LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA

LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 626

Vào tối ngày thứ hai, 20.11.2006, khá đông Giáo Dân ở các Giáo Xứ lân cận đã đến Nhà Thờ Chí Hòa để tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một Linh Mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban ( Ảnh chụp ).

Chưa tới 19 giờ mà Giáo Xứ đã đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, Linh Mục Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.

Sôi nổi và sinh động nhất là phần chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho anh Đức Tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị Lương Y tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người Mẹ Hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc đời của anh.

Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống, không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những người thân quen.

Có một nhóm anh chị em Công Giáo đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến Nhà Thờ cầu nguyện; được Linh Mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới Nhà Thờ và xin ghi danh học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.

Nhưng đáng phục nhất là lời cầu nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con Đức Tin. Con muốn được ơn tin vào Chúa !” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm nhiều việc lành phúc đức. ( Theo VietCatholicNews, 22.11.2006 )

Hai năm sau, cơn bệnh tái phát, anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23.9.2008. Lm. An Mai, DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.

Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tuyển thợ làm vườn nho. Những người thợ được tuyển từ sáng sớm bất bình với chủ vườn, đã trả lương hậu hĩnh những người thợ vào làm chiều muộn. Thường lòng đố kỵ, ganh tương, ghen tỵ, hiềm khích luôn xuất hiện, khi thấy kẻ khác được trọng đãi, hay thành đạt, giàu có, giỏi giang hơn mình.

Tình Yêu Thiên Chúa nhân ái, bao dung, quảng đại vô bến bờ, tựa như vòng tròn bất biến vĩ đại bao phủ lên lý lẽ vuông vắn, sắc cạnh, nhỏ nhen, thấp kém của con người. Trong khi thiên hạ lại thường áp dụng cái lý lẽ phiến diện, hà khắc và bất định lồng ra bên ngoài cái tình cá nhân tủn mủn, hạn hẹp, tồi tệ.

Lý người

Lý lẽ, luật lệ, phong tục, tập quán đều là những quy ước của nhân gian dễ thay đổi, dễ biến dạng, thậm chí trái ngược nhau tùy theo dân tộc, thời gian và không gian. Nay hợp lệ, mai thành bất hợp lệ. Xưa cấm đoán việc này, nay xả láng cho tự do. Thế mà thiên hạ cứ cố chấp viện ra lý lẽ, luật lệ nhất thời mà vô tư lên án tha nhân, thoải mái đấu tố, hoặc ném đá vô tội vạ.

Bất bình, ganh tỵ, chấp nhất khi thấy người khác được ưu ái hơn mình, thành đạt hơn, tài giỏi hơn, nổi tiếng hơn, con người còn hay viện dẫn đến sự công bằng mơ hồ, do chính mình áp đặt, mà loại trừ đi tình người, sự thông cảm, bao dung, độ lượng. Thánh Phaolô đã tìm ra căn nguyên sự bất khoan dung: “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ?” ( 1 Cr 3, 3 ).

Con người thường nô lệ vào bản ngã, cái tôi ích kỷ, nên tầm nhìn lý lẽ, quan niệm, suy xét chỉ quanh quẩn bảo vệ, quy hướng lợi ích phục vụ cho chính mình. Do vậy, các lý lẽ, nhận xét, phê phán thường khó tránh khỏi chủ quan, lệch lạc, phiến diện. Chính vì thế, có sự khác biệt tương phản, sâu xa, rõ ràng giữa phàm nhân với Thiên Chúa, như lời khẳng định của Ngôn Sứ Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối Ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” ( Is 55, 8 – 9 ).

Tình Chúa

Thiên Chúa dào dạt yêu thương tạo vật, con người. Dù con người đã bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, đã ban Con Một nhập thể cứu chuộc nhân loại. Tình Yêu Thiên Chúa vượt xa giới hạn lý luận của con người. Khi bỏ lại 99 con chiên, đi tìm một con chiên lạc mất, Ngài đã bất chấp sự khôn ngoan trần thế, vượt qua lý luận toán học, vượt qua sự tính toán nhỏ mọn, hơn thiệt của con người, chỉ vì Tình Yêu.

Thánh Phaolô đã lý giải sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn, để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” ( 1 Cr 1, 28 – 29 )

Khi tha thứ cho người tử tội cùng chịu đóng đinh, Đức Giêsu chẳng hề tra hỏi về quá khứ, chẳng hề tính toán bao nhiêu lần vấp phạm. Người quên hết mọi tội lỗi chồng chất, khi phạm nhân biết sám hối, biết trở về Lòng Thương Xót. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng !” ( Lc 23, 43 ).

Khi trả công cho những người thợ giờ thứ 11, Chủ Vườn chẳng tính toán hơn thiệt, làm được nhiều hay ít, mà căn cứ vào tấm lòng chân thành, thiện chí, mà hoan hỷ trả công.

Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người. ( Đường Hy Vọng, số 304 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến tha nhân, dù họ đức độ, tài năng giỏi giang, giàu có hơn chúng con. Xin cất đi khỏi lòng chúng con sự tỵ hiềm, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, mà biết sống hòa đồng, chan hòa yêu thương, cùng biết cảm tạ Chúa đã ban cho họ và cho chúng con biết bao hồng ân, nhất là được biết Chúa, tin Chúa và theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương khiêm nhường và nhân ái, xin dạy chúng con luôn biết quan tâm, gần gũi, hòa nhã với tất cả mọi người, kể cả những người trổi vượt hơn chúng con nhiều mặt, để chúng con xứng đáng làm con Chúa. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

Kê khai tài sản: chuyện hài của chế độ

Kê khai tài sản: chuyện hài của chế độ

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-17

thanh-tra-2-622.jpg

Đại diện Thanh tra Chính phủ báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 của Ủy ban Tư pháp Quốc hội ngày 15/9/2014.

Courtesy PLTPHCM

Ủy ban Tư pháp Quốc hội Việt Nam vừa được Thanh tra Chính phủ báo cáo là trong số gần 1 triệu cán bộ, công chức, đảng viên kê khai tài sản chỉ có 1 trường hợp bị kỷ luật vì không trung thực. Phải chăng nhà nước Việt Nam cho rằng có thể phát hiện tham nhũng qua kê khai tài sản?

Từ dẫn đầu thế giới về tham nhũng…

Mặc dù Việt Nam gần 10 năm thực thi Luật phòng chống tham nhũng, nhưng năm 2013 vẫn bị xếp hạng thứ 116 trên 177 quốc gia về tham nhũng trong khu vực công, theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế.

Tính từ năm 2005 đến nay là một khoảng thời gian đủ dài để cơ quan chức năng có thể phát hiện tài sản của cán bộ công chức đảng viên đã phình to như thế nào.

Thế nhưng theo lời ông Phí Ngọc Tuyến, Phó Cục trưởng Cục Phòng chống tham nhũng nói với báo chí hồi đầu năm 2014 thì chưa từng phát hiện được trường hợp nào.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, một nhà hoạt động xã hội dân sự hiện sống và làm việc tại Đà Nẵng nhận định:

Chuyện kê khai tài sản ở Việt Nam là kiểu làm cho vui thôi, bởi vì một nền tài chính không minh bạch, ví dụ chi tiêu ở các nước họ truy nguồn gốc ở đâu chuyển tới đâu, người ta không dùng tiền mặt.
-GS Nguyễn Thế Hùng

“Chuyện kê khai tài sản ở Việt Nam là kiểu làm cho vui thôi, bởi vì một nền tài chính không minh bạch, ví dụ chi tiêu ở các nước họ truy nguồn gốc ở đâu chuyển tới đâu, người ta không dùng tiền mặt.

Ở các nước tiên tiến người ta có hệ thống thông tin báo chí tự do, nói chung có xã hội dân sự đầy đủ thì mọi thứ sẽ hỗ trợ. Hơn nữa thể chế tam quyền phân lập, các cơ quan độc lập mới có thể nêu ra những góc tối tăm về vấn đề kinh tế.”

Ngày 15/9/2014, tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Tư pháp Quốc hội ở Hà Nội, Phó Tổng Thanh Tra Chính phủ Trần Đức Lượng được báo chí trích lời, cho biết tình trạng tham nhũng diễn biến phức tạp và tinh vi, kẻ tham nhũng là những người có chức quyền, có trình độ hiểu biết pháp luật, quan hệ rộng và liên kết với nhau thành các nhóm lợi ích. Ở nhiều nơi, nạn sách nhiễu vòi vĩnh người dân và doanh nghiệp vẫn diễn ra khá phổ biến.

Theo báo Lao Động online, ông Trần Đức Lượng nhấn mạnh tới một vấn đề nhức nhối gây bất bình dư luận xã hội, đó là tham nhũng, lãng phí trong quản lý sử dụng đất đai, tín dụng, ngân hàng, quản lý vốn và tài sản gây thiệt hại lớn về kinh tế.

…đến trò hài kê khai tài sản

Tại sao Việt Nam luôn xưng danh là một nhà nước pháp quyền, nhưng nạn tham nhũng lại bất trị. Trong dịp trả lời chúng tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từng nhận định về vấn đề này:

Câu chuyện ở Việt Nam là có làm hay không làm và câu chuyện ai chủ trì làm và có làm đến nơi đến chốn hay không. Vấn đề đặt ra là ở đấy, chứ còn văn bản ở Việt Nam không thiếu thứ gì, tất cả những qui định về dân chủ nhân quyền đến phòng chống tham nhũng, chống quan liêu hách dịch rồi đến tiếp dân giải quyết cái này cái khác… không thiếu cái gì qui phạm pháp luật chứa đầy hết nhưng ai thi hành, ai giám sát và có thực hiện đến nơi đến chốn hay không. Đó là một câu chuyện cần phải đặt ra.”

tham-nhung-400

Mặc dù Việt Nam gần 10 năm thực thi Luật phòng chống tham nhũng, nhưng năm 2013 vẫn bị xếp hạng thứ 116 trên 177 quốc gia về tham nhũng trong khu vực công, theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế. Photo courtesy of transparency.org

Như vậy sau gần 1 thập niên ban hành Luật phòng chống tham nhũng, mà một trong các công cụ quan trọng của nó là qui định về việc kê khai tài sản bắt buộc, đã tỏ ra không hiệu quả nếu không muốn nói là vô ích.

Được biết cán bộ, công chức từ phó phòng trở lên kể cả đảng viên, sĩ quan từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, các giới chức điều hành và thành viên Hội đồng quản trị của doanh nghiệp nhà nước cũng bị bắt buộc kê khai tới 9 khoản về tài sản, bao gồm bất động sản, quyền sử dụng đất cho tới xe cộ từ xe gắn máy, ô tô cho tới tàu thuyền, máy bay, tiền mặt kể cả ngoại tệ, vàng bạc, kim cương tất cả đều phải thành thực khai báo.

Các đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản, mỗi năm phải bổ sung về tổng thu nhập năm trước và cập nhật phần tài sản tăng thêm.

Thế nhưng như Phó Tổng Thanh Tra Chính phủ Trần Đức Lượng trình bày trước Ủy ban Tư pháp Quốc hội, năm 2013 có gần 1 triệu người đã kê khai tài sản thu nhập. Trong số này chỉ có 5 trường hợp phải xác minh tài sản và thu nhập; kết quả sau cùng là chỉ có một trường hợp bị  kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo do kê khai thu nhập không trung thực.

Muốn tiến bộ, phải dân chủ

Quyền cơ bản của công dân như quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền tiếp cận thông tin đều có ghi trong tất cả các bản hiến pháp của của nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, tuy vậy người dân lại không có những quyền này. Đó cũng là lý do phòng chống tham nhũng ở Việt Nam không hiệu quả.

Không thể nào làm được, tại vì một trận đá bóng mình vừa đá vừa thổi còi. Không thể nào mình tham nhũng lại có thể vạch áo cho người xem mình được.
-GS Nguyễn Thế Hùng

Đáp câu hỏi, nếu Việt Nam kiên định với thể chế một đảng cộng sản toàn trị, thì nhà nước có thể có những giải pháp tốt cho việc phòng chống tham nhũng hay không. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng phát biểu:

“Không thể nào làm được, tại vì một trận đá bóng mình vừa đá vừa thổi còi. Không thể nào mình tham nhũng lại có thể vạch áo cho người xem mình được. Không thể nào được, trong một chế độ tập quyền độc đảng mà nói chuyện chống tham nhũng thì đó là chuyện khôi hài.”

Nếu quan niệm minh bạch tài sản cán bộ, công chức, đảng viên, cụ thể là kê khai tài sản cho những người thuộc diện bắt buộc như một biện pháp phòng chống tham nhũng, thì Việt Nam ít nhất phải có những cải cách một cách tích cực. Quốc hội cần ban hành các Luật về quyền cơ bản của công dân như quyền lập hội, biểu tình, tự do báo chí, trưng cầu dân ý và quyền tiếp cận thông tin… Những quyền này được Hiến pháp qui định nhưng từ nửa thế kỷ qua bị treo không có luật để áp dụng.

Hồi tháng 4/2014 ông Jairo Acuna Alfaro, Cố vấn chính sách của Liên Hiệp Quốc về cải cách hành chính và chống tham nhũng được báo chí Việt Nam trích lời, cụ thể là Lao Động Online, đã góp ý nên rút bớt số người phải kê khai tài sản xuống còn 1.000 người, để có thể quản lý tốt hơn và có đủ khả năng để xác minh các bản kê khai đó. Xin nhắc lại  năm 2013 gần 1 triệu người thuộc diện kê khai tài sản.

Điều quan trọng theo vị chuyên gia Liên Hiệp Quốc là Việt Nam đã đưa ra các qui định rất hời hợt về việc kê khai tài sản và cũng không đưa ra cơ chế cụ thể về việc kê khai tài sản phải tiến hành thế nào.

Theo lời ông Alfaro, việc cán bộ công chức nào không thể giải thích được nguồn thu nhập thì phải coi là tội phạm, Luật Hình sự của Việt Nam nên được bổ sung điều này. Vấn đề sau cùng mà chuyên gia Liên Hiệp Quốc đề cập tới đó là ở Việt Nam có sự cản trở rất lớn vì chưa có hệ thống giám sát hoàn chỉnh và mang tính độc lập.

Phim ca ngợi Tướng Giáp hủy chiếu ‘vì ế’

Phim ca ngợi Tướng Giáp hủy chiếu ‘vì ế’

Thứ sáu, 19 tháng 9, 2014

Poster phim ‘Sống cùng lịch sử’

Một bộ phim được thực hiện để ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp được nhà nước Việt Nam đầu tư đến 21 tỷ đồng đã phải ngưng chiếu vì không bán được vé.

Bộ phim ‘Sống cùng lịch sử’ của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân có nội dung nói về ba thanh niên trẻ tình cờ ‘mơ thấy’ mình hóa thân thành những công binh kéo pháo, đào hầm của quân đội Bắc Việt trong cuộc chiến 56 ngày đêm, theo báo điện tử VnExpress.

Tuy nhiên, tại Hà Nội, hai rạp phim duy nhất công chiếu phim này từ hôm 2/9 là Trung tâm Chiếu phim Quốc gia và rạp Kim Đồng đã phải hủy các buổi chiếu vì “số lượng khán giả tới xem chỉ từ 2 đến 3 người”, báo này cho biết thêm.

Trong một bài viết hồi tháng 6, báo Nhân Dân cho biết ‘Sống cùng lịch sử’ có đoàn làm phim thường trực 92 người, lúc cao điểm lên đến gần 300 người, được quay tại Hòa Bình, bản Then, dãy núi Tà Phì Láng, Phìn Hồ, và các địa điểm lịch sử khác ở thành phố Điện Biên.

Bộ phim có những cảnh tái hiện lại “những cái chết xả thân anh dũng của Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn” dù không nêu rõ tên các nhân vật này, báo này cho biết.

Cũng theo Nhân Dân, trong phim còn có cảnh “ba bạn trẻ hòa vào dòng người xếp hàng đi qua quảng trường Lăng Bác để đến ngôi nhà 30 Hoàng Diệu viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Báo này cho biết cảnh viếng tướng Giáp là “một cảnh quay thực tế” hôm 10/10 năm ngoái và “toàn bộ các cảnh khóc là diễn viên khóc thật sự, nhập vai đến mức quên mình đang diễn”.

Nguyên nhân thất bại?

“Chúng ta nên cảm thấy tức giận, bởi 21 tỷ đồng ấy là thuế của chính chúng ta và sẽ không bao giờ được thu hồi lại”

Ốc Bươu Vàng, BBC Vietnamese Facebook

VnExpress hôm 19/9 dẫn lời đạo diễn Nguyễn Thanh Vân cho biết nhóm làm phim của ông đã liên lạc với các rạp nhà nước và tư nhân, nhưng “không phải rạp tư nhân nào cũng đồng ý” trình chiếu bộ phim do e ngại về “bài toán kinh doanh”.

Ông cũng cho biết đợt chiếu vừa qua là để mừng lễ 2/9 chứ không phải phát hành quy mô toàn quốc.

Bên cạnh đó, VnExpress cũng cho biết đại diện của một số nhà phát hành và hệ thống rạp lớn tại Hà Nội và TP HCM đều khẳng định không nhận được bất kỳ lời đề nghị hợp tác phát hành, quảng bá hay đề xuất trình chiếu nào từ phía đoàn phim của đạo diễn Thanh Vân.

Trang Facebook quảng bá bộ phim tính đến ngày 19/9 chỉ có 102 lượt thích (likes).

Trong phần bình luận trên các báo mạng lớn trong nước, nhiều độc giả nói họ không được biết về bộ phim này cho đến khi tin về quyết định hủy chiếu được loan tải.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến trên mạng xã hội cũng nêu những lý do khác khiến họ không tiếp đón bộ phim theo như mong đợi của nhà sản xuất.

Bình luận được nhiều lượt thích nhất của độc giả nick Louis H-Navy trên trang Facebook của VnExpress viết:

“Người ta đâu có làm phim, người ta chỉ cố rút được càng nhiều tiền thuế càng tốt. Sau đó Đảng và Nhà Nước rút kinh nghiệm, Quốc Hội phê và tự phê, sau cùng dân ta tự hào đang sống trong thiên đường Xã hội Chủ nghĩa! Thế thôi.”

Một nick với tên Bảo Minh chia sẻ trên Facebook: “Vấn đề không nằm ở chỗ phim nhà nước hay tư nhân sản xuất mà là: làm phim về lịch sử nếu ko trung thực với lịch sử thì sẽ tiếp tục thất bại và khán giả hờ hững.”

Nick Facebook Đào Tuấn thì viết: “21 tỷ đồng tiền ông cụ được dùng để làm phim “Sống cùng lịch sử”, và đây là tiền thuế của dân … Cả một tuần không một người dân nào đến mua dù chỉ một vé”.

6 dấu chỉ thời cánh chung

6 dấu chỉ thời cánh chung

Chuacuuthe.com

45

VRNs (18.09.2014)– Sài Gòn-

JANA DUCKETT

Chúng ta nghe nói nhiều tới thời cánh chung, tận thế hoặc Chúa Giêsu giáng lâm. Nhưng rồi nghe mãi hóa nhàm nên chúng ta lại cho là bình thường. Đó là động thái nguy hại cho chính cuộc đời chúng ta. Hãy cảnh giác! Và liệu Kinh Thánh có cảnh báo chúng ta?

Thần học gia Jeff Kinley, tác giả cuốn “As It Was In The Days of Noah: Warnings from Bible Prophecy About the Coming Global Storm” cũng nghĩ vậy. Kinley nói: “Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa sẽ có lúc tái lâm để xét xử nhân loại. Nhưng khác với Đại Hồng Thủy, ngày đó sẽ là một sự kiện đơn giản, có thể là một loạt sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Đại Hồng Thủy cho thấy rằng Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng Ngài đặt ra giới hạn chịu đựng. Mặc dù hình phạt hủy hoại dữ dội, nhưng Ngài vẫn xét xử công bình và cho nơi trú ẩn”.

Đối với những người nghi ngờ tính hữu hiệu của Kinh Thánh hoặc không muốn nhìn nhận văn hóa ngày nay, Kinley chia sẻ 6 dấu chỉ và những gợi ý cho thấy thế giới đang đi đến ngày phán xét…

1. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta biết nhiều về vấn đề này. Đó là chủ đề nóng về tình trạng kinh tế. Trái khoản quốc gia Hoa Kỳ tiếp tục tăng vọt. Trên khắp thế giới, các nước lớn và nhỏ đều không thỏa mãn nhu cầu nên lún sâu vào hố nợ nần. Cũng như thời ông Nô-ê, người ta phải nhờ vào các nước khác để sinh tồn, và họ phải trở về với Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Nếu dân Ta, dân vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó” (2 Sbn 7:14).

2. BẠO LỰC và ÁN MẠNG

Kinley nói rằng có một bệnh dịch không thể kiểm soát là thù hận và bạo lực trong thế giới chúng ta, đó là điều hiển nhiên trong các loại tội phạm khủng bố vì thù hận, trong các nhóm tôn giáo, giết người có động lực thúc đẩy, giết những người vô tội và trẻ em trên khắp thế giới – điển hình là những người bị tàn sát dã man tại I-rắc trong những ngày vừa qua (tháng 8-2014). Năm 2011, hơn 1,2 triệu vụ phạm pháp dữ tợn đã xảy ra tại Hoa Kỳ – mỗi năm có 15.000 vụ giết người. Chúa Giêsu đã nói trước: “Thời ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (Mt 24:37). Thời ông Nô-ê dầy bạo lực và sự xét xử của Thiên Chúa. Còn hơn là khuyến khích sợ hãi và lo lắng, Kinley động viên các Kitô hữu tìm hiểu các cách thể hiện tiên tri ngày nay và sống đức tin viên mãn là chia sẻ Đức Giêsu Kitô với người khác.

3. TRỘM CƯỚP

Ngày nay, thông tin cá nhân và tài chính không còn an toàn vì các hacker (kẻ cắp dữ liệu). Mối quan ngại này bao gồm cả mật khẩu của điện thư (email passwords), hình ảnh webcam và điện đàm. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng kẻ trộm cắp không làm gì khác hơn là giết người và cướp của. Chúng ta hiểu thời đại chúng ta theo nghĩa đen, nhưng qua con mắt của Kinh Thánh, kẻ thù đang cố gắng ăn cắp tính đồng nhất hoặc sự nhân dạng của chúng ta (giống như trộm cướp thẻ căn cước). Kinley khuyên các Kitô hữu “sống khôn ngoan và cứu lấy thời đại của chúng ta”.

4. VÔ LUÂN

Thế hệ này mê tình dục quá độ và coi thường tâm linh. Biên độ luân lý hầu như không còn trong văn hóa tự do tình dục, thoải mái chia sẻ các hình ảnh “đen”, kể cả âm thanh và văn bản. Các phương tiện di động (điện thoại, ipod, ipad, iphone,…) và mạng lưới xã hội (facebook, twitter, youtube,…) đầy những thứ độc hại. Kinley nhận xét: “Như trong thời ông Nô-ê, thời đại chúng ta là thế giới ưa tình dục, và ngày nay người ta dùng để bán đủ thứ – từ chiếc kẹo cao-su tới xe hói. Tình dục xuất hiện khắp nơi”.

5. BÁCH HẠI KITÔ GIÁO

Năm 2011, gần 100 triệu Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới. Năm 2012, con số này tăng gần gấp đôi. Kinley shares that the Bible reaffirms this as Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhauthù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiệnlừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24:9-13).

6. ĐỨC TIN GIẢM SÚT

Thánh Phaolô nói: “Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1 Tm 4:1-2). Thời đại chúng ta có nhiều niềm tin sai lạc, các triết lý thời đại mới, và các bậc thầy tâm linh. Khi đến ngày tận thế, sẽ có nhiều các tiên tri giả, họ tự xưng là Đức Kitô. Kinley tin rằng việc phục hưng trong Giáo hội là cách mới và không được đề cập trong Kinh Thánh.

VĨ NGÔN: “ĐỪNG SỢ, THIÊN CHÚA LUÔN CHE CHỞ BẠN”

Tác giả Kinley nhắc nhở chúng ta rằng trong thời ông Nô-ê cũng như ngày nay, sự công chính và thánh thiện của Thiên Chúa luôn đứn vững. Khi các Kitô hữu biết trước sự trở lại của Đức Kitô, thì họ cũng phải như ông Nô-ê là biết sống sao cho người khác thấy mà trở về với ơn cứu độ. Hãy sẵn sàng chiến đấu và can đảm như lời Chúa nói với Áp-ram trước khi trở thành Tổ phụ Áp-ra-ham: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông. Ông Áp-ram cúi rạp xuống” (St 17:1-2).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Hungary hạ bệ tượng Các Mác

Hungary hạ bệ tượng Các Mác

Thanh Hà

media

Tượng Các Mác đại học Corvinus-Budapest.DR

Tồn tại được 25 năm sau ngày chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, bức tượng nổi tiếng của nhà tư tưởng Các Mác tại khuôn viên đại học Corvinus -thủ đô Budapest bị cho vào quên lãng.

Tuần trước, chính phủ của thủ tướng Orban ra lệnh hạ bệ bức tượng của nhà cách mạng nổi tiếng Các Mác. Đó là một bức tượng đồng, cao 4 thước, đã trở nên quá quen thuộc với người dân Budapest từ hơn nửa thế kỷ qua. Tác phẩm này được coi là một trong những bức tượng cuối cùng của Mác trên thế giới.

Đối với viện trưởng của đại học Corvinus tháo gỡ bức tượng của cha để chủ nghĩa cộng sản là một hình thức để khẳng định thêm bản sắc của trường. Thực ra trường Corvinus trước năm 1990 từng mang tên nhà bác học người Đức này. Ngày nay đại học ở thủ đô Budapest không phải là thành trì của những phần tử vẫn ngưỡng mộ Mác hay là nơi tập hợp của những người “hoài cổ” nuối tiếc thời kỳ vàng son dưới chế độ cộng sản. Dù vây rất  nhiều sinh viên được hỏi lấy làm tiếc là bức tượng đồng nổi tiếng nói trên bị hạ bệ.

Hình dáng một nhà bác học ngồi suy tư ngự tọa ngay giữa sảnh chính của trường đại học, một tay cầm cuốn sách dày, có thể là cuốn « Tư bản» như đã ăn sâu vào ký ức của biết bao nhiêu thế hệ sinh viên Hungary. Hàng năm vào mùa khai trường những sinh viên mới đều chụp hình lưu niệm dưới chân Các Mác.Học xong, trước khi rời nhà trường, họ cũng đến chia tay với bác Mác.

Đối với những thế hệ trẻ không bị bức màn sắt ám ảnh, thì bức tượng của nhà cách mạng người Đức này đơn giản là một điểm hẹn lý tưởng của giới sinh viên trong trường.

Việc chính quyền của thủ tướng Orban ra lệnh hạ bệ tượng Các Mác gây xôn xao trong dư luận Hungary. Một số nhà trí thức tại Budapest cho rằng ông Viktor Orban muốn « xóa toàn bộ quá khứ cộng sản » của Hungary để chứng tỏ rằng đất nước ông đang thực hiện một « cuộc cách mạng theo hướng dân chủ tự do ».

Nhà sử học Andra Mink thuộc đại học Trung Âu Budapest thậm chí còn cho rằng ông Orban đang theo gót Putin : tất cả những chương trình sửa đổi hiến pháp, các đạo luật do ông ban hành có khuynh hướng bóp nghẹt tự do báo chí, chà đạp quyền tự do cá nhân. Thậm chí theo giới phân tích luật pháp do nội các của thủ tướng Hungary soạn ra phần lớn là để thâu tóm các quyền lợi kinh tế. Từ mùa xuân năm nay nhiều tổ chức phi chính phủ trong tầm ngắm của cảnh sát Hung. Nói cách khác dù là thành viên Liên Hiệp Châu Âu, nhưng nước Hungary của thủ tướng Viktor Orban lại rất gần gũi với nước Nga của ông Vladimir Putin.

Quan tòa ‘ăn tạp’ đòi hối lộ ngay giữa công đường

Quan tòa ‘ăn tạp’ đòi hối lộ ngay giữa công đường

September 17, 2014

Nguoi-viet.com

THANH HÓA (NV) – Giữa thanh thiên bạch nhật, chánh án, thẩm phán và thư ký tòa án huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa đã “hùa nhau làm tiền” bị can.

Trụ sở tòa án Triệu Sơn, nơi quan tòa nổi tiếng đòi ăn hối lộ. (Hình: báo Lao Ðộng)

Toàn bộ cảnh “làm tiền” của một số quan tòa, thuộc tòa án huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa đã được ghi âm lại đầy đủ. Theo báo Lao Ðộng, tháng 7 năm 2014, cảnh sát điều tra huyện Triệu Sơn có kết luận điều tra ông Nguyễn Bá Quý, nguyên chủ tịch CSVN xã Tiến Nông phạm tội cưỡng đoạt tài sản.

Ông Quý cho rằng mình bị kết tội oan vì các đội tượng đã bày mưu tính kế đưa ông vào bẫy, nên đã thuê luật sư bào chữa.

Theo kế hoạch, đầu tháng 9 năm 2014 sẽ đem vụ án ra xét xử. Trước khi xét xử, ông Quý nhờ bà Nguyễn Thị Niên, kiểm sát viên Viện Kiểm Sát huyện Triệu Sơn giúp đỡ để… chạy án. Thế là một cảnh “làm tiền” trắng trợn diễn ra ngay tại tòa án huyện Triệu Sơn. Chánh án Lê Ngọc Hiệp trắng trợn đặt vấn đề phải đưa tiền mới giúp.

Khi ông Quý đặt vấn đề đưa 10 triệu đồng (khoảng $470 USD) nhờ ông Hiệp giúp, ông Hiệp không nhận mà bảo cầm sang phòng thẩm phán Lê Thị Thu: “Cứ cầm sang chỗ con Thu đi, tao sẽ điện cho nó, tao điện luôn này, con Thu ở phòng số 2.”

Ông Quý hỏi 10 triệu đã được chưa hay phải thêm, chánh án Hiệp nói, “Một nấy chưa đủ đi tỉnh.” Lúc này ông Quý nói ở đây ông có 15 triệu, ông Hiệp bảo cứ mang sang cho bà Thu 10 triệu rồi sang đây.

Tại phòng làm việc của thẩm phán Lê Thị Thu, bà Thu cho biết do ông Quý: “Vì anh là người nhà của cô Niên, là người trong ngành, trong cơ quan nên bọn em mới giúp, vì tình cảm bọn em mới làm, còn là dân thì… bọn em sẽ làm theo quy định của pháp luật.”

Bà Thu cũng bảo bà Niên “nói với Viện kiểm sát đồng ý thì bên đây mới dám làm.” Ông Quý đưa 10 triệu cho bà Thu, bà không nhận mà hướng dẫn ông Quý gặp ông Lê Sỹ Thuần, thư ký tòa án. Một cuộc ngã giá đã diễn ra trong phòng thư ký tòa án huyện Triệu Sơn. Ngay từ đầu, ông Thuần lớn tiếng: “Cái tiền thuê luật sư sao không để lên đây mà phải đi chỗ mô cho khổ ra.”

Khi ông Quý đưa tiền, ông Thuần hỏi “tổng đưa sang tòa nhiều không?” và khi biết chỉ có 10 triệu đồng, ông Thuần xẵng, “Anh cứ cầm 10 triệu xuống dưới tỉnh lo việc đi, còn anh là người nhà chị Niên thì anh em trên đây được đồng mô quý đồng đó. Anh là Khoản 2 trong tội cưỡng đoạt thì ai mà lo được. Chỉ cần ai đó ở dưới tĩnh điện về thì sẽ lo được.”

Sau khi nhận 10 triệu đồng, ông Thuần hỏi ông Quý, “Tất cả bên đây chỉ có nấy đây hay đưa nữa?” ông Quý cho biết sẽ đưa thêm, ông Thuần kết luận, “Anh vứt xuống tỉnh 20 cái, lo đây 10 cái, tổng bên đây 30 cái, được lòng trước khỏi mất lòng sau, chính xác 100%. Còn nếu anh không tin tôi thì anh cứ đi hỏi nơi khác, nhưng khi anh quay lại phải nâng lên một ít nữa, tính tôi rất thật….” Ông Quý xin xuống 20 triệu thì ông Thuần không đồng ý.

Ngày 15 tháng 9, 2014, trao đổi với báo Lao Ðộng tại phòng làm việc, chánh án Lê Ngọc Hiệp xác nhận toàn bộ nội dung trong các file ghi âm trên là sự thật.

Ông Hiệp cho rằng đó là “tai nạn nghề nghiệp và rất ân hận, đau khổ với việc đã xảy ra. Cũng chỉ vì tình cảm, muốn giúp đỡ người nhà đồng nghiệp mà nên cơ sự này.” Ðồng thời biện minh, “Không ngờ Thuần lại có cách hành sử vi phạm pháp luật đến thế, nó lại còn đòi thêm tiền người ta nữa chứ.”

Sau khi sự việc bị tố giác, ông Thuần đã mang số tiền 10 triệu đồng trên đưa cho bà Niên, rồi mang đến công an huyện Triệu Sơn nộp lại số tiền nhưng không nơi nào nhận. Thậm chí “Thuần đã nhiều lần đề nghị gặp, trả lại số tiền cho ông Quý nhưng không được. Giờ số tiền trên vẫn để nguyên trong bọc và anh Thuần đang giữ.” Ông Hiệp xác nhận.

Ông Quý khẳng định, “Ông Thuần nhắn tin mong tôi nhận lại số tiền, rút đơn tố cáo rồi hết bao nhiêu sẽ đưa thêm.”

Luật Sư Lê Quốc Hiền cho hay, “Hành vi của các quan chức tòa án huyện Triệu Sơn đã phạm tội tham nhũng, nhận hối lộ theo Bộ Luật Hình Sự CSVN.”

Ngay sáng ngày 17 tháng 9, 2014, Chánh Án Tòa Án Tối Cao CSVN, đã kết hợp với các nơi có trách nhiệm của tỉnh Thanh Hóa xác minh những thông tin. Ðồng thời chỉ đạo chánh án tỉnh Thanh Hóa ban hành ngay quyết định tạm đình chỉ công tác các quan chức có liên quan để phục vụ điều tra.

Việc xét xử vụ án ông Nguyễn Bá Quý phạm tôi cưỡng đoạt tài sản đã bị tạm đình chỉ và chưa có lịch cho việc xét xử vụ án trên. (Tr.N)

Tác hại của việc đi ngủ muộn.

Tác hại của việc đi ngủ muộn.

+ Từ 21-23h là quãng thời gian hệ miễn dịch (bạch cầu lymph) bài độc (đào thải chất độc), lúc này thái yên tĩnh hoặc nghe âm nhạc thư giãn.

+ Từ 23h – 1h sáng là quãng thời gian bài độc của gan, cần tiến hành trong khi ngủ say.
+ Từ 1h – 3h sáng là thời gian bài độc của mật, cũng cần thực hiện trong giấc ngủ say

* Ngủ muộn có nguy cơ gây ra nhiều bệnh tật.

+ Từ 3h – 5h sáng là thời gian bài độc của phổi. Cũng chính là lý do tại sao mà người đang mắc bệnh ho lại hay ho dữ dội vào lúc này, bởi hoạt động bài độc đã chạy đến phổi. Vì thế, không nên dùng thuốc chống ho để tránh gây cản trở việc đào thải các chất cặn bã trong người vào lúc này.

+ Từ 5h – 7h là khoảng thời gian ruột già bài độc, cho nên cần đi toilet vào lúc này.

+ Từ 7h – 9h là lúc ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều nhất, cho nên cần phải ăn sáng. Những người đang phải trị bệnh tốt nhất ăn sớm hơn, từ trước 6h sáng, còn với người ăn dưỡng sinh thì ăn trước 7h sáng. Những người không ăn sáng cần thay đổi thói quen xấu này, dù có đợi đến 9, 10h mới ăn cũng tốt hơn là không ăn.

+ Từ nửa đêm cho đến 4h sáng là thời gian tủy sống tạo máu, cần phải ngủ say, không nên thức khuya.

* Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn:

1.  Giảm trí nhớ.
2.   Uể oải, khó tập trung chú ý vào công việc.
3.   Ù tai, chóng mặt, mắt mờ.
4.   Nóng nảy, cáu bẳn (dù có chú ý để tránh nổi nóng thì cũng vô ích, tới lúc nóng là không kiềm chế nổi).
5.   Đau mỏi cơ, có thể thỉnh thoảng bị chuột rút. Đối với những người tập thể hình thì việc thức khuya sẽ giảm khả năng phục hồi và phát triển của cơ bắp.
6.   Trung khu thần kinh uể oải thì thần kinh vị giác cũng trì trệ, dẫn tới ăn uống không ngon miệng.
7.   Da mặt nhợt nhạt, thiếu sinh khí, nhiều dầu, đôi khi sần sùi và nổi mụn, dưới mắt có quầng thâm.
Thức khuya ảnh hưởng đến làn da, nhất là da mặt. Thông thường là khoảng từ 10-11 giờ đêm da ở trong trạng thái dưỡng và hồi phục. Nếu như thường xuyên thức khuya sẽ làm rối loạn hệ tuần hoàn bình thường của việc trao đổi chất và hệ thống thần kinh, sẽ khiến cho da bị khô, giảm sức đàn hồi, bị sạm và không mịn màng…
8.   Khô mắt, mỏi mắt, và nếu mắt phải làm việc khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng thì dễ bị giảm thị lực.
9.   Thức khuya hay ngủ ít có thể dẫn tới nguy cơ tăng cân theo chiều hướng tiêu cực, có thể gây thêm các tác dụng khác là nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp…
10.   Bên cạnh đó thức khuya trong thời gian dài dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn so với những người không thức khuya.

Theo đồng hồ sinh học thì:

– Trạng thái ngủ từ 0 đến 1 giờ sáng khiến cơ thể được nghỉ ngơi thực sự, giúp tinh thần sảng khoái, dung nhan tươi tắn khi tỉnh dậy.  Nên ngủ trước đó tầm 1 hoặc 2 tiếng, để vào tầm thời gian nói trên thì đã chìm vào giấc ngủ sâu.

– Từ 1h tới 5h sáng là lúc cơ thể tiết ra các chất tái sinh và nâng cao hệ miễn dịch. Thức khuya thì rút ngắn hoặc thậm chí làm cơ thể bỏ qua giai đoạn này, lâu dần sẽ suy sụp thấy rõ.- Trong các giai đoạn ngủ sâu thì cơ thể tiết nhiều hooc môn để cân bằng và nâng cao sức đề kháng, mà thức khuya thì khiến hoạt động ấy xảy ra chậm và ít hơn.

Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn có rất nhiều, có loại về lâu dài mới phát tác, có loại thì ngay hôm sau đã có thể phát tác rồi, ví dụ như mắt thâm quầng, mệt mỏi, trí nhớ giảm sút. Thức khuya cũng ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Nên nhớ rằng ban đêm hệ thần kinh giao cảm của con người sẽ nghỉ ngơi, vì ban ngày nó đã hoạt động rất mạnh để giúp con người làm việc và sinh hoạt. Nhưng những người thức khuya thì thần kinh giao cảm vẫn hoạt động mạnh. Như vậy, ngày hôm sau chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, sa sút tinh thần, đầu óc căng thẳng, trí nhớ kém, khó tập trung tư tưởng, phản ứng chậm, hay quên, chóng mặt, nhức đầu… Lâu ngày sẽ dẫn đến bị bệnh suy nhược thần kinh.

Hy vọng qua bài viết này phần nào bạn đã hiểu rõ tác hại của việc thức khuya và hãy khắc phục nó để cơ thể của bạn được bình thường và bạn luôn khỏe mạnh

Xuan Vo & Nguyện Phổ

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Thượng Đế ! Con có thể hỏi Ngài một câu không ?

Thượng Đế ! Con có thể hỏi Ngài một câu không ?

***

Tôi: “Thượng đế, con có thể hỏi ngài 1 câu được không?”
God: “Tất nhiên.”
Tôi: “Ngài phải hứa là không nổi giận?
God: “Ta hứa.”
Tôi: “Tại sao Ngài lại để quá nhiều thứ tồi tệ xảy ra với con ngày hôm nay?”
God: “Chính xác là con muốn nói điều gì?”
Tôi: “Sáng nay, con dậy trễ.”
God: “Phải.”
Tôi: “Xe thì chết máy.”
God: Okay.
Tôi: “Vào bữa trưa, họ làm sai món sandwitch của con và con phải chờ rất lâu cho món khác.”
God: Huummm.
Tôi: “Trên đường về nhà, ngay khi con vừa bắt máy điện thoại di động thì nó hư.”
God: “Ta biết.”
Tôi: “Và trên tất cả mọi thứ, khi con về đến nhà, chỉ muốn thả mình vào  cái máy massage chân mới mua để thư giãn. Vậy mà nó cũng hư nốt! Mọi thứ dường như chống đối lại con ngày hôm nay. Tại sao Ngài lại đối xử với con như vậy!”
God: “Để ta xem, thần Chết đã ở bên cạnh giường của con sáng nay và ta buộc phải gửi một thiên thần đến chiến đấu để cứu lấy mạng sống của con. Ta đã để con ngủ xuyên suốt sự việc ấy.”
Tôi (Ngạc nhiên): “Oh…”
God: “Ta đã không cho xe của con nổ máy vì có 1 tài xế đang say xỉn đợi con ở cuối con đường nếu như con đi qua.”
Tôi: (xấu hổ)
God: “Người đàn ông làm sandwitch hôm nay đã bị bệnh và ta đã không muốn con bị lây bệnh. Tất nhiên, ta cũng biết là con sẽ bị trễ việc vì điều đó.”
Tôi: “Okay”
God: “Điện thoại của con bị hư là tại vì người gọi con khi ấy sẽ gây ra một cuộc cãi vã không đáng có và như thế thì rất dễ gây ra tai nạn.”
Tôi (nhẹ nhàng lại): “Con hiểu…”
God: “À..còn về cái máy massage chân, nó có một điểm yếu là nó sẽ làm ngắt toàn bộ nguồn điện trong nhà của con. Ta không nghĩ là con muốn ở một mình ở trong bóng đêm, đúng không?”
Tôi: “Con xin lỗi, Thượng đế.”
God: “Đừng xin lỗi, chỉ cần học cách tin vào Ta thôi về tất cả điều tốt đẹp lẫn xấu.
Tôi: “Con sẽ tin Ngài.”
God: “Và phải tin rằng, kế hoạch của ta dành cho con luôn luôn tốt hơn kế hoạch của con.
Tôi: “Con sẽ làm như vậy. Và con thực sự cám ơn Ngài vì tất cả những gì Ngài đã làm cho con ngày hôm nay.”
God: “Đừng khách sáo, con của ta. Chỉ là một trong rất nhiều ngày làm Thượng đế thôi…và Ta thì rất thích chăm nom những đứa con của mình.”

Bạn có suy nghĩ gì từ câu chuyện này không?

Mẹ tôi trong Cải cách ruộng đất

Mẹ tôi trong Cải cách ruộng đất

Trần Mạnh Hảo (Danlambao) – Năm cải cách ruộng đất ở làng tôi sau tết 1956-1957, là đợt long trời lở đất cuối cùng của cuộc tắm máu, trời rất rét, nạn rận chấy hành hạ dân chúng khủng khiếp hơn bao giờ, có nguy cơ chết vì rận chấy nhiều hơn là chết vì đảng bác xử bắn oan, (xử bắn, đấu tố toàn người tốt, người nghèo bị quy oan do số phần trăm đảng đội áp đặt lên từng làng từng xã). Nếu không có nạn rận chấy năm đau thương khốn khổ tột cùng ấy, có lẽ ba mẹ con tôi đã chết đói (bố tôi đang bị đảng – đội bắt giam tội địa chủ) vì không có hạt gạo nào để nấu cháo…

Các bạn biết tôi hành nghề gì để cứu đói cả nhà trong khi mới chỉ 10 tuổi đầu? Tôi làm nghề bắt rận thuê cho các gia đình cán bộ và gia đình ông bà ông nông dân bần cố vừa được chia của từ gia đình phú nông địa chủ. Chẳng là khi đi qua nhà đứa bạn gái cùng học vỡ lòng – con ông đội trưởng xóm tôi, thấy nó đang ngồi bắt rận, nó hét lên sợ hãi vì rận bám đầy quần áo nhà nó. Thấy tôi đi qua, nó bảo: thằng con địa chủ Hiền kia, mày vào bắt rận giúp tao, tao bảo bố tao cho mày bò gạo về ăn cho khỏi chết đói…

Tôi hăng tiết, bắt rận giúp nó nhanh hơn khỉ, bắt được con nào cũng cho vào miệng cắn cái bép, khiến môi tôi đỏ như ăn trầu. Tôi bắt một buổi sáng hết sạch rận trong đống áo quần hôi như cú của con gái nhà ông cán bộ… Gia đình ông trưởng xóm cho tôi đúng một bò gạo vì công bắt rận tài ba. Tôi mơ ước làm giàu bằng nghề bắt rận. Cầm tí gạo gói trong lá khoai ngứa, đi qua nhà thờ, tôi quỳ xuống làm dấu thánh giá xin với Chúa và Đức Mẹ rằng: con cám ơn Chúa và mẹ Maria, con xin Chúa ban cho làng con, xã con, tỉnh con, nước con mãi mãi tràn ngập rận chấy để con làm giàu bằng nghề bắt rận thuê. Cứ như vậy, thiên tài bắt rận thuê của tôi vang lừng thôn xóm. Ngày nào tôi cũng kiếm được gạo, một hay hai bò (bơ, lon) gạo về nấu cháo cho mẹ và hai em ăn khỏi chết đói…

Hôm đó khoảng gần 12 giờ trưa tôi về nhà sau khi đã được trả công gần hai lon gạo vì bắt rận thuê cho hai gia đình cán bộ thôn thì nghe nhà tôi có biến. Đám người bần cố nông quá đông đúc kéo đến nhà tôi dỡ nhà, dỡ bếp bởi họ được đội cải cách chia cho mọi tài sản trong nhà tôi từ cái thìa cái đũa đến cái bát, cái mân, cái nồi con dao cái thớt…

Tôi khiếp đảm thấy mẹ tôi vừa khóc vừa chửi bọn chúng và hai tay cầm hai con dao bầu nhọn hoắt đang xông vào đâm ông Xoan, ông Chúc (hai ông bần cố nông này được chia cái nhà chính của ông nội tôi đã di cư để lại), hai ông tí chết vì hai nhát dao đâm sẩy của mẹ tôi. Hình như mẹ tôi điên rồi, vừa chửi vừa quyết sống mái với bọn đến dỡ nhà cướp của. Mẹ tôi vừa khóc vừa dứ dứ hai con dao quyết lao vào đâm bọn dỡ nhà, khiến một tên vừa leo lên mái sợ quá đã ngã xuống gãy chân. May mà có mấy người bà con hàng xóm đến hỗ trợ mẹ tôi. Tôi bỏ gói gạo trong lá khoai xuống đất, hai tay cầm hai cục gạch đứng bên mẹ nói: tao thề chết bảo vệ mẹ tao, chúng mày ác Chúa phạt liền đó, thấy chưa, ngã xuống đất gãy chân kìa… Mẹ tôi lên cơn rồi, bà quyết sống chết bảo vệ căn nhà chính mà không đủ sức bảo vệ cái bếp đang bị mấy người bần cố nông khác dỡ mất, phá cướp sạch rồi…

Mẹ tôi vừa khóc vừa múa dao kể rằng: bớ bọn ác nhân kia, bố chồng tao đêm nào cũng đi cất vó, ngày nào cũng ra đồng cày bừa với ông Mục cày thuê cho hai mẫu ruộng sao địa chủ được. Chúng mày cứ xông vào cướp, xông vào dỡ nhà đi, tao sẽ đâm chết hết chúng mày rồi có bị Hồ chủ tịch cắt lưỡi, xẻo vú cũng cam lòng… Nào thằng kia, con kia, leo lên mái nhà thử coi, tao đâm chết ngay thằng Xoan, thằng Chúc liền này…

Lão Xoan, lão Chúc gọi dân quân đến với súng ống lên đạn cạch cạch nghe chết khiếp… Tôi nghĩ phen này chúng nó bắn mẹ mình rồi, hai tay tôi vẫn cầm hai cục gạch chạy đến đứng trước bụng mẹ. May mà có ông Bính bí thư làng (người chuyên làm nghề ăn trộm ăn cắp) đến kịp nói nhỏ vào tai lão Thảnh đội trưởng đội dân quân một lúc thì đội dân quân du kích rút đi… Sau này mới biết ông Bính (người từng mê mẹ tôi khi mẹ chưa lấy bố tôi) nói với dân quân rằng: “Nhà thằng Ký Sinh (ông nội tôi đã di cư) và con là thằng Hiền chồng con điên kia đã nằm trong danh sách sửa sai xuống thành phần…”

Lão Xoan lão Chúc hai tên bần cố nông chuyên ăn trộm thấy tình thế không thể dỡ nhà mang đi được vì sợ con mẹ điên cầm dao đang quyết đâm chúng nếu không có mấy bà con giữ tay can gián, bèn lủi mất… Mẹ tôi gục xuống đống gạch vụn của căn bếp ba gian vừa bị chúng cướp phá dỡ mang đi từ hòn gạch, khóc rồi ngất luôn, không còn thời gian đâu ra ngăn bà Y đang phá cổng nhà tôi lấy gạch…

Chiều đó, mẹ tôi vẫn phải ra đồng bắt cá về cho ba đứa con ăn với cháo do thằng Hảo bắt rận thuê mà có được tí gạo. Khi mẹ về, giỏ cá đã mất, vì bị bọn ông bà ông nông dân chăn trâu cướp mất giỏ cá, lại bị chúng dùng roi trâu quất lên mặt mẹ ba con lươn đỏ như máu bởi mẹ quên khoanh tay cúi chào, bọn trẻ trâu đang cưỡi trâu trên đường theo quy định của đảng – bác – đội rằng: con vợ địa chủ Hiền, con dâu địa chủ đại gian đại ác Ký Sinh đã theo giặc vào Nam kính chào kính lạy ông bà ông nông dân cưỡi trâu ạ…

Chuyện về mẹ tôi còn dài, viết một cuốn tiểu thuyết về bà cũng không hết, kỳ sau xin kể tiếp…

Sài Gòn 14 – 9 – 2014

Trần Mạnh Hảo

danlambaovn.blogspot.com

Nhìn Lại CCRĐ Miền Bắc Và Cải Cách Điền Địa Miền Nam

Nhìn Lại CCRĐ Miền Bắc Và Cải Cách Điền Địa Miền Nam

Share on facebook

Bao giờ tội chống nhân loại của Hồ Chí Minh và tập đoàn cầm quyền cộng sản Hà Nội được đem ra xét xử? (*)

blank

Bảng điều tra ruộng đất.
Cải cách ruộng đất. Ảnh tư liệu từ Google

Chiến tranh chống thực dân pháp giành độc lập kết thúc bằng Hiệp định đình chiến ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève chia Việt nam làm hai Miền riêng biệt. Miền Bắc theo chế độ cộng sản dưới quốc hiệu Việt nam Dân chủ Cộng hòa. Miền Nam đứng về phía thế giới tự do.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức tại Miền Nam và kết quả đã đưa tới truất phế Vua Bảo Đại. Triều đại Nhà Nguyễn thật sự chấm dứt. Hiến pháp 26 tháng 10 năm 1956 tấn phong ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Miền Nam và thành lập nước Việt Nam Cộng hòa thay vì tổ chức bầu cử như Hiến pháp qui định.

Chín năm chiến tranh giải thực kết thúc, hòa bình trên 2 miền Nam Bắc được tái lập. Chánh quyền 2 Miền đều dồn nổ lực tái thiết đất nước theo đường lối riêng của mỗi chế độ chánh trị. Phát triển kinh tế là ưu tiên mà Chánh sách về Ruộng đất là quan trọng vì Việt Nam vốn là xứ nông nghiệp. Ruộng đất nuôi sống gần 80% dân Việt Nam. Có một Chánh sách Ruộng đất tốt, hài hòa, hợp lý là thiết yếu để xóa bỏ những bất công xã hội do chế độ thực dân tạo ra từ khi Việt nam bị đô hộ.

Ở Miền Bắc, Hồ chí Minh thực hiện chánh sách về ruộng đất gọi là “Cải cách Ruộng đất” còn ở trong Miền nam gọi là “Cải cách Điền địa”.

Chúng ta thử nhìn lại và so sánh hai chánh sách về đất đai của hai Miền, nêu lên những đặc tính và mục tiêu của chánh sách ấy.

I – Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc

1 – Tình hình mới, nhiệm vụ mới

Năm 1950, Hồ Chí Minh qua Nga, yết kiến Staline với sự hiện diện của Mao-trạch-đông. Staline chỉ ông 2 cái ghế và nói “đây là ghế địa chủ, đây là ghế nông dân. Ông chọn ngồi vào ghế nào?”

Trở về nước, Hồ Chí Minh không thuật lại với cán bô nồng cốt của ông là ông đã chọn chiếc ghế nào mà chuẩn bị ngay việc thực hiện cải cách ruộng đất bắt đầu bằng chuẩn bị tư tưởng cán bộ đảng viên để trong công tác, cán bộ sẽ không bị giao động. Ông đưa ra nhận xét tình hình thế giới thuận lợi. Mao-trạch-đông thắng lợi ở Tàu và thiết lập xong chế độ cộng sản trên cả nước. Cách mạng việt nam đang trên đà thắng lợi. Duy còn khó khăn nhỏ là Mỹ giúp thực dân pháp đánh phá đoàn kết dân tộc. Muốn thắng lợi hoàn toàn, ta phải cùng với nhân dân thực hiện một chế độ dân chủ nhân dân, tăng cường đoàn kết toàn dân, liên kết chặt chẽ với phe xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1952, Hồ Chí Minh cho tiến hành cải cách ruộng đất ở những vùng tạm chiếm như Thái nguyên, Thanh hóa, … Nhiều cuộc hành huyết địa chủ bắt đầu trước ở Thanh hóa đã làm kinh hoàng dân chúng, lan rộng đến những vùng “giải phóng” khác. Kịp gần đến ngày ký Hiệp định Genève, Hồ Chí Minh muốn tránh bị dân chúng bỏ chạy vào Nam vì sợ hải nên cho lệnh tạm ngưng.

Thật ra, kế hoặch chuẩn bị tư tưởng, Hồ chí Minh đã cho tiến hành từ lâu. Trước nhất là chính huấn hay đấu chính trị. Từ 1946 -1949 là chiến dịch phản đế, với khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết”, kêu gọi đoàn kết toàn dân gồm trí thức, tư sản, địa chủ, tôn trọng tư hữu, chỉ nhằm xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa pháp biểu hiện qua tư tưởng lản mạn, cá nhân chủ nghĩa. Mục đích duy nhứt là chống thực dân pháp giành độc lập. Hồ Chí Minh giải tán đảng cộng sản đông dương, thành lập Mặt trận Việt Minh. Giai đoạn kế tiếp 1950-1956 dành cho chiến dịch phản phong đả phá tư tưởng phong kiến nặng về tư hữu, nhứt là sở hữu ruộng đất, trật tự xã hội, giá trị đạo lý cổ truyền để đề cao và thuyết phục chánh sách Cải cách Ruộng đất sẽ phát động là đúng, là tốt, ích lợi cho nông dân để mọi người phải chấp nhận. Phản phong được thực hiện với khẩu hiệu “ đưa phản phong lên ngang hàng với phản đế ”, đồng thời Hồ Chí Minh cho tổ chức đảng Lao động thay thế đảng cộng sản.

Phản phong khi được phát động, dân chúng đều hiểu đó là bài trừ những phần tử phong kiến trong đảng hoặc giới quan lại trong Chánh quyền cũ. Thật ra, phản phong là tiêu diệt địa chủ, điều này chỉ có cán bộ học tập ở bên Tàu về để thi hành Cải cách Ruộng đất mới hiểu, nhưng phải tuyệt đối giử kín. Khóa chính huấn đầu tiên khai giảng năm 1953 ở Miền bắc mới nói rỏ nội dung khẩu hiệu “phản phong” là đánh địa chủ, tịch thu toàn bộ tài sản của địa chủ chia cho bần cố nông, tức “Cải cách Ruộng đất”.

Sau phản phong đến chiến dịch bài trừ tư tưởng tư sản, tự do kinh doanh, tư tưởng dân chủ tư bản tây phương. Tiếp theo, từ năm 1959, sau khi sửa sai vì xem như Cải cách Ruộng đất đã thật sự hoàn tất, Hồ chí Minh cho áp dụng chánh sách triệt để hơn, dẹp bỏ hẳn tư tưởng tiểu tư sản, mọi hình thức sản xuất cá thể, xử lý những thành phần chưa chịu vào hợp tác xã, giử đầu óc muốn làm giàu riêng. Bần cố nông vừa nhận ruộng đất do Cải cách Ruộng đất cấp phát, nay lại phải đem nộp cho Hợp tác xã và hằng ngày làm việc theo tiếng kẻng của cán bộ, lảnh lương theo số công do cán bộ chấm. Đây là lúc ” lao động tùy sức, hưởng thụ tùy khả năng ”

2 – Phóng tay phát động quân chúng

Bộ máy tuyên truyền của cộng sản giải thích ” Cải cách Ruộng đất long trời lở đất không do đảng và Nhà nước, mà do nông dân làm ”. Để bắt đầu, Hồ Chí Minh cho tiến hành trước 2 chiến dịch: thu thuế nông nghiệp và đấu tranh chánh trị.

Áp dụng thuế nông nghiệp là lặp lại rặp khuôn theo Tàu đã làm từ 2 năm trước nhằm bần cùng hóa xã hội Việt Nam, biến nông dân trở thành bần cố nông. Thuế nông nghiệp là 1 trong 5 loại thuế: thuế nông nghiệp, công thương nghiệp, sát sanh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng – Thuế xuất nhập cảng là để khôi hài.

– Thuế nông nghiệp – Riêng về thuế nông nghiệp, chúng ta thử nhìn lại sơ lược để có ý niệm cụ thể nông dân bị phá sản. Thuế sẽ đánh 5% trên 100 kg lúa, 45% cho 1000 kg lúa trở lên, tối đa là 64%. Thêm vào đó, nông dân trả phụ thu cho đảng 15%. Cả 2 thứ thuế phải nộp một lần, cho đảng và Nhà nước Việt nam dân chủ Cộng hòa và một phần gởi cho Kominforme làm nghĩa vụ quốc tế.

Thử làm bài toán để biết nông dân nộp bao nhiêu mồ hôi nước mắt cho thuế nông nghiệp.Chúng ta lấy 1000 kg lúa. Thuế lấy 45% là 450 kg. Trên số này, nông dân bị trừ 15% thuế phụ thu là 67,5 kg. Nông dân phải nộp thuế nông nghiệp cho 1000 kg lúa thu hoặch được là 517, 30kg. Nếu chủ ruộng không trực tiếp canh tác phải nộp thêm 25% phụ thu nữa.

Diện tích ruộng canh tác và số lúa thu hoặch phải do nông dân bình. Về diện tích ruộng, không căn cứ theo địa bạ lưu giữ. Nông dân bình thường được kích lên, tức bình dọc, bình ngang về diện tích canh tác để qui ra số lúa phải gặt được để trả thuế.

Còn thuế công thương nghiệp chỉ có 28% trên lợi tức, nhưng cũng phải do nhân dân bình theo cùng qui cách dọc và ngang.

Tố Hữu, nhà thơ của đảng, được thưởng huy chương Sao Vàng Hồ Chí Minh, cổ vũ chiến dịch thu thuế trong Cải cách Ruộng đất:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu,cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”.

Tố Hữu

– Đấu chánh trị – Đấu tranh chánh trị là nhằm thủ tiêu tất cả phần tử bị xem là phản động. Lúc bấy giờ, dân chúng ai chống Việt minh thì hoặc bị giết hoặc phải bỏ đi ra Thành phố sanh sống. Chỉ còn lại những người lưng chừng. Mà lưng chừng là phản động.

Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu thực chất của « đấu tranh chánh trị » diển ra liền sau thuế nông nghiệp.

Lợi dụng trong lúc dân chúng còn đang điêu đứng vì thiếu thuế, cán bộ cho tập họp để giải quyết trường hợp còn thiếu thuế. Sự thật là nhằm tiêu diệt những thành phần bị ghi vào danh sách cần phải thanh toán.

Phòng họp trang bị đầy đủ dụng cụ tra tấn. Cán bộ chủ tịch xã kêu gọi một người thiếu thuế hỏi: “ Có phải thằng X xuôi mày không nộp thuế không ? ” Tra tấn cho đến khi nào người này gật đầu để tên X bị bắt.

Đến phiên tên X bị tra tấn: “ Mày ở trong tổ chức phản động nào ? Phải trong đó có tên Y không ? ” Người bị tra tấn vì đau đớn khai bừa “ Tôi ở trong đảng Bảo Đại, cả đảng Cộng sản nữa ”. Nhưng nạn nhơn vẫn bị tra tấn tiếp cho đến khi nào chịu nói ra tên người đã được cán bộ mớm trước.

Lúc đầu còn nhớ tên người được dặn trước phải khai, sau mất tinh thần, nhớ đâu khai đó. Có người khai cả tên cán bộ chủ tọa phiên đấu chánh trị. Đến đây, đảng cộng sản nhận thấy nếu kéo dài sẽ gây ảnh hưởng xấu cho đảng, làm mất lòng tin của nhân dân đối với đảng, Chánh phủ. Đảng cộng sản bèn cho tổ chức Tòa án nhân dân xét xử phản động bắt được trong chiến dịch đấu chánh trị để xác nhận là thật sự có địch trong nông thôn và mặt khác, đề cao quần chúng là những người luôn luôn sáng suốt, như Mao-trạch-đông dạy. Trong quá trình đấu chánh trị, nếu có vài trường hợp phạm sai lầm nhưng phải thấy chủ trương là đúng:

”…Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quì gục xuống, đọa đày chết thôi”

Xuân Diệu

– Quần chúng phóng tay – Còn Cải cách Ruộng đất thật sự được tiến hành làm 2 đợt: giảm tô và cải cách. Cải cách Ruộng đất diển tiến long trời lở đất này đã được nói nhiều với đầy đủ chi tiết nên thiết tưởng không cần lập lại thêm nữa. Duy có con số tử vong chính xác của nạn nhân chưa được xác nhân. Ngày nay, theo báo cáo chánh thức của Viện thống kê Hà nội***, số tử vong là 172 008 người trong đó có 70 % bị chết oan ức bao gồm những tiểu địa chủ bị kích lên cho đủ 5 % theo tiêu chuẩn của Trung quốc qui định, cả những cán bộ đảng viên đi theo kháng chiến chống thực dân vì lòng yêu nước tinh ròng không cộng sản. Nhưng con số tử vong thật sự phải cao hơn. Nhiều người từng sống trong giai đoạn Cải cách Ruông đất, như nhà báo Bùi Tín, cựu Phó Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân, cho biết, theo ước tính, con số nạn nhân ít nhất phải lên đến nửa triệu bao gồm nạn nhân bị hành huyết độc đoán tại hiện trường qua quyết định của Tòa án nhân dân và những người không bị hành huyết hoặc gia đình, thân nhân của nạn nhân. Những người này bị đuổi ra khỏi nhà, tài sản bị tịch thâu, không có quyền làm việc, bị mọi người xa lánh vì sợ bị liên lụy với giai cấp địa chủ, lần lược chết vì đói rét, bịnh tật do chế độ quản lý hộ khẩu. Trong số nạn nhân này có ít nhất 40 000 đảng viên. Cải cách ruộng đất, theo Mao-trạch-đông dạy, phải bộc lộ sự tàn ác càng rùng rợn thì thành công càng lớn.

Mỗi chiến dịch đều được chuẩn bị bằng khóa chính huấn dạy cán bộ học tập lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, để cán bộ thi hành nắm vững đường lối, chánh sách đúng theo sách lược mao-trạch-đông. Toàn bộ các chiến dịch đều đã được thực hiện ở bên Tàu từ mấy năm trước, mệnh danh là “Chiến thuật mao-trạch-đông” vì Mao-trạch-đông tin rằng chiến thuật này có thể áp dụng ở các nước kém mở mang, cơ bản là kinh tế nông nghiệp, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản. Vẫn theo Mao-trạch-đông, chỉ có giai cấp bần nông và cố nông là lực lượng mạnh nhất,sáng suốt nhất, có đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản đi đến thành công. Mà địa chủ là kẻ thù của nông dân. Chỉ có nông dân mới biết rỏ địa chủ nào là gian ác, và gian ác đến mức độ nào nên phải phóng tay phát động quần chúng tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. Đảng cộng sản chỉ giử nhiệm vụ hướng dẩn, không trực tiếp lãnh đạo.

Sửa sai vì Cải cách Ruộng đất đã thành công nên cần bình thường hóa tình hình nông thôn, chuẩn bị đưa sản xuất vào chế độ tập thể hóa, tiến hành xây dựng chế độ chuyên chính vô sản.

Từ năm 1951, theo nhà báo Bùi Tín, Hồ Chí Minh đã ngã hẳn theo Tàu, rặp khuôn theo đường lối mao-trạch-đông.

Trong một buổi tường trình chuyến thăm viếng Staline hồi năm 1950 với cán bộ lãnh đạo đảng khi ông về nước, Hồ Chí minh không nói rõ ông đã chọn “ghế nông dân hay ghế địa chủ” để trả lời Staline mà chỉ nhấn mạnh: “ chúng ta làm Cải cách Ruộng đất phải học tập kinh nghiệm Trung quốc ”. Ông dạy cán bộ đảng viên “ Đế quốc là con hổ, địa chủ là bụi rậm hổ ẩn núp. Muốn đánh hổ phải tiêu diệt bụi rậm ”.

Không riêng gì về Cải cách Ruộng đất, Hồ Chí Minh mới học kinh nghiệm Trung quốc, mà cả các nghành khác, Hồ Chí Minh cũng chủ trương học tập rặp khuôn theo mô hình trung quốc như về giáo dục, sản xuất, kinh tế nghiên về kỷ nghệ nặng, …để “nhảy vọt” theo. Ông viết quyển “ Những kinh nghiệm quí báu Trung quốc nên học ” dưới bút danh Trần Lực, do nhà Sự Thật, Hà nội, xuất bản năm 1950, để làm tài liệu cho cán bộ học tập.

II – Cải cách Điền địa ở Miền Nam

Ở trong miền Nam, không nói Cải cách Ruộng đất mà nói ” Cải cách Điền địa “. Trong 20 năm, từ 1955-1975, Miền nam tiến hành 2 cuộc Cải cách Điền địa. Không kể một cuộc Cải cách Điền địa do Cựu Hoàng Bảo Đại ban hành năm 1949, nhưng không thành công. Ruộng đất vừa được phân phối xong thì liền bị Việt Minh tịch thâu, hoặc Việt Minh ngăn cấm nông dân nhận ruộng hoặc làm ruộng. Mật khác, chiến tranh không cho phép nông dân sanh sống trên phần đất của mình, phải tảng cư.

Cải cách Điền địa ở Miền Nam thực hiện từ khi Tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền bằng Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956. Chánh sách điền địa thêm một lần nữa được Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tiếp nối rốt ráo hơn bằng Đạo luật số 003/70 ngày 23 tháng 03 năm 1970, dưới tên gọi mới là ” Luật Người Cày Có Ruộng”.

1 Cải cách điền địa – Ông Ngô Đình Diệm, ngày 7 tháng 7 năm 1955, được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chánh phủ. Ở chức vụ Thủ tướng Chánh phủ, ông ban hành 2 Dụ, số 2 và số 7 năm 1955, liên quan đến vấn đề thuê ruộng vì từ trước, ở Việt Nam, việc thuê ruộng không có giấy tờ hợp đồng giửa người thuê mướn và chủ ruộng nên thường chủ ruộng lấn ép làm thiệt hại quyền lợi của người thuê. Giá thuê ruộng từ 40% đến 60%, tùy theo ruộng tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Luật về thuê ruộng qui định lại rỏ qui chế tá điền. Từ nay:

– giá thuê ruộng từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoặch cho ruộng làm 1 mùa / năm;

– giá thuê từ 15 đến 25% cho mùa gặt chánh của ruộng 2 mùa / năm.

Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả ruộng và phải báo trước chủ ruộng 6 tháng. Chủ ruộng muốn lấy ruộng lại phải báo trước tá điền 3 năm.

Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sanh sống nên số ruộng bỏ hoang tính ra lên đến 500 000 mẩu tây. Trong thời gian Chánh phủ cho kiểm kê, nếu chủ ruộng vẫn vắng mặt, số ruộng này bị trưng thu để cấp phát cho tá điền.

Sau khi lên làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956 qui định Chánh sách Cải cách Điền địa theo đó, điền chủ có quyền giữ cho mỗi người 100 mẩu đất, phải canh tác 30%, số còn lại cho mướn theo điều kiện luật hợp đồng đã ban hành.

Ruộng truất hữu, chủ ruộng được bồi thường theo giá ruộng, 10% bằng tiền mặt, 90% trả bằng trái phiếu với lãi xuất 3% / năm. Người giữ trái phiếu có quyền sử dụng trong các dịch vụ như trao đổi, kinh doanh, mua bán, …

Ruộng truất hữu bán lại cho tá điền trả góp trong 12 năm vốn và lãi xuất 3% như đối với điền chủ củ.

Có lối 1035 điền chủ bị truất hữu vì mỗi người có trên 100 mẩu. Diện tích ruộng truất hữu là 430 319 mẫu, tính thêm 220 813 mẫu của pháp kiều. Năm 1958, tổng số ruộng truất hữu là 651 132 mẫu.

Số tá điền trở thành điền chủ từ năm 1957-1963 là 123 193 người. Ngoài ra còn 2857 người mua trực tiếp từ chủ ruộng, nâng con số điền chủ – mỗi người có tối thiểu 5 mẫu – lên 126 050 người. Và số ruộng mua riêng này là 252 213 mẫu.

Chánh sách Cải cách Điền địa ở trong Nam làm cho chủ ruộng và tá điền đều hài lòng. Số ruộng đất bị Việt Minh trước đây tịch thu phát cho tá điền vì chủ ruộng vắng mặt, nay Chánh quyền đem trả lại cho chủ và bồi hoàn tiền nếu bị truất hữu.

2 – Dinh Điền và Khu Trù mật

Tiếp theo Chánh sách Cải cách Điền địa, Chánh quyền Đệ I Cộng Hòa ban hành Chánh sách Dinh Diền và Khu Trù mật. Huê kỳ, Pháp và Tổ chức Y Tế Quốc tế giúp thực hiện Chương trình này. Chỉ trong vòng từ 1957-1961, Chánh phủ thành lập được 169 Trung tâm định cư đồng bào di cư trong đó có 25 Khu Trù mật, tập trung ở vùng đồng bằng sông Cữu long. Dinh Điền phục hồi hoặc khai thác những vùng đất bị bỏ hoang hoặc đất mới khai phá, đem lại cho đồng bào 109 379 mẫu, nuôi sống 50 000 gia đình gồm 250 400 người.

Khu Trù mật là nơi tập trung dân sống hẻo lánh, thiếu phương tiện cần thiết cho đời sống như chợ búa, trường học, trạm xá y tế, điện, nước, …Mỗi Khu Trù mật gồm từ 3000 đến 3500 người.

Một ngân hàng nông thôn, Quốc Gia nông tín cuộc, đưọc thành lập để yểm trợ Chương trình Dinh Điền và Khu Trù mật bằng cách cho vay với lãi xuất nhẹ.

Cải cách Điền Địa, Dinh Diền và Khu Trù mật đã biến 176 130 gia đình nông dân nghèo trở thành chủ ruộng đất từ ít nhất 1 mẫu trở lên.

Sản xuất ở các Khu Trù mật dần dần vượt qua khuôn khổ địa phương nhỏ hẹp để trao đổi trên qui mô vùng.

Trưóc đời sống an lành của người dân, cộng sản bám trụ ở lại sau Hiệp định Genève xuất hiện và phản ứng thô bạo. Họ ngăn cấm dân mua ruộng truất hữu, cấm ký hợp đồng thuê ruộng, hủy bỏ địa tô, ám sát nhân viên Chánh quyền ở nông thôn như nhân viên Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, …

Còn lại hơn 400 ngàn mẫu đất đã truất hữu để tư hữu hóa cho nông dân, nhưng bị áp lực khủng bố của cộng sản phải bỏ hoang. Từ đây, năm 1958, cộng sản Hà nội bắt đầu dựng lên cuôc chiến trong Miền Nam.

III – Cải cách Điền địa và Luật Người Cày Có Ruộng

Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thực hiện Cải cách Điền địa bằng 2 giai đoạn: áp dụng luật cũ 57 và ban hành thêm Luật Người Cày Có Ruộng.

1 – Từ năm 1967-1970, ông Thiệu cho tiếp tục áp dụng Luật Cải cách Điền địa cũ của thời Đệ nhất Cộng hòa. Sau vụ Việt cộng tổng công kích Mậu thân thất bại, nông thôn trở lại có an ninh. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay đem cấp phát cho nông dân. Từ 1967 đến 1969, cò thêm 261 874 gia đình dược cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số tá điền trở thành chủ điền lên 438 004 người, vị chi 48% nông dân nghèo.

2 – Phát triển kinh tế nông nghiệp. Chánh quyền cho tổ chức lại ngân hàng nông thôn Nhà nước, đồng thời ngân hàng nông thôn tư cũng ra đời để kịp đáp ứng nhu cầu phát triển. Bộ Canh nông nghiên cứu tạo giống lúa mới, khuyến khích khuếch trương nghành chăn nuôi gia súc.

Chánh quyền tuyển dụng thanh niên đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đở kỷ thuật cho nông dân trong sanh hoạt hằng ngày,…

3 – Luật Người Cày Có Ruộng. Ngày 26 thánh 03 năm 1970, Luật Người Cày Có Ruộng ban hành, áp dụng cho mọi thành phần điền chủ. Luật Người Cày có Ruộng khác với Luật 57 thời Đệ nhất Cộng hòa. Điền chủ tự làm ruộng của mình, nhưng số ruộng quá 15 mẫu, bị truất hữu. Trong vòng 3 năm, 1970-1973, có 51 695 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770 145 mẫu, được chia ra như sau:

– 22 560 điền chủ nhỏ với 61 634 mẫu truất hữu;

– 16 449 trung điền chủ, với 158 110 mẫu truất hữu;

– 12 695 đại điền chủ, với 550 401 mẫu truất hữu.

Luật Người Cày Có Ruộng chi phối số điền chủ có 15 mẫu trở lên. Thành phần điền chủ này chiếm 56% tổng số điền chủ, với 91, 9 % của tổng số diện tích ruộng bị truất hữu.

Ruộng bị truất hữu được bồi thường 20% tiền mặt, còn lại 80% trả bằng trái phiếu, lời 10% / năm trong 8 năm.

Tiêu chuẩn cấp phát ruông truất hữu: 3 mẫu cho Miền Nam, 1 mẫu cho Miền Cao nguyên và Miền Trung.

Ruộng hương hỏa và của tôn giáo không bị chi phối bỡi Luật Người Cày Có Ruộng.

Trước khi Hà nội hợp tác hóa đất đai sau Cải cách Ruộng đất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Miền Nam chỉ gồm tiểu điền chủ có từ 0, 10 – 5 mẫu và trung điền chủ có trên 5 mẫu ruộng trở lên. Giới đại điền chủ hầu như không còn nữa.

Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, nhập cảng phân bón, cải tiến giống lúa, tăng gia sản xuất gia súc,…

IV – Ruộng đất dưới thời quân chủ

Dưới thời quân chủ việt nam, ruộng đất là sở hữu tối thượng của nhà vua. Nhưng trên thực tế, nhà vua đem ruộng đât phân phối cho dân nghèo để cày cấy sanh sống và nộp thuế. Khi cần, nhà vua có thể thu hồi và bồi hoàn cho người đang canh tác.

Việt nam có chế độ quân chủ và kéo dài cho đến ngày 25 tháng 08 năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị, nhưng Việt Nam tuyệt nhiên không có chế độ phong kiến. Trái lại ở Tàu và Âu châu, có chế độ phong kiến, với quân đội riêng, luật pháp riêng, tài chánh riêng.

Sở hữu ruộng đất ở việt nam không quá bất bình đẳng như ở nhiều nơi khác. Trước Thế chiến II, theo kết quả điều tra của nhà kinh tế học Yves Henri công bố năm 1932, ruông đất ở Việt nam được phân phối như sau (hình).

Tàu trước khi bị cộng sản Mao-trạch-đông cai trị là một nước độc lập nên địa chủ được Chánh quyền bảo vệ. Trái lại, Việt Nam là nước bị thực dân pháp đô hộ nên địa chủ cũng là nạn nhân của Chánh quyền thực dân. Do đó, họ phần đông đứng lên tham gia chống Tây giành độc lập. Chình lớp người này, có học khá, mới thật sự là những ngưới ái quốc. Họ chẳng cần biết cộng sản là cái gì nên sau đó họ mới kẹt trong gọng kèm của cộng sản.

Từ thời nhà Hồ, quyền sở hữu ruộng đất đã được giới hạn cho hợp lý. Qua nhà Lê Thái Tổ, chế độ ruộng đất tiếp tục vẫn giử theo đây.

Nhà vua cấp phát cho các pháp nhân như làng xã, Hội hè, Tổ chức, …một khoảnh đất để làm của chung khai thác lấy lợi tức trang trải chi phí sanh hoạt. Các đồn điền khi hoàn tất, được nhà vua đem phân phối cho xã thôn nhưng không được phép bán. Trừ trường hợp bất khả khán.

Ruộng cấp cho dân chúng thì cứ 3 năm / lần, tái cứu xét gia hạn. Ngoài ra còn có những loại công điền khác dành cấp phát cho những trường hợp đặc biệt như: trợ sưu điền giúp dân nghèo đóng thuế, học điền, giúp học trò nghèo đi học, cô nhi quả phụ điền, giúp cô nhi quả phụ và hậu điền là ruộng của người chết không có con cháu thừa hưởng đem hiến cho chùa, đình,…

Nhờ chế độ quân phân đất đai mà xã hội việt nam ngày xưa được an bình hơn nhiều nơi khác lúc bấy giờ.

V – Việt Nam có thật sự cần Cải cách Ruộng đất không?

Ở Bắc và Trung, ruộng đất không tập trung quá nhiều vào tay một số người nhờ chế độ quân phân tài sản nên không có nhiều đại điền chủ. Trong lúc đó, ở trong Nam, vùng đất mới, kịp lúc Tây đến chiếm, nên có những người biết cách làm giàu với vài ngàn mẫu ruộng trở lên. Nhưng số đại điền chủ này không phải nhiều. Nhìn chung, chế độ ruộng đất ở việt nam từ thời quân chủ không quá bất bình đẳng.

Về mặt quan chức, dưới thời quân chủ, người dân bình thường đều có quyền đi học và đi học không tốn kém. Khi thi đậu được nhà vua tuyện dụng làm quan. Tuy chịu ảnh hưởng văn hóa tàu, quan chức việt nam xuất thân từ thứ dân và khoa cử nên thường giữ nếp sống thanh liêm làm mẫu mực. Không có thứ quan phiệt vì ảnh hưởng lâu đời phong kiền như ở Tàu, nên cũng không có lớp cường hào ác bá ở địa phương xa, xách nhiễu thường xuyên dân chúng.

Khi Pháp đến cai trị, một lớp tân học Việt Nam hấp thụ tinh thần khoa học và khai phóng khá đông làm mới xã hội Việt Nam. Hiện tượng mới này không phổ biến ở Tàu.

Trước thực tế xã hội Việt Nam như vậy, thử nghĩ có cần thiết phải làm cuộc Cải cách Ruộng đất long trời lở đất hay không?

Hồ Chí Minh làm cuộc cải cách ruộng đất ở Miến Bắc từ năm 1953 không nhằm quân phân ruộng đât phục vụ nông dân, mà thực chất là nhằm tiêu diệt một thành phần quan trọng cũa xã hội, trong đó có cả đảng viên cộng sản gia nhập thời kháng chiến vì yêu nước, để thanh lọc xã hội, chuẩn bị cuộc cách mạng vô sản theo khuôn mẫu trung quốc. Do đó, Hồ Chí Minh đã “phóng tay phát động quần chúng nông dân đứng lên tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. ”

(Xem “ Địa chủ ác ghê ”, tác giả CB, tức CỦA BÁC, trên nhựt báo Nhân Dân, đang phổ biến trên Internet). Đến khi nhận thấy cải cách ruộng đất đã đạt mục tiêu, Hồ Chí Minh ban hành lệnh Sửa sai, đưa Hồ Viết Thắng và Trường Chinh qua chức vụ khác, đẩy Võ Nguyên Giáp ra công khai nhận lỗi trước nhân dân. Hồ Chí Minh xuất hiện và khóc cho nạn nhân của ông, chủ yếu để bảo vệ uy tín của đảng cộng sản của ông. Có dư luận cho rằng Trường Chinh vì lãnh đạo cuộc Cải cách Ruộng đất chấp nhận để cha mẹ bị đấu tố như những địa chủ khác. Xin nói rõ: không đúng. Trước khi phát động chiến dịch, theo nhà báo Bùi Tín, “ Trường Chinh đã cho rước cha mẹ về Hà nội dấu một nơi an toàn ”. Lúc xử bắn Bà Năm, nhà tư sản, nhiệt tình giúp kháng chiến, có 3 người con trai là sĩ quan Qưân đội kháng chiến, Trường Chinh tham dự, mang mắt kiến đen, Hồ Chí Minh cải trang, dấu bộ râu cá chốt.

Nhưng đừng quên Cải cách Ruộng đất và Sửa sai là một chủ trương xuyên suốt theo chủ thuyết mao-trạch-đông đã áp dụng ở Tàu nhằm mục đích thật sự đẩy nông dân tay đẩm máu để phải theo đảng cộng sản luôn, không thể cấu kết với địa chủ chống đảng cộng sản và, mặt khác, lột bỏ tinh thần tư hữu vốn nặng và ăn sâu lâu đời trong nảo trạng nông dân.

Thực tế, không gì khác hơn là đảng cộng sản cướp sạch đất đai của nông dân bằng khủng bố.

Ngày nay, đảng cộng sản hà nội vì không còn khả năng và ý chí làm cách mạng bằng bạo lực như trước nên bị nông dân trên cả nước đứng lên đòi đất đai đã bị đảng cướp từ trước giờ.

Thời cơ đang tới, hơn lúc nào hết, trước khi Việt nam có một chế độ dân chủ chính thống để truy tố đảng cộng sản ra trước công lý dân chủ, người nông dân từ Nam ra Bắc cần phải nắm chặt tay nhau, đứng lên đòi lại tài sản đã bị Đảng cộng sản cưỡng đoạt để tự mình làm lại cuộc Cải cách Ruộng đất cho chính mình.

© Nguyễn văn Trần

Ghi chú

* Ghi lại buổi nói chuyện về Cải Cách Ruộng đất với anh chị em “Đông Âu ” do Mạng Lười Dân chủ tổ chức tại Berlin, 2005.

** Tài liệu tham khảo:

Hoàng văn Chí, Từ Thực dân đến Cộng sản, Pall Mall Press, 1964, London

Pierre Brocheux, Hồ Chí Minh, từ nhà cách mạng đến thần tượng, Payot, 2003, Paris

Loạt bài về Cải cách Ruộng đất trên Đài Á châu tự do

Lâm Thanh Liêm, Chánh sách Ruộng Đất ỏ việt nam 1954-1995, Đường Mới, 1996, paris

Etudes Vietnamiennes ( tập san Nghiên cứu việt nam), ngoại ngữ, 1965, Hà nội, số 7

*** Phụ bản

KẾT QUẢ TAI HẠI

Khi nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Trung Quốc, đảng CSVN phải thi hành chính sách “cải tạo xã hội chủ nghĩa” rập khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc, điển hình nhất là chính sách cải cách ruộng đất.

Bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000”, tập 2, (giai đoạn 1955-1975) do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xã, với khoảng 10 triệu dân. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68%. Các đội và các đoàn Cải Cách Ruộng Đất đều ra sức truy bức để cố đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như đã quy định. Như vậy tổng số người bị quy là “địa chủ” phải là trên 500.000 người. Cũng theo tài liệu này, có 172.008 người đã bị đấu tố, tức bị giết. Tuy nhiên, sau khi sửa sai và kiểm tra lại, Đảng và Nhà Nước nhận thấy trong số 172.008 nạn nhân của cuộc Cải Cách Ruộng Đất, có đến 123.266 người được coi là oan (chiếm đến 71,6%).

Sau đây là những con số cụ thể về các nạn nhân:

Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó số được coi bị oan là 20.493 người (77,4%);

Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó số được coi bị oan là 51.480 người (62,19%);

Địa chủ kháng chiến: 586 người, trong đó số được coi bị oan là 290 người (49,4%);

Phú nông: 62.192 người, trong đó số được coi bị oan là 51.003 người (82%).

Khi đảng CSVN không đi theo đường lối “cải tạo xã hội” của Mao Trạch Đông mà theo đường lối của Liên Sô, Trung Quốc đã “dạy cho Việt Nam một bài học”!

Lời bình của người không cộng sản và cộng sản phản tĩnh:

Qua các sự kiện lịch sử được công bố, các sử gia và các nhà phân tích đều đi đến kết luận rằng nếu năm 1945 đảng CSVN không đưa đất nước Việt Nam đi theo chủ nghĩa cộng sản, dùng dân tộc Việt Nam làm vật thí nghiệm cho một chủ nghĩa phiêu lưu, Việt Nam đã thoát khỏi một cuộc chiến kéo dài 30 năm với những hậu quả rất thảm khốc. Nếu không có đảng CSVN, nước Việt Nam đã có độc lập và tự do từ lâu rồi.

Bé gái 4 tuổi bị bạo hành đến ‘biến dạng’

Bé gái 4 tuổi bị bạo hành đến ‘biến dạng’

September 14, 2014

Nguoi-viet.com

BÌNH DƯƠNG 14-9 (NV) – Một bé gái 4 tuổi bị cha mẹ đánh đập trừng phạt sưng húp cả mặt đến không mở được mắt và ngất xỉu, đã được lối xóm đưa đi cấp cứu ở bệnh viện.

Bé Ngân bị cha mẹ bạo hành đang được điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương – (Hình: Tuổi Trẻ)

Nhiều báo cho hay bé gái Đỗ Thị Kim Ngân (ngụ P.Bình An, thị xã Dĩ An, Bình Dương) không có cha mẹ hay người thân chăm sóc vì cha mẹ của bé đã bị công an tạm giữ.

VNExpress cho hay “khoảng 4 giờ 30 chiều ngày 12 Tháng Chín, người dân ở dãy trọ thuộc khu phố Nội Hoá 2, phường Bình An, nghe tiếng gào khóc khàn đặc của bé Đỗ Thị Kim Ngân nhiều giờ cùng với tiếng la hét của vợ chồng ông Đỗ Trọng Minh và Nguyễn Thị Thùy Trang. Khi nhiều người xông vào phòng trọ C3 thì bé gái bị trói nằm ngất lịm dưới sàn với gương mặt sưng húp, biến dạng, kiến bu đầy người.”

Nguồn tin cho biết một số người đưa bé Ngân đến bệnh viện Đa Khoa Dĩ An, vài người khác giữ vợ chồng Minh lại rồi báo công an. Một số người thấy tình trạng bé Ngân như thế nên định xông vào đánh ông Minh bị công an ngăn lại.

Bé Ngân sau khi được cho thở oxy và sơ cứu khoảng nửa giờ, bệnh viện Dĩ An đã cho chuyến lên cấp cứu ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương. Sau một ngày được cứu chữa, tin cho hay  sức khoẻ bé Ngân hiện đã tạm ổn. Tuy nhiên, những vết sưng tấy, bầm tím vẫn còn nguyên trên khuôn mặt cháu, nhất là đôi mắt vẫn chưa thể mở lớn.

Chị Trần Thị Quế Nhàn (22 tuổi), người đã chăm sóc bé Ngân từ lúc đưa đi cấp cứu, kể trên VNExpress rằng khi tỉnh lại bé gái luôn tỏ ra hoảng loạn. “Ba đánh và trói con bằng dây điện”, bé gái nói giọng yếu ớt.

Theo người dân tại khu trọ, vợ chồng ông Minh đến thuê phòng khoảng một tháng trước. Ông Minh  làm bảo vệ ở một công ty nhưng hiện đã nghỉ việc. “Có lần bé Ngân ra ngoài chơi, những người trong khu nhà trọ thấy người cháu nhiều vết bầm tím nên thương tình cho bánh ăn. Minh nhìn thấy liền quát mắng, cầm roi tre đánh thẳng vào miệng bé gái, chảy máu”, VNExpress nói.

“Còn những lần khác, cứ đánh con bé là vợ chồng nó đóng chặt các cửa lại. Chúng tôi chỉ nghe được tiếng khóc xé lòng của con bé, tiếng la hét, chửi bới và hăm doạ ‘mày còn khóc tao đánh chết’ của Minh”, một phụ nữ cho biết.

VNExpress nói, tại cơ quan công an, “Minh và Trang không thừa nhận đã đánh bé Ngân mà cho đó là cách dạy con. Cặp vợ chồng này không đưa ra bất kỳ giấy tờ chứng minh mối quan hệ huyết thống với bé gái”.

Theo báo Thanh Niên, ông Đỗ Trọng Minh (27 tuổi) khai với Công an là “khoảng 20 giờ ngày 10 Tháng Chín, cháu Ngân nghịch phá bếp gas trong phòng trọ. Thấy vậy, Trang la mắng, rồi dùng thanh que tre đánh nhiều nhát vào mông và hai tay cháu Ngân.”

Sau đó, “Trang tiếp tục bắt phạt cháu Ngân ngồi quỳ dưới nền nhà. Lúc này, Minh đang ở trên gác xép nhà trọ nghe thấy Trang la mắng, Minh chạy xuống dùng tay đấm, đánh vào đầu, mặt cháu Ngân. Sau khi đánh cháu Ngân, Minh dùng bọc ni lông trói tay của cháu lại khoảng hơn 1 giờ sau mới cởi trói và tiếp tục bắt cháu Ngân quỳ trên sàn nhà.”

Tờ Thanh Niên nói đến rạng sáng 11 Tháng Chín, mặc dù biết cháu Ngân bị thương, bầm tím mặt mũi nhưng vợ chồng Minh, Trang vẫn không đưa cháu đi bệnh viện. (TN)

Ca sĩ Giang Tử qua đời, thọ 70 tuổi

Ca sĩ Giang Tử qua đời, thọ 70 tuổi
September 16, 2014

Nguoi-viet.com
Ðức Tuấn/Người Việt

HOUSTON, Texas (NV)Ca sĩ Giang Tử vừa qua đời lúc 3 giờ 35 phút, giờ địa phương, tại bệnh viện LBJ Houston, Texas, hôm Thứ Ba, hưởng thọ 70 tuổi, cô Trang Nguyễn, con gái người quá cố xác nhận với nhật báo Người Việt.

Giang Tử trong ca khúc Kẻ Ở Miền Xa. (Hình: Chụp từ video của Trung Tâm Thúy Nga)

Ca sĩ Giang Tử, tên thật Nguyễn Văn Giang, sanh ngày 1 Tháng Hai, 1944 tại Hải Phòng.

Sở dĩ ông có nghệ danh là Giang Tử, vì con người ông không muốn ngồi yên một chỗ.

Ông thích đi lang bạt khắp nơi, vì vậy, từ cụm từ “Giang hồ, lãng tử” ông lấy chữ đầu “Giang” là tên thật của ông, ráp nối với chữ cuối là chữ “Tử,” thành nghệ danh “Giang Tử.”

Hai tuần trước, ca sĩ Phương Hồng Quế kể với nhật báo Người Việt rằng, “Sau khi mổ cổ họng vì bị ung thư, bác sĩ cấm anh hát liền, nhưng vì yêu nghề, yêu khán giả quá, nên anh vẫn cố gắng đi hát, đến nỗi bệnh trở nặng, không thể nói chuyện nhiều hay hát hò được nữa.”

Hôm Chủ Nhật, MC Trần Quốc Bảo cho biết, vi trùng ung thư đã lan sang gan của ca sĩ Giang Tử, còn ca sĩ Phương Hồng Quế kể gia đình ông cho biết vi trùng đã chạy vào xương, nhưng vì không muốn ông buồn nên giấu kín.

Ca sĩ Giang Tử bắt đầu sự nghiệp ca hát rất sớm, từ những năm cuối thập niên 1950.

Năm 1963, ông gia nhập quân ngũ, công tác tại Cục Tâm Lý Chiến QLVNCH.

Ông sang Hoa Kỳ lần đầu tiên thăm con gái năm 2007, mãi đến năm 2011, ông chính thức định cư ở Texas.

Những ca khúc gắn liền tên tuổi của ca sĩ Giang Tử là Kẻ Ở Miền Xa, Trăng Tàn Trên Phố, Lời Ðắng Cho Cuộc Tình, Yêu Người Như Thế Ðó…