Dĩ vãng dầm mưa lén bước về

Dĩ vãng dầm mưa lén bước về

Chuacuuthe.com

VRNs (16.07.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 16 mùa Thường niên năm A 20.7.2014

“Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,

Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 13: 24-43

Lén bước về, đâu vì nhà thơ dầm mưa dĩ vãng, mặt sầu che. Áo trùng, mây toả, sầu che mặt, lại vẫn là tâm-trạng của nhà Đạo khi nghe truyện dụ-ngôn “người gieo giống”, rất Nước Trời.

Trình-thuật “người gieo giống” hôm nay, được hai thánh-sử Mác-cô và Mát-thêu diễn-tả để người nghe hiểu về Nước Trời, đầy ý-nghĩa. Mỗi vị kể mỗi cách. Nhưng, cách kể truyện của thánh Mác-cô lại vẫn theo kiểu lật ngược như tư-thế của người nghe truyện. Trong khi đó, thánh Mát-thêu lại đưa vào cuộc sống của người bình-thường đang nghe truyện, cho dễ hơn.

Thánh Mác-cô thường kể chỉ phân nửa bài dụ-ngôn thôi, nhằm xoá bỏ mọi thành-kiến, hoặc lối đoán mò. Còn, thánh Mát-thêu lại tiến xa qua cuộc sống bình-thường mà người đi Đạo gọi là: niềm tin. Niềm tin đây, là những gì xảy đến với người thường sống ở đời, để rồi lại sẽ kết-thúc một cách tốt-lành/hạnh đạo, như lòng người mong muốn.

Thánh Mát-thêu sống sau thời đại của thánh Mác-cô rất nhiều năm, nên ngài cũng hiểu ý-định và dụng-đích của việc kể dụ-ngôn, thời đó. Chính vì thế, nên: thánh Mát-thêu không sử-dụng mục-đích cũng như kiểu-cách của người đi trước, nhưng lại uốn-nắn ảnh-hình và cốt truyện hầu tạo dáng vẻ của sự sống không thấy nơi ngôn-ngữ thường-nhật. Dáng-vẻ đây, là âm-thanh, ảnh-hình cùng điệu-nhạc đưa vào đó, có đính-kèm một bí-kíp cho thật đẹp.

Nét đẹp của sự việc thường-tình ở dụ-ngôn đây, là: loại đất ở nông-trại tiếp-nhận được hạt giống Chúa vãi gieo hàng loạt. Đồng thời, thánh Mát-thêu lại kể về “cỏ dại” chen lấn với lúa tốt, khiến nhà nông cứ băn-khoăn về ảnh-hưởng của nó với lúa tốt tươi, sinh lợi. Hơn nữa, thánh Mát-thêu lại kể thêm về hạt cải tuy bé nhỏ nhưng cho ra nhiều cây lớn. Và, như hạt ngọc nằm trong vỏ trai/sò xấu xí, lì lợm. Nói chung, thánh Mát-thêu sử-dụng truyện kể để cài vào đó tâm-tình lớn lao, cao-đại, tử tế cần phổ biến.

Qua dụ-ngôn, thánh Mát-thêu đề-cao tính-chất cao cả của người bé nhỏ. Thánh-nhân còn sử-dụng việc Chúa Kitô Phục Sinh như sự chúc lành Chúa đem đến cho những con nguời nhỏ bé, bình thường ở đời. Thánh-nhân còn muốn chỉ cách để ta nhận biết và hiểu rõ rằng có những điều ta cần cảm-kích biết ơn Chúa và Đức Kitô đã làm cho con người, mà họ không biết.

Dụ-ngôn thánh Mát-thêu kể, là những truyện hay/đẹp bộc-lộ bí-kíp sống đời bình-thường của con người. Bí-kíp đây, là sống bình-thường có Chúa ở cùng, nên rất đẹp. Bởi, Chúa thích thế. Và, Ngài thích mặc-khải những điều lớn lao về cuộc sống cho người bình-thường/bé nhỏ, mà thôi. Gọi bình-thường, nhưng người nhỏ bé vẫn cần phương-án giản-đơn, không cầu kỳ. Và, thánh Mát-thêu khám-phá ra tính thực-tế của mầu nhiệm Nhập-Thể, qua đó Chúa không cần đến thần-học hoặc khoa hùng-biện nào/khác; nhưng Ngài chỉ cần ta sống bình thường, giản-đơn, cũng đạt được.

Thánh Mát-thêu còn đi xa hơn, bằng cách tự bó buộc mình viết thêm về quà-tặng Chúa ban cho ta, cũng dồi-dào như thế. Thánh-nhân tập-trung vào chuyện hạt giống được gieo trên đất tốt, khi viết dụ-ngôn về đất trồng trọt. Đất trồng trọt, có thể sản-xuất gấp 30, 60 và có khi cả trăm lần vượt quá sự mong-đợi của mọi người. Thánh Mát-thêu không chỉ viết thế, nhưng còn tả về các nhân-đức tàng-ẩn trong ta, khi ta sống cuộc sống biết cảm-kích những điều tốt đẹp Chúa ban cho mình, trong đời.

Người bé nhỏ trong đời, lại muốn nghe Lời Chúa, cả trong sự việc bé nhỏ, nên đã hiểu. Mọi lời bình thường, đều được Chúa sử-dụng ở Phúc Âm để nói về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được chúc phúc vì đã nghe Lời Chúa, hiểu Lời và còn giữ kín trong lòng, mà thực hiện trong cuộc sống, nữa.

Người nghe kể hôm nay, được khích-lệ sống tích-cực điều Chúa dạy. Sống tích-cực, có kèm theo nụ cười hạnh-đạo, bởi trong Lời Chúa nói, vẫn có âm-nhạc được diễn-tả theo điệu kể của thánh Mát-thêu. Đó, còn là cung-cách rất riêng-tây của thánh Mát-thêu khi sử-dụng dụ-ngôn do vị tiền-nhiệm kể, để mọi người thấy được Đức Giêsu đích-thực là người Do-thái đã biết vui tươi, mỉm cười, dễ chịu.

Về cung-cách biết mỉm cười trong cuộc sống, cũng nên tìm hiểu xem thế nào là cười mỉm, vui tươi trong sống đời thường-tình, bằng các định-nghĩa ở bên dưới:

-Cười, là để học biết chấp-nhận hình-thái ân-huệ của cuộc sống khó có thể kiểm soát;

-Cười, là ý-nghĩa thần-học của việc mất đi hiểu-biết chính con người mình;

-Cười, là mỗi ngày sống dấu-chỉ của sự đồng-thuận cuối cùng và mãi mãi với thực tại;

-Diễu cợt – nực cười, là điều để ta cười vào đó, cho bõ sống;

-Chỉ những ai làm thế mới là người không áp-đặt mọi thứ vào chính con người mình;

-Cười, là để sống thân-thiện với mọi thứ;

-Cười là niềm cảm-thông bí-nhiệm với mỗi thứ và mọi thứ trong đời;

-Đứng ở trước những người biết cười như thế, ai cũng có dịp để đổi thay để ăn nói;

-Chỉ những ai đã yêu và từng biết yêu mới cảm-thông được như thế;

-Cười, khiến cho con người biết trở thành người đáng yêu;

-Cười, là cung-cách của những người không lo-lắng nhiều về phẩm-cách của mình;

-Cười, là cách gom mọi sự và mọi người vào với nhau để không còn mất nhau trong đời;

-Cười, khiến ta có thể bị người đời coi là hời-hợt, sống ngoài mặt; nhưng

-Cười, ít ra cũng làm bớt đi những gì tầm-thường, vào mỗi ngày;

-Cười trong sống đời hằng ngày cảnh-báo để mình sống tốt -lànhvới thực-tế ở đời;

-Cười, giúp tiến về phía trước với sự đồng-thuận vĩnh viễn và có uy-lực về mọi mặt, qua đó người được cứu sẽ nói lời Amen với tất cả những gì mình từng làm;

-Cười, là một phần của nghệ-thuật góp mặt vào mọi sự;

-Biết cười thực-sự và cười vang dội là lối sống khiến người người lướt vượt được mọi sự; và là loại-hình sống cuốn trôi nước mắt đi và đem chuyện vui vào với con người, dù đang gay gắt/nóng giận. Cười, còn phản-ánh rằng: con người không còn nghi ngờ những gì mang tính trẻ con hoặc thuộc về con trẻ nữa. (x. Karl Rahner, The Content of Faith, Crossroad 1994, tr. 148-153)

Cười như thế, mới hiểu được ý-nghĩa cuộc sống có Chúa vẫn biết cười vào mọi chuyện. Cười rồi, ta lại về với giòng thơ có khúc đoạn mang dáng vẻ buồn cười, rất đáng cười, mà rằng:

“Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,

Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.

Run tay ấp nửa bàn chân lạnh lạnh,

Thương những con đường mưa cuốn đi.”

(Đinh Hùng – Chớp Bể Mưa Nguồn)

Thương những con đường mưa cuốn đi. Cuốn cả hạt giống tốt tươi lẫn nụ cười, nên mới thế. Thương, là thương cả những người chưa thấm nhuần Lời Vàng Chúa dạy nơi dụ-ngôn “người gieo giống” còn ở mãi trong đầu người hiểu biết Nước Trời sống mãi nơi con người. Suốt mọi thời.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.

 

Người Việt ‘lo TQ, muốn Mỹ là đồng minh’

Người Việt ‘lo TQ, muốn Mỹ là đồng minh’

Thứ ba, 15 tháng 7, 2014

Vai trò của Mỹ và Trung Quốc với thế giới được các nước quan tâm

Một thăm dò dư luận cho biết đa số ở Việt Nam xem Trung Quốc là đe dọa số một và muốn Mỹ là đồng minh chủ chốt.

Thăm dò của Trung tâm nghiên cứu Pew tại Washington DC về thái độ của người dân tại nhiều nước được công bố hôm 14/7.

Kết quả tại Việt Nam dựa trên thăm dò từ 18/4 đến 8/5 với 1000 người tuổi từ 18 trở lên.

Tại Việt Nam, chỉ có 16% người được hỏi có thiện cảm với Trung Quốc, 67% cho Ấn Độ, 76% cho Mỹ và 77% cho Nhật.

Khi được hỏi nước nào là đe dọa lớn nhất, 74% người Việt chọn Trung Quốc.

30% chọn Mỹ là đồng minh chủ chốt, khiến Mỹ có điểm cao nhất tại Việt Nam cho câu hỏi về đồng minh.

69% người Việt cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ thay Mỹ làm siêu cường, trong khi chỉ có 17% tin điều này đã hay sẽ xảy ra.

Đồng minh và đe dọa

Không phải nước nào ở châu Á cũng có thái độ chống Trung Quốc.

Trong 10 nước châu Á được khảo sát, có sáu nước mà ở đó, đa số bày tỏ cảm tình với Trung Quốc. Ví dụ, tại Hàn Quốc là 56%, Indonesia 66%, Thái Lan 72%, Malaysia 74%, Bangladesh 77%, Pakistan 78%.

Nhật Bản nhận được cảm tình của ít nhất một nửa người được hỏi tại bảy nước châu Á – cao nhất là Thái Lan 81% và Philippines 80%.

Tranh chấp lãnh thổ khiến chỉ có 7% tại Nhật, 16% ở Việt Nam, và 38% ở Philippines có cảm tình với Trung Quốc.

 

Việt Nam và Trung Quốc gia tăng căng thẳng vì vụ giàn khoan

Ngược lại, chỉ có 8% ở Trung Quốc có cảm tình với Nhật, nhưng cũng có 50% người Trung Quốc cảm tình với Mỹ.

Đa số tại châu Á xem Mỹ là quốc gia họ có thể nhờ cậy.

8 trong 11 nước châu Á chọn Mỹ là đồng minh số một, như Hàn Quốc 68%, Nhật 62%, Ấn Độ 33%. Tại Việt Nam, 30% chọn Mỹ là đồng minh.

Có hai nước châu Á trong khảo sát chọn Trung Quốc là đồng minh: Malaysia 27% và Pakistan 57%.

Người Trung Quốc xem Nga là đối tác đáng tin cậy nhất (25%) và Mỹ là đe dọa (36%).

Tranh chấp biển đảo

Nhìn chung, các nước châu Á đều lo ngại về rủi ro chiến tranh do mâu thuẫn biển đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng.

Đa số người dân tại tám nước châu Á lo lắng tranh chấp có thể dẫn đến chiến tranh.

Tỉ lệ lo ngại này cao nhất ở Philippines 93%, Nhật 85%, Việt Nam 84% và Hàn Quốc 83%.

Tại Trung Quốc, cũng có 62% lo ngại về rủi ro chiến tranh, còn 34% không lo lắng.

Đáng quan tâm là 61% tại Philippines và 51% tại Việt Nam nói họ “rất lo ngại” về khả năng xung đột quân sự với Trung Quốc.

Hai phần ba người Mỹ được hỏi (67%) cũng lo lắng chiến tranh có thể xảy ra vì mâu thuẫn lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước.

“Đẩy nợ cho tương lai”

“Đẩy nợ cho tương lai

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-07-15

vuhoang07152014.mp3

000_Hkg8576388-305.jpg

Công nhân trồng hoa tại một khu đô thị cao cấp ở ngoại thành Hà Nội hôm 26/4/2013.

AFP

 

Trong kỳ họp thứ 7 vừa qua, các đại biểu Quốc Hội đã thẳng thắn nhìn nhận tình trạng Việt Nam vay nợ để trả nợ đang khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng và khó giải quyết đối với Việt Nam.

Đi vay để đảo nợ?

Nói về những khoản nợ của Việt Nam thì rõ ràng không có gì  là mới mẻ, bởi với một nền kinh tế đang phát triển, cần những khoản nợ để đầu tư, sản xuất… là chuyện hết sức bình thường, thế nhưng khi nền kinh tế được đánh giá là không có đủ năng lực để trả nợ thì lại là một câu chuyện hoàn toàn khác và có thể nói là nguy hiểm.

Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn với báo giới trong nước, Viện trưởng Viện quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung thẳng thắn phân tích: “Việc đi vay để trả nợ, điều đó chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm, nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.”

Theo T.S Nguyễn Đình Cung, đáng lẽ trong hoàn cảnh khó khăn về nguồn vốn, phải đi vay thì nguồn vốn đó dùng để tạo ra năng lực trả nợ, thế nhưng, trên thực tế những khoản vay mới không được dùng để đầu tư cũng như không tạo ra nguồn lực, mà là vay nợ để trả nợ, từ đó kéo theo khả năng trả nợ tiếp tục giảm đi. Tuy vậy, T.S Cung không quên bình luận trong ngắn hạn thì buộc phải áp dụng biện pháp đi vay về để đảo nợ.

Việc đi vay để trả nợ, điều đó chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm, nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.
-Nguyễn Đình Cung

Trao đổi với chúng tôi về các khoản nợ tại Việt Nam, T.S Phạm Chí Dũng cho biết quan điểm của ông dưới cả 2 góc độ vi mô và vĩ mô:

“Ông Đình Cung nhận xét đúng và khá trọn vẹn vấn đề và thậm chí còn mô phỏng vấn đề từ tầm cỡ những doanh nghiệp vi mô cho tới tầm vĩ mô của quốc gia. Đã có rất nhiều doanh nghiệp bất động sản trong giai đoạn từ 2011 đến 2014 đã phải tự giải tỏa các khoản nợ của họ bằng cách được ngân hàng cho vay lại, khi được cho vay lại, họ lấy số tiền cho vay lại đó và họ trả nợ cộng lãi cho ngân hàng và ngân hàng lại trùm thêm một số nợ. Đó là cách nhìn vi mô và từ đó chúng ta nhìn lên cách nhìn vĩ mô, nhà nước Việt Nam cũng như vậy thôi. Mặc dù không công bố, minh bạch nhưng tình hình tài chính hiện nay cực kỳ khó khăn và có vẻ như hiện tượng mà chúng ta đang đi đến điểm đích của nó là vẫn phải tiếp tục vay trong các năm tháng tới, vay không phải chỉ để đầu tư mà còn vay để trả nợ cho các khoản vay trước đó. Đó là các khoản nợ cứ gối đầu, chồng chất, hiện giờ người ta dùng cụm từ “đẩy nợ cho tương lai.”

no-cong-250.jpg

Ảnh minh họa. AFP PHOTO.

Tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội vừa qua, một con số báo động đã được đưa ra là nợ công Việt Nam vượt mức 80 tỉ đô la và tổng dư nợ cả năm chiếm hơn một nửa GDP, ở mức 53,4%. Nhiều người có thể lập luận rằng những quốc gia như Nhật Bản hay Singapore có tỉ lệ nơ công rất cao thậm chí chạm ngưỡng 200% GDP, nhưng lật lại vấn đề thì thấy rằng những quốc gia như Nhật Bản chẳng hạn lại là nước xuất khẩu và thâm dụng vốn rất lớn, cho nên họ có sự cân đối khác nhau. Trong khi đó, Việt Nam không phải là nước xuất khẩu vốn cũng như không phải là nước dồi dào về tư bản, thế nên tình trạng mất cân đối hiện tại hoàn toàn đáng phải xem xét và cần giải quyết triệt để.

Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, điểm nguy hại hiện tại là vay nợ nhưng không sử dụng hiệu quả đồng vốn vay, vì để đánh giá mức độ an toàn nợ công, người ta không chỉ dựa trên tổng lượng tiền nợ, mà quan trọng hơn là họ dựa trên hiệu quả sử dụng đồng tiền này.

Đầu tư hoàn toàn không hiệu quả?

Đơn vị đo này là ICOR viết tắt tiếng Anh của “hệ số sử dụng vốn” nhằm đo lường số vốn bỏ ra thêm để sản xuất một mặt hàng nào đó, chỉ số ICOR càng thấp càng tốt, một nền kinh tế phát triển bền vững sẽ có chỉ số là 3. Thế nhưng hiện tại, chỉ số ICOR của Việt Nam lên đến 9 và nhiều chuyên gia đánh giá “đầu tư hoàn toàn không hiệu quả.”

Sự “đầu tư hoàn toàn không hiệu quả” này được G.S, T.S Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế Trung Ương phân tích trong một bài phỏng vấn với báo Đất Việt. Khi đề cập đến đầu tư công tràn lan, lãng phí, các dự án ODA đội giá cao, G.S Lược khẳng định phần lớn các nước đi vay ODA đều là những nước kém phát triển và có nền quản trị kém, chính vì thế nó giải thích tại sao việc xây dựng đường cao tốc ở VN sử dụng vốn ODA luôn có giá cao hơn gấp 3 lần so với thế giới. Từ đó, G.S Võ Đại Lược đi đến kết luận cần phải xem xét một cách nghiêm túc bắt đầu từ chủ trương đầu tư của nhà nước có đúng không và xem xét lại nền quản trị và quá trình giám sát, thực thi chủ trương đó thế nào.

Cứ hình dung mỗi ngày ngủ dậy Ngân sách NN thu vào khoảng gần 3.000 tỉ đồng, tuy nhiên, con số chi cũng tương tự như vậy.
-Bùi Đặng Dũng

Quay lại với con số vay nợ, hiện tại, Việt Nam vay nợ nước ngoài dài hạn khoảng 50% và số còn lại 50% là ngắn hạn ở trong nước. Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc Hội Bùi Đặng Dũng nêu lên con số “cứ hình dung mỗi ngày ngủ dậy Ngân sách NN thu vào khoảng gần 3.000 tỉ đồng, tuy nhiên, con số chi cũng tương tự như vậy” điều này khiến chúng tôi liên tưởng đến con số mà T.S Vũ Đình Ánh của Viện tài chính giá cả có lần thừa nhận Việt Nam làm ra 100 đồng thì đã phải trả nợ hết 98 đồng rồi.

Nhắc về số nợ phải trả hàng tháng, T.S Lê Đăng Doanh trong một lần trả lời phỏng vấn gần đây với chúng tôi, ông cho biết:

“Theo tôi vấn đề nợ công rất phức tạp, hiện nay cứ mỗi ba tháng ngân sách Nhà nước phải trả nợ nước ngoài khoảng 1 tỷ USD. Đấy là một khoản nợ không phải là nhỏ và số nợ công trong những năm gần đây đã tăng lên một cách nhanh chóng. Đấy cũng là một yếu tố rất đáng chú ý và rất đáng lo ngại.”

Một yếu tố khác cũng đẩy con số nợ công lên cao đó là các khoản chi thường xuyên của chính phủ cũng tăng rất nhanh. Theo nhận xét của T.S Phạm Đình Cung thì gốc rễ của vấn đề này là vai trò của nhà nước. Ông cho rằng nếu vai trò của nhà nước thu nhỏ lại thì hoạt động sẽ ít đi, còn hiện tại, vai trò của nhà nước vẫn mở ra và càng mở rộng thì càng chi tiêu. Do đó, T.S Cung kết luận muốn thắt chặt ngân sách thì gốc của nó là vai trò của nhà nước và các bộ ngành, cần làm rõ vai trò của từng chủ thể để dễ dàng nhìn thấy các khoản chi cần thiết tới mức nào.

Trước khi kết luận về tình trạng nợ nần hiện tại, chúng tôi xin trích ý kiến của T.S Phạm Chí Dũng để thấy một bức tranh khá rõ về hiện tượng “đẩy nợ cho tương lai” mà ông nêu lên:

“Quả thực là hiện trạng nợ nần của Việt Nam hiện nay quá khó để giải quyết, không phải chỉ hiện nay mà từ những năm 2010, 2011 đã nêu ra vấn đề đó rồi. Những khoản nợ công quốc gia, lúc đó 2010 – 2011 chỉ khoảng 40 đến 45% thôi, còn hiện nay là khoảng 54%. Nhưng thực tế mà nói theo những phân tích của các chuyên gia thượng thặng như ông Vũ Quang Việt từng đánh giá là nợ công của Việt Nam có thể lên tới 106%, thời điểm đó, không một ai tin. Nhưng đến thời điểm diễn đàn mùa xuân năm 2013, 2014 vừa rồi thì các chuyên gia phản biện mới phải thừa nhận và đặt lại vấn đề tỉ lệ nợ công của VN lên đến ít nhất là 95%. nếu tình trạng nợ công tiếp tục tăng như thế này thì quá khó để VN trả nợ cho tương lai, nếu không muốn nói tất cả nợ sẽ đổ lên đầu con cháu chúng ta.”

“Tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống” là chuyện rõ ràng đang xảy ra ở Việt Nam, nhưng ở một quốc gia “nhà có chủ” đàng hoàng thì câu trả lời về tiền bạc, nợ nần hẳn dành cho những người “chủ nhà” trả lời sẽ hợp lý hơn cả.

 

Hiểm họa tiềm ẩn từ các dự án đầu tư Trung quốc

Hiểm họa tiềm ẩn từ các dự án đầu tư Trung quốc

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-07-15

07152014-poten-thre-fr-cn.mp3

Một công trình trong khu vực dự án Formosa có gần cả ngàn lao động người Trung Quốc làm việc.

Một công trình trong khu vực dự án Formosa được rào kín chung quanh có gần cả ngàn lao động người Trung Quốc làm việc.

Source nld.com

Việc các nhà đầu tư TQ trúng thầu quá nhiều các công trình trong lúc công tác quản lý về phía VN đã có quá nhiều sơ hở, điều đó không chỉ dẫn đến tình trạng làm cho kinh tế VN phụ thuộc vào kinh tế TQ, mà còn có thể tạo nên những nguy cơ về an ninh quốc phòng . Anh Vũ có  thêm chi tiết.

Việt Nam – Trung quốc là hai quốc gia láng giềng có chung đường biên giới, do các đặc điểm địa chính trị mang tính đặc thù đã khiến cho hai quốc gia có các quan hệ về kinh tế chính trị khá mật thiết.

Cảnh báo các gói thầu lớn đều vào tay TQ

Hiện tượng hầu hết các gói thầu lớn của Việt Nam đều rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc là biểu hiện hết sức đáng lo ngại. Đáng chú ý, các doanh nghiệp Trung Quốc được ưu đãi đến mức độ biệt đãi, không còn gì để ưu đãi hơn. Một hiện trạng đang bị báo chí trong nước nêu ra là trong khi người Việt thiếu công ăn việc làm, thì các doanh nghiệp Trung Quốc đã không sử dụng lao động VN mà lén lút đưa rất nhiều lao động phổ thông từ nước họ sang.

Đánh giá về thực trạng đầu tư của TQ vào VN hiện nay, T.S Ngô Trí Long thấy rằng sở dĩ nhà thầu TQ trúng thầu nhiều, lý do chính là do phía VN thiếu vốn nên phải vay từ nguồn quỹ vốn xuất khẩu từ phía TQ. Nhưng hầu hết các dự án đều thi công chậm tiến độ, rất nhiều công trình chậm đến 2 – 3 năm, chất lượng thiết bị không đồng đều, một số phải thay thế. Một điểm đáng chú ý là các nhà thầu TQ thường dùng thủ đoạn đút lót các doanh nghiệp VN để trúng thầu.

Từ Hà nội, T.S Ngô Trí Long cho biết:

“Đầu tư trực tiếp và gián tiếp của TQ vào VN  không nhiều, đặc biệt, họ hay đưa công nghệ lạc hậu vào VN. Thường thường họ bỏ thầu giá thấp, mà VN  trong giai đoạn đầu lại chủ yếu coi trọng về giá, hơn nữa thủ đoạn của TQ làm ăn, theo cách hối lộ, mua chuộc “có nghề” của họ. Thường thường tiền lệ của nhà thầu TQ đối với VN là: bỏ giá thấp, thi công chậm trễ, kéo dài, rồi yêu cầu đội vốn lên, đưa công nghệ lạc hậu vào, đưa lao động phổ thông vào nhiều, gây bất lợi cho VN.”

Đầu tư trực tiếp và gián tiếp của TQ vào VN không nhiều, đặc biệt, họ hay đưa công nghệ lạc hậu vào VN. Thường thường họ bỏ thầu giá thấp, mà VN trong giai đoạn đầu lại chủ yếu coi trọng về giá, hơn nữa thủ đoạn của TQ làm ăn, theo cách hối lộ, mua chuộc “có nghề” của họ

T.S Ngô Trí Long

Điều đó đã dẫn đến việc các ngành cơ khí, dệt may và ngay cả ngành hàng nông sản xuất khẩu… cũng đang phải gánh chịu hậu quả do phụ thuộc quá nhiều vào TQ. Không chỉ thế, việc đầu tư kinh tế của TQ cũng được dư luận cho là hình thức núp bóng để phục vụ cho các mục tiêu quân sự và quốc phòng đối với VN.

Thậm chí người Trung Quốc còn đặt nhiều tên đường VN bằng tiếng Hoa. Ảnh: đường Dong Fang, được tập đoàn điện khí Dong Fang Trung Quốc, trúng thầu xây dựng nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, đặt tên. Ở công trình này, tên các con đường nội bộ đều do nhà thầu T

Thậm chí người Trung Quốc còn đặt nhiều tên đường VN bằng tiếng Hoa. Ảnh: đường Dong Fang, được tập đoàn điện khí Dong Fang Trung Quốc, trúng thầu xây dựng nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, đặt tên. Ở công trình này, tên các con đường nội bộ đều do nhà thầu Trung Quốc đặt.

Theo truyền thông của nhà nước cho hay, trung tướng Đồng Sỹ Nguyên một quan chức cao cấp đã từng đặt câu hỏi, vì sao các doanh nghiệp TQ lại chọn thuê đất và đầu tư chủ yếu ở các tỉnh khu vực biên giới phía Bắc, hoặc các vị trí chiến lược trọng điểm như Tây nguyên, Cam ranh… Đặc biệt ở khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây Nguyên và họ đưa công nhân của họ vào với số lượng rất lớn?

Những lãnh địa riêng của Trung Quốc trên đất Việt

Cụ thể hàng loạt các cơ sở kinh tế lớn cùng hàng trăm kho bãi của các công ty Trung Quốc chạy dọc bờ sông Ka Long – Móng Cái, một địa điểm quan trọng cho an ninh quốc phòng vùng Đông Bắc. Hay Đặc khu kinh tế Vũng Áng được thuê trong 70 năm, hiện tại Trung Quốc đang biến nó thành một lãnh địa riêng, khi xây tường bao xung quanh, người Việt không thể vào được. Điều đó đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm rằng, ở chỗ nào người Trung Quốc đầu tư, thì người Việt không được vào.

Đáng chú ý, khu vực Vũng Áng nằm đối diện và cách đảo Hải Nam -Trung Quốc chỉ khoảng vài trăm km. Về phía tây, từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ có 50km, đây là khu vực có con đường chiến lược do Trung Quốc xây dựng, đồng thời di dân sang ở và phục vụ làm đường. Kết nối con đường này với Vũng Áng và căn cứ quân sự Tam Á trên đảo Hải nam là rất nguy hiểm.

Tôi cũng không hiểu tại làm sao mà trên lãnh thổ Việt Nam lại có các đơn vị Trung Quốc kinh doanh đóng kín, mà như người dân ở đấy nói lại, như ở Hà Tĩnh công an vào họ cũng không cho vào

TS. Lê Đăng Doanh

Bình luận về vấn đề này, TS. Lê Đăng Doanh nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW bày tỏ sự lo ngại và thấy rằng đây là một mưu đồ có tính toán rất nguy hiểm, đồng thời là hiểm họa rất lớn về lâu dài của TQ. Điều này nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến việc bảo vệ kiều dân như trường hợp đã xảy ra ở Ukraina vừa qua.

TS. Lê Đăng Doanh nói:

“Tôi cũng không hiểu tại làm sao mà trên lãnh thổ Việt Nam lại có các đơn vị Trung Quốc kinh doanh đóng kín, mà như người dân ở đấy nói lại, như ở Hà Tĩnh công an vào họ cũng không cho vào. Họ xây một khu riêng và dựng hàng rào lên kín mít và trong đó người dân không biết trong đấy họ làm cái gì và đấy là công nhân hay là lính hay là họ định chuẩn bị cái gì đây.  Nếu như vậy ở đấy đã thành ra lãnh địa của Trung Quốc rồi chứ còn gì nữa!”

Nói về thực trạng và các nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng trên, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ cho rằng phía VN đã rất mất cảnh giác. Theo bà công tác quản lý địa bàn của các cơ quan chức năng địa phương hiện rất lỏng lẻo, để mặc người Trung Quốc vào đầu tư hoặc làm việc tại các địa bàn trọng yếu mà không có giấy phép. Điển hình trong số này là vụ việc dân Trung Quốc nuôi tôm rất nhiều năm ở sát cảng Cam Ranh 300m, mà trong một thời gian dài các cơ quan chức năng thành phố này không hề biết.

Bà Phạm Chi Lan nói:

“Thực tế có nhiều doanh nghiệp hoặc cá nhân Trung Quốc vào làm ăn ở Việt Nam theo kiểu không có phép tắc gì cả và gây ra những nhiễu loạn trong xã hội cũng như gây thiệt hại cho người Việt Nam rất nhiều. Như chuyện họ đi nuôi tôm, nuôi cá ở vùng biển Khánh Hòa, hoặc đi thuê người dân trồng khoai lang ở Vĩnh Long hoặc là đi thu mua các loại rễ cây, sừng móng trâu bò v..v.. Những câu chuyện gần như là những câu chuyện thường kỳ trên báo chí rồi.”

Trong bài “Ai nguy hiểm hơn ai ?”, tác giả Nguyễn Hưng Quốc đã cảnh báo hiểm họa không thể lường hết được của lực lượng lao động chui người TQ đang có mặt rất đông từ Bắc chí Nam ở VN và cho rằng : “Đáng nói hơn nữa là những người Trung Quốc này làm gì ở Việt Nam? Nếu họ chỉ làm lậu không thì về phương diện kinh tế và xã hội, hậu quả đã rất đáng lo ngại. Còn nếu họ làm thêm việc gì khác nữa thì hậu quả thật không thể lường hết được. Nhất là khi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc không còn kìm giữ được nữa. Trong trường hợp ấy, rõ ràng là Trung Quốc đã có sẵn một lực lượng nằm vùng khổng lồ”.

Cảnh báo của giới chuyên gia như vừa nêu được đưa ra lâu nay; thế nhưng rồi các nhà thẩu Trung Quốc vẫn nhận được dự án tại Việt Nam. Mới đây là dự án đường cao tốc Đà Nẵng- Quảng Ngãi. Nhiều người thắc mắc tại sao chính quyền Hà Nội vẫn tiếp tục mất cảnh giác đến như thế!

 

Ông Bill Clinton trở lại Việt Nam

Ông Bill Clinton trở lại Việt Nam

Thứ ba, 15 tháng 7, 2014

Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton quan tâm đến châu Á

Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton dự kiến trở lại Việt Nam tuần này trong một phần chuyến thăm châu Á với chủ đề phòng chống HIV/AIDS.

Trong chuyến thăm một ngày, ông Clinton sẽ thăm một trại trẻ mồ côi ở ngoài Hà Nội hôm 18/7 để chứng kiến chương trình ngăn ngừa bệnh lao ở trẻ em nhiễm HIV.

Quỹ Clinton của cựu tổng thống quan tâm nhiều đến châu Á – Thái Bình Dương trong các lĩnh vực như y tế, thay đổi khí hậu.

Chuyến thăm châu Á của ông Clinton bắt đầu từ hôm 16/7 với việc thăm một bếp ăn ở Jaipur, Ấn Độ, cung cấp đồ ăn trưa cho học sinh.

Ông cũng sẽ thăm Indonesia, Papua New Guinea và kết thúc bằng bài phát biểu tại một hội nghị về AIDS ở Úc ngày 23/7.

Quỹ Clinton cho biết ông đã thăm châu Á – Thái Bình Dương 14 lần, trong đó có 11 lần trong tư cách tổng thống.

Năm 2000, ông Bill Clinton là tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam kể từ năm 1975.

Ông cũng là tổng thống Mỹ loan báo việc phục hồi quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào tháng Bảy 1995.

Cao niên mà phong độ

Cao niên mà phong độ

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Bác sĩ E. F. Schmerl, chuyên khoa bệnh tâm thần người cao tuổi, đã nêu ra nhận xét rằng:

“ Có cả ngàn cửa ngõ đưa tới sự già trước tuổi và chết yểu. Một trong những cửa ngõ đó là dáng điệu ( posture ) xấu của con người”.

Các nhân vật Dần, Tỵ, Hợi trong tác phẩm “Nhà Quê Ra Tỉnh” của nhà biên khảo Đoàn Thêm, khi nói về lớp người lớn tuổi mấy chục năm về trước, thì “đều phàn nàn rằng các cụ gắng uốn nắn con cháu, mà chính mình lại có những thái độ hoặc cử động không ngoạn mục chút nào. Đi, đứng, ngồi thì bệ vệ như quan to, hoặc co ro khúm núm, hoặc nghiêm trang trịnh trọng quá đến nỗi thành cụ non từ khi ba bốn mươi tuổi. Nhiều ông mới chừng 50 đã còng lưng, bước đi thì lê gót với đôi giầy ta lẹp kẹp”.

Xin hãy cùng tìm hiểu thêm về vấn đề này.

Dáng điệu con người.

Hình dáng con người là tặng phẩm của tạo hóa, nhưng tư thế, điệu bộ là do mình tạo ra. Ta có thể thay đổi nó, kiểm soát nó.

Từ Hải với “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” mà nếu dáng điệu so vai rụt cổ như đệ tử Nàng Tiên Nâu thì đâu có thể “đường đường một đấng anh hào” được.

Những người mẫu thời trang đâu có phải đẻ ra là đã có dáng điệu nhẹ nhàng, thanh thoát, vững chắc. Họ phải dầy công tập luyện cũng như kiên nhẫn gìn giữ cơ thể.

Người về già, dưới sữ dầy dạn của cuộc đời, cộng thêm lực kéo của trái đất, nếu không để ý thì sẽ có dáng điệu không đẹp. Mỗi ngày lưng sẽ còng thêm như chiếc sừng trâu, mắt dán xuống đất như đang đi tìm lại tuổi thanh xuân hay nhìn về ngôi mộ, đầu gối khum khum như sắp quỵ. Nom vừa không phong độ mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ chung của con người.

Một dáng điệu tốt là khi cơ thể ngay ngắn, ít nhất cũng như dấu chấm than ( ! ), người vươn cao lên, mắt nhìn thẳng ra chân trời.

Khi đi, mỗi bước đều dài, gọn, cả bàn chân chạm đất, hai tay vung vẩy nhịp nhàng, hai vai lui tới dẻo dai.

Khi ngồi thì lưng thẳng, ngực ưỡn, bụng hơi thót vào.

Ôn lại bài học về môn cơ thể, ta thấy bộ xương sống là cái đà dọc chính giữa để toàn thân treo vào đó: các bộ phận, mô, ngực, bụng …

Bẩy đốt xương cổ, 12 đốt xương ngực, 5 đốt xương lưng, 9 đốt xương hông xếp chồng chất lên nhau qua những đĩa đệm, và được giữ trong vị trí ngay thẳng bằng hệ thống cơ thịt, giây chằng và gân bền chắc, dẻo dai.

Hai bên cạnh đốt xương, có một cái nghạnh rỗng ở giữa, tất cả tạo thành một cái ống trong đó nằm dây thần kinh tuỷ sống. Từ đó, mệnh lệnh cho toàn thân được phát ra và mang cảm giác, kích thích ngoại cảnh được đưa về não.

Bẩy đốt xương cổ còn thêm nhiệm vụ che chở cho sự lưu thông của máu lên nuôi não bộ qua hai động mạch cảnh và hai động mạch xương sống.

Lợi ích của dáng điệu tốt

Khi cổ ngay thẳng, những động mạch nuôi não bộ không bị cong queo hay thu hẹp, khiến máu lưu thông không trở ngại.

Ta biết là não bộ dùng một khối khá quan trọng máu để có đủ năng lượng hoàn tất nhiệm vụ chỉ huy, phối hợp tất cả chức năng con người. Quan sát bệnh lý cho thấy khi máu lên não giảm, người ta có thể ngất xỉu hoặc bị tai biến mạch máu não nhẹ. Nhiều người thường hay bị nhức đầu, tê ngón tay, chóng mặt chỉ vì cái cổ không ngay thẳng.

Xương sống lưng và ngực ngay ngắn thì dưỡng khí ra vào phổi dễ dàng, tim mạch tuần hoàn lưu thông, tiêu hóa dạ dầy, đường ruột không co rúm gây trở ngại ăn uống, bài tiết. Tư thế xấu cũng gây đau nhức lưng, hông, rất thường thấy ở quý vị lão niên.

Vài nhà khoa học còn cho là tư thế ngay thẳng có thêm ảnh hưởng tốt tới khả năng trí tuệ, giúp ta kiểm soát, thích nghi trạng thái tinh thần hoàn hảo cho tới khi về già.

Quan sát những bệnh nhân cao niên của mình tại bệnh viện Fairmond, San Leandro, bác sĩ Schmerl thấy quý vị khoẻ mạnh đều có một tư thế tốt, còn các vị có rối loạn về thần kinh não bộ thì dáng điệu xiêu vẹo. Ông ta kết luận là dáng điệu có ảnh hưởng tới tuổi già và ngược lại.

Nguyên do sự thay đổi dáng điệu

Câu hỏi thường được nêu lên, là tại sao khi về già, tư thế, dáng điệu người ta thay đổi?

Sức hút của trái đất trên cơ thể là một yếu tố.

Rồi đến hao mòn, thoái hóa theo thời gian của hệ thống hỗ trợ giữ thăng bằng xương sống. Các mô liên kết hư hao, cơ thịt teo mềm, chất collagen của đĩa đệm mất tính đàn hồi, dẻo dai, làm xương sống lệch lạc, mặt xương mài xát vào nhau, xệ xuống.

Ngồi lâu ở cùng vị thế khiến gân thịt co lại, làm lệch người.

Sống trong tâm trạng buồn chán, dưới đe doạ thường trực của căng thẳng khiến cơ thịt ở cổ lúc nào cũng co thắt, vai xịu xuống, mắt đăm chiêu nhìn đất.

Hoặc do trời trao cho như trường hợp gù lưng của nhân vật Quasimodo trong tác phẩm The Hunchback of Notre Dame do Victor Hugo viết.Tội nghiệp anh này vì lưng quá còng nên hơi thở khó khăn, dung tích phổi giảm, tim bị nhồi ép hoạt động kém, di động một lúc đã thở hổn hển, mệt mỏi.

Để có dáng điệu tốt
Giữ cho có một dáng điệu tốt đã là niềm ưu tư của con người từ thuở xa xưa.

Người Trung Hoa với tục dùng vải bó chân từ bé cho con gái khuê các để bàn chân đừng nở lớn như chân đàn ông. Và để khi bước đi thì uyển chuyển, nhẹ nhàng.

Dân chúng bộ lạc Mayan cho là xương sọ dẹp nom đẹp hơn vì vậy họ ép xương đầu với hai mảnh ván mỏng.

Dân Padung ở Miến Điện làm dài cổ với những chiếc vòng kim loại chồng lên nhau, đè vai thấp xuống cho cổ vươn lên như cổ hươu.

Còn ta ngày nay nếu có quan tâm giữ cho có tư thế cơ thể tốt là nhắm mục đích cải thiện sức khoẻ, duy trì biểu tượng của con người tích cực hoạt động, yêu đời.

Sau đây là một vài thế để điều chỉnh dáng điệu :

1- Dáng người khi đi, đứng.

Để có dáng ngay thẳng, ta đứng dựa lưng vào tường, làm sao cho hông, vai và đầu đụng sát lên tường. Như vậy, lồng ngực và bụng không gây trở ngại cho vai trò của các bộ phận ở trong.

Giữ dáng này cho mọi động tác đi đứng.

Nên nhớ là không đứng ngay đơ như kiểu đứng của “mấy thầy lính tập” ngày xưa với cổ ngửa nhìn trời, cản trở máu lưu thông lên não bộ.

2- Khi ngồi.

Ngồi hết mông vào mặt ghế cho thoải mái, vai và hông dựa sát thành ghế, đầu gối thư dãn di động tự do.

Trước khi ngồi, đứng quay lưng về ghế, hai chân hơi dạng ra và để gần gầm ghế, đầu gối hơi cong, ngả thân về phía trước, mông đưa về sau và đặt từ từ xuống ghế. Ngoài ra cũng cần đều đặn luyện tập vài cử động có tích cách làm thư dãn gân cốt, cơ thịt ở cổ, lưng, hông,vai, ngực và tứ chi. Nhiều người đã có lý khi nói: lưng yếu làm lưng đau.

Nguyên nhân gây rối loạn cuả dáng đi.

Sau đây là một số nguyên nhân đưa đến sự thay đổi dáng đi:

1- Biến chứng của bệnh tiểu đường, ghiền rượu, thiếu sinh tố B12.

2- Chấn thương cột tủy sống, não bộ.

3- Người bị bệnh Parkinson, như võ sĩ Mohamed Ali.

4- Phong thấp khớp.

5- Do tác dụng phụ của một số dược phẩm.

6- Khiếm khuyết thị giác và giảm cảm giác ngoài da.

7- Biến chứng của tai biến mạch máu não.

8- Không nguyên nhân: Đây là diễn tiến tự nhiên nhưng quá mức của người già khi đi đứng, với tốc độ di chuyển giảm, mất thăng bằng cơ thể, cử động kém nhịp nhàng. Khi đi, chân họ dạng ra, bước ngắn, thân ngả về phía sau nên dễ ngã, mặc dù chân không yếu, không có dấu hiệu nào chứng tỏ có sự rối loạn về thần kinh vận động.

Dáng đi của người bị những bệnh kể trên diễn ra theo một số kiểu, đôi khi đặc thù cho từng bệnh.

Có người khi di chuyển, các khớp xương hông, đầu gối và cổ chân duỗi thẳng, bước chân dang ra ngoài, đi khó khăn, chậm chạp, yếu, móng chân đôi khi quệt xuống đất. Đây là dáng đi thường thấy ở người bị tai biến mạch máu não.

Bệnh nhân bị Parkinson có những bước đi ngắn, cứng nhắc, kéo lê chân trên mặt đất. Họ cất bước khó khăn, bước đi nhanh, chậm bất thường khiến dễ ngã. Ở người này, khớp hông, đầu gối, cổ chân và khuỷu tay co lại, cánh tay ghìm sát vào thân, thân ngả về phía trước.

Trong bệnh tiểu đường, các biến chứng thần kinh khiến bệnh nhân đi không vững, thân ngả về phía trước, chân dạng ra, bước đi không mềm mại, ngắn dài khác nhau, bàn chân nhấc cao rồi đập mạnh xuống đất.

Nhiều người sau khi mổ mắt cườm, hoặc đổi kính hai tròng (bifocal ) cũng có dáng đi không vững này trong một thời gian ngắn.

Người bị bệnh phong thấp, nhất là ở hạ chi, khớp xương cứng, hao mòn, giảm mức độ cử động, cơ thịt teo yếu. Họ đi không vững, thân ngả về phía bình thường để bớt đau.

Dáng đi bắt đầu thay đổi từ tuổi ngoài 30. Khi tới tuổi cao, bước đi sẽ ngắn, bàn chân không nhấc cao lại giữ lâu trên mặt đất, nhịp đi lạch bạch, cánh tay ít đu đưa, vung vẩy, khớp vai ít nhúc nhích, thân ngả về phía trước để giữ thế thăng bằng.

Người cao tuổi thường đứng không vững khi muốn xỏ một chân vào ống quần, và vì sợ ngã, nên phải kiếm vật gì để vịn.

Hậu quả thay đổi dáng đi.

Rối loạn dáng đi là một trong những nguy cơ khiến người cao tuổi hay bị ngã, tạo ra thương tích như gẫy xương chân tay, chấn thương não bộ, đưa đến tàn tật.

Ngoài việc điều trị căn nguyên bệnh, sự phục hồi khả năng di động của bệnh nhân rất quan trọng. Có những chương trình y khoa phục hồi, làm tăng khẩu độ cử động các khớp, cũng như huấn luyện điều chỉnh dáng đi cho thăng bằng trở lại, hướng dẫn cách xử dụng xe lăn, gậy, nạng .

Ngoài ra cũng cần khuyến khích, nâng cao tinh thần của người cao tuổi hay sợ ngã, để họ tự tin hơn và đè nén sự sợ ngã khi di chuyển.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas Hoa Kỳ.

Cứ tưởng là một giấc mơ

Cứ tưởng là một giấc mơ

Nhìn lại quảng đời đã qua, năm nay vừa tròn 72 tuổi, mới thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Những năm nằm trong các trại tù ở miền Bắc anh em đồn rằng các tù cải tạo sẽ vĩnh viễn định cư ở trong vùng rừng núi của tỉnhThanh Hoá mà người lo việc này là Tướng Nguyễn Hữu Có. Sau đó vợ con muốn sống chung thì đến Thanh Hoá mà sống.

Chuyện trở về nhà từ các trại tù là điều mỏng manh, khó tin, vì anh em biết rằng sẽ không chịu nổi đói khát bịnh tật mà chết trước khi được về với gia đình.Hơn nữa rất nhiều người tù, bị bắt sau ngày ký hiệp định Geneve 20-07-1954, sau khi ra tù rồi, bị chỉ định cư trú ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú mà tôi đã gặp khi đi lao động ngoài trại, thời gian này khoảng năm 1979- 1982. Họ không có giấy tờ gì cả không được rời khỏi nơi cư trú.

Rồi chuyện định cư tại Mỹ cũng chỉ là một giấc mơ.Trước năm 1993, em dâu tôi thường  chế diễu tôi:” Không lo làm ăn tối ngày cứ ” lo chuyện mò kim đáy biển”, (chuyện mơ đi Mỹ), vì anh em tù cải tạo thường hay ra vườn hoa thống nhất, trước đinh Độc Lập cũ để nghe ngóng tin tức về chuyện ra đi.

Thế mà ngày hôm nay (13-07-2014) Thiên Chúa đã ban cho tôi ơn trọng đại là vẫn còn sống, có sức khỏe, ban ơn bình an, được đoàn tụ vui vẻ cùng các con cháu.

Có niềm vui nào hơn nữa được đâu?

Xin cảm tạ Chúa và cám ơn toàn thể gia đình và các bạn hữu xa gần.

Phùng Văn Phụng

07/2014

Tác giả cùng các cháu nội ngoại

Thất nghiệp, sinh viên trường y xin nuôi bệnh thuê

Thất nghiệp, sinh viên trường y xin nuôi bệnh thuê

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-07-14

07142014-medc-stu-ask-patien-care.mp3

Ngồi vật vạ cùng người nhà bệnh nhân để chờ các khoa mở cửa vào chăm sóc bệnh nhân....

Ngồi vật vạ cùng người nhà bệnh nhân để chờ các khoa mở cửa vào chăm sóc bệnh nhân….

RFA

Mùa hè đến, đa phần sinh viên về quê nghỉ ngơi để chuẩn bị cho năm học mới. Thế nhưng ở các bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện vip, nơi có các quan chức và giới nhà giàu nằm dưỡng bệnh, một số sinh viên trường y đã chọn việc ở lại chăm sóc bệnh nhân để kiếm tiền phụ giúp gia đình, tích lũy cho năm học mới và dành dụm cho đến lúc ra trường có cái để bôi trơn những bộ hồ sơ xin việc. Ở bệnh viện C Đà Nẵng, nhóm các sinh viên trường Trung cấp Y Đà Nẵng đi chăm bệnh thuê có lúc lên đến vài chục người. Những ngày cao điểm, có thể con số này ngót nghét trăm người.

Nhờ vào những quan chức thiên tài

Một sinh viên tên Nguyên, đã tốt nghiệp hệ trung cấp y, nghĩa là trở thành một y tá điều dưỡng khi vào nghề nhưng cô đã thất nghiệp ba năm nay, chia sẻ:“Phòng em ở có 5 đứa cũng học ngành y giống em  nhưng chưa có đứa nào có việc cả. Ngày xưa em đi học thì đi làm thêm, em trông bà mẹ của một cô làm bên sở nhà đất, hai năm sau thì mẹ của cô này mất, cô có mấy người bạn nhờ trông nên nhờ trông vậy đó, xong rồi cứ thế biết biết rồi trông miết luôn. Tụi em cũng mong có một chỗ làm ổn định lắm chứ nhưng nộp hồ sơ miết mà họ không gọi.”

Theo Nguyên, vấn đề sinh viên tốt nghiệp, ra trường bị thất nghiệp là một vấn đề hết sức thời sự tại Việt Nam và đây cũng là căn bệnh vô phương cứu chữa. Muốn có việc làm, việc đầu tiên là tự hỏi tiền đâu. Khi trả lời được câu hỏi tiền đâu xong, lúc ấy hẳn vác đơn đi xin việc. Bởi vì các tấm bằng đại học còn thất nghiệp đầy rẫy ra đấy thì nghĩa lý gì tấm bằng trung cấp như Nguyên.

Nguyên lắc đầu chua chát nói thêm rằng tấm bằng đại học, cao đẳng và trung cấp ở Việt Nam chỉ có giá trị ngang với cái vé vào cổng bất kì cơ quan nào. Mà đã là vé thì ai có tiền nhiều, có quyền nhiều sẽ tự biết sẽ trang bị cho họ loại vé nào, vé gì. Và chỉ có ở Việt Nam mới có những cán bộ thiên tài, không có xứ nào có được những cán bộ thiên tài giống như Việt Nam.

” Phòng em ở có 5 đứa cũng học ngành y giống em nhưng chưa có đứa nào có việc cả. Ngày xưa em đi học thì đi làm thêm, em trông bà mẹ của một cô làm bên sở nhà đất, hai năm sau thì mẹ của cô này mất, cô có mấy người bạn nhờ trông nên nhờ trông vậy đó, xong rồi cứ thế biết biết rồi trông miết luôn

Một sinh viên tên Nguyên”

Để chứng mình thêm cho luận điểm về cán bộ thiên tài của mình, Nguyên đưa ra hàng loạt cái tên cán bộ cao cấp trong bộ máy cầm quyền từ cấp huyện đến cấp trung ương mà khi còn làm những chức vụ lẻ tẻ, có người chỉ mới học xong lớp sáu, lớp bảy, nhưng đùng một cái, khi lên làm quan cấp cao, họ học băng từ lớp bảy sang đại học và tốt nghiệp đại học chỉ trong vòng bốn hoặc năm năm. Trong khi đó, một người bình thường, không phải là thiên tài thì có thông minh cỡ nào cũng tốn trên mười năm để hoàn thành quá trình học tập này.

Bởi chính yếu tố thiên tài của các cán bộ, các quan chức quá nhiều, hay nói cách khác là cán bộ thiên tài quá đông trong bộ máy nhà nước, chiếm hầu hết các cơ quan sự nghiệp hành chính Việt Nam mà đáng sợ hơn là các quan chức thiên tài này lại sống lâu sống khỏe, có người tuy mặt mày già khụ nhưng lý lịch chỉ chưa đầy 50 tuổi nên còn lâu họ mới nghỉ hưu. Mà khi họ trụ quá lâu như thế thì cơ hội làm việc cho các trí thức trẻ, các sinh viên có bằng cấp e rằng nhỏ lắm, chẳng khác nào lạc đà chui qua lổ kim.

Đó là chưa muốn nhắc đến chuyện thế vị ở các cơ quan nhà nước, cứ theo đà cha truyền con nối, cha làm giám đốc, con có học dốt chăng nữa vẫn có vé vào ngồi ghế hội đồng quản trị hoặc đoàn chủ tịch, bàn giám hiệu gì đó trong các cơ quan. Mà một khi các quan chức thiên tài giữ vững truyền thống cha truyền con nối thì cơ hội cho Nguyên đi chăm sóc bệnh nhân kiếm tiền đắp đổi qua ngày là dài dài, mút mùa lệ thủy!

Kiếm cơm chật vật và những cuộc cạnh tranh đầy nước mắt

Một sinh viên tên Cẩm Tú, đang học năm thứ hai trường trung cấp y tế Đà Nẵng, thường tranh thủ những ngày cuối tuần đi chăm sóc bệnh nhân ở bệnh viện C Đà Nẵng, tâm sự: “Thì lúc đầu cũng hơi mặc cảm vì bạn mình có ai đi chăm đâu nhưng sau này cũng bình thường thôi! Ra trường thì khả năng xin việc khó.”

Cẩm Tú tiết lộ với chúng tôi rằng hiện tại, có một cuộc cạnh tranh ngấm ngầm và nhiều nước mắt giữa các thế hệ chăm sóc bệnh nhân thuê trong các bệnh viện Đà Nẵng. Đó là cuộc cạnh tranh giữa các sinh viên trường y với đầy đủ chuyên môn của một y tá trong tay, cộng thêm sức trẻ với những người nuôi bệnh thuê vốn không có nghề nghiệp, xuất thân nghèo khổ.

” Một cuộc cạnh tranh ngấm ngầm và nhiều nước mắt…Đó là cuộc cạnh tranh giữa các sinh viên trường y với đầy đủ chuyên môn của một y tá trong tay, cộng thêm sức trẻ với những người nuôi bệnh thuê vốn không có nghề nghiệp, xuất thân nghèo khổ”

Nếu như các sinh viên chăm sóc với giá 300 ngàn đồng mỗi ngày và liên tục được người nhà bệnh nhân yêu cầu chăm sóc thì những người chăm sóc bệnh nhân cao tuổi, không có nghề lại rất vất vả, chật vật đi tìm người để chăm sóc với giá từ 200 đến 250 ngàn đồng, đời sống trở nên bấp bênh, không ổn định trong lúc bản thân họ còn gánh nặng gia đình, con cái ăn học.

Theo nhận xét của Cẩm Tú thì tình trạng này đang ngày càng khốc liệt hơn, chính Cẩm Tú đôi khi cũng phải rơi nước mắt khi chịu khó suy nghĩ về cuộc cạnh tranh ngấm ngầm giữa các sinh viên với những người nghèo khổ mà câu chuyện cũng chỉ xoay quanh chén cơm manh áo. Nếu như Cẩm Tú và các bạn của cô phải chật vật kiếm tiền để lo lót công việc lâu dài thì những người mẹ, người chị làm công việc chăm sóc bệnh nhân thuê kia cũng chật vật kiếm tiền để lo cho con em của họ đến trường. Suy cho cùng, đều kiếm tiền để chung chi, nộp và tồn tại, chẳng có gì khác!

Trong lúc Cẩm Tú và những sinh viên trẻ trung, nhanh nhẹn khác được người nhà chú ý và chấp nhận bỏ ra ba trăm ngàn đồng trên mỗi ngày đêm để chăm sóc người thân bị bệnh, và nhóm của Tú phải đạp lên những ray rứt khi cạnh tranh để làm việc, đương nhiên là không phải hoàn toàn không trả giá cho cơ hội này.

Có những mức chung chi ngầm bằng cách này hoặc cách khác với một số y tá trong bệnh viện để họ chấp nhận cho nhóm vào chăm sóc bệnh nhân mà không làm khó. Và cũng không hiếm những bệnh nhân quờ quạng, có dấu hiệu dê sòm với các cô sinh viên trẻ. Hầu như công việc nào của các sinh viên sau khi ra trường đều phải trả giá không nhỏ về cả tiền bạc, lòng tự trọng và danh dự.

Hiện tượng thất nghiệp tràn lan của các sinh viên sau khi ra trường đang là căn bệnh của xã hội Việt Nam. Và không riêng gì bất kì ngành nghề nào, hầu như tất cả mọi ngành nghề đều vướng phải nạn thất nghiệp. Đặc biệt, trong lúc giàn khoan HD 981 trở thành đề tài nóng của thời sự, nạn thất nghiệp càng tăng dữ dội. Với đà này, chỉ một thời gian ngắn, người lao động Việt Nam sẽ gặp nhiều khốn đốn!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Tôi gia nhập Công giáo

Tôi gia nhập Công giáo

Chuacuuthe.com

VRNs (15.07.2014) – Sài Gòn – Tôi là tân tòng Công giáo và đã gia nhập Dòng Ba Đa-minh. Trước đây tôi đã là một Phật tử hơn 20 năm. Khi nói về Phật giáo và ơn tái sinh, tôi nói một chút về chuyện cải đạo của tôi, từ vô vọng tới hy vọng.

140715001

HÀNH TRÌNH TỚI PHẬT GIÁO

Tôi không hẳn là một Phật tử. Gia đình tôi không mang tính tôn giáo, mặc dù bên nội có theo Anh giáo và có thân nhân là linh mục Anh giáo. Còn về bên ngoại, tôi không nhớ có quan tâm tôn giáo hay không. Tôi nghe nói bà ngoại tôi nói rằng bà là Phật tử. Mới đây tôi biết được rằng gia đình ông ngoại theo Công giáo, mặc dù ông đã bỏ đạo. Tôi không biết tại sao, nhưng vì lý do nào đó, khi tôi còn trẻ, tôi vô ca đoàn của nhà thờ Anh giáo. Tôi thích hát nhạc đạo.

Đầu thập niên 1960, tôi được thêm sức tại một nhà thờ Anh giáo do Giám mục giáo phận Dover. Hồi đó tôi quan tâm cách sống và những điều bình thường đối với một thiếu niên. Tôi để tóc dài và ăn mặc khác người.

Tôi tới trường đại học Sussex để đọc sách triết. Đó là điều phổ biến đối với nhiều người hồi cuối thập niên 1960, tôi quan tâm việc suy tư và những điều về Ấn độ, nhất là triết học Ấn độ. Rồi tôi có bằng tiến sĩ triết học Phật giáo của ĐH Oxford.

Khoảng năm 1973, tôi bắt đầu coi mình là một Phật tử. Cuối cùng tôi quy y, chính thức trở thành Phật tử, theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng của Đức Dalai Lama. Đầu thập niên 1980, khi dạy tại ĐH Bristol, tôi cùng một nhóm người đến Trung tâm Phật giáo. Rồi tôi còn dạy thực hành Phật giáo tại trung tâm này. Với vốn triết học Phật giáo, tôi đã viết sách và nói về Phật giáo Tây Tạng trên các chương trình truyền hình, phát thanh, và tại các hội nghị. Tôi tham gia đối thoại với các Kitô hữu, trong đó có thần học gia Hans Küng (linh mục Công giáo, người Thụy Sĩ) và linh mục Raimundo Pannikkar (1918-2010, người Tây Ban Nha).

Tôi thích triết học, tôi cũng thích suy tư và triết Đông phương. Nhiều người trong nhóm chúng tôi thấy Phật giáo thu hút ngay từ đầu. Riêng Phật giáo có vẻ dễ cảm và ngoại lai hơn một tôn giáo hữu thần như Kitô giáo. Các Phật tử không tin và Chúa. Có lẽ không có lý do nào để họ tin Chúa, và sự hiện hữu của cái xấu phô bày cho chúng ta sự tranh luận tích cực chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa. Những người đó được dạy như các Kitô hữu được dạy bảo vệ sự hiện hữu của Thiên Chúa trong một thế giới không có hệ thống chống lại những kẻ phỉ báng. Trong Phật giáo có một hệ thống luân lý rất ngụy biện (và ngoại lai), tâm linh và triết lý không đòi hỏi Thiên Chúa. Khi trở thành Phật tử, chúng ta nghĩ có một người suy tư với các Phật tử, những người thực sự biết cách thiền niệm (meditation).

SỰ ĐẦU THAI

Tuy nhiên, qua nhiều năm là Phật tử, càng ngày tôi càng cảm thấy không thoải mái với Phật giáo. Điều này làm tôi quan ngại về sự đầu thai (sự sinh lại, rebirth) và giáo lý về nghiệp chướng (karma). Các Phật tử tin vào sự đầu thai, nghĩa là sự tái sinh (reincarnation). Các Phật tử cho rằng không có sự bắt đầu đầu tiên theo thời gian (chronological first beginning) đối với các kiếp sống đã qua. Chúng ta được sinh lại rất nhiều lần. Không có thần thánh nào bắt đầu – vì không có sự bắt đầu đầu tiên. Mọi thứ đều vĩnh hằng.

Ngày nay, niềm tin vào sự đầu thai kiếp khác có vẻ khá phổ biến ngay cả trong những người không là tín đồ Phận giáo hoặc Ấn giáo. Thậm chí có các Kitô hữu cũng tin có sự đầu thai. Nhưng sự đầu thai được biết nhiều trong thời Hy Lạp cổ đại và Rôma, chưa bao giờ có trong Kitô giáo truyền thống. Có lý do về vấn đề này. Sự đầu thai không tương xứng với giáo lý Kitô giáo, kể cả giá trị vô giá của mọi người, và sự công bình của Thiên Chúa. Nếu có sự đầu thai, chúng ta chẳng hy vọng gì. Đó là giáo lý vô vọng. Là Phật tử, tôi cũng chẳng có niềm hy vọng. Bạn không tin? Để tôi giải thích…

ĐẦU THAI LÀM CON GIÁN

Tôi muốn bạn tưởng tượng rằng người ta bảo bạn sẽ bị hành hình không đau đớn vào sáng sớm. Bạn không lo vì không đau đớn, nhưng bạn vẫn sợ. Vậy tại sao bạn sợ? Có thể nỗi sợ nằm trong việc chấm dứt các kế hoạch cho tương lai của bạn – câu chuyện thế là xong. Hoặc có thể bạn không muốn mãi mãi rời xa người thân và bạn bè. Hoặc có thể nỗi sợ của bạn trống rỗng, là hư vô (nothingness). Vậy bạn thực sự sợ cái gì?

Hãy tưởng tượng người hành hình nhẹ nhàng ôm bạn và bảo bạn đừng lo lắng, vì điều đó chẳng có gì ghê gớm. Mặc dù bạn bị hành xử, bạn vẫn thấy rằng các tín đồ Phận giáo hoặc Ấn giáo nói đúng. Bạn được đầu thai ngay lập tức. Thật vậy, bạn được đầu thai làm con gián ở Nam Mỹ.

Bạn vẫn lo sợ. Thậm chí bạn còn sợ hãi hơn nữa. Nhưng tại sao bạn lại sợ vậy? Là một con gián sẽ trả lời tất cả, nỗi sợ xuất hiện trong đầu bạn khi bạn nghe nói mình sắp bị xử tử. Chắc chắn những con gián cũng có các dự định tương lai: Có đủ thức ăn, làm hại con người, hoặc thanh thản sống. Dĩ nhiên, là một con gián thì bạn phải lìa xa người thân và gia đình, nhưng rồi trong cuộc sống, chúng ta cũng vẫn thường xa lìa họ. Người thân và bạn bè có thể tách khỏi chúng ta vì phải tha phương cầu thực, bị tù đày, chiến tranh, cãi nhau,… Nếu họ chết, hoặc chính bạn chết, sự xa lìa vẫn xảy ra. Vậy tại sao chúng ta sợ mình chết hơn là người thân chết? Là con gián, bạn sẽ có rất nhiều thân nhân gián và bạn bè gián để thay thế những người mà bạn bị mất. Vậy là đâu đến nỗi tệ như bạn nghĩ. Là con gián thì không là hư vô. Đó vẫn là cuộc đời. Bạn vẫn sống kia mà!

Vậy tại sao chúng ta không muốn? Tại sao chúng ta vẫn không hứng thú khi sắp bị xử tử, và bạn sẽ là con gián ở Nam Mỹ? Bạn có thể nói rằng gián là sinh vật ghê tởm lắm, xấu xa lắm, độc hại lắm. Vậy ai muốn làm con gián? Điều này có công bằng không? Có thể con gián không khủng khiếp và xấu xí đối với chúng. Cuối cùng, tôi hy vọng các xác ướp sẽ yêu thương chúng.

Bạn có thể tưởng tượng mình là con gián? Bạn có thể tưởng tượng cuộc sống của loài gián? Chắc chắn là không. Chúng ta không mong mình sẽ biến thành con gián sau một giấc ngủ. Chẳng ai muốn vậy. Đó là tôi ví dụ khôi hài cho vui thôi!

SỰ ĐẦU THAI LÀ KẾT THÚC

Quan điểm của tôi là gì? Đây là quan điểm của tôi: Cái gì làm chúng ta sợ bị xử tử và đầu thai làm con gián là vấn đề đơn giản, và đó là kết thúc của tôi. Tôi không thể tưởng tượng mình đầu thai thành con gián vì tôi chẳng có gì để tưởng tượng. Đơn giản là tôi không muốn như vậy. Nếu có sự đầu thai thì cũng chẳng có ai thoát chết. Đối với tôi, câu chuyện này đã kết thúc. Có thể có sự sống khác theo một loại liên kết nhân quả (causal connection) nào đó đối với cuộc sống của tôi (ảnh hưởng bởi nghiệp chướng của tôi), nhưng đối với tôi thì chẳng còn gì hơn. Nghĩa là đã chấm dứt. Chẳng có gì để nói về tôi nữa!

Không có nghĩa là Phật giáo sai. Nhưng nếu Phật giáo đúng, cái chết của chúng ta là có thật, rất thật. Sự chết là kết thúc của chúng ta. Theo truyền thống, ít nhất là ở mức độ ngày đối với ngày, các tín đồ Phật giáo và các tín đồ khác chấp nhận sự đầu thai để che khuất thực tại này khi nói tới “sự đầu thai của mình” và “quan tâm cuộc sống tương lai”. Nhưng bất cứ sự đầu thai nào (chẳng hạn, làm con gián ở Nam Mỹ) sẽ không là sự đầu thai, và do đó có vấn đề nghiêm trọng là tại sao người ta quan tâm vấn đề đầu thai của con người.

Tôi bắt đầu hiểu rằng nếu Phật giáo đúng thì tôi không đạt được giác ngộ để vào Niết Bàn (nirvana) hoặc điều gì đó tương tự như vậy trên đời này, nơi mà vòng luân hồi (cycle of rebirth) sẽ hoàn toàn kết thúc, tôi không còn hy vọng gì nũa. Rõ ràng, tôi không đạt được Niết Bàn ở đời này. Mọi Phật tử đều có xu hướng chấp nhận đó là thật khi quan tâm người khác. Giác ngộ là thành tựu cao cấp và rất hiếm đối với các anh hùng tôn giáo, không phải những người như chúng ta – chắc chắn càng không phải là người như tôi. Như vậy, tôi (cùng với người thân và bạn bè của tôi) vô vọng. Từ quan điểm Phật giáo, theo thời gian vô hạn, tầm quan trọng của mỗi người chúng ta, như chính con người của chúng ta, đều đồng quy về hư vô. Mỗi chúng ta đều sống và chết. Mỗi chúng ta sẽ mất mãi mãi. Đối với tôi, Phật giáo là vô vọng. Nhưng tôi có chắc rằng Phật giáo đúng? Thánh Phaolô biết rất rõ, ít nhất là Kitô giáo cho chúng ta niềm hy vọng: “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15:13).

NGHIỆP CHƯỚNG

Tôi muốn nói về lý thuyết của sự đầu thai và nghiệp chướng. Đây là lý thuyết mà các hành động đạo đức và xấu xa đều có hệ lụy vui mừng và đau khổ đối với chúng ta. Như vậy, nếu tôi vấp và đau ngón chân út, kinh nghiệm đau nhức là hệ lụy của hành vi xấu do chính tôi làm trong quá khứ. Nếu điều tôi nói là đúng thì các nguyên tắc về nghiệp chướng có nghĩa là một số người nào đó thoát khỏi hậu quả của hành vi xấu, còn một số khác có kinh nghiệm không vui chịu hậu quả của hành vi xấu mà họ không làm.

Hãy cân nhắc: Giả sử một nhà độc tài khủng khiếp ra lệnh hành hình đau đớn hàng ngàn người ngay khi ông ta hấp hối. Rồi nhà độc tài này chết, ông ta không bao giờ chịu hậu quả ghê gớm qua nghiệp chướng. Chắc chắn sẽ có người khác phải chịu hậu quả khủng khiếp đó. Nhưng trước hết, điều gì xảy ra với nhà độc tài đó? Rõ ràng là sự đầu thai sẽ làm tổn thương người khác vì những gì ông ta không làm. Chẳng hạn, một đứa bé bị bệnh vì điều gì đó mà người khác làm, mặc dù đứa bé đầu thai làm người khác, khó có thể phác họa một chân dung làm thỏa mãn hoặc công bằng. Cách trả lời có thể chấp nhận nhất là đứa bé đó không hề làm điều xấu thì không có con gián con sau khi tôi bị hành hình.

Các Phật tử không tin có Thiên Chúa hiện hữu, nhưng nếu có một Thiên Chúa như vậy thì chắc chắn lý thuyết về nghiệp chướng sẽ không tương thích với sự công bằng của Ngài. Vì thế, người ta ném một người vào đống rác của lịch sử bởi sự đầu thai.

KITÔ HỮU CÓ NIỀM HY VỌNG

Có lẽ rõ ràng là nếu tôi đầu thai làm người khác ở đời này tức là tôi không còn hiện hữu. Rõ ràng là tôi không còn hiện hữu nếu tôi đầu thai làm con gián ở Nam Mỹ. Không thể nói rằng tôi vẫn là tôi trong con gián ở Nam Mỹ. Liệu chúng ta có thể nói rằng tôi vẫn là tôi nếu tôi đầu thai thành một thai nhi ở Phi châu, ở Bristol hoặc trong chính gia đình tôi? Phật giáo tiêu chuẩn minh nhiên từ chối sự đầu thai làm một người như người đã chết. Như vậy, sự đầu thai không tương thích với giá trị vô hạn về con người.

Nhưng Kitô giáo là tôn giáo của giá trị vô hạn về con người. Chúng ta không ngẫu nhiên là chúng ta, chúng ta quan trọng. Mỗi người là một thụ tạo của Thiên Chúa, được Ngài đánh giá cao và yêu thương vô cùng. Đó là điều cơ bản của luân lý Kitô giáo, từ giá trị gia đình tới lòng vị tha và từ bỏ chính mình mà các thánh đã thực hiện. Vì chúng ta rất có giá trị đối với Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới chết để cứu độ mỗi người trong chúng ta. Ngài không chết để cứu độ hàng loạt cuộc đầu thai. Chúng ta là chính chúng ta, với đầy đủ lịch sử cuộc đời, gia đình và bạn bè. Trái ngược với huyền thoại của sự bách hại Kitô giáo, Kitô giáo là tôn giáo của sự hiện thân và sự tốt lành cốt lõi của công cuộc sáng tạo.

Sự đầu thai đối lập với toàn bộ đường hướng của Kitô giáo. Nếu có sự sống còn từ cái chết – và niềm tin của các Kitô hữu, bắt nguồn từ sự phục sinh của Đức Kitô, không thể nói là đầu thai. Sự đầu thai và giá trị vô hạn của con người là điều không tương xứng. Quan điểm của Kitô giáo về cái chết là quan điểm về niềm hy vọng, là sự chiến thắng, vì cái chết không là hư vô. Câu chuyện chưa kết thúc đối với con người, và chúng ta có thể hy vọng rằng chúng ta không chia lìa người thân và bạn bè. Nhưng còn hơn vậy, chúng ta tin chắc rằng những cái chết trong Đức Kitô sẽ có ý nghĩa, và mỗi người trong chúng ta hy vọng được sống vĩnh hằng.

KẾT LUẬN

Các tư tưởng như vậy dần dần đưa tôi xa rời Phật giáo. Đối với tôi, Phật giáo là niềm vô vọng. Nhưng các Kitô hữu có niềm hy vọng. Tôi muốn là Kitô hữu. Tôi nhìn lại những điều mà tôi tôi đã chối bỏ theo niềm tin Kitô giáo mới của tôi. Tôi phân chia các giai đoạn của hành trình đến với Đức Tin của tôi trong cuốn “Con Đường Bất Ngờ” (“The Unexpected Way”, T&T Clark/Continuum: 2002). Nhờ ân sủng, tôi đến với Thiên Chúa. Tôi tin rằng thật là hợp lý khi tin vào Thiên Chúa hơn là không tin có Thiên Chúa. Khi tin vào Thiên Chúa, tôi không còn là Phật tử nữa. Tôi đã là người hữu thần. Tôi cẩn thận nhìn vào chứng cớ và ngạc nhiên thấy rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu sau khi bị đóng đinh tới chết là cách giải thích hợp lý nhất về những gì đã xảy ra. Là Kitô hữu, tôi tranh luận rằng ưu tiên phải là Giáo hội Công giáo Rôma. Tôi cần lý lẽ đúng không phải để được gia nhập Công giáo. Trong cuốn sách của tôi, tôi xem xét nhiều tranh luận chống lại việc tôi trở thành một tín hữu Công giáo, và tôi tranh luận rằng họ chỉ lấy cớ nào đó để từ chối Giáo hội Công giáo mà họ không tin. Vì thế, tôi đã được tiếp nhận vào Giáo hội Công giáo.

Hiện nay tôi sống trong niềm biết ơn và hy vọng. Tôi chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc về quyết định của tôi là gia nhập đạo Công giáo. Nếu điều tôi nói ở đây là đúng, chúng ta có thể nói rằng sự đầu thai là sai lầm. Đây là mấy điều tôi muốn nói:

1) Sự đầu thai không thích hợp với niềm tin Kitô giáo.

2) Chúng ta có thể nói rằng chúng ta biết được niềm tin Kitô giáo là thật.

3) Bất cứ điều gì không tương hợp với sự thật thì đều là giả dối.

4) Chúng ta có thể nói rằng sự đầu thai là sai lầm.

Triết gia PAUL WILLIAMS

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ WhyImCatholic.com)

World Cup 2014: Đội tuyển Đức giành cúp vàng lịch sử

World Cup 2014: Đội tuyển Đức giành cúp vàng lịch sử

Sau năm tuần lễ nỗ lực, đội tuyển Đức đã trở thành vô địch bóng đá thế giới.

Sau năm tuần lễ nỗ lực, đội tuyển Đức đã trở thành vô địch bóng đá thế giới.

REUTERS/Kai Pfaffenbach

Anh Vũ

Tối qua 13/07/2014, với chiến thắng 1-0 trước đội tuyển Achentina trên sân vận động Maracana của thành phố Rio de Janeiro trong trận chung kết căng thẳng đến nghẹt thở phải kéo dài hơn 120 phút, đội tuyển Đức đã trở thành nhà vô địch bóng đá thế giới cùng chiếc Cúp vàng thứ 4 giành được trên lục địa châu Mỹ.Đây là một chiến công lịch sử vì lần đầu tiên một đội bóng châu Âu đăng quang ngôi vô địch thế giới khi Cúp thế giới được tổ chức tại châu Mỹ.

Trận chung kết giữa hai đại diện của bóng đá Nam Mỹ và bóng đá châu Âu đã diễn ra trong thế giằng co, tính toán thận trọng của cả hai đội. Không khí căng thẳng hồi hộp đến nghẹt thở bao trùm lên cổ động viên của hai bên, và phải đợi đến phút thứ 113 của trận chung kết; khi Mario Götze ghi bàn thắng sau một pha khống chế bóng tuyệt đẹp bằng ngực được nối bằng cú sút chéo sườn hạ thủ môn Achentina, thì niềm vui của hàng ngàn cổ động viên đội tuyển Đức trên sân vận động Maracana cũng như hàng triệu người hâm mộ ở tại nước Đức thực sự bùng nổ.

Hơn bảy phút còn lại của trận đấu đủ để cho đội tuyển Đức giữ gìn được thành quả của mình trước những cố gắng cuối cùng của các cầu thủ Achentina, và cuối cùng đội tuyển Đức đã giành chiếc cúp vàng thứ tu ngay trên đấu trường Nam Mỹ.

Cả nước Đức đã có một đêm dài lễ hội ăn mừng chiến thắng lịch sử của đội tuyển quốc gia tại Brazil 2014, trong niềm hạnh phúc tột độ. Tại Berlin, hơn 250 nghìn người với đủ mọi biểu tượng màu cờ sắc áo của nước Đức đã tập trung trước cổng Brandebourg lịch sử để theo dõi trận chung kết Cúp bóng đá thế giới 2014.

Không khí vui mừng như nổ tung trên quảng trường khi cầu thủ  ghi bàn thắng quyết định cho đội Đức ở phú thứ 113 của trận đấu. Khi tiếng còi kết thúc trận đấu cất lên, không chỉ quảng trường Brandebourg mà cả nước Đức đã mở hội ăn mừng chiến thắng của đội tuyển nhà. Hàng trăm nghìn người dân tiếp tục đổ ra đường phố thủ đô Berlin để ăn mừng trong suốt cả đêm qua.

Ngày mai 15/7, cũng tại cổng Brandebourg, địa danh biểu tượng của nước Đức thống nhất, dự kiến sẽ có hơn 400 nghìn người chờ đón những người anh hùng của họ mang chiếc Cúp vàng từ Brazil trở về.

Trong khi đó, tại Buenos Aires, mặc dù thất vọng bởi thất bại của đội Achentina, sau những thẫn thờ tiếc nuối, hàng chục nghìn cổ động viên Achentina đã đổ ra đường phố chúc mừng danh hiệu Á quân của đội tuyển Nhà. Nhưng một chút tình cảm an ủi bày tỏ cảm thông với thất bại của đội tuyển quốc gia đã bị phá hỏng khi vài chục hooligan phá phách, tấn công cảnh sát gây bạo loạn. Tám cảnh sát đã bị thương và hơn năm chục người bị bắt giữ trong vụ ẩu đả đêm qua tại Buenos Aires.

Xin xem thêm:

Đức đăng quang World Cup 2014 (VOA)

Huấn luyện viên Joachim Loew và các cầu thủ Đức nâng cao cúp vàng vô địch World Cup tại sân vận động Maracana ở Rio de Janeiro, Brazil, ngày 13 tháng 7, 2014.

Các diễn biến chính Đức thắng Argentina, giành ngôi vô địch (BBC)

Không phải 6 mà có tới 13 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ

Không phải 6 mà có tới 13 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ
July 13, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 13-7 (NV) –
Bộ Ngoại Giao Việt Nam chỉ đề cập đến sáu ngư dân Quảng Ngãi bị Trung Quốc bắt hôm 3 Tháng Bảy, không đả động gì tới bảy ngư dân Quảng Bình bị bắt giữ trước đó hai tuần.

Mẹ thuyền trưởng Thành (trái) và vợ các ngư dân trên tàu QB 93256 không biết lúc nào thì con và chồng của họ được trả tự do. (Hình: Sài Gòn Giải Phóng)

Cuối tuần trước, Bộ Ngoại Giao loan báo Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, đã cử đại diện tới thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, để tiếp xúc với sáu ngư dân Quảng Ngãi, bị Trung Quốc bắt giữ trong vịnh Bắc Bộ.

Sáu ngư dân vừa kể làm việc trên tàu đánh cá mang số hiệu QNg 94912, bị Trung Quốc cáo buộc “xâm phạm hải phận Trung Quốc,” trong khi các nhân chứng là đồng nghiệp của họ trên những tàu đánh cá khác, cùng có mặt tại vịnh Bắc Bộ vào thời điểm họ bị cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ, khẳng định, Trung Quốc đã bắt giữ tàu QNg 94912 và sáu ngư dân khi họ đang hành nghề  trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Vụ Trung Quốc bắt giữ tàu QNg 94912 và sáu ngư dân Quảng Ngãi được báo chí Việt Nam đồng loạt loan tải, khi các nhân chứng báo tin cho gia đình của các nạn nhân và thân nhân của các nạn nhân kể với báo giới. Ngay sau đó, công chúng Việt Nam đòi chính quyền Việt Nam phải hành động.

Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam đã giữ im lặng suốt từ ngày 20 Tháng 6 đến nay, không hề đả động hay thực hiện bất kỳ hành động nào để “tìm hiểu vụ việc” bảy ngư dân ở Quảng Bình cũng bị Trung Quốc bắt giữ từ hạ tuần Tháng Sáu.

Trên số mới nhất, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan báo, hôm 20 Tháng sáu, tàu đánh cá mang số hiệu QB 93256, do ông Nguyễn Văn Thành, chủ tàu kiêm thuyền trưởng cùng với sáu ngư dân ngụ ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, đã bị cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ khi đang hành nghề tại vịnh Bắc Bộ.

Bà Nguyễn Thị Nghĩa, mẹ ông Nguyễn Văn Thành, kể với phóng viên tờ Sài Gòn Giải Phóng rằng, gia đình bà vay mượn khắp nơi để có 800 triệu mua tàu QB 93256 và con tàu này bị Trung Quốc bắt giữ ngay trong chuyến đi biển đầu tiên. Mười ngày sau khi tàu QB 93256 bị Trung Quốc bắt giữ bà mới biết tin. Ba tuần qua, con tàu và bảy ngư dân Việt Nam, trong đó có con trai bà đang bị giữ ở cảng Nam Hải.

Hôm 12 Tháng Bảy, Chi Cục Khai Thác và Bảo Vệ Nguồn Lợi Thủy Sản của tỉnh Quảng Bình xác nhận với tờ Sài Gòn Giải Phóng về việc bảy ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ từ ba tuần trước. Đại diện cơ quan này nói thêm, theo một số nhân chứng, hôm 20 Tháng Sáu, phi cơ và một số tàu có vũ trang của Trung Quốc đã vờn đuổi một nhóm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam và không may là tàu QB 93256 bị bắt giữ.

Theo chủ tịch xã Quảng Phú, ông chính là người báo tin tàu QB 93256 bị Trung Quốc bắt giữ cho gia đình ông Thành và gia đình sáu ngư dân khác. Lý do ông biết tin là vì “phía Trung Quốc báo tin qua kênh ngoại giao, tỉnh nhận tin, xác minh qua Đồn Biên Phòng Roòn, rồi báo lại cho xã để xã động viên gia đình các ngư dân.”

Chủ tịch huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nói thêm là họ đang nhờ Cục Lãnh Sự của Bộ Ngoại Giao Việt Nam “hoạt động tích cực để đưa các ngư dân về sớm.” Tất cả những ý kiến vừa kể chỉ ra cho thấy, chính quyền Việt Nam đã biết tin bảy ngư dân Quảng Bình bị bắt từ lâu nhưng cho tới nay vẫn chưa phản ứng gì.

Giống như khu vực đang tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, trong thời gian vừa qua, tình hình vịnh Bắc bộ không êm ả.

Hồi thượng tuần Tháng Sáu, tàu đánh cá mang số hiệu HP 90258 của ông Nguyễn Đức Quang, ngụ tại Hải Phòng đã bị tàu của Trung Quốc tấn công tại vịnh Bắc Bộ. Theo ông Quang, sáng 6 Tháng Sáu, khi đang thả neo để câu mực cách đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, khoảng 30 hải lý, thì tàu của ông bị một con tàu treo cờ Trung Quốc, mang số hiệu 45024, tấn công. Khoảng 20 người mặc quân phục trên tàu của Trung Quốc đã liệng vỏ chai vào tàu của ông Quang, dùng sào đập bể các bóng đèn cao áp, xịt vòi rồng vào tàu.

Khi ông Quang lái tàu chạy trốn, tàu của Trung Quốc đã rượt đuổi suốt hai tiếng, đâm vào tàu của ông Quang nhiều lần, khiến con tàu bị vỡ đuôi, bể mạn trái, vỡ toàn bộ kính và giàn đèn cao áp dùng để câu mực.

Đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn chưa lên tiếng phản đối và đòi Trung Quốc điều tra về vụ tấn công tàu HP 90258. (G.Đ.)