NƠI MẢNH ĐẤT ẤY

NƠI MẢNH ĐẤT ẤY

Tác giả: M. Hoàng T Thùy Trang

Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người gieo giống để diễn tả mầu nhiệm Nước trời. Có thể nói, từng lời trong bài dụ ngôn đã được giải thích rất rõ ràng. Dụ ngôn đề cập đến việc lắng nghe, đón nhận và thực hành Lời Chúa. Lòng người là thuở ruộng, trên đó Thiên Chúa gieo Lời của Ngài. Nếu ai vui vẻ đón nhận và chuyên chăm thực hành thì đó là người được gieo Lời trên đất tốt, chắc chắn sẽ sinh bông hạt tùy thuộc vào thái độ sống của họ: “Đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiêu sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” (Mt 13, 23)

Hằng ngày chúng ta vẫn được nghe Lời Chúa, được sống bằng lương thực Lời Ngài. Thế nhưng, chúng ta có phúc hay không là tùy thuộc vào thái độ lắng nghe, đón nhận và thực hành. Lời Chúa có trổ sinh bông hạt trong tâm hồn chúng ta, là do chúng ta có thực hành hay không. Nếu nghe chỉ để mà nghe, hiểu chỉ để hiểu và không muốn thực thi thì chẳng khác nào người được gieo trên sỏi đá: “Đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời, khi gặp gian nan hay ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay.” (Mt 13, 21) Nếu nghe Lời nhưng không thực thi Lời vì đam mê danh vọng, tiền tài… thì chẳng khác nào kẻ được gieo vào bụi gai: “Đó là kẻ nghe Lời nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quí bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì.” (Mt 13, 22)

Nói vậy, số phận hoàn toàn tùy thuộc vào sự lựa chọn thái độ sống của mỗi người hôm nay. Thế giới, hội đủ tất cả những loại người trên. Ai là người có thể đi đến đích cuối cùng và chiến thắng với phần thưởng cao quí nhất cũng hoàn toàn tùy thuộc vào hành động sống của họ hôm nay. Thiên Chúa, người chủ gieo giống tốt lành, không lựa chọn, không loại trừ bất kể mảnh đất nào. Nhưng hạt giống có được trổ sinh hay không là ở mỗi người.

Đức Giêsu đã khẳng định với các tông đồ về phần phúc mà các ông lãnh nhận được khi được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời và được chính Ngài giảng dạy: “Mắt anh em thật phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe.” (Mt 13, 16-17) Còn chúng ta ngày nay thì sao, mỗi ngày chúng ta đều được nghe Lời Chúa, được tiếp xúc, đối diện với Lời của Ngài, chúng ta là người có phúc rồi đó, nhưng có dám để cho Lời Chúa lớn lên và trổ sinh bông hạt hay không?

Vốn dĩ Lời Chúa không được lớn lên cũng chỉ tại lòng người không muốn nghe, không muốn đón nhận và từ khước thực thi.

Lạy Chúa, bao nhiêu năm qua Ngài đã nhọc nhằn vỡ đất hồn con và gieo trên ấy biết bao điều tốt lành. Thế nhưng, thái độ lắng nghe, đón nhận và lựa chọn của con đã sai, cho nên chẳng được mấy hạt giống trổ sinh bông hạt. Bao nhiêu mầm sống của tình thương và ơn cứu độ đã bị con phá hủy, làm cho hư nát. Con đã để cho bả vinh hoa phú quí, cùng những đam mê, tham vọng bóp nghẹt, có mấy hạt giống được trổ sinh, lớn dậy trong mảnh đất hồn con đâu. Chả vậy mà con cứ hoài loay hoay, lật đật với mớ bòng bong danh vọng ở đời. Xin đừng dừng lại, xin hãy ở lại nơi mảnh đất ấy, mặc dù đã rất khô cằn, chai cứng, nhưng chỉ cần giọt mưa ân sủng từ trời, chắc chắn sẽ trổ sinh, không cần biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn sẽ được trổ sinh…

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

 

“Em đến thăm anh đêm ba mươi,”

“Em đến thăm anh đêm ba mươi,”
“Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em.”

(Vũ Thành An/Nguyễn Đình Toàn – Em Đến Thăm Anh Đêm 30)

(1Cor 1: 10)

Thăm anh mà chỉ đến vào đêm 30 thôi sao? Thăm anh đêm đó, có gì vui mà sao em vẫn cứ hát? Đêm 30 “nguyệt tận” buồn chết được, sao em lại cứ đến. Đến rồi, thì cứ giữ niềm vui ta có được vào mọi buổi chứ không chỉ vào đêm 30 thôi em nhé!

Vâng. Trên đây, có thể là một trong những ý-kiến phản-hồi của người nghe nghệ-sĩ hát ý/lời nhị vị đồng tác-giả, đã từng viết. Thêm nữa, nhờ giai-điệu lạ kỳ của loại nhạc thế kỷ lại đã đưa vào với thế-giới của đám trẻ đương yêu, nên đêm 30 mới đỡ buồn! Đỡ hơn cả, là câu ca rất lạ được viết như sau:

“Tay em lạnh, để cho tình mình ấm.

Môi em mềm, cho giấc ngủ em thơm.

Sao giao thừa, xanh trong đôi mắt ngoan.

Trời sắp Tết, hay lòng mình đang Tết.”

(Vũ Thành An/Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Vâng. Sống trên đời, có nhiều thứ và nhiều sự xem ra cũng rất buồn, nhưng người người vẫn cứ cười; và đôi lúc lại cũng thấy vui. Vui có trộn lẫn nỗi buồn, khi đọc câu chuyện nhạt nhẻo hôm nào vào đêm 30 hay 31, có ý/từ như sau:

“Hôm ấy, nữ diễn-giả nọ đứng trước đám đông quần-chúng rất đa dạng, lại cứ hỏi:

-Ngày mai đây, đàn ông các anh sẽ ở đâu nếu phụ-nữ chúng tôi không có mặt trên đời này?

Diễn-giả dừng lại trong phút chốc, nhìn xuống hội-trường im phăng phắc, rồi hỏi tiếp:

-Tôi hỏi lại: hôm nay đây, đàn ông các anh sẽ ở nơi nào, nếu phụ-nữ chúng tôi không ở cạnh để phụ giúp?

Vẫn không thấy ai trả lời/trả vốn gì ráo trọi. Cuối cùng, từ cuối hội-trường có tiếng ai đó nói vọng lên:

-Thì, mấy cha nội ấy vẫn sống hạnh-phúc trong Địa đàng, chứ ở nơi nào nữa bây giờ hỡi bà cô bên chồng của tôi ơi!”

Vâng. Ý kiến của người đọc và người nghe, có thể là như thế. Còn, ý kiến của đấng bậc vị vọng thì khác, nên câu hỏi xem ra xấc láo, coi thường đám đàn ông. Quả là, nếu Giavê khi xưa không rút “khúc sườn cụt” khỏi bụng nam-nhân đầu đời, rồi tặng nữ-phụ thời ấy là Eva, e rằng nữ-lưu phận mình nay chừng cũng khá! Thôi thì, đó cũng chỉ là quan-niệm của người Do-thái ở Kinh Sách thời trước, mà thôi.

Vâng. Ngôn-ngữ đời thường nhiều lúc có hỏi/đáp, cũng vẩn vơ/ơ hờ nhiều khúc mắc. Hỏi và đáp, xem ra không mấy tôn-trọng hoặc tôn-kính ai hết. Hỏi và đáp cách an-nhiên/tự tại như Đức Phanxicô hôm ấy, lại đã kêu mời mọi người hãy có lòng tôn-trọng và tôn-kính mà tìm đến với nhau tạo bình-an, hài-hoà giữa các thế-lực kình-chống, vì mình mang danh con cái Chúa!

Và, trước một cử-toạ gồm các đấng bậc thuộc mọi thành-phần ở Trung-Đông và Do-thái, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói:

“Mọi người chúng ta, ai cũng muốn được bình-an hài-hoà trong tâm hồn. Nhiều vị còn dựng-xây hoà-bình ngày này qua tháng nọ, cả trong giao-tế lẫn hành-xử ở ngoài đời. Trong số những người này, có người đang chịu mọi khổ hình nhưng vẫn kiên-trì làm hết sức mình, hầu trở thành người kiến-tạo hoà-bình, và công-chính.

Còn người khác, đặc-biệt là những người đang chịu khó/chịu cực hầu phục-vụ lợi-ích cho tha-nhân, nay chấp-nhận trở-thành công-cụ phục-vụ có tay nghề hầu dựng-xây hoà-bình thế-giới, đặc-biệt nhờ lời nguyện-cầu của chúng ta. Dựng-xây hoà-bình thế-giới là việc cũng khó làm. Nhưng, sống mà không có sự bình-an, hài-hoà giữa người cùng sống, khác nào cứ phải chịu nỗi cơ-cực liên-tục hành-hạ con người mình. Tất cả mọi người, nam cũng như nữ, sống ở nơi này hay trên thế-giới, vẫn cầu mong ta dâng lên Chúa niềm hy-vọng cao độ, hầu tạo nền hoà-bình chân-chính cho mọi người, ở trần-gian…

Dịp thuận đã tới với mọi người, để ta sống độ-lượng và sáng-tạo trong phục-vụ lợi-ích chung cho mọi người. Hãy can đảm lên, để rồi ta có thể kiến-tạo hoà-bình dựa trên hiểu biết và tôn-trọng quyền-hạn của hai thể-chế đang sống trên cùng một lãnh-thổ hầu tồn tại. Hãy cố-gắng sống hài-hoà, bình-an ngay bên trong đường ranh phân-cách có quốc-tế công-nhận…” (xem Sheila Liaugminas, Pope Francis and Middle East Peace, MercatorNet 27/5/14)

Nói theo cung-cách của đấng bậc ở Toà (cao rất) Thánh, vẫn khích-lệ mọi người hãy sống hoà-bình trong tương-kính, thì như thế. Thế nhưng, nếu ta lại nói như nghệ-sĩ lâu nay vẫn từng hát bài “Em đến thăm anh đêm 30”, có lẽ ta sẽ nói bằng tiếng hát, như sau:

“Tháng ngày đã trôi qua.

Tình đã phôi pha.

Người khuất xa.

Chỉ còn chút hương xưa.

Rồi cũng phong ba.

Rụng cùng mùa.”

(Vũ Thành An/Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Có thể là như thế. Có lẽ là như vậy. Như thế và như vậy, tức: vẫn như nghệ-sĩ  “bình chân như vại”, lại cứ dửng-dưng hát những ý-tứ và ý-từ sầu-buồn rót vào hồn người ngay đêm 30, khi em đến thăm anh.

Hát những lời ca trên, là hát lên một điệu buồn cả vào ngày vui như Tết, ắt đó là động-thái của nghệ-sĩ/nghệ-nhân hoặc người làm nghệ-thuật, không ngại nói hoặc hát ca-từ khá sầu buồn.

Hát lời êm-ái như thế, nhưng vẫn không biết người hát có tôn-trọng nhau hay không khi làm nghệ-thuật, là vấn-đề của mọi thời hệt như lời người viết thư gửi nghệ-nhân thân thương ở báo Úc, như sau:

“Ông Tolkien thân mến,

Phải nói ngay rằng: đây là chuyện lạ ít thấy, khi tôi gọi ông chỉ mỗi tên họ, mà thôi. Có thể, bà xã ông vẫn ơi ới gọi ông vỏn vẹn chỉ mỗi tiếng mỗi tên là Ronald thôi. Nhưng, bạn bè ở Đại học Oxford mình, lại vẫn thường có khuynh-hướng gọi ông đơn giản chỉ mỗi tên là Tollers thôi, kể cũng lạ. Và, một số vị khác, lại xưng hô tên tuổi của ông đầy đủ cả tước vị, là: Giáo-sư Tolkien thế mới chết!

Vâng. Hồi tôi còn mài đũng quần ở ghế nhà trường cách nay khá lâu, bạn bè trường lớp gồm những người giống như tôi lại cứ rủ nhau đánh cá đánh cược xem ai đọc nhiều nhất cuốn “Lord of the Rings” của ông đây? Khi ấy, có cậu bé tên Hugh dám đứng lên tuyên bố: mình từng “ngốn” trọn cuốn truyện này của ông những 11 lần, thế mới sợ! Mẹ của cậu, lại vẫn thường nổi cáu mỗi khi vào phòng thấy cậu “nửa đêm gà gáy đã canh ba” thế mà cậu vẫn say mê chùm chăn kín đọc cho hết cuốn sách chỉ bằng ánh sáng của chiếc đèn pin tay cầm, mà thôi. Và, mỗi lần nhắc tên tác-giả cuốn này, cậu bé Hugh lại cứ gọi ông đây bằng tên tục vỏn vẹn chỉ mấy chữ “J.R.R. Tolkien”, thật rất ngắn. Cậu ta còn tin rằng cuốn “Chúa tể loài nhẫn” sẽ chẳng bao giờ lọt vào mắt xanh của các nhà làm phim để rồi được dàn dựng thành phim truyện, khi nào hết cho mà coi.

Hôm nay, sở dĩ tôi vội viết cho ông đôi giòng này rồi lại gọi tên họ ông là “Tolkien” không phải vì sách ông đã được dựng thành phim truyện nhiều tập rất ăn khách, giúp bọn nhỏ tha hồ mà thưởng-lãm. Đồng thời, ý-tưởng ông viết trong sách nay lại được nhiều công-ty trên thế-giới chế thành đồ chơi Lego cho mọi người; rồi còn in hình tài-tử lên áo thun cùng nhiều thứ khác, rất nổi tiếng. Những chuyện như thế, dĩ nhiên chẳng bao giờ ông bận-tâm để mắt ngó ngàng đì đến. Tôi biết, ông là người rất mực điềm đạm, chỉ thích sách vở như hồi còn ở Đại học Oxford, nhiều năm về trước. Nội,  ý-tưởng trở thành nhân-vật nổi tiếng khắp thế-giới vẫn là điều không tưởng, đối với ông. Ông lại đã từng là người có niềm tin sâu sắc, rất vững mạnh nên mới thành chuyện. Mỗi ngày trong đời, ông dậy sớm đi dự thánh-lễ vào lúc 7 giờ sáng. Cả ông lẫn bà Edith, đều là người xuất-thân từ chốn quê mùa, côi cút nên việc nguyện cầu của ông bà vẫn là phần quan-trọng trong chuyện tình trăm năm của hai người. Và, con trai lớn của ông bà, là John nay lại làm linh mục nữa, thì tôi còn gì để nói nữa đây?

Sở dĩ tôi viết cho ông những giòng này, vì năm nay ta mừng kỷ niệm 100 năm bộc-phát thế-chiến thứ nhất, tức một trong các cuộc chiến thảm-hại nhất trong lịch-sử của nhân-loại. Đây là thứ thiên-tai thật thảm-bại tạo cho thế-giới rất rối-bời của ông cũng như tôi và tất cả mọi người. Về tuổi tác, ông lại là người lẽ đáng cũng có mặt vào thời ấy. Dù không biết, ông vẫn trở-thành một phần của tiến-trình chữa-lành các vết thương cùng dị-tật ấy.

Năm 1916, thoạt bước vào độ tuổi 24, tức không lâu sau ngày ông lấy gia-đình, ông được thăng-chức trở-thành viên Trung-uý phục-vụ đội-ngũ chuyên-biệt về hoả-châu ở Lancashire. Đội-hình đặt dưới quyền ông cai-quản, đã phải “trụ” ở hậu-tuyến suốt hai tuần liền, chờ các bạn chiến-binh bị thương-tích đưa từ trận-tuyến Somme trở về để chữa chạy. Ông đã thấy khiếp-sợ, khi có người lôi chuyện đời ông ra bàn-luận. Sự việc này, càng làm cho mọi người biết thêm nhiều điều về ông, khi ông được thuyên-chuyển ra tiền-tuyến hôm 14/7/1916, hầu chứng-kiến các cảnh-tượng khó có thể diễn-tả dưới ngòi bút của người bình-thường. Theo cách nào đó, ông thật may-mắn khi lên cơn sốt ngay ở dưới hầm-trú và trở-thành phế-nhân rồi được gửi về Luân Đôn, vào những ngày sau đó.

Có câu chuyện nhỏ cũng đem lại nụ cười cho nhiều người, là: khi ông tìm cách giúp các chiến-binh người Đức một đôi chút, trong khi ông chú-tâm vào việc yêu-cầu người lính đó sửa cách phát-âm tiếng Đức quê mùa của ông. Và sau đó, ông còn thêm vào đoạn phê-bình Sam Gangee, là nhân-vật xinh xắn được lồng vào phim truyện bằng tất cả sự tôn-kính mà ông từng tạo cho người lính bình-thuờng vì họ luôn ở trong tình-trạng hỗn-loạn tâm-thức, vào lúc đó.

Ông đã bỏ ra khá nhiều giờ để ráp nối mọi truyện kể, đến độ vợ ông bị quên bẵng ở nhà lo cho 3 con nhỏ, khi ông cứ phải chiến đấu chống lại thứ quỷ ma độc-ác là chiến-tranh. Lâu nay, ông như bị cuốn hút bởi ý-tưởng phải làm sao tạo ngôn-ngữ lạ để hấp-dẫn được người đọc, thì nay khuynh-hướng ấy lại đã nuốt trọn con người của ông trong đó. Đành rằng, ngôn-ngữ bao giờ cũng cần cả chặng dài lịch-sử và cộng-đồng sinh sống, thế nên truyện The Silmarillion đã ra đời, để góp mặt với mọi người. Tôi đây, chắc chắn không là người đầu tiên nhận ra rằng cuốn “Chúa Tể Loài Nhẫn” đã đối đầu giáp mặt với cung-cách thâm-sâu hầu triệt-hạ nhân-loại mà ông từng trải-nghiệm ngay từ đầu, khi khởi sự viết lách. Đây là tác-phẩm đặt tin tưởng mạnh mẽ vào sự công-chính của Đấng Độc Nhất Vô Song. Sách lại được viết qua thị-kiến quyết tái-tạo mọi trật-tự cho con người. Đây là điều mà tôi dám gọi là: tính-chất rất Kitô.

Thế-chiến thứ nhất đã khiến gia-đình nhân-loại bị vùi dập, thật sâu. Với nhiều người, nó dẫn đưa vào chốn tuyệt-vọng cả về khả-năng sáng-tạo ngôn-ngữ, nữa. Cuối cùng thì, không hiểu làm sao ông lại có thể diễn-tả được sự hung-tàn của chiến-tranh đến độ không gì có thể chê-trách được, thế? Ông lại đầu-tư rất mạnh vào tình thương-yêu bằng việc tìm ra ngôn-từ thích-hợp cho nó. Ông chẳng bao giờ muốn có đuợc thứ gọi là “tranh tối tranh sáng” rất mờ ảo, nhưng ông đã giúp đem lại ánh-sáng chói chang cho thế giới này. Đó là điều tôi hằng tôn-trọng ông rất nhiều.

Nay kính,

Michael McGirr

(A letter to Tolkien)

Cuối cùng ra, thì tôn-trọng hay tôn-kính lẫn nhau ở trong đời, vẫn là vấn-đề quan-trọng để ta xây-dựng một thế-giới có thương yêu hết mọi người ở mọi nơi, mọi lúc. Cả, từ lúc có thế-chiến thứ nhất hay vào những “đêm 30 khi em đến thăm anh” hoặc vào ban ngày ban mặt, như lúc này.

Vâng. Lúc này là lúc này đây, khi người người ở huyện bỗng dưng trở nên vô hồn hoặc vô cảm không còn biết “tương kính như tân” nữa. Tương kính rất như tân, không chỉ vào lúc mới ở gần và ở chung đụng nhau trong mọi ngày ở đời. Mà, là những thời những khắc gần cận nhau, biết đến nhau trong cộng-đoàn tình-thương nào khác, mình vẫn sống.

Tương kính như tân, còn là tôn-trọng bất cứ thứ gì tạo niềm vui tươi, thương mến đối với mình và với người, như đấng thánh hiền-lành, từng nhủ khuyên:.

“Nhân danh Đức Giêsu Kitô,

Chúa chúng ta,

tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau

trong lời ăn tiếng nói,

và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em,

nhưng hãy sống hoà thuận,

một lòng một ý với nhau.”

(1 Corinthô 1: 10)

Tương kính như tân, còn là tôn-trọng và tương-kính nhau cả khi biết được rằng cuộc đời còn có những thứ và những sự cần tương-kính hoặc tương-trợ. Tương kính và tương-trợ, cả vào khi mình sống thực trong đời có những thứ và những sự được kể như chuyện thường tình ở đời, diễn-tả bằng thơ văn của người đời, rất như sau:

“Một tờ Giấy khai sinh
Đời bắt đầu từ đó
Khổ, vui.. rình lấp ló
Theo gót ta vào đời.
Rồi suốt bao năm trời
Miệt mài cùng sách vở
Phấn đấu cả một thời
Được mảnh bằng, ná thở!
Kế, nên chồng nên vợ
Một tờ giấy kết hôn
Từ đó xác lẫn hồn
Trói trăn vào ngục thất.
Xuôi dòng đời tất bật
Tranh đấu cùng bon chen,
Nhọc nhằn biết bao phen
Một tờ tiền ”xỏ mũi”
Phải ra lòn, vào cúi
Mới được tờ ”thăng quan”.
Muốn ngó dọc, nhìn ngang

Phải bao lần khúm núm.
Bằng khen, ôi hí hửng
Danh dự được là bao!
Chút hư vinh sóng trào
Ai vỗ tay hoài mãi.
Tuổi chiều đời bải hoải
Đến phòng mạch mới hay.
Cầm giấy bịnh trên tay
Thở dài, từ nay khổ..
Một ngày buồn, nghỉ thở
Xuất hiện tờ điếu văn

Mấy mươi năm cõi trần
Giấy vàng.. bay đầy phố.
Mấy ai bừng tỉnh ngộ
Buông những tờ giấy trên
Giá trị đời đặt lên

Khiến ta thành nô lệ.
Mắc gì mà phải thế!
Gót chân mòn ngược xuôi.
Thôi đuổi bóng tìm mồi
Liền thảnh thơi cười nụ.
Hãy sống đời lạc trú
Với hiện tại đang là.
Từng ngày từng ngày qua
Hồn thăng hoa, tỉnh thức.
Mảnh giấy nào là thực
Khi hơi thở.. chê rồi?
Tất cả là trò chơi
Bởi loài người sáng tạo
Tương đối và hư ảo
Trên kiếp đời mong manh.
Ai buông giấy không đành
Còn chạy quanh mù mịt…

Tương-kính lẫn nhau, là cùng nhau tạo nụ cười rất thảnh-thởi, để rồi cuối cùng bầy rỏ tâm-tình tỏ bày cho nhau, cả vào những đêm tối trời rất 30, khi em đến thăm anh hoặc anh đến thăm em, thăm rất nhiều người, rồi sẽ hát những lời tình-tự rất không thiếu, như bên dưới:

“Em đến thăm anh đêm ba mươi,”

“Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi

Anh nói với người phu quét đường

Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em.”

(Vũ Thành An/Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Thăm anh đêm 30 hay đêm nào cũng đặng, miễn em và anh cứ tỏ-bày tình thương như mọi ngày. Thăm anh đêm 30 hay ngày khác, vẫn cần anh và em nói với nhau những lời tương-kính-như-tân vào ngày mình mới quen biết, để sẽ sống gần/sống mãi bên nhau rất nhiều ngày, trong đời.

Cuối cùng thì, có đến thăm anh hay thăm em đêm 30 không để kể cho anh hay cho em những chuyện “buồn thế-kỷ” nhưng chuyện tâm-tình giữa hai bạn tri-kỷ từng thở than, như sau:

“Có ông bạn nọ, vốn buồn tình vào đêm 30 nguyệt tận, gần Tết, bèn đến thăm bạn hiền gần nhà mà kể lể đôi chuyện buồn cho nguôi ngoai như sau:

-Trời đất! Tết nhất đến nơi rồi, mà sao mặt mũi anh cứ bơ phờ buồn bã đến như thế?

-Chả giấu gì anh, mình đang có chuyện buồn trong gia đình, anh ạ!

-Chắc hai vợ chồng lại gấu ó cãi nhau rồi chứ gì? Gì thì gì chứ Tết nhất rồi, bỏ qua đi chứ!

-Bỏ thì cũng được. Nhưng đằng này không phải do vợ mà là do thằng con còn nhỏ mà thôi!

-Sao thế? Ai lại bỏ con bao giờ? Hình như anh chỉ có mỗi đứa con trai thôi, làm sao bỏ?

-Vâng. Đúng thế. Nhưng, lúc này nó tệ quá anh ạ. Ai đời, mới tí tuổi đầu mà đã nghiện rượu rồi ,mới chết chứ!

-Thế thì tai hại thật! Vậy bây giờ anh chị tính thế nào?

-Ấy đấy, tôi đành phải tự đi mua rượu thôi, chứ cứ nhờ nó mua là y như rằng lúc về chỉ còn chừng phân nửa… Anh tính xem tôi nên bỏ bỏ nó đi cho khuất mắt không?

-Tôi khuyên anh bỏ rượu thì được chứ đừng bỏ con. Tức: không uống nữa, thì cả bố lẫn con đều còn đó, không buồn đâu. Nghe tôi đí. Với lại ngày mai Tết nhất đừng có mà buồn rười rượi như đêm 30 nữa nhé!”

Nghe truyện, lại nhớ đến thơ, đến câu nhạc trên vần hát rằng:

“Em đến thăm anh đêm ba mươi,

Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi

Anh nói với người phu quét đường

Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em.”

(Vũ Thành An/Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Hãy hát mãi như thế, những lời ca vào đêm 30 hay 31 gì cũng được. Nhưng, chỉ hát mỗi lời vui thôi; rồi, sẽ nói với người phú quét đường đế “xin chiếc lá vang làm bằng chứng yêu em”. Bởi, những lời vui như thế, mới đáng là lời lẽ ta cần minh chứng với nhau, suốt cuộc đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mong cho mình

và cho người

câu yêu-thương tôn-trọng

và tôn-kính nhau,

suốt cuộc đời.

TÌNH NHƯ LÁ THU

TÌNH NHƯ LÁ THU

Truyện ngắn của Nguyễn Thị  Bích Nga (Westminter)

Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Nhưng với mái tóc nhuộm đen nhánh, với hàng lông mày được xâm theo hình lá liễu cong cong, với cặp môi tô son đỏ – màu của sự gợi cảm, người đối diện nghĩ rằng bà chừng bảy mươi lăm là cùng.
Vốn là nhà thời trang nổi tiếng của thành phố Sài Gòn trước đây, bà cố gắng ăn uống điều độ và tập thể dục hàng tuần để thân hình không phì nhiêu cũng không nhão nhét. Trời cũng không phụ lòng mong đợi của bà. Càng nhìn bà, người ta càng kinh ngạc, cứ tưởng thời gian đã quên đi, không hề nhớ tới sự hiện hữu của bà trên cuộc đời này.

Cách đây tám năm, chồng bà mất. Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba đúng là một bi kịch. Ban ngày bà loay hoay đi ra đi vào một mình, ban đêm bà trằn trọc không ngủ vì nhớ tiếng ho nhè nhẹ của ông, nhớ tiếng dép lẹp xẹp trên sàn gỗ, nhớ tiếng nước chảy vào ly thủy tinh mỗi khi ông rót trà… Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba, bà không khóc lóc như những phụ nữ trẻ tuổi, bà chỉ bàng hoàng trong im lặng, đôi mắt bà ráo hoảnh nhưng đôi môi bà cứ run run như muốn gọi tên ông.

Rồi những ngày tháng lạnh lùng kinh khủng đó đóng chặt lại và trở thành quá khứ sau khi bà gặp ông Luân trong một cuộc tiệc cưới cháu ngoại của người bạn. Hôm đó bà ngồi bên cạnh một người đàn ông có mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ, có giọng nói chậm rãi nhưng ấm áp, có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt tới bà khiến bà cảm thấy lạ lùng trước điều đó. Ông Luân chỉ phục vụ một mình bà, thỉnh thoảng ông gắp thức ăn để vào trong chén của bà, ông hỏi bà ngon miệng không, ông lựa những phần gỏi bắp cải không có ớt vì sợ bà cay, thậm chí ông thận trọng lột vỏ từng con tôm xú luộc rồi đưa bà ăn. Bà cảm kích nên hỏi tên ông, hỏi tuổi ông. Ông không giấu diếm, ông nói ông đã bảy mươi bảy tuổi rồi.

Bà nhìn ông cười, ánh mắt lẳng lơ:
-Bảy mươi bảy tuổi còn yêu được không nhỉ?
Ông Luân cũng nheo nheo mắt nhìn bà, cười đáp lại:
-Sao lại hỏi vậy? Cứ yêu thử đi rồi biết.

Tối hôm đó bà đi lòng vòng trong cư xá nửa tiếng đồng hồ để suy nghĩ thật chín chắn rồi quyết định gọi điện thoại cho ông. Chuông vừa reng lên một tiếng ngắn là ông mở máy trả lời liền, cứ như suốt cả buổi tối ông chỉ làm mỗi một việc là ngồi rình cái điện thoại, đợi nó reng lên là bấm nút “A-lô” ngay. Ông hỏi bà đang làm gì, bà nói bà đang đi bộ trong cư xá. Ông nói ông sẽ đến để cùng đi bộ với bà. Bà không tin lắm, nhưng chỉ cười cười. Vậy mà ông đến thật. Ông đưa cho bà một ly giấy to tướng đựng đầy bắp rang, bà chìa tay cầm lấy và trong một thoáng bà cứ ngỡ vẫn còn đang ở tuổi mười tám đôi mươi. Bà hít một hơi dài rồi ngước lên nhìn ông bằng đôi mắt có hàng trăm vì sao trời đang lấp lánh trong đó.

-Em thấy bắp rang ở đây không thơm như bắp rang ở Sài Gòn.
-Ừ, bắp rang trên con đường Hai Bà Trưng thơm mùi bơ. Anh nhớ mỗi lần đi ngang xe bắp rang bơ là phải dừng lại, mua một gói, rồi vừa đi vừa ăn vì không thể nhịn thèm nổi.
Bà cười khẽ. Giọng cười của bà dù có khàn đi nhưng nghe cũng còn quyến rũlắm.
-Có những món ăn ngày xưa em thích mê tơi, thí dụ món ốc leng xào dừa, ngày nào em cũng phải ăn một dĩa đầy mới đã, còn bây giờ mới nhìn thấy là ngao ngán liền. Em không hiểu tại sao nữa.
-Vì bây giờ mình trưởng thành hơn, mình hưởng thụ cũng nhiều hơn nên cơ thể cảm thấy không cần thêm nữa. Chỉ mới vài năm trước anh còn khoái ngồi uống bia với bạn bè, tối nào cũng phải một chai ướp lạnh mới ăn cơm được, nhưng từ sau lần anh bị ói ra mật xanh phải vào bệnh viện, nghe nhắc tới bia hay nhìn thấy chai bia là anh xanh mặt liền.

Không khí ban đêm lành lạnh nên bà đi sát vào người ông, nép vai bà bên vai ông, nhưng bà vẫn cố ý đút hai bàn tay vào trong túi áo khoác để có một lần vải ngăn cách giữa hai người. Ông Luân nhận ra điều đó. Ông tìm ngón út của bà và giữ chặt nó một lát trong tay ông. Xuyên qua lớp vải dày của chiếc áo khoác, bà vẫn cảm nhận được sự rung động nhẹ nhàng của người đàn ông có độ tuổi đã chấm tới con số bảy mươi bảy. Bà im lặng, không rụt ngón tay lại, để mặc cho trái tim đột nhiên thay đổi nhịp đập rộn ràng như pháo nổ ngày Tết. Bà cần tình yêu như như đũa có cặp, bà cần một người đàn ông bên cạnh bà như dép có đôi. Bà sẵn sàng thú nhận bên tai ông điều đó mà không cảm thấy xấu hổ.

Ông Luân có tiền hưu, có tiền con cái chu cấp, có tiền tiết kiệm trong ngân hàng nên cứ đến cuối tuần là ông dẫn bà đi ra khỏi thành phố, tận hưởng một không gian vắng lặng chỉ có hai người. Những nụ hôn hiếm hoi ông dành cho bà thật nồng nàn trên trán, trên má, nơi khóe môi. Bà cũng đáp lại cuồng nhiệt, bà ôm ghì lấy đầu ông, vừa hôn vào mép tai ông vừa vò vò mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ. Ông Luân thích thú trước tình cảm của bà, bấu bấu những ngón tay có móng hình vuông được cắt ngắn vào vai bà. Họ ngồi trên băng ghế đá âu yếm nhau mười lăm, hai mươi phút giữa khung cảnh thiên nhiên lãng mạn, tĩnh mịch và đồng lõa. Tình yêu mà họ dành cho nhau chỉ có vậy thôi, có muốn hơn nữa thì cũng không được bởi vì ở tuổi bảy mươi bảy, khả năng tình dục của ông đã hết rồi – đã chết rồi!

Hai người thuê một ngôi nhà gỗ ở bìa rừng để họ có thể lái xe đến đó bất cứ lúc nào họ muốn. Chiều cuối tuần, ông Luân ngồi bên bờ suối câu cá, bà ngồi bên cạnh nép vào ông, theo dõi từng con cá vô tư lượn lờ qua qua lại lại nhưng chẳng con cá nào tỏ vẻ thích miếng mồi trùn sống đang ngo ngoe của ông.Thỉnh thoảng bà cười tủm tỉm khi thấy ông sốt ruột thở dài vì cá không cắn câu.Bà đặt bàn tay phải của bà lên đùi ông như khích lệ, thấy vậy ông cũng đặt bàn tay trái của ông lên bàn tay bà và giữ thật lâu. Đột nhiên bà nhổm người lên chỉ xuống dòng suối, khuôn mặt bà hớn hở với giọng nói vang vang như xé toạt sự yên tĩnh của thiên nhiên:

-Kìa, cá dính câu rồi kìa anh! Giựt lên đi! Giựt lên đi!
Ông Luân dùng cả hai tay giựt chiếc cần lên cao, miệng nở nụ cười thật rộng khi nhìn thấy một con cá đang vùng vẫy dữ dội nơi đầu sợi dây. Bà mở nắp máy chụp hình ra và chụp ông vài tấm hình cùng với “chiến lợi phẩm”. Sau đó ông vụng về loay hoay gỡ con cá tội nghiệp ra khỏi chiếc lưỡi câu và nhẹ nhàng thả nó xuống nước. Con cá sung sướng quẫy mạnh cái đuôi, lướt sang chỗ khác sau khi bị một phen hoảng hốt.

Hai ông bà sống hạnh phúc với nhau được ba năm thì ông Luân tỏ ý muốn đi du lịch sang Canada để thăm con cháu. Bà vui vẻ để ông ra đi. Nhưng sau đó con cháu ông viện cớ ông đã tám mươi tuổi rồi, sức khỏe yếu kém lại bị thấp khớp nên họ không cho ông quay trở về với bà nữa. Khi nghe ông thông báo tin tức đó qua điện thoại, bà chưng hửng – nhưng đành thở dài cam chịu. Một lần nữa bà chấp nhận cảnh cô đơn, nhưng lần này sống cô đơn ở độ tuổi bảy mươi sáu, ở độ tuổi bà nhận ra mình đang già đi thật nhanh, là điều bà không thể quen thuộc nổi. Tạo hóa đã sinh ra muôn vật sống phải có đôi, có cặp, bà không thể sống trái với quy luật sinh tồn của Tạo hóa. Bà cần một người đàn ông, cho dù người đàn ông đó đang lọm thọm chống gậy ở tuổi tám mươi thì ông cũng vẫn là một người đàn ông!

Trong một buổi tiệc cưới của đứa cháu ngoại của một người bạn khác, bà tình cờ ngồi bên cạnh ông Nguyện và một lần nữa duyên số lại kết hợp hai ông bà với nhau. Tuổi tám mươi nhưng ông Nguyện còn khỏe mạnh, còn lái xe được và đi đứng thẳng thớm chứ chưa đến nổi phải vịn tường lết đi từng bước. Ông Nguyện sống một thân một mình, đám con lớn có vợ có chồng ra riêng hết chẳng thèm ngó ngàng tới cha gì, thỉnh thoảng cuối tuần bọn họ ghé vào thăm ông, hỏi han mấy câu: “Ba có mạnh giỏi không?”, “Ba có cần ăn uống gì không?”, rồi lên xe dông đi mất.

Thấy tội nghiệp ông, bà mở lời đề nghị:
-Anh dọn qua ở với em luôn đi.
Ông nhìn bà, ngỡ ngàng rồi lắc đầu:
-Cảm ơn em, nhưng anh không muốn làm phiền em đâu.
-Phiền gì mà phiền? Coi như anh với em góp gạo nấu cơm chung. Anh nấu cơm thì em rửa chén. Em quét nhà thì anh lau nhà.
Ông bóp bóp bàn tay bà, giọng nói tràn ngập cảm xúc:
-Cảm ơn em. Để anh thu xếp rồi anh sẽ trả lời em sau.

Nhưng rồi ông Nguyện giải quyết theo cách khác, ban ngày ông ở nhà bà, ban đêm ông về nhà ông, họ sẽ sống với nhau không hẳn như hai người tình mà là như hai người bạn, dù sao “tương kính như tân” vẫn hơn “thân quá hóa lờn”. Bà lắc đầu chịu thua, đành phải làm theo quyết định của ông. Nhưng rồi bà lại thấy ý kiến đó hay ho và thú vị. Buổi sáng ông lái xe đến, nhẹ tay mở cửa và bước vào trong nhà cùng với một món ăn điểm tâm cho hai người. Tính bà thích trang điểm kỹ lưỡng cho nên sau khi son phấn lượt là xong bà mới bước ra khỏi phòng ngủ để đón ông. Bà quàng tay ôm cổ ông và đi vào bếp pha cho ông một tách cà phê nóng, pha cho bà một tách sữa ca cao. Nơi bàn ăn, chỗ ngồi của ông phải là chiếc ghế đối diện với bà, ông không bao giờ muốn ngồi ở chỗ khác cho dù đó là chiếc ghế đặt bên cạnh bà.

-Tại sao kỳ cục vậy anh?
-Kỳ cục gì đâu? Tại vì anh thích vừa ăn vừa ngắm em vừa nghe em nói. Nhan sắc của em vẫn còn mượt mà và trẻ đẹp trong mắt anh. Giọng nói của em vẫn còn ngọt ngào và êm ái trong tai anh.

Bà biết ông nói thật. Người đàn ông ở lứa tuổi nào cũng có thể nói dối hoặc nói cho qua chuyện, nhưng khi đã bước qua tuổi bảy mươi, họ chỉ thích nói thật. Bởi vì nếu hôm nay họ không nói thật lòng, biết đâu ngày mai họ chẳng còn cơ hội để làm điều đó nữa.
Bà và ông Nguyện ngồi đối diện nhau, vừa nhâm nhi ăn sáng vừa rủ rỉ nói chuyện. Chuyện tuyết rơi ở New York . Chuyện hoa mộc lan nở tím trên cành.Chuyện mấy con quạ kêu ầm ĩ mỗi khi kéo nhau bay ngang qua mái nhà.Chuyện ông Bill đi lượm chai trong bồn rác để mang đi bán kiếm vài đồng. Họăn xong bữa sáng rồi mà câu chuyện vẫn chưa dứt.

Buổi trưa nếu bà làm biếng nấu nướng thì ông đi bộ tới tiệm cơm ở bên kiađường để mua hai hộp cơm mang về. Sau đó ông cầm bịch rác to tướng mang ra khỏi nhà, lững thững đi tới bồn rác ở cách nhà khoảng bốn trăm thước, vừa đi vừa hít thở cho tiêu cơm.
Buổi chiều hai ông bà rủ nhau đi lòng vòng quanh cư xá để tập thể dục. Họ bước chầm chậm trong ánh nắng chiều vàng vọt, trong sự im lặng và tĩnh mịch của buổi hoàng hôn.

-Anh có thấy lạnh không anh?
-Không, em. Anh mặc đủ ấm rồi em.
-Một lát nữa mình ăn tối với cái gì nong nóng nghen anh.
-Nếu em thích ăn mì vịt tiềm thì anh đi mua cho.
-Mì vịt tiềm của tiệm Lục Đỉnh Ký ăn được lắm đó anh.
-Ừ. Lát nữa anh đi mua về cho em.

Ông Nguyện chìu chuộng bà như thuở vẫn còn đôi mươi, còn bà thì mềm mỏng và dịu dàng như cô thiếu nữ mười tám. Họ nói chuyện thủng thẳng với nhau, không cáu kỉnh cũng chẳng giận hờn, cứ hết lòng “tương kính như tân” với nhau. Khi bà mệt thì ông đứng sau lưng bà, bóp vai, bóp lưng. Khi ông mệt thì bà đỡ ông nằm xấp xuống, xoa dầu, cạo gió cho ông. Bà nương vào ông, ông tựa vào bà, họ cần có nhau như đũa phải có cặp, dép phải có đôi, không cần biết ngày mai ngày mốt ai sẽ là người ra đi trước, ai là người khóc ai trước, ai sẽ là người tiễn đưa ai trước.

Sau bữa ăn, bà đứng trong khung cửa sổ nhìn theo ông tay cầm bịch rác to tướng, đi chầm chậm tới bồn rác. Mái tóc ông bạc trắng như cước làm trái timbà gợn lên chút xót thương. Sống với nhau hơn gần hai ngàn ngày (chỉ là ngày thôi, không hề có đêm) bà nhận được biết bao sự chăm sóc tự nguyện mà ông dành cho bà. Bữa điểm tâm sáng nóng hổi. Bữa cơm trưa nhẹ nhàng với dĩa trái cây ngọt ngọt, chua chua. Bữa ăn tối nóng sốt dưới ngọn đèn chùm màu vàng cùng với một ly rượu chát nhỏ chia đôi. Những hình ảnh ấm cúng giữa ông với bà như cuộn phim quay chậm cứ hiện về rõ mồn một trong trí óc khiến có lúc bà mỉm cười một mình khi vân vê tấm rèm vải trong tay, chờ đón ông đẩy cửa bước vào trong nhà.

Tình yêu của người già mong manh như chiếc lá úa vàng trong mùa thu. Lúc đó những chiếc lá khô quắt queo lại chỉ dính một chút xíu vào cành cây chực chờ một cơn gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng lả tả. Bà hiểu điều đó nên rất trân quý tình yêu, tình bạn của ông Nguyện dành cho bà. Đi đâu (đi shopping, đi mua sắm) bà cũng năn nỉ ông đi theo, để bà được nắm tay ông, để bà có thể làm bộ hỏi ý kiến ông về món đồ muốn mua, để bà được hưởng cảm giác bà vẫn là một nhân vật quan trọng, quan trọng nhất trong đôi mắt ông.

Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Còn ông Nguyện thì được tám mươi lăm. Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…

NGUYỄN THỊ BÍCH NGA
( Westminster )

‘Lãng tử hồi đầu’

‘Lãng tử hồi đầu’
July 06, 2014

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương


Từ năm 111 trước Công Nguyên, Việt Nam bắt đầu 1,000 năm Bắc thuộc, trong thời gian này đã có nhiều cuộc khởi nghĩa của người Việt chống lại sự thống trị của vương triều phương Bắc.

Sau khi giành độc lập, các triều đại phong kiến của Việt Nam thường có một thái độ ngoại giao là khôn khéo và mềm mỏng, duy trì bang giao với các triều đại phong kiến, và giữ chế độ triều cống để nhận được sự công nhận ngoại giao của các triều đại Trung Quốc.

Việt Nam đã giữ việc gửi sứ giả sang triều cống các hoàng đế Trung Hoa với những lễ vật, đặc sản địa phương hàng năm hoặc khi có sự thay đổi ngôi vị lãnh đạo, hay kế vị ngôi vua với mục đích để bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tâm lý là để xoa dịu một quốc gia lớn mới bị bại trận khỏi mất thể diện.

Theo các nhà sử học như Francois Joyaux, hành động triều cống chủ yếu là nghi lễ ngoại giao, không có ảnh hưởng gì đối với quyền nội trị và bang giao với các nước khác của Việt Nam. Cũng cần ghi nhận rằng càng về sau việc triều cống của các triều đình phong kiến Việt Nam đối với các triều đại phong kiến phương Bắc càng giảm dần và càng mang tính hình thức nhiều hơn. Và “triều đình Việt cần sự thụ phong Trung Hoa để được kính nể, cũng như một quốc gia tân tiến ngày nay không thể tránh khỏi sự thừa nhận quốc tế để đứng vững.”

Như vậy quan hệ giữa Trung Hoa và Việt Nam là quan hệ giữa một quốc gia nhỏ và một nước lớn, có nhẹ nhàng như trước đây thì Việt Nam cũng phải là đứa em phải biết vâng lời đàn anh. Chưa bao giờ Việt Nam được coi là chư hầu của Tàu, tệ hơn là như ngày nay Trung Quốc lớn láo coi Việt Nam là thứ con cái mà là thứ con cái hư đốn và Trung Hoa là phụ mẫu.

Trung Quốc vẫn thường kể công là đã viện trợ cho Cộng Sản Bắc Việt từ năm 1955-1975 hơn 1 triệu 5 tấn lương thực, hậu cần và trang bị kỹ thuật, hơn 4 triệu khẩu súng đủ loại từ súng trường cho tới tên lửa, nhiều tàu chiến, xe tăng. CSVN là kẻ chịu ơn Trung Cộng, nhưng lại vô ơn, nên Trung Cộng đã cất quân hỏi tội Việt Nam, và “cho một bài học” như năm 1979. Ðối đáp với đại ân nhân, để cân bằng số lương thực, súng đạn này, Bắc Việt cho rằng mình đã đóng góp lại bằng xương máu của dân Việt, như vậy không ai phải mang ơn ai, như các nhà lãnh đạo CSVN đã tuyên bố, “Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc, tiền bạc, vật chất nào trả nổi sinh mạng của khoảng 3-5 triệu người?”

Cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 sau khi Trung Cộng bất bình vì Việt Nam kéo quân sang Kampuchea, được phía Việt Nam gọi là “chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” hay “cuộc chiến chống bè lũ bành trướng phương Bắc,” trong khi Trung Cộng gọi là “chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam.”

Mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng, bất đồng về cuộc chiến Ðông Dương từ lâu đã biến hai nước bạn thành thù.

Từ năm 1973, lãnh đạo Trung Cộng đã có lập trường: “Bề ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta.” Dưới con mắt Bắc Kinh, Việt Nam vẫn là kẻ “hắc tâm,” “vô ơn,” “ngạo ngược.” Quân Việt Nam có mặt ở Lào, Kampuchea đã làm cho Trung Quốc lo ngại về một “tiểu bá quyền” Việt Nam và thâm tâm Bắc Kinh luôn luôn “dạy cho Việt Nam một bài học.” Mối quan hệ xem ra có vẻ tốt đẹp sau này là một mối quan hệ “bằng mặt mà không bằng lòng” xem ra vẫn âm ỉ thù hận. Theo Tiến Sĩ Lý Tiểu Binh của Ðại Học Central Oklahoma cho VOA Việt Ngữ (tháng 2, 2012) hay, có khả năng Bắc Kinh lại muốn dạy cho Việt Nam một bài học mới nữa.

Tương quan giữa Trung Cộng và Việt Cộng, như vậy chưa bao giờ là tương quan giữa cha con hay chủ tớ, như Trung Cộng vừa ngang ngược, trịch thượng lên tiếng, coi Việt Cộng như con cái, mà lại là đứa con “ngỗ nghịch,” mà người cha, phải xử lý nó đúng với trách nhiệm của mình! Còn những đứa con cũng phải biết thân phận mình đang ở vị thế nào! “Trung Quốc dụng tâm lương khổ, phụng khuyến Việt Nam lãng tử hồi đầu”(dịch: Trung Quốc phải dùng tâm trạng đau khổ kêu gọi đứa con hoang ngỗ ngược Việt Nam sớm hối cải trở về).

Trung Cộng không muốn ai can thiệp vào chuyện “nội bộ” của Việt Nam và Tàu vì đây là chuyện trong nhà, “xử lý nội bộ” hay “đóng cửa dạy nhau,” hay tệ hơn nữa là “đóng cửa dạy con.” Ðất nước Việt Nam chẳng qua chỉ là khu vườn sau của Trung Cộng và chính phủ Việt Nam là “đứa con hỗn xược!” (Một nhà ngoại giao Á Châu ở Hà Nội nói với báo Der Spiegel (”Tấm Gương”): “Bắc Kinh bực tức những đứa trẻ con hỗn xược trong ngôi vườn ở phía Nam của Trung Quốc.”) Như vậy với những khẩu hiệu ngoại giao, vuốt ve, “16 chữ vàng” trong thời gian trước, đã được Trung Cộng vứt vào hố xí, mà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn cứ phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” trong một thế yếu vì đã quá lệ thuộc, một hai coi Trung Cộng là “người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn đời ở kiếp với nhau…” Trong thời điểm này mà Nguyễn Tấn Dũng còn “cúc cung:”- “ Việt Nam lúc nào cũng biết ơn sự hỗ trợ và giúp đỡ lớn từ Trung Quốc!”

Hèn mạt đến thế sao!

Cách nói xách mé của Trung Cộng bây giờ nghe ra không khác gì lời nói xấc láo của Tôn Nữ Thị Ninh, đối với quần chúng. Thị nguyên là Ðại Sứ Ðặc Mệnh Toàn Quyền của Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu (EU), phó chủ tịch Ủy Ban Ðối Ngoại của Quốc Hội Ba Ðình, ủy viên Trung Ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, đã từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia Hoa Kỳ hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, rằng, “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.”

Thưa bà phó chủ tịch, nếu nay mai Ðại Sứ Trung Cộng tại Liên Hiệp Quốc mượn tạm “danh ngôn” của bà để phát biểu, khi có ai đó chất vấn về cuộc xung đột Việt Trung vừa qua, thì bản thân bà có nghe lọt lỗ tai không? Cũng quan hệ theo lối này, thì những anh hàng xóm như ASEAN, Nhật Bản, Phillippines, Mỹ và ngay cả Tòa Án Quốc Tế “đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình cha con chúng tôi.”

Trung Cộng càng ngày càng lấn lướt, thâm độc, dùng tất cả “mưu ma chước quỷ” để “chơi” Việt Nam “làm cho cho mệt cho mê, làm cho đau đớn ê chề cho coi!”

Không những một, mà Trung Cộng đem tới Biển Ðông bốn giàn khoan! Rồi sao? – Việt Nam đang chờ một “thời điểm thích hợp” để kiện Trung Cộng ra Tòa Án Quốc Tế! Lời tuyên bố “hùng hổ” này chắc làm Bắc Kinh sợ “vãi đái!”

Việt Nam đang ở trong thế không biết kêu “mạ” nào, có một mụ mạ, ông cha thì đã cho mình là đứa con hỗn xược, cần dạy dỗ và cứ lăm le đòi cho roi vọt thì còn trong cậy đến ai bây giờ!

Lại nói chuyện ‘đi và về’

Lại nói chuyện ‘đi và về’

May 11, 2014

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

“…thứ nhất tôi không thích chính trị,
thứ hai là tôi không có dính tới chính trị.
Cuộc đời tôi chỉ có hát, hát và hát mà thôi!”
(Phát biểu của một danh ca tị nạn cộng sản tại hải ngoại)

Tháng Chín, 2012, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn CSVN ký giấy phép đồng ý cho ca sĩ Khánh Ly về Việt Nam hát, theo đó, Khánh Ly sẽ có mặt trong bốn chương trình do Công Ty Giải Trí Ðồng Dao tổ chức tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Ðà Nẵng và Sài Gòn. Dư luận hải ngoại đã lên tiếng về chuyện về hay không về, thương và ghét, nhưng rồi như chơi “trò ú tim,” Khánh Ly không về, nhưng không hề nói lý do, trong đó có phải một phần phải chăng từ nguồn dư luận từ hải ngoại tỏ ra không đồng tình với chuyện về của cô.


Ca sĩ Khánh Ly. (Hình: Facebook)

Nhưng năm nay, Khánh Ly đã thực sự về đến Việt Nam và “hát cho đồng bào mình nghe” như cách nói của ca sĩ Lệ Thu trong một cuộc phỏng vấn của BBC hồi Tháng Giêng, 2013.

Bênh vực cho bạn “đồng nghiệp” Khánh Ly, Lệ Thu nói: “Tôi có thể hát được ở Úc, Pháp, Anh, Ðan Mạch thì tại sao tôi không hát được trên quê hương tôi?” Và Lệ Thu cũng tỏ thái độ rõ ràng hơn: “Từ khi bắt đầu hát cho tới giờ, thứ nhất là tôi không thích chính trị, thứ hai là tôi không có dính tới chính trị. Cuộc đời tôi chỉ có hát, hát và hát mà thôi!”

Tôi nghĩ, khác với Lệ Thu, Khánh Ly chưa bao giờ phát biểu theo lối này. Cô có thái độ chính trị rõ ràng, đã buồn vui theo vận nước nổi trôi, với những ngày “nội chiến,” với những đêm “chôn dầu vượt biển,” thiết tha với “Sài Gòn ơi vĩnh biệt!” với “Ai về xứ Việt,” và cô đã mặc chiếc áo dài vàng quốc kỳ Việt Nam trên sân khấu hải ngoại! Cô cũng là người đã từng nói: “Ði thì cùng đi, về thì cũng cùng về!” Hoặc như là: “Tôi chỉ về khi không còn chế độ cộng sản nữa mà thôi!”

Cũng như chúng ta biết trong một cuộc phỏng vấn của tuần báo Việt Weekly trước đây, ông Nguyễn Hoàng Ðoan, chồng của Khánh Ly, trả lời về nguồn tin “Khánh Ly được trả cát xê $2 triệu để mời cô về hát,” ông Ðoan đã khẳng định rằng: “Chị không thể nhận lời là vì, trong 30 năm nay, khán giả hải ngoại là người đã nuôi sống gia đình anh chị, để anh chị có cơ hội nuôi các con ăn học đâu ra đó. Anh chị không thể nào quay lưng lại, nhổ nước bọt vào những người quý mến mình, cưu mang mình…” và “… chị không thể phản bội lại những người hải ngoại, dù số lượng khán giả hải ngoại rất là nhỏ so với trong nước, nhưng họ chính là người đã từng nuôi nấng tiếng hát của chị trong 30 năm nay.”

Nhưng bây giờ Khánh Ly cũng có thể bắt đầu nói như Lệ Thu và còn tệ hơn thế nữa. Theo báo Giáo Dục Việt Nam ở trong nước, thì Khánh Ly đã có nhiều phát biểu hoàn toàn trái ngược và phản bội lại những gì cô đã nói, đấm ngực mình xưng tội “lỗi tại tôi mọi đàng.”

“Tôi rất hối hận, tôi muốn trong nước quên đi những lỗi lầm quá khứ của tôi. Tôi chỉ muốn về thăm quê hương như một người bình thường.”

Khi được hỏi chuyện Khánh Ly tham gia vào các chương trình ca nhạc kháng chiến thời Hoàng Cơ Minh, thì cô nói: “Tôi tham gia vì ham vui, vì có tiền, chứ chẳng bao giờ tin vào Hoàng Cơ Minh cả,” và: “Dưới sức ép của các phe nhóm phản động, tôi phải hát cho các chương trình của họ. Nếu không sẽ bị coi là không xác định lập trường.” (Báo Giáo Dục Việt Nam, ngày 7 Tháng Tám, 2012)

Và ai bắt Khánh Ly phải nói nặng lời, “vỗ mặt” với những người chưa muốn “về” như cô: “Tôi hy vọng là không phải ước mơ chỉ của riêng tôi mà là ước mơ chung của tất cả những người được gọi là người…”

Tội nghiệp cho Khánh Ly, đã năn nỉ, “hối hận, muốn trong nước quên đi những lỗi lầm quá khứ” nhưng rõ ràng là Khánh Ly không biết thân phận mình, may ra cũng chỉ hát được ở Hà Nội, còn Huế và Sài Gòn thì xin hẹn kiếp khác! Như vậy thì cũng chưa là “bằng chứng hùng hồn của chính sách đại đoàn kết dân tộc,” như lời nói phấn khởi của Phạm Duy đâu!

Ðộng lực nào đã làm cho Khánh Ly thay đổi, quay vòng 180 độ như vậy, nó cũng giống thái độ của Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ về nước, cũng tuyên bố quá lời, tỏ ra hối hận về những điều họ đã nói đã làm trong quá khứ, tệ hơn nữa, là hết lời lên án cộng đồng tị nạn đã nuôi sống họ một thời gian dài bằng cả tinh thần lẫn vật chất.

Nếu chúng ta đã từng suy nghĩ: “Phạm Duy là thế đó!” thì cũng đừng nên ngạc nhiên với con người Khánh Ly. Về phía chính quyền Việt Nam việc này, việc Khánh Ly về, đương nhiên là có lợi cho họ.

Vì tiền thì ai cũng cần, vì nhu cầu đứng trên sân khấu với một số lượng khán giả lớn lao thì người nghệ sĩ nào cũng mơ ước, có thể một lần rồi thôi, nhưng như thế cũng làm cho người nghệ sĩ thỏa mãn ít nhất là một lúc nào đó ở cuối đời khi nhan sắc và giọng hát đã đi vào những ngày cuối đời. Ngay cả những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã một thời mặc áo lính cũng về nước giới thiệu sách, “giao lưu văn hóa” thì còn trách gì ai! Cũng không thể nói rằng: “Tôi đã ra mắt sách ở Sydney, đọc thơ ở Paris, vì sao tôi không thể làm chuyện ấy ở Hà Nội?”

Nhưng liệu Khánh Ly có cần phải nói những lời hối tiếc và than thở, vì sự thật ở hải ngoại này, ngoài sự hấp dẫn của đồng đô la màu lục, không có “sức ép của các phe nhóm phản động nào” bắt Khánh Ly phải lên sân khấu như lời tuyên bố của cô?

Khánh Ly cứ về, nhưng ai bắt Khánh Ly phải lên giọng kết án nơi chốn mà cô đã dung thân gần 40 năm qua. Không như Phạm Duy về luôn Việt Nam, cô còn có con đường trở lại nơi đây, mà chắc chắn không để nương mình nơi tu viện.

Trước Khánh Ly thì Tuấn Ngọc, Lệ Thu, Khánh Hà, Thanh Tuyền, Ý Lan, Thái Châu, Sơn Tuyền, Ðức Huy, Giao Linh, Phương Dung, Chế Linh…(danh sách còn dài) đã về hát trong nước. Ca hát cũng là một cái nghề kiếm sống! Những Chế Linh, Sơn Tuyền thì không nói làm gì, ngay cả Lệ Thu, dư luận hải ngoại cũng không hề quan tâm, nhưng với Khánh Ly thì lại khác. Cô đã có chỗ đứng trong lòng người hâm mộ qua một thời gian dài, từ trong nước ra đến hải ngoại. Phải chăng “thương nhau lắm thì cắn nhau đau,” chì chiết lắm cũng vì đã quá thương mến, đã là thần tượng thì phải giữ hình ảnh thần tượng trong lòng những người hâm mộ.

Chỉ có một điều tích cực là dù sao thì Khánh Ly và những ca sĩ “trở về xứ Việt” không phải để hát “Dưới bóng cây Kơ-Nia,” “Tiếng chày trên sóc Bam Bo,” hay “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” mà là những bài hát của một thời thịnh trị, hạnh phúc miền Nam, mà có thể ngày trước miền Bắc chỉ được nghe lén, và người miền Nam đã thương đã nhớ từ ngày Sài Gòn thất thủ. Ðó là những thứ mà khán giả trong nước đang chờ đợi, kể cả những viên chức chính quyền cộng sản như thứ trưởng Văn Hóa Vương Duy Miên. Nỗi khát khao đó được đánh giá trên những chiếc vé vào cửa nghe Khánh Ly hát, đắt hơn nghìn lần bữa cơm của những đứa trẻ mò cua bắt ốc trên cánh đồng Việt Nam!

Tôi chỉ tiếc trong lần về Việt Nam này, trong lần viếng mộ Trịnh Cộng Sơn, những việc như Khánh Ly rót rượu Cognac lên thân tượng, tạo dáng để phóng viên Ngoisao.vn chụp ảnh đưa lên Internet mang đầy kịch tích, không hề có một mảy may xúc động, tình cảm. Gia đình Trịnh Công Sơn cho biết, lần này có nghe chuyện khánh Ly về nhưng không được thăm viếng cũng như không hề liên lạc.

Ðúng là “búa rìu dư luận,” trong nước chê Khánh Ly là “Danh ca về nước vì… tiền” (Tiền Phong Online), “Ca sĩ Khánh Ly lại… nhúng chàm” (Việt Báo Online), “Sự tráo trở của Khánh Ly” (GDVN), hải ngoại thì lên án Khánh Ly là “phản bội.”

Có lẽ Khánh Ly suy nghĩ đã dám sống thật cho mình, bước qua dư luận, chỉ tiếc là trước sau không như một. Thà cách đây mươi năm cô đã nói thẳng như Lệ Thu nói hôm nay “thứ nhất tôi không thích chính trị, thứ hai là tôi không có dính tới chính trị. Cuộc đời tôi chỉ có hát, hát và hát mà thôi!”

Ngày xưa Ðỗ Mục than thở:

“Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng Hậu Ðình Hoa!”

Bên kia sông thì quá gần để tiếng hát còn vẳng lại, xa nửa vòng bên kia trái đất thì ai còn nghe. Thôi thì cứ “Hát nữa đi em!”

 

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Nguyễn Chính Kết (Danlambao)“…Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo…”

Chuyện “thoát Trung” là điều mà đảng CSVN cần thiết phải làm, có trách nhiệm phải làm và có thể làm được để đất nước thoát khỏi hiểm họa Bắc thuộc lần thứ năm đang có nguy cơ rất lớn trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cho tới nay, nhà cầm quyền CSVN chưa hề tỏ một dấu hiệu nào đáng tin tưởng chứng tỏ thiện chí thật sự muốn “thoát Trung” để cứu nguy đất nước cả.

Hiện nay, qua việc bỏ tù những người chống Trung Cộng xâm lược như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Bùi Minh Hằng, Phương Uyên, Nguyên Kha, v.v… và qua việc đàn áp mạnh tay những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, ta thấy rõ ràng rằng những người dân yêu nước, muốn bảo vệ lãnh thổ lãnh hải, chống Trung Cộng xâm lược… đều không chỉ bị Trung cộng mà ngay cả CSVN coi như kẻ thù cần phải tiêu diệt.

Hành động của Trung cộng xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt Nam, đặt nhiều giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, rõ ràng là hành động xâm lược Việt Nam cách nghiêm trọng, thế mà CSVN không hề có một hành động nào mạnh mẽ và hữu hiệu ngăn cản hành động xâm lược đó cả. Chính vì thế, hành động xâm lược của Trung cộng có điều kiện để càng ngày càng leo thang. Qua thái độ của CSVN đối với Trung Cộng và đối với người dân yêu nước, ta có thể đoán ngay được rằng CSVN vẫn sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, tiếp tay với Trung cộng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam.

Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, ắt hẳn đất nước Việt sẽ không thoát khỏi tình trạng bị Trung Cộng thôn tính. Đừng chờ khi Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Trung cộng rồi, chúng ta mới dám xác định những điều vừa kể.

Ý thức được nguy cơ ấy, chẳng lẽ dân Việt lại phó thác số phận dân tộc mình cho đảng CSVN quyết định ra sao cũng được? Chẳng lẽ cả một dân tộc có lịch sử chống Tàu rất anh hùng lại phó mặc để CSVN dâng đất nước cho Tàu? Chẳng lẽ chúng ta lại sẵn sàng cúi đầu chấp nhận làm thân phận người dân thuộc địa của Trung cộng?

Trong hoàn cảnh này, người dân Việt Nam nếu không tự cứu mình thì chẳng ai có thể cứu mình được. Toàn dân chúng ta phải dành lại quyền quyết định số phận của mình chứ không thể phó thác quyền ấy cho đảng CSVN, vốn đã từng nhiều lần bán đất bán biển của tổ tiên cho kẻ thù dân tộc. Vì thế, vấn đề trước mắt của người dân Việt trong và ngoài nước hiện nay không phải là chuyện “thoát Trung”, mà là “thoát Cộng”. Nghĩa là phải thoát khỏi ách thống trị của chế độ CSVN, không để cho CSVN đè đầu cưỡi cổ và toàn quyền định đoạt số phận cho cả dân tộc nữa. Một khi đã “thoát Cộng” thì việc “thoát Trung” cũng trở nên rất dễ dàng.

Đối với nhà cầm quyền CSVN, “thoát Trung” vốn chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề này là CSVN có chấp nhận từ bỏ tham vọng muốn “muôn đời trường trị” trên dân tộc Việt Nam hay không, có sẵn sàng từ bỏ quyết tâm bám lấy quyền lực để cưỡi cổ đè đầu người dân Việt Nam hay không, có thật sự từ bỏ ý định làm công cụ cho tham vọng bành trướng của Trung Cộng hay không. Nếu không, việc “thoát Trung” chỉ là ảo tưởng!

Tương tự như vậy đối với người dân Việt Nam, “thoát Cộng” cũng chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề là người dân Việt có thoát được nỗi sợ hãi mà chế độ CSVN đã gieo vào lòng mỗi người dân từ nhiều thập niên qua hay không. Nếu không, việc “thoát Cộng” cũng chỉ là ảo tưởng! Nỗi sợ hãi này đã trở thành “cố hữu”, đã ngấm vào mạch máu của từng người dân Việt; vì ngay từ khi cướp được chính quyền năm 1945, CSVN đã áp dụng ngay chính sách khủng bố để giết hại, bỏ tù, xách nhiễu, đe dọa bất kỳ người dân nào dám nói hay dám làm điều gì bất lợi cho tham vọng “muôn đời trường trị” của họ. Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình. Nỗi sợ hãi đối với sự khủng bố của CSVN vẫn luôn luôn đè nặng trên tâm thức của rất nhiều người Việt, kể cả trong nước lẫn hải ngoại, khiến họ không dám làm những gì mà lương tâm, lòng yêu nước hay sự hợp lý đòi hỏi. Đây là thành công rất lớn của cộng sản, nhờ vậy mà chế độ CSVN vẫn tồn tại suốt gần 70 năm qua, dù đảng này từ rất lâu đã trở nên bất xứng trong việc lãnh đạo đất nước, dù đảng này đã làm đất nước tụt hậu hàng trăm năm so với những nước chung quanh, dù dân chúng từ lâu rất căm phẫn trước những hành vi vô cùng tàn bạo của đảng này đối với người dân…

Đừng nói gì đến nỗi sợ của người dân trong nước là những người đang trực tiếp sống dưới sự cai trị hà khắc của CSVN, mà ngay cả người Việt ở hải ngoại, dù sống trong những đất nước tự do, vẫn có rất nhiều người bị nỗi sợ ấy ám ảnh. Thật vậy, nhiều người ở hải ngoại không dám nói gì đụng chạm đến chế độ cộng sản dù điều nói đó là sự thật hay là điều cần thiết phải nói. Hoặc họ không dám công khai đi biểu tình để lên tiếng thay cho người dân trong nước đang bị CSVN bức hại cách bất công và bị bịt miệng không nói lên được nỗi uất ức của mình.

Ở những đất nước tự do như thế, tại sao họ lại sợ CSVN vốn cách xa có khi tới nửa vòng trái đất? họ sợ những gì? − Thưa: họ sợ không được toà đại sứ hay lãnh sự CSVN tại đất nước họ đang sống cấp giấy phép cho họ về Việt Nam; họ sợ khi về thăm quê hương sẽ bị công an CSVN mời làm việc, gây phiền nhiễu cho họ, vân vân và vân vân. Nếu người dân của một đất nước cứ chấp nhận “cúi đầu”, “khom lưng” như vậy, thì dân tộc ấy có bị những chế độ bất lương cưỡi lên đầu lên cổ mình hẳn nhiên không có gì là lạ?!

Nỗi sợ bị CSVN khủng bố khiến rất nhiều người dân không dám phản đối những tội ác của các cán bộ CSVN. Ngay cả những vị rao giảng những tôn giáo có chủ trương chống ác khuyến thiện, cũng vì sợ mà đành phải chấp nhận cái nguỵ biện này: “Từ bản chất, tôn giáo nào cũng có sứ mạng chống ác và khuyến thiện; tuy nhiên chống lại những tội ác do ai làm thì cũng đều tốt, đều nên làm và phải làm; nhưng chống lại tội ác do CSVN gây nên thì không được phép, vì chống ác trong trường hợp này là làm chính trị, mà tôn giáo thì không làm chính trị!” Nhiều vị hùng hồn rao giảng chủ trương “vô úy” hay khuyến khích hành vi “vô úy thí” của Phật, hay cổ võ lời khuyên “Đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được thân xác mà không làm hại được linh hồn…!” của Đức Giêsu [1], nhưng chính bản thân họ lại rất sợ bị công an CSVN phiền nhiễu, đến độ không dám nói sự thật, không dám chống bất công, đành chấp nhận nói sai sự thật, sẵn sàng dung dưỡng bất công!

Nhưng rất may cho dân tộc ta là hiện nay xuất hiện càng ngày càng đông những người dân vượt thắng sợ hãi, không sợ khủng bố, nhất là giới trẻ. Họ dám mạnh mẽ lên tiếng tố cáo tội ác của CSVN, kể cả tội của những lãnh đạo cao cấp nhất chế độ, dù biết rằng sau đó họ có thể bị CSVN bỏ tù hoặc mưu hại. Trong số đó có nhiều người rất trẻ tuổi và là phái yếu như Công Nhân, Thanh Nghiên, Thục Vy, Hoàng Vy, Minh Hạnh, Phương Uyên, v.v… Bí quyết gì khiến họ dám “thoát Sợ”, dám lên tiếng cho sự thật, cho công lý, dám làm những hành động mà lòng yêu nước đòi hỏi?

Bí quyết để “thoát Sợ” chính là sẵn sàng chấp nhận chính những gì mà bản năng khiến mình sợ sẽ xảy ra. Thật vậy,

− Ai sẵn sàng chấp nhận chết sẽ không còn sợ chết nữa.

− Ai sẵn sàng chấp nhận vào tù sẽ không còn sợ tù nữa.

− Ai chấp nhận bị công an liên tục mời “làm việc”, bị công an bắt cóc giữa đường, bị công an hành hung… thì sẽ không còn sợ những thứ ấy nữa.

Hiện nay, biết bao người thuộc đủ mọi giới, mọi tầng lớp đã thoát được những nỗi sợ cố hữu ấy, lẽ nào người khác lại không? Nhất là những người tự hào có bản lãnh, những người đáng lẽ phải làm gương về điều này!?

Sống trong một chế độ phi nhân, chủ trương khủng bố như chế độ CSVN, những ai không chấp nhận bị đau, bị khổ, bị phiền nhiễu, bị bạc đãi, bị tù đày, thậm chí bị giết… thì luôn luôn phải triền miên sống trong sợ hãi. Trong đó, có những người rất khổ tâm, bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, vì họ bị sợ hãi khống chế nên đã làm nhiều điều hèn nhát, trái với những gì lương tri hay lương tâm đòi hỏi.

Nói chung, do bản năng ham sống sợ khổ, chẳng ai tự nhiên lại chấp nhận cái chết, chấp nhận đau khổ, chấp nhận tù đày, chấp nhận bị phiền nhiễu cả… Người ta chỉ chấp nhận những thứ đáng sợ ấy khi người ta muốn đạt được những giá trị rất lớn, hoặc muốn tránh khỏi những tai họa đáng sợ hơn gấp bội, chỉ lúc ấy người ta mới sẵn sàng trả giá bằng cách chấp nhận những điều đáng sợ kia.

Xin lấy một minh họa cho dễ hiểu. Chẳng hạn, chẳng ai muốn mất tiền, mất của, mất nhà mất cửa cách phi lý, thậm chí mất như thế là một nỗi sợ. Nhiều người đã ngất xỉu khi bị mất một món tiền thật lớn. Nhưng nếu mất tiền để đạt được một điều gì có giá trị lớn gấp bội thì người ta sẵn sàng chấp nhận mất. Thậm chí họ còn vui mừng khi đã đạt được cái giá trị mà mình đã bằng lòng trả giá bằng sự mất mát kia. Người ta cũng sẵn sàng chấp nhận mất một món tiền rất lớn để khỏi mất đi một số tiền lớn hơn, hoặc để tránh được một tai hoạ nào đó.

Tương tự như thế, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước sẵn sàng chấp nhận vào tù, chịu thiếu thốn, đau đớn, nhục nhã, thậm chí cả cái chết là để đạt được một giá trị lớn hơn gấp bội, đó là sự tự do và hạnh phúc của cả một dân tộc. Nếu không nhắm cái giá trị cao cả đó, không ai dại gì dấn thân vào con đường nguy hiểm ấy cả.

Chẳng hạn Kỹ sư Đỗ Nam Hải đã tuyên bố: “Tôi sẵn sàng bước vào một nhà tù nhỏ để dân tộc này sớm bước ra khỏi nhà tù lớn. Nhà tù lớn ấy hiện nay mang tên là Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam[2]. Hay như chị Bùi Thị Minh Hằng đã thét lên trong một cuộc biểu tình: “Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên; chúng tôi chết để dân tộc này được sống[3].

Hoặc có người sẵn sàng chịu đau khổ hay chết đi để các thế hệ con cháu mình được sống yên vui, thoải mái hơn mình, như một người biểu tình ở Bắc Phi đã nói: “Tôi sẵn sàng chết để ngày mai con tôi không phải sống như tôi[4]. Hay để công lý và sự thật được thực hiện, như tinh thần của một câu ví dụ trong một tự điển Pháp nọ: “Tôi không quan tâm chính quyền làm gì mình. Tôi sẵn sàng vào tù miễn là sự thật được phơi bày[5]. Hay để bảo vệ nhân quyền như Voltaire: “Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó[6].

Tóm lại, muốn “thoát Trung” thì phải “thoát Cộng”. Muốn “thoát Cộng” thì phải “thoát Sợ”. Muốn “thoát Sợ” thì phải sẵn sàng chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra. Muốn chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra thì phải ý thức được một giá trị thật lớn, thật cao cả mà mình cần đạt tới, hay phải ý thức được một hiểm họa khủng khiếp mà mình phải tránh, xứng đáng để đánh đổi bằng cách chấp nhận những điều tệ hại kia xảy đến.

Trường hợp của dân tộc Việt Nam hiện nay, muốn được tự do, muốn thoát khỏi nguy cơ bị Trung cộng thôn tính, muốn cho con cháu mình mai hậu không phải làm thân trâu ngựa cho ngoại bang, người dân phải chấp nhận “tìm cái sống giữa cái chết”. Tương tự như những người vượt biên tìm tự do sau 1975.

Khi chấp nhận vượt biên tìm tự do, người ta đã phải chấp nhận những bất trắc mà họ biết có thể xảy đến hoặc chắc chắn phải xảy đến như:

− bỏ nhà bỏ cửa, bỏ người thân ở lại,

− gia đình bị ly tán,

− bị lường gạt mất vàng, mất của (do bị lừa đảo),

− bị công an bắt và bị tù,

− bị chết ngoài biển làm mồi cho cá, hay chết trong rừng làm mồi cho thú dữ,

− bị cướp biển, phụ nữ bị cướp hãm hiếp,

− phải sống thiếu thốn nhiều năm trong các trại tị nạn,

− v.v…

Những điều bất hạnh đó ai cũng sợ, nhưng những người vượt biên sẵn sàng chấp nhận tất cả chỉ vì mong đạt được một giá trị lớn hơn, đó là TỰ DO. Thật vậy, chỉ vì tự do, người ta sẵn sàng trả giá rất đắt, như tác giả Nam Lộc đã nói lên trong bản nhạc “Xin Đời Một Nụ Cười”:

“Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt

“Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương

“Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác.

“Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong.” [7]

Người Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Freedom is not free” (tạm dịch “Tự do không phải là thứ cho không”). Muốn có tự do thì phải trả giá. Tự do rất xứng đáng được trả giá rất cao vì nó quý giá vô cùng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đối với cá nhân cũng như đối với cả dân tộc. Nó là thứ quý nhất, không có gì quý hơn, kể cả mạng sống; vì sống mà không có tự do thì “thà chết sướng hơn!” (nhiều người nói như thế!).

Hiện nay, đa số người dân chưa ý thức được nỗi khổ của mình, của con cháu mình, của cả dân tộc mình khi đất nước bị Bắc thuộc lần nữa. Nếu họ ý thức được nỗi đau và nỗi nhục vô hạn mà người dân Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông đang phải chịu kể từ khi đất nước họ trở thành thuộc địa của Trung cộng, nếu người dân Việt ý thức được Trung cộng đã đối xử tàn bạo thế nào đối với các học viên Pháp Luân Công vốn cùng một giòng máu Hán tộc với họ, thì họ sẽ hiểu được nỗi đau và nỗi nhục của mình lớn thế nào khi đất nước mình lọt vào tay Trung cộng. Lúc đó, họ mới có cảm nghĩ và thái độ “không thể ngồi yên” như nhạc sĩ Việt Khang:

“Tôi không thể ngồi yên khi nước Việt Nam đang ngả nghiêng,

Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm, một ngàn năm hay triền miên tăm tối!

“Tôi không thể ngồi yên, để đời sau cháu con tôi làm người!

Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này đã không còn Việt Nam?”

Lúc ấy họ mới thấy tội ác của CSVN “tày trời” như thế nào khi hiện nay CSVN đang sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, đồng lõa, tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược và thôn tính Việt Nam.

Do đó, chuyện cần thiết phải làm cho kịp thời hiện nay là phải “thoát Sợ” để có thể “thoát Cộng” hầu có thể “thoát Trung”!

Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo.

Houston, ngày 11-7-2014

Nguyễn Chính Kết

danlambaovn.blogspot.com

___________________________________

Chú thích:

[1] Xem Kinh thánh, Mátthêu 10,28.

[2] Xem bài “Phương Nam Ðỗ Nam Hải: Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách”:

(http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/PhuongNamDoNamHaiIAmReadyToGoToJail_Khanh-20070522.html)

[3] Xem bài “Cuộc biểu tình 2/6/2013: 5. Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên”

(http://nguyentuongthuy2012.wordpress.com/2013/06/06/cuoc-bieu-tinh-262013-5-chung-toi-nam-xuong-de-dan-toc-nay-dung-len-2/)

[4] Xem bài “Tầm vóc các cuộc nổi dậy của nhân dân Bắc Phi: chống tham nhũng, chống độc tài hay gì nữa?”

(http://boxitvn.blogspot.com/2011/03/tam-voc-cac-cuoc-noi-day-cua-nhan-dan.html)

[5] “Je me fichais de ce que les autorités allaient me faire. J’étais prêt à aller en prison le temps qu’il fallait pour faire reconnaître la vérité”

(http://en.glosbe.com/fr/en/aller%20en%20prison)

[6] Khi nghe Voltaire nói như thế, có người bèn dẫn một con sói đến trước mặt Voltaire và nói: “Thưa ông đây là một con cừu.” Voltaire lắc đầu nói: “Đó không phài là con cừu. Đó là con sói. Nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói rằng đó là một con cừu” (xem

http://daohieu.wordpress.com/2013/03/19/nhat-ky-dan-den/)

[7] Nghe và xem “Xin đời một nụ cười@

(https://www.youtube.com/watch?v=gOcDy4yeuFs; http://lyric.tkaraoke.com/23448/Xin_Doi_Mot_Nu_Cuoi.html)

 

Bà quả phụ hạm trưởng Ngụy Văn Thà nhận nhà mới

Bà quả phụ hạm trưởng Ngụy Văn Thà nhận nhà mới
July 11, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Căn nhà số 05, lầu 5, cao ốc B, chung cư Nguyễn Kim, quận 10, Sài Gòn; từ hôm nay 11 tháng 7, 2014, chính thức trở thành tổ ấm mới của gia đình bà quả phụ Hải Quân Trung Tá VNCH Ngụy Văn Thà.

Thông tin từ chương trình Nhịp Cầu Hàng Sa cho biết, bà Huỳnh Thị Sinh, vợ của người anh hùng hải quân VNCH quá cố đã hoàn tất mọi thủ tục để làm chủ sở hữu căn hộ có diện tích 60m2, trong một cao ốc mới xây, thuộc khu phố cũ quen thuộc của gia đình bà, khu phố Nguyễn Văn Thoại – Nguyễn Kim  – Vĩnh Viễn trước năm  1975.

Bà quả phụ Ngụy Văn Thà và cô con gái út trước bàn thờ Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà khi nhận căn nhà mới. (Hình: T.T.D/Người Việt)

Sĩ quan hải quân VNCH Ngụy Văn Thà là hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo HQ 10. Ông đã chỉ huy thủy thủ đoàn và hy sinh cùng với 73 sĩ quan, binh sĩ khác trong trận hải chiến ngày 19 tháng Giêng năm 1974, trận hải chiến minh định ý chí bảo vệ  chủ quyền VNCH ở quần đảo Hoàng Sa và biển Đông chống giặc Trung Quốc xâm lược.

Gia đình sĩ quan Hải Quân Ngụy Văn Thà về sống ở chung cư Nguyễn Kim vào năm 1973. Năm 1974 ông hy sinh vì tổ quốc, bà Huỳnh Thị Sinh ở vậy thờ chồng nuôi ba cô con gái. Đến năm 2009, khu chung cư này bị giải tỏa. Bà Sinh có một xuất tái định cư, kèm theo khoản tiền hỗ trợ 546 triệu VND, nhưng  chờ  nhà suốt  5 năm  khu tái định cư cũng vẫn là dự án trên giấy.

Căn hộ mới của gia đình bà quả phụ Ngụy Văn Thà có giá bán (bao gồm cả thuế) lên tới 1,343,797,981/VND. Trong thời gian chờ nhà tái định cư, nhà nước đã chi một số tiền để bà Sinh thuê nhà, cho nên “khoản tiền hỗ trợ” 546 triệu VND bị trừ đi gần một nửa, còn 229,505,000/VNĐ. Nhịp Cầu Hoàng Sa đã chi trả toàn bộ số tiền còn lại là 1,114,292,981/VNĐ.

Nhịp Cầu Hoàng Sa là một chương trình được khởi xướng từ ngày 7 tháng Giêng năm 2014 bởi một nhóm các nhà báo:  Huy Đức (Osin), Vũ Kim Hạnh, Cựu TBT Tuổi Trẻ; Nguyễn Thế Thanh, Cựu TBT báo Phụ Nữ TP; TS Nguyễn Thị Hậu, kỹ sư Đỗ Thái Bình…  Sau hơn sáu tháng vận động, Chương trình đã nhận được sự ủng hộ bằng tiền, bằng hiện vật từ hơn 524 lượt đóng góp với tổng số tiền là 1,711,965,042/VND.

Theo Nhịp Cầu Hoàng Sa, bên cạnh những nghĩa cử trợ giúp gia đình các liệt sĩ và cựu bộ đội Gạc Ma, thời gian tới đây, chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa sẽ giữ đúng cam kết tiếp tục vận động để giúp đỡ gia đình sĩ quan Hải Quân Thiếu Tá VNCH Nguyễn Thành Trí cải thiện chỗ ở, cũng như các hoạt động có ý nghĩa khác hướng về biển Đông và chủ quyền dân tộc. (T.T.D)

 

 

Người phụ nữ Sudan cải đạo sẽ “Rất Vui Mừng” được gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Người phụ nữ Sudan cải đạo sẽ “Rất Vui Mừng” được gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Chuacuuthe.com

10443457_758252360480_1922398986935809665_n

VRNs (12.07.2104) – Sài Gòn-  Tin từ Zenit, Cô Meriam Ibrahim, một người mẹ Công giáo ở Sudan đã bị kết án tử hình vì “cải đạo’ và sau đó được trả tự do, việc đến Vatican để gặp ĐGH trong một ngày gần đây sẽ là điều “rất vui mừng” đối với họ.

Bà Antonella Napoli, chủ tịch của tổ chức phi lợi nhuận “Italians for Darfur” tạm dịch là ‘những người Ý vì Darfur’, đã gặp vợ chồng cô Ibrahim cách đây hai ngày tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Khartoum, thủ đô Sudan. Trả lời với hãng tin Avvenire của Ý, bà Napoli nói rằng, cuộc tiếp kiến Đức Giáo Hoàng “sẽ là một niềm vui lớn lao” cho cô và chồng là Daniel Wani.

Vị nữ chủ tịch nói thêm : Cặp vợ chồng này là những người có “đức tin rất mạnh”. “Nhờ người em gái của Daniel Wani mà họ đã gặp nhau tại nhà thờ và đã yêu nhau ngay sau đó. Đến năm 2011, họ cưới nhau. Khi hỏi việc ở tù có làm thay đổi mối quan hệ với tôn giáo của cô một cách nào đó không, cô đã nhanh chóng trả lời là “không”. Những khó khăn đó đã không làm suy yếu niềm tin sâu sắc của cô vào Thiên Chúa. Cô Ibrahim nói “Ngài sẽ hướng dẫn cho tôi”.

Bà Napoli nói với tờ báo Giám Mục Ý rằng, cuộc gặp với Đức Giáo Hoàng sẽ “là mộtniềm vui lớn lao” sau khi Meriam được giải thoát khỏi nhà giam. Là một bác sĩ 29 tuổi, Meriam đã bị bỏ tù gần mười tháng vì tội cải đạo sang Kitô giáo và đã sinh con trong khi bị giam.

Một tòa án được mở vào ngày 15 tháng 5 vừa qua, đã kết án treo cổ cô vì việc cô không “ăn năn” hoặc từ bỏ đức tin của mình, điều này đã gây ra một phản đối kịch liệt trên bình diện quốc tế. Nhưng Meriam không bao giờ quay lưng lại với đức tin Công giáo của mình. Mẹ cô cũng là người Công Giáo.

Luật Hồi giáo Sudan không chấp nhận việc cải đạo và coi việc kết hôn với người ngoài tôn giáo là ngoại tình.

Pv.VRNs

 

Tổ chức Ân xá cho biết bắt cóc và tra tấn tràn lan ở miền đông Ukraine

Tổ chức Ân xá cho biết bắt cóc và tra tấn tràn lan ở miền đông Ukraine

Một phần tử ly khai thân Nga với chiếc ruy-băng màu cam St. George đính kèm, đứng gác tại một chốt kiểm soát ở Luhansk, miền đông Ukraine, 8/6/2014.

Một phần tử ly khai thân Nga với chiếc ruy-băng màu cam St. George đính kèm, đứng gác tại một chốt kiểm soát ở Luhansk, miền đông Ukraine, 8/6/2014.

Henry Ridgwell

11.07.2014

LONDON —

Tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế cho biết hàng chục người ở miền đông Ukraine đã bị bắt cóc và tra tấn bởi các nhóm phần tử ly khai vũ trang thân Nga trong những tháng gần đây. Các lực lượng chính quyền Ukraine cũng bị cáo buộc về các vụ lạm dụng.

Nhiều tuần lễ sau khi bị bắt cóc và tra tấn, nhà hoạt động ủng hộ Ukraine Hannah vẫn còn phải băng bó điều trị các vết thương.

Bà đã bị các phần tử ly khai thân Nga bắt cóc từ căn hộ của mình ở Donetsk  và bịt mắt đem đi. Bà Hannah mô tả những gì đã xảy ra.

“Khuôn mặt tôi bị đập nát,” bà nói. “Họ cố đánh tôi ở khắp người, tôi lấy tay che mặt. Rồi họ dùng dao cắt tay, chân tôi.”

Bà Hannah mô tả bà đã bị buộc phải viết một câu khẩu hiệu ly khai trên tường bằng máu của chính mình như thế nào.

Bà nói: “Gã đàn ông hành hạ tôi nói ‘viết bằng máu của mụ trên tường là: Tôi yêu Donbas.’ Và hắn nói nếu mụ không thể làm điều này, nếu mụ hết máu, ta sẽ bắn mụ.”

Theo tổ chức Ân xá Quốc tế, sự việc đau lòng của bà Hannah không phải là duy nhất. Nhà nghiên cứu Denis Krivosheev đã ghi nhận hàng chục các cáo buộc tra tấn bởi các nhóm phần tử ly khai ở miền đông Ukraine.

“Hầu hết, đó là những nhà hoạt động ủng hộ Ukraine, những người khẳng định miền đông là một phần của Ukraine, những người muốn dùng cờ của Ukraine, hô to các biểu tượng của Ukraine. Họ là những mục tiêu đầu tiên. Nhưng cũng có cả những người liên quan đến cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 25/5, thành viên của các ủy ban bầu cử, các nhà quan sát và cả các nhà báo.”

Tổ chức Ân xá cho biết con số các nhà hoạt động ủng hộ Ukraine đào thoát khỏi miền đông và đến thủ đô Kyiv đang gia tăng.

Ông Sasha cho biết ông bị bắt cóc sau khi tham gia các cuộc biểu tình ủng hộ Kyiv ở Luhansk vào tháng rồi.

“Họ nói với tôi tạm biệt, họ sẽ giết tôi bấy giờ. Một gã cầm súng dí vào đầu tôi và bảo tôi đi thẳng đến hành lang và đừng nói gì. Trong khi tôi đang đi qua hành lang, những người trang bị vũ khí đã ở đó nói tôi ‘tạm biệt, họ sẽ giết mày bây giờ.’”

Tổ chức Ân xá cho biết nhiều nạn nhân bị bắt cóc và tra tấn bây giờ chỉ có thể sống tiếp sau khi được các lực lượng Ukraine giải thoát.

Trong những ngày gần đây, quân đội Ukraine đã giành lại được một số vùng lãnh thổ, buộc các phần tử ly khai thân Nga phải rời khỏi các các cứ điểm ở Slovyansk và Kramatorsk. Nhưng cả quân đội của chính quyền Ukraine và các nhà hoạt động ủng hộ Kyiv cũng đều bị cáo buộc thực hiện các cuộc bắt cóc và tra tấn, mặc dù với quy mô nhỏ hơn nhiều.

Chính quyền Ukraine phải chấm dứt văn hóa miễn trừ trừng phạt, ông Denis Krivosheev của tổ chức Ân xá nói:

“Trên khắp Ukraine, cảnh sát là một lực lượng mà các thành viên thường xuyên chà đạp nhân quyền mà không bị trừng phạt. Và nếu nhà cầm quyền Kyiv thực sự có ý định khôi phục lại các quy định luật pháp và đưa chúng vào trật tự thì đây là nơi mà họ cần phải bắt đầu.”

Công lý có lẽ phải chờ đợi trong khi cuộc xung đột vẫn đang tiếp diễn. Những phần tử ly khai thân Nga đang củng cố lại các địa điểm ở Donetsk và Luhansk. Các nhà phân tích nói bất cứ cuộc giao tranh nào để giành quyền kiểm soát ở các thành phố đó có phần chắc sẽ phải trả giá bằng nhiều sinh mạng.

Dân biểu Đảng Cộng hòa Mỹ cảnh báo về thảm cảnh ‘chết bằng tùng xẻo’ dưới tay Trung Quốc

Dân biểu Đảng Cộng hòa Mỹ cảnh báo về thảm cảnh ‘chết bằng tùng xẻo’ dưới tay Trung Quốc

David Brunnstrom

Trần Ngọc Cư dịch từ http://news.yahoo.com

WASHINGTON (Reuters) – Mỹ phải phản ứng mạnh mẽ hơn nữa đối với các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại châu Á, một nhân vật Cộng hòa Mỹ có thế lực tại Quốc Hội đã nói như vậy vào hôm thứ Năm, lên tiếng cảnh báo rằng nếu không làm như vậy thì sẽ mang lại thảm cảnh “chết bằng một ngàn nhát cắt.”

Mike Rogers, chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ, nói rằng Washington không nên quá sợ mếch lòng Trung Quốc khi đối thoại với Bắc Kinh.

Dân biểu này đưa ra lời bình luận vào thời điểm Trung Quốc và Mỹ kết thúc hai ngày đối thọai tại Bắc Kinh với mục đích quản lý một quan hệ ngày càng phức tạp và đôi khi căng thẳng.

“Chúng ta cần phải thẳng thắn hơn; chúng ta cần phải có thái độ mạnh mẽ hơn,” ông nói tại một cuộc hội luận tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, một trung tâm nghiên cứu chính sách tại Thủ đô Washington.

“Chúng ta cần giúp các nước bạn và đồng minh đủ sức đáp trả thẳng thắn và mạnh mẽ hơn nữa với Trung Quốc,” Dân biểu Rogers nói thêm trong lời bình luận của mình, phản ánh thái độ bức xúc của phía Cộng hòa trước đường lối dè dặt của Tổng thống Dân chủ Barack Obama, đối với Trung Quốc, một nước được coi vừa là đối thủ chiến lược vừa là đối tác kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ.

Rogers cho rằng Trung Quốc đang lợi dụng những căng thẳng an ninh tại những khu vực khác trên thế giới [như tại Ukraina và Trung Đông, DG] để từng bước theo đuổi các đòi hỏi chủ quyền của mình bất chấp chủ quyền lãnh thổ của các nước láng giềng yếu thế hơn.

“Đây quả là thảm cảnh chết lăng trì… khi ta bắt đầu cộng lại từng miếng tùng xẻo đưa đến cái chết toàn bộ và chứng kiến những kẻ đang tạo ra những đám mây xung đột – tình hình càng ngày càng nghiêm trọng.”

Rogers lên án Trung Quốc về hành động “xâm lược trắng trợn và tham lam [gluttonous naked aggression]” trong việc theo đuổi các đòi hỏi chủ quyền. Ông bày tỏ kỳ vọng muốn thấy Hoa Kỳ phản ứng lại bằng cách “nghiêm chỉnh gia tăng khả năng nới rộng hợp tác” với các đồng minh và đối tác của Mỹ tại châu Á.

“Đây là cơ hội để chúng ta đẩy lùi sự xâm lấn, thay đổi các toan tính, và thay đổi hậu quả… đây là cơ hội để chúng ta cho Trung Quốc biết rằng họ không nên nghi ngờ quyết tâm của Mỹ trong việc bảo vệ quyền tự do thông thương, tự do mậu dịch và thương mại trên biển Hoa Nam [Biển Đông],” vị dân biểu Mỹ tuyên bố.

Những phương thức thực hiện điều này gồm có gia tăng việc chia sẻ tin tức tình báo và nới rộng hợp tác với các nước láng giềng của Trung Quốc, Rogers nói.

Đối thoại Chiến lược và Kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, bước vào năm thứ năm, đã kết thúc vào hôm thứ Năm nhưng chưa có dấu hiệu tiến bộ cấp thời nào liên quan đến các vấn đề tranh chấp biển đảo tại châu Á hay các vấn đề gay cấn về tình báo mạng. Nhưng hai bên đã đồng ý tăng cường hợp tác trong các lãnh vực chống khủng bố, thi hành luật pháp quốc tế và các quan hệ giữa hai quân đội [military-to-military relations].

Washington tuyên bố không đứng về phe nào trong các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng trong những tháng gần đây chính quyền này ngày càng mạnh mẽ chỉ trích hành vi của Trung Quốc.

Một nền báo chí ngớ ngẩn

Một nền báo chí ngớ ngẩn

Cánh Cò, viết từ Việt Nam
2014-07-08

Cận cảnh hiện trường chiếc trực thăng Mi-171 mang số hiệu 01 của Trung đoàn Không quân trực thăng 916, Sư đoàn Không quân 371, thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân bị rơi sáng 7/7.

Cận cảnh hiện trường chiếc trực thăng Mi-171 mang số hiệu 01 của Trung đoàn Không quân trực thăng 916, Sư đoàn Không quân 371, thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân bị rơi sáng 7/7.

Source Zing.vn

Bản tin của mọi tờ báo hôm nay đều loan như nhau về một tai nạn trực thằng khiến cho 19 người trên phi cơ tử vong và hai người trong tình trạng nguy kịch.

“Vào lúc 7h53 ngày 7/7, máy bay Mi 171 số hiệu 01 của Trung đoàn Không quân 916, Sư đoàn Không quân 371 đã bị cháy động cơ, rơi tại thôn 11 (Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, Hà Nội). Lúc máy bay gặp nạn có 21 người trên máy bay. Sau khi bị rơi, máy bay đã cháy dữ dội, được lực lượng cứu hỏa dập tắt lúc 8h20 cùng ngày.”

Dối trá bịp bợm là căn bệnh

Thông tin chứa đựng trong bản tin này ngắn đến kinh ngạc. Đáng ra, Bộ Quốc phòng là cơ quan chủ quản phải chủ động loan tin với những chi tiết chính xác nhất cho người dân, vốn có quyền được biết mọi thông tin từ chính phủ ngoại trừ có liên quan đến bí mật quốc phòng. Một phi cơ trực thăng rơi trong lúc huấn luyện là tin buồn, hoàn toàn do lỗi kỹ thuật không thể xem là bí mật khi nó rơi đúng vào khu dân cư Hà Nội. Thông tin mà Bộ quốc phòng đưa ra kịp thời có khả năng đánh tan mọi suy diễn có tính xuyên tạc làm hại đến uy tín của đơn vị phòng không, không quân Việt Nam.

Phi cơ dù sản xuất ở đâu nếu gặp tai nạn là chuyện bình thường. Không công bố chuyện bình thường ấy mới là điều bất thường. Hơn nữa nếu công bố với những thông tin do cảm tính và không liên quan gì tới tai nạn là việc làm tắc trách, thiếu chuyên nghiệp đôi khi đi dẫn tới chỗ dối trá với quần chúng.

Báo chí lấy lại tin từ Vietnam+ vẽ ra hình ảnh tuyệt vời của viên phi công trên chuyến bay định mệnh ấy với lời lẽ như sau:

“trước tai nạn thương tâm, người dân tại hiện trường đã nhìn thấy máy bay cháy trên không ở ngay trong khu dân cư đông người, nhưng phi công đã dũng cảm, cố điều khiển máy bay ra khu đất trống để máy bay không rơi vào khu nhà dân.

Người dân đã đánh giá rất cao tinh thần dũng cảm, sự hy sinh anh dũng của người lính phi công trong khi đối mặt với cái chết vẫn bình tĩnh điều khiển máy bay tránh được thương vong lớn cho người dân.” (1)

“Người dân nhìn thấy máy bay cháy trên không”là đúng, là những gì đã xảy ra và nhiều người chứng kiến. Thế nhưng:”phi công đã dũng cảm, cố điều khiển máy bay ra khu đất trống để máy bay không rơi vào khu nhà dân”là một cách vuốt đuôi nguy hiểm. Báo chí nếu tự viết câu này là vô lương tâm nghề nghiệp

Đọc bản tin này bất cứ ai có một nhận thức bình thường cũng thấy là cơ quan báo chí Việt Nam đang đánh lừa người dân bằng cách trích lời họ (mà không ai biết họ là nhân vật có thật hay chỉ là sản phẩm tưởng tượng của nhà báo). “Người dân nhìn thấy máy bay cháy trên không” là đúng, là những gì đã xảy ra và nhiều người chứng kiến. Thế nhưng: “phi công đã dũng cảm, cố điều khiển máy bay ra khu đất trống để máy bay không rơi vào khu nhà dân” là một cách vuốt đuôi nguy hiểm. Báo chí nếu tự viết câu này là vô lương tâm nghề nghiệp, nghe người dân nói mà không phân tích và cứ thế đưa lên là vô trách nhiệm.

Chiếc máy bay bị rơi là chiếc MI-171 sản xuất tại Liên Xô

Chiếc máy bay bị rơi là chiếc MI-171

Thông thường trong một tai nạn hàng không, người trách nhiệm sẽ không tuyên bố bất cứ điều gì vì đơn giản họ không ngồi trên máy bay và chứng kiến những gì đã xảy ra. Họ phải chờ tìm được chiếc hộp đen của máy bay gặp nạn, khai thác và phân tích dữ liệu trong đó mới biết được những gì đã làm cho động cơ hỏng hóc cũng như những báo cáo cuối cùng của phi hành đoàn trên chiếc phi cơ gặp nạn.

Thứ hai, chỉ có người ngồi gần phi công, chứng kiến và kể lại hành động của anh ta thì mới có thể tuyên dương hành động đó. Nếu không mọi đoán định đều mang cảm tính và thiếu bằng chứng thuyết phục.

Báo chí “ăn cơm dưới đất nói chuyện trên trời” khi dí vào mồm người dân bình thường diễn tả lại hành vi cực kỳ anh hùng của một tài xế máy bay chứ không phải phi công, cố lái ra xa không cho nó rơi xuống chỗ đông dân cư. Rất tiếc Vietnam+ là một cơ quan thông tấn chính thức của đất nước lại phao tin nhảm, thiếu logic về một sự việc thương tâm đang làm dư luận bức xúc.

Đã vậy, Trung tướng Võ Văn Tuấn – Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND lại xác định thêm những điều mà báo chí vẽ ra bằng cái mà ông gọi là kinh nghiệm của một tướng lãnh. Trung tướng Võ Văn Tuấn nói: “Phi công là người có trách nhiệm với dân. Qua hiện trường và kinh nghiệm cá nhân, tôi đánh giá đây là hành động có trách nhiệm của phi công và phi hành đoàn. Họ đã cố gắng né tránh tối đa nhất việc có thể đâm vào nhà dân”.

” Phi công là người có trách nhiệm với dân. Qua hiện trường và kinh nghiệm cá nhân, tôi đánh giá đây là hành động có trách nhiệm của phi công và phi hành đoàn. Họ đã cố gắng né tránh tối đa nhất việc có thể đâm vào nhà dân

Trung tướng Võ Văn Tuấn”

Một đống sắt cháy vụn nói lên điều gì? Ông Tuấn tuyên bố không khác chút nào với những người hoàn toàn mù tịt về kinh nghiệm bay vì ông cũng ngồi dưới đất như họ, còn thua họ ở chỗ lúc ấy ông ngồi xa hiện trường không như những người dân tại nơi xảy ra tai nạn. Ông nói theo và ông nói leo.

Đối với quy định bay khi sự cố xảy ra việc đầu tiên là phi công báo cho đài kiểm lưu dưới đất nếu là dân sự và trung tâm hành quân của không quân nếu là quân đội. Cùng lúc ấy phải nghe theo chỉ dẫn của người trách nhiệm về cách xử lý máy móc, tai nạn. Nếu không thể làm được gì thì phản xạ của một phi công phải cố hết sức để chiếc máy bay giảm bớt độ rơi và dĩ nhiên có thể trong một khoảnh khắc nào đó khi không còn kiểm soát được nữa thì mới nảy ra ý tưởng tránh thiệt hại cho dưới đất. Phản xạ cuối cùng này khó mà biết trước bằng đôi mắt thường của một ông đứng dưới dất, nhất là ông ấy không thể phân biệt một trực thăng khác với một máy bay phản lực khi rơi như thế nào.

....Lúc 12h30, sau khi uống thuốc và ăn được một chút sữa, anh Hùng đã bình tâm hơn và bắt đầu ngủ được. Tuy nhiên, anh vẫn chưa nói được, giao tiếp với mọi người chỉ bằng cách gật hoặc lắc đầu ( báo Lao Động 7/7/2014)

.…Lúc 12h30, sau khi uống thuốc và ăn được một chút sữa, phi công Hùng đã bình tâm hơn và bắt đầu ngủ được. Tuy nhiên, anh vẫn chưa nói được, giao tiếp với mọi người chỉ bằng cách gật hoặc lắc đầu ( báo Lao Động 7/7/2014)

Thêm căn bệnh anh hùng

Câu chuyện về người phi công anh hùng xem ra để xoa dịu tâm lý gia đình nạn nhân và vuốt ve niềm tự hào của người bộ đội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, gì thì gì cũng anh hùng, miễn cứ chết là anh hùng .

Lạ một điều xoa dịu cho người chết đã đành, báo chí cũng không tha cho người còn sống.

Bản tin trên tờ Lao Động tường trình một ông gần giống như anh hùng khác trong vụ nổ máy bay khiến người có tính cẩn thận khi đọc tin sẽ rơi vào bất ngờ. Thì ra có tới hai phi công trên chuyến bay định mệnh ấy chứ không phải một. Với cái title:

” Ở dưới đất chứng kiến cảnh máy bay nổ, anh Hùng (phi công Vương Tá Hùng) chạy lại khu vực hiện trường và tận mắt chứng kiến đồng đội bị cháy, bị thương. Không cầm lòng ….anh Hùng đã ngất xỉu và được người dân đưa vào Bệnh viện Quân y 105. Rất đông người thân đã vào động viên tinh thần anh Hùng. Quỹ Tấm lòng vàng Lao Động đã có mặt tại khoa Nội tâm thần kinh Bệnh viện 105, trao tặng 1 triệu đồng tới gia đình anh Hùng “

(Báo Lao Động ngày 7/7/2014))

“Máy bay trực thăng rơi: Gặp phi công thoát nạn hi hữu.”

Phóng viên kể lại những chi tiết mà khi đọc lên khó khăn lắm mới khỏi thở dài cho cách đặt vấn đề của tờ báo:

“Phi công Vương Tá Hùng, 30 tuổi, quê ở Phúc Thọ, Hà Nội là người duy nhất may mắn đã thoát khỏi chuyến bay gặp tai nạn kinh hoàng. Lý do là chuyến bay đã chốt danh sách 21 người và anh Hùng là người số 22. Khi máy bay bay lên độ cao khoảng 1000m thì đột ngột hạ thấp độ cao rồi phát nổ và bốc cháy.

Ở dưới đất chứng kiến cảnh máy bay nổ, anh Hùng chạy lại khu vực hiện trường và tận mắt chứng kiến đồng đội bị cháy, bị thương. Không cầm lòng được trước nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn mà đơn vị và các đồng đội gặp phải, anh Hùng đã ngất xỉu và được người dân đưa vào Bệnh viện Quân y 105. Rất đông người thân đã vào động viên tinh thần anh Hùng. Quỹ Tấm lòng vàng Lao Động đã có mặt tại khoa Nội tâm thần kinh Bệnh viện 105, trao tặng 1 triệu đồng tới gia đình anh Hùng.” (2)

Huyền thoại tay không

Huyền thoại tay không quật ngã máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ trên báo PhuNuToday

Câu chuyện của anh Vương Tá Hùng được trám vào cái khoảng trống thông tin nghèo nàn mà báo chí được phép loan đi từ một vụ nổ máy bay rất lớn. Câu chuyện của anh vừa nhạt, vừa khôi hài mà đáng ra báo chỉ cần đưa một dòng tin là đủ, chẳng hạn: “Trong tai nạn thương tâm này anh Vương Tá Hùng may mắn thoát chết nhờ không lên máy bay vào giờ chót. Cũng là một phi công, anh chứng kiến và bị shock nặng khi bạn bè đồng đội hy sinh trong chiếc phi cơ oan nghiệt ấy”.

“Huyền thoại tay không “quật ngã” máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ…Nhìn người đàn ông tuổi ngoài lục tuần, thân hình nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, khỏe mạnh, ít ai biết được rằng ông đã từng dùng đôi bàn tay ấy để ghì chặt một chiếc máy bay UH-1 của Mỹ xuống mặt đất.

tác già Hạ Nguyên/Phụ Nữ Today (2012)

Hình như căn bệnh anh hùng đã ăn rất sâu vào tư duy của cả hệ thống. Cứ “được chết” là anh hùng, bất kể logic câu chuyện có chứng minh được hai chữ anh hùng gán ghép một cách miễn cưỡng ấy hay không.

Ngày nay báo chí không có nhiều cơ hội để tạo người hùng cho xã hội vì ít ra họ đã phần nào hiểu rằng người đọc thế hệ @ không như vài năm trước, tuy biết là đơm đặt nhưng họ không buồn “phê bình chỉ điểm”. Người đọc tin bây giờ lướt qua và xem những mẩu tin dạng “ngồi dưới đất nói chuyện trên trời” là sản phầm của những cây viết cùn, chấm mực bằng cán và phe phẩy kiếm view.

Từ chiếc máy bay Mi 171 hôm nay của Liên xô, nhớ lại chiếc UH-1 của Mỹ.

Một phóng sự khác nói về người hùng máy bay trực thăng được đăng vào năm 2012 của tác già Hạ Nguyên viết về ông Bùi Minh Kiểm trên báo Phụ Nữ Today:

“Huyền thoại tay không “quật ngã” máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ.

Nhìn người đàn ông tuổi ngoài lục tuần, thân hình nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, khỏe mạnh, ít ai biết được rằng ông đã từng dùng đôi bàn tay ấy để ghì chặt một chiếc máy bay UH – 1 của Mỹ xuống mặt đất.

Giữa lúc “dầu sôi, lửa bỏng” ấy, đồng đội của ông Kiểm, tức ông Nguyễn Phú Thao đã đưa ra một cách đánh táo bạo. Khi chiếc UH – 1 rà tới chuẩn bị hạ thấp để bắn róc két thì ông Kiểm lao người lên dùng hai tay ghì càng máy bay xuống.

Đôi bàn tay thép như chiếc nam châm hút chiếc UH – 1 xuống gần sát mặt đất. Viên phi công bất ngờ, chưa kịp gạt cần súng máy thì đã bị anh Thao từ bên dưới bắn thốc lên, thẳng vào buồng lái. Chiếc máy bay mất thăng bằng loạng choạng lao xuống, nổ tan xác.”

Nhà báo Việt Nam hình như không biết có một thư viện mở rất thông dụng hiện nay là WikiPedia. Nếu chịu khó hỏi nó về thông số của chiếc trực thăng UH-1 thì anh ta sẽ không trở thành tên hề trước công chúng.

Theo WikiPedia cho biết trọng lượng rỗng của UH-1 là 2.365 Kg. Trọng lượng có tải là 4.100 kg. Trọng lượng cất cánh là 4.309 Kg. Như vậy ông anh hùng Bùi Minh Kiểm phải nặng hơn 4 tấn thì chiếc UH-1 mới không cất cánh được để đồng đội ông có dịp bắn nó.

Ngớ ngẩn đến mức ấy thì báo cáo nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc của Việt Nam cũng phải chào thua mặc dù kỹ thuật nói dối của Việt Nam từng nhiều lần làm cho quốc tế mắt tròn mắt dẹp.

(1) http://www.vietnamplus.vn/

(2) http://laodong.com.vn/xa-hoi/may-bay-truc-thang-roi-gap-phi-cong-thoat-nan-hi-huu-222524.bld

Thượng Viện Mỹ thông qua nghị quyết kêu gọi TQ rút giàn khoan Hải Dương

Thượng Viện Mỹ thông qua nghị quyết kêu gọi TQ rút giàn khoan Hải Dương

Nghị quyết 412 do thượng nghị sĩ Robert Menendez đề xướng tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải và việc sử dụng hải phận-không phận ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế

Nghị quyết 412 do thượng nghị sĩ Robert Menendez đề xướng tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải và việc sử dụng hải phận-không phận ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế

Trà Mi-VOA

11.07.2014

Thượng Viện Hoa Kỳ tối 10/7 thông qua nghị quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 và lực lượng ra khỏi vị trí tranh cãi hiện nay ở Biển Đông.

Nghị quyết 412 do thượng nghị sĩ Robert Menendez đề xướng tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải và việc sử dụng hải phận-không phận ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế, đồng thời kêu gọi giải pháp ngoại giao ôn hòa cho các tranh chấp chủ quyền chồng chéo tại Biển Đông.

Nghị quyết cũng chỉ trích các hành động uy hiếp, dùng võ lực đe dọa nhằm thay đổi nguyên trạng hoặc gây bất ổn ở khu vực.

Nghị quyết đích danh kêu gọi Trung Quốc tránh các hoạt động hàng hải trái với Công ước về các Quy định quốc tế Ngăn ngừa Xung đột Trên biển và trả lại nguyên trạng Biển Đông như trước ngày 1/5, tức trước thời điểm giàn khoan 981 xuất hiện ở khu vực Hà Nội nói thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng điều hành Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS, nhà hoạt động người Mỹ gốc Việt khởi xướng cuộc tổng vận động ngày 16/7/14 cho nhân quyền-chủ quyền Việt Nam, nói việc thông qua Nghị quyết này có vai trò thiết yếu:

“Nghị quyết này rất quan trọng. Quốc hội Hoa Kỳ là nơi làm chính sách. Được thông qua ở Thượng viện là sự thể hiện chính sách của Hoa Kỳ đối với giàn khoan Hải Dương 981. Thông qua nghị quyết này sớm nhấn mạnh được rằng quốc tế đang áp lực Trung Quốc và phản đối việc Bắc Kinh đưa giàn khoan trái luật vào vùng biển của Việt Nam. Lên tiếng một cách chính thức như vậy từ Hoa Kỳ là điều hết sức quan trọng.”

Bấm vào nghe bài tường trình và phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng

Một ngày trước khi Nghị quyết 412 được thông qua ở Thượng viện, tại Hạ viện Mỹ diễn ra buổi điều trần về vấn đề nhân quyền Việt Nam và Đông Nam Á mà qua đó thành tích nhân quyền Việt Nam đã một lần nữa bị chỉ trích mạnh mẽ.