Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng

Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương” là tựa của một bài phóng sự, đọc được qua RFA, do nhóm phóng viên Việt Nam thực hiện:

“Họ là những người tứ xứ lang bạt về Bình Dương để kiếm sống. Có người làm thuê đủ các công việc để kiếm cơm độ nhật, có người đi buôn rau hành dạo, trái cậy dạo, cũng có người đạp con ngựa sắt cũ kĩ dong ruổi khắp thị thành, ngoại ô để mua ve chai, đồng nát… Cuộc sống của họ khó khăn, bấp bênh, không có ngày mai. Và họ cũng chẳng biết bám víu vào đâu ngoài chút sức tàn lực kiệt lúc tuổi già.

Ông Hoan, một người quê gốc Thái Bình, di cư vào miền Nam sau năm 1975 kể với chúng tôi rằng ông di cư không theo diện nào cả, chỉ đơn thuần lúc đó miền Bắc quê hương của ông nghèo khổ quá, quanh năm suốt tháng chẳng biết làm gì ngoài mấy đám ruộng nhỏ, vài bao lúa mỗi năm cộng với vài chục ký sắn mỗi năm, không tài nào sống nổi, ông khăn gói lên đường hành phương Nam với hy vọng đổi đời…

Vào đất Bình Dương hai chục năm nay, ông đạt được chút thành tựu là nuôi hai đứa con học lên tới đại học, còn lại, hầu như ông chẳng có gì, nhà cũng ở thuê, xe máy không có, bà con ruột thịt không có nốt ở xứ sở xa lạ này. Gần 80 tuổi, ông Hoan vẫn luôn đối diện với nguy cơ đói khổ, bị đuổi ra khỏi phòng trọ nếu như không kiếm đủ tiền trả thuê phòng…

Đồng số phận với ông Hoan, Bà Nga, trôi dạt từ Bến Tre lên thành phố Sài Gòn với nghề bán vé số, rửa chén bát thuê, làm việc phụ giúp ở các quán và giặt giũ thuê. Những công việc này chỉ đủ giúp bà mua gạo, muối, thức ăn cho gia đình hằng ngay. Một thân nuôi ba người con nhỏ, chồng bỏ đi. Cuộc đời bà nghèo khổ, chật vật mãi cho đến khi con bà trưởng thành, đi làm công nhân, bà vẫn chưa hết khổ, vẫn phải đi bán vé số kiếm sống qua ngày.

Ngoài bà Hoa và ông Hoan, còn rất nhiều người, nhiều mảnh đời trắc ẩn, bể khổ đang lang bạt khắp Bình Dương nói riêng và khắp các thành phố trên cả nước nói chung. Mặc dù họ vẫn rất siêng năng, chăm chỉ làm ăn, cố vượt thoát cái nghèo nhưng không tài nào thoát được bởi cơ chế nhà nước đã đẩy họ đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác…

Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Có lẽ vì không phải là ký giả, phóng viên, nhà văn hay nhà báo gì ráo trọi (giới người thường  chỉ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời) nên chuyến đi của tôi – xem ra – lạc quan và vui vẻ hơn nhiều. Ớ Geyleng tôi cũng gặp những người Việt không tấc đất cắm dùi, những mảnh đời lang bạt, những kẻ cũng “bị cơ chế nhà nước đẩy đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác” nhưng (cuối cùng) họ đã tìm ra sinh lộ – dù chưa biết là chuyện mưu sinh (rồi ra) sẽ kéo dài được bao lâu?

Ảnh: VDF

Geyleng là một con lộ dài, cắt ngang bởi vài chục con hẻm lớn, ở Singapore. Nó được mệnh danh là Phố Đèn Đỏ Quốc Tế, với hàng ngàn người hành nghề bán dâm thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Riêng hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) hiện nay thì gần như là giang sơn của những cô gái Việt.

Đúng cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhận xét: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Họ tươi tắn và xinh xắn nếu không hơn thì cũng chả hề kém các bạn đồng nghiệp Thái, Phi, Tầu, Nhật, Đại Hàn … đang biệt cư ở những con hẻm khác. Các cháu không chỉ là một “món hàng” mới lạ đối với người ngoại quốc mà giá cả, xem ra, cũng nhẹ nhàng hơn.

Ở Geyleng (chắc) không ai ngủ. Đường phố tấp nập ngày đêm. Giữa đám người đang chen chúc hưởng thụ hay mưu sinh trong những quán ăn lộ thiên, rực rỡ ánh đèn nơi khu phố đèn đỏ này, tôi chợt nhận ra những người phụ nữ Việt Nam (qua những chiếc áo bà ba sờn cũ) đang đi loanh quanh chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.

Họ chào hàng bằng tay, bằng ánh mắt van nài, cùng với nụ cười rất hiền lành và hơi buồn bã.  Tôi không dấu được sự ngạc nhiên:

  • Chị người Việt Nam phải hông?
  • Chú cũng người Việt luôn sao?
  • Dạ.
  • Chèn ơi, vậy mà tui tưởng người Sing.
  • Chú mua dùm mấy tệp khăn giấy này nha. Có một đô la thôi hà.
  • Được chớ mà chị ngồi chơi nói chuyện chút xíu cho vui đi. Gấp gáp khỉ gì. Chị dùng chi tui kêu luôn?
  • Chú cho uống được rồi, tui mỏi chân và khát nước quá. Đi từ hồi bốn giờ chiều tới giờ đó.
  • Vậy thì ăn luôn đi.
  • Dạ, cũng được.
  • Rồi mấy giờ chị mới về nhà? Gần sáng tới nơi rồi.
  • Phải đi tới cỡ tám giờ mới đủ sở hụi.
  • Sở hụi gì cà? Chị bán mấy cái tệp giấy này có vốn liếng gì bao nhiêu đâu, không bán nay thì mai chớ hư hỏng lỗ lã gì mà sợ.
  • Tui mua một bịch hai chục tệp giá năm đô, bán hết cả bịch thì lời được 15 đồng.
  • Mỗi ngày chị bán mấy bịch?
  • Cũng còn tùy. Bữa nào khoẻ, chịu khó đi, chịu khó mời thì được ba bịch, còn không thì hai. Có bữa hên bán một bịch thôi cũng đủ tiền rồi.
  • Sao kỳ vậy?
  • Nhiều người khách họ chỉ lấy một tệp giấy thôi, lấy cho mình thấy đỡ kỳ vậy mà nhưng cho tới năm sáu đô la lận. Họ cũng thường cho ăn luôn nữa. Nhiều người tử tế và vui vẻ lắm nhưng ngặt là mình không biết tiếng nên cúi đầu ăn thôi, chớ có biết nói chuyện gì đâu.

Tôi tính nhẩm một đô la của Singpore tương đương với 80 xu của Mỹ nên suy ra là bà đồng hương này cũng kiếm được từ 30 đến 50 Mỹ Kim mỗi ngày.

  • Như vậy bữa nào hên là chị về sớm, ngủ khoẻ re há?
  • Ý đâu có được chú. Ngày hên cũng phải ráng đi để bù ngày xui chớ. Với lại tui ở “ghép” với bà Ba. Phải để bả ngủ cho đủ giấc. Khi nào tui về chui vô ngủ là đến phiên bả đi bán. Ghép như vậy mà một ngày cũng phải trả 12 đô tiền nhà lận đó.

Tôi chưa kịp hiểu sự khác biệt giữa chuyện “ghép phòng” và “ghép giường” nhưng chưa kịp hỏi kỹ thì đã có thêm người nhập cuộc:

  • Út à, ngồi chơi mảy. Chú này là “người mình” chớ không phải Sing đâu nha.
  • Vậy hả. Con chào chú.
  • Chú chào em, ngồi nghỉ chút đi. Ăn gì chú kêu luôn nha.
  • Dạ, con thích ăn cháo cá.

Người mới đến trẻ hơn nhiều (chắc mới ngoài bốn mươi) trông cũng tươm tất hơn hẳn dù trên người vẫn chỉ mong manh có mỗi chiếc áo bà ba và cái quần đen quê mùa giản dị, như cách phục sức thường thấy ở những phụ nữ Việt Nam ở quê nhà. Chỉ vài phút sau, lại thêm một “người mình” nữa hồn nhiên ngồi vào bàn góp chuyện:

  • Chèn ơi, ở đây gần tháng rồi tui mới thấy có chú là người Việt ở Thành Phố qua chơi đó nha. Còn toàn là tụi nhỏ làm gái, với đám bà già tụi tui không hà.
  • Không phải ở Thành Phố đâu. Ổng là Việt Kiều ở tuốt luốt bên Mỹ lận.
  • Ủy Trời, xa dữ thần vậy sao?
  • Ảnh: VDF
  • Tha hương ngộ cố tri. Câu chuyện của chúng tôi dù rất lan man nhưng đều nổ ròn như bắp. Tôi không có gì để nói nhiều nên chỉ ngồi nghe, và được nghe về một phương cách mưu sinh của đồng bào mình nơi đất lạ.
  • Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.
  • Ảnh: VDF
  • Đây là một số tiền lớn lao ngoài sự ước mơ của rất nhiều người dân Việt. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến “thần tình” khi mà nước Việt không còn đủ chỗ chen chân cho những người bị đẩy đến bước đường cùng – mỗi lúc một đông – như tường trình của  thông tín viên RFA:
  • “Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.”

Singapre một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm ($53,000) cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn. Họ không chỉ giầu có, hào phóng mà còn vô cùng cởi mở nữa. Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.

Thực khách ở Singapore không ai cần đến giấy chùi miệng nhưng họ vẫn sẵn sàng chia sẻ  vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua một hình thức mua bán (tương đối) lịch sự và tế nhị. Thiệt là một vùng đất láng giềng bao dung, và trù phú, nơi lý tưởng cho những mảnh đời cùng quẫn và lang bạt đến tự xứ mình.

Khi còn tại chức, ông Chủ Tịch Nước  Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 vừa qua) cũng phát biểu gần tương tự:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Trong số những “cường quốc” và “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” này (hẳn) không có người dân ở Singapore đâu. Xin mọi người cứ yên tâm, và đừng ai cảm thấy bị tự ái (vặt) làm chi cho má nó khi.

Theo lời một vị lãnh đạo cao cấp khác, (ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng) thì chuyện “xây dựng CNXH còn lâu dài lắm.” Nghĩa là sẽ còn nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy – nếu họ vẫn còn có thể tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.

Kính chúc các chị, các em, các cháu luôn buôn may và bán đắt.

Ô nhục này dành cho ai?

Ô nhục này dành cho ai?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày 9 Tháng Mười Một mỗi năm, kể từ năm 1989, cả thế giới chào mừng ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Không phải chỉ là những phiên bản, mà bức tường này được cắt từng mảnh, vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới, lắp đặt lại xem như một di tích cần ghi nhớ, bài học của một giai đoạn ô nhục của chế độ Cộng Sản. Một đoạn của bức tường này được để tại Thư Viện Tổng Thống Ronald Reagan ở Simi Valley, California.

Tác giả đứng bên một đoạn Bức Tường Berlin hồi năm 2000.
(Hình: Huy Phương cung cấp)

Sau khi Thế Chiến 2 kết thúc, Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức) được thành lập tại vùng quản lý của quân đội Liên Xô tại Đức ngày 7 Tháng Mười, 1949, sau khi Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) ra đời tại phần phía Tây trong khu vực Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản lý. Vì lý do còn sự chiếm đóng của quân đội Liên Xô, mặc dù thành lập từ 1949, mãi đến năm 1955, Đông Đức mới tuyên bố đầy đủ quyền tự trị của một quốc gia. Sau gần nửa thế kỷ theo đuổi một nền kinh tế lạc hậu, với một không khí chính trị nô lệ, áp bức, khi nước Đức thống nhất, tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Đông Đức chỉ góp được 7% của cả nước Đức so với 93% của Tây Đức dù dân Tây Đức chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước. Suốt một thời gian dài sau khi thống nhất, Tây Đức đã hy sinh, chia sẻ để cả hai miền đều no ấm, thịnh vượng bằng nhau.

Tại sao phía Cộng Sản phải dựng lên Bức Tường Berlin? Ông Mikhail Pervukhin, Đại Sứ Liên Xô tại Đông Đức, đã trả lời câu hỏi này, “Nếu không có bức tường người dân sẽ thấy được sự yếu kém của phía Đông so với phía Tây.” Bức tường Berlin phải được dựng lên, nếu không một ngày kia, không còn một người dân nào ở lại với chế độ Cộng Sản, kể cả binh lính. Chỉ trong vòng sáu năm, từ năm 1945 đến 1961, sau khi rơi vào tay Cộng Sản, 20% dân số Đông Đức (3 triệu rưỡi người) đã vượt thoát sang Tây Đức.

Image result for picture of berlin wallImage result for picture of berlin wall

Bức tường Berlin còn được gọi là “Bức Tường Ô Nhục” do chính phủ Đông Đức dựng nên từ ngày 13 Tháng Tám, 1961 được gọi là “tường thành bảo vệ chống Phát Xít,” nhưng rõ ràng không thấy một người Phát Xít nào leo ngược bức tường đi tìm hạnh phúc trong thế giới Cộng Sản. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Chiến Tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức.

Mặc dù với hàng rào bê tông, cốt sắt có hệ thống báo động tự động, chó săn, 12,000 công an lùng sục ngày đêm, tháp canh, roi điện, hố sâu cản xe tăng và cơ giới, cho đến ngày bức tường sụp đổ đã có hơn 5,000 người dân Đông Đức bất chấp hiểm nguy vượt qua bức tường này thành công đến Tây Đức. Ngoài ra, cũng có 200 người dân Đông Đức bị bắn hạ khi tìm cách vượt qua vùng tự do.

Bài học của Bức Tường Berlin chưa đủ để thức tỉnh lương tri của những chế độ Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Việt Nam. Sau Hiệp Định Geneva 1954, sông Bến Hải được làm ranh giới chia cắt hai miền Việt Nam, một triệu người miền Bắc không chờ “bộ đội cụ Hồ” vào tiếp thu Hà Nội đã khăn gói di cư vào Nam. Sau đó hơn 20 năm, cũng chưa thấy ai ở miền Nam bơi qua sông để ra Bắc tìm tự do, no ấm mà chỉ thấy những người bến Bắc, dưới mạng lưới công an dày đặc, tìm đường vào Nam.

Sau Tháng Tư, 1975, khi Bắc Việt lấp được sông Bến Hải thì hơn một triệu người không muốn “được giải phóng” đã bồng bế nhau ra đi, và sau đó, hơn nửa triệu người lại tìm đường vượt biên, vượt biển và cứ hai người tìm cách ra đi thì có một người thiệt mạng. Giá như có một cây cầu có thể nối liền Việt Nam với các nước tự do, hay có tàu bè đến cảng Sài Gòn hay Hải Phòng rước người ra đi vô thời hạn, thì Việt Nam không còn lại được một cái cột đèn để soi sáng “lăng Bác âm u.”

Cho đến 39 năm sau ngày “giải phóng,” vì sao còn cảnh người Việt đóng tàu vượt biển sang Úc, và chuyện đi lấy chồng ngoại, chuyện cầm cố nhà đất để được đi lao động nước ngoài, chuyện cho con du học mà mong con đừng nghĩ chuyện về, chuyện chuyển vốn ra ngoại quốc để lập “đầu cầu” cho mai hậu, phải chăng tất cả điều đó đã nói lên sự “ưu việt” của chế độ Cộng Sản, một chế độ bị chán ghét, đã xô đẩy mọi người phải rời bỏ quê hương, đất nước ra đi.

Nếu Cuba, Bắc Hàn mở cổng biên giới, việc gì sẽ xảy ra.

Nếu biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico bỏ ngỏ thì nước Mỹ sẽ tràn ngập di dân Nam Mỹ bất hợp pháp.

Chính phủ Mỹ đã bỏ ra hàng tỷ đô la để xây vài nghìn cây số tường cao tại biên giới hai nước không phải để ngăn người Mỹ chạy sang lập nghiệp bên đất Mexico. Trước đây, Hoa Kỳ đã không tiên liệu được chuyện hằng năm có khoảng 600,000 dân gốc Hispanic vượt biên vào Hoa Kỳ.

Đông Đức xây bức tường để ngăn dân của họ chạy ra, Hoa Kỳ xây hàng rào biên giới để ngăn dân ở ngoài nước chạy vào. Tị nạn chính trị hay kinh tế thì cũng là do sự lỗi lầm, ngu dốt của một chế độ.

Lúc 11 giờ 30 phút đêm 9 Tháng Mười Một, 1989, một trung tá công an biên phòng Đông Đức, ông Harald Jager, đã khóc sau khi ra lệnh mở cửa Tường Berlin, trong đêm hàng nghìn người đã ồ ạt chạy sang phía Tây. Một năm sau, nước Đức thống nhất trong tự do mà không đổ một giọt máu. Việt Nam “thống nhất” trong một hoàn cảnh khốn nạn nhất, tù đày, kỳ thị, chia lìa, đói nghèo, oan khuất, thù hận ngút trời, mà “đống xương vô định đã cao bằng đầu!”

Bây giờ có một bức tường, không phải xây bằng xi măng cốt sắt nhưng 40 năm nay vẫn còn tồn tại giữa những con người Việt Nam, mà phần ô nhục dành cho phía Cộng Sản.

NHỮNG QUẢ NHO… DỮ DỘI!

Bài viết của một cô bé quá hay làm xúc động người đọc vì đã diễn tả chính xác và rất thật cho tâm trạng của tuổi thơ nghèo khó…

NHỮNG QUẢ NHO… DỮ DỘI!
Nancy Nguyễn

Đất nước tôi, một rẻo đất tẻo teo khốn khó nép mình bên rìa Thái Bình Dương quanh năm giông bão, của cả trời đất lẫn nhân sinh, trong suốt gần một thế kỷ, chưa có một ngày đứng gió.

Mỗi một mười năm, là một cơn dâu bể đầy khinh ngạc của kiếp người, của dân tộc. Không cơn dâu bể nào giống cơn dâu bể nào, ngoài một điểm chung duy nhất: niềm đau.

Những người sinh ra vào khoảng năm 20 phải chứng kiến đất nước bị xâm lăng và đô hộ. Một đất nước không chùn bước trước vó ngựa Nguyên Mông, bỗng một ngày trở thành thuộc địa, đó, chẳng phải là một biến cố lớn?

Nhưng chỉ 10 năm sau đó, những người sinh ra thời 30, phải chứng kiến cảnh đau thương hơn nhiều lần: đất nước chia đôi, nồi da nấu thịt. Súng của ngoại bang chĩa vào da thịt người mình. “Xương chất đầy đồng, máu chảy thành sông”. “Niềm đau” có là một  danhtừ quá nhẹ?

Mười năm sau, hơn hai triệu con người người sinh vào những năm 40 phải gồng gánh nhau, dắt díu nhau bỏ lại nhà cửa ruộng vườn, bỏ lại phần mộ tổ tiên để chạy loạn. Dân tộc tôi chứng kiến một cuộc di cư lớn chưa từng có trong lịch sử. Và nếu không phải do bị cấm cản, cuộc thiên di ấy có lẽ sẽ còn vĩ đại hơn nhiều. Và như thế, dân tộc tôi đã bắt đầu rách bào, chia đôi, bắt đầu viết những trang sử sau đó bằng nước mắt và bằng máu.

Những người sinh khoảng năm 50, ngắn gọn là: một dân tộc, hai định mệnh! Tôi không còn chữ nghĩa nào hơn để diễn tả nỗi bất hạnh cùng cực ấy.

Những người sinh khoảng năm 60, chứng kiến sự sụp đổ của một thể chế, sự tái thống nhất một đất nước, và sự chia đôi vĩnh viễn của lòng người. 40 năm qua đi mà vết cứa vẫn rịn máu tươi. Vết thương lòng chưa thấy ngày se mặt.

Những người sinh khoảng năm 70 có cơ hội chứng kiến cuộc thiên di thứ 2 trong lịch sử. Hàng triệu triệu con người phải mạo hiểm tính mạng bản thân, gia đình, để tháo chạy khỏi quê hương. Đất nước tôi đó, những năm tháng lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng nghe. Dân tộc tôi lạc lõng, bơ vơ như những con thuyền lênh đênh trên biển.

Và những người sinh vào những năm 80, là tôi đây, 10 năm sau “giải phóng”, những-tháng-năm-cấm-vận.

Có lẽ ký ức tuổi ấu thơ là những ký ức hằn dấu nhất, ám ảnh nhất của một đời người. Tôi nhớ hoài mẹ tôi, bà đáng ra còn trẻ lắm, mà dáng đã còm cõi, bà bòn từng đồng, lo chạy bữa cho con. Có những ngày trời mưa, mẹ tôi ngồi co ro bên vệ đường, gánh hàng quạnh hiu. Bà chẳng lo mình sẽ nhiễm phong hàn, chỉ lo làm sao? cho đủ sống! Có đất nước nào khốn nạn như đất nước tôi? Có bà mẹ nào khốn nạn như mẹ tôi, người mẹ Việt Nam? Tôi lớn lên, mang theo trong tiềm thức vóc dáng mẹ tôi, còm cõi như đòn gánh, co ro như một dấu chấm hỏi. Một dấu chấm hỏi xiêu vẹo trong những ngày mưa.

Tuổi thơ tôi gắn với những ngày mưa Sài Gòn, xoong chảo nồi niêu, có gì … hứng nấy bởi cái mái tôn nhà tôi … “đưa ánh nắng vào nhà” (mẹ tôi bảo thế), đêm nằm có thể nhìn thấy trăng sao. Những khi trời trở bão, gió giật từng cơn, tôi sợ sấm sét chui qua lỗ đinh vào nhà.

Tôi nhớ đôi dép cọc cạch, bên trái con trai, bên phải con gái, mẹ tôi bảo dép “uyên ương”. Chiếc bên trái là của anh Hai để lại, chiếc bên phải mới là của tôi. Và cả hai chiếc đều vá chằng vá đụp, bằng chỉ bố, mẹ để dành từ quân phục của ba. Quần áo mới chỉ được bận 3 ngày tết, và cũng là của anh hai tôi để lại. Mẹ luôn mua rộng ra mấy tuổi, anh Hai bận chật rồi đến phiên tôi. Quần áo của con trai đấy, nhưng chỉ cần mới, chỉ cần không … vá đít là đủ hấp dẫn rồi!

Và quả nho, những quả nho … dữ dội nhất của tuổi thơ tôi. Tết năm đó, chỉ duy nhất tết năm đó, mẹ tôi mua nho Mỹ về biếu nội. Những quả nho mẹ chắt chiu từ gió sương của cả năm trời, gom góp lại để biếu mẹ chồng dịp tết đến. Những quả nho mập ú, căng tròn, hệt như trong phim Mỹ, giống y chang mấy chùm nho … giả, loại những quán sinh tố trong xóm hay treo làm cảnh. Trời ơi! Dòn! Mọng! Ngọt! Mẹ đã dặn đi dặn lại không được ăn, mẹ còn cất tuốt lên nóc tủ. Vậy mà mấy trái nho như có ma lực, cái đứa tôi như bị thôi miên! Tôi lén trộm một trái. Trời ơi! Ngon! Rồi 1 trái nữa, rồi trái nữa! Từng trái, từng trái một, như một kẻ đã hoàn toàn mộng muội, không còn có thể cưỡng lại được sự quyến rũ phát ra từ mấy trái nho. Mẹ sẽ đánh nát tay tội ăn vụng, tôi nghĩ, tay … vẫn tiếp tục công cuộc … mưu cầu hạnh phúc. Cảm giác tôi lúc đó vừa hoảng loạn, vừa lo sợ, vừa … sung sướng , vừa sung sướng, vừa hoảng loạn sợ hãi. Tột cùng của sự hoảng loạn sợ hãi là khi chùm nho của mẹ chỉ còn trơ lại cọng. Khốn nạn thân tôi! Rồi tôi sẽ phải sống tiếp phần … ngày còn lại ra sao đây? Vậy mà mẹ không đánh tôi. Bà chỉ ôm tôi vào lòng … và khóc, khóc gào lên, khóc trào ra. Khóc như một đứa trẻ. Mẹ tôi đó. Ôm con vào lòng, gào khóc lên như trút hết hơi sinh vào từng tiếng nấc.

Năm tháng qua đi, cuộc đời mang lại cho tôi thừa mứa. Giờ tôi muốn ăn gì thì ăn, muốn đi đâu thì đi, muốn mua gì thì mua. Tôi ngán đủ thứ, chả muốn ăn gì, chỉ còn ăn được mỗi nho. Bởi với nho, tôi không ăn bằng trực giác, mà thưởng thức bằng mùi vị của ký ức. Và vì với nho, tôi mua được một vé đi tuổi thơ. Hai mươi mấy năm trôi qua, ký ức vẫn chưa ráo mực. Mỗi lần ăn nho, tôi thấy mình bé lại, và được một bàn tay vô hình kéo tuột về thủa ấy, những-năm-tháng-cấm-vận.

Tôi chỉ là một cá nhân, một cá thể, trong một tập thể những con người thế thệ 8x. Và chỉ là 1 thế hệ, trong nhiều thế hệ con người. Nhưng nói như một nhà văn Nga: “Cây đời có hàng triệu chiếc lá, và nói về một chiếc lá, là cũng đang nói về hàng triệu chiếc lá khác”.

Cứ mỗi mươi năm, con Tạo quái ác xoay vần, là dân tộc tôi lại được gán cho một định mệnh mới. Tôi đã nghe rất nhiều người bảo tôi “thời em sướng rồi, thời của anh khổ lắm”, còn tôi, tôi chỉ thấy thời nào cũng khổ. Và chẳng cái khổ nào giống cái khổ nào. Cái nào cũng “đặc thù” và cái nào cũng “nhất”!

Người mình khổ quá, đất nước mình đau thương quá. Phải không mẹ? Phải không anh?

Facebook Nancy Nguyen

Dạy môn “Hầu đồng” – Thời văn hóa ma quỷ chính thức lên ngôi!

Dạy môn “Hầu đồng” – Thời văn hóa ma quỷ chính thức lên ngôi!

Thiên Điểu/ VNTB

Sau gần 80 năm ra đời, hơn 70 năm cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang hệ ý thức theo chủ nghĩa duy vật biện chứng – còn gọi là chủ nghĩa vô thần – du nhập vào Việt Nam. Mặc dù vẫn luôn kiên định đi theo quan điểm xây dựng CNXH, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê, nhưng việc quản lý, xây dựng văn hóa tâm linh ngày càng hỗn loạn, xói mòn và hủy hoại các giá trị văn hóa thuần túy dân tộc.
Về mặt khoa học, nền giáo dục Việt Nam từ cái nôi là nền văn minh lúa nước thời phong kiến, ngụp lặn trong giáo trình và phương pháp xưa cũ, hết kiểu Liên Xô rồi tới Trung Quốc. Các kiến thức căn bản đều luôn tụt hậu hàng 40-50 năm so với giáo trình tiên tiến trên thế giới.

Những bất cập trong định hướng và tư duy giáo dục chạy đua bằng cấp theo kiểu học ăn cắp, học cho có cái bằng, học lấy danh… ngày càng đẻ ra những “trí thức” chỉ có cái bằng thật to mà không có một chút kiến thức thực thụ, khiến cho mặt bằng dân trí, văn hóa xã hội có không ít những câu chuyện dở khóc, dở cười mà không có bất cứ từ ngữ nào diễn tả đúng nghĩa được.

Ngay trong giới lãnh đạo cao cấp nhất của chế độ, những phát ngôn hớ hênh không dừng lại ở ý nghĩa “sơ xuất” mà phản ánh khá rõ cái tâm, cái tầm trí tuệ hết sức sơ sài. Bao nhiêu năm thay đi đổi lại, ngay đến những giáo trình giảng dạy sơ cấp cũng phải nhập khẩu, mua bản quyền từ nước ngoài, để xảy ra cả tai vạ bị Trung Quốc lợi dụng, đưa các nội dung tuyên truyền ảnh hưởng lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc vào đầu độc thế hệ trẻ.

Về mặt xã hội, việc quản lý các loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh ngày càng bất cập. Chủ yếu là nắm cái ngọn để tìm cách thu lợi chứ không hề có định hướng giáo dục, tôn tạo.

Sau thời kỳ “chống mê tín dị đoan”, việc đánh đồng tôn giáo vào loại hình mê tín, phản khoa học… để đập phá đình, chùa, miếu mạo thời kỳ 1977-1983 đã khiến cho đời sống văn hóa tâm linh ở cộng đồng người dân cả nước đi vào ngõ cụt không lối thoát.

Việc phục hoạt tôn giáo sau này, tuy không chính thức thừa nhận sai lầm của chính sách bài tôn giáo trong giai đoạn triệt phá trước đó, nhưng nó ghi nhận chính quyền vì nhiều lý do đã phải thừa nhận tôn giáo là một văn hóa không thể tách rời đời sống con người. Tuy nhiên, cái đuôi “định hướng” của tư tưởng chính trị vẫn tiếp tục ngoáy nát đời sống tâm linh của xã hội.

Tiền bạc và chính trị thao túng thần thánh

Nếu nhìn vào những ngôi chùa, những nhà thờ, những dịch vụ ăn theo tôn giáo, tâm linh mọc lên như nấm với đủ mọi hình thức thì có vẻ như chế độ đang rất tôn trọng tôn giáo, tôn trọng văn hóa tâm linh. Từ các quan chức hàng đầu bảo trợ, cắt băng khánh thành cho công trình chùa chiền, tới các quan chức, cá nhân… đua nhau lên chùa cầu danh cầu lợi, mưu cầu cá nhân, thể hiện một thứ văn hóa thụ động, ỷ lại, thiếu vắng kiến thức và bản lĩnh, gián tiếp gây nên phong trào đồng bóng, cúng bái núp sau danh nghĩa tâm linh đua nhau ra đời. Hậu quả tai hại của loại “văn hóa” này là liên minh ma quỷ giữa cán bộ và đồng bóng trong các dịch vụ lừa đảo tìm hài cốt liệt sĩ. Dân gian gọi thẳng là trò “ăn xác chết”, một so sánh sát thực về hành vi trong các câu chuyện về ma quỷ mất tính người, Để lại không ít hệ lụy đầy nhức nhối trong xã hội!

Đặt chân tới các khu danh lam, thắng cảnh, chùa chiền nổi tiếng, không nơi nào không nhìn thấy cảnh mua bán bát nháo, các hành vi phi văn hóa. Các ngôi chùa, không kể cũ mới, lẽ ra là nơi thanh tịnh, yên bình để con người tìm về với không gian đạo hạnh, tu tĩnh tâm hồn thì các nhà hàng, quán ăn, các dịch vụ ăn theo đủ kiểu chen lấn đến tận chân nơi thờ phượng. Các dịch vụ mượn danh “nâng cấp; khai thác du lịch” thẳng tay tàn phá không gian thiên nhiên để trục lợi, mang bàn tay nhớp nhúa, được “bảo kê” bởi các giấy phép của chính quyền đầy các toan tính tiền bạc, lời lỗ thọc vào cái nơi xuất phát của tâm linh.

Đau xót thay! Cái ăn theo thô bạo của những kẻ thiếu nhận thức ngày nay lại được hậu thuẫn bởi chính những mưu toan chính trị, quyền lực! Những “ông sư” hủ hóa, ăn chơi trác táng, lừa đảo…, thậm chí phớt lờ cả luật pháp vẫn ngang nhiên hoạt động.

Các hành động lộ rõ sự “cưng chiều” với loại hình Phật giáo qua việc các quan chức công khai tham gia các hoạt động, nghi lễ. Mở đường cao tốc lên Chùa Bái Đính, cấp phép dễ dàng cho các chùa mới… Trong khi đó, các việc liên quan xâm hại quyền lợi của Công giáo – ví dụ điển hình là việc nhùng nhằng không trả một phần cơ sở tu viện của nhà thờ Thái Hà, san lấp đất của giáo xứ ở Hồ Ba Giang, cưỡng chế, áp đặt đối với Phật giáo Hòa Hảo, Chùa Liên Trì.v.v. lại là một ví dụ thể hiện ý đồ chính trị hóa, kiểm soát tôn giáo một cách thô bạo, bất bình đẳng.

Từ đứng sau hậu thuẫn thành công khai

Chưa dừng lại ở sự hậu thuẫn, giờ đây Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đưa thêm vào chương trình đào tạo một bộ môn mới: Môn Hầu đồng(!?).

Loại hoạt động bị tất cả các tôn giáo chính thống, lâu đời thừa nhận nó là biểu hiện của ma quỷ – ma quỷ đúng nghĩa đen – và từng là đối tượng chính trong phong trào chống mê tín dị đoan của chế độ, nay được hợp pháp hóa bằng cách đánh tráo là loại hình “văn hóa dân gian được nhìn nhận”!

Nhìn nhận một hoạt động, một sự việc, một vật… trong thực tế bằng con mắt là để thấy. Nhưng nhìn nhận để giáo dục, đào tạo là đưa cái nhìn thấy vào tâm hồn, vào trí não. Các giảng viên trường ĐH Văn hóa Hà Nội nhìn nhận ra sao khi nhìn một nghi lễ cúng tế dân gian thành hoạt động đồng bóng, cầu hồn (Hầu đồng) là văn hóa?

Hậu thuẫn cho đám đồng bóng, ma quỷ hoành hành, lừa mị, moi tiền… chưa đủ. Phải chăng giờ đây cần phải đào tạo thêm nhiều nữa để phá nốt những dấu tích văn hóa dân tộc đang ngày càng tan nát? Bịt chặt góc nhìn đúng sai trong lương tri con người?

Theo VNTB

Nguồn tham khảo:

http://motthegioi.vn/tieu-diem/dua-hau-dong-vao-giang-day-cho-sinh-vien-nganh-van-hoa-du-lich-119870.html

http://www.baomoi.com/Can-canh-thu-rung-bi-xe-thit-tai-chua-Huong/137/10390034.epi

http://news.zing.vn/Choang-voi-canh-bao-luc-truoc-chon-cua-Phat-post235277.html

http://www.baoangiang.com.vn/Chuyen-muc-khac/Tin-trong-tinh/Muon-chon-linh-thieng-len-ong.html

Đại tướng quân hai lúa Việt được Campuchia cấp xe hơi, biệt thự hoành tráng

Đại tướng quân hai lúa Việt được Campuchia cấp xe hơi, biệt thự hoành tráng

Vài hôm nay, cái vụ bác Hai lúa Trần Quốc Hải sang Campuchia làm khoa học khiến mình bạc mặt vì mất ngủ. Hết chuông điện thoại để bàn đến chuông di động réo từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, từ tối đến đêm. Hóa ra mấy bác “khoa học” cũng đang “tâm tư” như mấy bác bên quân đội tâm tư vì cái vụ không được lên tướng (dù nước mình, “trần phong tướng” nghe đâu là gần 500, trong lúc thằng Tàu bự cũng chỉ có khoảng 190 tướng). Điện thoại hàng trăm cú nhưng nội dung thì chỉ có một: Campuchia muốn Đại tướng quân Hai lúa hạ cố nhận cho 18 ha xoài, 1 ô tô, 1 biệt thự ở Pnông-Pênh… Nhưng Hai lúa vẫn chưa chịu nhận. Chuyện thật mà nghe cứ như là … “gặp nhau cuối tuần”. Mấy bác giáo sư tiến sĩ bạn mình đang tính đến nước sang Campuchia làm “thuyền nhân” rồi tìm cách trổ tài với bác Hunxen, chí ít cũng được hưởng vài mẫu xoài, chiếc ô tô. Nghe xong, mình mới bảo họ rằng các anh không yêu Đảng à, không yêu tổ quốc Việt Nam XHCN à. Tôi thà làm ăn mày nước Nam còn hơn làm vương Campuchia… Nói vậy nhưng nghĩ lại mình thấy cũng hơi bị lo lo: ngộ nhỡ chất xám mà cứ chảy ồ ồ suốt ngày đêm sang Campuchia thì gay quá, còn gì là tầng lớp trí thức XHCN do Đảng đào tạo nữa. Đảng vừa mất cả tiếng vừa mất cả miếng. Thế cho nên mới tính làm một cái kiến nghị gửi Đảng về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với giới khoa học theo như cách làm bóng đá vậy. Nghĩa là nhà trường XHCN cứ đào tạo thật nhiều nhà khoa học sau đó đem bán dần cho Campuchia, như các câu lạc bộ vẫn bán cầu thủ. Nhất cử lưỡng tiện, Nhà nước thì được tiền, nhà khoa học thì được biệt thự, ô tô, vườn xoài. Tiền thu được có thể đủ phong thêm vài ngàn ông tướng, cho anh em đỡ “tâm tư”, như lời bác Phùng Quang Thanh. Rồi lập thêm mấy cái hội, mấy cái mặt trận để vỗ tay cho rôm rả mỗi khi mấy bác Bộ Chính trị đăng đàn giáo hóa cho dân. Nếu vẫn chưa hết tiền thì mở mấy trường đài tạo dư luận viên rồi gửi tuốt hết sang Campuchia luôn để đám dư luận viên này mở mang đầu óc cho đám trí thức làm thuê kia rằng Đảng ta là đạo đức, là văn minh, ta dân chủ gấp vạn lần bọn tư bản cá mập và nhớ liệu thần hồn mà gửi tiền về cho Đảng để Đảng còn đào tạo 90 triệu con dân thành 90 triệu tôi tớ làm thuê cho đám tập đoàn tư bản lũng đoạn Samsung, Ford, Sony… Được như vậy thì đám trí thức chúng mày không cần phải sang Campuchia làm thuê làm chi cho khổ, cứ ở yên trong nước mà làm thuê cũng sướng chán rồi, khỏi lo mất danh dự vì 90 triệu dân ai cũng làm thuê, cũng bình đẳng nhé

Bauxitte Việt Nam

Sửa chữa và chế tạo xe bọc thép thành công tại Campuchia, cha con Đại tướng quân hai lúa Trần Quốc Hải được biệt đãi như chế độ của đại tướng quân thật sự. Chính phủ Campuchia đã cấp cho gia đình ông một biệt thự, một xe hơi trong những ngày lưu lại nước bạn.

Không chỉ vậy, ông sẽ được sở hữu tất cả cộng với vườn xoài rộng 18 ha nếu chấp nhận sang Campuchia làm khoa học

“Nước bạn kêu tôi sang làm khoa học. Họ cấp nhà đất, xe cộ bảo đảm kinh tế, mình chỉ cần chuyên tâm sáng tạo” – ông Trần Quốc Hải nói.

Chuyện làm tướng của ông hai lúa

Lúc được trao Huân chương Đại tướng quân, ông cũng không ngờ mình và gia đình được đối đãi tử tế như thế. Huân chương do Quốc vương Norodom Sihamoni ký lệnh và Thủ tướng Hun Sen trao tặng.

clip_image001

Thủ tướng Hun Sen trao tặng Huân chương Đại tướng quân cho ông Trần Quốc Hải.

“Lúc nhận huân chương tôi cũng run lắm. Cả đời mình chưa bao giờ dự một nghi lễ long trọng như vậy”. Ông kể, buổi lễ có rất đông người, rất nhiều lãnh đạo cao cấp và tướng lĩnh. Sau này ông mới biết, đó là nghi thức cấp quốc gia.

Ông Hải thật thà cho biết, số tiền đi kèm huân chương chỉ có vài ngàn USD. Tuy nhiên, sau khi phong tướng, cả gia đình ông được biệt đãi rất trịnh trọng. Cuộc sống, sinh hoạt của gia đình ông hưởng đúng tiêu chuẩn cấp tướng.

Gia đình ông được cấp một ngôi biệt thự ở ngay Phnom Penh, cách nơi ông làm việc 3 km. Ông cho biết đó là một ngôi biệt thự rất rộng và bề thế.

Riêng ông Đại tướng quân hai lúa được cấp riêng một chiếc xe hơi 4 chỗ hiệu Hyunhdai Sonatta mới cứng để tùy nghi sử dụng.

“Mọi việc ăn uống, sinh hoạt của gia đình tôi đều có người phục vụ, đúng theo tiêu chuẩn cấp tướng” – ông Hải hồ hởi kể.

Ngoài ông và con trai, nước bạn còn mời vợ và con gái ông sang biệt thự ở chung một thời gian ngắn. Khi hoàn tất công việc, một quan chức dẫn gia đình ông thăm quan vườn xoài 18 ha cùng với thông điệp: Gia đình ông sẽ sở hữu tất cả, biệt thự, xe hơi và vườn xoài nếu sang Campuchia định cư làm khoa học. Họ để dành sẵn chờ ông trả lời.

“Ở bên đó cấp tướng vinh dự lắm, được người ta nể trọng” – ông nói. Quan niệm của nước bạn, đại tướng là thần, chỉ xếp sau vua nên có nhiều đặc ân. Chính phủ bạn còn cho biết, Huân chương Đại tướng quân cho phép ông nhập quốc tịch Campuchia bất cứ lúc nào.

clip_image002

Tổng tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia trao Huân chương cho anh Trần Quốc Thanh (con trai ông Hải)

“Sướng nhất là làm khoa học”!

“Họ làm tất cả vì muốn gia đình tôi sang hẳn. Nhưng tôi chưa nghĩ đến việc sang đó. Nói thật tôi đi nhiều nước rồi. Mong muốn lớn nhất là phục vụ dân mình, nước mình” – ông Hải trải lòng.

Ông còn mẹ già ngoài 90 tuổi ở quê nhà Tây Ninh, còn nhiều công trình dang dở phải theo đuổi. Trở về sau chuyến đi Campuchia, ông Đại tướng lại cởi bỏ quân phục, làm anh nông dân chuyên sáng chế.

Nhìn vẻ ngoài rất bình dị và khiêm tốn, ít ai ngờ ông là người quả quyết, dám nghĩ dám làm và thành công. Ông nói thật với chúng tôi, tiền bạc quyền lợi không quan trọng. Cái “sướng” nhất của người làm khoa học là được thỏa mãn đam mê.

“Không định cư nhưng tôi sẽ thường xuyên sang nước bạn. Ở đó làm khoa học sướng lắm” – ông Hải nói tiếp. Tất cả những sáng kiến của ông đưa ra đều được tiếp thu và ủng hộ tức thì. Kinh phí vừa yêu cầu xong, lập tức đến tay.

Mỗi chiếc xe bọc thép sửa chữa, ông được khoán trắng 25.000 USD cả phụ tùng lẫn công cán. Chế tạo xe bọc thép mới, ông được cấp ngay kinh phí trọn gói 200.000 USD/chiếc.

Sắp tới, Đại tướng quân hai lúa Trần Quốc Hải sẽ tiếp tục sang Campuchia thực hiện các đề án khoa học. Tuy nhiên, ông lần nữa khẳng định với chúng tôi, ông vẫn chưa gật đầu với chiếc xe hơi, tòa biệt thự, 18 ha xoài và chế độ biệt đãi dành cho một vị tướng.

“Tiền bạc lời lãi mình không đặt nặng nhưng được tin tưởng, khuyến khích thì mình phấn khích lắm” – ông phân tích. Cộng với việc được phục vụ như một ông tướng, ông chuyên tâm làm, hào hứng làm và đã thành công.

Theo Một thế giới

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/207105/dai-tuong-quan-hai-lua-viet-duoc-campuchia-cap-xe-hoi–biet-thu-hoanh-trang.html

“Cường quốc”

“Cường quốc”

Chuacuuthe.com

VRNs (15.11.2014) – Sài Gòn – Báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai 10/11/2014, nơi trang nhất đã dành một diện tích hơn nửa trang báo để đăng hình bản đồ nước Việt Nam với 8 điểm xây dựng các nhà máy lọc dầu, cùng với tựa đề: Việt Nam sẽ là “cường quốc” lọc dầu? Có thể kể 8 điểm ấy như sau: Hải Phòng, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, và Cần Thơ. Với cách bố trí các nhà máy lọc dầu như vậy, dọc theo bãi biển của Việt nam được đan ken dày đặc các nhà máy lọc dầu. Có một số vấn đề cần quan tâm.

Cuong quoc

Môi trường

Nhà máy lọc dầu là nguồn gây ô nhiễm môi trường rất lớn, khí thải từ nhà máy lọc và các chất thải sẽ xử lý ra sao? Kinh nghiệm của bao nhiêu công trình từ thủy điện đến giao thông, công trình nào trong dự án đều có công đoạn “đánh giá tác động môi trường”, nhưng gần như không công trình nào tính toán đúng và hợp lý về sự tàn phá môi trường do nó gây ra, thậm chí đánh giá và trù liệu hoàn lương môi trường, nhưng chẳng đơn vị thi ông hay chủ đầu tư thực hiện việc hoàn lương này, hoặc thực hiện xử lý chất thải. Sẽ không thể kể ra hết những công trình kiểu như vậy đầy dẫy trên đất nước này, hậu quả là mất rừng, lũ lụt, lũ quét, lũ ống, động đất, động vật hoang dã biến mất hoặc về phá phách hoa màu, giết người, khai tử hầu hết các dòng sông hiền hòa giàu thủy sản,…

Cứ nhìn một nhà máy lọc dầu Dung Quất để xem rừng phòng hộ tiêu thụ khí thải được trồng ra sao. Nhà máy đã hoạt động nhiều năm nay nhưng rừng vẫn không có lấy đâu mà tiêu thụ khí thải.

Tài nguyên

Tàu quốc đã đưa giàn khoan vào hải phận Việt Nam để khoan thăm dò dầu khí, đã chào hàng đấu thầu khai thác dầu khí và tuyên bố tiếp tục sẽ đưa thêm nhiều dàn khoan ra ngoài khơi hải phận Việt Nam để khai thác. Thử nghĩ, giàn khoan ngoài khơi Việt Nam, nhà máy lọc dầu dọc bờ biển Việt Nam, Việt Nam không thể là “cường quốc” lọc dầu, nhưng toàn bộ dải giang san gấm vóc hình chữ S này biến thành công trường khai thác và lọc dầu của Tàu quốc. Tài nguyên của chúng ta bị khai thác triệt để, môi trường của chúng ta bị khai thác triệt để, còn lại chỉ là một mảnh đất, một thềm lục địa nghèo nàn xác xơ.

An ninh và sự toàn vẹn lãnh thổ

Chúng ta thấy gì qua bản đồ các nhà máy lọc dầu? Hầu hết các công trình của Việt Nam hiện nay đều do Tàu quốc đầu tư và thi công. Không cần phải minh chứng vì sự thật này đã nói hàng ngày trên báo chí, ngay cả trong nghị trường Quốc hội Việt Nam. Nơi nào Tàu quốc đầu tư nơi đó trở thành khu tự trị của Tàu quốc! Hàng hóa vật tư của Tàu quốc, nhân công đến từ Tàu quốc, trật tự an ninh do Tàu quốc đảm nhận, không nhà cầm quyền địa phương nào của Việt Nam có thể can thiệp vào, thậm chí Tàu xây cả đền miếu để thờ bành tổ nhà họ mà Việt Nam không sao giải quyết được.

Dọc dãy Trường Sơn Tàu quốc làm rừng, khai thác Bauxit, dọc bờ biển Tàu quốc làm nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, nhà máy thép,…ngoài khơi Tàu quốc đặt dàn khoan, xây phi trường, dựng trạm kiểm soát giao thông, …

Việt Nam đi về đâu? Chắc hẳn vì thế mà nơi tựa đề của bài báo, hai chữ “cường quốc” được để trong ngoặc kép!!! Buồn thay.

Đình Trung

Văn hóa không từ chức ‘lên tầm cao mới’

Văn hóa không từ chức ‘lên tầm cao mới’

Ngọc Thanh Gửi cho BBC từ Hải Phòng

Chia sẻ

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng

Tác giả cho rằng Thủ tướng Dũng là người mở đầu thứ ‘văn hóa không từ chức’.

Cái ngày 14/11/2012, ngày mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nổ phát súng hiệu lệnh “không từ chức” tới nay đã được hai năm.

“Văn hóa từ chức” mà Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc nêu ra cuối cùng lại phản tác dụng, sau ngày 14/11/2012 ấy, có một văn hóa mới hình thành, đó là “Văn hóa không từ chức”.

Trước đây dù các quan từ chức là một việc hiếm, nhưng ít nhất là cũng có xảy ra, đó là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Huy Ngọ trong vụ việc cách đây tròn 10 năm (2004).

Cái ngày ấy giờ đây đã xa lắm rồi. Chỉ có dân nhớ chứ quan chức thì không, các Bộ trưởng thích nhớ về “tuyên ngôn” của người trực tiếp lãnh đạo họ – Thủ tướng chính phủ hơn, đó là “Đảng còn tín nhiệm thì còn làm”.

Và thế là sản sinh là một thế hệ chai lỳ hơn nữa, tiêu biểu là Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến – người mà có lẽ không cần nhắc đến tên thì độc giả cũng biết là ai rồi.

Ngoài việc vô tư phát ngôn những câu không khác gì con trẻ như: “Lỗi của Vắc xin thì xử Vắc xin” (chắc là trừng phạt Vắc xin bằng cách không cho để trong chai lọ mà đem đun sôi hoặc đổ xuống cống?) hay “nên có tem cá sạch” (đóng dấu lên cá đang bơi?), thì việc tiền hậu bất nhất cũng làm người ta liên tưởng bà với vị thủ trưởng của mình.

Một mặt Bộ trưởng Tiến nói: “Cấm cán bộ y tế nhận phong bì, quà cáp trước và trong quá trình điều trị nhưng không cấm bác sĩ nhận quà sau điều trị, vì đó là tấm lòng của người bệnh…”. Nhưng khi đại biểu Quốc hội chất vấn, bà trả lời: “”Tôi đâu có cho phép nhận phong bì sau điều trị”!

‘Trơ trẽn’

” Nếu mình làm hết sức, với đam mê và trách nhiệm mà đến lúc nào đó cấp trên hay theo quy trình cán bộ không cho phép mình làm nữa thì tôi sẽ quay về công việc nào đó, miễn vẫn có ích cho đời”

Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến

Một điểm không lẫn đi đâu được nếu so sánh với Thủ tướng Dũng là cách trả lời về việc từ chức.

Khi bị chất vấn, Bộ trưởng Tiến nói bà trở thành Bộ Trưởng vì “qua quá trình quy hoạch và công tác của Đảng, Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và được Quốc hội phê chuẩn” và “nếu mình làm hết sức, với đam mê và trách nhiệm mà đến lúc nào đó cấp trên hay theo quy trình cán bộ không cho phép mình làm nữa thì tôi sẽ quay về công việc nào đó, miễn vẫn có ích cho đời”.

Rõ ràng vẫn là bài “Đảng phân công” và “chừng nào còn tín nhiệm thì còn làm”.

Nhưng Bộ trưởng Tiến có hơn Thủ tướng Dũng ở mức độ trơ trẽn. Sau khi dịch sởi cướp đi mạng sống của hơn 120 em nhỏ, bà Tiến nói:

“Tôi không thể từ chức vào lúc này” vì “giờ là lúc ngành y tế tập trung cao nhất để giành giật sự sống cho các bé.”

Nghe như thế người ta sẽ hiểu rằng khi dịch kết thúc, bà mới có thể từ chức. Nhưng mọi người chờ dài cổ mà không thấy bà Bộ trưởng nhắc lại chuyện này.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể tự hào vì đã có một học trò xuất sắc. Nói đúng hơn, giờ đây các Bộ trưởng có thể vững tâm phát ngôn tùy ý và thản nhiên không từ chức vì đã có tiền lệ của thủ trưởng.

“Văn hóa không từ chức” có thể nói đã được nâng lên một tầm cao mới.

Chưa hoàn vốn?

Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến

Đương kim Bộ trưởng Y tế của Việt Nam được cho là chịu khá nhiều áp lực gần đây.

Thật ra cũng phải thông cảm cho các quan chức. “Quan trường như chiến trường”, nơi đây không dành cho những người tự trọng.

Tự trọng thì có lẽ nên đi làm những “nghề cao quý” như nhà giáo hay thầy thuốc theo đúng nghĩa. Chính trị gia thì phải trơ lỳ, mưu mô thủ đoạn.

Đặc biệt trong môi trường Chính trị Việt Nam, người ta phải bỏ một số tiền lớn để “chạy chức”.

 

Đặc biệt trong môi trường Chính trị Việt Nam, người ta phải bỏ một số tiền lớn để “chạy chức” Nếu từ chức sớm thì sẽ không thu hồi lại được “vốn”, đấy cũng là cái khó của họ.

Nhưng có những vị đã lãi rồi mà vẫn cố bám trụ, vì tiền thì chẳng bao giờ là đủ cả.

Tại sao phải từ chức khi chẳng có cơ chế nào ép mình phải như thế?

“Kính thưa các vị chưa bị phát hiện”, các vị cũng như tôi mà thôi, nên các vị đừng tỏ ra ngạc nhiên khi tôi vẫn tại vị – đó là suy nghĩ của các quan bây giờ.

Nói tóm lại, không thấy một lý do nào để có thể kéo các lãnh đạo ra khỏi vị trí béo bở đang nắm giữ. Nhưng người dân đừng lo, họ không ôm ghế cả đời được đâu, giỏi lắm là đến ngày kết thúc nhiệm kỳ là cùng.

Lời Vàng Ý Ngọc

Lời Vàng Ý Ngọc

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Con người mất cả liêm sỉ là con người bỏ; huống chi cả một đám người mất cả liêm sỉ, mà còn mong gì được ư?

Phan Khôi

Mấy lúc gần đây, ngó bộ, GS Nguyễn Văn Tuấn mỗi lúc một thêm … khó chịu. Ổng xét nét (thấy rõ) và bắt bẻ liền liền:

Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để lại những câu mà báo chí có thể trích dẫn (quotable words) hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó…

Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen thuộc.

Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:

Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể…

Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ…

Thứ ba là không có thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo VN quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có dữ liệu …

Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau…

Những câu văn thượng dẫn chỉ là ý chính trong một bài viết (“Và i Đặc Điểm Trong Các Phát Biểu Của Lãnh Đạo Việt Nam”) của G.S Nguyễn Văn Tuấn. Ghi lại nguyên bài (hổng dài, chưa tới 2.000 chữ) tôi không ngại chuyện mất thì giờ mà chỉ sợ lỡ có vị lãnh đạo đọc rồi  … nhẩy cầu Bình Lợi, hay cầu Hàm Rồng thì tội chết.

G.S. Tuấn nhận xét tuy không sai nhưng (nói nào ngay) cũng chưa hoàn toàn đúng. Quả là những lời phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam (thường) rất chung chung, toàn sáo ngữ, và cứ y như hô khẩu hiệu chớ không có thông tin gì ráo trọi nhưng không phải lúc nào cũng vậy đâu nha.

Ngày 15 tháng 11 vừa qua, độc giả của trang Dân Luận có vị đã  “đề xuất”  hết sức hào hứng như sau:

“Ta nên có cuộc thi xem ai nói bậy bạ hơn . Sẽ rất căng thẳng đấy!”

Có lẽ vì rất thích “không khí căng thẳng” nên (khi chưa bị túm) có lúc nhà báo Trương Duy Nhất đã bỏ công sưu tập những câu nói ấn tượng hàng năm: (“Top ten phát ngôn ấn tượng 2011,” Top ten phát ngôn ấn tượng 2012”). Sau này, vì qúi vị lãnh đạo phát biểu “liên tục” và gây ấn tượng “liên miên” nên ông ghi nhận theo ngày (“Sáu Mươi Ngày Những Phát Ngôn Ấn Tượng”).

Ngày nào mà không có đôi câu … bất hủ: “Ta và Trung Quốc cần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.”

Ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng nói về quan hệ Việt Trung như rứa đó (vào năm 2011) và chắc nghe chưa được tình nghĩa lắm nên mới đây ông Nguyễn Bắc Việt, Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận – Ủy Viên Ban Thường Vụ Tỉnh Ủy, Phó Trưởng Đoàn Đại Biểu Quốc Hội –  bèn thêm đôi câu cho thêm phần thắm thiết:

– Thứ nhất, phải làm sao gặp gỡ tiếp xúc với Trung Quốc để làm dịu tình hình biển Đông, sớm đưa lại tình hình như trước khi xảy ra sự kiện. Thứ hai, xử lý nghiêm minh theo pháp luật các đối tượng kích động, thông báo công khai…

– Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi…

Nghĩ sao nói vậy, một cách hết sức hồn nhiên và hình tượng  – xem ra – đã trở nên một nét đặc trưng của giới lãnh đạo Việt Nam:

– Đừng để cán bộ viên chức giống như con gì trong rạp xiếc, có cho nó ăn cái hột gì đó nó mới làm. (Ông Nguyễn Bá Thanh – BTTU Đà Nẵng).

– Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng. (Chánh án Tòa tối cao Trương Hoà Bình).

Blogger Lê Anh Hùng đã có nhận xét như sau:

“… trong giới quan chức ở Việt Nam hiện nay hầu như ai cũng giữ được nét ‘hồn nhiên’ đáng yêu của mình cả. Này nhé, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng công chúng với lời chia sẻ:

Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai’ (!!!), hay lời giãi bày: ‘Trong sự nghiệp của mình, tôi không có chạy, không có xin, không thoái thác, từ chối nhiệm vụ nào Đảng phân công. Tôi sẽ tiếp tục thực hiện công việc mà Đảng và nhà nước giao phó’ (!!!)

Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng thì khiến bao người ngẩn ngơ với lời bộc bạch: ‘Tôi bổ nhiệm ông [Dương Chí] Dũng làm Cục trưởng để cứu Vinalines’ (!!!), hay tuyên bố: ‘Việc đóng phí [giao thông] thể hiện sự yêu nước nên người dân phải thấy hạnh phúc và tự hào’ (!!!)

Thống đốc NHNH Nguyễn Văn Bình thật xứng đáng với danh hiệu ‘Nhân vật của năm 2011”: “Dân có vàng thì dân giàu, mà nhà nước giữ vàng (của dân) thì nước sẽ mạnh’ (!!!)

Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng thì thật thà: ‘Câu trả lời [chất vấn] đã có nhưng lại để ở nhà’ (!!!); Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Nguyễn Duy Chiến thì ‘đi guốc trong bụng’ người anh em ‘4 tốt 16 chữ vàng’: ‘Việc Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam là thể hiện tình cảm ‘yêu cho đòn cho vọt’ (!!!)

Phó Chủ tịch UBND Tp Hải Phòng thì lúc nào cũng nghĩ đến dân: ‘Dân bất bình nên phá nhà anh [Đoàn Văn] Vươn’ (!!!); ông Cục trưởng Cục CSGT thì phàn nàn: ‘CSGT nhận hối lộ là hành vi tiêu cực chứ không phải là tham nhũng’ (!!!); còn Trưởng Công an huyện Văn Giang thì thổ lộ: Vụ 2 nhà báo bị 2 công an và 3 người khác hành hung tại dự án Ecopark là do họ ‘tưởng nhà báo là … người dân’ (!!!); v.v. và v.v.

Tôi còn tìm ra được một FB chuyên trị về “Những Phát Ngôn Ấn Tượng,” xin trích dẫn vài câu (cùng hình ảnh) xem chơi:

– Chính phủ họp đảm bảo không có phong bì. ( BộTtrưởng, Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ Nguyễn Văn Nên).

– Hiện rất ít nước quản lý không bài bản như Việt Nam. (Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường).

Tai nạn xảy ra là điều không ai mong muốn, song đừng đề cập đến trách nhiệm thuộc về ai, ngành nào, mà trách nhiệm thuộc về toàn dân. (Nguyễn Đạt Tường, TGĐ Tổng công ty đường sắt VN).

-EVN tăng giá điện 5% là có trách nhiệm với nhân dân. (Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng)

  • – Đường Trường Chinh không cong hẳn mà cong mềm mại. (Ông Dương Đức Tuấn, Phó giám đốc Sở Quy hoạch kiến trúc TP.Hà Nội.
  • Tất cả những câu phát biểu hồn nhiên hay hình tượng (dẫn thượng) có điểm chung vô cùng qúi hoá là nghe cái hiểu liền, chỉ có câu sau đây  của ông chí T.B.T Nguyễn Phú Trọng là hơi bị khó:
  • “Nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …
  • Hiểu chết liền!

Bởi vậy khi nghe các đồng chí lãnh đạo loanh quanh những khẩu hiệu quen thuộc, đầy sáo ngữ, chả có thông tin gì ráo trọi, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau … toàn dân nên lấy đó làm mừng. Mừng là ít ra chúng ta còn biết là họ đang hô khẩu hiệu về một vụ gì đó, chớ “nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …” thì (đ… mẹ) nói thiệt là chắc Trời – may ra – mới hiểu.

BÀI HỌC Ý NGHĨA

BÀI HỌC Ý NGHĨA

https://thanhnientudo.files.wordpress.com/2014/11/img_3438.jpg

Trong giáo đường, một hôn lễ đang được tổ chức.

Linh Mục xuất hiện với tờ 100 dollars còn mới trên tay và nói: “Có ai muốn được tờ tiền này không?”. Không có tiếng trả lời…

Linh Mục nói: “Đừng xấu hổ, ai thích thì hãy giơ tay lên”. Một phần ba số người có mặt ở đó giơ tay. Linh Mục vo tròn tờ tiền lại rồi hỏi: “Bây giờ có còn ai thích sở hữu nó nữa không?”

Vẫn còn người giơ tay, nhưng đã ít đi một nửa.
Linh Mục vứt tờ tiền xuống đất, giẫm chân lên rồi nhặt lại. Tờ tiền vừa bẩn vừa nhàu nhĩ. Ông lại cất tiếng hỏi: “Còn ai thích nữa không?”

Chỉ còn một người giơ tay… Cha cố mời anh ta lên phía trên, trao cho anh tờ tiền và nói anh ta là người duy nhất đã giơ tay cả ba lần.

Lập tức mọi người trong giáo đường đều cười to nhưng Linh Mục ra hiệu yên lặng. Ông nói với chú rể: “Hôm nay con cưới một cô gái con yêu nhất đời. Nhưng giống như tờ tiền này, năm tháng trôi qua cộng thêm vất vả với gia đình, con cái… cô ấy sẽ không còn xinh đẹp như bây giờ. Nhưng thực tế, tiền vẫn là tiền, giá trị của nó chẳng hề thay đổi. Hy vọng con giống như chàng trai này, luôn hiểu giá trị và ý nghĩa đích thực, đừng vì vẻ bề ngoài mà đánh mất mọi thứ.”

Hình thức bên ngoài của mỗi người sẽ biến đổi theo thời gian, con người có thể già hơn và xấu đi, nhưng tâm hồn đẹp thì sẽ vỉnh viễn không thể thay đổi.
Trong công việc cũng vậy.

https://thanhnientudo.files.wordpress.com/2014/11/img_3433.jpg

Có thể việc bạn đang làm không phù hợp với chuyên ngành bạn theo học .
Bạn cảm thấy khó khăn, chật vật khi chưa thành thạo công việc mới
Bạn không nhận được sự quan tâm giúp đỡ thật lòng của mọi người.
Dẫu biết tiền kiếm được là rất khó
Nhưng…
Đừng quá lo lắng

Giá trị của bạn chính là việc bạn đã làm được gì,đóng góp gì, chứ không phải vỏ bọc hình thức bạn tốt nghiệp trường nào, có bao nhiêu bằng cấp.

Người ta sẵn sàng săn đón bạn, thậm chí trả lương cao hơn cả quản lý điều hành, khi bạn thực sự có giá trị với họ.

Vì vậy, không phải là hãy tin vào chính mình mà phải là “phải tự tin vào chính mình, đừng bao giờ mặc cảm rằng mình không đẹp hay không bằng người khác về mọi thứ mà mù quáng theo đuổi, đi tìm những thứ quá xa vời với thực tế, mà từ đó đánh mất điều vốn có của chính bản thân.

From: francispham & Anh chị Thụ Mai gởi

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Cuối tháng 4 / 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh.

Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có gì lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đã nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

“Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu. Tôi mò mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn.

Ðiều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ rằng mình sống như thế cũng là đủ rồi. Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn.


Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ? Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào.

Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu.

Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi.

Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình. Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó… Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được.

Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này. Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.


Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại”.

Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Ðiều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy… trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn xuống.

Cám ơn chị Nguyễn Xuân Lang gởi

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Thật khó để nói lời an ủi khi đứng trước cái chết, dù người quá cố đã sống trọn cuộc đời, sống thọ và ra đi trong bình an.  Đặc biệt khó hơn khi người chết còn trẻ, còn cần được chăm sóc nuôi dưỡng, khi họ chết trong hoàn cảnh không được lý tưởng cho lắm.

Là một linh mục, tôi đã nhiều lần chủ lễ các tang lễ của những người chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, hay tự vẫn.  Những đám tang như thế luôn luôn buồn thảm và mang tính hoài  nghi.  Tôi còn nhớ một đám tang như vậy: Một học sinh trung học chết vì tai nạn xe hơi.  Gia đình, bạn bè, và bạn học của em lòng đầy thương tiếc đến dự chật kín cả nhà thờ.  Mẹ cậu, vẫn còn trẻ, ngồi ở hàng ghế đầu, lòng bà nặng trĩu với nỗi tang thương mất mát của mình, nhưng rõ ràng bà quặn thắt khi nghĩ về đứa con.  Và hơn hết, em chỉ là một đứa trẻ, phần nào vẫn còn cần người chăm sóc, vẫn cần mẹ.  Và bà mẹ cảm nhận em chết trẻ như thế, theo cách nào đó, cũng đã làm em trở thành em bé mồ côi.

Chẳng có mấy lời có tác dụng trong trường hợp như thế này, nhưng có vài lời mà chúng ta buộc phải nói, ngay cả trong một ngày như thế, khi cái chết vẫn còn trước mặt, khi người ta không cảm được bao nhiêu sự an ủi về mặt tình cảm được.  Phải nói gì trước một cái chết như thế?   Đơn giản là cậu bé bây giờ đang ở trong bàn tay yêu thương hơn, âu yếm hơn, dịu hiền hơn, và đáng tin cậy hơn đôi tay của chúng ta, rằng ở bên kia có một người mẹ đón nhận em, săn sóc nuôi dưỡng mà em vẫn còn cần, giống như ở đời này vậy.  Không một ai sinh ra mà lại không nằm trên bàn tay ẵm của mẹ cả.  Đó chính là hình ảnh mà chúng ta cần phải giữ trước mắt để có thể hình dung cái chết một cách lành mạnh hơn.

Vậy cụ thể hơn, hình ảnh này là gì.  Một vài hình ảnh nền tảng và dịu hiền như hình ảnh người mẹ ôm và ru đứa con mới sinh của mình.   Lời bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night, bài thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đã lấy cảm hứng từ hình ảnh này.  Joseph Mohr, một linh mục trẻ người Đức, chiều trước lễ Giáng Sinh, đã đi đến một căn nhà tranh trong rừng để rửa tội cho một em bé mới sinh.  Khi ông ra về, đứa trẻ ngủ ngon trong lòng mẹ.  Ông được đánh động quá đỗi trước hình ảnh đó, trước sự sâu thẳm và bình an của hình ảnh đó, rồi khi trở về nhà xứ, ngay lập tức ông viết nên những dòng lừng danh của bản Đêm Thánh Vô Cùng.  Người hướng dẫn dàn nhạc của ông, đã thêm một vài hợp âm guitar cho những dòng này, biến chúng thành những dòng bất hủ.  Hình ảnh khuôn mẫu tuyệt đối cho yên bình, an toàn, và bảo đảm chính là hình ảnh em bé sơ sinh ngủ trong lòng mẹ. Hơn nữa, khi một đứa trẻ chào đời, không chỉ có một mình người mẹ háo hức muốn ẵm bồng mà tất cả gia đình mọi người đều muốn.

Có lẽ chẳng có hình ảnh nào phù hợp, mạnh mẽ, có sức an ủi, và chính xác hơn nữa để minh họa những gì xảy đến với chúng ta khi chết đi và tỉnh dậy trong sự sống bất diệt cho bằng hình ảnh bà mẹ ẵm đứa con mới sinh của mình.  Khi qua đời, chúng ta chết trong bàn tay Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta đã được đón nhận với quá đỗi yêu thương, trìu mến, dịu hiền như khi chúng ta được mẹ ẵm trên tay lúc mới sinh.  Hơn nữa, chắc chắn ở đó, chúng ta được an toàn hơn khi sinh ra trên thế gian này.  Tôi cũng nghĩ, ở đó sẽ có những vị thánh quây quần xung quanh, chờ đến lượt mình để được ẵm em bé mới sinh.  Và như thế thật an tâm nếu chúng ta chết trước khi sẵn sàng để chết, khi vẫn còn cần được chăm sóc nuôi nấng, khi vẫn còn cần một người mẹ.  Chúng ta đang ở trong đôi bàn tay an toàn, ân cần, và đầy tình chăm sóc.

Đó có thể là niềm an ủi thâm sâu bởi cái chết đẩy tất cả mỗi người chúng ta vào tình trạng mồ côi, và mỗi ngày, đều có những người chết trẻ, bất ngờ, thiếu chuẩn bị, những người vẫn còn cần được chăm sóc.  Tất cả chúng ta khi qua đời, vẫn còn đang cần một người mẹ, nhưng đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta sẽ được sinh ra trong đôi bàn tay đáng tin cậy hơn và được nuôi dưỡng hơn đôi bàn tay của nhân loại.

Tuy nhiên, dù có lẽ sẽ đem lại an ủi, nhưng nó vẫn không thể chấm hết nỗi đau buốt vì mất đi người thân yêu.  Chẳng gì cất đi được nỗi đau buồn đó cả, vì chẳng có gì được định để làm việc đó.  Cái chết là vết sẹo không phai trong tâm hồn chúng ta vì đó chính là những đau đớn do tình yêu mà ra.  Dietrich Bonhoeffer đã nói về điều này như sau: “Không có gì có thể khỏa lấp việc mất đi người chúng ta yêu thương. … Thật vô lý khi nói rằng Thiên Chúa lấp đầy khoảng trống, Thiên Chúa không lấp đầy nó, nhưng ngược lại, ngài vẫn để nó trống rỗng và như thế giúp chúng ta giữ mối giao tình với người đã mất cho dù cái giá của nó là nỗi đau.  … Ký ức của chúng ta, nếu càng nhiều và càng thiết tha, thì sự chia lìa càng nên khó khăn hơn.  Nhưng lòng biết ơn biến đổi những nhói buốt trong ký ức thành niềm vui thanh bình.  Vẻ đẹp của quá khứ không phải là chiếc gai đâm xé da thịt nhưng chính là tặng vật quý báu.”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

*************************************

Tôi đã được phép giã từ.

Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em!

Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường.

Này đây chìa khóa tôi gài lên cửa,

Và cả căn nhà cũng trao trọn anh em.

Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối,

Thắm đượm tình thân.

Từ lâu rồi, sống bên nhau,

Chúng mình là láng giềng lối xóm;

Nhưng anh em đã cho tôi

Nhiều hơn tôi cho lại anh em.

Bây giờ ngày đã rạng,

Đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt.

Lệnh triệu ban rồi,

Tôi đi đây.

Rabindranath Tagore

Anh chị Thụ Mai gởi

Mỹ: VN muốn được quyền lợi không đơn giản chỉ thả tù nhân lương tâm

Mỹ: VN muốn được quyền lợi không đơn giản chỉ thả tù nhân lương tâm

Trà Mi phỏng vấn Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động Tom Malinowski.

Trà Mi phỏng vấn Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động Tom Malinowski.

Trà Mi-VOA

12.11.2014

Một quan chức ngoại giao cấp cao của Mỹ vừa hoàn tất chuyến công du Việt Nam tuyên bố Hà Nội không thể gặt hái các quyền lợi quan trọng từ mối quan hệ với Washington đơn giản bằng cách phóng thích tù nhân lương tâm.

Chuyến thăm của Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động Tom Malinowski vào hạ tuần tháng 10 diễn ra ngay sau khi Hà Nội trục xuất tù nhân bất đồng chính kiến Điếu Cày sang Mỹ giữa lúc Washington dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí cho Việt Nam và đôi bên đang nỗ lực hoàn tất Hiệp định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP.

Trong cuộc phỏng vấn đặc biệt dành cho Trà Mi VOA Việt ngữ khi về lại Hoa Kỳ, ông Malinowski khẳng định dù Hoa Kỳ sẽ tiếp tục yêu cầu Việt Nam phóng thích tù nhân lương tâm, nhưng kế sách của Hà Nội thả vài người đổi chác quyền lợi khi cần thiết rồi lại bắt thêm nhiều người khác sẽ không lấy điểm được với Washington cũng như không mang lại TPP cho Việt Nam. Ông Malinowski nhấn mạnh mức độ phát triển của mối quan hệ Việt-Mỹ hoàn toàn tùy thuộc vào tốc độ cải cách nhân quyền, cải tổ luật lệ của Việt Nam.

VOA: Xin ông vui lòng tóm tắt thành quả chuyến thăm Việt Nam vừa qua?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi ở Việt Nam trong 5 ngày, gặp gỡ nhiều quan chức trong Bộ Ngoại giao, Thứ trưởng Bộ Công an, các giới chức trong đảng cộng sản, và đại diện các tổ chức xã hội dân sự, các nhà hoạt động, và những tù nhân lương tâm vừa được phóng thích. Thành quả chính của chuyến đi là tôi đã chuyển tải tới nhà nước Việt Nam thông điệp rất rõ ràng của chính phủ Mỹ rằng chúng tôi muốn bang giao Việt-Mỹ tốt đẹp hơn, một mối quan hệ sâu rộng-vững chắc như những mối quan hệ mà Hoa Kỳ đang có với các nước bạn thân thiết nhất trên khắp thế giới. Tuy nhiên, để được như vậy, Việt Nam nhất thiết phải có tiến bộ về nhân quyền. Tôi đã có dịp trao đổi với quan chức Việt Nam về những điều chúng tôi mong nhìn thấy họ thực hiện trong thời gian sắp tới.

VOA: Phản hồi của phía Việt Nam như thế nào, thưa ông?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Chúng tôi đã có những cuộc trao đổi tốt đẹp. Phía Việt Nam cũng muốn biết quan điểm và trông đợi của phía Mỹ. Chính phủ Việt Nam hết sức mong muốn xây dựng một mối quan hệ an ninh-kinh tế gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Chúng tôi cũng mong như vậy, nhưng chúng tôi không muốn tiến tới quá nhanh để rồi bị ngã lui. Để có được mối quan hệ bền vững với thời gian, hơn là một mối quan hệ đổi chác, cần đảm bảo rằng đôi bên có một nền tảng những giá trị chung, cùng tin tưởng, hướng tới một điều chung chứ không phải là đối nghịch với nhau trong cùng một điều.

VOA: Còn những quan tâm cụ thể nào khác mà ông đã nêu ra với chính phủ Việt Nam và Hà Nội hồi đáp thế nào?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi đã nêu một số vấn đề cụ thể. Chúng tôi đề cập đến vấn đề tù nhân chính trị. Chúng tôi bày tỏ mong muốn được thấy Việt Nam trả tự do cho những người bị cầm tù vì thể hiện quan điểm chính trị hay niềm tin tôn giáo một cách ôn hòa. Tuy nhiên, quan trọng hơn, tôi đã nhấn mạnh với Hà Nội rằng hành động phóng thích thôi là chưa đủ nếu như họ vẫn tiếp tục bắt giam công dân như vậy. Cho nên, điều quan trọng nhất mà Hoa Kỳ muốn nhìn thấy là tiến bộ trong việc cải cách luật lệ, đặc biệt là các điều luật về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự được Việt Nam dùng để sách nhiễu, bắt giam, và cầm tù công dân chỉ vì những hoạt động ôn hòa. Chính phủ Hà Nội nói họ thật sự muốn làm cho khung pháp lý của Việt Nam, kể cả Bộ luật Hình sự, phù hợp với chính bản Hiến pháp vừa thông qua năm 2013 và tương xứng với các chuẩn mực quốc tế. Chúng tôi đã thảo luận về việc này và đang chờ xem mọi chuyện sắp tới sẽ như thế nào.

VOA: Hà Nội có cho biết lịch trình cụ thể của kế hoạch đó như thế nào không, thưa ông?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Họ nói họ dự kiến các cải cách sửa đổi về Bộ luật Hình sự sẽ được đệ trình lên Quốc hội vào đầu năm tới và rằng việc này không thể diễn ra nhanh chóng. Tôi nói với họ rằng dĩ nhiên phải đề ra đường hướng cho các cải cách này theo lịch trình và tiến độ, nhưng triển vọng thắt chặt hơn mối quan hệ đối tác Việt-Mỹ tùy thuộc vào thành công trong nỗ lực đó. Tốc độ cải cách của Việt Nam nhanh tới mức nào thì quan hệ Việt-Mỹ sẽ tiến nhanh tới mức đó.

VOA: Ông nói Mỹ không muốn một mối quan hệ đổi chác với Việt Nam. Theo ông, Hoa Kỳ cần phải làm gì để chấm dứt những gì không mong muốn, mở ra một mối quan hệ như mong muốn?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Chúng tôi đã làm một số bước. Chúng tôi đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam để cung cấp một số lượng giới hạn các thiết bị phục vụ công tác bảo vệ duyên hải. Điều này chứng tỏ với nhà nước Việt Nam rằng Mỹ sẵn sàng thực hiện các bước tiến tới nghiêm túc, nhưng cùng lúc, chúng tôi tỏ rõ với họ rằng việc hủy bỏ hoàn toàn lệnh cấm này tùy thuộc vào các tiến bộ hơn nữa về nhân quyền của Việt Nam. Chúng tôi cũng thảo luận về khả năng Việt Nam trở thành một thành viên của Hiệp định Tự do Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP, vốn cũng là bước quan trọng thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ chặt chẽ hơn, nhưng Hà Nội có vào được TPP hay không tùy thuộc mức độ họ gia tăng tôn trọng quyền của người lao động, cụ thể là cải cách để cho phép công nhân được quyền tự do lập hội, mở công đoàn độc lập. Tóm lại, có nhiều khả năng để hai nước Việt-Mỹ xích lại gần nhau hơn, nhưng cũng có nhiều trông đợi đối với những điều Việt Nam cần phải thực hiện để mở ra các cơ hội ấy.

VOA: Như ông nói, để Việt-Mỹ tiến xa hơn mối quan hệ đổi chác, Hà Nội phải thực hiện một số cải cách pháp lý. Có ý kiến cho rằng muốn điều đó xảy ra, Mỹ thay vì đòi hỏi Việt Nam phóng thích các trường hợp tù nhân lương tâm cụ thể, hãy yêu cầu Việt Nam cải cách luật lệ để được quyền lợi. Nếu không, dường như Mỹ đang tạo điều kiện thuận lợi để Hà Nội tiếp tục chiến thuật ‘đổi tù nhân lương tâm lấy quyền lợi.’ Ý kiến của ông ra sao?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi sẽ không ngừng yêu cầu phóng thích những người bị bắt giam một cách bất công. Tôi vui mừng mỗi khi có một người được tự do vì đáng lý ra họ không phải bị tù tội. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm như thế. Nhưng chúng tôi cũng chỉ rõ rằng việc này không tương đương với cải cách. Để hiện thực hóa quá trình cải cách ở Việt Nam, chúng tôi cần phải nhìn thấy những sửa đổi trong cấu trúc luật pháp. Và đó cũng là điều mà nhà nước Việt Nam đã cam kết với chính nhân dân của họ. Cho nên, đây không phải là một yêu cầu của Mỹ, không phải một đòi hỏi đến từ bên ngoài mà là điều mà người dân Việt Nam cần chính phủ của họ thực hiện như đã hứa. Chúng tôi chỉ biết chờ xem và theo dõi quá trình đó. Nếu quá trình đó diễn ra, nó sẽ mở ra nhiều cơ hội.

VOA: Phát biểu ở Hà Nội, ông nói nếu Việt Nam nghĩ rằng họ có thể dùng tù nhân chính trị như những con bài mặc cả với Mỹ thì sẽ không hiệu quả. Tuy nhiên, những gì đang diễn ra trên thực tế cho thấy chiến thuật này có kết quả, nếu không, đã không có những cuộc phóng thích không bao lâu, trước hoặc sau khi, Việt Nam gia nhập WTO, TPP, hay được Mỹ dỡ bỏ cấm vận vũ khí. Ông có suy nghĩ thế nào?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Có thể họ cho rằng các cuộc phóng thích này mang lại những kết quả đó, nhưng xin nhớ là những gì Việt Nam chung cuộc muốn gặt hái trong mối quan hệ với Hoa Kỳ sẽ không thể có được đơn giản bằng cách phóng thích tù nhân lương tâm, nhất là trong khi họ vẫn tiếp tục bắt giữ những người khác. Đó là điểm chúng tôi nhấn mạnh. Chẳng hạn như, dĩ nhiên chúng tôi vui mừng khi thấy một blogger như Điếu Cày được thả, nhưng cùng lúc đó lại thấy xuất hiện các cáo buộc đối với blogger Anh Ba Sàm. Đây cũng là một trường hợp mà tôi đã nêu ra trong chuyến công du Việt Nam vừa rồi. Nếu việc này cứ tiếp diễn, Hà Nội cứ thả vài người rồi bắt thêm vài người khác, họ sẽ không lấy điểm được với Hoa Kỳ và việc này dĩ nhiên sẽ không mang lại cho họ TPP. TPP là các cuộc thương lượng mà qua đó Việt Nam được hưởng nhiều quyền lợi rất quan trọng nhưng cũng bắt buộc phải thực hiện những bước đáng kể như cải cách pháp lý về quyền tự do lập hội. Và Việt Nam hiểu rất rõ điều này.

VOA: Ngoài những lời tuyên bố của Hà Nội, có dấu hiệu nào cho thấy Việt Nam sẽ bỏ chính sách hình sự hóa các hoạt động ôn hòa của công dân trong tương lai gần hay chăng? Ông có nhìn thấy tiến bộ nào trong các nỗ lực tiến tới việc này không?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Cho tới nay chưa đủ tiến bộ. Chúng tôi nghe những cam kết từ chính phủ. Chúng tôi thấy trong năm nay số người bị bắt vì các điều luật về an ninh quốc gia có lẽ ít hơn, nhưng chưa xuống tới mức 0. Vẫn còn xảy ra các vụ sách nhiễu những người chỉ thực hành các quyền căn bản của công dân được quốc tế công nhận. Mọi việc còn chưa đủ, nhưng tôi nghĩ vẫn còn cơ hội. Tôi cảm nhận người dân Việt Nam và cả chính phủ đều muốn một tương lai khác hơn cũng như một mối quan hệ đối tác tốt hơn với Mỹ. Họ muốn hòa vào cộng đồng quốc tế và họ hiểu có một số việc họ phải làm để biến mong muốn đó thành hiện thực, bền vững.

VOA: Mỹ có kế hoạch cụ thể thế nào giúp chấm dứt chiến thuật gọi là ‘dùng tù nhân lương tâm đổi chác quyền lợi’ hay không?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Đó không phải là điều chúng tôi đã, đang, và sẽ làm. Chúng tôi sẽ tiếp tục kêu gọi phóng thích tù nhân lương tâm, nhưng các quyền lợi quan trọng mà Việt Nam muốn có được từ mối quan hệ với Hoa Kỳ đòi hỏi phía Việt Nam phải làm nhiều hơn nữa, đặc biệt là thực hiện những cam kết chính họ đã đưa ra.

VOA: Có thể trông đợi điều gì sau chuyến công du của ông tới Việt Nam với trọng tâm về nhân quyền, nhất là sau khi Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí cho Hà Nội?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Thông điệp chúng tôi đã gửi đi là chúng tôi sẵn lòng rằng có cơ hội cải thiện mối quan hệ an ninh song phương. Dỡ bỏ một phần cấm vận vũ khí cho Việt Nam là một hành động chân thành. Chúng đáng ra đã dỡ bỏ hẳn toàn bộ lệnh cấm này nếu như không có quan ngại về nhân quyền Việt Nam. Và điều đó đã đánh đi một tín hiệu rất rõ ràng cho Việt Nam. Chúng ta cần phải đợi xem mọi việc như thế nào, tôi sẽ không đưa ra dự đoán về những gì sẽ xảy ra. Tôi chỉ có thể nói rằng Mỹ muốn một quan hệ tốt hơn với Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng thực hiện các bước rất quan trọng vì lợi ích của cả đôi bên. Chúng tôi không yêu cầu cái gì bất khả dĩ với chính phủ Việt Nam cả, chỉ yêu cầu họ đi đúng con đường họ đã hứa sẽ thực hiện, con đường cải cách pháp lý, làm cho việc thực thi luật hàng ngày tại Việt Nam phù hợp với Hiến pháp.

VOA: Liệu sẽ có thêm những vụ phóng thích sau chuyến thăm của ông?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi hy vọng tiếp tục sẽ nhìn thấy có thêm người được phóng thích và không ai bị bắt nữa.

VOA: Qua chuyến đi, ông nhận thấy có tín hiệu tích cực hay tiêu cực về vấn đề nhân quyền Việt Nam?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi vừa mới về nên không dự kiến sẽ thấy bất kỳ sự thay đổi cơ bản nào. Một điều chúng tôi trông đợi có thể sớm xảy ra là Quốc hội Việt Nam thông qua Công ước Liên hiệp quốc Chống tra tấn. Đây là một trong những quan ngại lâu nay của chúng tôi về nhân quyền Việt Nam. Tôi cảm nhận chính phủ Hà Nội khá nghiêm túc trong vấn đề này, họ hiểu rằng việc thông qua Công ước chỉ là bước đầu, và sau khi thông qua, Quốc hội Việt Nam cần phải làm nhiều thứ để đảm bảo các luật lệ quy định hành vi của công an được tuân thủ đầy đủ với Công ước mà Việt Nam vừa tham gia.

VOA: Thang điểm của ông về nhân quyền Việt Nam trong chuyến đi lần này so với chuyến đi lần trước lên hay xuống?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi sẽ không cho điểm. Tôi đặt mong mỏi và kỳ vọng rất cao. Tôi không đong đếm thành tích nhân quyền từng ngày hay từng tháng. Tôi tiếp tục nỗ lực cùng với các đồng nghiệp ở Bộ Ngoại giao trong chính quyền của Tổng thống Obama để đạt được tiến bộ theo từng năm.

VOA: Trong chuyến thăm Việt Nam, ông có được tiếp xúc với tất cả những người mà ông muốn gặp?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Chúng tôi có thể tiếp xúc hầu như mọi người mà chúng tôi muốn gặp. Có một số người muốn gặp chúng tôi bị công an sách nhiễu. Chúng tôi cũng liệu trước việc này vì đã từng xảy ra trong quá khứ. Đó là điều không thể chấp nhận và chúng tôi đã bày tỏ thất vọng với chính phủ Việt Nam về các hành động đó.

VOA: Ông được phép vào thăm một nhà tù tại Việt Nam nhưng không gặp tù nhân lương tâm nào. Phải chăng vì ông không yêu cầu cụ thể hay vì nhà cầm quyền Việt Nam không cho phép?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Họ bảo các tù nhân lương tâm chúng tôi muốn gặp ở một trại giam khác, nhưng làm sao biết được thực hư thế nào. Họ cho phép chúng tôi thăm nhà tù là điều tích cực. Trong các dịp khác, nhân viên đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam đã vào thăm một số tù nhân lương tâm bị giam cầm. Chúng tôi sẽ tiếp tục yêu cầu được tiếp cận như vậy. Chúng tôi cảm kích việc này vì nó giúp xây dựng lòng tin. Dĩ nhiên ở Mỹ thì bất kỳ ai cũng được vào thăm bất kỳ tù nhân nào, điều này chứng tỏ là quốc gia và chính phủ không có gì phải che dấu.

VOA: Ông ghi nhận gì từ các cuộc gặp với đại diện xã hội dân sự, giới bất đồng chính kiến, và các nhà hoạt động tại Việt Nam?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Thật thú vị. Tôi thấy nhiều người trong số họ chia sẻ cùng quan điểm với chúng tôi. Họ dĩ nhiên rất quan tâm về tình hình tại Việt Nam. Một số họ đã qua thời gian tù đày vì các hoạt động cổ xúy cải cách. Họ phản ánh với chúng tôi một bức tranh rõ ràng, chân thật, nhưng đầy khó khăn về thực trạng nhân quyền Việt Nam. Đa số họ cho rằng một mối quan hệ Việt-Mỹ xích lại gần hơn chính là cơ hội, nếu chúng ta tiếp tục vận dụng mối quan hệ đó để cổ võ cho nhân quyền được tôn trọng hơn. Nếu có một điều mà các thành viên trong chính phủ Việt Nam và các thành viên trong xã hội dân sự Việt Nam cùng tán đồng đó chính là tìm kiếm một mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ.

VOA: Họ cần sự hỗ trợ hơn nữa từ phía Hoa Kỳ ra sao?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Dĩ nhiên, họ mong muốn Hoa Kỳ lên tiếng vận động chính phủ Việt Nam thực hiện những gì đã cam kết. Song song đó, họ cũng muốn có sự hiện diện của Hoa Kỳ về mặt kinh tế. Nhiều người cũng muốn Mỹ có quan hệ an ninh với Việt Nam trước những quan ngại về nước láng giềng phương Bắc. Tôi ghi nhận những thao thức rất mạnh mẽ muốn có sự hiện diện của Mỹ và mong Mỹ dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy chính phủ Việt Nam theo hướng như vậy.

VOA: Xin cho biết hồi đáp của chính phủ Mỹ trước những lời kêu gọi đó?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Đó chính là những gì mà chúng tôi cam kết thực hiện.

VOA: Ông có được báo cáo về xu hướng gia tăng bạo lực đối với các nhà hoạt động trong nước? Hoa Kỳ có kế hoạch nào thêm nữa giúp bảo vệ quyền tự do ngôn luận không bị đàn áp và sách nhiễu tại Việt Nam?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Họ có trình bày với chúng tôi là tình trạng sách nhiễu vẫn tiếp diễn, nhưng gia tăng hay giảm bớt thì tôi không rõ. Họ cho tôi biết đã xảy ra các trường hợp sách nhiễu trầm trọng và thường xuyên bởi công an, và tôi đã nêu vấn đề khi gặp giới chức chính phủ, kể cả trong cuộc họp 2 giờ đồng hồ với Thứ trưởng Bộ Công an ngay ngày đầu của chuyến thăm. Chúng tôi chưa đạt được những gì mong đợi trong vấn đề này trong lúc mở ra cơ hội tìm cách giải quyết.

VOA: Về trường hợp phóng thích mới đây đối với blogger Điếu Cày, Việt Nam viện dẫn lý do nhân đạo. Ông có bình luận ra sao?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi mừng thấy ông ấy ra khỏi tù. Tôi mừng khi thấy người ta được phóng thích vì bất cứ lý do gì. Dù vậy, suy cho cùng, việc phóng thích này không phản ánh tiến bộ đáng kể về nhân quyền trừ phi các nhà bất đồng chính kiến có thể tái lập cuộc sống ngay trên quê nhà với quyền tự do viết lách, tự do phát biểu ý kiến, và tự do lập hội.

VOA: Điếu Cày đi Mỹ là sự lựa chọn của cá nhân ông ấy hay là một thỏa thuận giữa hai nước Việt-Mỹ liên quan đến việc phóng thích?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Đó không phải là một thỏa thuận giữa Hà Nội và Washington. Có những trường hợp chính phủ Hà Nội nhất quyết rằng các nhà bất đồng chính kiến bị tù phải rời khỏi nước như là một điều kiện để được phóng thích. Có những trường hợp tù nhân lương tâm được trả tự do và được phép lưu lại đất nước. Chúng tôi rất mong là họ được phép tái lập cuộc sống tại Việt Nam sau khi được phóng thích, và chúng tôi đã nêu rõ điều này với chính phủ Việt Nam. Nếu những tù nhân lương tâm được chỉ thị phải ra đi mà họ đồng ý thì dĩ nhiên chúng tôi hoan nghênh họ tới Mỹ mặc dù rõ ràng đây không phải là thành quả khã dĩ tốt nhất.

VOA: Quay sang vấn đề thương thảo TPP, với thực trạng nhân quyền hiện nay của Việt Nam và với một Quốc hội mới trúng cử ở Hoa Kỳ, tính tới thời điểm này ông thấy cơ hội Việt Nam trở thành thành viên TPP ra sao?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi nghĩ Việt Nam có cơ hội trở thành một thành viên của TPP nếu các cuộc thương lượng thành công và nếu như họ đáp ứng đề nghị mà đại diện đàm phán thương mại của chúng tôi đã đưa ra để nỗ lực nghiêm túc trong lĩnh vực quyền tự do lập hội. Nếu đạt được điều đó thì có cơ hội được Quốc hội Mỹ thông qua thỏa thuận TPP. Tôi không nghĩ kết quả bầu cử Quốc hội Mỹ sẽ tạo ra khác biệt về khả năng vào TPP của Việt Nam vì các thành viên trong cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa của Quốc hội Mỹ đều có chung các quan ngại về nhân quyền Việt Nam. Trong Quốc hội Hoa Kỳ có rất nhiều quan ngại về việc có nên để cho Việt Nam gia nhập TPP hay không mà lý do là vì thành tích nhân quyền của Hà Nội. Chúng tôi đang trông đợi các cuộc đàm phán TPP đưa ra được những dấu hiệu tích cực từ Hà Nội để chúng tôi có thể nói với bên lập pháp Hoa Kỳ rằng Việt Nam thật sự quyết tâm đạt tiến bộ trong lĩnh vực nhân quyền.

VOA: Những cải thiện cụ thể nào là điều kiện để Việt Nam gia nhập TPP?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Có những cải thiện rất cụ thể đang được thảo luận trong các cuộc thương thuyết TPP.

VOA: Ông có thể đơn cử vài điểm?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Tôi không thể tiết lộ cụ thể vì còn phụ thuộc vào tiến trình thương lượng. Tôi chỉ có thể nói rằng vấn đề đang trên bàn thảo luận là quyền của người lao động, một phần của thỏa thuận TPP, nhất là quyền tự do lập hội.

VOA: Ông có thể chia sẻ đôi chút về cuộc đối thoại nhân quyền kế tiếp giữa hai nước Việt-Mỹ?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Bất kỳ cuộc gặp nào giữa đôi bên mà vấn đề nhân quyền được nêu ra đều là cuộc họp nhân quyền. Tôi dự trù là bất cứ khi nào Ngoại trưởng John Kerry, Tổng thống Barack Obama, hay Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman gặp gỡ các đối tác Việt Nam thì vấn đề nhân quyền cũng sẽ được nêu lên. Chúng tôi hy vọng sắp xếp cuộc đối thoại nhân quyền với Việt Nam vào một thời điểm nào đó trong năm tới. Cuộc đối thoại nhân quyền năm nay ở Washington, tôi hy vọng cuộc đối thoại lần tới sẽ diễn ra tại Việt Nam.

VOA: Thời điểm cụ thể ra sao, thưa ông?

Trợ lý Ngoại trưởng Malinowski: Chúng tôi chưa thống nhất ngày giờ cụ thể nhưng chắc chắn sẽ tổ chức sự kiện này.

VOA: Xin chân thành cảm ơn Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Tom Malinowski đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này sau khi hoàn tất chuyến công du Việt Nam.