H.O. và sự hãnh diện của thế hệ hậu duệ

H.O. và sự hãnh diện của thế hệ hậu duệ

Nguoi-viet.com

Thái Đinh & Thiện Giao

10 tháng 8, 1990 là “ngày đổi đời” của chàng thanh niên Lê Nguyên Phương.

Lê Nguyên Phương sinh năm 1962, đặt chân xuống nước Mỹ theo diện H.O. ngày 10 tháng 8, 1990, ở tuổi 28. Với $5 trong túi, ý nghĩ trong đầu ngày ấy vẫn còn nguyên vẹn sau hơn 20 năm: “Ði, và sẽ trở về, để thay đổi đất nước.”

Ngày 15 tháng 3, 1991, một chuyến bay khác, mang theo cậu bé Trần Ngọc Quỳnh 17 tuổi sang Mỹ, cũng theo diện H.O.

Quỳnh bắt đầu “ngày đổi đời” trong một tâm trạng không như Lê Nguyên Phương. Những ngày đầu, thiếu niên Trần Ngọc Quỳnh “sợ xuống Bolsa, sợ đi chợ bằng foodstamp, và sợ bị gọi là ‘con H.O.’”

Lê Nguyên Phương và Trần Ngọc Quỳnh mang hoàn cảnh tương tự hàng trăm ngàn thanh, thiếu niên H.O. khác, đại diện cho lớp tuổi trẻ con em tầng lớp tinh hoa một thời của Việt Nam. Ở độ tuổi vừa bước vào đời, mọi cơ hội khai mở trí tuệ của họ bị đóng kín. Họ là “con Ngụy.” Cha, mẹ họ ở tù Cộng Sản. Và họ phải “gánh” trên vai những khó khăn mà thế hệ đồng trang lứa không phải gánh chịu.

Chương trình H.O. ra đời năm 1989, theo lời một trong những người tham gia vận động chính giới Hoa Kỳ, “là kỷ niệm vui và niềm an ủi lớn nhất, được nhìn thấy anh em cựu tù nhân và con cái đến được bến bờ tự do, làm lại cuộc đời bị đổ vỡ sau chiến tranh, tìm lại được đời sống xứng đáng trong tự do và nhân phẩm sau khi họ chấp nhận rời bỏ quê hương thân yêu mà họ từng hy sinh chiến đấu để gìn giữ từng tấc đất.”
Chương Trình H.O.

Chương Trình H.O. là cuộc vận động dài hơi, và là “giai đoạn chót của quá trình vận động đòi tự do cho tù nhân chính trị Việt Nam.” Theo lời bà Khúc Minh Thơ, người sáng lập Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.



Bà Khúc Minh Thơ, một trong những người đầu tiên vận động cho chương trình H.O.: “Tôi thấy vui khi thấy những người cựu tù tìm lại được đời sống xứng đáng trong tự do và nhân phẩm.” (Hình: Hà Giang)

Bà Khúc Minh Thơ kể lại những ngày đầu vận động: “Ngay từ lúc hội bắt đầu hoạt động, chúng tôi nhận được đáp ứng tích cực của cộng đồng, qua ‘Bữa Cơm Ðồng Tâm’ tổ chức tại Washington D.C. Cũng trong thời điểm này, qua sự liên hệ và hỗ trợ của Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị, Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị được thành lập gồm bốn khu hội đầu tiên là Houston, Nam California, Bắc California và Dallas. Ông Huỳnh Công Ánh là người lãnh đạo tổ chức này.”

Từ đó, Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị và Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị sát cánh với nhau trong các sinh hoạt và vận động tranh đấu cho tù nhân chính trị ở Việt Nam.

Ðến tháng 10, 2008, các nhân vật, gồm bà Khúc Minh Thơ, ông Huỳnh Công Ánh, ông Nguyễn Văn Sang và ông Thái Hóa Lộc quyết định tổ chức “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.” Sự kiện này nhằm ghi lại con đường đã đi qua của chương trình H.O. và khép lại hoạt động của Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị.

Nhắc đến chương trình H.O., vốn bắt đầu vào giai đoạn Tổng Thống Ronald Reagan lãnh đạo Tòa Bạch Ốc, không thể không kể đến cuộc vận động với chính giới Hoa Kỳ, trong đó có các nhân vật tối quan trọng, là Nghị Sĩ John McCain và Nghị Sĩ Edward Kennedy.

Bà Khúc Minh Thơ kể lại, cuộc vận động tại Quốc Hội cần có sự hỗ trợ của cả hai đảng, Cộng Hòa và Dân Chủ, của cả hai viện, Thượng Viện và Hạ Viện. “Tại Thượng Viện, Nghị Sĩ John McCain (Cộng Hòa) và Nghị Sĩ Edward Kennedy (Dân Chủ) tích cực hậu thuẫn. Ở Hạ Viện, có Dân Biểu Stephen Solarz (Dân Chủ) và Dân Biểu Frank Wolf (Cộng Hòa).”

“Về phía hành pháp, người giúp đỡ nhiều nhất là ông Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng Ngoại Giao đặc trách về người tị nạn trên thế giới, đồng thời là người đại diện Tổng Thống Ronald Reagan thương thảo với chính quyền Hà Nội về tù nhân chính trị Việt Nam. Một người khác nữa là ông Shep Lowman, lúc bấy giờ là giám đốc Văn Phòng Việt-Miên-Lào, cũng tận tình giúp đỡ. Không có những trợ giúp này, thật khó mà có thỏa hiệp ngày 30 tháng 7, 1989.”

Chương trình H.O. bắt đầu từ đấy, cũng là thời điểm, theo tâm sự của bà Khúc Minh Thơ, thấy những người cựu tù tìm lại được đời sống xứng đáng trong tự do và nhân phẩm, và “con cái họ bắt đầu có cơ hội học hành để phát triển tài năng và có nghề nghiệp ổn định.”
Lê Nguyên Phương: “Tác động để chuyển hóa”

Lê Nguyên Phương là một trong những người con thuộc thế hệ ấy.

Kinh nghiệm cuộc sống những năm sau 1975 góp phần tạo nên ý thức dấn thân của một Lê Nguyên Phương sau này.



Tiến Sĩ Lê Nguyên Phương trong một lớp tập huấn về chánh niệm trong Ðiều Trị Tâm Lý. (Hình: Lê Nguyên Phương cung cấp)

Gốc Huế, xuất thân trong một đình nhà giáo, cuộc đời Lê Nguyên Phương thay đổi khi bước vào tuổi 13, ngày Sài Gòn sụp đổ. Thân phụ anh là nhà giáo, nhà báo Huy Phương, đi tù Cộng Sản hết bảy năm rưỡi. Lê Nguyên Phương ra đời rất sớm.

“Tôi đi làm từ năm 15 tuổi. Từng bán báo, đi bán thuốc tây chợ trời, làm thợ nhôm, thợ chụp hình,” Phương kể lại.

Gia đình lúc đó rất nghèo. “Tôi chỉ có một cái quần jean, loại quần phụ nữ, được người dì sửa lại. Mặc đi học sáu ngày mỗi tuần, đến Chủ Nhật mang giặt. Nếu Chủ Nhật mưa, quần không khô kịp, thì Thứ Hai… nghỉ học,” Lê Nguyên Phương kể, và cười ngất. “Nhưng tôi không mặc cảm. Ngược lại, tôi tự nhủ cần phải học giỏi, nhất là giỏi hơn con cán bộ, để tự hào là con sĩ quan chế độ cũ.”

Tới 18 tuổi, đến kỳ thi tốt nghiệp trung học, Lê Nguyên Phương bị nhà trường cấm thi, lý do: Nghỉ 64 ngày trong một năm trong khi luật của trường cho phép nghỉ tối đa 60 ngày. “Tôi biết tôi chỉ nghỉ có 24 ngày nhưng cô giáo chủ nhiệm và bà hiệu trưởng đã tự sửa lại thành 64 để tôi bị cấm thi. Ban giám hiệu và cô giáo nghi tôi ‘phản động,’ qua các phát biểu của tôi.”

Phải đợi đến năm năm sau, Lê Nguyên Phương mới lấy được bằng trung học, thông qua một kỳ thi “Bổ Túc Văn Hóa.”

Bước chân đến Hoa Kỳ, Phương vừa đi học vừa đi làm, có thời gian một ngày làm đến 3 “jobs.” Anh đi cắt cỏ, bán xe, làm assembler, đưa cơm, courier, thông dịch viên… Phương kể lại, “Ai cũng khuyên tôi qua Mỹ đã lớn tuổi, tiếng Anh làm sao bằng trẻ sinh ra ở đây, nên đi cắt cỏ, học Ðông y, hay có giỏi thì đi học sửa computer. Nhưng bao năm ở Việt Nam tôi đã không được đi học, nay qua Mỹ thì phải sống cho ước mơ của mình chứ.” Anh trở lại trường!

Năm 1999, anh tốt nghiệp Cử Nhân Tâm Lý tại đại học California State University, Fullerton; năm 2002 lấy bằng cao học Tâm Lý Giáo Dục tại California State University, Long Beach; rồi bảy năm sau lấy bằng Tiến Sĩ Giáo Dục tại đại học University of Southern California.

Ngành học và con đường đi học không phải là một tình cờ với người thanh niên này. “Hãy nhìn lại Việt Nam trong thời gian qua. Khi một quốc gia toàn trị bắt đầu mở cửa hội nhập với thế giới, đầu tiên họ sẽ chào mời giới khoa học kỹ thuật, rồi đến kinh tế. Sau cùng mới đến giới khoa học xã hội và nhân văn. Từ lúc rời Việt Nam, tôi biết sẽ không ‘về’ kịp các đợt đầu tiên nên đã chọn học ngành tâm lý giáo dục, đó cũng là ngành tôi yêu thích.” Anh chọn ngành khoa học xã hội này với tâm nguyện “tác động để chuyển hóa xã hội và đất nước.”

Từ năm 2009 đến nay, Tiến Sĩ Lê Nguyên Phương thực hiện nhiều chuyến trở về Việt Nam cùng các bạn là giáo sư và khoa trưởng từ nhiều đại học Hoa Kỳ – Cal State Long Beach, Chapman University, Loyola Marymount, Humboldt State University, the Chicago School of Professional Psychology… với mục tiêu xây dựng ngành và nghề Tâm Lý Học Ðường. Tổ chức do anh sáng lập với các bạn Hoa Kỳ, “Consortium to Advance School Psychology – International,” hiện có tám thành viên đại học Hoa Kỳ và sáu thành viên đại học Việt Nam.

Trong hội nghị và sau đó là lễ ký kết thành lập tổ chức này tại Việt Nam, đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, ông Michael Michalak, đã đến tham dự và phát biểu: “Các anh chị đã đề ra kế hoạch, và ý tưởng tổ chức hội nghị này để đáp ứng với nhu cầu của hệ thống giáo dục [của Việt Nam] và trong đời sống của các em học sinh. Ở đây không ai bảo các anh chị phải làm, nhưng các anh chị tự thân muốn làm để cải thiện chất lượng đời sống của học sinh ở Việt Nam. Tôi ca ngợi anh chị đã sáng tạo và chủ động, vì đây là những hành động [tiêu biểu] của một xã hội hiện đại tôn trọng và quan tâm lẫn nhau, và tôi ủng hộ nỗ lực của các anh chị. Các anh chị đang làm một việc quan trọng tại đây.”

Trong 5 năm hoạt động, tổ chức của anh đã thực hiện bốn kỳ hội thảo quốc tế, năm khóa tập huấn, nhiều công trình nghiên cứu, và hiện đang xây dựng chương trình đào tạo ngành Tâm Lý Học Ðường cho bốn đại học tại Việt Nam. Vì những hoạt động này, anh nhận được giải thưởng Outstanding International School Psychology Practice của hiệp hội International School Psychology Association năm 2011. Và gần đây nhất, năm 2014, anh nhận tài trợ của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để về làm việc một tháng với Ðại Học Sư Phạm Huế trong tư cách chuyên gia Fulbright.

Tâm Lý Học Ðường là chuyên môn và là đam mê của Lê Nguyên Phương. Có thể nói, anh là người góp phần xây dựng những bước đầu của ngành này cho Việt Nam, chuyên ngành mà theo anh “rất quan trọng cho đời sống tâm lý và học tập của học sinh” vì nó chủ động, “phòng ngừa và can thiệp cho trẻ em-thanh thiếu niên trong các lãnh vực nhận thức, học tập, hành vi, cảm xúc hoặc xã hội trong môi trường học đường, gia đình và cộng đồng.” Tâm Lý Học Ðường vì vậy, theo anh, không phải chỉ dành cho trẻ khuyết tật mà là dịch vụ giúp trẻ phát triển toàn diện để trở thành công dân độc lập, bản lãnh và hữu dụng cho một xã hội dân chủ và nhân bản.

Lê Nguyên Phương không phải là tên tuổi xa lạ với cộng đồng Việt Nam tại Nam
California. Trước đây anh tham gia trong nhiều hoạt động xã hội, văn hóa, truyền thông với các cơ quan như VAALA, đài phát thanh VNCR, RFA… Hiện anh là chuyên gia Tâm Lý Học Ðường cho Học Khu Long Beach và giảng dạy trong chương trình Cao Học ngành Tâm Lý và Tham Vấn Học Ðường tại Ðại Học Chapman.

Anh kết luận cho những công việc đang thực hiện hiện nay: “Từ đầu đến cuối, tôi vẫn là người Việt Nam, mang văn hóa Việt Nam, sống và làm việc vì Việt Nam. Có người chọn công việc diệt cỏ dại, tôi đi trồng hoa. Mỗi học sinh được phát triển hài hòa toàn diện sẽ là đóa hoa trong vườn hoa Việt Nam tương lai.”
Trần Ngọc Quỳnh và ước mơ “được thấy quá khứ”

Trần Ngọc Quỳnh nhỏ hơn Lê Nguyên Phương đúng… một con Giáp. Thân phụ Quỳnh là nhà giáo nổi tiếng ở Quảng Nam, ông Trần Huỳnh Mính, nguyên hiệu trưởng Trung Học Trần Quý Cáp, Hội An.



Nha Sĩ Trần Ngọc Quỳnh tại phòng mạch của mình tại Nam California. (Hình: Trần Ngọc Quỳnh cung cấp)

Thân phụ Quỳnh đi tù Cộng Sản khi anh vừa tròn… một tuổi. Ý thức non nớt của đứa trẻ mới lớn những năm giao thời sau 1975 không để lại điều gì quá rõ nét nơi Trần Ngọc Quỳnh. Nhưng anh có thể “cảm” được những điều bất ổn, và cả những âu lo.

“Có một lần ở nhà, thấy ông nội lấy một tấm hình của bác, là anh của ba, lồng vào khung rồi để lên bàn thờ. Lúc ấy bác đang ở tù, năm đó là năm 1979. Còn nhỏ, không hiểu hết chuyện, nhưng biết là bác mất, lòng buồn lắm,” Quỳnh kể lại.

Quỳnh thăm cha trong tù lần đầu tiên khi anh mới ngoài… một tuổi. “Ông nội dắt đi.” Anh kể. Tôi nhớ “tù và thân nhân ngồi hai bên dãy bàn. Tôi còn nhỏ, chạy lăng quăng sang phía cha. Thế là ba bị quản giáo la một trận dữ lắm.”

Hội An, quê hương của Quỳnh, là một thành phố đặc biệt. Thành phố này đa số dân là công chức trước 1975. Do đó, sau 1975 nhiều người đi tù cải tạo. “Cứ đầu tháng, các cô, các dì có chồng đi tù lại tụ tập về nhà Quỳnh, để sáng hôm sau cùng mẹ đi thăm nuôi chồng. Ði mấy tiếng đồng hồ đến nơi, thăm được mấy tiếng thì về. Về là lại lo cho chuyến thăm tháng sau.”

Cuộc sống của người ở nhà cũng đã thay đổi. “Có sự kỳ thị,” Quỳnh kể. “Cứ họp tổ dân phố, họ lại mang chuyện gia đình mình ra nói. Có khi chuyện chẳng đáng gì cả. Ăn gì, mặc gì. Người khác thì không sao, nhưng mình thì bị mang ra nói.”

Rồi vào một buổi trưa, cánh cửa nhà mở toang ra, ba bước vào. Ba về! “Ba đi tù khi tôi một tuổi, ba về lúc tôi năm tuổi. Tôi phải bắt đầu “làm quen” với ba, và ngược lại.” Trong hoàn cảnh như thế, Quỳnh nói rằng anh “kính ba, nhưng gần mẹ.”

Gia đình Trần Ngọc Quỳnh là một gia đình lớn tại thành phố Hội An. Những xáo trộn thời cuộc sau 1975, cho đến quyết định đi H.O. năm 1991 tạo cho cha mẹ anh nhiều băn khoăn. “Trước 1975, gia đình có tư thế. Sau 1975, sụp đổ hoàn toàn. Ðến khi ba đi tù về, bắt đầu gượng trở lại. Ði sang Mỹ lại một lần nữa bỏ hết tất cả để bắt đầu từ đầu.” Anh kể lại tâm trạng gia đình lúc ấy.

Sang đến Mỹ lại gặp một lối “kỳ thị” mới. Quỳnh cười phì, kể lại: “Bị kỳ thị là con cái H.O. Nhớ những ngày đầu đi học, tụi trong lớp nói, ‘Thấy thằng nào khù khờ thì biết thằng đó là con H.O.’”

Quỳnh không thoải mái đến trường. Quỳnh sợ cả việc phải “xuống Bolsa,” sợ đi chợ, sợ dùng foodstamps. “Có những lúc, lòng đã định sẽ đi lính hoặc đi làm, vì đó là cách tốt nhất để lấy lại sự tự tin.”

Có lẽ đó là cách suy nghĩ của đứa trẻ mới lớn. Sự tự tin vô hình sau lưng Quỳnh chính là ba, mẹ của Quỳnh. Họ đứng phía sau, thúc đẩy việc học hành.

Quỳnh vào đại học USC, tốt nghiệp ngành Nha Khoa, đi làm và nay đã có một phòng nha riêng của mình.

Nhưng Quỳnh không thuộc hạng chỉ biết đi làm kiếm tiền. Lớn lên trong một gia đình nền nếp, anh biết dung hòa nền văn hóa rất Mỹ của mình với những suy nghĩ rất Việt Nam của thân, phụ mẫu. Và anh biết anh hãnh diện như thế nào về nguồn gốc mình.

“Trái cây có rụng thì rụng gần gốc,” Quỳnh nói. “Ông nội ngày xưa làm Hồng Thập Tự. Ðến ba mẹ làm từ thiện, nay tôi cũng học theo, làm một cách tự nhiên.” Quỳnh tham gia tổ chức từ thiện SAP-VN, giúp xem hồ sơ cho các gia đình nghèo Mexico để giúp họ được hưởng Medical. Mỗi tuần anh bỏ ra vài giờ làm miễn phí cho một số bệnh nhân nghèo.

Quỳnh kể, có lần anh làm răng cho một cựu chiến binh Mỹ từng bị bỏng nặng tại phi trường Ðà Nẵng trong chiến tranh Việt Nam. Khi xong, anh nói với người cựu chiến binh rằng anh xin phép không nhận tiền của ông. Quỳnh nói với người cựu binh, “Ông đã hy sinh thân thể trong một cuộc chiến không phải tại đất nước ông. Tôi chỉ xin làm một nghĩa cử rất nhỏ, để cám ơn ông.”

Quỳnh có một ước mơ và một niềm hãnh diện.

Ước mơ của anh là được nhìn thấy quá khứ, cái quá khứ cả trước lúc anh sinh ra, để “được biết rõ ngày xưa, trước 1975, cha ông mình đã sống ra sao, đã làm việc ra sao, và tư thế như thế nào.”

Còn niềm hãnh diện, “Ngày xưa ngại chữ H.O. Nay thì hãnh diện, rất hãnh diện là con H.O.”


Hai chữ HO không phải là viết tắt của “Humanitarian Operation,” cũng không phải là “mã số” của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Sau khi thỏa hiệp về việc di cư cựu tù nhân chính trị Việt Nam được ký ngày 30 tháng 7, 1989, tại Hà Nội, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chuẩn bị thi hành và nhận hồ sơ từ Việt Nam gửi sang với danh sách đầu tiên là H. O1. Khi ấy, những người vận động chương trình H.O. hỏi Văn Phòng Ðặc Trách người tị nạn thì được cho biết “mã số H.O.” là của Việt Nam chứ không phải của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Các bản văn chính thức của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi nói đến chương trình này vẫn gọi là “Subprogram Vietnamese political prisoners,” hay “Former Re-Education Center Detainees.”

Khúc Minh Thơ

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28

Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).

Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)

Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.

Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.

Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này :

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.

Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.

Vì sao thế ? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.

Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.

Linh mục chủ tế hỏi ta  Ðể sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Ðể khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?

Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa : Thưa từ bỏ.

Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.

Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là “thủ lãnh thế gian này” (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.

Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.

Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.

Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.

Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.

Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.

Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!”

Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”.

Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).

Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài : “Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ” (1Ga 3,8).

Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.

Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.

Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.

Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.

Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.

Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói : “Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm”. Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.

Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc … là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.

Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.

Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay : Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.

Huệ Minh

Tác giả: Huệ Minh

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Binh sĩ đứng gác trước biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam trong lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập tại Hà Nội, ngày 2/2/2015.

Binh sĩ đứng gác trước biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam trong lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập tại Hà Nội, ngày 2/2/2015.

VOA Tiếng Việt

03.02.2015

Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, trong bối cảnh có nhiều tiếng nói kêu gọi “đa nguyên, đa đảng” và “cạnh tranh bình đẳng”.

Phát biểu tại Hà Nội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới điều mà ông gọi là “những kỳ tích” của Đảng trong thế kỷ XX và là “bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam”.

Ông cũng cho rằng, hiện nay, “ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng, nạn tham nhũng là vấn đề sống còn của chế độ”.

Blogger Lã Việt Dũng, người khởi xướng phong trào “Tôi không thích Đảng cộng sản” ở Việt Nam, nói với VOA Việt Ngữ rằng, ngày 3/2 từ lâu không còn ý nghĩ gì với nhiều người dân. Ông nói:

Blogger Lã Việt Dũng, người khởi xướng phong trào ‘Tôi không thích Đảng cộng sản’

“Nói thật là tôi thấy nó chỉ là một cái trò kịch cỡm trên truyền hình, khi mà người ta quá giả dối và người ta nói về những thành tựu mà đảng Cộng sản làm ra. Nhưng mà thực trạng xã hội như thế nào thì toàn dân đều biết. Dân ngày càng nghèo hơn, tham nhũng thì tràn lan mà chủ quyền quốc gia ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng.”

Ông Dũng cho rằng đảng luôn tìm cách “duy trì chế độ độc tài, độc đảng và bảo vệ sự tồn vong của đảng hơn là sự tồn vong của dân tộc”.

Trong khi đó, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói tới việc “nhiều thế lực tìm mọi cách phá hoại Việt Nam bằng thông tin xuyên tạc, vu cáo đảng, nhà nước, kích động chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước”.

“ Tôi thấy chỉ là một trò kịch cỡm trên truyền hình, khi mà người ta quá giả dối và người ta nói về những thành tựu mà đảng Cộng sản làm ra. Nhưng mà thực trạng xã hội như thế nào thì toàn dân đều biết. Dân ngày càng nghèo hơn, tham nhũng thì tràn lan mà chủ quyền quốc gia ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng.

Blogger Lã Việt Dũng.”

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến từng bị cầm tù, cho rằng tất cả những thách thức đối với Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm gần đây “là hậu họa tồn dư lại của những đường lối sai lầm từ quá khứ”.

Ông Giang nói với VOA Việt Ngữ rằng để “sửa đổi được lỗi hệ thống thì phải thay đổi chế độ chính trị”.

“Hậu quả dẫn tới những bế tắc mà hiện bây giờ nhiều cái không có thể gỡ ra được, từ những cái lớn như tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế như thế nào để giữ lấy sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, cho đến việc chống tham nhũng, phát triển kinh tế để ngăn trở sự tụt hậu của đất nước, thì những cái đó đều do sai lầm ở tầm cỡ lớn, sai lầm ở cỡ đường lối, chính sách, chủ trương, chứ không chỉ là sai lầm ở bên thực thi của nhà nước hay là của chính phủ mà là sai lầm ở chủ trương, đường lối. Như vậy, muốn chữa được cái đó, muốn chống lại sự tan rã và sự rối loạn xã hội thì phải sửa đường lối chủ trương, tức là phải nhận thức được yêu cầu cốt lõi là phải thay đổi chế độ chính trị, chứ không thể nói như Nguyễn Phú Trọng là giữ nguyên bản chất, chế độ chính trị mà có thể vượt qua được nguy cơ của sự sụp đổ”.

Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tháng trước, ông Trọng nói rằng “đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của đảng, nhà nước mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia”.

Khi được hỏi về ý kiến của nhiều quan chức trong nước cho rằng đa đảng sẽ đồng nghĩa với bất ổn xã hội, blogger Lã Việt Dũng nói rằng ông không nghĩ như vậy.

Ông Dũng nói thêm rằng nếu muốn tồn tại thì Đảng Cộng sản Việt Nam “phải chấp nhận đa nguyên, đa đảng, cạnh tranh bình đẳng với các đảng phái khác”.

“ Muốn chống lại sự tan rã và sự rối loạn xã hội thì phải sửa đường lối chủ trương, tức là phải nhận thức được yêu cầu cốt lõi là phải thay đổi chế độ chính trị, chứ không thể nói như Nguyễn Phú Trọng là giữ nguyên bản chất, chế độ chính trị mà có thể vượt qua được nguy cơ của sự sụp đổ.

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang.”

2015 được coi là năm bản lề cho Đảng cộng sản Việt Nam vì đầu năm sau sẽ diễn ra Đại hội đảng lần thứ 12 với việc bầu chọn ban lãnh đạo cấp cao nhất cho nhiệm kỳ mới.

Tờ Hoàn cầu Thời báo của đảng Cộng sản Trung quốc mới đây đưa ra nhận định cho rằng 2015 sẽ là “một năm sống còn cho cuộc chơi ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam”, và rằng trong năm nay, Trung Quốc “sẽ phải đối mặt với một tình thế còn căng thẳng hơn so với năm 2014” từ Việt Nam.

Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, Đảng cộng sản Trung Quốc cũng gửi điện chúc mừng tới phía Việt Nam. Theo Tân Hoa Xã, phía Trung Quốc “sẵn sàng làm việc với Việt Nam để thúc đẩy hợp tác chiến lược đi đúng hướng”.

Cũng theo hãng tin này, Trung Quốc đã bày tỏ sự tin tưởng rằng phía Việt Nam “sẽ thực hiện được các mục tiêu cải cách và tiến hành Đại hội đảng 12 với thành công lớn hơn nữa”.

Trong khi đó, hãng tin KCNA của Bắc Hàn cho biết Chủ tịch nước này, ông Kim Jong Un, cũng đã gửi lời chúc mừng tới ông Nguyễn Phú Trọng nhân 85 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Houston, nơi ‘đất lành chim đậu’

Houston, nơi ‘đất lành chim đậu’

Nguoi-viet.com

Từ downtown đến Bellaire và sự lớn mạnh của cộng đồng Việt


Bài và hình: Khôi Nguyên & Ðông Nguyễn

HOUSTON, Texas Trần Hùng, có thể là người đàn ông hạnh phúc nhất mà chúng tôi gặp trong chuyến đến thăm Houston, thành phố phía Nam tiểu bang Texas. Trong buổi tham dự thánh lễ ở giáo xứ Ðức Mẹ La Vang vào ngày Thứ Bảy, bên người vợ trẻ cùng với cô con gái hai tuổi, gương mặt anh luôn nở nụ cười mãn nguyện.



Tượng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ và tượng đài Thuyền Nhân trên đường Bellaire, nơi thường diễn các sinh hoạt chính trị của người Việt Houston.

Ít ai biết, bảy năm trước, khi còn ở San Jose, miền Bắc California, Trần Hùng vốn là một thợ lắp ráp điện tử, dù chăm chỉ làm việc và sống tằn tiện trong suốt 14 năm, mơ ước của anh là có một căn nhà nhỏ để lấy vợ, lập gia đình, vẫn cứ xa vời vợi.

Theo lời Trần Hùng, “Nhà cửa ở San Jose khi đó đắt đỏ quá, giá nhà trung bình sáu, bảy trăm ngàn một căn, mà lương mình làm thợ, biết bao giờ mới có cái che trên đầu, không lẽ suốt cuộc đời cứ vạ vật với kiếp ‘share phòng.’”

Thế là, theo lời bạn bè rủ rê, Hùng qua Houston tìm việc thợ tiện. Chỉ khoảng 5 năm sau, anh làm đám cưới với Tiên Nguyễn, cô gái quê Bà Rịa-Vũng Tàu, và với vốn liếng dành dụm, anh mua được một căn nhà nhỏ ba phòng ngủ, hai phòng tắm, giá $140 ngàn làm tổ ấm cho gia đình.

Trần Hùng bộc bạch, “21 năm ở Mỹ, từ hai bàn tay trắng, dù mình làm thợ, thu nhập không cao, nay cũng đã có nhà cửa, vợ con như người ta, mà chắc chỉ có ở thành phố này mới làm được như thế.”

Nhưng, Hùng không phải là người duy nhất cảm thấy hài lòng với cuộc sống ở đây. Còn có cả một cộng đồng người Việt đông đảo, trên 100 ngàn người đang lớn mạnh từng ngày, tại địa phương này.


Con đường Milam khu downtown, một thời là nơi buôn bán sầm uất của người Việt Houston.

Houston, lời mời gọi hấp dẫn

Ai có dịp đến Houston vào những ngày cuối năm, lái xe ở khu vực Tây Nam thành phố trên con đường chính Bellaire, sẽ nhận thấy cảnh xây dựng 24/24 để biến con đường ngày xưa chỉ bốn làn xe nay thành sáu làn xe với các ngã tư là các trụ đèn đường đẹp đẽ.

Kế hoạch của thành phố đang muốn biến đại lộ tập trung hầu hết các cơ sở thương mại của người gốc Việt, gốc Hoa, gốc Nam Hàn, gốc Ấn Ðộ,… thành khu Asian Town sầm uất, như lời cựu nghị viên thành phố Houston, ông Hoàng Duy Hùng, khẳng định, “Texas, đặc biệt là Houston, đang trở thành vùng đất hấp dẫn bậc nhất với người Việt Nam ở Mỹ.”



Ông Hoàng Duy Hùng, cựu nghị viên thành phố Houston.

Lái xe trên đại lộ Bellaire ngày nay, người ta liên tưởng đến con đường Bolsa sầm uất của Little Saigon ở Quận Cam, miền Nam California, với hàng trăm cửa hàng và các khu thương mại nối liền san sát, mới mẻ, cung cấp mọi thứ hàng hóa, dịch vụ mà người Việt muốn tìm.

Theo lời ông Hoàng Duy Hùng, “Thống kê của thành phố cho thấy, số người gốc Việt ở Houston và vùng phụ cận khoảng 100 ngàn nhưng hiện nay, trên thực tế, đã vào khoảng 200 ngàn.”

Không giống Little Saigon ở Nam California, người Việt Houston sống ở ba khu vực chính, là Tây Bắc, Tây Nam, và Ðông Nam thành phố, một số khác chọn các thành phố nhỏ lân cận, nhưng đông đúc và sầm uất nhất vẫn là khu Tây Nam.

Khoảng 10 năm trở lại đây, người Việt ở nhiều tiểu bang khác, đặc biệt California, ùn ùn đổ về đây vì giá nhà rẻ, vật giá không đắt đỏ và công việc dễ tìm.



Khu thương mại Hồng Kông 4, nơi buôn bán sầm uất nhất của người Việt ở Houston.

Có một thực tế, ông Hùng phân tích, chỉ cần bán một căn nhà ở Nam hay Bắc California, người ta có thể mang số tiền đó sang Houston mua được từ hai đến ba căn nhà. Một căn để ở, các căn kia cho thuê. Vì thế, mỗi khi kinh tế California biến động thì Houston thường là nơi mà người Việt nghĩ đến đầu tiên.

Lời của ông cựu nghị viên thành phố được bà Jean Nga Dung Nguyễn, chủ nhân văn phòng địa ốc Alpha Realtor trên đường Beechnut, khẳng định, “Chưa bao giờ nhà ở Houston bán chạy như hai năm gần đây. Hồi trước, những căn nhà mới, rộng khoảng 2,000 sqf, ba phòng ngủ, hai phòng tắm, có thể mua được với giá khoảng $150 ngàn, nay muốn mua phải vào khoảng $200 ngàn.”



Một khu thương mại trên đường Bellaire, nơi có tiệm của hệ thống bánh mì nổi tiếng Lee’s Sandwiches.

Theo bà Nga Dung, nhà cửa “hot” đến mức mỗi ngày văn phòng của bà phải giải quyết khoảng 20 hồ sơ cả mua lẫn bán mà vẫn không phục vụ nổi nhu cầu của khách.

“Chỉ với tiền lương thu nhập khoảng $40-$50 ngàn/năm, một gia đình 4-5 người có thể mua được căn nhà rộng rãi và sống thoải mái,” bà Nga Dung nói về “tiêu chuẩn” để có thể sống ở thành phố này.

“Nhà rẻ, giá sinh hoạt rẻ, dễ tìm công việc. Ðó là ba yếu tố hấp dẫn, không chỉ đối với người Việt, mà cả với người Mỹ, khi họ tìm đến thành phố này.

Ông Hà Ngọc Cư, giám đốc Ðiều Hành văn phòng CISS, chuyên về di dân và tị nạn tại khu downtown, cho biết, “Từ năm 2005 đến nay, Houston có thêm 600 ngàn việc làm, với ba điểm mạnh về kinh tế là kỹ nghệ dầu hỏa, y khoa và xây dựng.”

Ngoài ba ngành trên, người Việt đến đây còn làm nhiều ngành nghề khác như đánh cá, mở tiệm ăn, làm móng tay, hớt tóc.

Thế nhưng ngoại trừ những thế mạnh ấy, thời tiết ở đây vốn không chiều lòng người, vì bị coi là “khắc nghiệt.”

Theo ông Hà Ngọc Cư, “Mùa Ðông nhiệt độ xuống âm độ F, nhưng mùa Hè, cái nóng lại hơn 100 độ F.” Người đàn ông tuổi gần 80 này bật cười lớn, “Tôi ở Mỹ gần 40 năm, nhận thấy rằng, ở đâu có công việc thì ở đó có ‘thời tiết’ và cuộc sống tốt nhất, đúng không?”



Con đường Bellaire đang được mở rộng thành sáu làn xe.

Houston, nhất là khu Tây Nam, đang trở nên hấp dẫn khiến nhiều người gốc Việt ùn ùn đổ về, không phải ngày một ngày hai, mà là cả một quá trình kéo dài suốt hơn 30 năm. Ðặc biệt trong 15 năm qua, khi các cơ sở thương mại của người gốc Việt làm một cuộc dịch chuyển lớn từ khu downtown thành phố về khu Tây Nam, mà sầm uất nhất là đại lộ Bellaire.

Downtown “một thời cực thịnh”

Ngay sau biến cố 30 tháng 4, 1975, khi những người Việt đầu tiên di tản đến Mỹ thì đã có người đặt chân đến Houston.

Ông Hà Ngọc Cư, người có mặt tại Houston vào thời điểm này, nhớ lại, “Những năm đầu, từ 1975 đến 1982, người Việt còn thưa thớt lắm. Cả khu downtown chỉ duy nhất có một tiệm bán… nước mắm, ngay cả một quả ớt, loại mà người Việt thích ăn cũng quý… như vàng.”



Tiệm chăm sóc da hiếm hoi của người Việt còn sót lại trong khu downtown Houston.

Nhưng mà phải đến sau 1982 thì khu vực này mới bắt đầu trở thành nơi tập trung các cơ sở thương mại gốc Việt. Khi ấy, cả thành phố có đâu chừng 10 ngàn người.

Bồi hồi nhớ về quá khứ, người đàn ông có gần 40 năm gắn bó với mảnh đất này cho hay, “Thời cực thịnh và sầm uất nhất của khu vực downtown là những năm đầu 1990. Khi đó chỉ trên con đường Milam không thôi đã có 20 cơ sở thương mại Việt Nam, gồm bốn nhà hàng, sáu văn phòng bác sĩ, nhiều văn phòng bán bảo hiểm, tiệm vàng và một ngôi chợ nhỏ.”

“Hoạt động thương mại của người Việt Nam và người Mỹ hòa quyện với nhau và có cảm giác là chúng ta đã hòa nhập hẳn vào dòng chính.”

Người Việt hàng ngày hàng tuần tụ tập về đây mua bán, sinh hoạt, nhộn nhịp đến nỗi một số đường nhỏ ở khu vực này được đặt cho những cái tên Việt, như Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo,… như là nơi chỉ dành riêng cho người Việt.

Nhưng, vẫn ông Hà Ngọc Cư, cho đến năm 1995, “tình hình hoàn toàn thay đổi.”

Chủ trương của thành phố Houston khi đó là muốn biến khu vực downtown thành một “night city” (phố đêm) mang tính quốc tế. Giá thuê nhà, văn phòng đột ngột tăng lên quá sức chịu đựng của các chủ tiệm người Việt cộng với việc khu vực này trở nên quá chật chội so với sự đông đúc của cộng đồng Việt Nam. Thế là người ta đi tìm vùng đất mới và khu vực Tây Nam thành phố.

Ngày nay, nếu đến downtown tìm lại dấu tích một thời của người Việt tại đây, cả khu vực chỉ còn lại khoảng 10 cơ sở thương mại và dịch vụ của người Việt, mà đáng kể nhất là tiệm phở mang tên Sài Gòn.

Ông Trần Phượng, chủ nhân phở Sài Gòn, người gốc Bình Ðịnh và vượt biên đến Mỹ năm 1983, nhớ lại, “Khi đó người Việt mình ùn ùn đổ về khu Tây Nam, nhưng tôi chọn ở lại. Bởi phở là món ăn khá phổ biến với người Mỹ, và tiệm của mình đang ổn định thì cố giữ, dù giá cho thuê cơ sở đắt hơn trước rất nhiều.”



Ông Trần Phượng, chủ nhân phở Sài Gòn.

“Tiệm sạch sẽ, phẩm chất ngon, và giá phải chăng là bí quyết thành công của Phở Sài Gòn.”


“Cho đến nay, sau gần 20 năm, tôi thấy quyết định ở lại downtown là đúng. Hồi đó, mỗi ngày phục vụ chừng 200 đến 300 khách, hiện nay con số ấy đã là 600, doanh thu mỗi tháng từ $90-$110 ngàn, nuôi được 14 nhân viên.”

Bellaire, vùng đất mới trù phú

Nhưng ông Trần Phương chỉ là người hiếm hoi ở lại, hầu hết chủ nhân gốc Việt đều chọn Bellaire “thẳng tiến” đến vùng đất mới với khẩu hiệu “Location, Location, Location.”

“Người Việt Nam mình tiến đến đâu, tụ tập và sống quây quần lại với nhau, thì chúng tôi đến đó.” Bà Văn Bạch Lan, chủ nhân nhà sách Phương My, lớn bậc nhất Houston, nằm trong khu thương mại Hong Kong 4, giải thích về lý do chuyển cơ sở kinh doanh từ downtown về Bellaire.



Một văn phòng nha sĩ của người Việt trên đường Bellaire, Tây Nam Houston.

“Khi người Việt mình mua đất và xây dựng khu thương mại Hong Kong 4 lớn như cái sân vận động thì chúng tôi nghĩ rằng, thế nào khu vực này cũng sẽ sầm uất.”

Ðúng theo dự đoán, Hong Kong 4 nhanh chóng trở thành khu thương mại lớn nhất của người Việt Nam tọa lạc trên đường Bellaire, con đường chính của khu Tây Nam. Người Việt ở đây hay gọi cả khu Tây Nam này bằng cái tên quen thuộc là “khu Bellaire” mỗi khi có các sinh hoạt văn hóa, chính trị, lễ Tết.

Theo lời bà Văn Bạch Lan, 20 năm qua, cộng đồng gốc Việt ở đây lớn mạnh rất nhanh, người dân khá giả hơn nhờ giá nhà rẻ, vật giá tiêu dùng không đắt, vì thế “người dân mình có đời sống tinh thần mà sách báo, băng đĩa nhạc, phim ảnh,… là nhu cầu tinh thần không thể thiếu.”

Nếu nói về đời sống tinh thần và văn hóa, chỉ riêng về truyền thông của người Việt thôi, Houston cũng quá đa dạng và phong phú với gần 10 chương trình truyền hình, vài chương trình phát thanh và cả chục tờ báo tuần.

“Quá nhanh, và ngoài sức tưởng tượng.” Ðó là mô tả của cô Amada Phương Nguyễn, chủ văn phòng A&N Insurance, chuyên về bảo hiểm và kế toán, về sự phát triển của “khu Bellaire” trong 15 năm qua.

Theo lời Amanda, người Việt từ nhiều nơi, mua nhà cửa, mua đất xây cơ sở thương mại. “Con đường Bellaire 15 năm trước còn vắng vẻ lắm, nhưng giờ đây gần như chật hết rồi.” Hồi xưa, các cơ sở dịch vụ nhiều nhưng dân ít. “Bây giờ dân nhiều lên và các cơ sở dịch vụ cũng nhiều lên.”



Khu thương mại Saigon Houston, được xây dựng cách đây chín năm.

Nhận xét của Amanada Phương Nguyễn tương tự ông Hà Ngọc Cư, “Cả khu Tây Nam, ngoài khu thương mại Hong Kong 4, có gần 10 cái chợ Việt Nam, mà mỗi chợ phục vụ khách hàng bằng những nét rất riêng rất khác nhau, tha hồ cho người Việt chọn lựa.”

“California có là Houston có”

Ðó là câu nói quen thuộc của nhiều người Việt ở Houston khi so sánh thành phố này với Little Saigon ở Nam California và San Jose miền Bắc California.

Cô Amada Phương Nguyễn nói vui, “Mình là phụ nữ mà, hồi xưa thấy Cali có đồ ăn gì mình cũng thèm, muốn ăn phải bay qua tận bên đó. Giờ ở đây cái gì cũng có, từ khô bò, chè, bánh mì, cơm tấm,… Houston giờ cũng nhộn nhịp không thua gì Cali rồi nhé.”

Theo Amanda, như thế để biết rằng, người Việt từ California chuyển qua đây sống rất nhiều và mang theo cả những dịch vụ, nhà hàng, món ăn từ “bển” qua.

Bánh mì Lee’s Sandwiches, Phở Gà Ða Kao, Giò Chả Nguyên Hương, Cơm Tấm Thuận Kiều, đến nhiều cái tên, bảng hiệu quen thuộc của California mà người ta có thể thấy trên phố Bellaire và nhiều con đường khác ở khu vực này.



Ông Hà Ngọc Cư, giám đốc điều hành văn phòng CISS.

“Houston không thiếu những người Việt là triệu phú. Nhưng thành quả nổi bật nhất là 20% trong số sinh viên gốc Việt tốt nghiệp đại học là theo ngành y khoa và dược khoa.”


Các tiệm cung cấp thiết bị cho các ngành nail, tóc, gởi hàng hóa, về Việt Nam, cũng y chang như ở California.

Không có con số chính xác, nhưng theo Amanda, khách hàng mua bảo hiểm, khai thuế ở văn phòng của cô rất nhiều người từ California.

Còn theo bà Nga Dung Nguyễn, người Việt từ California về càng đông, thì cơ sở thương mại mọc lên càng nhiều, và tác động của người Việt từ California sang Houston là “điều có thật.”



Bà Jane Nga Dung Nguyễn, chủ văn phòng địa ốc Alpha Reators.

“Tôi từng ở California, tất nhiên đó là nơi lý tưởng, nhưng nay thì Houston cũng chẳng kém cạnh gì, ngoài yếu tố thời tiết.”


Nói như bà Văn Bạch Lan, chủ nhân nhà sách Phương My, phần lớn nguồn cung cấp các sản phẩm băng đĩa, sách báo đều từ California sang, “Chúng tôi phụ thuộc vào nguồn hàng từ California rất nhiều.”



Bà Văn Bạch Lan, chủ nhân nhà sách Phương My.


“Thật không ngờ khu Bellaire phát triển nhanh như vậy. Ði vào Bellaire người ta sẽ nghĩ đi lạc vào Việt Nam, y chang như đi vào Little Saigon ở California.”


“Ðất lành chim đậu”

Không chỉ thương mại, mà cả lãnh vực những người có chuyên môn cao như bác sĩ, luật sư, kỹ sư, cũng từ California sang hành nghề và tìm kiếm cơ hội thăng tiến. Bác Sĩ Phan Gia Quang, hiện có phòng mạch tại Sugar Land, thành phố kế cận Houston, là một trong số này.

Tốt nghiệp y khoa năm 1992, sau đó học nội trú chuyên ngành tiêu hóa và gan thêm sáu năm, Bác Sĩ Phan Gia Quang hành nghề ở Quận Cam, California thêm 5 năm nữa rồi chuyển sang Houston.

“Như bao nhiêu người khác, tôi đến Houston để thực hiện giấc mơ của mình: Mở một phòng mạch riêng, chủ động về thời gian để chăm sóc gia đình và con cái. Người Việt đông hơn, nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng gia tăng, mà đây được coi là vùng đất ‘mới’ nên cũng dễ cho mình thăng tiến.” Bác Sĩ Phan Gia Quang bày tỏ về quyết định của mình cách đây 11 năm.

“Tôi thích ăn đồ ăn Việt Nam, mà ở đây thì quá nhiều, nên nơi nào sống với người Việt thì đó là nơi tôi thích nhất.”

Ðiều mà Bác Sĩ Phan Gia Quang hài lòng nhất sau hơn 10 năm ở Houston là “con người ở đây hiền hòa và rất tốt bụng.” Có lẽ vì thế mà ông “rủ rê” và tụ tập các đồng nghiệp gốc Việt lập nên Hội Y Khoa Việt Mỹ Houston, nơi sinh hoạt của khoảng 60-70 bác sĩ, ngoài lĩnh vực chuyên môn, còn làm nhiều công tác xã hội và cộng đồng.



Bác Sĩ Phan Gia Quang.

“Houston đang rất cần bác sĩ gia đình, chuyên khoa về nội tiết và truyền nhiễm.”


Người Việt ở Houston hiền hòa, tốt bụng được cựu Nghị Viên Hoàng Duy Hùng làm cho rõ nét hơn: “Cuộc sống người Việt ở đây thoải mái hơn các nơi khác về mưu sinh. Bằng chứng là các chương trình gây quỹ cho chùa, nhà thờ, các tổ chức từ thiện, văn hóa, con số quyên được luôn xấp xỉ hoặc hơn $100 ngàn là chuyện bình thường.”

Rõ nét hơn, như lời Hòa Thượng Thích Huyền Việt, phó chủ tịch Văn Phòng 2 Viện Hóa Ðạo, GHPGVNTN, trụ trì chùa Liên Hoa: “Người Việt ở Houston rất giàu lòng từ bi và nhân hậu, ý thức xây dựng cộng đồng rất cao.”



Hòa Thượng Thích Huyền Việt, trụ trì chùa Liên Hoa, tọa lạc tại khu Tây Nam Houston.

“Người Việt ở Houston rất giàu lòng tư bi và nhân hậu, ý thức xây dựng cộng đồng rất cao.”


“Có cả chục ngôi chùa, nhà thờ, cơ sở tôn giáo của người Việt ở thành phố này đều do đồng bào mình đóng góp, và chùa Liên Hoa của chúng tôi đang xây dựng cũng là nhờ lòng hảo tâm của đồng hương Phật tử góp tay cùng làm.”

“Houston mà miền đất lành!” Hòa Thượng Huyền Việt kết luận sau câu chuyện rất dài về công cuộc xây dựng chùa Liên Hoa, cũng như sự phát triển của Phật Giáo tại đây trong gần 40 năm.

Mà “đất lành” thì chắc chắn là hàng trăm ngàn “cánh chim” di cư như người Việt Nam rời quê hương đã và đang tìm đến thành phố này.

85 năm tồn tại của đảng cộng sản Việt nam, hiện tại và tương lai!

85 năm tồn tại của đảng cộng sản Việt nam, hiện tại và tương lai!

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-02-02

02022015-85y-existenc-pcvn-zzz.mp3

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 10

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 10

AFP

Your browser does not support the audio element.

Đảng cộng sản Việt nam kỷ niệm 85 năm thành lập. Đọc diễn văn nhân dịp này, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định rằng Đảng cộng sản Việt nam vẫn kiên trì theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và tính giai cấp công nông. Sau đây là nhận xét của một số nhà quan sát trong và ngoài nước về hiện trạng cầm quyền của đảng cộng sản Việt nam hiện nay và tương lai sắp tới của nó.

Trong diễn văn chào mừng ngày thành lập đảng cộng sản, ông Nguyễn Phú Trọng một mặt nói rằng đảng của ông có truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân, mặt khác ông nói là cần phải tăng cường mối liên hệ với nhân dân để đủ sức lãnh đạo sự phát triển của đất nước.

Ông Trọng nói thêm là hiện nay ở Việt nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài đảng cộng sản, và đảng cộng sản đã rút nhiều kinh nghiệm trong suốt 85 năm tồn tại của mình để lãnh đạo dân tộc vững bước đi lến chủ nghĩa xã hội.

Hiện trạng của đảng cộng sản Việt nam

Bình luận về những lời nói của ông Nguyễn Phú Trọng, Ông Nguyễn Minh Cần, cựu đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Việt nam từ cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, hiện sống ở Nga nói rằng

Đó là những lời kêu gọi có tính chất khuông sáo.

Đảng cộng sản Việt nam hiện nay đang lâm vào một thế khủng hoảng rất là nghiêm trọng. Đảng cộng sản không mạnh như chúng ta tưởng, họ dựa vào một lực lượng công an, quân đội rất hùng mạnh, nhưng họ không được lòng dân chúng. Ngay trong nội bộ của cấp lãnh đạo, của những người gọi là cầm cân nảy mực cũng cấu xé giành giật nhau.”

” Đảng cộng sản Việt nam hiện nay đang lâm vào một thế khủng hoảng rất là nghiêm trọng. Đảng cộng sản không mạnh như chúng ta tưởng, họ dựa vào một lực lượng công an, quân đội rất hùng mạnh, nhưng họ không được lòng dân chúng

Ông Nguyễn Minh Cần”

Ông Nguyễn Minh Cần cũng nói là ông tin rằng trong xã hội Việt nam hiện nay các tổ chức xã hội dân sự đang lớn mạnh, chứ nói rằng chỉ có duy nhất đảng cộng sản Việt nam là không hoàn toàn đúng.

Ông Trần Quốc Thuận, cựu phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội lại nghĩ là các ý kiến đối lập với đảng cộng sản vẫn còn yếu trong xã hội Việt nam hiện tại:

Cụ thể như qua các kiến nghị, như kiến nghị 72 có 15000 chữ ký, nhưng các kiến nghị sau này thì từ 1000 đến tối đa là 2000 chữ ký. Điều đó cho thấy những tiếng nói không đồng ý, không đồng tình thì có tỉ lệ ủng hộ là không đáng kể.”

Ông Phạm Chí Dũng, nhà báo tự do và đã từng là đảng viên đảng cộng sản lại nhận định rằng sắp tới sẽ có một làn sóng từ bỏ đảng, và tình hình hiện nay là một tình hình mới với sự xuất hiện của những trang thông tin được nhiều người cho rằng do nội bộ cao cấp của đảng cộng sản đưa ra

Tôi cho đó là một điểm ngoặt, mở ra một thời kỳ, một giai đoạn mới, từ đấu tranh bí mật, trong ngoặc kép, chuyển sang bán công khai, rồi có thể là công khai. Sức mạnh của đảng cũng vì thế sẽ giảm dần. Tôi cho là sẽ có một làn sóng thoái đảng vì người ta không tin đảng nữa.”

Đánh giá về những thành tựu kinh tế ở Việt nam mà ông Nguyễn Phú Trọng ca ngợi là do đảng của ông lãnh đạo mà có, Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh nói rằng.

” Đa đảng không những làm cho xã hội này lành mạnh hơn, tham nhũng dễ được phát hiện, những sai lầm dễ được sửa chữa, mà chính đảng cộng sản, giả sử vẫn là một đảng mạnh nhất thì những người tốt trong đảng đó cũng sẽ được sử dụng

Một đảng viên cao cấp”

Một mặt ghi nhận những tiến bộ đã đạt được nhưng mặt khác phải thừa nhận rằng Việt nam hiện rất thua kém các nước trong khu vực.”

Tương Lai

Khi được hỏi về cơ  cấu nhân sự của đảng cộng sản sau đại hội toàn quốc lần thứ 12 vào năm tới ông Nguyễn Minh Cần nói

Dù nhân vật nào đi nữa thì họ cũng sẽ bám lấy chế độ cực quyền, chế độ độc tài thống trị của đảng. Cho nên dù có nhân vật nào lên thì cũng đừng có hy vọng là họ đem lại điều gì tốt đẹp đâu.”

Một đảng viên cao cấp của đảng cộng sản xin được giấu tên cho rằng sự việc đảng cộng sản Việt nam nắm quyền và cai trị đến ngày nay là một bi kịch của nước Việt nam. Ông nói rằng đảng cộng sản Việt nam phải thức thời mà thay đổi, và điều đó cũng có lợi cho chính đảng cộng sản Việt nam, nếu đảng này mở ra một cuộc cạnh tranh chính trị trong tương lai

Trong cái dòng lịch sử lâu dài thì cộng sản là quái thai nên lịch sử đã vất vào sọt rác. Những người cộng sản bây giờ phải thức thời. Cái chủ thuyết của anh bây giờ là độc đảng toàn trị, không công nhận tam quyền phân lập. Cái tên không nói lên điều gì nhưng nếu anh chấp nhận đa nguyên đa đảng thì cái đảng của anh tốt. Có đa đảng thì chính người tốt trong đảng của anh họ mới được đảng dùng. Đa đảng không những làm cho xã hội này lành mạnh hơn, tham nhũng dễ được phát hiện, những sai lầm dễ được sửa chữa, mà chính đảng cộng sản, giả sử vẫn là một đảng mạnh nhất thì những người tốt trong đảng đó cũng sẽ được sử dụng.”

” Nếu như chúng ta nhìn sang Đài Loan và Hàn Quốc thì thấy họ cũng từ một chế độ độc đảng chuyển sang một chế độ có sự giám sát, có sự bầu cử, và có sự công khai minh bạch, có sự giám sát của báo chí và của các tổ chức xã hội dân sự

Ông Lê Dăng Doanh”

Bàn về việc có nên chấp nhận một sự đa nguyên chính trị ở Việt nam hay không, ông Trần Quốc Thuận nói

Dĩ nhiên khi xã hội có nhu cầu thì cử tri lúc đó họ sẽ quyết định chọn lựa. Dĩ nhiên là ở Việt nam thì đảng cộng sản phải lắng nghe, làm cho mình tốt hơn, lành mạnh hơn, thì điều đó là tốt. Còn lực lượng kia khi nào nó lớn mạnh, được nhân dân thừa nhận thì tất nhiên nó sẽ hình thành thôi.”

Trước khi có bài diễn văn kỷ niệm 85 năm ngày thành lập đảng cộng sản Việt nam ít ngày, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng tuyên bố là đảng của ông sẽ đổi mới chính trị nhưng điều đó không có nghĩa là đổi thể chế.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh bình luận rằng:

Tôi không hiểu ông Tổng Bí thư muốn nói gì, nhưng một điều mà mọi người đều đồng ý là quyền lực phải được giám sát, là sự giám sát bởi người dân. Nguyên tắc thứ hai nữa là công khai minh bạch để chống tham nhũng. Nguyên tắc thứ ba nữa là các thành phần trong nhà nước phải hoạt động theo luật pháp. Cho nên đang có yêu cầu là có luật về sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt nam trong khuông khổ nhà nước, và cũng có yêu cầu là có sự giám sát đối với bản thân đảng cộng sản Việt nam.

Ông Lê Dăng Doanh cũng đưa ra các ví dụ về sự chuyển đổi thành công từ mô hình độc đảng chuyển sang dân chủ một cách thành công ở một số nước châu Á có văn hóa khá giống Việt nam

Nếu như chúng ta nhìn sang Đài Loan và Hàn Quốc thì thấy họ cũng từ một chế độ độc đảng chuyển sang một chế độ có sự giám sát, có sự bầu cử, và có sự công khai minh bạch, có sự giám sát của báo chí và của các tổ chức xã hội dân sự. Đó là điều mà sắp tới đây cần cân nhắc suy nghĩ để thực hiện một cách có hiệu quả ở Việt nam.”

Ông Phạm Chí Dũng thì cho rằng hiện đang có những kịch bản khác nhau trong đảng cộng sản cho việc thay đổi chính trị ở Việt nam trong tương lai, nhưng ông không quan tâm tới điều đó, mà ông cho rằng với những thay đổi về kinh tế và xã hội sắp tới nếu đảng cộng sản không nhanh chóng thay đổi thì sẽ rất muộn màng cho chính đảng cộng sản.

Các nhà độc tài không ngăn hỗn loạn, họ khơi dậy tình trạng đó

Các nhà độc tài không ngăn hỗn loạn, họ khơi dậy tình trạng đó

Raniah Salloum, SPIEGEL: Dikatatoren schützen nicht vor Chaos – sie schüren es.

Phạm Kỳ Đăng dịch

Đối với một số người những thể chế quyền uy được coi như cái nôi của ổn định. Điều ngược lại mới đúng. Bởi các nền độc tài không thể giải quyết xung đột bằng hòa bình, nên tất yếu những nền độc tài ấy dẫn đến bạo lực và vô chính phủ.

Những gì còn lại ở Mùa xuân Ả Rập thật khủng khiếp. Bạo lực và cùng quẫn đe dọa xác quyết cuộc sống của con người bên lề châu Âu tới hàng nhiều thập kỷ. Phong trào cực đoan “Nhà nước Hồi giáo” lan rộng. “Thập kỷ vừa qua đã chỉ ra rằng, có thể còn có sự tàn tệ hơn là chuyên chế: Nội chiến và Hỗn loạn”, nữ đồng nghiệp Christiane Hoffmann viết như vậy trên tờ SPIEGEL và trang SPIEGEL ONLINE. Cứ như ổn định là một giá trị tự thân, và phải chăng nó được đảm bảo bởi những “nền chuyên chế có khả năng hoạt động”vậy?

Suy nghĩ này lảng tránh một vấn đề cơ bản: Đối với một giai đoạn nào đó, những nền độc tài chỉ bảo đảm cho một thứ ổn định – dựa trên xương máu của nhiều mạng người. Luôn rồi đến một lúc nào đó chúng sụp đổ. Thường chúng kết thúc trong tình trạng hỗn loạn mà chúng vốn hứa hẹn bảo toàn cho người ta tránh được.

Hỗn loạn và chiến tranh là hậu quả của các nền độc tài

Bởi vì trong các nền độc tài không có những cơ chế để giải quyết các vấn đề tranh chấp một cách hòa bình. Vấn nạn bị đè nén thật lâu cho tới khi hệ thống sụp đổ bởi sự thể ấy. Chỉ một xung đột nhỏ có thể đưa một nền độc tài đi tới bờ vực thẳm. Nhiều người trẻ tuổi đổ xô ra thị trường lao động không có đủ công ăn việc làm cho họ, thế là đủ. Quá sức các nhà độc tài.

Không thể biểu quyết bãi những kẻ áp bức. Nếu nhân dân chán ghét họ, sẽ chẳng còn gì nhiều ở những người không hài lòng. Nếu họ kéo ra đường, đạn bắn vào họ. Những nhà độc tài dạy cho dân họ rằng: Chỉ có bạo lực mới giải quyết xung đột. Đó là một tài sản gây độc đối với thời gian sau độc tài.

Nhà độc tài biến đi, thường nhà nước biến theo

Nơi đâu quyền lực không phải giải trình, nơi đó sự cám dỗ lạm quyền đặc biệt lớn. Thế vào chỗ đứng của nhà nước là những cơ cấu giống như Mafia. Tham nhũng khoét rỗng những thiết chế, cho tới lúc hầu như không còn gì để lại cả. Nhà độc tài biến đi, do đó cũng biến đi cả nhà nước nữa. Những nhà nước đình trệ luôn là kết quả của nền thống trị độc tài – và bây giờ chăng hẳn chúng phải phục vụ cho sự bao biện?

Vẻ như Christiane Hoffman tin tưởng rằng, hoặc con người vốn sinh ra đã là những người theo dân chủ hoặc là không. Đây là một sự nhầm lẫn. Phần nào ở nước Đức họ cũng vẫn là những con người ấy trong những năm ba mươi (của thế kỷ trước) từng để cho cuộc thử nghiệm dân chủ thất bại và sau này trong những năm năm mươi đã giúp thử nghiệm này đi đến thành công. Giữa hai khoảng thời gian đó là nền độc tài tàn tệ nhất của lịch sử loài người.

Rất khó gây dựng nên một nền dân chủ trên đống hoang tàn của sự thống trị quyền uy. Thế mà lịch sử dạy cho rằng điều này khả thể. Cho đến vài ba thập kỷ gần đây toàn bộ Đông Âu và phần rộng lớn của Nam Mỹ gồm nhan nhản những nền độc tài. Giờ đây là những nền dân chủ vận hành khá hơn hay tệ hơn, nhưng ít nhất còn xa mới đến tình trạng vô chính phủ được cho là đáng khiếp sợ.

R. S.

Về tác giả: Raniah Salloum, sinh năm 1984, nghiên cứu Chính trị và Kinh tế tại Đại học Tổng hợp Sciences Po Pháp và Cornell University, New York, Mỹ. Từ 2012 là Biên tập viên mục Chính trị của Spiegel Online.

Ước Vọng hay Ảo vọng mùa xuân

Ước Vọng hay Ảo vọng mùa xuân

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-02-02

02022015-the-wish-n-illusi-spring.mp3

Nikkei Asian Review - Một trong những cơ quan truyền thông lớn nhất Nhật Bản đưa tin về Chân Dung Quyền Lực

Nikkei Asian Review – Một trong những cơ quan truyền thông lớn nhất Nhật Bản đưa tin về Chân Dung Quyền Lực

RFA

Your browser does not support the audio element.

Ước vọng sự thật

Sự thật hay nửa sự thật? Những câu hỏi mà giới blogger đặt ra cho nhau trước màn hình máy tính vào những ngày này, khi mà trang blog Chân dung quyền lực, mà nhiều bloggers nghi ngờ rằng của một thế lực nào đó trong đảng cộng sản cầm quyền,  vẫn còn ngự trị. Và “nạn nhân” mới nhất  của nó là Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình. Có đến liên tục năm bài viết đưa ra những hình ảnh và số liệu về số tài sản khổng lồ của gia đình ông này.

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc từ Úc kể rằng trong những ngày cuối năm âm lịch này, một đoàn cán bộ từ Việt nam sang Úc làm việc, mà câu chuyện đầu môi của họ chỉ xoay quanh… Chân dung quyền lực. Blogger Mai Tú Ân viết

Trang mạng không ai biết xuất hiện từ đâu và của ai đấy. Và những điều không thể tin được đó lại xuất hiện hàng ngày, hàng giờ với thông tin ngồn ngộn, thừa mứa đến từng chi tiết, từng con số, từng tư liệu, từng hình ảnh… khiến cho người dân không thể không đau lòng, không thể không phẫn nộ khi đọc nó..

Vẫn biết rằng những thông tin của Trang mạng CDQL, cũng như những thông tin lề trái không hẳn lúc nào cũng là sự thực, nhưng đáng buồn là có một chân lý ngàn đời rằng, một phần sự thực sẽ dẫn đến sự thực, nếu không chứng minh được một phần sự thật ấy không phải là sư thật.

Và cuối cùng thì sự im lặng tai hại của chính quyền cùng tất cả bộ máy thông tin tuyên truyền hùng hậu trước sự kiện ấy, đã khiến cho niềm tin vào chế độ của người người dân Việt Nam ngả nghiêng; xao động như bị một cơn bão tàn phá tâm can.

Theo như  Mai Tú Ân vừa trình bày, sự mất lòng tin đó của người dân  chính do ước vọng được biết sự thật từ bao lâu nay không được thỏa mãn. Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc viết về trang Chân dung quyền lực

Nó cố nói lên sự thật. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Còn những góc cạnh khác, hầu như ai cũng biết, nhưng biết một cách mơ hồ. Chúng ta hy vọng sẽ có những trang báo khác lần lượt phanh phui hết tất cả những tệ nạn tham nhũng của tất cả những người đang nắm giữ quyền lực tại Việt Nam hiện nay.

” Trang mạng không ai biết xuất hiện từ đâu và của ai đấy. Và những điều không thể tin được đó lại xuất hiện hàng ngày, hàng giờ với thông tin ngồn ngộn, thừa mứa đến từng chi tiết, từng con số, từng tư liệu, từng hình ảnh

Blogger Mai Tú Ân”

Tất cả. Chứ không phải chỉ có một số người đang tranh chấp quyền lực với nhau.

Như vậy có thể nói rằng Sự thật cho tất cả chính là ước vọng mùa xuân này của giới bloggers Việt nam.

Có blogger như nhà văn Võ Thị Hảo nhìn thấy ước vọng ấy trong một cái nhìn tích cực trong câu chuyện xuất hiện của trang blog Chân dung quyền lực. Nhà văn viết rằng

Dẫu sao, khi có cuộc chiến thông tin giữa các thế lực cầm quyền, là đã manh nha cho các cuộc cạnh tranh chính trị giữa các nhóm lợi ích. Dẫu đang sơ khai nhưng độ khốc liệt của nó sẽ đẩy nhanh tốc độ trưởng thành.

Cuộc chiến ngày càng gay cấn thì dân càng được lợi. Hóa ra, đôi khi những cuộc chiến quyền lực độc tài nhất cũng phải tựa vào chút lợi ích của quyền tự do ngôn luận.

Trường Tồn hay không trường tồn

Trong khi blogger Dân Nguyễn thì lại thấy phiền lòng về sự hoạt động của trang blog của những chủ nhân bí ẩn này. Dân Nguyễn viết nhắc lại chủ nhân trang Que choa và viết rằng:

Khi người ta bức tử Quechoa, thì lập tức người ta cho ra lò Chân dung quyền lực – một sự cạnh tranh hết sức không lành mạnh, thể hiện rõ bản chất cá lớn nuốt cá bé của quyền lực đỏ. Lý do mà người ta dẹp Quechoa bởi những gì nó chuyển tải, thì bây giờ, thiên hạ có thể tìm thấy, thậm chí là ê hề trong Chân dung quyền lực. Quechoa sạch sẽ, nhân bản, hướng thiện, tiến bộ bao nhiêu, thì Chân dung quyền lực nhơ nhuốc, hôi hám sặc mùi bấy nhiêu.

Cho đến nay vẫn chưa có phát ngôn chính thức nào từ phía nhà nước và đảng cộng sản Việt nam về trang Chân dung quyền lực. Nhưng có rất nhiều lời cáo buộc rằng những thông tin không phải do nhà nước nắm giữ là gây hại cho nhân dân. Nhà văn Võ Thị Hảo hiến kế cho nhà nước Việt nam làm thế nào để các trang blog được gọi là gây hại ấy

Chúng chỉ sống được trên làn rêu ẩm ướt tối tăm của sự bưng bít thông tin, dối trá thông tin, bạo lực thông tin, bè phái thông tin của các vị quan chức từ trên xuống dưới. Chúng là lũ chuyên dùng từ điển ngược, như dùng „kính chiếu yêu“, soi ra gương mặt dị dạng của những thông tin lừa bịp hoặc che giấu.

” Chúng chỉ sống được trên làn rêu ẩm ướt tối tăm của sự bưng bít thông tin, dối trá thông tin, bạo lực thông tin, bè phái thông tin của các vị quan chức từ trên xuống dưới. Chúng là lũ chuyên dùng từ điển ngược, như dùng “kính chiếu yêu”

Nhà văn Võ Thị Hảo”

Nhưng có vẻ ý kiến của nhà văn Võ Thị Hảo không được giới cầm quyền quan tâm lắm, vì như blogger Kami chỉ ra rằng lời hứa đưa ra kết quả tín nhiệm các ủy viên Bộ chính trị, chóp bu quyền lực của Đảng cộng sản vẫn không được thực hiện. Kami trích dẫn phát biểu mới đây của ông đương kim Tổng bí thư đảng cộng sản là ông Nguyễn Phú Trọng rằng phải để cho công chúng tham gia vào nhiều phạm vi khác nhau và phát huy vai trò của báo chí, công luận, và Kami viết rằng

Tuy vậy, phát biểu đó của ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chứng tỏ rằng bản thân ông và Đảng CSVN đến lúc này vẫn không bỏ được thói chuyên nói một đằng và làm một nẻo, điều từ lâu nay là nguyên nhân khiến cho Đảng CSVN đã đánh mất lòng tin đối với dân chúng. Nghĩa là, trong khi ông Tổng Bí thư thì nói như thế, nhưng thì mặt khác trên thực tế, ông Tổng Bí thư và Đảng CSVN đã hoàn toàn không muốn cho công chúng biết, thậm chí là họ muốn dấu nhẹm các thông tin mà dân chúng hết sức quan tâm. Ví dụ như chuyện về Kết quả lấy phiếu tín nhiệm 20 cán bộ cao cấp của Đảng, đến lúc này vẫn là một thông tin tuyệt mật của Đảng không cho phép phổ biến.

Lời phát biểu của ông Trọng được Kami trích dẫn từ trong một bài trả lời báo chí Việt nam của ông, trong đó ông nêu lên ước vọng rằng đảng của ông sẽ mãi mãi trường tồn cùng dân tộc. Tới đây hản độc giả Việt nam nghĩ ngay đến những khẩu hiệu tuyên truyền của đảng cộng sản mỗi độ xuân về, không những tên đảng đứng kề tên nước mà đôi khi đứng trước cả mùa xuân, tức là trước cả đất trời vậy!

Trong vài năm trở lại đây ông Nguyễn Phú Trọng thường hay được giới bloggers trích dẫn những phát biểu, đôi khi khó hiểu và gây cười của ông. Cách đây không lâu ông nói rằng đảng của ông sẽ đổi mới chính trị nhưng không có nghĩa là đổi thể chế chính trị. Người ta vẫn còn nhớ những tuyên bố chống tham nhũng khẩn thiết của ông, thậm chí có lần ông suýt khóc sau đại hội trung ương kỳ trước, khi đảng của ông không kỷ luật được một đồng chí X nào đó cũng của ông! Ông cố gắng thành lập ban nội chính trung ương để mong làm trong sạch bộ máy cầm quyền. Nhưng cũng chính ông cũng nói rằng xóa bỏ điều 4 của Hiến pháp là phản động.

Blogger Trần Minh Khôi dẫn ra câu chuyện cải tổ của Tân Tổng thống dân cử Jodowi bên Indonesia mà viết rằng

Một bằng chứng nữa cho thấy cơ chế, chứ không phải cá nhân, quyết định sinh hoạt chính trị quốc gia. Trông đợi vào cá nhân mà không thay đổi cơ chế là hoang tưởng.

Cơ chế mà mọi người đều biết chính là nền tảng ý thức hệ Mác lê mà những người cộng sản đã du nhập vào Việt nam. Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống viết trên trang blog Bauxite Việt nam phản biện lại ý kiến cho rằng bi kịch xã hội chính trị ngày nay của Việt nam chỉ là do từ những tính xấu của người Việt mà ra

Sự cộng hưởng giữa một số tính cách xấu của người Việt với những độc hại của chủ nghĩa Marx Lenin mới thực sự là nguyên nhân gốc của tệ nạn xuống cấp về đạo đức của xã hội hiện nay.

Liệu ước vọng tồn tại ngàn đời cùng dân tộc đó của ông Trọng có phải là hoang tưởng hay không? Khi mà ông dứt khoát không từ bỏ ý thức hệ đó?

Mô hình nhà nước của đảng của ông Trọng đang cai trị 90 triệu dân Việt nam gọi là dân chủ tập trung, với mọi quyền hành, kể cả quyền báo chí đều tập trung vào tay đảng cộng sản.

” Khi người dân không được phép phát biểu một cách dõng dạc như các bậc phụ lão trước điện Diên Hồng ngày xưa thì họ cũng có thể lên tiếng trong thế giới ảo của internet

Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc”

Nhưng thời đại đã thay đổi, khi đảng cộng sản được thành lập thì máy fax chưa xuất hiện. Lúc đảng cộng sản nắm quyền trên toàn cõi Việt nam thì chưa có Internet và facebook. Blogger nổi tiếng Điếu Cày nói rằng mỗi một trang Facebook thực sự đóng vai trò một tờ báo. Điều đó làm đảng cộng sản cảm thấy lo sợ, như giáo sư Nguyễn Hưng Quốc viết trên trang của ông về sự tự do ngôn luận trong không gian điện tử ngày nay

Khi người dân không được tự do bỏ phiếu thì mỗi phát biểu trên blog và facebook đây đó đều có thể xem là một lá phiếu. Khi người dân không được phép phát biểu một cách dõng dạc như các bậc phụ lão trước điện Diên Hồng ngày xưa thì họ cũng có thể lên tiếng trong thế giới ảo của internet.

Tôi không biết các bạn có đồng ý với nhận định ấy hay không, nhưng tôi biết chắc chắn một điều: chính phủ Việt Nam cũng nghĩ vậy. Vì cũng nghĩ như vậy, họ mới ghét và sợ blog và facebook đến vậy.

Nhạc sĩ, blogger Tuấn Khanh thì mô tả khung cảnh Sài gòn những ngày cuối năm

Thế giới đã khác, những tờ báo giấy mòn mỏi và chậm chập như những chuyến xe liên tỉnh không đến kịp thời gian. Con người Sài Gòn hôm nay ngồi chạm lướt vào hiện tại tức thì để nói về cuộc sống của mình, buồn phiền hay vui cười những tin tức chớp tắt từng giờ. Sài Gòn ngồi một chỗ có thể nhìn mọi nơi, nghe những chuyển động của người Việt, có thể cười cợt với những vận may hạnh phúc và cũng có thể chết lặng với những đảo điên của giống nòi.

Giữa những ước vọng về sự thật của giới bloggers và ước vọng về sự tồn tại của ông Nguyễn Phú Trọng, blogger nhạc sĩ Tuấn Khanh giở lại một bài hát xuân của cố nhạc sĩ Phạm Duy mà ngậm ngùi rằng

Tự mình mở lại bài Xuân Ca, tôi lại thấy trong đó muôn ngàn ngậm ngùi, không chỉ cho người đã khuất mà cho một nước Việt mong manh mờ ảo.

Một năm mới lại đến. Xuân ca lại văng vẳng trong trái tim người. Niềm khao khát còn đó nhưng mùa  xuân thật sự của xứ Việt đang ở nơi đâu?

Chúng tôi xin mượn lời nhạc sĩ Tuấn Khanh và lời ca của cố nhạc sĩ Văn cao về ước vọng một Mùa xuân đầu tiên để kết thúc bài điểm blog hôm nay.

LÀM PHẬT KHÔNG DỄ

LÀM PHẬT KHÔNG DỄ

Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, một trong những tác giả Việt Nam nổi tiếng tại Hải ngoại đã có lần kể một giai thoại về Đức Phật và ác thần Mara như sau:

Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Almada, đệ tử của Ngài đang đứng ngoài cửa.  Thình lình Almada thấy Mara xuất hiện.  Almada cứ tưởng như Mara đang lạc lối, nhưng Mara tiến lại gần Almada và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Almada hỏi lại:

–        Ngươi còn đứng đây để làm gì?  Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao?  Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì? Ngươi không biết xấu hổ sao?  Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.

Nghe thế, Mara liền cười ngất:

–        Ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư?

Almada cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng Ngài có kẻ thù.  Đuối lý, Almada liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài.  Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được.  Nhưng Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara.  Almada hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn.  Ngài chào hắn:

–        Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không?  Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?

Nhưng Mara không đáp lại.  Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Almada pha trà.  Almada bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, ta không thấy vui chút nào, nhưng là vì lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được.  Trong câu chuyện nghe lóm giữa Đức Phật và Mara, Almada nghe Mara thú nhận một cách chán nản như sau:

–        Mọi việc không diễn ra tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ, như Ngài biết: đóng vai Mara không phải là chuyện dễ: có nói thì nói gian, nói dối, còn có làm thì làm điều dữ, điều ác.  Tôi mệt mỏi lắm rồi, nhưng điều tôi không chịu nổi chính là các môn sinh của tôi.  Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động.  Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.

Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông.  Cuối cùng Ngài nói:

–      Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao?  Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao?  Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng cho tôi, và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ, tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để đổi chác.  Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.

**************************************

Qúy vị và các bạn thân mến,

Môn đệ của ác thần thì nói đến nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật thì lại tôn thờ đấng suốt một đời chỉ muốn sống siêu thoát, từ bỏ.  Phải chăng, đây là dụ ngôn về sự thiếu nhất quán và thái độ thỏa hiệp của con người.  Đây cũng chính là cơn cám dỗ triền miên của các tín hữu Kitô chúng ta.

Trong Tin mừng, Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi thái độ triệt để tận căn của Người.  Ngài xử dụng những hình ảnh rất mạnh để nói lên thái độ dứt khoát mà các môn đệ của Ngài phải có: “Ai cầm cày mà quay lại đằng sau, không đáng làm môn đệ Ngài.  Ai không từ bỏ tất cả, ngay cả cha mẹ mình cũng không đáng làm môn đệ Ngài”.  Có thể theo Cha với một thái độ triệt để và dứt khoát như thế không? Chắc chắn nếu không có ơn Chúa chúng ta không thể sống triệt để và dứt khoát như thế được.  Chúng ta dễ dàng chạy theo tinh thần thế tục và thoả hiệp với những sức mạnh của sự dữ.  Chúng ta dễ dàng lấy sự yếu đuối của loài người để biện minh cho thái độ thoả hiệp của chúng ta.

Là một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không phải là chuyện dễ, nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: chỉ những ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát.

**************************************

Lạy Chúa, không có ơn Chúa, chúng con không làm được việc gì.  Xin Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng con, để sau mỗi lần vấp ngã, chúng con biết chỗi dậy và tiếp tục đi theo Chúa.  Amen!

R. Veritas

Anh chị Thụ Mai gởi

TUỔI THƠ

TUỔI THƠ

Câu truyện của một thầy giáo già kể: Trước khi bắt đầu các lớp học, thầy thường đứng trước mặt các học sinh và cúi đầu chào.  Thầy luôn làm thế với thái độ rất trân trọng.  Một này nọ, có vài người hỏi thầy rằng tại sao thầy lại làm thế?  Thầy trả lời rằng: Thầy làm như vậy, bởi vì thầy không biết bao nhiêu trẻ học sinh sau này sẽ thành đạt.  Thầy đã nhận thấy mỗi học sinh giống như một kho tàng ẩn dấu và thầy đã cúi chào trong sự tin tưởng rằng có nhiều học sinh sẽ thành công và thành đạt xứng đáng sự tôn kính trong tương lai cuộc sống.  Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta một tiềm năng để trở nên vĩ đại.

Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Đức Maria dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.  Một Hài Nhi bé nhỏ đã được các cụ già đón nhận một cách rất thành kính.  Ngay khi vừa lọt lòng mẹ, Chúa Hài Nhi đã được các thiên thần tung hô, các mục đồng đến viếng thăm và từ xa, các nhà Đạo Sĩ đã đến tôn thờ và dâng lễ vật.  Theo luật Môisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế: Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa (Lc 2, 22). Dù Đức Maria và ông Giuse biết rằng trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa.  Các ngài đã chu toàn mọi lề luật: Như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa” (Lc 2, 23). Dâng con trong đền thờ là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể thế chân bằng cách dâng cúng của lễ như chim bồ câu hay chiên bò.

Thánh lễ hôm nay cũng còn được gọi là Lễ Nến.  Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem.   Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma.  Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mesia tiến vào Đền thờ và gặp đại diện dân Chúa của Cựu ước qua ông già Simêon và bà tiên tri Anna.  Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái.  Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến.  Vì thế, từ thế kỷ thứ Tám, thánh lễ được gọi là Lễ Nến.  Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân.  Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu.  Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ  dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Tiên tri Malakia đã tiên báo sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế trong đền thánh: Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: Đây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!  Lập tức Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người (Mal 3, 1). Trong mọi hoàn cảnh diễn biến và qua các biến cố liên quan, những lời tiên tri thuở xưa đã từng bước được thực hiện trong đời sống của Chúa Giêsu.  Thiên Chúa hiện hữu từ đời đời đã đi vào thời gian và không gian, nên có sự phát triển từng bước.  Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể tôn thờ Thiên Chúa nơi hình ảnh của Chúa Hài Nhi, Chúa trong đền thờ, Chúa giảng dạy, Chúa chiên lành, Chúa bị đánh đòn, Chúa chết treo thập giá, Chúa sống lại và Chúa lên trời. Chúng ta có thể đến gặp gỡ Chúa qua nhiều cách thế nhiệm mầu.

Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham (Dt 2, 16). Chúng ta không đi tìm kiếm một Thiên Chúa cao siêu, vĩ đại và tuyệt đối cách xa.  Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa hiện hữu và quyền năng an bài mọi sự trong yêu thương.  Tin rằng chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa vô hình và vô biên nhưng thực ra Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta.  Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể.  Tác giả thơ Do-thái đã diễn tả: Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân (Dt 2, 17).

Chúa Giêsu cảm thông thân phận của con người.  Ngài đã trải qua tất cả những thử thách ở đời và đã đi đến tận cùng của sự đau khổ là cái chết: Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách (Dt 2, 18). Vượt qua sự chết để vào vinh quang sự sống, Chúa Kitô trở nên niềm hy vọng và trông cậy cho tất cả mọi tạo vật.  Ngài là sự sống và là sự sống lại viên mãn.  Tất cả những ai tin vào Ngài, sẽ được ánh sáng ban sự sống.  Những ai tiếp rước Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa.  Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa trong đền thờ: Ông Simêon đã chúc tụng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa (Lc 2, 29-30). Ông già Simêon sống trong đền thánh chuyên tâm cầu nguyện và mong chờ ơn cứu độ.  Ngày này, ông đã đại diện cho toàn dân chứng kiến giây phút lịch sử Thiên Chúa viếng thăm Dân Người và Đấng Thánh đã tiến bước vào cung thánh.  Người ta thường nói: Chứng của hai người là chứng thật.  Trong đền thờ, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, cũng đến: Bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel (Lc 2, 38). Trẻ Giêsu là trung tâm điểm của tất cả vũ trụ vạn vật.  Thiên Chúa vĩ đại trở nên bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của những kẻ tin.  Ông Simêon và bà Anna đã hết sức vui mừng gặp được trẻ Giêsu và đã dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.

Khi đi rao giảng, Chúa Giêsu đã đón nhận các trẻ nhỏ.  Chúa luôn bảo vệ và yêu thương các trẻ nhỏ.  Chúa Giêsu gọi các trẻ lại mà nói: Cứ để các trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng (Lc 18, 16). Mỗi một con người, từ bào thai, thai nhi, ấu nhi, trẻ thơ, thiếu nhi hay thiếu niên và trưởng thành đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.  Mỗi một cá nhân đều được trao ban những khả năng tiềm tàng và sự sống vô giá.  Chúng ta phải trân qúy món qùa mà Thiên Chúa đã trao tặng.  Các con trẻ đơn sơ trong trắng như các thiên thần.  Chúa đón nhận các trẻ thơ: Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 10, 16). Đừng bao giờ nghĩ rằng các trẻ em là gánh nặng mà là niềm vui trong cuộc sống gia đình. Các cha mẹ đừng khi nào than phiền, nguyền rủa, chối từ và xua đuổi con cái của mình, vì mỗi trẻ đều có một khả năng tiềm ẩn mà chính Thiên Chúa đã phú bẩm.  Hãy yêu thương, dưỡng nuôi và ôm ấp món qùa Chúa đã trao ban cho chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa đã trở thành trẻ thơ cho người ta nâng niu và ôm ẵm.  Chúa đã cảm nhận tình yêu chia sẻ của con người.  Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận và tôn trọng mọi người, nhất là các trẻ thơ vô tội.  Cầu xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ để biết khiêm nhu phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.

LM Giuse Trần Việt Hùng

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

GIEO GIÓ, GẶT BÃO

GIEO GIÓ, GẶT BÃO

B/S Nguyễn Hy Vọng

1-  John Lennon, ca sĩ của ban nhạc The Beatles, Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói:
“Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế.  Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngay ngô (ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt).  Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu.”  (1966)
Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau khi bị bắn sáu lần, John Lennon có ăn năn hay không? Nhưng mọi người đã biết ‘The Beatles’ đã chết.

2-  Tancredo Neves, người Ba tây (Brazil). Trong lúc vận động tranh cử tổng thống, hắn tuyên bố:
“Nếu tôi có được 500,000 người trong đảng bầu cho, thì ngay cả Thượng Đế cũng không thể đẩy tôi ra khỏi chưc vụ tổng thống.”
Tancredo Neves được số phiếu hắn muốn, nhưng một ngày trước ngày nhận chức tổng thống, hắn lăn ra chêt mà không ai biết lý do tại sao.

3-  Cazuza, viết nhạc, ca sĩ, nhà thơ. Trong một buổi trình diễn ở Canecio (Rio de Janeiro), lúc hút thuốc lá, hắn thổi khói thuốc vào không khí và nói:
“Thượng Đế, phần đó cho ngươi.”
Hắn bị bịnh liệt kháng (Aids), chêt ở tuổi 32, trong tình trạng cực kỳ đau đớn và rên siết mãi mới chết được.

4-  Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic, về sự an toàn của chiêc tàu, thì kẻ thiêt lập chiêc tàu, nói:
“Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó.”
Kết quả ra sao, mọi người đã biêt.

5-  Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, được Billy Graham đến thăm.  Bill Graham nói, Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe, nói:
“Tôi không cần Giêsu của ông”.
Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.

6-  Bon Scott, ca sĩ của ban nhạc  AC/DC.  Một bản nhạc hắn ca vào năm 1979, có câu:
“Đừng ngăn cản tôi. Tôi đang đi xuống tận cùng; xuống con đường cao tốc đến hỏa ngục.”
Ngày 19/2/1980, Bon Scott chết vì ngẹt thở, do cơn ói mửa của hắn.

7-  Năm 2005, thành phố Campinas, Ba tây (Brazil), có một nhóm bạn lái xe đến đón một cô bạn của họ… Người mẹ cùng đi với cô con gái đến chiếc xe.  Người mẹ lo lắng khi thấy bạn của con gái bà say rượu. Bà nắm tay đứa con gái, lúc đó đã ngồi vào xe:
“Con gái của mẹ. Con hãy xin Chúa cùng đi với con và xin Ngài che chở con.”
Đứa con gái trả lời:
“Ông Ta có đi thì vào cốp xe, trong xe không còn chỗ cho Ông ta.”

It giờ sau, tin tức cho biêt chiếc xe bị tai nạn, không người nào sống sót. Chiếc xe bị hư hại đến độ, không ai có thể nhận biêt đó là xe loại gì, nhưng có một điều làm cho những người cảnh sát hết sức ngạc nhiên, là cốp xe không bị hư hỏng; theo họ, điều đó không thể xảy ra trong một tai nạn khủng khiếp như thế; và có một điêù làm cho mọi người càng ngỡ ngàng hơn, là trong cốp xe có một hộp trứng, nhưng không một quả trứng nào bị vỡ.

8-  Christine Hewitt (người Jamaica ), là nhà báo và hoạt náo viên. Cô nói:
“Thánh Kinh là quyển sách tồi tệ nhât thế giới đã được viết.”
Tháng sáu năm 2006,  cô bị cháy rụi trong khi cô lái chiếc xe của cô.

9-  Năm 1954, sau khi chiếm Miền Bắc, một toán công an Cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu chầu Mình Thánh, một tên công an cộng sản lớn tiếng la lối:
“Chúa của các ngươi ở đâu?”
Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên công an này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm, bắn, làm chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chỉa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa; nhưng khi chạm đến anh, mới biết linh hồn anh lià xác từ lúc nào rồi.

10-  Năm 1963, sau khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên, Huế, đập phá “tàn tích gia đình trị”. Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, Quan Thầy của Tổng Thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xẩy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.

11-  Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm.  Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” ( tên của tướng quỷ ). Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: “20 năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài.”
20 năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở trong cái chết thê thảm. Ông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa…Qủy băt tôi…Tôi trông thấy hỏa ngục.”  Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa thường giúp người hấp hối; sau khi chứng kiến cái chêt của Voltaire, đã nói:
“Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chêt nữa.”
Một người khác cũng chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói:
“Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chêt dữ như Voltaire.”

Kết
Nhân loại đã phạm tội và đáng bị phạt hoả ngục đời đời. Tội lỗi đời đời của nhân loại không ai có thể gánh vác, nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất của Ngài là Chúa Cứu Thế Giêsu, xuống trần để cứu chuộc nhân loại.
Những ai tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu thì được cứu, những ai không tin sẽ bị án phạt.  Những kẻ chống lại Thiên Chúa và Giáo Hội Công Giáo, như:  đảng Cộng sản, nhóm Giao điểm, những kẻ tôn thờ Satan, quyền lực, tiền của, phủ thủy, đồng bóng, cầu cơ, bói toán, bùa ngãi.… đừng tưởng rằng Thiên Chúa chưa trừng phạt mà nghĩ rằng không có Thiên Chúa.  Thiên Chúa là Đấng hằng hữu. Thiên Chúa muốn trừng phạt ai vào lúc nào, ở đời này hoặc ở đời sau là quyền của Ngài.

Những kẻ chống lại Thiên Chúa và Hội Thánh Công Giáo, hãy trở về với Thiên Chúa trước khi quá muộn, vì mọi phàm nhân đều phải chết và không biết giờ chết. Nhưng khi lià đời, thì không phàm nhân nào thoát khỏi bị xét xử:

“Đừng để bị lừa dối, Đức Chúa Trời không chịu khinh thường mãi đâu, vì ai gieo điều gì sẽ gặt điều ấy.” (Galatians 6: 7)

Lạy Chúa Giêsu,
Con van xin Chúa thương xót con trong mọi nơi, mọi lúc và nhất là trong giờ con lâm chung. Amen.

B/S Nguyễn Hy Vọng

Anh chị Thụ Mai gởi

Cảnh báo tình trạng giao thông thiếu an toàn

Cảnh báo tình trạng giao thông thiếu an toàn

RFA

Tình trạng giao thông tháng Giêng vừa qua

Tình trạng giao thông tháng Giêng vừa qua

Files photos

Tình trạng giao thông thiếu an toàn tại Việt Nam lại được thừa nhận bởi một viên chức trong Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Hà Nội.

Ông Khuất Việt Hùng, phó ban chuyên trách Ban An Toàn Giao thông Quốc Gia được báo Tuổi Trẻ trích dẫn nói rằng mỗi ngày tại Việt Nam có 25 người thiệt mạng vì tai nạn giao thông. Ông này nói bóng bẩy là họ ra đường và không quay trở lại.

Thống kê tháng giêng vừa qua cho thấy có tổng cộng hơn 2100 vụ tai nạn giao thông với 781 người thiệt mạng và hơn 2700 người bị thương tại Việt Nam.

Thủ phạm gây ra tai nạn được cho biết người trẻ chiếm chừng phân nửa.

Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Việt Nam nêu ra bảy hành vi vi phạm mà người tham gia giao thông nên tránh; trong đó có những hành vi như vượt đèn đỏ, chạy xe trên vỉa hè, đi sai làn đường, đi ngược chiều, bấm còi liên tục…

Trong năm qua, tại Việt Nam có gần 9 ngàn người tử vong vì tai nạn giao thông.

Cuối Năm Về Galang

Cuối Năm Về Galang

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Nghĩa Trang Galang là chứng tích của một giai đoạn lịch sử không thể xoá bỏ về một hành trình đi tìm tự do bằng mọi giá của cả triệu người Việt.

Trùng Dương

Tôi đến Thái Lan tả tơi, ủ dột, eo xèo và bèo nhèo như một cái mền sakymen thấm nước. Vì không có thân nhân ở Hoa Kỳ, từ đây, tôi được đưa sang một trại tị nạn chuyển tiếp để chờ một hội thiện nguyện bảo trợ cho vào Mỹ.

Thế là tôi bắt đầu cuộc đời ly hương của mình bằng những ngày mưa đầu mùa ở Galang, một hòn đảo nhỏ bé, thuộc Nam Dương.

Những chiều mưa đầu mùa bao giờ cũng buồn. Những chiều mưa đầu tiên nơi đất lạ thì buồn muốn chết! Tôi cứ ngồi bó gối, nhìn những giọt nước trong veo (nương nương) chạy theo mái láng mà nhớ nhà muốn khóc.

Có hôm tạnh ráo, đi lang thang quanh đảo mãi cho đến lúc gần xẫm tối, tôi lạc vào một khu đất trống. Thoáng nghe tiếng muỗi vo ve, tôi nhìn xuống chân và hốt hoảng nhận ra là mình đang dẵm chân trên những nấm mồ của những người đã qua đời tại trại.

Giữa buổi chiều tà vắng lặng, trên một hải đảo hoang vu, cách quê nhà cả một đại dương xanh thẫm, đứng trên những nấm đất “xè xè” – mọc đầy cỏ dại, vương vãi mấy chân nhang đã bạc phếch mầu – tôi bỗng cảm được hết sự lạnh lẽo, thê lương, và ảm đạm của cái cảnh “vùi thây nơi đất khách quê người.” Cùng lúc, tôi cũng hiểu ngay tại sao trên những ban thờ nho nhỏ – ở quê nhà – thường luôn có khói hương ấm áp, và ngọn đèn dầu hột vịt (tù mù) cho đỡ phần quạnh quẽ.

Tôi rời Galang vào một buổi sáng cuối năm 1980 và trở lại ba mươi bốn năm sau, vào một chiều cuối năm 2014. Nghĩa trang của trại là nơi tôi cùng người bạn đồng hành (anh N.C.B) đến viếng đầu tiên. Nhìn những mộ phần khang trang, ngăn nắp, vôi quét trắng tươi, cỏ dọn sạch sẽ, nằm gọn gàng ngay ngắn –  giữa biển trời bao la – tôi mới chợt nhận ra rằng mình là một kẻ (sống) rất vô tình.

Tôi đã hăm hở và hối hả rời bỏ Galang, để lại không biết bao nhiêu là nấm mồ hoang lạnh của những đồng bào và đồng cảnh mà chưa bao giờ nhìn lại (dù chỉ một lần) cho mãi đến khi tóc đã đổi màu.

May mắn là không phải mọi kẻ tị nạn nào đều bạc bẽo như nhau, và không ít người sống rất có tình; nhờ vậy, hôm nay tôi mới có “lối” để về thăm chốn cũ.

Nghĩa Trang Galang. Bên phải là trụ xi măng trạm hình cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH, buộc phải sơn lại trắng đen bởi áp lực của nhà đương cuộc Hà Nội. Ảnh: N.C.B

Tôi rất thích bản nhạc Nha Trang Ngày Về (… ngồi đâу tôi lắng nghe… Ƭôi như là con ốc, bơ νơ nằm trên cát. Chui sâu vào thân xác lưu đầy…) dù không được quen biết bất cứ ai ở miền “thùy dương cát trắng.” Tôi cũng không có mối tình nào ở Galang, dù có viết mấy câu thơ, viết “dùm” cho những cô gái bị người tình phụ (mà dân ở đảo gọi là Galang tình xù) nhưng không còn nhớ được toàn bài:

Xa anh trời vào hạ

Thái Lan mưa đầu mùa

Bây giờ là cuối hạ

Nam Dương trời đang mưa

Galang đời cũng đẹp

Người ta thường có đôi

Riêng mình em thì trót

Yêu anh rồi nên thôi

Thư anh ngày một chậm

Nét chữ càng thêm to

Giấy trắng thừa ra mãi

Làm sao em không lo

Hay là  thôi anh nhé

Làm bận lòng nhau chi

Biết đâu đời lại đẹp

Khi đường ai nấy đi

Lần lượt, trước sau, những chàng trai cùng những cô gái ở tuổi đôi mươi (thưở ấy) đều đã “đi” định cư ở một quốc gia thứ ba nào đó. Và (chắc) cũng chả có mấy ai, mấy khi, ngoái về chốn cũ?

Galang, chiều nay, quanh tôi không một bóng người – ngoài vài bầy khỉ nhỏ, và năm bẩy chú hưu sao (đứng ngơ ngác nhìn khách lạ) trong một khu đất rộng, gần nơi trưng bầy mấy con tầu đã đưa đám thuyền nhân đến hải đảo này.

Ảnh: N.C.B

Galang hoang vu, và hoang tàn quá. Tôi bước vào một ngôi chùa, không có ai ráo trọi. Nhà thờ cũng vậy. Trống trơn. Tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm được che bởi một tấm bạt lớn phiá trên (ý hẳn để cho ngài đỡ giãi dầu mưa nắng) nhưng e cũng chả có tác dụng chi nhiều vì sự khắc nghiệt và khốc liệt của nắng mưa, nơi vùng  nhiệt đới.

Ảnh: N.C.B

Cạnh đó là bức tượng thánh Giuse đã rớt mất một bàn tay, ngó mà ái ngại.

Ảnh: N.C.B

Trong tấm biển chỉ dẫn (cũng đã rơi xuống đất từ lâu) ngay ở cổng vào có ghi hàng chữ “Cao Dai Pagoda” nhưng chúng tôi tìm mãi vẫn không thấy Thánh Thất nơi nào cả.

Ảnh: N.C.B

Cho đến khi bước chân vào gian nhà dùng làm Bảo Tàng Viện Thuyền Nhân thì tôi mới thấy Galang vẫn còn chút … hơi thở nhẹ, nhờ tiếng nhạc nho nhỏ phát ra tự bên trong. Cái gì chớ nhạc Việt thì tôi rành sáu câu, nhất là nhạc sến, vậy mà tôi hoàn toàn không biết bài hát (lạ hoắc) này. Tôi chỉ “cảm” được là nó rất sến (sến hết biết luôn) nhưng vẫn thấy vui thích với cái ý nghĩ là mình –  một thằng vô cùng bạc bẽo – vẫn được Galang mở rộng vòng tay (đón nhận) khi trở lại.

Thái độ rất thân thiện tử tế của nhân viên an ninh, cũng như sự chỉ dẫn vui vẻ và tận tình của người trông coi những di vật còn lại của thuyền nhân cũng khiến tôi vô cùng cảm động, dù chúng tôi có bị trở ngại (ít nhiều) vì bất đồng ngôn ngữ. Tôi và anh bạn hăng hái ký tên vào sổ lưu niệm, và sốt sắn hiến tặng hết cả số tiền mà chúng tôi có sẵn trong người.

Lúc trở ra, tôi thật hân hoan khi thấy hai chiếc xe du lịch (cùng với du khách) nối đuôi nhau vào trại – dù trời đã ngả chiều. Phải vậy chớ. Không lẽ cả một trung tâm du lịch mà có mình (ên) tụi tui thì coi sao được.

Tình trạng thưa vắng du khách ở Galang chắc đã bắt đầu từ nhiều năm trước. Nhật báo Jakarta Post, số ra ngày 01 tháng 8 năm 2009, có bài viết (“Vietnamese Refugee Camp Still Open’) đề cập đến yêu sách đóng cửa trại tỵ nạn (Galang) của nhà đương cuộc Hà Nội.

Bài báo này dẫn lời bà Nada Faza Soraya – Chánh Sự Vụ Phòng Thương Mại Của Nam Dương – nói rằng khu trại rất quan trọng đối với hướng dẫn viên du lịch, và họ không hề có ý muốn khai thác quá khứ đen tối của chính phủ Việt Nam. (“There was no intention of exploiting the gloomy past of Vietnamese gorvernment”).

Cùng thời điểm này, từ Galang, phóng viên Hồng Nga của BBC cũng có bài tường thuật (nghe được vào ngày 5 tháng 8 năm 2009) về sự việc này:

“Hai thập niên hiện diện của ngưi Việt tại đây khiến thông tin trại có thể sẽ đóng cửa vĩnh viễn, ngừng đón người ti thăm khiến người dân địa phương ngỡ ngàng.”

“Lý do chính là từ khi ngừng hoạt động, trại tỵ nạn Galang cũ đã trở thành một địa chỉ du lịch khá phổ biến, mang lại thu nhập cho người bn địa.”

“Dư luận địa phương bày tỏ bất bình, trong khi có cáo buộc chính phủ Việt Nam đã gây áp lực vi Jakarta để làm công việc này.”

Đồng thời, đại diện tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, ông Trần Đông cũng đã lên tiếng chỉ trích việc “âm thầm xóa bỏ dấu vết tội ác, hủy hoại di tích lịch sử và nhân đạo thế giới tập đoàn đảng trị và tay sai Bắc Kinh tại Hà Nội.”

Nhân đây, cũng xin được nói thêm đôi điều về cơ quan thiện nguyện Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam (Archives of Vietnamese Boat People – AVBP) qua lời của nhà văn Trùng Dương, sau chuyến đi thăm Galang của chị, vào năm 2012:

“Hội AVBP, Web site tại http://www.vnbp.org/, được thành lập từ năm 2004, nhằm tìm kiếm và trùng tu các mộ phần thuyền nhân, không phân biệt có tên hay vô danh, ở rải rác các nơi trong vùng Đông Nam Á, đồng thời ghi dấu lại các di tích thuyền nhân để các thế hệ sau biết mà tìm đến vì chính quyền Cộng Sản Việt Nam cố tình muốn xoá bỏ những di tích lịch sử này, để đồng thời bạch hoá tội lỗi của chế độ ngu muội hà khắc đã là nguyên do đẩy cả triệu người Việt ra biển đi tìm một đời sống có tự do và nhân phẩm, với từ 200,000 tới nửa triệu con người bị chết trên đường đi tìm một đồi sống có nhân phẩm. Sự hy sinh này và phần mộ của những người còn may mắn có được nấm mồ chính là những chứng tích của một giai đọan lịch sử cần được duy trì và bảo vệ.”

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên Thanh Quang (RFA) nghe được vào hôm 17 tháng 10 năm 2013, ông Trần Đông – Giám Đốc AVBP –  cho biết thêm chi tiết:

Chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng tới cuối năm 2015 sẽ hoàn tất công trình mộ phần thuyền nhân Việt Nam tại tất cả những nơi vừa nói. Hiện giờ chúng tôi đang xúc tiến ráo riết tổ chức gây quỹ trong năm 2014 song song với việc trùng tu mộ thuyền nhân trong 2014 và 2015. Chúng tôi rất hy vọng được sự đóng góp giúp đỡ của tất cả đồng hương khắp nơi trong đợt gây quỹ lần cuối cùng vào năm 2014 và có thể có những cuộc gây quỹ nhỏ nữa trong năm 2015 để hoàn tất công tác trùng tu tất mộ thuyền nhân trong vùng Đông Nam Á vào cuối năm 2015.”

Tôi không hy vọng là Galang, trong tương lai gần, có thể trở thành một công viên du lịch hấp dẫn hay một khu di tích lịch sử – như nhiều người mong đợi vì điều này tùy thuộc hoàn toàn vào thái độ của chính quyền địa phương, và ngoài tầm tay của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Tuy nhiên, tôi tin chắc là VKTNVN “sẽ hoàn tất công tác trùng tu 2500 mộ thuyền nhân rải rác khắp vùng Đông Nam Á vào cuối năm 2015” – dù biết rằng đây chả phải là chuyện dễ dàng chi, và rất cần sự góp sức của mọi người.

Đó là việc tối thiểu mà chúng ta có thể làm được, và bắt buộc phải làm. Những người cầm quyền hiện nay ở VN không mong gì hơn là chúng ta thất bại trong việc duy trì và bảo tồn “lịch sử thuyền nhân.”

Nếu không có cái “lịch sử” bi tráng này và  “những chứng tích của một giai đọan lịch sử cần được duy trì và bảo vệ” thì cộng đồng thuyền nhân (hôm nay) và con cháu của họ (sau này) nào có khác gì một đám người trôi sông lạc chợ.