các sách Phúc Âm và sách Công Vụ, còn có những chứng cớ về sự hiện hữu của Chúa Giêsu phục sinh trong các tác phẩm của Flavius Josephus, Cornelius Tacitus, Lucian Samosata, và Tòa án Tối cao Do-thái (Jewish Sanhedrin).

Đây là 7 chứng cớ về sự phục sinh cho thấy Đức Giêsu Kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết:

1. Ngôi mộ trống

Ngôi mộ trống có thể là bằng chứng hùng hồn nhất về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Có 2 lý do chính được những người không tin đưa ra: Ai đó đã lấy trộm xác Chúa Giêsu, hoặc các phụ nữ và các tông đồ đến không đúng mộ. Người Do-thái và người Rôma không có động cơ để cướp xác, còn các tông đồ quá nhát đảm và phải trốn quân lính Rôma. Các phụ nữ thấy mộ trống và không còn thấy xác Chúa Giêsu, họ biết chắc đó là mộ an táng Chúa Giêsu. Giả sử họ đến không đúng mộ, Tòa án Tối cao Do-thái có thể lấy xác ở đúng mộ để ngăn cản chuyện phục sinh. Vải liệm Chúa Giêsu được xếp gọn gàng trong mộ, kẻ trộm nào cũng vội vàng, không ai lại cẩn thận như vậy. Chính các thiên thần nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

2. Các nữ chứng nhân đạo đức

Các nữ chứng nhân là bằng chứng rằng Phúc Âm là tài liệu lịch sử chính xác. Nếu được bịa đặt, không tác giả cổ nào lại dùng phụ nữ làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Phụ nữ là giai cấp công dân thứ yếu trong thời đó, chứng cớ của họ không được xem xét ở tòa án. Nhưng Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phục sinh hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và mấy phụ nữ đạo đức khác. Ngay cả các tông đồ cũng không tin bà Ma-ri-a khi bà nói về ngôi mộ trống. Chúa Giêsu luôn tôn trọng các phụ nữ này, Ngài đề cao họ bằng cách cho họ trở thành nhân chứng đầu tiên về sự phục sinh của Ngài. Các Thánh sử đã kể lại hành động lúng túng này, vì đó là cách nó xảy ra.

3. Các tông đồ can đảm

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, các tông đồ đã trốn biệt trong các phòng khóa chặt cửa, sợ sẽ đến lượt mình bị lôi đi xử tử. Nhưng có sự thay đổi khác thường: Họ đang là những người nhát đảm trở thành những người rao giảng can trường. Bất kỳ ai biết bản chất con người thì đều hiểu rằng con người không thể thay đổi mau chóng như vậy nếu không có sự tác động lớn. Sự ảnh hưởng đó là được thấy Thầy sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn phòng còn khóa kín cửa, trên bờ biển Ga-li-lê, và trên núi Ô-liu. Sau khi thấy Thầy phục sinh, tông đồ Phêrô và các tông đồ khác đã ra khỏi phòng và đi rao giảng về Đức Kitô phục sinh, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra với mình. Họ không còn trốn tránh vì họ đã biết sự thật. Cuối cùng, họ hiểu rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và cứu mọi người thoát khỏi tội lỗi.

4. Biến đổi Giacôbê và những người khác

Cuộc sống biến đổi là một bằng chứng khác về Chúa Giêsu phục sinh. Tông đồ Gia-cô-bê, anh em họ với Chúa Giêsu, đã từng nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có là Đấng Mê-si-a hay không. Nhưng sau đó, ông đã trở thành người lãnh đạo can đảm của giáo đoàn Giê-ru-sa-lem, thậm chí còn bị ném đá chết vì đức tin. Tại sao? Kinh Thánh nói rằng vì Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với ông. Thật là cú sốc cho người anh em của ông còn sống, sau khi nghe tin này. Tông đồ Gia-cô-bê và các tông đồ khác cũng đều trở thành các nhà truyền giáo hăng say vì họ đã được thấy và chạm vào Đức Kitô phục sinh. Với các chứng nhân như vậy, Giáo hội sơ khai đã phát triển mau chóng, lan rộng từ Giê-ru-sa-lem tới Tây phương, tới Rôma và xa hơn nữa. Gần 2.000 năm qua, những người gặp được Đức Giêsu phục sinh đều thay đổi cách sống.

5. Đám đông

Đám đông hơn 500 người đã cùng nhau tận mắt thấy Chúa Giêsu phục sinh (1 Cr 15:6-8). Thánh Phaolô nói rằng đa số họ còn sống khi ông viết lá thư đó, khoảng năm 55 sau công nguyên. Chắc chắn họ nói với người khác về “sự lạ” này. Ngày nay, các tâm lý gia nói rằng không thể có số đông người như vậy mà chỉ là ảo giác cộng đồng. Các nhóm nhỏ cũng thấy Chúa Giêsu phục sinh, chẳng hạn như các tông đồ, ông Clê-ô-pa và người bạn đồng hành. Họ cùng thấy một sự việc, còn trường hợp các tông đồ, họ còn sờ vào Chúa Giêsu và xem rõ các vết thương của Chúa Giêsu, rồi tận mắt thấy Ngài ăn uống nữa. Không thể nào là ảo giác, vì sau khi Chúa Giêsu lên trời, họ mới không còn gặp lại Ngài.

6. Phaolô trở lại

Cuộc trở lại của Thánh Phaolô là bằng chứng mạnh mẽ về việc biến đổi cuộc đời mau chóng. Là Sao-lê cùa thành Tác-sô, ông là người bắt đạo dữ dội. Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với ông trên đường Đa-mát, ông trở thành nhà truyền giáo của Kitô giáo. Ông chịu 5 lần đánh bằng roi, 3 lần đánh đập, 3 lần đắm tàu, 1 lần bị nén đá, chịu nghèo nàn và bị chế nhạo. Cuối cùng, hoàng đế Nê-rô của Rôma đã chặt đầu Phaolô vì tội không chịu bỏ niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Điều gì khiến Phaolô chịu cực hình như vậy? Các Kitô hữu tin rằng cuộc trở lại của Phaolô là nhờ ông đã gặp được Đức Kitô phục sinh.

7. Người ta dám chết vì Chúa Giêsu

Vô số người đã dám thí mạng vì Chúa Giêsu, chắc chắn sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện có thật trong lịch sử. Truyền thống nói rằng có 10 tông đồ trong Nhóm Mười Hai đã tử đạo vì Đức Kitô phục sinh. Hàng trăm, hàng ngàn Kitô hữu thời sơ khai đã chịu chết tại đấu trường Rôma và tại các nhà lao tù vì họ vững tin vào Đức Kitô phục sinh. Ngày nay, người ta cũng vẫn bị bách hại vì tin vào Đức Kitô phục sinh. Rất nhiều vị tử đạo đã chết ở nhiều nơi suốt gần 2.000 năm qua, vì họ vững tin rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho họ sự sống đời đời.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Y-Jesus.com và Christianity.about.com)

______________________________

(1) John W. Montgomery, Lịch sử và Kitô giáo (Downers Grove, ILL: InterVarsity Press, 1971), 78.

(2) Norman L. Geisler và Frank Turek, Tôi Không Đủ Tin Để Là Người Vô Thần (Wheaton, IL: Crossway, 2004), 243.

(3) Michael Green, Thập Giá Trống Trơn Của Chúa Giêsu (Downers Grove, IL: InterVarsity, 1984), 97, trích dẫn trong John Ankerberg và John Weldon, Biết Sự Thật Về Sự Phục Sinh (Eugene, OR: Harvest House), 22.

Ranh giới Tử – Sinh

Ranh giới Tử – Sinh

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

14042000

VRNs (20.04.2014) – Sài Gòn – Cái gì cũng có ranh giới, biên độ, biên giới. Nhưng có một loại ranh giới “độc đáo” nhất, vừa đáng quan ngại vừa đáng quan tâm, đó là Ranh Giới TỬ – SINH, ranh giới giữa Sự Chết và Sự Sống. Rất mong manh, chỉ là một làn hơi thở!

Chẳng ai muốn nói tới sự chết, người ta coi đó là chuyện xui xẻo. Các môn đệ đã buồn, thậm chí Phêrô còn ngăn cản Thầy Giêsu, khi nghe Ngài nói về việc đi chịu chết. Không chỉ một lần mà đã vài lần Đức Giêsu Kitô tỏ cho các môn đệ biết rằng Ngài phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, họ lại nộp Ngài cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá rồi bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19).

Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, họ gọi Đức Giêsu là “tên bịp bợm”, họ xin ông Phi-la-tô cho lính canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba vì họ sợ có người đến lấy trộm xác rồi phao tin Ngài sống lại. Và họ đã niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ (Mt 24:62-66). Thế nhưng cũng chỉ là dã tràng xe cát, hoàn toàn vô ích mà thôi!

Mấy tên lính canh đã bật ngửa khi Đức Giêsu sống lại, ấy thế mà họ vẫn cứng lòng. Họ sợ sự việc này đến tai quan tổng trấn nên đã chạy chọt và dàn xếp với quan để mấy tên lính canh được vô sự. Chính mấy tên lính canh đã nhận tiền hối lộ và làm theo lời họ là phao tin đồn nhảm, cho rằng thi hài Đức Kitô bị đánh cắp, và câu chuyện này vẫn được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay (Mt 28:14-15). Thật là kinh khủng quá!

Nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật. Chúa Giêsu sống lại hay chết vĩnh viễn thì thế giới đã biết rõ. Không cần tranh cãi với những kẻ vô thần cứng lòng tin, lòng chai dạ đá, xơ cứng hơn gan bị ung thư. Thánh Phaolô đã lý giải: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ vô ích, vì đó là niềm tin hoang đường, hão huyền, vô căn cứ, và chúng ta vẫn sống trong tội lỗi” (1 Cr 15:17). Thật hạnh phúc khi đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, không uổng phí, vì Đức Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20:38).

Trình thuật St 22:1-18 nói đến “ranh giới tử – sinh”, đó là việc ông Áp-ra-ham vâng lời Chúa mà hiến tế con mình làm lễ toàn thiêu trên một ngọn núi theo lệnh Ngài truyền. Không chần chừ, không so đo, không tính toán, ông dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con trai I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ ở lại với con lừa, rồi đưa con trai đi, ông bảo rồi sẽ trở lại với họ.

I-xa-ác không thấy chiên để làm lễ toàn thiêu nên hỏi cha, ông Áp-ra-ham bảo chiên làm lễ toàn thiêu sẽ được chính Thiên Chúa lo liệu. Hai cha con cùng đi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, rồi trói I-xa-ác con ông lại và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Có điều lạ là I-xa-ác cũng ngoan ngoãn theo lệnh mà không hề phản đối, niềm tin của người con cũng lớn không kém niềm tin của người cha.

Khi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình thì sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Sứ thần nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Đúng là Thiên Chúa sẽ lo liệu như ông đã nói, và ông đặt tên cho nơi đó là “Đức Chúa sẽ liệu”. Từ đó có câu: “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu”.

Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Đức tin của ông Áp-ra-ham lớn quá: Sẵn sàng ra đi đến miền đất Chúa chỉ cho và không ngại hiến tế chính con yêu dấu của mình!

Ông tin vì ông biết địa cầu đầy ân sủng của Thiên Chúa. Ở đâu có Chúa là có bình an, có hạnh phúc. Đúng như tác giả Thánh Vịnh đã tin tưởng khi xác nhận: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. Chúa dồn đại dương về một chỗ, Người đem biển cả trữ vào kho” (Tv 33:4-7).

Quả thật, “hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp, và từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người” (Tv 33:12-13). Thiên-Chúa-của-người-sống là kho báu mà mọi người mơ ước và cầu mong: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20-22).

Ranh giới tử – sinh mong manh nhưng lại là một hành trình dài, là cuộc xuất hành đầy gian nan, và là cuộc vượt qua cam go.

Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy” (Xh 14:15-18).

Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước biển rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên. Dân Ít-ra-en đi qua, còn quân Ai-cập thất bại ê chề. Đó là cuộc giải phóng thần kỳ. Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập nên kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê.

Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Đức Chúa: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh, đã nghiền nát địch quân. Người cho dân tiến vào định cư họ trên núi gia nghiệp của Người. Lạy Chúa, chính nơi đây Người chọn làm chỗ ở, đây cũng là đền thánh tự tay Người lập nên. Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Xh 15:1-6, 17-18).

Nước rất mềm yếu nhưng cũng rất mạnh mẽ. Nước rửa sạch ô uế, nước gội mát muôn vật, làm cho mọi vật hồi sinh. Nước rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thiếu nước thì người ta mau chết hơn là thiếu đồ ăn. Nước là biểu hiện của sự sống. Nước rất kỳ diệu!

Nước tự nhiên mà còn kỳ diệu đến thế huống chi nước tâm linh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4).

Về ranh giới tử – sinh, Thánh Phaolô nói: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Thật kỳ diệu với vòng tử – sinh như vậy!

“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8). Niềm tin rất chính xác, không luống công vô ích. Thánh Phaolô nói: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).

Được thừa kế niềm tin đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi mọi người: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Tại sao? Lý do rất rạch ròi: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực. Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:16-17).

Đức Kitô chính là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Ngài đã bị giết chết nhục nhã, người ta tưởng vậy là chấm dứt lịch sử, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế trận, Ngài đã chiến thắng tử thần và đã phục sinh vinh quang. Đó chính là công trình của Chúa, công trình vô cùng kỳ diệu trước con mắt phàm nhân chúng ta.

Trình thuật Mt 28:1-10 nói về khoảnh khắc lịch sử độc nhất vô nhị trên thế gian này, lời kể ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ.

Sau ngày sa-bát, vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a cùng đi viếng mộ. Thình lình đất rung chuyển dữ dội: Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, tụi lính canh khiếp sợ và run rẩy đến nỗi chết ngất đi. Ấy thế mà họ vẫn cứng lòng tin còn hơn sáp nguội!

Thiên thần bảo các phụ nữ “đừng sợ!”, và cho biết rằn Đức Kitô đã sống lại như Ngài đã nói trước. Các bà đến mà xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau mắn về báo tin mừng và bảo các tông đồ đến Ga-li-lê để được diện kiến Thầy Giêsu. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo Tin Mừng Phục Sinh.

Có hai điều chúng ta cần học tập từ các phụ nữ này: Mau mắn loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh.

Các phụ nữ này đang trên đường đi, Đức Giêsu đón gặp họ và nói: “Chào chị em!”. Các bà khoái chí hết sức nên đua nhau tiến lại gần Ngài, ôm lấy chân Ngài và bái lạy Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với họ: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10). Các phụ nữ đó là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Phục Sinh và trở thành các nhân chứng sống đầu tiên về Chúa Giêsu Phục Sinh.

Chúng ta phải ghi nhớ và thực hành hai chữ quan trọng trong cuộc sống: ĐỪNG SỢ! Đó là mệnh lệnh đòi hỏi phải có lòng can đảm thực sự, không dễ thực hiện. vì thế mà ai cũng phải cố gắng không ngừng. Cũng như ranh giới tử – sinh, biên độ cũng rất mong manh giữa sự can đảm và sự hèn nhát. Do đó mà lúc nào chúng ta cũng phải tự nhủ như niệm thần chú: ĐỪNG SỢ!

Lạy Thiên Chúa vĩnh sinh, xin thêm đức tin và lòng can đảm cho chúng con, xin giúp chúng con mau mắn và can đảm làm chứng về sự thật, làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh trong suốt cuộc sống của chúng con, mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Nạn xì ke, số đề ở Long Xuyên

Nạn xì ke, số đề ở Long Xuyên

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-04-18

lx-305

Một địa điểm nghi vấn có ghi số đề ở Long Xuyên, An Giang.

RFA

Ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, hiện tại, nạn lô đề và xì ke đang là vấn nạn vượt ngoài khả năng kiểm soát của ngành an ninh và hậu quả của nó thì miễn bàn. Hàng ngàn gia đình lao động rơi vào cảnh thiếu đói vì ma đề và xì ke. Hình thức mua bán lô đề cũng như xì ke ở đây khá tinh vi và diễn ra một cách bùng phát.

Lô đề, những con ma nghiện

Một người lái xe ôm ở Long Xuyên, An Gang, chia sẻ: “Trong này nó vô tư chỗ đó, nó đủ thành phần, dân lao động cũng có, dân đi làm cũng có, công nhân… nó chung là đủ thành phần, mà đa số là công nhân, dân lao động, mà em thấy là dân đi làm nó cũng đánh tá lả… Mà cái vấn đề tệ nạn số đề số đuôi ở đâu cũng có, ảnh hưởng ghê gớm lắm, gia đình tan nát, mất nhà mất cửa cũng nó. Nó đâu có tha cho ai, dính vô nó thì không chết cũng bị thương.”

Theo người lái xe ôm này, hiện tượng xì ke, ma túy và lô đề ở thành phố Long Xuyên đang bùng phát dữ dội, từ nhà giàu cho đến người nghèo, từ người lái xe taxi, xe ôm, xe lôi cho đến bà giáo viên, thậm chí những người nông dân chân lấm tay bùn vốn làm ăn chất phát ở vùng ven Long Xuyên cũng đang bị ma đề ám, hầu như nhà nhà chơi đề, người người chơi đề.

Có nhiều trường hợp cầm cố nhà cửa, xe cộ để đánh đề. Như một đồng nghiệp xe ôm của người kể chuyện chẳng hạn, anh này đánh thắng liên tục hai tuần lô đề, số tiền thắng lên đến gần một chục tỉ đồng, sau đó anh mua nhà, sắm xe hơi và bắt đầu ăn chơi, sống dựa hoàn toàn vào số đề, anh bắt đầu thua nhiều hơn thắng, thi thoảng vẫn thắng lai rai và đến ba tháng sau thì thua từ thua đến thua, phải cầm căn nhà để chơi đề, sau đó không lâu, anh ta bán tháo căn nhà và bán nốt chiếc xe hơi để đánh mà vẫn thua, cuối cùng phải mua một chiếc xe gắn máy để chạy xe ôm, nhưng máu đánh đề thôi thúc mỗi chiều, anh bán nốt chiếc xe gắn máy và mua một chiếc xe lôi đạp. Và kết cục của anh ta là cầm chiếc xe lôi để đánh, vợ con chịu không nổi, bỏ đi biệt xứ.

” Vấn đề tệ nạn số đề số đuôi ở đâu cũng có, ảnh hưởng ghê gớm lắm, gia đình tan nát, mất nhà mất cửa cũng nó. Nó đâu có tha cho ai, dính vô nó thì không chết cũng bị thương.
-Người lái xe ôm ở Long Xuyên”

Chuyện anh bạn của người xe ôm vừa kể chỉ là một ví dụ không có tính điển hình trong nạn lô đề ở Long Xuyên, vẫn còn hàng loạt câu chuyện mà khi anh kể ra, người nghe chỉ biết cảm nhận sự hãi hùng đang xâm chiếm. Nhiều cô gái chấp nhận làm gái đứng đường chỉ vì nợ lô đề. Nhưng đáng sợ hơn là ở một số quán cà phê, các cô gái phục vụ cà phê luôn tìm cách gạ gẫm khách đi nhà trọ chỉ để kiếm tiền đánh đề.

Người xe ôm này nói rằng sở dĩ ông khẳng định là các cô gái luôn tìm cách gạ gẫm khách chỉ để đánh đề là vì chuyện này xãy ra một cách có chu kì và quen thuộc hằng ngày, cứ từ 3h chiều trở đi, các cô gái bắt đầu lượn lờ khắp các bàn cà phê và chỉ chờ khách nhìn liếc mình một cái thì sà đến đặt vấn đề bán dâm một cách thẳng thắng, không cần nói khéo hay nói tránh những từ ngữ tế nhị. Và nếu như khách có vẻ xiêu lòng nhưng còn ngần ngừ vì giá tiền hơi cao, các cô sẽ đưa ra giá rẻ bèo để bắt cho được khách đó. Có nhiều cô chấp nhận đi khách với giá 100 ngàn đồng gồm cả tiền nhà trọ.

Đương nhiên là với mức giá vừa nói, sau khi trả tiền phòng trọ, các cô gái sẽ còn dư được từ 20 ngàn đồng đến 30 ngàn đồng, khoản tiền vừa đủ để ăn một dĩa cơm tối. Nhưng với các cô gái thì đây là khoản tiền rất lớn mặc dù đó là khoản tiền công lao động tình dục bị ép đến mức mạt hạng nhưng nó lại là niềm hy vọng đổi đời trong cơn nghiện lô đề của các cô. Chính vì quá nghiện lô đề nên các cô gái mới chấp nhận bất kì giá mạt hạng nào để kiếm tiền kịp đánh con số mình nuôi trước giờ nhà nước quay mở thưởng xổ số.

Và hầu như chuyện người ta bán nhà, bán tài sản, bán thân để chơi đề đã quá quen thuộc ở thành phố này. Nếu ngành an ninh có vào cuộc thì cũng chỉ đủ khả năng đi lướt trên bề mặt của nó là cùng chứ không tài nào kiểm soát được một cao trào đã đến tận ngóc ngách từng nhà, vả lại, nếu cấm lô đề thì ngành xổ số kiến thiết sẽ đóng cửa bởi vì người mua xổ số kiến thiết nhiều nhất ở đây thường là người thất nghiệp, dân lô đề, dân xì ke, ma túy và một số người dư tiền và dư cả thời gian. Mà những bà vợ quan chức dư tiền, dư thời gian cũng là những con ma đề, hoặc là cầm cái, hoặc là chơi như một con thiêu thân.

Ma túy, những con thiêu thân

lx-250

Bến phà An Hòa ở Long Xuyên, An Giang về đêm. RFA PHOTO.

Một người tên Duy ở gần bến phà An Hòa, cho chúng tôi biết: “Ở Long xuyên là nó nhiều lắm, cái đường dây của nó buôn bán ma túy, sida… ở Long Xuyên nó rất nhiều, nó phức tạp hơn tỉnh khác, nó buôn bán, hoạt động đủ các kiểu. Ví dụ như những nhà buôn (thương gia) nó vẫn hoạt động cho đàn em nó bán. Có nghĩa là như tiệm vàng nó vẫn bán”.

Theo người này, vấn đề ma túy cũng phát triển tràn lan không kém gì lô đề, và giữa lô đề và ma túy có mối liên hệ khá đặc biệt, người nghiện lô đề một thời gian sẻ chuyển qua nghiện ma túy và những nhà cái lô đề đều dính dán đến chủ buôn ma túy.

Cách buôn ma túy hiện tại ở thành phố Long Xuyên diễn ra rất tinh vi, ở những đường dây lớn, dường như không thể nào đoán được hành tung của họ, riêng ở đường dây nhỏ, dạng cò con cũng đã có những chiêu trò như kẹp trong tờ tiền mua vé số, đóng vai người đi bán vé số và trao vé số cho khách, khách trả tiền, đến khi thối tiền lại, ma túy đã được kẹp trong đó. Nhưng đó chưa phải là chiêu đáng kể.

Chiêu gần đây nhất là kẹp giữa tờ tiền theo kiểu quấn thuốc pháo, chạy hai xe ngược chiều và chìa tiền ra, người kia nhận lấy, nếu có công an phát hiện truy đuổi, chỉ cần chạy xe nhanh hơn công an chừng vài giây, thời gian đủ để vừa chạy vừa mở đồng tiền trải ra cho thuốc rơi bay xuống đường và phủi sạch tờ tiền, khi bị bắt, không còn dấu vết nào.

Còn một chiêu nữa là đóng vai người đi câu cá, hẹn nhau ở một đoạn sông, đứng cách nhau chừng mươi thước rồi móc gói nilon thuốc hình chiếc phao câu vào dây cước thả xuống nước, cho nó trôi về phía người kia, người kia dùng cần câu khều nhẹ vào bờ và mang đi. Đương nhiên, cách này tưởng khó phi tang nhưng trên thực chất nó dễ phi tang nhất vì chiếc phao câu đã thiết kế sẵn sợi dây tự hủy, nghĩa là thấy động, chỉ cần giật sợi dây đó thì thuốc sẽ rơi xuống dòng nước, việc còn lại là thả cái bao xuống nước, mọi việc coi như êm xuôi!

Còn rất nhiều câu chuyện về ma túy ở Long Xuyên, và điều mà người ta dễ nhận biết ở đây là dường như số lượng thất nghiệp quá nhiều và cái thành phố từng mệnh danh giàu có bậc nhất đồng bằng sông Cửu Long vào những năm trước 1975 này, hiện tại đang có đời sống rất thấp, sự sung túc và giàu có chỉ dành cho một số nhóm nhỏ có chức quyền, tiền bạc. Đa số người dân nghèo khổ và tuyệt vọng vì không tìm thấy tương lai, không tìm thấy hy vọng đổi đời sau ngày dài, tháng dài, năm dài lao động vất vả!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Dấu vết nhục hình của người ‘tự tử” ở trụ sở Công an

Dấu vết nhục hình của người ‘tự tử” ở trụ sở Công an
Friday, April 18, 2014

Nguoi-viet.com

ĐÀ NẴNG (NV) .- “Con ơi, chính mẹ đã giết con.” Đó là lời vật vã kêu khóc của bà Lê Thị Thu, mẹ của thanh niên Đỗ Văn Bình chết tại trụ sở Công an huyện Hòa Vang với dấu hiệu bị nhục hình.

Bà mẹ nạn nhân Đỗ Văn Bình kêu khóc, mong mọi người giúp tìm công lý cho con trai bị giết chết oan ở đồn Công an huyện Hòa Vang. (Hình: FB Ha Thanh)

Bà Thu cho hay bà đã khuyên con trai đi đầu thú vì bị Công an truy nã với nghi vấn cùng nhiều người khác “hành hung, bắt giam người trái pháp luật”. Tuy nhiên, bà cho hay lý do con bà bị bắt giam là “nghe theo lời bạn bè đi đánh nhau với con trai của một cán bộ Công an huyện”.

Facebooker Ha Thanh thuật lại trên mạng xã hội như trên khi cùng với một số người tới chia buồn và an ủi bà và gia đình. FB Ha Thanh kể rằng “Công an huyện Hoà Vang, Đà Nẵng đến đưa cho gia đình em 35 triệu đồng. Gia đình không nhận thì họ vứt lại giữa bàn và đe doạ gia đình em. Mẹ em than khóc đến hết cả hơi, lạc cả giọng. Bà cứ khẩn nài: “Xin ai giúp con tôi với, ai đòi công lý cho đứa con vô tội của tôi với. Xin hãy giúp tôi!”

Các đầu ngón tay của Đỗ Văn Bình bầm tím, chứng tỏ bị tra tấn rất dã man. (Hình: Facebook Ha Thanh)

Fcaebooker Ha Thanh đưa ra một số tấm hình do gia đình cung cấp với các dấu vết bầm tím, tụ máu trên thân thể của Đỗ Văn Bình, chứng tỏ đây là các chứng cứ của tra tấn nhục hình dẫn đến chết người chứ không phải “hoen ố tử thi” khi chết vì “tự tử” như lời thượng tá  công an CSVN Trần Phước Hương lấp liếm.

Ngày 10/4/2014, bà Lê Thị Thu chở con trai là Đỗ Văn Bình, 18 tuổi, tới trụ sở Công an trình diện thay vì trốn tránh lệnh truy nã. Ngày 14/4/2014, gia đình được thông báo là Bình đã “tự tử”. Một số báo ở Việt Nam tường thuật theo lời chánh văn phòng công an Đà Nẵng là Trần Phước Hương cho hay “Chiều 14/4, khi đưa cơm, cán bộ trại phát hiện Đỗ Văn Bình (SN 1996, trú huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) treo cổ tự tử bằng dây cột màn trong phòng giam.”

Ông thượng tá Công an Hương được thuật lời: “Sau khi xảy ra sự việc, cơ quan công an, pháp y công an TP.Đà Nẵng và thân nhân phạm nhân Bình đã tiến hành các thủ tục khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và kết luận, nạn nhân chết ngạt do treo cổ tự tử, trùng khớp với nhiều biểu hiện bên ngoài.”

Không những vậy, ông này giải thích: “Tiếp tục khám nghiệm chuyên sâu và các dấu vết trên cơ thể, cơ quan công an không phát hiện dấu vết bị đánh đập hay dấu vết lạ như một số nguồn tin đã đưa. Các dấu vết tím tái là do hoen ố tử thi gây nên do nạn nhân treo cổ tự tử”.

Ngang lưng của Đỗ Văn Bình đầy những bầm của tra tấn. (Hình: Faceboo Ha Thanh)

Một tấm hình có giá trị bằng ngàn lời nói. Đối chiếu các tấm hình trên thi thể của Đỗ Văn Bình của gia đình chụp được với lời chống chế của ông thượng tá  Công an Trần Phước Hương, người ta nhìn ra ngay ông công an này đã chống chế gượng gạo lấy được, bất chấp sự thật.

Đỗ Văn Bình là nạn nhân thứ 7 chết dưới bàn tay hung ác của Công an  dù chưa hết 4 tháng đầu năm 2014. Trong số này, có 3 nạn nhân bị Công an vu cho người ta “tự tử” dù thân thể của họ đầy vết bầm tím, ứa máu vì bị tra tấn liên tục nhằm ép người ta nhận tội, kể cả tội không có.

Mông, đùi và chân của Đỗ Văn Bình từ trên xuống dưới đều bầm tím, dấu hiệu của nhục hình. (Hình: Facebook Ha Thanh)

CSVN ký kết tham gia Công Ước Quốc Tế Chống Tra Tấn từ tháng 11-2013 nhưng từ đó đến nay đã có ít nhất 10 người dân đã chết khi bị tạm giam tại các trụ sở Công an với các chứng cớ bị tra tấn nhục hình. Vu cho nạn nhân “tự tử” hay chết bệnh dù trước khi bị bắt ít giờ hay ít ngày, người ta vẫn khỏe mạnh, bình thường, là cách chối tội giết người rất quen thuộc của công an.

Tại Việt Nam, không có nền tư pháp độc lập, không có pháp y độc lập. Đảng CSVN nắm trọn mọi quyền lực từ trên xuống dưới nên người dân dù oan ức cũng không thể tìm thấy công lý ở đâu. (TN)