VN đối mặt không khí nhiễm thủy ngân

VN đối mặt không khí nhiễm thủy ngân

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-09-19

09192014-thuyngan-tt.mp3

072_K76599.jpg

Người dân Sài Gòn đeo khẩu trang tránh khói bụi, ô nhiễm không khí.

AFP photo

Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề tồn tại thủy ngân trong không khí, là cảnh báo từ buổi hội thảo có tên Mạng Lưới Quan Trắc Thủy Ngân Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương. Cuộc hội thảo do Tổng Cục Môi Trường Việt Nam phối hợp tổ chức cùng Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ, Chương Trình Lắng Đọng Khí Quyển Quốc Gia Mỹ và Cục Bảo Vệ Môi Trường Đài Loan hôm 10/9 vừa qua.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, chuyên gia môi trường từng nghiên cứu về khí độc thủy ngân, giải thích và góp ý về vấn đề tồn tại thủy ngân trong không khí ở Việt Nam như sau:

Năm 1981, khi nhận làm luận án tiến sĩ tại học viện quân sự Warsaw thì tôi bắt đầu nghiên cứu thủy ngân, một kim loại có ánh bạc, chữ thủy ngân có nghĩa là như vậy. Thế thì kim loại ánh bạc này ứng dụng của nó rất nhiều, đặc biệt ở những nước Châu Âu và Mỹ, và nhiễm độc của nó thì cũng rất nhiều. Trước hết nó có trong các mỏ, đi sâu thì phát hiện ra là có nhiễm độc thủy ngân.

Năm 1982 tôi đã tham gia nghiên cứu và tìm hiểu thêm rằng trong cà rốt ở một vùng mỏ của Ba Lan có rất nhiều thủy ngân, hoặc như cách đây vài năm tôi đo nước ở khu Định Công, Hoàng Mai là nơi tôi ở, thì không chỉ có thạch tín, không chỉ có ammoni mà còn có rất nhiều thủy ngân.

Xa hơn nữa ở phía Nam, mạn Thanh Trì phía dưới, một số cây rau và một số cây dược liệu trồng ở đây cũng có thủy ngân.

Thanh Trúc: Câu hỏi tiếp ở đây là  thủy ngân được coi như một dạng kim loại đặc thì bằng cách nào lại có vấn đề tồn tại thủy ngân trong không khí như nhận định của Tổng Cục Môi Trường Việt Nam?

TS Nguyễn Văn Khải: Khi mà tôi nghe nói về nhiễm độc thủy ngân này thì tôi lại nghĩ hơi khác. Thường  người ta chỉ nhìn thấy thủy ngân trong các nhiệt kế, thí dụ nhiệt kế y tế chẳng hạn hay một số nhiệt kế cho đến 100 độ thì có thủy ngân. Xa hơn tí nữa thì người ta nhìn thấy thủy ngân trong các lò, các cặp nhiệt điện để điều khiển độ của lò cũng điều khiển trong đó bằng giọt thủy ngân. Nhưng người ta không thấy một điều thủy ngân là chất lưỡng tính, nếu ở nhiệt độ phòng này thì nó ở dạng lỏng, nó lăn, thậm chí đánh rơi xuống thì nó vỡ thành cục rất nhỏ và nó tản ra.

Kết quả là dưới tác động của ánh nắng mặt trời, dưới tác dụng của oxy, dưới tác dụng của nhiều vấn đề khác khiến hơi thủy ngân lan ra, gây ô nhiễm trong không gian.
– TS Nguyễn Văn Khải

Không ai nghĩ rằng áp suất của nó rất cao, cho nên là trong quá trình nuôi cấy tinh thể thì áp suất thủy ngân bay hơi rất nhanh. Đấy chính là yếu tố  mà tôi đang muốn nói, tức là áp suất thủy ngân rất cao cho nên tốc độ bay hơi rất nhanh, nó lan truyền trong không khí.

Nếu ở Việt Nam hiện nay có chín mươi triệu (90.000.000) cái bóng đèn ống huỳnh quang, trong mỗi bóng đén dù chỉ có 3 miligram , nhưng 3 miligram đó mà nhân với 90 triệu cái thì tức là lượng thủy ngân rất nhiều. Khi dùng xong người ta vất cái ống đó đi , khi vất ra nó vỡ hoặc người ta đập hai cái đầu để lấy kim loại thì thủy ngân đó bắn ra trong không gian và bay hơi.

Ấy là chưa kể tại các mỏ, khi người ta khai khoáng thì có H2S là dễ thấy nhất, nhưng người ta không ngờ rằng còn có H2HOD tức là Hydro thủy ngân là chất rất độc hại. Và rồi trong các chất khác nó bị oxy hóa nó trở thành Etyl  thủy ngân, Metyl thủy ngân. Và hơn hết trong một số thuốc chữa bệnh, dược liệu, thì người ta  pha thủy ngân vào. Thí dụ ngày xưa chữa răng hoặc là một số bệnh về da liễu thì người ta dùng một số chất có thủy ngân. Chính tất cả những cái này đều bay hơi trong không khí. Ngày xưa thì không nhiều nhưng đến giờ không khí của chúng ta bị ô nhiễm bởi nhiều chất như xăng dầu, mùi  hôi thối, khí thải công nghiệp…

Tất cả những cái này tích tụ lại, trở thành những hợp chất thủy ngân nhưng lại dưới dạng hơi. Đấy là cái nguy hiểm nhất. Cần  nói kỹ hơn  là chúng ta và đang dùng thủy ngân  ngày càng nhiều trong công nghiệp, trong y tế, trong cuộc sống chung. Sau khi dùng thì những cái phế thải có thủy ngân không được chọn lọc cất đi hoặc là bảo quản hoặc làm sạch lại mà lại để nó vương vãi trên đất, vương vãi trong không gian.

Kết quả là dưới tác động của ánh nắng mặt trời, dưới tác dụng của oxy, dưới tác dụng của nhiều vấn đề khác khiến hơi thủy ngân lan ra, gây ô nhiễm trong không gian. Tôi rất đồng ý với ý kiến cho là cần phải báo động bởi đến rác còn không thu gom cẩn thận  nói chi đến chuyện thu gom thủy ngân.

Xử lý ra sao

Thanh Trúc: Ông nói đó là thủy ngân bẩn chứ không phải thủy ngân sạch, vậy tác hại của thủy ngân bẩn trong  không khí đối với sức khỏe con người như thế nào?

TS Nguyễn Văn Khải: Đầu tiên nó tác dụng vào đường hô hấp để thấm vào trong phổi và trong các cơ quan nội tạng. Thủy ngân có thể tan biến thành những hạt rất nhỏ, nó có thể thấm vào lỗ chân lông, qua  lớp biểu bì vào thịt vào da và theo máu. Lúc đó là nguy hiểm vô cùng bởi vì nó bị oxy hóa cao.

Khi nhiệt kế vỡ thì không ai nghĩ rằng những hạt thủy ngân có thể thấm vào da qua lỗ chân lông, tác động vào đường hô hấp và rồi ức chế vào máu, bị gan, bị thận, bị rụng tóc. Chuyện này thì người ta đã nói rất nhiều.

Thanh Trúc: Thưa tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, theo thứ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường, ông Bùi Cách Tuyến, để tham gia vào mạng lưới thử nghiệm quan trắc thủy ngân khu vực Châu Á Thái Bình Dương thì trong tương lai Việt Nam sẽ trang bị thêm công cụ thực hiện việc kiểm soát ô nhiễm thủy ngân trong không khí. Ông nghĩ sao về lời khẳng định này?

Người ta chỉ nói đến xử lý chất thải rắn, xử lý nước, nhưng không ai động đến xử lý khí thủy ngân là một trong rất nhiều loại khí độc.
– TS Nguyễn Văn Khải

TS Nguyễn Văn Khải: Để xử lý thủy ngân chắc Việt Nam sẽ còn rất lâu, bởi ngay xử lý rác, xử lý khói ở các lò đốt rác còn chưa cẩn thận, xử lý khói bụi của các lò sinh hoạt các lò công nghiệp còn chưa thể hiện tốt thì làm sao mà nói đến chuyện xử lý được hơi thủy ngân. Đầu tiên phải ứng dụng khoa học vào công nghệ xử lý rác thải rồi sau đó xử lý các loại khí thải. Người ta chỉ nói đến xử lý chất thải rắn, xử lý nước, nhưng không ai động đến xử lý khí thủy ngân là một trong rất nhiều loại khí độc.

Việt Nam chưa hề công bố, thí dụ ở vùng A vùng B, là khí thải có những chất độc gì. Hãy  thử đến các vùng mà người ta  khai khoáng, bụi mù trời như thế, hơi  độc mù lên như thế, nắng độc như thế, xe ô tô chạy cuốn bụi mù trời như thế …Có thể một hai năm nữa Việt Nam có dụng cụ đo, nhưng tôi nghĩ chỉ cần một câu cuối cùng: làm thế nào để thu gom được thủy ngân trong không khí, trong đất và trong nước?

Thứ hai là cách bảo quản, cách sử dụng, tái sử dụng hay gom giữ lại thủy ngân sau khi sử dụng còn chưa nói đến thì  chuyện đo trong không khí lọc trong không khí vẫn còn là chuyện rất lâu.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Văn Khải về bài góp ý của ông.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh sắp thăm Hoa Kỳ

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh sắp thăm Hoa Kỳ

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bắt tay với Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong chuyến thăm Việt Nam của ông Kerry tháng 12 năm 2013.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bắt tay với Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong chuyến thăm Việt Nam của ông Kerry tháng 12 năm 2013.

19.09.2014

Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sẽ đi thăm Washington vào đầu tháng 10 sắp tới để tham khảo ý kiến với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry.

Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS) nói các cuộc họp giữa hai vị Ngoại trưởng là một diễn đàn để đề ra những bước cụ thể và đào sâu hơn quan hệ đối tác toàn diện đã được loan báo khi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đến thăm Tòa Bạch Ốc vào tháng Bảy năm 2013.

Trong một bài viết đăng trên trang web của CSIS hôm 18 tháng 9, ông Ernest Bower, một chuyên gia về các vấn đề Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS), nói rằng ngày nay, các nhà làm chính sách Mỹ coi Việt Nam là một đối tác có tiềm năng trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương. Ông cho rằng trong một khu vực rất năng động và đang thay đổi nhanh chóng, các lợi ích của Washington và Hà Nội đang ngày càng hội tụ về một điểm, trong bối cảnh hai nước chia chung một số lợi ích địa chính trị, và lợi ích kinh tế. Những hành động gây hấn của Trung Quốc là một yếu tố góp phần trong những tính toán của Việt Nam về liệu nước này có nên xích lại gần Hoa Kỳ, và xích lại nước cựu thù này theo tốc độ như thế nào.

Năm tới, 2015, hai nước sẽ kỷ niệm 20 năm từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhau hồi năm 1995, sau một cuộc chiến tranh kéo dài và nhiều cay đắng. CSIS cho rằng các điều kiện hiện nay đã chín muồi để lãnh đạo hai nước đề ra những bước cụ thể để hoàn toàn bình thường hóa các quan hệ song phương, dựa trên sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.

Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế đề nghị hai nước hãy đề ra những bước cụ thể, để tạo điều kiện cho một chuyến đi của Tổng Thống Barack Obama tới thăm Việt Nam trong năm tới, để đánh dấu kỷ niệm 20 năm ngày hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhau, có lẽ vào dịp hội nghị thượng đỉnh an ninh và kinh tế thường niên sẽ được tổ chức ở Malaysia và Philippines vào tháng 11, 2015.

Đường sắt đội vốn hàng triệu đô la vì ‘con ông cháu cha’

Đường sắt đội vốn hàng triệu đô la vì ‘con ông cháu cha’
Friday, September 19, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Các dự án đường sắt nội đô của cả Hà Nội và Sài Gòn đều “đội vốn” nhiều lần và chậm hoàn thành như ấn định, mà một trong những nguyên nhân chính là tại…”Con ông cháu cha”.

Công nhân thi công xây dựng chân cột tuyến metro Bến Thành – Suối Tiên đoạn qua Q.Thủ Đức. (Hình: Tuổi Trẻ)

Ông Nguyễn Xuân Thủy – nguyên Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Giao thông vận tải (Bộ GTVT), nói như vậy về tình trạng xây dựng các hệ thống đường sắt nội đô ở Việt Nam trên tờ Đất Việt hôm Thứ Sáu 19/9/2014.

Trong một cuộc họp gần đây, ông bộ trưởng Giao thông Vận tải chống chế  cho các chuyện “đợi vốn” là “do chưa có tiền lệ thực hiện dự án đường sắt, cũng như chưa có con người đủ kiến thức, bản lĩnh để nghiên cứu thấu đáo nên khâu chuẩn bị đầu tư sơ sài, đưa ra tổng mức ban đầu rất thấp nên phải điều chỉnh sau này”.

Nhưng những gì được ông Nguyễn Xuân Thủy vạch ra cho thấy sự thật khác hẳn.

“Nếu theo dõi sẽ thấy, Hà Nội có hiện tượng chọn người nhưng không đúng nghề, nhiều người không hiểu biết gì về đường sắt trên cao, không hiểu biết gì về tàu điện ngầm, không hiểu biết gì về giao thông đô thị nhưng lại đưa vào làm trong Ban dự án đường sắt đô thị. Thực chất những người này là con ông cháu cha, người quen biết, chính như vậy mới sinh ra lợi ích nhóm.” Ông Thủy nói.

Vì những người có trách nhiệm điều hành và thực hiện dự án như vậy nên theo ông Thủy “họ mới đưa ra những phương án rất ngô nghê, thậm chí sai, thiếu hợp lý, thiếu khoa học, nó biểu hiện ngay những thứ nhỏ nhất như trang quảng cáo, tờ rơi phát ra cho mọi người. Quả thực có nhiều tờ rơi mà đọc cũng thấy hiện rõ sự ngô nghê, thiếu hiểu biết về giao thông đô thị.”

Có dự án “đội vốn” 60%  nhưng có những dự án bị “đội vốn” tới 20%, còn chậm “tiến độ” làm chuyện phổ biến. Trong cuộc họp ngày 12/9/2014 vừa qua tại Hà Nội, ông Nguyễn Hoằng, Vụ trưởng Vụ Kế Hoạch – Đầu Tư của Bộ GTVT còn cho biết có dự án như “dự án metro số 2 Nam Thăng Long – Trần Hưng Đạo, dù chưa đấu thầu, thi công nhưng đã dự kiến tăng tổng vốn từ 19,500 tỉ lên 51,750 tỉ, tăng 164%.”

Dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Nội đội vốn hơn 339 triệu USD – (Hình: Tuổi Trẻ)

Trong một thống kê thấy phổ biến trên tờ Thanh Niên ngày 13/9/2014 qua bài viết “Vốn tăng phi mã, tiến độ rùa bò”, người ta thấy tại Sài Gòn có 2 dự án thì tình trạng như sau:

-Tuyến metro số 1: Bến Thành – Suối Tiên dài 19,7 km, tổng mức đầu tư tăng từ 17.387 tỉ đồng lên 47.325 tỉ đồng (tăng 172%), dự án đã phải lùi tiến độ dự kiến 2 năm từ 2018 lên 2020. Trung bình suất đầu tư khoảng 2,400 tỉ đồng/km, tương ứng $120 triệu/km.

-Tuyến metro số 2 (giai đoạn 1) đoạn Bến Thành – Tham Lương dài 11,3 km, tổng mức đầu tư từ 1,374 tỉ USD lên 2,15 tỉ USD (tăng $784 triệu), chậm 2 năm. Trung bình suất đầu tư $190 triệu/km.

Còn tại Hà Nội hiện đang có 4 dự án thì:

– Tuyến metro Nhổn – ga Hà Nội dài 12.5 km chậm 3 năm so với kế hoạch, tổng mức đầu tư từ 653 triệu euro tăng lên 1.17 tỉ euro (tăng 50.2%). Trung bình suất đầu tư khoảng 93.6 triệu euro/km.

–  Tuyến metro số 2 đoạn Nam Thăng Long – Trần Hưng Đạo dài 11,5 km, tổng mức đầu tư tăng từ 19,500 tỉ đồng lên 51,750 tỉ đồng (tăng 164%), chậm 3 năm. Trung bình suất đầu tư khoảng 4,500 tỉ đồng/km, tương ứng $225 triệu/km.

–  Tuyến metro số 1 Hà Nội (giai đoạn 1) dài 15.36 km, tới nay vẫn chưa rõ hướng tuyến, sẽ phải điều chỉnh cả quy mô, tổng mức đầu tư và tiến độ.

– Tuyến metro Cát Linh – Hà Đông dài 13.05 km, hiện đang rà soát điều chỉnh tổng mức từ $552 triệu lên 891 triệu, tăng thêm $339 triệu, tiến độ dự kiến tháng 11.2013 đã phải điều chỉnh xuống tháng 12.2015, chậm 2 năm. Trung bình suất đầu tư khoảng $68.5 triệu/km.

Hồi đầu năm, dư luận lại một phen xôn xao khi báo chí Nhật, tờ Yomiuri Shimbun, lại khui ra một vụ nhà thầu Nhật hối lộ cho quan chức CSVN để được cho trúng thầu. Lần này liên quan tới đám quan chức xây dựng đường sắt trên cao ở Hà Nội, bị cho là ăn hối lộ khoảng $800,000.

Do áp lực đòi cắt viện trợ của Nhật Bản, nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam 6 ông gồm cả phó tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt quốc doanh hồi tháng 5 vừa qua và không biết bao giờ sẽ ra tòa với các cáo buộc nhận hối lộ của nhà thầu Nhật JTC.

“Chính vì do con người chọn con người nên dẫn đến các dự án bị chậm, bị đội vốn, nhưng đó chỉ là tổn hại nhìn thấy trước mắt, sau này khi đi vào hoạt động, chất lượng kém mới là kinh khủng, nó sẽ dẫn đến hàng loạt các tai nạn rất đáng tiếc.” Ông Nguyễn Xuân Thủy nói trên tờ Đất Việt. (TN)

 

Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão

“Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão,”

Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai (2).

Tìm cánh tay nước biển,

Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi!”

(Phạm Đình Chương/Thanh Tâm Tuyền – Bài Ngợi Ca Tình Yêu)

(Mt 5: 21-24)

Trần Ngọc Mười Hai

Ca-từ ở bài này, nghe qua thấy cũng hơi vô lý, đến là thế. Nhưng nghe đi nghe lại nhiều lần, vẫn thấy lạ. Lạ hơn cả, là khi bần đạo đây nghe người trẻ Anthony Trần chia sẻ vào đêm nhạc Hát Cho Nhau ở Sydney hôm ấy, ngày 5/7/2014, nói rõ như sau:

“Qua các tài-liệu em đọc được, thì khoảng năm 1972, tổng thống Ngô Đình Diệm có mời một nhà nghiên-cứu âm-nhạc và cũng là nhạc-trưởng nổi tiếng ở nước ngoài đến Việt Nam xem có nhận-xét gì về nhạc Việt không. Ông có nói: “Nếu ta coi nhạc Việt như những món ăn dọn trên bàn tiệc, thì dường như người Việt mình chỉ thích ăn các món khai vị chứ không muốn chờ món chính. Trong khi các món khai vị hoặc ăn chơi, chỉ để đưa về món ăn chính, tức: trong âm-nhạc, ta phải tiến lên tầm mức có những giai-điệu khó-khăn hơn, cao vút hơn như một số giòng nhạc của thế-giới đang tiến tới.

Nhận-xét này, lúc ấy, có một số nghệ-sĩ đã thử-nghiệm, trong đó có nhạc-sĩ Phạm Đình Chương, hoặc nhạc sĩ Cung Tiến hay ai khác…cũng đã thử. Riêng, “Bài Ngợi Ca Tình Yêu” là nhạc-bản được phổ từ thơ Thanh Tâm Tuyền, và tiếp đó là bài “Dạ Tâm Khúc” cũng của ông đã ra đời trong chiều-hướng như thế. Tuy nhiên, loại nhạc khó hát và khó nghe như loại nhạc cổ-điển không được ưa-chuộng cho lắm, thế nên sau đó, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã ngưng, thôi không sáng-tác loại nhạc này nữa, chỉ còn mỗi nhạc sĩ Cung Tiến là vẫn tiếp tục với các bài như: Mắt Biếc, Thuở Làm Thơ Yêu Em, Hoàng Hạc Lâu… Và, dường như nay ít ai để ý đến những sáng-tác về sau của nhạc-sĩ Cung Tiến, theo chiều-hướng này nữa…” (trích lời dẫn của Anthony Trần Đàm Việt Quốc về khuynh-hướng sáng-tác loại nhạc khó, ở thời trước)

À thì ra, là như thế. Như thế nghĩa là, việc ca ngợi tình-yêu của mỗi người và mọi người, đâu thể nào giống cùng một kiểu. Không chỉ mỗi giới nghệ-sĩ mới thấy khó thế thôi ư? Thế còn, nhà Đạo ta mỗi khi ngợi-ca Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu, thì thế nào? Có khó lắm không? Hoặc, có bỏ cuộc giữa đường như nhạc sĩ Phạm Đình Chương vào thời đó? Trả lời cho câu này, bần đạo thấy còn khó hơn là viết nhạc theo giai-điệu khúc-mắc, rối bời, như vừa nói .

Thôi thì, ta cứ coi nhạc-bản ở trên tuy khó khăn, lăn tăn nhưng hãy cứ nghe thêm câu tiếp:

“Đất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể,
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn.
Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường.
Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt
Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng.
Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn.”

(Phạm Đình Chương/Thanh Tâm Tuyền – bđd)

Đấy! Hỡi bạn và tôi, ta đều thấy đấy: cái khó, nó không nằm ở giòng nhạc có giai-điệu lạ, nhưng khó hơn cả, là ở chỗ: ý/lời của bài thơ tự-do mà nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, đã cố đặt ra thế. Thi-sĩ Thanh Tâm Tuyền có cố ý không, ta hãy cứ nghe thêm một đoạn nữa, hạ hồi sẽ hiểu:

“Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường.
Tôi chờ đợi cười lên sặc sỡ,
la qua mái ngói thành phố ruộng đồng,
Bấu lấy tim tôi thành nhịp thở
Ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
Cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng chảy máu tiếng kêu.”

(Phạm Đình Chương/Thanh Tâm Tuyền – bđd)

À thì ra, tình-yêu con người ở ngoài đời, chỉ thấy toàn những: “khóc trên vai”, rồi lại: “tôi ghì đau-đớn trong thân-thể”. Và dễ nể hơn nữa, người nghệ-sĩ còn hát thêm câu: Những biệt ly, những biệt-ly rạn-nứt lòng đường”, rồi lại: “Bấu lấy tim tôi, thành nhịp thở”, hoặc: “sỏi bùn nước mặn, nồng chảy máu tiếng kêu”. Chao ôi, những ngôn và ngữ ở đời, rất thi ca.

Thế còn, ngữ-ngôn nhà đạo độ này ra sao? Nhà Đạo, cũng có những lời thơ hoặc lời thư đậm nét tâm-tư như đấng thánh nhân-hiền từng tỏ lộ:

“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,

hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến,

thì cũng chẳng ích gì cho tôi.4

Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,

không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,5

không làm điều bất chính,

không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù,6

không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.7

Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.8

Đức mến không bao giờ mất được.”

(1Cor 13: 3-8)

Vâng. Thế đó, là khẳng-định của đấng thánh nhân-hiền, cột trụ của Hội thánh. Và đây là: ý/lời nhà Đạo ở đời thường, cũng không khác mấy? Và, một câu hỏi khác: Đâu là lập-trường người đi Đạo, khi vinh-thăng “Lòng mến” vẫn có cái gì đó, khá độc đáo, chân-phương, bình dị như đời người đi Đạo, thôi.

Để hỗ-trợ tư-tưởng này, thiết-tưởng cũng nên quay về với ý/lời của người trẻ khác tên là Emma Quinn ở báo Úc, như sau:

“Đôi lúc, tôi trộm nghĩ: ta cũng nên để ra đôi chút cố-gắng mà làm điều hay/điều phải cho phải lẽ. Như bậc mẹ cha này khác ở đây đó, từng lo-lắng/đắn đo nhiều chuyện, hoặc như các cô/cậu học-trò ngoài “lề phải”; hoặc như thiếu-nữ tuy còn nhỏ cũng đã ưu-tư/khắc-khoải, nên mới “ới gọi” Đức Thánh Cha Phanxicô giúp cô vượt lên trên lớp sóng phủ đầy những thách-đố trong đời mình, bằng lá thư sau đây. Trước nhất, là thư một bà mẹ còn rất trẻ có tên là Janice, như sau:

Trọng kính Đức Thánh Cha,

Con đang sống trong tình-trạng tuyệt-vọng, nên cần người chỉ dạy, cho con.  Con có đứa con gái ở độ tuổi 14, 15 thôi, nhưng cháu đã bắt đầu khó bảo. Đêm nào, cháu cũng bỏ nhà ra phố chợ mà đàn đúm, vui chơi với lũ bạn choai choai tại các hộp đêm, của nguời lớn. Hết nhảy nhót, hát hò thâu đêm suốt sáng, rồi còn say sưa, chè chén, hút sách. Áo quần cháu mặc nay cũng biết theo đuôi chúng bạn cứ là: hở hang, lỗ mãng đến mắc cở, chẳng còn biết coi ai ra gì. Con nghĩ, nay như cháu đã đi trệch đường rày rồi, không còn biết thế nào là “công dung ngôn hạnh”, nữa Đức Cha ơi…

Con chẳng hiểu sao cháu lại ra nông nỗi thế. Con cũng không biết thế nào mới gọi là theo đúng chức-năng người mẹ. Xin Đức Cha giúp con với!

Ký tên,

Janice ở Úc

Và, lời thư hồi-đáp, cũng không hiểu từ ai đó, có những điểm để ta xét, rất như sau:

Janice thân mến,

Tuổi niên-thiếu vẫn là tuổi đời đầy khó khăn. Nhưng, những khó-khăn như thế sẽ không kéo dài suốt đời, đâu. Ta đây, vẫn thường bảo nhiều người, rằng: tuổi “teen” rồi cũng trôi mau và sẽ được gìn-giữ ở vườn thú cùng loài khác, cho đến khi chúng qua được thời-kỳ nổi-loạn của tuổi đang lớn. Nghiêm-túc hơn, đây là lúc để con bước ra khỏi khu vực thoải mái mà giáp mặt với con gái mình. Hãy giữ lằn ranh ngăn-cách tuy có thiết-lập rõ qui-luật nhấn mạnh và củng-cố nhiều về hệ-quả, nhưng vẫn khích-lệ hành-xử cách đúng-đắn. Hãy nhớ: con là một người mẹ, trước khi là bạn của con gái cưng của mình.

Cần hơn cả, là con phải tạo sự thân-mật gần gũi giữa con và các con của con. Hãy luôn để mắt đến con gái mình xem cháu thường giao-du nơi nào và rồi, sẽ cho cháu thấy rõ là con vẫn hỗ- trợ cháu. Hãy để nhiều thì giờ ra với con gái của con, có lẽ cũng nên chọn môn giải-trí nào đó mà cả hai mẹ con cùng chung vui, thêm phần  gần gũi thân-thương/mật-thiết, như: tập thể-dục chung với nhau, cùng nhau nấu ăn/mua sắm, vv. Phải can đảm giáp mặt/đối đầu với những vấn-đề gai góc, mọi sự rồi cũng sẽ qua đi, nhưng chúng vẫn đáng để con bỏ công ra mà thực-hiện quyết-tâm vào lúc này. (Xem Emma Quinn, Ask Papa Frank, Australian Catholics số Spring 2014, tr. 12-13)

Và, thêm thư khác, cũng gửi đến Đấng-bậc Bề Trên cao tít, như sau:

“Trọng kính Đức Thánh Cha,

Trong lớp của con, có nhỏ bạn nọ từng bị đám học-trò cùng lớp cứ bắt nạt/chọc ghẹo suốt ngày này qua tháng nọ. Từ lúc đó, cô không còn dám lân-la gần-gủi một ai, hết. Không chỉ có mỗi thế, bọn kia ngày càng lấn-át bắt chẹt cô ta đủ điều. Tệ đến độ, cô ta không còn muốn đến trường nữa. Con đây, nhiều lúc cũng tự hỏi: không biết có nên xen vào chuyện người khác hay không? Hay là, tốt hơn hết, mình cứ im lặng/làm ngơ để khỏi bị liên-lụy. Cha có ý-kiến gì giúp bọn con không?

Nay kính,

Joe.

Và thư trả lời, cũng từ đâu đó, chắc gì của Đức thánh là Cha Phanxicô, như sau:

Joe thân mến,

Thật ra thì, cuối cùng rồi cũng có 3 chọn-lựa để con suy-tính. Nhưng ba chọn-lựa này đều đòi hỏi con phải can-đảm hơn lên, và nhất là con phải có nghị-lực mới có thể vượt thắng được chuyện ấy. Thật ra thì, chẳng có giải-pháp dễ ăn giả như con thật tình muốn chấm-dứt chuyện bắt nạt ở trường-học, hết.

Trong ba chọn lựa này, thì thứ nhất là: “chính mình ra mặt đối đầu với chuyện bắt nạt và đứng về phía nạn-nhân. Đây không là vị-thế dễ làm, đối với những người cả nể hoặc dễ ngất xỉu, bởi nó là công-việc rất đáng ngại. Đây, cũng không là phương-cách quay lại làm hại hoặc tỏ ra dữ-tợn với người chuyên bắt nạt trẻ nhỏ, nhưng là tạo cho nạn-nhân có tiếng nói vươn cao mà vượt thoát.

Chọn lựa thứ hai, là: hãy cứ lẳng lặng đi báo cho thày/cô hoặc người lớn nào đó đáng tin cậy về trường-hợp người bạn cùng lớp/cùng trường đang bị bọn xấu bắt nạt đủ điều. Nghĩa là: con cũng cứ ra tay hành-động, nhưng hành-động của con là dám vượt lên trên vấn-đề bức-bách đang xảy đến.

Chọn-lựa khác nữa, là: mời người bị bắt nạt tức nạn-nhân ngồi xuống với con vào giờ ăn trưa. Hai cái đầu vẫn hơn một khối óc để ta giáp mặt với những kẻ chuyên bắt nạt người yếu thế. Được nhiều người chung quanh hỗ-trợ, sẽ càng bổ-sức cho bạn ấy niềm tự tin và từ đó, càng làm cho ta yên chí rằng: bạn vẫn còn có những người thương yêu mình trong cuộc đời.

Và có lẽ, ngay cả việc quyết đẩy lùi/loại bỏ chuyện bắt nạt/làm khó ra khỏi môi-trường mình sinh-hoạt đến thế nào đi nữa, cũng hãy nhẹ nhàng nói lên tiếng nói hoặc mời người nào ngoại-cuộc đi vào vòng yểm-trợ mà con cần đến, hầu có can-đảm mà giải-quyết.

Chúc con thành công.

Và lại có trường-hợp khác cũng khó khăn, tiêu-biểu để ta xem xét:

Trọng kính Đức Thánh Cha Phanxicô,

Con hiện có cảm-giác là: gia-đình con đang có cái gì đó đã đổi-thay. Chừng như quan-hệ giữa ba mẹ con rày đã khác. Ngay giữa Ba con và con, nay cũng đã có đấu-tranh như chưa bao giờ. Gia-đình con không còn ra ngoài trời hoặc tìm nơi giải trí/giải khuây, vui thú nữa. Tối nào, trong nhà con cũng thấy mọi người ngồi trước cái hộp truyền thanh/truyền-hình, cứ lặng như tờ, đôi lúc chỉ lẩm bẩm vài câu chúc nhau ngủ ngon, thế thôi. Con chỉ muốn cho gia-đình trở lại như trước. Có thể nào, với tư-cách là gia-đình, bọn con làm được gì để giải-quyết chuyện này không, thưa Đức Cha?

Ký tên

Con của Cha,

là Mary.

Và sau đây là thư hồi-âm, âm-thầm nhưng rõ nét, cũng chẳng biết từ ai, nữa;

“Mary thân mến,

Có can-đảm lắm, con mới nhận ra là gia-đình của con đang có vấn-đề!

Có một số việc mà con có thể cứ thử làm để gia-đình con trở lại như khi trước. Trước hết và trên hết, tất cả mọi người trong nhà con cần giao-tiếp với nhau theo cách nào đó cho tốt đẹp. Hãy ngồi xuống mà tỏ-bày quan ngại của con và đề-nghị một nơi để nói chuyện cho an-toàn, thoải mái. Con cần lòng quả-cảm để bày-tỏ tính chân-phương, thật thà, bởi đó là tính-chất rất sống còn hầu tạo cho gia-đình mình thấy được sự cần-thiết trong quan-hệ. Thế nên, hãy đưa mọi chuyện lên mặt bàn mà đặt thành vấn-đề.

Hãy tìm cách bảo-bọc và chấp-nhận các khác-biệt của nhau. Tất cả chúng ta đều có quan-niệm và tầm-nhìn khác biệt nhau về mọi sự. Có thể, chúng ta cũng sẽ không đồng ý với nhau về nhiều thứ, nhiều sự, thế nên ta cứ phải mở rộng lòng ra với những khác-biệt ấy.Sao cả nhà không đặt ra một kế-hoạch ra khỏi nhà mà đi chung với nhau? Hãy tái tạo sao đó để sự vui tươi trở lại với cuộc sống gia-đình. Hãy thử rủ nhau đi ra rạp xem phim, đi du-ngoạn ngoài trời, cùng đạp xe đạp, tập-luyện ngoại-hình. Những việc như thế, sẽ nhắc nhở mọi người trong gia-đình là: tại sao con thương gia-đình và tiếc nuối cái bầu khí tốt đẹp trong gia-đình biết là chừng nào!

Nếu chuyện này vẫn chưa giải-quyết được, thì điều hay nhất cho gia-đình con là: tìm một chuyên-gia nào đó có tay nghề  để giúp đỡ. Đôi lúc, ta cũng cần có người ngoài xem xét sự thể ở mọi việc bằng một cái nhìn khác-biệt. Dĩ nhiên, đây là bước nhảy khá táo-bạo và lớn lao, vì nó đòi ta phải có mức độ can-đảm thật lớn lao. Gia đìng quan-trọng là thế, nên cũng xứng-đáng để ta cùng nhau tìm cách giải-quyết các vấn-đề chung cùng nhau, của nhau.

Chúc con và gia-đình thành-công tốt đẹp.

Người cha vẫn ở xa, nên không làm gì được cách cụ-thể.” (xem Emma Quinn, bđd ở trên)

Theo như nội-dung/bài bản của những bức thư trần-tình/hội-ý giống như trên, đã cho thấy: người đi Đạo thời hôm nay, dù còn trẻ hay đã hết trẻ rồi, vẫn có vấn-đề về sự chín-chắn, trưởng-thành làm người lớn. Làm người lớn, thật ra không khó cho lắm, nhưng nó vẫn có những qui-tắc hoặc luật-lệ qui-định để, nếu ta không theo nổi hoặc không thích làm thế, sẽ thấy khó thực hiện.

Mới đây, bạn đạo ở nhiều nơi có gửi về nhắc nhở bần đạo đôi ý-kiến của đấng bậc vị-vọng trong nhà Đạo từng ghi chú về qui-luật trở thành người lớn như sau:

“Làm người lớn có nghĩa là gì?

Người lớn đây, đang học cách lãnh trách-nhiệm về đời mình. Người lớn cứ học-hỏi rồi nói: “Chính tôi đã làm điều đó” hoặc “Tôi có sơ-xuất nên mới làm thế!” hoặc “Tôi thật rất sai!” Người lớn, không là người cứ trách-móc người khác về vấn-đề hỏi rằng: “tôi đang ở vị-thế nào, trong cuộc sống?”

Người lớn, không là người cứ bỏ nguyên ngày ra làm việc rồi cười hi hí về chuyện này/chuyện khác. Người lớn lãnh trách-nhiệm về những gì mình và cần để mắt hầu tự kiểm soát rồi tiến về phía trước.

Người lớn không dùng người khác mà yểm-trợ cho bản-ngã của mình đang sa-sút.

Người lớn, là người biết để ý đến người khác để rồi chúc mừng cùng hỏi thăm và khẳng-định mà không cần đến việc hướng câu chuyện về phía mình. Ngay cả những người luôn phỉ-báng chính mình, cũng làm được những việc như thế bằng nỗ-lực chú-tâm vào chính mình họ.

Người lớn, là người nới rộng hành-vi của mình đặt lên người khác. “Nếu tôi không đạt đích-điểm bằng dự-án của tôi, thì làm sao tôi có thể gây ảnh-hưởng lên các thành-viên khác trong đội-ngũ mình?”

Người lớn, là người biết chú-tâm đến thời-khoá-biểu của người khác, thay vì cứ liên-tục đi trễ rồi còn bảo: tôi coi trọng việc tôi làm hơn việc các anh chị cứ chờ tôi”.

Người lớn, là người quyết làm đến cùng, nên mới nói với người khác: “Tôi sẽ gọi điện cho anh/chị”. “Tôi sẽ nhớ anh/chị trong lời cầu”. “Tôi sẽ mang trả cuốn này, ngay lập tức”.

Anh em có làm thế đến cùng được không?

Mọi người có biết là: khi ta hứa gọi điện cho ai, tức là dứt-khoát ta sẽ gọi cho họ, đúng thế không?

Có ai biết rằng khi ta nói: “Nào, anh em mình cùng đi ăn trưa đi!” tức mình nói một cách nghiêm-chỉnh, chứ?

Hoặc, mọi người có biết rằng: ít khi nào ta đi đến cùng đích về mọi chuyện, hoặc rất quyết tâm khi mình đã nói ra miệng, chứ? Hôm trước, tôi có dịp ghé thăm một người bạn. Anh kể cho tôi nghe về tình bạn hỗ-tương anh có với bạn khác là người từng bảo anh, rằng: “Ta cùng nhau đi ăn tối đi!” Khi ấy, bạn tôi bảo: Tôi biết rõ lần đó là lần cuối cùng tôi nghe thế, ngoại trừ khi tôi có sáng-kiến mời anh ta trước. Bởi, anh ta là người luôn nói thế, nhưng chả bao giờ thực-hiện”. (xem Lm Kevin O’Shea, Sống Đời Đạo Đức có Ánh-Sáng Cứu-Chuộc soi rọi, www.giadinhanphong.blogspot.com 05.09.2014)

Nói cho cùng, thì: sống cho đúng chức-năng của mỗi người trong đời, dù đó có là đời đi Đạo hoặc đời thường ở xã-hội, vẫn là sống có nguyên-tắc/chức-năng đúng vị-thế của mỗi người. Còn có nghĩa, là: sống cho phải Đạo, dù là Đạo Chúa hay đạo làm người, ở đời cũng vậy.

Sống cho phải đạo làm người còn phải noi theo những điều được đấng bậc đề nghị như sau:

“Mười điều Chúa không đòi hỏi khi gặp ta:

1.  Chúa sẽ không hỏi ta đang lái xe nhãn-hiệu gì, nhưng Ngài cứ hỏi xem ta đã chở được bao nhiêu người không có phương-tiện di-chuyển.

2.  Chúa sẽ không hỏi xem căn hộ ta sống lớn/nhỏ ra sao, nhưng Ngài sẽ hỏi ta từng đón tiếp bao nhiêu khách mời đến ở với ta.

3.  Chúa sẽ không hỏi ta có bao nhiêu bộ áo quần trong tủ đựng, nhưng Ngài sẽ hỏi ta giúp được bao nhiêu người rách rưới có áo mặc.

4.  Chúa sẽ không hỏi lương tiền ta kiếm cao đến cỡ nào, nhưng Ngài sẽ hỏi ta có mất phẩm-chất để được số tiền đó hay không.

5.  Chúa sẽ không hỏi chức-vụ của ta cao-cả thế nào, nhưng Ngài sẽ hỏi rằng: ta có làm hết sức mình cho công việc không.

6.  Chúa sẽ không hỏi ta có được bao nhiêu người bạn, nhưng Ngài sẽ hỏi ta đã làm bạn được với bao nhiêu người.

7.  Chúa sẽ không hỏi ta đang sống ở khu vực nào giàu/nghèo ra sao, nhưng Ngài sẽ hỏi ta đối xử với hàng xóm có tốt đẹp hay không.

8.  Chúa sẽ không hỏi màu da của ta đậm đặc thế nào, nhưng Ngài sẽ hỏi về tâm-tính của ta khi xử-thế.

9.  Chúa sẽ không hỏi tại sao ta quá chậm chạp khi tìm ơn cứu-chuộc, nhưng Ngài sẽ vui vẻ đem ta về lâu đài tình ái trên Thiên-quốc chứ không dẫn ta đến cửa ngõ hoả ngục.

10. Chúa sẽ không hỏi ta trao những câu này đến được bao nhiêu người, nhưng Ngài sẽ hỏi tại sao ta cứ do dự hoặc xấu hổ khi làm thế. (trích Sean Kealy, Varieties of American Experience, Doctrine and Life, 2006, 40-41)

Lại xin hỏi thêm lần nữa: những sự và những thứ ở trên như thế, có thực là lỗi hoặc tội không? Ta có đưa ngôn-ngữ, ẩn-dụ, huyền-thoại, ý-nghĩa diễn-giải rất đúng về “lỗi/tội” vào các ví-dụ cụ-thể nào như thế không???

Trong cùng một chiều-hướng như đấng-bậc ở Đạo Chúa nói trên, có lẽ cũng nên để ý đến nhận-định của đấng-bậc khác, rất nổi tiếng, tuy khác đạo về mặt lễ-giáo, nhưng lại cùng chung một kiểu cách của “đạo làm người”, với ý-tưởng không khác mấy. Ý-tưởng đây là những ý rất đúng đắn như sau:

“Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và trí huệ”

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

Là con Trời Phật, nếu không nói được những gì Trời Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.” (sưu tầm về ý-tưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma)

Vâng. Bậc thày giảng-dạy có hỏi hoặc có dạy thì học trò hay người đọc vẫn cứ nghe và sẽ quyết-tâm làm như thế. Làm thế, tức: sẽ cố gắng sống đúng chức-năng của mỗi người trong đời, hoặc trong nhà Đạo. Có, có thể cũng là ý-nguyện của bạn và của tội, hôm nay và suốt đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Xưa rày vẫn quyết-tâm

Và sẽ còn tâm-huyết

Ra như thế.

Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé

“Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé,”

Linh hồn anh, từ đó ướp trầm hương”.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 21: 28-32

Xuân long lanh trong mắt ai đi nữa, vẫn ướp tâm hồn người, mà sao anh không thấy được động-lực thúc đẩy anh ra đi giúp mọi nguời? Nắng nội-tâm nói ở trình-thuật, vẫn gợi ý nơi anh và em nhiều tâm tình Chúa giải-thích, cũng nên nghĩ mà xem.

Trình-thuật hôm nay, thánh-sử Mát-thêu đã giải-thích tâm-trạng của hai người con, rất khác tính. Khác tâm-trạng, khi đặt mình trước mặt người Cha thương-yêu. Trình-thuật, nay còn kể về tình-cảnh hai người con được yêu-cầu làm một việc, nhưng câu đáp-trả của hai người lại vẫn khác. Và, điểm khác biệt còn ở chỗ: người này không làm nhưng vẫn nói. Còn, người kia không nói nhưng vẫn làm.

Kể về dụ-ngôn hôm nay, thánh-Mát-thêu muốn đặt nặng đường-lối huấn-đức, hầu ca-tụng những người nói ít nhưng vẫn chịu làm. Và, thánh-nhân hạ phẩm-chất của những người chỉ dám nói chứ không dám làm. Thời Chúa sống, câu truyện dụ-ngôn vẫn được dùng để gây thiện-cảm với những người con bé nhỏ, thấp hèn, bỏ rơi bị coi như ngang hàng với đám tệ-nạn, cùng đinh, dân thu thuế.

Thời thánh Mát-thêu sống, truyện dụ-ngôn còn được kể là để hỗ-trợ dân thường ngoài Đạo, quyết chống lại kiểu sống đạo hợm-hĩnh, cao ngạo vẫn dẫy đầy nơi người Do-thái. Kiểu sống như thế, lại được người thời nay đưa vào câu truyện kể bằng cách này hay cách khác, cốt đề-cao hoặc chê-trách người nào đó.

Người thời nay, cho thấy: có lúc cùng một người, lại có cả hai tâm-tính đối-chọi nhau. Nghĩa là: cũng nói nhưng không làm; và đôi lúc, cũng làm sau khi nói tiếng “không” chẳng có nghĩa.

Chuyện này làm ta nhớ lại một nhân-vật trong phim tập truyền hình “Vicar of Dibley” qua đó, bao giờ nhân-vật ấy cũng bắt đầu nói: “Không, không và không!” Nhưng sau đó, lại đã kết-thúc bằng hành động mang nghĩa “có, có và có”. Có hợp-tác. Có đồng-thuận. Hệt như thể, trong cuộc sống, ta cũng thấy nhiều người từng nói “, có và có đấy!”, nhưng cuối cùng lại cũng “Không! không! Không làm gì hết”, tức: “có” cả hai thứ, cùng một lúc.

Lại có trường-hợp cũng hơi khác thường, là: trên thực-tế, nhiều lúc lại giống như thể: “không có” hết cả hai. Nghĩa là: ta thấy chuyện ấy không mấy thích-thú để nói được là “có” hay “không”, hoặc: chắc-chắn sẽ làm hoặc sẽ không làm chuyện đó, bao giờ hết. Chuyện được kể, xem ra cũng không mấy liên-quan đến ta, cách gần gũi hoặc quen thuộc.

Hôm trước, có linh-mục nọ kể lại là: sau buổi lễ, ông ra ngoài nhà thờ nói chuyện với giáo-dân và bất chợt bảo một người: “Tuần sau anh/chị vẫn tiếp-tục đi lễ chứ?” Phần đông nghe hỏi, ai cũng trả lời: “Thưa cha, dĩ nhiên là có!” Tuần sau đó, chẳng biết vì sao không ai thấy người ấy đến nhà thờ.

Một số người trong chúng ta nghe hỏi thế, có thể đã phản-ứng trái-nghịch lại, bèn thú thật: “Thưa cha: không! Tuần sau con bận!” Nhưng, sau đó nghĩ lại, anh phấn-đấu một hồi rồi cũng đến. Tuy nhiên, nhiều người thấy linh-mục hỏi thế cũng hơi kỳ. Bởi, ngày nay, không ai muốn đả động đến chuyện ấy, hết.

Nhiều cuộc khảo sát trước đây, cho thấy: thế-hệ trẻ hôm nay có khuynh hướng chọn ngồi hàng ghế cuối, để không bị cha/cố lưu ý hỏi điều gì công-khai trước mặt mọi người. Những người như thế, thường cũng chẳng muốn ai để mắt đến mình. Họ chỉ âm-thầm “rồi đến rồi đi”, đi nhà thờ để “xem lễ” rồi ra về, thế thôi. Nghĩa là, vẫn muốn yên-vị trong tầm riêng tư, chẳng muốn ai động đến mình, hết.

Cách đây nhiều năm, trong Giáo-hội ta cũng thấy có phe/nhóm khác nhau. Người, thì chủ-trương phóng-khoáng. Kẻ, lại theo nhóm phái bảo-thủ, rất cổ-hủ. Ngày nay, ít ra ta còn dám bảo: các phe/nhóm như thế này cũng bớt dần; hoặc: nhiều người, nay không còn thích đưa chuyện chính-trị vào hội-thánh, nữa. Nhiều vị, không còn thích chuyện ly-kỳ mộng-ảo như chuyện về “điềm báo mộng” từ các thánh; hoặc chuyện: quay về với truyền-thống cũ…

Giới trẻ hôm nay, đặc-biệt không còn thích dính-dự vào các trò chơi chính-trị, phe đảng, phân-hoá hàng ngũ, hoặc theo phe/nhóm này khác. Họ nhận ra rằng: thế giới của họ nay không còn những chuyện như thế,nữa. Nơi thế-giới họ sống, tất cả đều rõ ràng, đầy dẫy thông-tin mang nghĩa tuỳ-thuộc, như: cả trong công ăn việc làm mà họ vốn có, họ luôn ở vào vị-thế có trách-nghiệm.

Nói theo cách nào đó, thì: giới trẻ ngày nay, là những người còn biết đến “lẽ thường”. Họ vẫn tự hỏi lòng mình xem: nên ăn làm sao, nói làm sao. Và thực tế, họ đã thôi không còn ăn nói linh-tinh nhiều thứ, nếu ai đó đến hỏi ý-kiến họ về các nhóm người được coi là nhóm tiêu-biểu rất tinh-túy cả ở trong hội-thánh lẫn ngoài chính-trường.

Nếu có linh-mục nào đến hỏi người trẻ, xem: chiều thứ sáu này, có đến dự chầu lượt hoặc nguyện/ngắm “Lòng Chúa Xót Thương” không? Thì: họ cứ lẳng lặng quay về hướng khác, như thể bảo: “Thưa cha, cha nên quay về với thế-giới của riêng cha thì tốt hơn.” Hoặc, không nói cũng không làm, cũng chẳng phản-đối gì hết, chỉ việc tránh sang một bên, rồi đi thẳng. Nhưng, nếu có ai khác đến nhắn nhủ rằng: “Tuần tới, Anh/chị nhớ tham gia biểu-tình chống chính-phủ về vụ cắt-giảm ngân-sách y-tế, giáo-dục, vv.” thì có lẽ, họ sẽ cùng nhìn về một hướng, ở phía trước.

Về với câu Chúa hỏi ở dụ-ngôn: “Các ông nghĩ sao?” (Mt 21: 28). Hỏi thế, không có nghĩa là Ngài yêu-cầu ta bắt chước những người nói nhiều hơn làm, hoặc: làm nhiều hơn là cứ nói. Ngài không tuyên-dương bên nào hết. Ngài cũng chẳng giải-thích tại sao người con trai kia vẫn không làm mà chỉ nói; hoặc: có làm mà không nói, dù có nhắn có hỏi thế nào đi nữa.

Sau khi kể dụ-ngôn, Đức Giêsu cũng chẳng nói tại sao hai người con trai kia không chọn cho mình tư-thế nào, hết. Phải chăng anh ta chọn như thế vì lười biếng? hoặc: anh ta có kế-hoạch khác hoặc đang ở vào hoàn-cảnh khó đoán trước chuyện gì sẽ xảy đến. Có thể, vì anh quên sót hoặc ngu-muội không biết việc mình làm sẽ ra sao. Có khi, anh cũng chẳng biết chuyện ấy có được dân-chúng tôn-trọng hay không. Trong chuyện này, Đức Giêsu chỉ hỏi có mỗi câu: “Các ông nghĩ sao về chuyện ấy?” thôi.

Suy chuyện này, đôi lúc ta cũng nghĩ về tình-thế “Giáo-hội mình đang đi vào thời-kỳ khác với lịch-sử loài người, chăng? Cũng có thể, Giáo-hội ta đang trở-thành một giáo-hội ít hỏi-han giáo-dân mình về cuộc sống và ý-chí tốt-lành của họ, cũng không chừng. Giáo-hội ta như thế, sẽ không đòi thêm nhiều ngoại-lệ ở dân con đạo mình. Giáo-hội như thế, đã biết tôn-trọng giáo-dân về chuyện tư-riêng, bí mật của họ. Và, Giáo-hội nay đã biết phục-vụ con dân mọi người hơn là một tổ-chức này khác chỉ muốn dân con trong Đạo phục-vụ mình, thôi.

Phục vụ dân con trong Đạo mình, có nghĩa là: không tỏ ra thô-bạo với cuộc sống thực-tế rất riêng-tư của họ. Phục vụ dân con Đạo mình còn có nghĩa: biết nhẹ nhàng tôn-trọng phẩm-cách tách-bạch của người đó. Đó là nền-tảng khiến mọi người thực-sự thương-yêu, hiệp-thông với những người sống như thế.

Dân con trong Đạo, là loại người cùng đến để lĩnh-nhận sự hiệp-thông rất thánh trong Tiệc-Thánh mỗi Chúa Nhật. Và, con dân trong Đạo, còn là những người sống khác thường. Sống tốt-đẹp và giùm giúp nhau hơn trong thế-giới rất thực, như kết-quả của sự việc họ tham-gia có mặt ở Tiệc Thánh, cũng đều tốt.

Cuối cùng thì, câu hỏi của Chúa ở dụ-ngôn hôm nay, cũng được gửi đến dân con mọi người trong thánh Hội vẫn cứ hoặc vẫn không tham-dự Tiệc Thánh, ngày của Chúa.

Để chuẩn-bị cho câu trả lời thật đích-đáng, cũng nên ngâm lại lời thơ còn bỏ dở, rằng:

“Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé?”

Linh hồn anh, từ đó ướp trầm hương.

Linh hồn anh, từ đó ngạt ngào thơm.

Máu, như nước hoa chan đời lễ lạc.

Máu, như gió lành chảy qua ruộng đồng bát-ngát,

Chở chuyên mùi lúa chín quanh năm”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Bài Đầu Năm Tình Yêu)

Bài Đầu Năm Tình Yêu, vẫn có nắng có máu Thánh chan-hoà đời lễ lạc. Có “ruộng đồng bát ngát chuyên chở mùi lúa chín quanh năm”. Đó, là Tình thơm ngát linh-hồn vẫn ướp trầm hương ngạt-ngào, vững mạnh, suốt nhiều thời.

Cuối cùng thì, hãy cứ gần nhau đi dù không nói. Nói làm gì, khi anh đã “thầm hiểu” hãy cứ “lặng cúi đầu” mà suy về dụ-ngôn Chúa kể, để coi đó như bí-kíp sống ở đời. Bí-kíp, dựa nhiều trên chọn-lựa của mỗi người, tùy vào tình thân-thương ta đối xử với nhau, mà thôi.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.

Nhân Scotland đã “từ chối độc lập”, đôi điều nghĩ về Hồ Chí Minh

Nhân Scotland đã “từ chối độc lập”, đôi điều nghĩ về Hồ Chí Minh

Huy Đức/ FB Trương Huy San

Scotland đã “từ chối độc lập” với tỷ lệ phiếu 54-46. Năm 1999, người Úc cũng đã từ chối trở thành một nền cộng hòa không có Nữ Hoàng. Điều thú vị là cả hai công cuộc giành độc lập này đều diễn ra như lễ hội thay vì kinh qua những thập niên đầu rơi máu chảy.

Không thể so sánh phương thức giành độc lập ở những giai đoạn khác nhau, nhưng quyết định của người Úc 15 năm trước đây và của người Scotland hôm nay cho thấy điều mà Hồ Chí Minh nói năm 1946 là hoàn toàn chính xác: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”. Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhà lập ngôn xuất sắc nhất.

Khi thu thập tư liệu cho Sách Bên Thắng Cuộc, tôi phỏng vấn rất nhiều nhân chứng và các nhà nghiên cứu về đời tư của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tôi quyết định không đưa những chuyện thâm cung của ông vào sách. Đành rằng đạo đức quyết định rất nhiều đến thành công của một nhà chính trị, tôi vẫn cho rằng, đánh giá một nhà lãnh đạo là phải dựa trên những quyết sách dẫn dắt quốc gia. Đừng quan tâm Hồ Chí Minh có con, có người phụ nữ nào hay không mà hãy quan tâm đến di sản mà ngày nay chúng ta đang gánh.

Từ cách tiếp cận đó, tuy tôi vẫn tìm hiểu cách đối xử của Hồ Chí Minh với những người ruột thịt như bà Thanh và ông Cả Khiêm; cách ứng xử của Hồ Chí Minh với những người thầy của ông như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần… Nhưng, chủ yếu tôi tìm hiểu cách ông đã ứng xử sau khi nắm quyền (chứ không phải là giai đoạn tuyên truyền để giành chính quyền) với dân, với nhà nước pháp quyền, với Hiến pháp 1946, với mô hình chính trị mà ông lựa chọn.

Năm 2004, khi tôi gặp hai người trợ lý thân cận của Lê Duẩn, ông Đống Ngạc và ông Đậu Ngọc Xuân, phỏng vấn vì sao Lê Duẩn lại nôn nóng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” như vậy. Cả hai ông đều cho rằng, sao lại trách anh Ba vì đó là “con đường của Bác”.

Nhiều thế hệ Việt Nam đã yêu mến Hồ Chí Minh, các bạn cứ tiếp tục yêu mến Hồ Chí Minh, đừng “shock” khi đọc thấy “những người đàn bà của Bác”. Các bạn chỉ nên so sánh di sản của Hồ Chí Minh (là những gì mà Việt Nam đang có ngày nay) với chính chuẩn mực của ông: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”.

FB Trương Huy San

Nhìn lại ‘Cải cách Ruộng Đất’ ở Việt Nam

Nhìn lại ‘Cải cách Ruộng Đất’ ở Việt Nam

Thứ năm, 18 tháng 9, 2014

httpv://www.youtube.com/watch?v=MhtWSQznlHw#t=638

Mặc dù cuộc cải cách ruộng đất do Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện 60 năm về trước đã trôi qua, nhưng nhiều người vẫn chưa thể ‘quên được’ ‘sự thật’ vẫn chưa được Đảng nói ra hết, cũng như Đảng phải nhìn nhận ‘tội lỗi’ của mình, theo một khách mời của tọa đàm trực tuyến về “Cải cách ruộng đất” do BBC thực hiện hôm 18/9/2014.

Từ Moscow, hôm thứ Năm, ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp của Hà Nội, nguyên cán bộ sửa sai cải cách ruộng đất của Đảng ở ngoại thành Hà Nội, một nhà bất đồng chính kiến nhiều năm tị nạn chính trị ở Nga, cho rằng Đảng và chính quyền phải ‘sám hối’. Ông nói:

“Bây giờ cải cách ruộng đất đã qua rồi, chúng ta muốn quên đi, nhưng mà sự thực không quên được. Vì sao, bởi vì tôi đã rất đồng ý với nhà văn Trần Mạnh Hảo, là vì trước hết Nhà nước, Đảng cầm quyền phải nói sự thật, phải nhìn nhận tội lỗi của mình, phải sám hối, mới xóa bỏ được hận thù.

“Mới xóa bỏ được: thôi, ta coi vấn đề cải cách ruộng đất là qua rồi. Điều đó nhà nước chúng ta không làm, cuộc triển lãm vừa qua không làm. Đó là điều thứ nhất tôi xin khẳng định như thế.

“Điều thứ hai là bây giờ rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một cuộc cải cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa, mà là phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất của nông dân”

Ông Nguyễn Minh Cần

“Điều thứ hai là bây giờ rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một cuộc cải cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa, mà là phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất của nông dân và đem ruộng đất trả lại cho nông dân.”

‘Quyết tìm sự thật’

Nhà văn Trần Mạnh Hảo, một nhân chứng mà gia đình là ‘nạn nhân’ của cuộc cải cách, như ông tự giới thiệu, nói với cuộc tọa đàm từ Sài Gòn:

“Tôi cho rằng lịch sử phải được thể hiện một cách trung thực, nếu tất cả lịch sử bị bóp méo, và bị dối trá hóa, bị tuyên truyền nhảm, tức là bịa ra lịch sử để sự tuyên truyền, thì chừng đó, sau này dù thời gian sau này chăng nữa, con cháu chúng ta họ vẫn quyết tâm đi tìm sự thật.

“Bởi vì sự thật, chỉ có sự thật mới giải phóng được con người. Chỉ có sự thật mới giúp chúng ta nhìn nhận chân lý, cái gì sai, cái gì đúng, còn cứ bịa chuyện, cứ bịp bợm nhân dân, thì mọi thứ sẽ không bao giờ tốt đẹp.”

“Tôi không muốn nói lại cuộc cải cách ruộng đất, bởi vì vết thương của gia đình tôi, bố mẹ tôi. Bố tôi bị bắt, mẹ tôi phải nuôi ba đứa con, tôi phải đi bắt rận thuê để lấy gạo nấu cháo cho mẹ ăn và các em ăn, tức là rất là thảm.

“Và những gia đình bị bắn ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan hàng mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải cách tốt đẹp được”

Nhà văn Trần Mạnh Hảo

“Đẩy gia đình chúng tôi vào thảm kịch có thể chết đói cả ba bốn mẹ con. Và cuộc cải cách ruộng đất tôi đã nhìn thấy nông dân ở làng đến lấy ở nhà tôi từng cái đũa, cái bát, cái mâm, cái hòn gạch, phá nhà, phá cửa, cướp hết toàn bộ những tài sản của gia đình chúng tôi, mà một gia đình lao động, không bao giờ là địa chủ.

“Và những gia đình bị bắn ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan hàng mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải cách tốt đẹp được.”

‘Không có cơ sở’

Từ Paris, nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả của cuốn hồi ký chính trị “Đêm giữa ban ngày” đặt vấn đề liệu vào thời điểm tiến hành cuộc cải cách, Đảng có tiến hành một cuộc điều tra ‘đàng hoàng không’.

Nhà văn đặt câu hỏi cho ông Nguyễn Minh Cần:

“Thắc mắc của tôi là vào giai đoạn đó, có một cuộc điều tra về cải cách ruộng đất đàng hoàng không, thành lập được mấy đoàn điều tra, đã đi những địa phương nào để điều tra cải cách ruộng đất, trưởng phó đoàn là ai và báo cáo về cải cách ruộng đất để chuẩn bị cho cải cách ruộng đất có hay không?”

“Sự thực ở đây là không chỉ riêng Hà Nội, mà cả toàn quốc, tỷ lệ 5% mà Hồ Chủ Tịch đưa ra, rồi vân vân, thì không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả”

Ông Nguyễn Minh Cần

Khách mời từ Moscow trả lời:

“Sự thực ở đây là không chỉ riêng Hà Nội, mà cả toàn quốc, tỷ lệ 5% mà Hồ Chủ Tịch đưa ra, rồi vân vân, thì không có dựa trên một cơ sở điều tra nào cả,” cựu Phó Chủ tịch Hà Nội phụ trách nông nghiệp nói.

“Hoàn toàn không có một điều tra nông thôn để mà quyết định vấn đề thành phần, ruộng đất, rồi vân vân, ở trong nông dân như thế nào cả, nông thôn ra làm sao cả. Đấy là một sự thật.”

‘Không thể sửa được’

Về vấn đề sửa sai, ông Nguyễn Minh Cần thuật lại những gì mà ông đã trải nghiệm, cựu thành viên ủy ban sửa sai của Đảng ở Hà Nội nói:

“Ngay bản thân tôi, tôi là người phụ trách sửa sai ở ngoại thành Hà Nội, thì ông Võ Nguyên Giáp thời bấy giờ, Ủy viên Bộ chính trị, phụ trách Hà Nội trong việc sửa sai, chúng tôi bàn với nhau có bao nhiêu việc không thể nào sửa được.

“Vợ, chồng, con cái của người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên lạc trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu thế nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết. Chúng tôi làm thế nào mà giải quyết được?”

Ông Nguyên Minh Cần

“Vợ, chồng, con cái của người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên lạc trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu thế nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết. Chúng tôi làm thế nào mà giải quyết được?

“Rồi nhà cửa người ta chia ra rồi, bây giờ sửa sai, chúng tôi phải trả lại cho những người đó, nhưng mà trả lại thế nào được? Khi mà nông dân đã nhận được nhà cửa thì họ được tin là phải trả lại, thì họ lấy ngói, lấy gạch rồi phá hết tất cả của người ta.

“Mà khi vào chia đấy, thì bao nhiêu gia đình được một ngôi nhà, thì những cây cảnh, những cái chậu v.v…, thì mình phá hết, thì bảo là trả lại thế nào?”

Các khách mời trong cuộc thảo luận cũng nhìn lại hai luồng ý kiến chính trên các mạng xã hội Việt Nam nhân cuộc triên lãm Cải cách Ruộng đất ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Hà Nội khai mạc rồi bị đóng cửa vì ‘lý do kỹ thuật’ sau khi vừa khai trương đầu tháng 9/2014.

Các ý kiến cũng nhằm sáng tỏ bối cảnh chung, tác động của Trung Quốc, việc tiến hành, vai trò của Ban lãnh đạo Việt Nam khi đó như việc lập các đoàn cải cách.

Cố chủ tịch Hồ Chí Minh

Ông Hồ Chí Minh đã thừa nhận Đảng sai lầm và tuyên bố ‘sửa sai’ sau cải cách ruộng đất.

Cuộc thảo luận cũng nhìn vào ý nghĩa, tác động của Cải cách Ruộng Đất với nông thôn, nông dân Việt Nam tới ngày nay.

‘Bài học lịch sử’

Thảo luận còn nêu ý kiến cần có một cuộc cải cách về đất đai hiện nay ở Việt Nam để giải quyết vấn đề tham nhũng đất, khiếu kiện khá phổ biến về đất đai.

Có khách mời cũng cho hay từ kinh nghiệm của Liên Xô thì sau năm 1991 vẫn không hề có sự nhìn lại về các cuộc cải tạo tiêu diệt nông dân thời Stalin.

Nhưng riêng với Việt Nam, có ý kiến thảo luận nói cần khép lại quá khứ dù không được quên những vụ tàn sát thời Cải cách Ruộng Đất.

Về bài học rút ra và thái độ đối với quá khứ, lựa chọn ứng xử trong hiện tại, ông Nguyễn Quang Thạch, nhà vận động ‘sách cho nông thôn’ nói với BBC:

“Lịch sử là thứ đã qua rồi, chúng ta không được phép quên lịch sử, mà chúng ta phải đánh giá sòng phẳng về nó. Chúng ta không quên quá khứ sai lầm của lịch sử, nhưng cũng không căm hận nó nữa, mà nên hành động để tạo dựng cho tương lai tốt hơn thôi”

Ông Nguyễn Quang Thạch

“Lịch sử là thứ đã qua rồi, chúng ta không được phép quên lịch sử, mà chúng ta phải đánh giá sòng phẳng về nó.

“Chúng ta không quên quá khứ sai lầm của lịch sử, nhưng cũng không căm hận nó nữa, mà nên hành động để tạo dựng cho tương lai tốt hơn thôi.

“Chứ nếu chúng ta, như kiểu vừa rồi, là chỉ đưa trưng bày ra, phô diễn cho người ta, chỉ nói cái tốt, không nói cái sai, khuyết, để rồi cùng nhau nhìn nhận, và không lặp lạih những sai lầm trong tương lai.

“Cho câu chuyện tôi nghĩ là người Việt mình, chính quyền đã đến lúc phải đánh giá lại sai lầm của mình, và sau đó công bố rõ ràng, và chúng ta điều chỉnh chính sách đất đai để không tạo ra sự xung đột giữa chính quyền và người dân. Để không tạo ra sự dồn tích, sự căm phẫn trong đời sống cộng đồng.”

‘Mong cải cách mới’

“Bây giờ có những người nông dân không còn nhà, không còn một tấc đất để sống, trong khi những kẻ tham nhũng có bốn, năm, bảy cái biệt thự, có hàng trăm héc-ta rừng để bóc lột nhân dân… Vì vậy theo tôi, tôi lại muốn có một cuộc cải cách ruộng đất mới”

Bà Lê Hiền Đức

Cũng hôm thứ Năm, bà Lê Hiền Đức, nhà hoạt động chống tham nhũng và vận động cho nhân quyền, nói với tọa đàm từ Hà Nội:

“Tôi lại muốn cải cách ruộng đất bây giờ nữa, nhưng trên tinh thần của tôi bây giờ là gì: tổ chức cải cách ruộng đất không phải là đấu tố như ngày xưa, nâng thành phần từ phú nông lên địa chủ để giết chóc, đàn áp nhau.

“Nhưng cải cách ruộng đất bây giờ là gì: để người nông dân của tôi bây giờ sống bằng đồng ruộng thì nhiều bà con nông dân đã căng khẩu hiệu là ‘Nông dân coi đồng ruộng như máu xương của mình’.

“Nhưng bây giờ mất hết ruộng, mất hết vườn, mất hết rừng, thì hỏi rằng còn gì nữa, vì vậy theo suy nghĩ của tôi, tôi lại mong muốn có cuộc cải cách, nhưng cải cách bây giờ đừng lặp lại những sai lầm dã man, tàn ác, giết chóc như những năm trước đây.

“Mà cải cách bây giờ là gì: để cho những người nông dân đứng lên tố cáo những bọn tham nhũng. Bây giờ có những người nông dân không còn nhà, không còn một tấc đất để sống, trong khi những kẻ tham nhũng có bốn, năm, bảy cái biệt thự, có hàng trăm héc-ta rừng để bóc lột nhân dân…

“Vì vậy theo tôi, tôi lại muốn có một cuộc cải cách ruộng đất mới,” nhà vận động năm nay 83 tuổi nói với cuộc tọa đàm của BBC từ Hà Nội.

Người đàn ông ngồi tù 103 năm vẫn sống trở về

Người đàn ông ngồi tù 103 năm vẫn sống trở về

Khi bị kết án tù 103 năm vào cuối thế kỷ 19, chắc ông Golley không bao giờ nghĩ mình sống đến ngày được thả. Nhưng điều kỳ lạ đó đã xảy ra.

Trong kỷ lục Guiness, người sống thọ nhất thế giới cũng chỉ bước qua tuổi 125 với những điều kiện sống được cho là khá hoàn hảo. Tuy nhiên gần đây, trong một cuốn sách mới được xuất bản tại Nga, người đàn ông có tên Golley đã khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng khi sống thọ tới 120 tuổi, đặc biệt là trong 103 năm, ông này phải sống sau chấn song của nhà tù vì tội giết người. Cuốn hồi ký gây chấn động.

Câu chuyện đặc biệt của ông Golley đã được nhiều người vùng Seberia của Nga biết tới vào năm 1998, khi người đàn ông này ra tù sau 103 năm thụ án. Tuy nhiên, cái tên Golley mãi mãi chỉ gói gọn trong một phạm vi hẹp nếu như vào tháng 9 vừa qua, cuốn sách tự thuật của người đàn ông này không được xuất bản tại Nga. “Đó là một câu chuyện kỳ khôi, một phép lạ mà tôi lần đầu tiên được nghe thấy trong đời”, giám đốc của nhà xuất bản, nơi phát hành cuốn sách của ông Golley, nhận xét.

Theo như những gì cuốn sách viết, vào năm 1895, cậu trai trẻ Golley 17 tuổi sống cùng gia đình tại vùng Seberia của nước Nga. “Gia đình tôi sống khá bình an với công việc chính là chăn nuôi gia súc trên các thảo nguyên rộng lớn. Ngay từ nhỏ, tôi đã giúp đỡ bố mẹ chăn bò, cừu. Cuộc sống sẽ tiếp tục diễn ra êm đẹp như vậy nếu như không có cái ngày khủng khiếp đó”, ông Golley kể lại.

Ông Golley ngày ra tù.

Đó là một ngày tháng 8 năm 1895. Do con bò của gia đình đi lạc vào trang trại nhà hàng xóm nên chàng thanh niên 17 tuổi Golley đã bị người này mắng té tát. Không những thế, do có mâu thuẫn từ trước nên người hàng xóm đã không trả lại con bò cho gia đình Golley. Tức giận vì hành vi ngang ngược, Golley trong lúc nóng giận đã nổ súng giết chết người hàng xóm. “Bà vợ nhà hàng xóm nói rằng tôi phải trả giá cho tội ác của mình. Để tôi chết thì không đáng nên bà ta đã câu kết với các nhà chức trách địa phương để bắt tôi phải chết trong tù”, Golley kể lại trong cuốn sách.

Thế là chàng thanh niên Golley bị tuyên án… 100 năm tù giam. “Người ta tuyên án thế là mong muốn tôi chết dần chết mòn trong tù. Có ai sống được đến 100 tuổi để ngồi tù như tôi đâu. Lúc đó tôi đã nghĩ cuộc đời mình kết thúc từ đây”, Golley bộc bạch. Sau một năm thụ án, Golley đã lên kế hoạch trốn tù, nhưng chỉ một tháng sau đã bị bắt lại, và “được” cộng thêm ba năm nữa, thành 103 năm.

Cuộc sống hai thế kỷ trong tù

Kể về cuộc sống 103 năm trong tù , Golley nói rằng ông đã sống trong một thế giới hoàn toàn biệt lập mà không hề biết những sự việc thay đổi xung quanh mình. Khi được ra khỏi nhà tù vào năm 1998, ông cứ ngỡ bản thân đang lạc vào một thế giới khác. “Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy máy bay. Lần đầu tiên khi nhìn thấy nó, tôi cứ ngỡ đó là con chim khổng lồ bay lạc phía gần nhà mình. Tôi đã thốt lên rằng sao có một con chim to đến như vậy”.

Cũng theo Golley, tất cả những vật dụng của thế giới hiện đại như vô tuyến và máy tính ông cũng chưa bao giờ được nghe tới. Thậm chí, khi đất nước Nga trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới, ông cũng không hề hay biết. “Cuộc sống của tôi ở trong tù chỉ là sáng được mở cửa đưa đi lao động. Tối về bị nhốt sau chấn song của trại giam.

Tôi không được đọc báo, không được ai thông tin về những diễn biến bên ngoài. Vì thế tôi cũng không biết rằng, bố mẹ mình đã chết trong một cuộc ném bom của phát xít Đức trong thế chiến thứ nhất”, người đàn ông này nghẹn ngào nói. Cuộc sống trong tù của Golley diễn ra vô cùng tẻ nhạt và vô vị.

Người đàn ông này đã phải sống một cuộc đời bị cô lập trong một thời gian dài dằng dặc. Golley cho biết rằng, hằng ngày ông chỉ làm bạn với chiếc giường và chiếc ghế duy nhất trong phòng giam mà ông được sở hữu. Trong hơn 100 năm sống trong tù, Golley luôn phải tắm nước lạnh và chưa bao giờ có được một mẩu xà phòng để làm cho cơ thể thơm tho hơn.

“Một tuần một lần chúng tôi được dồn vào nhà tắm công cộng để kỳ cọ cơ thể. Đã có đôi lần tôi muốn có một chút xà phòng, nhưng những người lính gác đều quát vào mặt tôi rằng có ai nhìn hay ngửi ông nữa đâu, cần xà phòng làm gì. Những lúc như thế tôi đã nghĩ rằng, tôi sẽ phải chết mục xương trong nhà tù tăm tối này”.

Một điều đặc biệt nữa là ông Goolley cũng chưa bao giờ được nhìn thấy phụ nữ từ khi bước chân vào nhà tù năm 1895. Golley cho biết, nhà tù nơi ông trải qua 103 năm chỉ nhốt các tù nhân nam, tù nhân nữ được giam ở một khu khác. Hơn nữa, sự nghiêm khắc của những người quản giáo đã khiến cho chuỗi ngày dằng dặc phải sống trong tù của ông chưa một giây phút dù ngắn ngủi được ngắm một bóng hồng đi qua.

Cũng trong cuốn tự truyện, người đàn ông này viết: “Tôi đã chứng kiến sự ra đi của những người bạn tù cùng lứa tuổi từ cách đây vài chục năm. Có người chết vì bệnh tật, cũng có người chết vì tuổi cao sức yếu. Mặc dù mỗi người chết một cách khác nhau nhưng ai cũng có nguyện vọng trước khi chết được ra khỏi nhà tù một lần. Nhưng chẳng mấy ai thực hiện được điều đó. Được chứng kiến những cái chết cô đơn trong nhà tù như vậy, tôi luôn bảo mình rằng, phải sống đến khi ra khỏi nhà tù này, dù thời gian có dài thế nào đi chăng nữa”.

“Bắt đầu lại cuộc đời chưa bao giờ là muộn” Tưởng chừng như nguyện vọng được ra khỏi nhà tù chỉ là chuyện viển vông, tuy nhiên những điều kỳ diệu của cuộc sống vẫn luôn xảy ra. Năm 1998, sau đúng 103 năm thụ án, ông Goolley đã chính thức được ra tù. Vào thời điểm đó ông tròn 120 tuổi. “Đó là một phép lạ mà chính bản thân tôi cũng chưa bao giờ dám nghĩ tới”, Goolley nói.

Ngày Goolley được trả tự do trở thành một ngày hội lớn của nhà tù nơi ông đã gắn bó phần lớn cuộc đời mình. Nhớ lại ngày đó, ông Goolley bồi hồi: “Trước khi ra tù, tôi đã được đưa đi cắt tóc gọn gàng. Những người quản trại đã góp tiền để mua cho tôi bộ quần áo mới và tặng tôi 50 rúp để bắt đầu cuộc sống mới. Họ nói với tôi rằng, cuộc đời bắt đầu lại chưa bao giờ là muộn và tôi thấy điều đó thật đúng”.

Khi được hỏi vì sao vẫn giữ được sức khỏe tốt mặc dù đã 120 tuổi, ông Goolley cho rằng bản thân ông đã phải làm việc chăm chỉ và đều đặn khi ở tù. “Đừng nói rằng cuộc sống trong tù không đem lại cho tôi điều gì tốt đẹp. Chúng tôi ở đây đều phải làm việc và ăn uống theo quy định, vì thế tôi nghĩ rằng tôi đã sống khỏe do được rèn luyện ở trong tù”. Cũng vì sức khỏe còn tốt, nên ngay sau khi ra tù, ông Goolley muốn tìm một công việc phù hợp để có thể tự kiếm tiền nuôi sống bản thân.

Trong bữa tiệc nhỏ do chính tay tù nhân làm để chia tay người tù cao tuổi nhất và là người phải sống trong tù lâu nhất, được hỏi có mong muốn gì khi được tự do, ông Goolley đã khiến mọi người phải bật cười vì thái độ thành thật của mình: “Việc đầu tiên tôi muốn làm là được tắm nước nóng, uống một ngụm Vodlka và sẽ cố gắng để lấy vợ”.

Theo ông Goolley, cuộc sống mới của ông được bắt đầu với những việc ông đã không thể làm hoặc chưa kịp làm trước khi bước chân vào tù. Ông không ngại nói mình sẽ tìm một người bạn đời ở lứa tuổi gần đất xa trời. Goolley luôn tự tin sẽ có những người phụ nữ thấu hiểu hoàn cảnh đặc biệt của ông và tìm đến ông để chia sẻ.

“Tôi chưa từng hẹn hò hay cầm tay bất kỳ cô gái nào trong suốt 120 năm của cuộc đời. Vì thế khi được ra tù, tôi muốn có một người phụ nữ ở bên cạnh mình để bù đắp cho những tháng ngày tù tội của tôi. Tôi nghĩ rằng mình không quá già để có nguyện vọng như thế”, ông Goolley nói.

Những người trong gia đình của ông Goolley như bố mẹ và anh chị em đều đã chết trong chiến tranh thế giới thứ nhất, vì thế khi ra tù, người đàn ông này phải sống một mình. Biết được hoàn cảnh đặc biệt của ông, chính quyền địa phương nơi Goolley từng sinh sống có ý định đưa ông vào trại dưỡng lão, tuy nhiên ông từ chối. Giải thích lý do, Goolley cho biết ông muốn một cuộc sống tự do tự tại, không theo quy định hay khuôn khổ nào nữa. Ông Goolley cũng bày tỏ rằng, chỉ sống tự do thì ông mới có thể thực hiện được những ước muốn trên của mình.

S.T.

Lý Quang Diệu: Tại sao nên đầu tư cho Tiếng Anh

Lý Quang Diệu: Tại sao nên đầu tư cho Tiếng Anh

Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.”

XEM BÃÂO - Khi Singapore giành Ãâðợc Ãâá»â¢c lập vào nÃÆm 1965, má»â¢t nhóm trong Phòng Thðáng Mại ngðá»Âi Hoa gặp tôi ÃâÃ¡Â»Æ vận Ãâá»â¢ng hành lang cho viá»â¡c chá»Ân tiếng Hoa làm quá»âc ngữ. Tôi nói vá»âºi há» rằng: Các ông phải bðá»âºc qua tôi trðá»âºc Ãâã.

SINGAPORE

Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn.

Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.

Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.

Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.

Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.

Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.

Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.

Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.

Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.

Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.

Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.

Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Tác giả: Lý Quang Diệu

MẨU BÁNH MỲ

MẨU BÁNH MỲ

Trong chiến tranh thế giới thứ hai có hai người tù Do Thái trốn thoát khỏi trại tập trung. Họ chạy thục mạng và quyết định chia làm hai ngả.
Người tù già nắm chặt tay người tù trẻ, đắn đo một lúc rồi nói:
“Này cháu, ta chỉ có một mẩu bánh mỳ, cháu hãy cầm lấy, ta già rồi, chịu đói được lâu hơn cháu. Nhưng cháu hãy hứa với ta rằng: chỉ khi nào cháu không còn một cách nào khác để có cái ăn thì cháu mới giở miếng bánh này ra. Trong rừng có nhiều thứ ăn được. Nếu đến chỗ có dân cháu có thể làm thuê kiếm miếng ăn. Đường từ đây về nhà còn xa lắm. Nếu trong túi vẫn còn một miếng bánh thì cháu vẫn còn có thể chịu đựng được mọi gian truân”
Người tù trẻ cảm động, hứa với ông già, nắm chặt lấy mẩu bánh mỳ rồi lao đầu chạy.

Ròng rã bao nhiêu ngày đêm anh nhằm hướng quê nhà mà chạy, khi thì phải lẩn lút trong rừng, khi thì băng cánh đồng. Anh hái quả rừng, lội suối tìm cá, khi gặp những người chăn cừu anh bẻ củi đến cho họ để nhận một bát sữa, hay một miếng thịt cừu thơm lừng.

Đã có lúc anh tưởng chừng không còn cách nào khác để có một miếng ăn. Để tránh né bọn Đức, anh lẩn lút qua đầm lầy, trong cái nóng hầm hập, xung quanh chỉ một màu xám xịt của lau sậy.
Không biết bao nhiêu lần anh rút mẩu bánh mỳ đã khô cứng như đá ra khỏi túi. Anh ngắm cái gói nhỏ gói bằng một miếng vải thô, quấn thật chặt và buộc bằng một sợi dây gai thắt nút. Cái gói chỉ bằng nửa miếng xà phòng, chắc mẩu bánh mỳ còn bé hơn. Song anh vẫn nuốt nước miếng, nghĩ đến vị bột ngọt ngào trên đầu lưởi, chắc là có chút ẩm mốc. Anh nhìn cái gói nhỏ rồi lại đút vào túi, bởi anh kinh hoàng nghĩ đến ngày mai, túi rỗng không mà đường thì còn xa lăng lắc.

Cứ thế anh đi ròng rã và cuối cùng cũng đến cái ngày anh ngã nhào vào tay người thân. Sau những phút vui sướng khóc cười, anh rút ra cái gói nhỏ đã bẩn thỉu hôi hám song vẫn được quấn rất chặt. Anh nói ” mẹ ơi, nhờ mẩu bánh này đây mà con thoát chết trở về”. Anh cảm động gỡ nút dây, mở lần vải bọc và sững sờ: đó chỉ là một miếng gỗ được gọt đẽo vuông vức như một mẩu bánh mỳ!

*Bài học kinh doanh:
Hãy luôn giữ cho mình 1 khoản tiền tiết kiệm, dù có tiêu hết những khoản tiền còn lại thì cũng không được dùng đến chúng. Hãy luôn nghĩ trong đầu, ta vẫn còn chúng thì ta không thể nào chết được. Và, ta phải tìm kiếm như thế nào để tạo ra được những đồng tiền tiếp theo.

*Bài học cuộc sống:
Tự tạo cho mình những mẩu bánh mì chứa đầy hi vọng và niềm tin. Sự khác biệt giữa thành công và thất bại chỉ trong gang tấc. Anh ấy thành công vì sự kiên định và có niềm hi vọng. Nếu nhụt chí, từ bỏ và mở gói bọc ra thì anh ta có lẽ sẽ chẳng bao giờ về đến nhà.

LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA

LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 626

Vào tối ngày thứ hai, 20.11.2006, khá đông Giáo Dân ở các Giáo Xứ lân cận đã đến Nhà Thờ Chí Hòa để tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một Linh Mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban ( Ảnh chụp ).

Chưa tới 19 giờ mà Giáo Xứ đã đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, Linh Mục Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.

Sôi nổi và sinh động nhất là phần chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho anh Đức Tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị Lương Y tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người Mẹ Hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc đời của anh.

Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống, không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những người thân quen.

Có một nhóm anh chị em Công Giáo đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến Nhà Thờ cầu nguyện; được Linh Mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới Nhà Thờ và xin ghi danh học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.

Nhưng đáng phục nhất là lời cầu nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con Đức Tin. Con muốn được ơn tin vào Chúa !” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm nhiều việc lành phúc đức. ( Theo VietCatholicNews, 22.11.2006 )

Hai năm sau, cơn bệnh tái phát, anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23.9.2008. Lm. An Mai, DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.

Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tuyển thợ làm vườn nho. Những người thợ được tuyển từ sáng sớm bất bình với chủ vườn, đã trả lương hậu hĩnh những người thợ vào làm chiều muộn. Thường lòng đố kỵ, ganh tương, ghen tỵ, hiềm khích luôn xuất hiện, khi thấy kẻ khác được trọng đãi, hay thành đạt, giàu có, giỏi giang hơn mình.

Tình Yêu Thiên Chúa nhân ái, bao dung, quảng đại vô bến bờ, tựa như vòng tròn bất biến vĩ đại bao phủ lên lý lẽ vuông vắn, sắc cạnh, nhỏ nhen, thấp kém của con người. Trong khi thiên hạ lại thường áp dụng cái lý lẽ phiến diện, hà khắc và bất định lồng ra bên ngoài cái tình cá nhân tủn mủn, hạn hẹp, tồi tệ.

Lý người

Lý lẽ, luật lệ, phong tục, tập quán đều là những quy ước của nhân gian dễ thay đổi, dễ biến dạng, thậm chí trái ngược nhau tùy theo dân tộc, thời gian và không gian. Nay hợp lệ, mai thành bất hợp lệ. Xưa cấm đoán việc này, nay xả láng cho tự do. Thế mà thiên hạ cứ cố chấp viện ra lý lẽ, luật lệ nhất thời mà vô tư lên án tha nhân, thoải mái đấu tố, hoặc ném đá vô tội vạ.

Bất bình, ganh tỵ, chấp nhất khi thấy người khác được ưu ái hơn mình, thành đạt hơn, tài giỏi hơn, nổi tiếng hơn, con người còn hay viện dẫn đến sự công bằng mơ hồ, do chính mình áp đặt, mà loại trừ đi tình người, sự thông cảm, bao dung, độ lượng. Thánh Phaolô đã tìm ra căn nguyên sự bất khoan dung: “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ?” ( 1 Cr 3, 3 ).

Con người thường nô lệ vào bản ngã, cái tôi ích kỷ, nên tầm nhìn lý lẽ, quan niệm, suy xét chỉ quanh quẩn bảo vệ, quy hướng lợi ích phục vụ cho chính mình. Do vậy, các lý lẽ, nhận xét, phê phán thường khó tránh khỏi chủ quan, lệch lạc, phiến diện. Chính vì thế, có sự khác biệt tương phản, sâu xa, rõ ràng giữa phàm nhân với Thiên Chúa, như lời khẳng định của Ngôn Sứ Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối Ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” ( Is 55, 8 – 9 ).

Tình Chúa

Thiên Chúa dào dạt yêu thương tạo vật, con người. Dù con người đã bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, đã ban Con Một nhập thể cứu chuộc nhân loại. Tình Yêu Thiên Chúa vượt xa giới hạn lý luận của con người. Khi bỏ lại 99 con chiên, đi tìm một con chiên lạc mất, Ngài đã bất chấp sự khôn ngoan trần thế, vượt qua lý luận toán học, vượt qua sự tính toán nhỏ mọn, hơn thiệt của con người, chỉ vì Tình Yêu.

Thánh Phaolô đã lý giải sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn, để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” ( 1 Cr 1, 28 – 29 )

Khi tha thứ cho người tử tội cùng chịu đóng đinh, Đức Giêsu chẳng hề tra hỏi về quá khứ, chẳng hề tính toán bao nhiêu lần vấp phạm. Người quên hết mọi tội lỗi chồng chất, khi phạm nhân biết sám hối, biết trở về Lòng Thương Xót. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng !” ( Lc 23, 43 ).

Khi trả công cho những người thợ giờ thứ 11, Chủ Vườn chẳng tính toán hơn thiệt, làm được nhiều hay ít, mà căn cứ vào tấm lòng chân thành, thiện chí, mà hoan hỷ trả công.

Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người. ( Đường Hy Vọng, số 304 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến tha nhân, dù họ đức độ, tài năng giỏi giang, giàu có hơn chúng con. Xin cất đi khỏi lòng chúng con sự tỵ hiềm, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, mà biết sống hòa đồng, chan hòa yêu thương, cùng biết cảm tạ Chúa đã ban cho họ và cho chúng con biết bao hồng ân, nhất là được biết Chúa, tin Chúa và theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương khiêm nhường và nhân ái, xin dạy chúng con luôn biết quan tâm, gần gũi, hòa nhã với tất cả mọi người, kể cả những người trổi vượt hơn chúng con nhiều mặt, để chúng con xứng đáng làm con Chúa. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN