Sứ mạng của người Việt tử tế

Sứ mạng của người Việt tử tế

Chuacuuthe.com

VRNs (13.02.2015) – California, USA – Thế nào là Người Việt Tử Tế?

Tử Tế có vài nghĩa chính: [a] có những gì phải có để được coi trọng; [b] hành động tinh-mật, rành rõi, cẩn mẫn, kỹ càng [Đào Duy Anh, Hán-Việt Từ-Điển]; [c] có lòng tốt trong cách đối xử đứng đắn, nhân đạo với nhau.

Vậy, ngay hai chữ “tử tế” tự nó có thể quy tụ những thành tố kết lực để định nghĩa Người Việt Tử Tế [NVTT]:

* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;

* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;

* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;

* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.

150212001

Chúng ta cần khẳng định ngay, Người Việt Tử Tế không thể là người cộng sản, vì căn bản của người cộng sản đi ngược lại với tất cả các kết tố của NVTT. Hơn nữa cũng không thể chờ mong người cộng sản “biến hoá” thành NVTT, ngoại trừ trường hợp họ thực sự, thực tâm thoái đảng và bỏ hẳn lối sống và tư duy cộng sản.

Nhưng đồng thời, không phải bất cứ ai cứ “chống cộng” đương nhiên là NVTT. Giả thử người chống CSVN lại [a] ngoi theo chủ nghĩa phát-xít, độc tài quân phiệt hay [b] hùa theo đường lối khủng bố của bá đạo Cực-Hồi [ISIS/Islamic State of Iraq and Syria], hay [c] vẫn quen mui áp dụng thủ đoạn tố khổ, chụp mũ, vu khống của CSVN, thì rõ rệt, chống cộng như thế cũng chả hơn gì, vì vẫn đắm đuối trong vòng luẩn quẩn của tội ác triệt hạ đời sống và phẩm giá con người.

Trước đây, người Việt Quốc Gia đã có công mở đường tới ý niệm dân chủ tự do, trọng pháp, trọng nhân. Nhưng trong một giai đoạn quá ngắn và nhiều trở ngại binh đao bất ổn, người Quốc Gia qua hai nền Cộng Hoà đã không kịp vẹn toàn sứ mạng giao phó. Danh hiệu và chức năng “Quốc Gia” chỉ là hình ảnh ngón tay chỉ dẫn tới “Dân Chủ Tự Do Chân Chính Nhân Bản”, nếu ngón tay đó thực sự là một “mẫu mực” thẳng thắn, nghiêm chỉnh, nhân từ, chính đáng, đích thực dẫn đường tới “con người tử tế, chân chính”.

Nên ngón tay chưa phải là cái “đích tìm kiếm” hay ngưng lại tại đó. Chất Người Tử Tế Chân Chính của ý niệm “Quốc Gia/không Cộng Sản” mới là cứu cánh của cuộc hành trình tìm lẽ sống, lẽ phải.

Vậy, người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại thế giới tư do tân tiến đã thực hiện được những gì, sau 40 năm sinh sống thoải mái với đầy đủ phương tiện an cư lập nghiệp, an sinh xã hội, với đầy đủ thời gian [gấp 2 lần nền Cộng Hoà 1 và 2] để hội nhập nền dân chủ chân chính trọng pháp, trọng nhân?

Người viết vẫn tin rằng, sau 40 năm hấp thụ nền nếp dân chủ tự do nhân bản nơi tá túc; sau 40 năm học hỏi kiến thức cởi mở, đa nguyên, đa dạng; sau 40 năm kinh nghiệm làm người Việt tự do, tử tế, tự tin, biết rõ quyền hành và trách nhiệm của mình, đa số công dân Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đều cởi mở, thông minh và can trường hơn so với quá khứ đen tối trước đây.

Nhưng trong giai đoạn “chuyển tiếp” khá dài này, vẫn còn sót một thiểu số người Quốc Gia cực đoan, độc diễn với những thành tích không mấy rõ rệt, dẫm chân tại chỗ, tự mãn, không cần mở mang trí tuệ, bổ túc nhân cách; cùng không cần trau dồi kiến thức về mặt pháp lý và công lý nhân quyền, nên dễ trở thành độc đoán, độc tài, vô hình chung đã đi ngược lại với sứ mạng và đường lối Dân Chủ Tự Do Nhân Bản Chân Chính mà Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thực sự muốn tìm kiếm và hoàn tất.

Người Việt Tử Tế Là Mẫu Số Chung

Trong 40 năm qua trên mặt công luân, qua báo sách, truyền thông trên mạng, người Việt chúng ta đã bỏ quá nhiều công sức “Chống Cộng”. Đó là điều cần để bác bỏ, khai trừ một căn bệnh văn hoá ý thức hệ điên cuồng, ác liệt, phá hoại nhân phẩm và đời sống con người hơn 80 năm qua tại Việt Nam. Nhưng nỗ lực kêu đau, gào thét, mắng chủi này chưa đủ, vì khiếm khuyết đường lối “Vượt Cộng”, “Chữa Cộng”.

Nếu chỉ chuẩn bệnh và hô hào thật to đó là bệnh “Cộng Sản” mà không tìm cách giúp con bệnh “thoát bệnh”, giúp đương sự khoẻ mạnh lại thì vô hình chung người “chống cộng xuông” chưa phải là một “lương y” hoàn tất trách nhiệm cứu người bị CSVN ám hại. Một lương y, một y sĩ giỏi phải cấp tốc cho đơn thuốc điều trị bệnh và chỉ dẫn những biện pháp cần thiết triệt bệnh và ngăn bệnh.

Nếu chúng ta muốn xóa đói giảm nghèo ngay trong gia đình chúng ta, thì:

* Hãy bớt thì giờ kêu gào, than thân trách phận hẩm hiu, đói nghèo;

* mà lập tức học hỏi; tìm hiểu thế nào là sung túc, là an khang, thịnh vượng; là hãnh diện gia đình, là hạnh phúc con người biết sống ra sống, biết ăn, biết mặc;

* và từ đó tìm cách giải đáp nhu cầu, chu toàn cấp bách giải pháp sinh sống căn bản/tạo nghiệp/đầu tư nhân sự/phát triển toàn diện /trao đổi/tích lũy cho tương lai v.v.

Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại, những vị cựu tù nhân chính trị/tù nhân lương tâm, những thành phần tranh đấu, bất đồng chính kiến trong nước đều có thể đảm nhận nghiệp vụ “lương y”, [a] một mặt xác định rõ thế nào là căn bệnh “cộng sản”, nhưng lập tức [b] phải điều nghiên, thử thách, phổ biến thuốc men và phương pháp trị bệnh, ngừa “bệnh cộng sản”.

Người Việt Tử Tế tại Hải ngoại và trong nước là hiện sinh của giới “lương y” chữa bệnh cộng sản, khi đối xử với mình và tha nhân, khi quản trị việc công cũng như tư nghiệp với những nhận định và tiêu chuẩn như sau:

* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;

* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;

* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;

* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.

Chỉ những Công Dân Người Việt Tử Tế, những đồng bào, đồng hương “Chúng Ta” khi nghiêm nghị, cẩn mẫn, biết rõ quyền thế và trách nhiệm của mình; biết rõ gốc gác & sứ mạng nhân từ của chính mình; biết rõ cách sinh sống thuận hoà, khiêm tốn, quân bình mới thực sử đảm nhận cuộc sống đầy đủ ý nghĩa ngày hôm nay; đóng góp phúc lợi cho tương lai dân tộc, cho con cháu chúng ta.

Chúng ta hãy đặt trọng tâm vào giai đoạn Làm Người Tốt. Đó là một thứ Đạo-Việt “tân-ước” hay cập nhật thành một Cách-Sống nhân bản tự tin, nhân chủ và dân chủ; thành trạm tới của Người Việt Tử Tế, cái bến tạm dung, nhưng toàn mỹ, toàn bích, an lành, khả chấp và khả thi.

Đó sẽ là Không Gian Tử Tế, mở và bao dung, không quá khích, không miệt thị, không kỳ thị. Tất cả Người Việt chúng ta không cần làm thánh, làm siêu nhân; nhất là không cần làm “hung thần”, hung tướng, mà chỉ cần hoàn tất đúng và đủ vị thế của những con người tử tế, chân chính, mạch lạc; từ bi và hùng dũng. Thế đã là đủ.

Vậy chúng ta hãy níu kèo lại chúng ta theo hướng đi đó, từng bước ngắn, gọn, rõ rệt, chân thật, công minh. Không dối lòng. Không dối mình. Không dối người. Không dối đời.

Và trước tiên không thể tự bôi nhọ minh, bôi nhọ tha nhân, bôi nhọ cuộc đời còn lại hay sắp tới.

Chúng ta đều trách nhiệm như nhau, hay ít ra sẽ phải “đối mặt” với ngần ấy hậu quả, ngần ấy vận mệnh, ngay trong cuộc sống tập thể hay quan niệm sống từng người, dù chúng ta nhập cuộc hay không nhập cuộc cũng vậy. Điển hình, chúng ta đã một lần mất nước. Biết thế nào là mất tất cả, dù muốn, dù không.

Nhưng xin đừng mất nốt dân tộc chúng ta.

Vậy, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống! Ít ra khi nhắm mắt sẽ không tiếc nuối đã bỏ lỡ cơ hội làm Người Việt Tử Tế.

Trân Trọng.

Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM

(Trích bài Từ Quốc Hận 30 Tháng Tư Tới Sứ Mạng Chân Chính Của Người Việt Tử Tế)

TU TẠI GIA

TU TẠI GIA

Chuyện phiếm của Gã Siêu

Cách đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này:

Có ba người cùng tôn giáo, gồm một nhà truyền giáo, một anh tài xế lái xe đò và một bác nông dân có vợ và mười đứa con. Ba người đều thâm niên bốn mươi năm chức nghiệp, đã qua đời cùng một giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin vào thiên đàng. Ba người cùng tới một lúc, nên Thánh Phêrô mới nói:

– Các anh hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?

Nhà Truyền Giáo nói:

– Hai anh dành cho tôi vào trước được không?

Anh tài xế và bác nông dân đều kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh cất tiếng cùng một lúc:

– Chúng tôi xin nhường ngài vào trước.

Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phêrô và chững chạc tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ trước Thiên Nhan và tâu:

– Muôn lạy Chúa, con là nhà truyền giáo đã làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt bốn mươi năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên đàng trước.

Chúa ngắm nhìn nhà truyền giáo với tấm lòng yêu thương dạt vào và rồi xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha

Con giảng giáo dân ngủ gật gà

Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng

Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta.

Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra. Anh tài xế nói với bác nông dân:

– Bác nhường cho tui vào trước nhé vì tui thường chở bác đi đây đi đó.

Bác nông dân gật đầu chấp nhận vào sau chót. Anh tài nhanh nhảu cúi đầu chào thánh Phêrô và tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ xuống, rồi ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:

– Muôn tâu lạy Chúa! Con làm tài xế xe đò, suốt bốn mươi năm con phục vụ đồng bào, chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên đàng sớm.

Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười:

– Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa kiện con vì bị thương dập mũi, trầy trán gì đó mà Cha chưa kịp xem hết.

Cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Xe đò chuyên chở khách đi xa

Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà

Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi!

Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta!

Anh tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ. Đến lượt bác nông dân, bác rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì, thì làm sao vào nổi Thiên đàng, nên rất hồi hộp lo âu! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phêrô và nhỏ nhẹ thưa:

– Bẩm ngài, con được phép vào chưa?

Thánh Phêrô gật đầu và  nói:

– Con hãy vào trình diện Chúa đi.

Bác nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa Thiên đàng cả trăm mét, bác đã quỳ xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu và khúm núm tâu:

– Bẩm lạy Cha nhân từ! Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và mười đứa con, ban tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà thân yêu của Cha là con sung sướng lắm rồi. Cha muốn con làm bất cứ việc gì, con cũng xin vâng theo!

Chúa nhìn bác nông dân một cách trìu mến và Ngài phán:

– Con quả thực có công lớn.

Rồi Ngài đọc mấy vần thơ chợt nghĩ ra:

– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay

Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!

Suốt bốn mươi năm con chịu nổi

Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay.

Từ hình ảnh bác nông dân âm thầm chu toàn những bổn phận của mình, gã bỗng nhớ tới mấy câu ca dao về đường tu, thì cũng có dăm bảy đường:

– Thứ nhất thì tu tại gia,

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu…dòng.

Là con nhà có đạo, chúng ta thường hiểu chữ tu là dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Lý tưởng ấy được thực hiện bằng hai cách, đó là tu triều và tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của từng dòng.

Tuy nhiên, nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn nắn những sai lỗi, để trở thành một con người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đồng thời gia đình chính là môi trường thuận tiện để chúng ta thực hiện lý tưởng đời tu của mình.

Vì thế, ngoài tu triều và tu dòng, chúng ta còn có một cách tu khác nữa, đó là tu nhà hay tu tại gia, nghĩa là cứ ở tại nhà, cứ sống trong gia đình của mình mà tu bằng cách sửa đổi những khuyết điểm và chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Các cụ ta ngày xưa đã từng nói: Phải tu thân trước đã, rồi sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Việc tu thân này tiên vàn phải được thực hiện ngay tại gia đình của mình, bởi vì nhiều khi chính những sai lỗi của chúng ta đã làm cho những người thân yêu buồn phiền, cuộc sống trở nên ngột ngạt và tình yêu đi dần tới chỗ rạn vỡ. Muốn được thương thì chúng ta cần phải trở nên một người thương được.

Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Bởi đó, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Đang khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực, để bào chữa. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà nghiêm khắc với người khác. Đáng lý ra chúng ta phải rộng rãi với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.

Ngoài ra, gia đình còn là một xã hội thu nhỏ, trong đó chúng ta có được những mối liên hệ với nhau. Vì thế, việc tu nhà hay tu tại gia đòi buộc chúng ta phải chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình, để làm cho gia đình thực sự trở thành một mái ấm ngập tràn hạnh phúc.

Trước hết, là vợ chồng chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận, trung thành và giúp đở lẫn nhau.

Hiện nay, nền tảng gia đình đang bị lung lay tận gốc rễ và hôn nhân đang rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Số những đôi vợ chồng lôi nhau ra toà để ly dị mỗi ngày một gia tăng. Vậy phải làm thế nào để cứu vãn tình trạng đen tối này?

Theo gã nghĩ: Cái qui luật muôn đời của tình yêu, chính là sự hy sinh. Thực vậy, thánh nữ Têrêsa đã bảo:  Tình yêu chân thật phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Hãy cho tình yêu vào máy mà cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là tình yêu thứ thiệc, bằng không thì đó chỉ là một tình yêu dỏm mà thôi. Và tình yêu thứ thiệc này thì đáng giá bằng cả cuộc đời.

Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy tình yêu và sự hy sinh luôn gắn bó mật thiết với nhau. Hy sinh mà không có tình yêu thì đó chỉ là những sự thừa thãi. Còn tình yêu mà vắng bóng hy sinh, thì đó chỉ là những lạm dụng và giả dối, như Tagore đã nói: Tại sao hoa kia lại tàn và suối kia lại cạn. Xin thưa, chỉ vì người ta đã hái hoa mà ép vào ngực, chỉ vì người ta đã đắp đập chặn suối. Nếu không biết vượt qua tính ích kỷ thì tình yêu cũng sẽ khô cạn và tàn héo như vậy.

Hy sinh càng lớn sẽ làm cho tình yêu càng thêm nồng thắm. Và với một tình yêu nồng thắm người lại càng dễ chấp nhận những hy sinh to lớn hơn cho nhau và vì nhau. Đỉnh cao của hy sinh cũng như của tình yêu đó là dám chết cho người mình yêu. Thế nhưng, chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau cũng không phải là việc dễ dàng.

Chuyện rằng: Một người đàn ông nọ đi xưng tội. Cha giải tội ra việc đền tội bằng cách hôn kính Thánh Giá ba lần. Ông ta bèn chạy về nhà, ôm chầm lấy bà xã và hôn lấy hôn để những ba lần, bởi vì ông ta thầm nghĩ: Bà xã chính là cây Thập Giá Chúa đã gửi vào cuộc đời của ông ta.

Tiếp đến là cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

Sống trong thời buổi “gạo châu củi quế”, vật giá leo thang đến chóng cả mặt, nên chu toàn được bổn phận sinh sản và nuôi dưỡng con cái không phải là chuyện dễ. Thảo nào mà nạn ngừa thai tràn lan khắp nơi và Việt Nam ta đứng hàng đầu về nạn phá thai.

Cùng với những tiến bộ về những phương tiện truyền thông: Nào điện thoại di động, nào nối mạng internet…Nhiều bậc làm cha làm mẹ đã không theo kịp con cái, thành thử việc giáo dục đã gặp phải không ít những khó khăn.

Tuy nhiên, đối với phần lớn người Việt Nam, con cái vẫn còn là một điều tốt lành đáng được mong ước. Trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là lắm con, nhiều cháu, lắm tiền, nhiều bạc. Sở dĩ như vậy vì con cái sẽ làm cho bầu khí gia đình được đầm ấm, được tươi vui như tục ngữ đã bảo: Con đàn như tre ấm bụi.

Mặc dù vốn biết rằng: Con cái đôi lúc đã trở thành một gánh nặng, thế nhưng cha mẹ vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc trong lành và đơn giản nơi con cái. Thiếu con cái là thiếu ánh sáng nơi con mắt. Nhiều tiền mà không con thì vẫn chưa hẳn là giàu. Trái lại đông con mà ít tiền, thì vẫn chưa hẳn là nghèo. Hơn nữa, nhiều khi con cái chính là chiếc gạch nối, chính là nhịp cầu cảm thông giữa hai vợ chồng. Đáng lý ra hai vợ chồng đã cãi cọ, đánh lộn hay lôi nhau ra tòa xin ly dị, nhưng vì con cái, họ không nỡ làm như vậy. Vì con cái, họ quên đi và tha thứ cho nhau. Vì con cái, họ tìm cách hòa giải cùng nhau. Vì con cái, họ sẵn sàng chập nhận mọi hy sinh gian khổ. Bởi vì nhà không có tiếng cười của trẻ thơ, thì vắng lặng, buồn tẻ như một ngôi mộ chết.

Ngoài ra, là con cái, chúng ta có bổn phận phải yêu mến, trọng kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ.

Làm sao kể ra cho hết những khổ đau, những vất vả, những hy sinh cha mẹ đã phải chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nuôi dạy chúng ta nên người. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh người mẹ đã phải thức trắng nhiều đêm để canh giữ giấc ngủ cho đứa con, khi nó đau ốm. Chúng ta hãy nghĩ đến những giọt mồ hôi chảy xuống trên khuôn mặt người cha trong những giờ lao động cực nhọc ngoài đồng ruộng nóng cháy, trong hầm đá mệt mỏi, hay tại nhà máy ồn ào đinh tai nhức óc….tất cả những việc ấy để làm gì nếu không phải là để kiếm tiền về nuôi sống chúng ta và gia đình.

Bởi đó, chúng ta mắc nợ cha mẹ nhiều lắm, không phải chỉ mắc nợ về tiền bạc vật chất, mà còn mắc nợ về tình yêu thương. Một khi đã mắc nợ về tình yêu thương thì chỉ có thể đáp trả lai bằng tình yêu thương mà thôi. Ca dao đã nhiều lần khuyên nhủ:

– Dạy con, con chớ quên lời,

Yêu cha mến mẹ suốt đời không quen.

Cũng trong chiều hướng ấy, ca dao còn xác quyết:

– Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Thuở xưa, có một anh chàng nghe nói về Phật, thì thích lắm, bèn quyết tâm đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp lên đường. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, và gian nguy hiểm trở, chàng ta vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả: Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng.

Ngày kia, tại một sườn núi nọ, anh chàng tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm. Mừng quá, anh chàng khẩn khoản:

– Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

– Ồ! Chỗ nào mà không có Phật. Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư?

– Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

– Cháu ngốc thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư?

– Thế thì Phật chết rồi sao?

– Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không?

– Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát mong.

– Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé. Con hãy quay trở về và trên đường, nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái, thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay trở về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa, bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào:

– Ôi Đức Phật yêu quí của con.

Sau cùng, là anh chị em với nhau, chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Người ta thường bảo: Chuyến đò nên nghĩa, miếng trầu nên duyên. Trong cuộc sống, có những người chúng ta mới chỉ gặp nhau một vài lần, trao đổi với nhau đôi ba câu chuyện, thế mà tình nghĩa đã mặn nồng, huống nữa là đối với anh chị em ruột thịt, là những người cùng sống với chúng ta dưới một mái nhà, cùng chia sẻ với chúng ta những nỗi vui buồn, cũng như cùng có chung một dĩ vãng. Vì thế, chúng ta càng phải yêu thương nhau hơn.

Hơn thế nữa, anh chị em còn có chung một ngồn gốc,  được sinh ra bởi cùng một cha một mẹ, cùng mang trong mình cùng một dòng máu. Chính vì thế tục ngữ đã diễn tả: Một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Nếu chúng ta không yêu thương những người cận kề với chúng ta, nếu chúng ta không yêu thương chính thân xác chúng ta, chính máu huyết chúng ta, thì làm sao có thể yêu thương những kẻ xa lạ.

Tuy nhiên, trong cuộc sống, chúng ta thấy không thiếu gì những người anh em với nhau, chỉ vì đồng tiền cắc bạc, hàng rào bờ dậu…đã đi tới chỗ giận hờn và thù oán, không còn thèm nhìn mặt nhau nữa.

– Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.

Nếu anh em trong gia đình mà không bảo ban, đùm bọc được nhau, thì làm sao có thể khuyên nhủ và nêu gương cho những người chung quanh.

Ông bố nọ trên giường hấp hối, đã gọi những người con của mình đến và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều bẻ được chiếc đũa một cách dễ dàng. Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều cố gắng hết mình, nghiến răng trợn mắt, vận dụng hết mọi nội công, mà cũng chẳng tài nào bẻ nổi bó đũa. Từ sự việc trên, ông đã khuyên nhủ:

– Bố sắp sửa ra đi và trở về cùng ông bà tổ tiên, lời nói sau cùng bố muốn trối lại cho các con, đó là các con hãy yêu thương, đoàn kết và đùm bọc lẫn  nhau. Chính nhờ sự yêu thương, đoàn kết và đùm bọc ấy, các con sẽ tạo được sự hòa thuận giữa các con đã đành, mà hơn thế nữa, các con còn tạo được sức mạnh để không một ai có thể  chèn ép, bóc lột các con được.

Hình ảnh bó đũa cũng là hình ảnh mà mỗi người chúng ta cần phải khắc ghi. Nếu từ trước đến giờ, chúng ta đã có những tị hiềm, những giận hờn, thì hãy mau mắn xóa bỏ và làm hòa cùng nhau. Là những người anh chị em cùng một cha một mẹ, cùng một cội nguồn, chúng ta phải biết thực sự yêu thương, hoà thuận và giúp đở lẫn nhau, bởi vì :

– Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Để kết luận, gã xin mượn lại câu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ thứ 5 tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột.

Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế đẩu trên một cái bàn, rồi leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói tiếp:

– Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à.

Giáo sư Carl Thayer: VN cần ‘cải cách kinh tế’ để giảm phụ thuộc TQ

Giáo sư Carl Thayer: VN cần ‘cải cách kinh tế’ để giảm phụ thuộc TQ

Chuacuuthe.com

20150210_Carl_GUOI

VRNs (10.02.2015) – Đài tiếng nói Việt Nam dẫn lời Giáo sư Carl Thayer cho biết, Việt Nam cần ‘cải cách nền kinh tế, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước’ để giảm sự phụ thuộc quá lớn vào nền kinh tế Trung Quốc.

Vị chuyên gia chính trị Việt Nam nhận định trong cuộc phỏng vấn công bố hôm 9/2, Việt Nam không nên tính chuyện hoàn toàn “độc lập về kinh tế” với Trung Quốc vì đây ‘là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới’ và ‘kinh tế trên thế giới là nền kinh tế mở và phụ thuộc lẫn nhau.’

Tuy nhiên, để giảm sự phụ thuộc nền kinh tế Trung Quốc, ông Carl Thayer đưa ra nhiều đề nghị. Trong đó có việc ‘cải cách nền kinh tế bằng cách thúc đẩy các công ty nhà nước hoạt động hiệu quả’; cung cấp môi trường phù hợp cho các doanh nghiệp nước ngoài để thu hút đầu tư; và nên gia nhập TPP để tận dụng cơ hội trao dổi thương mại này với 40% nền kinh tế toàn cầu của các nước thành viên.

Bàn về vấn đề hàng hóa Trung Quốc tràn ngập Việt Nam, vị giáo sư đã về hưu cho rằng, Việt Nam cần phải dập tắt tình trạng tham nhũng của các quan chức biên giới và hải quan, để giảm lượng hàng hóa TQ vào VN bằng đường buôn lậu. Đồng thời, nên khuyển khích sản xuất hàng hóa có chất lượng.

Ông cũng nói, trong quan hệ Mỹ- Việt – Trung, dù quan hệ Việt –Mỹ được cải thiện đến đâu thì Mỹ vẫn không thay đổi trong chính sách với Biển Đông. Mỹ tiếp tục giữ vai trò trung lập và chỉ phản đối các yêu sách của Trung Quốc nếu những yêu sách này ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ.

Đức Thiện. VRNs tổng hợp

Bà Lê Hiền Đức kêu gọi bảo vệ tính mạng cho Bà.

Bà Lê Hiền Đức kêu gọi bảo vệ tính mạng cho Bà.

RFA

Ngày hôm nay, 9/2/2015, Bà Lê Hiền Đức, đã khẩn cấp ra lời kêu gọi bảo vệ tính mạng cho Bà.

Bà là Công dân chống tham nhũng, là 1 trong 2 người được Giải thưởng Liêm Chính của Tổ chức Minh bạch quốc tế năm 2007.

Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, ông Rolf Bergman nói:

“Việt Nam cần tự hào vì có những công dân như bà Lê Hiền Đức, là người không những chỉ muốn Đảng và Nhà nước chấm dứt nạn tham nhũng, mà còn thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, đóng góp cụ thể vào cuộc chiến chống tham nhũng… hy vọng là bà Lê Hiền Đức sẽ là tấm gương điển hình cho nhiều người Việt Nam khác”.

=====================

Tôi xin khẩn cấp kính gửi:

Các bạn bè trên thế giới, các đài, báo (đã có dịp gặp và phỏng vấn tôi ở nhiều nơi, tại Hà nội và trong các hội thảo ở các nước trên thế giới): BBC, RFA, RFI, đài Á châu tự do, Từ cánh đồng mây, Chân trời mới, báo Asahi Shimbun,Yomiuri Shimbun (Nhật bản), Truyền hình NHK (Nhật bản, tại Hà nội).

Hãng thông tấn AFP, báo Nikkei, Thomson Reuters,De Volskrant (Balan), Thông tấn: AP, Dpa, ANU, Tòa báo Carnets du Việt nam, Radio – Canada…

Kính thưa các bạn:

Tôi là Lê Hiền Đức (84 tuổi), công dân chống tham nhũng ở Việt nam (không có chức vụ, không có quyền hạn gì và cũng không có tiền ngoài số lương hưu của nhà giáo già: 3.200.000 đồng Việt nam, tương đương 150 đô la). Vì tôi căm ghét và kiên quyết chống tham nhũng đến cùng. Nhân dân ai cũng hiểu điều đó đối với tôi nên nhân dân khắp cả nước (63 tỉnh thành phố) đều thương, quý tôi, tìm đến tôi mong muốn chia sẻ nỗi bức xúc, nỗi oan ức và muốn tôi cùng đồng hành với mọi người Dân oan.

Gần đây vì quá bức xúc với tệ nạn tham nhũng ở Việt nam ngày càng trầm trọng

Dân oan ngày càng nhiều, tôi luôn luôn tìm hiểu và đưa lên công luận nhiều thông tin về những cán bộ tham nhũng vì họ đã gây nên nhiều oan khuất trong nhân dân, thậm chí có Người dân ở Thái bình (Đặng Ngọc Viết đã phải thẳng tay trừng trị bọn tham nhũng và sau đó anh đã tự sát.)

Gần đây, ngày 30/1/2015, cũng vì bức xúc trước cách giải quyết của 1 viên quan chức bà Nguyễn thị Tân (1 tiểu thương) đã tự thiêu ngay tại chợ Đại hiệp (Quảng nam)…

Tôi không thể ngồi yên trước nỗi đau của nhân dân Việt nam thân yêu của tôi. Tôi luôn tố cáo các quan chức tham nhũng. Chính vì vậy đã làm cho nhiều tên tham nhũng căm tức tôi và thuê bọn người thiếu Liêm xỉ “KHỦNG BỐ” tôi:

Tôi đã làm đơn trình báo với cơ quan công an từ ngày 29/1/2015 nhưng chưa được cấp nào kiểm tra, giải quyết.

Chính vì nguyên nhân đó mà hiện tại tôi bị kẻ gian đã nhắn tin qua face book, qua điện thoại, gọi điện trực tiếp ngày, đêm đe dọa tôi…

Tôi kính đề nghị các phóng viên của các Đài, Báo trên thế giới và bạn bè trong nước lên tiếng để các cơ quan chức năng phải có biện pháp cấp thiết TRỪNG TRỊ kẻ khủng bố tôi, BẢO VỆ AN TOÀN TÍNH MẠNG TÔI. Nếu xảy ra 1 việc gì không hay đối với tôi về sức khỏe, về cuộc sống thì các cơ quan chức năng hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật và công luận trên toàn thế giới.

Công dân Lê Hiền Đức xin Cấp báo và chân thành cảm ơn các quý vị .

* Gần đây, ngày 27/1/2015, nick facebook Nguyễn Hoàng Thế Đức gửi vào tin nhắn cho Bà Lê Hiền Đức với nội dung sau:

Kèm theo bức ảnh chụp màn hình, Bà Lê Hiền Đức viết:

“Xin mời các bạn xem một phần nhỏ của cái gọi là hệ thống tuyên giáo, công cụ tuyên truyền ở VN. Những con chó cắn càn sủa bậy như thế này chẳng mảy may ảnh hưởng gì đến con đường mà tôi đã chọn. Nhưng chắc chắn tên Thế Đức này tôi sẽ trừng trị để làm gương cho đám Quang, Lệ, Dũng, đừng dại dột mà ngăn cản những con người của chính nghĩa”.

Nguyễn Hoàng Thế Đức là người có mặt tại buổi tọa đàm “Cơ chế của Liên Hợp Quốc về bảo vệ Người bảo vệ Nhân quyền” tổ chức tại Nhà thờ Thái Hà ngày 26/11/2014. Trong cuộc tọa đàm này, khi anh em dân chủ nhận ra hắn, mời lên giao lưu thì  hắn bỏ chạy nhưng đã được anh em giữ lại nói chuyện và cư xử thân tình. Qua câu chuyện, hắn xác nhận những gì viết trên fb Nguyễn Hoàng Thế Đức. Ảnh:

Nguyễn Hoàng Thế Đức là người đeo kính  cận

Trong buổi nói chuyện, Nguyễn Hoàng Thế Đức cũng xác nhận là người xông vào định đánh tôi (Nguyễn Tường Thụy) ngày 15/10 khi chúng tôi đến Ban Dân nguyện của Quốc Hội trao bản “Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô”.

Nhiều người rất phẫn nộ trước những lời lẽ hỗn láo của Nguyễn Hoàng Thế Đức đối với Bà Lê Hiền Đức trong ảnh chụp màn hình trên đây.

Vấn đề đặt ra là, ai là kẻ dung dưỡng, khuyến khích Nguyễn Hoàng Thế Đức làm những chuyện như trên. Điều này sẽ rõ ràng hơn nếu cơ quan có thẩm quyền không xử lý tên Nguyễn Hoàng Thế Đức khi hắn bị Bà lê Hiền Đức kiện.

9/2/2015

Nguyễn Tường Thụy

Nhà văn Nguyễn Quang Lập được tại ngoại.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập được tại ngoại.

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-02-10

Nhà văn Nguyễn Quang Lập (blogger Quê Choa)

Nhà văn Nguyễn Quang Lập (blogger Quê Choa) đã về đến nhà ngày 10 tháng, 2015

RFA files

Vào lúc 10 giờ sáng hôm nay ngày 10 tháng 2 năm 2015, nhà văn Nguyễn Quang Lập, chủ trang blog Quê Choa đã được tại ngoại chờ ngày ra tòa xét xử về tội vi phạm điều 88 bộ luật hình sự.

Bà Hồ Thị Hồng vợ của nhà văn cho chúng tôi biết:

-Anh Lập về nhà vào lúc 10 giờ sáng nhìn thấy anh ấy vẫn khỏe, người gọn hơn một tí thôi nhưng vẫn khỏe. Anh Lập tự thuê taxi về vẫn trong thời gian được tại ngoại nhưng vẫn điều tra.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập bị cơ quan an ninh điều tra thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ vào chiều ngày 6 tháng 12 năm 2014 với lý do “bị bắt quả tang đang tải những bài vở có nội dung xuyên tạc chống nhà nước”.

Bà Hồ Thị Hồng vợ ông đã làm đơn xin cho chồng được tại ngoại với lý do sức khỏe của chồng bà không thể chịu nổi sự giam giữ trong trại giam. Đơn xin của bà Hồng đã được Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao chuyển cho Viện kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minh và cơ quan giam giữ để cứu xét, quyết định cho nhà văn tại ngoại vào ngày hôm nay.

Từ Hà Nội, nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ Thuật Hà Nội cũng là người theo dõi việc nhà văn Nguyễn Quang Lập bị tạm giam qua câu “Bọ vẫn chưa về” mỗi ngày trên trang Facebook của ông. Nhà văn Phạm Xuân Nguyên cho chúng tôi biết ý kiến sau khi nhận được tin Nguyễn Quang Lập được tại ngoại:

-Ngay khi được tin nhà văn Nguyễn Quang lập được tại ngoại sau hai tháng 4 ngày bị bắt tạm giam thì trước hết là cảm giác vui mừng của tôi với tư cách là bạn thân của Lập cũng như là của anh em văn nghệ sĩ trong nam ngoài bắc. Đây cũng là điều mà ngay từ khi Lập bị bắt vào ngày 6 tháng 12 năm 2014 thì tôi lo nhất là lo về sức khỏe của Lập vì sau tai nạn xe máy vào năm 2004 sức khỏe rất yếu, tay trái và chân trái bị liệt rất khó khăn. Chúng tôi lo nhất là sức khỏe thể chất nhưng rất vững tin vào lòng yêu nước của Lập, vững tin vào tư cách ngòi bút nhà văn của Lập, vững tin vào tư cách công dân của Lập cho nên chúng tôi ngay từ hồi đó đã có những kiến nghị, những bài viết cũng như rất ủng hộ vợ con Lập gửi đơn xin bảo lãnh cho Lập tại ngoại hầu tra đi các nơi. Gia đình có kêu và tiếng kêu đó đã được giải quyết thì tôi thấy đây là một điều tốt còn vấn đề vụ án này nó như thế nào thì chúng ta phải chờ xem.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập sinh năm 1956 rất nổi tiếng với trang blog Quê Choa có trên 100 triệu lượt người truy cập vào xem các bài viết mà ông tập trung từ nhiều nguồn, nhiều tác giả. Ông là nhà văn có rất nhiều độc giả và cũng là tác giả của hàng chục kịch bản điện ảnh nổi tiếng.

Đây là trường hợp tại ngoại đầu tiên mà tư pháp Việt Nam chấp nhận cho một người bị cáo buộc vi phạm điều 88 Bộ luật hình sự.

Báo Người Cao Tuổi: Bàn về “thị trường sao và vạch”

Báo Người Cao Tuổi: Bàn về “thị trường sao và vạch”

Đôi lời: Bài báo: Bàn về “thị trường sao và vạch” là một trong những bài viết trên báo Người Cao Tuổi bị cho rằng đã vi phạm điều 258, tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức công dân”. Bài viết đã bị gỡ bỏ khỏi các trang mạng. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng lại bài viết này. Kính mời độc giả.

Lê Quang Tạo

1-4-2014

H1

Tuần qua nhiều báo đăng tin “Công an lên tướng, Quân đội cũng lên tướng”. Là một cựu chiến binh có 42 năm quân ngũ, có đôi điều tâm tư tản mạn (cũng là của nhiều đồng đội) về đề tài “Sao và Vạch”. Đây là một việc rất nhạy cảm, mà ít khi công khai.

Nhiều cán bộ lão thành, lão tướng qua hai cuộc chiến oanh liệt (chống Pháp và chống Mỹ) cứ phàn nàn rằng: Tướng phải ra tướng chứ bây giờ tướng nhiều quá!

Thật vậy: Nhớ lại kháng chiến 9 năm đánh Pháp, khi cuộc chiến sang giai đoạn mở các chiến dịch tấn công, Quân đội được tăng cường mọi mặt thì Bác Hồ, Chủ tịch nước mới phong hàm tướng cho một số chỉ huy chủ chốt: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình, các Thiếu tướng chỉ đếm trên đầu ngón tay – đó là năm 1948. Rồi 10 năm sau, khi các tướng cầm quân thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ 1954, Quân đội tiến lên chính quy và thiết lập chế độ quân hàm trong toàn quân (từ Binh nhì đến Đại tướng). Bác Hồ phong thêm một đại tướng (đồng chí Nguyễn Chí Thanh), 2 thượng tướng, 4 trung tướng và hơn chục thiếu tướng. Quân đội bước vào giai đoạn ác liệt nhất: Kháng chiến chống Mỹ ở cả 2 miền, các tướng, tá của ta xung trận cùng toàn quân… cho đến hơn 10 năm sau (1974) mới có đợt phong tướng cho một số đồng chí. Rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất… việc phong hàm tướng phải 4 năm mới có một lần. Các cụ vẫn tâm đắc: “Quân hùng, tướng mạnh, bách chiến bách thắng”.

Nhưng rồi những năm sau 2000, việc phong tướng cứ đều đều hằng năm, mỗi lần vài chục tướng, có năm 2 lần phong tướng; trần quân hàm tướng nới rộng, thậm chí giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp cũng mang hàm tướng? Khi mà đất nước hoà bình, ổn định!

Tướng đã nhiều thì tá càng nhiều. Tôi nhớ rất rõ: Những năm 60, 70 (thế kỉ XX) khi chiến tranh chống Mỹ cả hai miền nóng bỏng thì Huyện đội trưởng mới mang hàm Thượng uý (thậm chí Trung uý), Tỉnh đội trưởng là Thiếu tá, Trung tá. Có một số sĩ quan thiếu tá, trung tá là sư đoàn trưởng trong chiến trường đánh đâu thắng đó, ở đâu cũng được nhân dân giúp đỡ. Bây giờ thời bình thì Phó Chỉ huy Quân sự huyện đều Thượng tá, Chỉ huy trưởng: Đại tá. Có Tiểu đoàn trưởng cũng Đại tá(!). Việc xây dựng “biểu biên chế tổ chức lực lượng” hằng năm do Tổng Tham mưu trưởng kí ban hành (Cục Quân lực làm tham mưu), đi kèm là trần quân hàm cho các cấp… Từ đó đẻ ra chuyện “chạy trần quân hàm” rồi “mượn” trần cũng xảy ra không thiếu!

Dư luận âm ỉ chuyện “Tướng chạy” là có thật. Bạn tôi tâm sự rằng: “Lúc ấy mình cũng ráng hết sức để đầu tư lên tướng… nhưng rồi hụt hơi, thua “thầu” nên chấp nhận lỗ nặng, còn tay ấy đủ lực và lên tướng nên chỉ sau 1, 2 năm thu hồi đủ vốn rồi lãi… được cả danh, cả kinh tế! Vốn là bao nhiêu cũng tuỳ vị trí!

Cách đây một tuần, Trung Quốc đã bắt giam Thượng tướng Từ Tài Hậu, Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương với tội danh: Tướng bán quân hàm. Ông này còn là đồng minh thân cận của Chu Vĩnh Khang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an cũng đang bị điều tra và vừa bị bắt một số người ruột thịt… Sự thật ấy đáng để suy ngẫm.

Cách đây hơn 50 năm, sau khi Quân đội xây dựng chế độ quân hàm, thì Công an cũng chính quy hoá. Đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn mang hàm Thiếu tướng, các Thứ trưởng như Lê Quốc Thân cũng có hàm Thiếu tướng (thời kì làm Bộ trưởng là Trung tướng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị). Bây giờ Lực lượng Công an có hàng trăm tướng, có cả nữ tướng, ngành quản lí trại giam có hàm đến Trung tướng. Cứ mở ti-vi chương trình ANTV là thấy đỏ rực quân hàm tướng. Thực tế ấy có cần không? Càng nhiều Tổng Cục ắt càng nhiều tướng. Bây giờ đất nước yên bình mà Phó trưởng Công an huyện cũng hàm Đại tá… Trưởng Công an các phường ở TP lớn hầu hết là Đại tá, có Giám đốc Công an thành phố hàm Trung tướng. Trong một địa bàn thành phố: Có Giám đốc Công an lại có Giám đốc Sở Cảnh sát PCCC. Tổ chức lực lượng Cảnh sát PCCC thì to ra, sẽ có thêm nhiều tướng, nhiều tá, nhưng hiệu quả nhiều vụ chữa cháy lớn ở các chợ, cây xăng lại bị kêu là: chậm trễ, thiếu nước, kém hiệu quả… Đầu tư cho người lính, lực lượng trực tiếp mới là xây dựng lực lượng hiệu quả. Tổ chức xây dựng lực lượng phù hợp yêu cầu nhiệm vụ là chuyện đương nhiên, nhưng từ các Cục, Vụ mà đẩy lên thành các Tổng Cục hàng loạt, quá nhiều… thực chất là thêm ghế tướng mà thôi.

Thế kỉ XX, đi ra đường hễ gặp các chiến sĩ áo vàng, Cảnh sát Giao thông, điều khiển trật tự rất nhã nhặn, quân hàm đều là hạ sĩ, thượng sĩ. Bây giờ trên mọi chặng đường đều nhìn thấy các trung tá, thượng tá cầm gậy chỉ huy giao thông?

Nhắc lại chuyện bán quân hàm, tôi mạnh dạn nói thật: “Thị trường” này bây giờ khá lộ liễu nếu không nói là nhức nhối. Tất nhiên việc rao giá không bao giờ thành văn mà là thoả thuận ngầm, càng không dễ gì giao dịch thành công vì đối tác phải rất kín để an toàn.

Quân hàm theo lương, lương của lực lượng vũ trang hoàn toàn lấy từ ngân sách nhà nước, là thuế của dân công sức, mồ hôi nước mắt người dân lao động. Quân đội và Công an được Đảng, Nhà nước rất ưu tiên xây dựng chính quy, hiện đại, tinh binh, tinh cán đáp ứng mọi tình huống xảy ra nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh, đừng chạy theo sự hào nhoáng, oai vệ mà thực lực, nội dung lại không tương xứng, đạo đức lại sa sút. Tốn kém xói mòn thì uy cũng lung lay. Chân dung người lính, người Công an phải luôn luôn là hình ảnh đẹp, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đương đầu mọi gian khổ… càng không phải là cấp tướng, cấp tá mang xe biển đỏ… đi kinh doanh kiếm lời, người lính làm kinh tế nhưng chỉ trong giới hạn đặc thù, không thể thị trường hoá người lính.

Nâng cao dân trí – Tâm thư một Sinh viên Nhật gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam và Thư hồi đáp của một bạn trẻ Việt Nam

Nâng cao dân trí – Tâm thư một Sinh viên Nhật gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam và Thư hồi đáp của một bạn trẻ Việt Nam

Đây là hai lá thư có hiệu lực thức tỉnh nhất đối với tuổi trẻ Việt Nam, đập mạnh vào lương tri của con người. (Các) tác giả đã phơi bày những sự thật đau lòng không phải bằng thái độ chỉ trích hay dạy bảo mà bằng những lời lẽ rất thuyết phục, thấm đậm tình người.

Hai lá thư này cần được đưa vào sách giáo khoa về công dân giáo dục và rất thích hợp để trích dẫn trong các bài viết về lịch sử và văn hóa dân tộc.

Lê Xuân Khoa

Cùng các bạn:

Tôi đồng ý với GS Lê Xuân Khoa, thầy học sử địa 60 năm trước hồi trung học của tôi, là bài viết của Châu Sa và Tiểu My phải được đưa vào “Quốc Văn Giáo Khoa Thư thế kỷ 21” mà GS Phạm Toàn cùng bạn hữu đang soạn thảo (không cần tiền tỷ của Bộ Giáo dục – Đào tạo). Tôi cũng đề nghị chúng phải được lên trang mạng BauxiteVN mà GS Nguyễn Huệ Chi và GS Vũ Cao Đàm đang hướng về “nâng cao dân trí” vì thần tượng Võ Nguyên Giáp cũng đã chết theo ngài và theo thông tin của Đèn Cù.

Để đóng góp vào “nâng cao dân trí”, tôi đề nghị ta bỏ bớt lý luận tháp ngà, không chỉ ăn mày gương quá khứ của Phan Châu Trinh, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi…, mà nên đi vào đời sống của nhân loại, của Việt Nam thế kỷ 21. Tôi đề nghị, và nhiều người trong nước đang hưởng ứng, là ta tổ chức một quyển sách luân lưu hằng năm, phổ biến trên Internet nhưng cũng chọn lựa in ra và bán rất rẻ, về đề tài Thế Nào Là Hạnh Phúc Việt Nam? Phải cổ động rất nhiều người tham dự, như Reader’s Digest, bằng hình thức có giải thưởng khuyến khích (bài được lựa đăng) và giải thưởng vàng, bạc, đồng hằng năm.

Tôi đã tình nguyện cống hiến hết hết tài sản làm việc này, vì con cháu tại Mỹ không giàu nhưng may đã biết tự lập và rất ủng hộ tôi dùng tài sản còn lại để làm việc thực tế thay vì chỉ nói. Rất mong các bạn tiếp tay.

Phùng Liên Đoàn, 75 tuổi

· Chương Trình II: Nâng cao dân trí bằng cách viết “thế nào là hạnh phúc?”

Lịch sử nhân loại ghi nhận nhiều anh hùng trong chiến tranh nhưng nhớ ơn nhiều nhất những vĩ nhân đã đem hạnh phúc tới cho người dân mà tránh đổ máu. Hầu hết những khái niệm đẹp đẽ như “giải phóng, đoàn kết, nhân ái, công bình, dân chủ…” đều có cứu cánh cuối cùng là hạnh phúc; nghĩa là, giúp người dân cảm thấy sung sướng trong cuộc sống. Ngày nay Liên Hiệp Quốc định nghĩa “có hạnh phúc” là có bảy yếu tố: (1) an ninh thực phẩm, (2) an ninh sức khỏe, (3) an ninh kinh tế, (4) an ninh cá nhân, (5) an ninh cộng đồng, (6) an ninh môi trường, và (7) an ninh cơ chế.

Chương trình II sẽ nâng cao dân trí bằng cách tổ chức một chương trình thi đua viết (hoặc soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, điêu khắc…) về hạnh phúc một cách lâu dài nhưng có kết quả hằng năm. Chúng ta sẽ duy trì một mạng lưới để mọi người, nhất là học sinh và sinh viên, viết (hoặc soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, điêu khắc…) về 7 yếu tố trên, qua những ví dụ thực tế trong cuộc sống. Mỗi bài phải hạn chế khoảng 2000 chữ, phải hết sức gẫy gọn, không mắc lỗi văn phạm, và phải có hai tiết mục cuối cùng. Đó là, “bài này có thể áp dụng tại Việt Nam như thế nào?” và “phần đọc thêm”. Bài viết không cần phải nguyên tác, có thể ghi lại hoặc dịch từ những tài liệu có sẵn của nhân loại, bởi vì “bắt chước” là căn bản của giáo dục. Mỗi năm sẽ có 7 giải thưởng cho 7 bài hay nhất về hạnh phúc. Mỗi năm sẽ gom các bài viết thành một quyển sách, in ra bán rẻ, để học sinh và công dân có thể dùng làm tài liệu đọc hằng ngày.

Nếu có nhiều người viết/làm và nhiều người đọc/thực hành, thì chẳng bao lâu dân trí sẽ nâng cao, và các lãnh đạo tương lai sẽ biết phải làm sao cho người dân có được hạnh phúc.

Chương trình này nâng cao dân trí bằng cách thực hành chứ không phải chỉ nói trừu tượng.

Quí vị nào hoặc quí hội nào muốn cộng hưởng một trong hai chương trình trên thì xin liên lạc với Phùng Liên Đoàn tại dlp.vasfcesr@gmail.com.

***

VIỆT NAM – NHÀ GIÀU VÀ NHỮNG ĐỨA CON CHƯA NGOAN

Robbey – Vô tình đọc được bài viết về văn hóa con người Việt Nam, từ góc nhìn của một bạn du học sinh Nhật trong friendlist của mình. Cũng biết rằng đây là chủ đề nhạy cảm và nhiều bạn dễ nhảy chồm lên ném đá sau khi đọc vài đoạn, nhưng mình thấy nhiều ý kiến của bạn ấy đáng để chúng ta suy ngẫm, nên mình sẽ chia sẻ lại ở đây cho cả nhà cùng đọc. Nhật Bản là một quốc gia đáng học hỏi, cá nhân mình cũng mong muốn Việt Nam sớm phát triển được như họ. Cái gì mình không tốt thì phải đối diện và khắc phục, thế thôi!

Tôi hiện đang là một du học sinh Nhật có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt “Sự thật mất lòng”. Nhưng không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Nhưng, “Trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất.” Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “Có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Nhưng thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Nhưng, thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày. Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; Người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy bird đã không phải chết yểu đau đớn; Người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; Người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; Người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa. Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – Khó lắm! Thật vậy sao?

Nguồn: https://www.facebook.com/robbeypage/photos/a.10152554252840206.952189.129440445205/10153952283630206/?type=1&theater

****

Thư hồi đáp: Là một người Việt – Khó lắm! Thật vậy !

Tiểu My

Bạn thân mến,

Lâu lắm rồi giới trẻ chúng tôi mới nhận được một bài viết nói lên sự thật ở đất nước tôi, dù sự thật ấy làm chúng tôi hết sức đau buồn.

Xin cám ơn bạn. Ở đất nước tôi có câu “sự thật mất lòng” nhưng cũng có câu “thương cho roi cho vọt”, “thuốc đắng đả tật”.

Bức thư của bạn đã làm thức dậy trong tôi niềm tự ái dân tộc lâu nay được ru ngủ bởi những bài học giáo điều từ nhà trường như “Chúng ta tự hào là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Pháp và Mỹ”.

Bạn đã nói đúng: “Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt, khó lắm. Thật vậy sao?”

Bạn biết đặt câu hỏi như thế là bạn đã có câu trả lời rồi. Những gì tôi viết sau đây chỉ là những lời tâm tình của một người trẻ thiếu niềm tin, với một người bạn đến từ một đất nước vững tin vào dân tộc mình, vào chính bản thân mình.

Bạn nói đúng. So với nước Nhật, nước Việt chúng tôi đẹp lắm. Đối với tôi không có tấm bản đồ của nước nào đẹp như tấm bản đồ của nước tôi. Tấm bản đồ ấy thon thả đánh một đường cong tuyệt đẹp bên bờ Thái Bình Dương ấm áp. Trên đất nước tôi không thiếu một thứ gì cho sự trù phú của một dân tộc . Nhưng chúng tôi thiếu một thứ.

Đó là Tự Do, Dân Chủ.

Lịch sử của chúng tôi là lịch sử của một dân tộc buồn.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người đã từng nhận được đĩa vàng tại đất nước Nhật của các bạn năm 1970 (bán được trên 2 triệu bản) với bài hát “Ngủ Đi Con” đã từng khóc cho đất nước mình như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây

Hai mươi Năm nội chiến từng ngày

Gia tài của mẹ để lại cho con

Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong “hai mươi năm nội chiến từng ngày” ông sống tại miền nam Việt Nam nên nỗi đau của ông còn nhẹ hơn nỗi đau của người miền Bắc chúng tôi. Ông còn có hạnh phúc được tự do sáng tác, tự do gào khóc cho một đất nước bị chiến tranh xâu xé, được “đi trên đồi hoang hát trên những xác người” được mô tả người mẹ điên vì đứa con “chết hai lần thịt xương nát tan”.

Nếu ông sống ở miền Bắc ông đã bị cấm sáng tác những bài hát như thế hoặc nếu âm thầm sáng tác ông sẽ viết như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm nô lệ giặc Tây

Bảy mươi năm Cộng Sản đọa đày

Gia tài của mẹ, để lại cho con

Gia tài của mẹ là nước Việt Buồn”

Bị đô hộ bởi một nước Tàu tự coi mình là bá chủ ở phương Bắc, bị một trăm năm Pháp thuộc ,một ít thời gian không bị ngoại bang đô hộ chúng tôi không có minh quân như Minh Trị Thiên Hoàng ở nước bạn. Huống gì thay vào đó chúng tôi bị cái xui là một trong những nước hiếm họi bị thống trị bởi một chế độ bị coi là quái vật của thế kỷ.

Tại sao người Việt tham vặt ?

Vì họ đã từng đói kinh khủng.Trong cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ chống Pháp người dân miền Bắc chúng tôi đã đói đến độ mất cả tình người. Vì một ký đường, một cái lốp xe đạp, vài lạng thịt người ta tố cáo nhau, chơi xấu nhau dù trước đó họ là người trí thức.

Cho nên ăn cắp là chuyện bình thường.

Tôi cũng xin nhắc cho bạn , năm 1945 hàng triệu người Việt miền Bắc đã chết đói vì một lý do có liên quan đến người Nhật các bạn đấy. Xin bạn tìm hiều phần này trong lịch sử quân Phiệt Nhật ở Việt Nam.

Tất nhiên người Việt vẫn nhớ câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng “thượng bất chính , hạ tắc loạn”.

Khi chấm dứt chiến tranh, người Việt biết họ phải tự cứu đói mình chứ không ai khác. Kẻ có quyền hành tranh dành nhau rừng vàng biển bac, kẻ nghèo xúm lại hôi của những xe chở hàng bị lật nhào .

Thật là nhục nhã, thật là đau lòng.

Bạn bảo rằng ở nước bạn người dân giử gìn vệ sinh công cộng rất tốt. Còn ở Việt Nam cái gì dơ bẩn đem đổ ra đường.

Đúng vậy! Nhưng Tự Do , Dân Chủ đã ăn vào máu của các bạn để các bạn ý thức rõ đây là đất nước của mình.

Còn chúng tôi? Chúng tôi chưa thấy nước Việt thực sự là của mình.

Ngày trước nước Việt là của Vua , có khi nước Việt thuộc Tàu, rồi nước Việt thuộc Pháp, rồi nước Việt là của Đảng Cộng Sản.

Ruộng của cha ông để lại đã từng trở thành của của hợp tác xã, rồi ruộng là của nhà nước chỉ cho dân mượn trong một thời gian nhất định. Đất là của nhà nước nếu bị quy hoạch người dân phải lìa bỏ ngôi nhà bao năm yêu dấu của mình để ra đi.

Cái gì không phải là của mình thì người dân không cảm thấy cần phải gìn giữ.

Nhưng sự mất mát đau lòng nhất trên đất nước chúng tôi là mất văn hóa và không còn nhuệ khí.

Biết làm sao được khi chúng tôi được dạy để trở thành công cụ chứ không được dạy để làm người.

Tiếc thay bản chất thông minh còn sót lại đã cho chúng tôi nhận ra chúng tôi đang bị dối gạt. Nhất là trong những giờ học về lịch sử, văn chương.

Lớp trẻ chúng tôi đã mất niềm tin và tìm vui trong những trò rẻ tiền trên TV, trên đường phố.

Nhớ năm nào nước của bạn cất công đem hoa anh đào qua Hà Nội cho người Hà Nội chúng tôi thưởng ngoạn . Và thanh niên Hà Nội đã nhào vô chụp giựt , bẻ nát cả hoa lẫn cành , chà đạp lên chính một nơi gọi là “ngàn năm Thăng Long văn hiến”.

Nhục thật bạn ạ. Nhưng lớp trẻ chúng tôi hầu như đang lạc lối, thiếu người dẫn đường thật sự chân thành thương yêu chúng tôi, thương yêu đất nước ngàn năm tang thương , đau khổ.

Thật buồn khi hàng ngày đọc trên báo bạn thấy giới trẻ nước tôi hầu như chỉ biết chạy theo một tương lai hạnh phúc dựa trên sắc đẹp và hàng hiệu. Họ không biết rằng nước Hàn có những hot girls, hot boys mà họ say mê còn là một quốc gia cực kỳ kỷ luật trong học hành, lao động.

Bạn nói đúng. Ngay cả bố mẹ chúng tôi thay vì nói với chúng tôi “con hãy chọn nghề nào làm cuộc sống con hạnh phúc nhất” thì họ chỉ muốn chúng tôi làm những công việc , ngồi vào những cái ghế có thể thu lợi tối đa dù là bất chính.

Chính cha mẹ đã chi tiền để con mình được làm tiếp viên hàng không, nhân viên hải quan, công an giao thông… với hy vọng tiền thu được dù bất minh sẽ nhiều hơn bội phần.

Một số người trẻ đã quên rằng bên cạnh các ca sĩ cặp với đại gia có nhà trăm tỉ, đi xe mười tỉ còn có bà mẹ cột hai con cùng nhảy sông tự tử vì nghèo đói. Mới đây mẹ 44 tuổi và con 24 tuổi cùng nhảy cầu tự tử vì không có tiền đóng viện phí cho con. Và ngày càng có nhiều bà mẹ tự sát vì cùng quẩn sau khi đất nước thái bình gần 40 năm.

Bạn ơi. Một ngày nào chúng tôi thực sự có tự do, dân chủ chúng ta sẽ sòng phẳng nói chuyện cùng nhau. Còn bây giờ thì :

“trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Dù sao cũng biết ơn bạn đã dám nói ra những sự thật dù có mất lòng.

Và chính bạn đã giúp tôi mạnh dạn nói ra những sự thật mà lâu nay tôi không biết tỏ cùng ai.

Thân ái.

Tiểu My

http://t-van.net/?p=16839

CÔ ĐƠN MÀ KHÔNG CÔ ĐỘC

CÔ ĐƠN MÀ KHÔNG CÔ ĐỘC

LM VĨNH SANG, DCCT

Tôi có một người bác là cha Dòng, năm nay cụ đúng 100 tuổi và sắp kỷ niệm 75 năm nhận Thánh chức Linh Mục ngày 4 tháng 8, một biến cố khá quan trọng, một dấu ấn thật tuyệt vời cho một đời người.  Mọi người kính cẩn hồi hộp chờ đúng ngày mừng lễ, còn hơn nửa năm nữa thôi.  Mới hôm qua chúng tôi đến thăm, cụ đã quá già nhưng đầu óc còn rất minh mẫn, mắt cụ bỗng dưng bị mờ cách đây không lâu, nhưng tai thì vẫn thính lắm, con cháu nói chuyện cụ nghe và đoán được đứa nào ngay.  Cụ hỏi thăm người này, nhắc tới người kia, đôi lúc còn nói bông đùa với con cháu một cách dí dỏm.

Trong bữa ăn cụ ngồi ngay ngắn vào vị trí của mình, xướng kinh khá rõ cho cộng đoàn anh em cùng đọc.  Khi cụ ăn, người giúp việc bỏ từng món thức ăn vào tô cho cụ, tay phải cụ vẫn còn cầm thìa để tự xúc, chỉ có tay trái do bệnh khớp đã bị co quắp lại thì đặt yên trên mặt bàn.  Ăn xong, món cuối cùng là sữa chua thì phải có người đút để khỏi bị nhiễu.  Ngồi chơi với anh em một lúc rồi cụ đứng lên, làm dấu đọc kinh cám ơn và chống gậy đi một vòng Nhà Thờ trước khi về giường nghỉ.

Ngày nào cũng vậy, không bao giờ bỏ Lễ, các giờ kinh cộng đoàn và một giờ chầu Thánh Thể.  Tôi hỏi thầy giúp việc xem cụ có cần gì, thầy nói cụ chỉ nhắc và mong con cháu đến thăm cho vui.  Cụ trải qua một cuộc đời Linh Mục rất bình dị, chỉ vài năm làm cha xứ, phần lớn thời gian làm Linh Hướng và dạy ở Chủng Viện, xem xét cuộc đời không có gì đặc biệt trổi trang, chẳng ghi được dấu ấn nào để đời cho nhân loại, nếu có “nổi tiếng” thì cụ nổi tiếng là người cầu nguyện lâu giờ trong Nhà Nguyện và tha thiết với Mình Thánh Chúa.  Anh em Linh Mục và con cháu của cụ nói với nhau, đó là một đời Linh Mục thành công, thành công vì đi trọn con đường của mình trong khiêm tốn, trong sự khó nghèo và yêu mến…

Còn mẹ tôi thì năm nay cũng đã 95 tuổi, bà yếu mệt không di chuyển được, chỉ nằm với ngồi quanh quẩn trong nhà, sáng nào trời ấm áp, người giúp việc bỏ bà lên xe lăn đưa bà đến Nhà Thờ.  Đi ra ngoài gặp người này người kia bà vui vẻ hẳn lên, tuy vậy cũng có lúc ngồi ngủ trên xe lúc nào không biết.  Bà ngủ ban ngày gà gật, nhưng ban đêm lại thức trắng không ngủ tý nào.  Chính khi không ngủ, giữa đêm thanh vắng, bà sợ cô đơn rồi luôn miệng gọi con gọi cháu, lắm lúc phải đến hai người giúp bà ban đêm mới chịu nổi.

Con cháu đến thăm hay ngay cả người nuôi bà, bà cứ níu lấy và bảo đừng đi, ở lại đây với bà.  Cảm giác cô đơn và sợ hãi luôn quanh quẩn bên bà.  Khi tôi về thăm, khó có thể chào bà mà đi, vì bà khóc và muốn tôi ở lại với bà, bà luôn miệng nói: “Sao con bỏ mẹ mà đi?”  Tôi cố gắng kiên nhẫn giải thích cho bà hiểu về cuộc sống tu trì của tôi, không thể về thăm bà nhiều và cũng không thể qua đêm ngoài Tu Viện, bà nghe thì hiểu nhưng vẫn khóc và tay vẫn nắm chặt lấy tôi.  Làm con trong hoàn cảnh này thật khó xử, không đi không được, ở lại cũng chẳng xong.  Rồi một mai mẹ mất rồi sẽ chẳng bao giờ còn được cầm tay mẹ nữa…

Tôi chia sẻ về hai người già, một người là mẹ và một người là Linh Mục.  Không phải bác tôi không bị rơi vào cảm giác cô đơn, cần con cháu viếng thăm, nhưng cuộc sống nhà tu đã tách bác tôi ra khỏi cuộc giao tiếp cùng những mối dây tương quan ruột thịt gần gũi.  Bây giờ về già, bác không thể có con ruột để đòi chiều chuộng, để buộc phải năng viếng thăm.  Ông cụ bình tĩnh và chấp nhận khá nhẹ nhàng vì ông cụ đã tập sống và sống quen cùng sự cô đơn của đời tu.  Ông cụ đảm nhận đời độc thân của mình vì ông cụ trung thành trong quá khứ để có một hiện tại tiếp tục sự trung thành ấy với Chúa và chỉ còn Chúa.  Dĩ nhiên người lập gia đình là người buộc mình vào những tương quan gia đình cho đến chết.

Tôi tâm đắc và vui mừng khi thấy nhiều Hội Dòng quan tâm chăm sóc các thành viên già cả và đau yếu, những thành viên này họ đã cống hiến cuộc đời của họ cho sứ vụ, nay họ xứng đáng và cần được hưởng một sự chăm sóc đặc biệt của anh em mình.  Sao cho những ngày cuối của cuộc đời trôi qua trong hạnh phúc, bình an và yêu mến.

Một cơ sở tương đối đáp ứng cho cuộc sống an dưỡng, một không gian yên tĩnh để cầu nguyện và nghỉ ngơi, một cơ cấu y tế cần mẫn hiệu quả và một hệ thống dinh dưỡng khoa học và an toàn.  Thời khóa biểu được tổ chức khoa học và đan kín, ngoài những giờ nghỉ ngơi các cụ còn được sử dụng thời gian vào việc tập vật lý trị liệu, hàng tuần tiếp các đoàn thiện nguyện mang lại niềm vui và sự tươi trẻ.  Các giao tiếp xã hội sẽ giúp các cụ linh hoạt hơn và nghị lực hơn.  Ngôi Nhà Nguyện là con tim của cộng đoàn, một Nhà Nguyện ấm áp, mát mẻ, yên tĩnh và riêng biệt sẽ giúp các cụ hạnh phúc sống đời tông đồ mãnh liệt hơn.

LM VĨNH SANG, DCCT


****************************************

Lạy Chúa, chúng con không muốn bỏ rơi những ai đang sống trong cảnh cô đơn và chính vì thế chúng con đặt biệt cầu nguyện cho họ.
Chúng con cầu xin Chúa cho những người không được một ai để ý đến và họ phải đau khổ vì không được yêu thương.
Cho những ai đang sống giữa đám đông đô thị nhưng lại cảm thấy mình lạc lõng bơ vơ.
Cho những ai ao ước xây dựng một mái ấm gia đình mà không có khả năng thể hiện được ước mơ.
Cho những ai bị gia đình mình ruồng bỏ, không tìm được một ai để ký thác nỗi niềm tâm sự.
Cho những ai sau khi đã được vây bọc bằng một bầu khí nóng bỏng yêu thương cuối cùng lại kết thúc cuộc đời mình trong cô quạnh thê lương.
Cho những ai vì không chịu đựng nổi cô đơn của cuộc đời mình nên đã luống công đi tìm khuây khỏa.
Cho những ai không hiểu được rằng chính Chúa đang có mặt trong nỗi cô đơn của họ và đang ban tặng cho họ một tình bạn khích lệ ân cần.
Cho những ai tiếp nhận cô đơn như một ân sủng, ân sủng của một cuộc sống thân tình sâu đậm hơn trong Chúa.
Cho những ai tìm thấy trong cô đơn con đường giúp mình triển nở bằng một cuộc hiến mình hơn nữa cho tha nhân.
Cho những ai tự nguyện sống đời độc thân vui chịu sự cô đơn và biết kết hợp với sự cô đơn của Chúa nơi vườn Giệt và trên đồi cao khổ giá.  Amen!

Prière au coeur du monde, J. Galot, sj –

Nguyễn Hùng Cường chuyển dịch

Việt Nam : Trang web báo chống tham nhũng Người Cao Tuổi bị đóng cửa, khởi tố

Việt Nam : Trang web báo chống tham nhũng Người Cao Tuổi bị đóng cửa, khởi tố

Thụy My

media

Trang web báo Người Cao Tuổi

Cơ quan An ninh Điều tra thuộc Bộ Công an Việt Nam hôm nay 09/02/2015 ra quyết định khởi tố vụ án liên quan đến báo Người Cao Tuổi theo điều 258 Luật hình sự. Trước đó chính quyền thông báo rút giấy phép trang web của tờ báo nổi tiếng chống tham nhũng này, còn Tổng biên tập Kim Quốc Hoa bị cách chức và thu lại thẻ nhà báo.

AFP ghi nhận, đến chiều nay theo giờ Việt Nam, trang web nguoicaotuoi.org.vn không còn truy cập được nữa, tuy báo giấy vẫn được phát hành. Hãng tin Pháp cho rằng lại có thêm một động thái vi phạm tự do báo chí ở Việt Nam. Báo chí trong nước thì dẫn kết luận thanh tra đột xuất tòa soạn báo Người Cao Tuổi, cáo buộc tờ báo này đăng « các đơn khiếu nại sai sự thật », « một số bài viết xuyên tạc, vu khống tổ chức và công dân », « có dấu hiệu tiết lộ bí mật Nhà nước ».

Trả lời RFI Việt ngữ, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng nhận định :

« Đây là một vụ bất thường. Bất thường vì nếu so sánh với vụ PMU18 năm 2006 bắt phóng viên báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ, thì lần này có sự hiệp đồng tác chiến rất nhịp nhàng giữa Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Công an. Sáng, Bộ Thông tin công bố kết luận, và đến chiều thì Bộ Công an cũng đăng đàn diễn thuyết. Và có thể nói đây là một vụ về mặt công luận đã đánh thẳng vào quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí của các nhà báo nhà nước ở Việt Nam.

Trong bảy năm qua, báo Người Cao Tuổi đã đưa ra ánh sáng tới 2.500 vụ tiêu cực từ cấp làng xã tới trung ương. Và đặc biệt trong thời gian gần đây đã đưa liên tục hàng loạt vụ về tài sản của các quan chức cấp cao, nhất là vụ ông Trần Văn Truyền, nguyên Tổng thanh tra Chính phủ. Cuối cùng như chúng ta đã thấy, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đã phải vào cuộc, và ông Truyền đã phải nhận hình thức cảnh cáo về Đảng và trả lại một số tài sản.

Có thể nói đây là sự ghi nhận về công lao của báo Người Cao Tuổi – một tờ báo được coi là nhỏ trong làng báo hơn 800 tờ báo nhà nước – nhưng có thành tích lớn nếu so với những tờ khác có bề dày như Vietnamnet, Thanh Niên, Tuổi Trẻ…Trong khi những tờ đó cho tới nay gần như lắng tiếng về việc phanh phui các tiêu cực và phục vụ sự nghiệp chống tham nhũng của Đảng.

Đây là vấn đề mà tôi cho là đặc biệt nhạy cảm. Đó là một khía cạnh. Một khía cạnh khác : chúng tôi nhận thấy việc khởi tố báo Người Cao Tuổi, mới được thông tin chiều nay, ngày 9 tháng Hai, có nét gì đó gần giống với việc khởi tố và bắt giam ngay lập tức hai blogger Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập vào cuối năm 2014.

Ngoài ra cũng cần ghi nhận thêm một điều về sự việc báo Người Cao Tuổi : lâu lắm rồi mới có một tờ báo nhà nước bị khởi tố một cách công khai và kiên quyết đến như vậy ! Đặc biệt lần này là cơ quan An ninh Điều tra, chứ không phải là cơ quan Cảnh sát Điều tra làm, và lại liên quan đến điều luật mà giới blogger, hoạt động dân chủ, đấu tranh nhân quyền rất chú ý, thường đưa ra trước quốc tế : đó là điều 258 của bộ Luật Hình sự, liên quan tới việc « lợi dụng quyền tự do dân chủ ». Và kỳ này không loại trừ là Nhà nước có thể áp dụng điều 258 đối với chính ông Kim Quốc Hoa là nguyên Tổng biên tập báo Người Cao Tuổi ».

xem thêm: Khởi tố tờ Người cao tuổi là đúng’(BBC)

Báo ‘đánh’ tham nhũng bị khởi tố, Tổng biên tập bị rút thẻ (Nguoi-viet.com)

Ông Kim Quốc Hoa, tổng biên tập báo Người Cao Tuổi, bị rút thẻ nhà báo. (Hình: VNExpress)

Hai vụ giết người man rợ nhằm bịt đầu mối

Hai vụ giết người man rợ nhằm bịt đầu mối

Nguoi-viet.com

BÌNH PHƯỚC-TIỀN GIANG (NV) Hai vụ án có cùng mục đích là giết người bịt đầu mối, song với cách thức ra tay man rợ đã gây chấn động dư luận ở tỉnh Bình Phước và tỉnh Tiền Giang.

Theo báo Tuổi Trẻ, sau gần 1 tháng điều tra, ngày 6 tháng 2, công an Bình Phước đã bắt khẩn cấp ông Nguyễn Văn Khải (43 tuổi), ngụ thôn 4, xã Ða Kia, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, người thực hiện vụ giết người dã man xảy ra ngày 11 tháng 1. Nạn nhân là bà Nguyễn Thị Nga (59 tuổi), ngụ thôn 6, xã Ða Kia.



Hiện trường vụ hiếp dâm bất thành rồi giết chết bạn nhậu. (Hình: Tuổi Trẻ)

Trước đó, ngày 20 tháng 1, ông Phạm Văn Lãng đang lái xe máy múc thoáng nhìn thấy một vật cháy ven đường ÐT 759B, xã Phước Thiện, huyện Bù Ðốp. Ông Lãng bèn lùi xe lại quan sát và giật mình khi phát hiện đó là xác người.

Tại hiện trường, công an phát hiện xác người nằm trong đám cỏ đã chết cháy đen trong tư thế nằm sấp từ nhiều ngày trước, đám cỏ xung quanh cũng bị cháy gần hết.

Người nhà cho biết, bà Nga là người chuyên cho vay mượn, đáo hạn ngân hàng có tiếng ở địa phương. Trước lúc mất tích, bà Nga có cho một số người vay khoảng 700 triệu đồng. Vì vậy, nhiều khả năng bà Nga bị giết, cướp của rồi đốt xác để bịt đầu mối.

Một vụ án giết người tương tự cũng vừa xảy ra ở tỉnh Tiền Giang.

Theo tờ Pháp luật Sài Gòn, công an tỉnh Tiền Giang xác nhận vừa xảy ra vụ án mạng tại xã Phú Cường, huyện Cai Lậy, Tiền Giang. Nạn nhân là bà Huỳnh Thị Phượng (37 tuổi), ngụ xã Phú Cường.

Báo này tường thuật:

Khoảng 10 giờ đêm 5 tháng 2, Nguyễn Văn Thọ, 26 tuổi, đến công an xã báo trên đường đi chơi về phát hiện xác một phụ nữ nằm chết dưới ruộng nước cặp bờ kênh.

Tại hiện trường, xác nạn nhân nằm dưới ruộng lúa, cách nhà khoảng 300m trong tình trạng từ đầu đến rốn bị đắp bùn và không mặc quần.

Sau khi lấy lời khai của ông Thọ, nhận thấy người này có nhiều biểu hiện nghi vấn, trên người có dính sình bùn nên công an thẩm tra. Ðến khuya cùng ngày thì ông Thọ nhận tội.

Ông Thọ khai, trước đó đến nhà bạn tên Phúc, ở ấp 6, xã Phú Cường nhậu. Trong lúc nhậu, thấy bà Phượng đi ngang nên mời vào uống chung. Nhậu được một lúc cả nhóm chia tay nhau ai về nhà nấy.

Trên đường về, ông Thọ nảy sinh ý định cưỡng hiếp nạn nhân, liền xô ngã bà Phượng xuống ruộng lúa, sau đó khống chế để cưỡng hiếp. Bị chống cự quyết liệt, ông Thọ dùng tay bóp cổ bà Phượng đến chết mới dừng lại. Sau khi gây án xong, ông Thọ lấy bùn đắp lên người nạn nhân rồi giả vờ đi báo công an. (Tr.N)

RW đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam

RW đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-02-07

haininh02072015.mp3

ba-622.jpg

Ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch (trái) và phóng viên Hải Ninh tại trụ sở Đài Á Châu Tự Do ở Washington DC hôm 06/02/2015.

RFA

Your browser does not support the audio element.

Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) vừa đưa một bản báo cáo về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam năm 2014. Theo đó, báo cáo cho biết Việt Nam vẫn kiểm soát chặt chẽ những người ủng hộ dân chủ, phê bình chính quyền và cùng nhiều vấn đề vi phạm nhân quyền khác. Nhân dịp này, đại diện của Human Rights Watch là ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức này, dành cho Đài Á Châu Tự Do cuộc phỏng vấn đặc biệt.

Ngăn cấm quyền tự do ngôn luận

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. Thưa ông, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền vừa đưa ra một báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam năm 2014. Vấn đề nào ông coi là nghiêm trọng nhất ở Việt Nam?

Brad Adams: Vấn đề chính ở Việt Nam là Việt Nam vẫn là một nhà nước độc đảng, ngăn cấm quyền căn bản về tự do ngôn luận và tụ tập. Việt Nam sống trong một thế giới hiện đại với một hệ thống chính trị cũ kỹ. Ý tưởng về nhà nước một đảng đáng lẽ phải vứt vào thùng rác từ lâu lắm rồi. Chúng tôi đề nghị chính quyền Việt Nam thực hiện tiến trình cải cách bằng việc tách chính phủ ra khỏi nhà nước, cho phép người dân những quyền tự do cơ bản, không bỏ tù người ta vì thể hiện quan điểm như là kêu gọi dân chủ, không lấy những luật hình sự như đạo luật hay 79 hay 88 để tống tù người ta vì có quan điểm chính trị khác biệt.

”  Vấn đề chính ở Việt Nam là Việt Nam vẫn là một nhà nước độc đảng, ngăn cấm quyền căn bản về tự do ngôn luận và tụ tập. Việt Nam sống trong một thế giới hiện đại với một hệ thống chính trị cũ kỹ.
-Brad Adams”

Cũng có một vấn đề nghiêm trọng về quyền lao động ở Việt Nam, công nhân nhà máy không được tụ tập tự do, họ không được đòi tăng lương hay đòi điều kiện làm việc tăng lên. Đây là một vấn đề lớn vì Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, họ phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Ngoài ra cũng có vấn đề lớn về đất đai ở Việt Nam với hàng loạt các cuộc biểu tình phản đối chiếm đất. Một phần là vì đất không đủ cho dân số, hơn nữa đảng và quân đội xông vào chiếm hoặc giao đất sinh sống cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án.

Điều chúng tôi muốn thấy là chính phủ Việt Nam phải thừa nhận rằng đúng, chúng tôi có một số vấn đề bởi vì nước nào cũng có những vấn đề của họ và chúng tôi sẽ nghiêm túc giải quyết nó.

Hải Ninh: Theo tôi thấy thì dường như có một sự đối lập ở đây. Chính phủ Việt Nam khi ra thế giới thì luôn hứa rằng chúng tôi sẽ cải thiện tình hình dân chủ, thế nhưng mặt khác thì họ lại bắt nhiều nhà bất đồng chính kiến, hay không cho phép người ta thực hiện tự do tôn giáo và nhiều vấn đề khác nữa. Tại sao lại như vậy?

ba-400.jpg

Ông Brad Adams, giám đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch tại trụ sở Đài Á Châu Tự Do ở Washington DC hôm 06/02/2015. RFA PHOTO.

Brad Adams: Tôi nghĩ rằng đảng sợ rằng nếu họ nới lỏng tay và cho phép những quyền tự do cơ bản như quyền được phát biểu ý kiến, thì họ sẽ mất quyền kiểm soát tình hình chính trị. Đây là điều hầu hết các đảng cộng sản nghĩ. Họ có thể đúng, tuy nhiên, điều đó cũng có thể tốt, bởi vì việc mất quyền kiểm soát chính trị có nghĩa là người dân được quyền thể hiện quan điểm và quan điểm của họ có ảnh hưởng tới chính sách. Một điều mà đảng cộng sản Việt Nam nên làm, đó là cho phép bầu cử toàn quốc một cách tự do, công bằng và toàn diện, giống như tất cả các quốc gia trong khu vực trừ Lào và Việt Nam.

Chúng ta cũng bắt đầu thấy chính phủ Việt Nam thay đổi vì áp lực từ dưới lên. Ngày càng nhiều những người bất đồng chính kiến dũng cảm, phần lớn là những người trẻ, những blogger, những người trong giới truyền thông, các nhà hoạt động. Họ dấn thân vào những nguy hiểm nghiêm trọng, vì anh không biết điều mà anh nói hôm nay có thể dẫn tới việc anh bị tống vào tù ngày mai. Họ chấp nhận nguy hiểm đó và họ ngày càng tăng cường đòi quyền lợi. Họ muốn tham gia vào việc lèo lái quốc gia trong tương lai, họ muốn tham gia vào chính quyền, họ muốn có tiếng nói, và điều đó là hoàn toàn bình thường.

Vì thế, tôi nghĩ rằng chính phủ và đảng cộng sản cần phải điều chỉnh, họ tìm cách có những điều chỉnh nhỏ thôi nhưng họ sẽ phải có những thay đổi lớn hơn.

Trấn áp các tổ chức xã hội dân sự

Hải Ninh: Hiện nay có nhiều tổ chức xã hội dân sự đứng ra cổ vũ các vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về các hoạt động của họ và liệu Human Rights Watch có thể làm gì để giúp đỡ họ?

” Các nhóm cổ vũ nhân quyền không được phép hoạt động lâu ở Việt Nam. Thường thì các nhà lãnh đạo của họ bị tống vào tù khá nhanh chóng.
-Brad Adams”

Brad Adams: Các nhóm cổ vũ nhân quyền không được phép hoạt động lâu ở Việt Nam. Thường thì các nhà lãnh đạo của họ bị tống vào tù khá nhanh chóng. Các nhóm hoạt động cỗ vũ các vấn đề khác chẳng hạn như quyền phụ nữ, môi trường hoặc những vấn đề không bị chính phủ coi là nhạy cảm, họ thường được phép hoạt động trong một thời gian lâu hơn. Nếu chính phủ thấy rằng họ hoạt động có chút chính trị hoá, họ sẽ bị trấn áp và những người tham gia sẽ bị bắt. Điều đó không chấp nhận được.

Vì thế, chúng tôi tìm cách giúp họ một cách cẩn trọng. Chúng tôi không muốn có ai đó bị tống vào tù bởi vì họ liên lạc với Human Rights Watch hoặc bất cứ một tổ chức quốc tế nào. Chúng tôi hỗ trợ về tinh thần, kỹ thuật và thông tin, chúng tôi đưa các vụ việc ra quốc tế. Tuần này, tôi đã tới Nhà Trắng, Bộ Ngoại giao, sau đây tôi sẽ tới Lầu Năm Góc để bàn về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, và giúp truyền tải những quan ngại của người Việt Nam tới họ.

Chúng tôi có một trang web bằng tiếng Việt, và dịch tất cả các tài liệu của chúng tôi sang tiếng Việt. Những tài liệu này được đăng lại khắp nơi. Một điều rất thú vị ở đây là Facebook và mạng xã hội đang giúp lan truyền thông tin. Chính phủ Việt Nam không thể nào chặn những thông tin mà họ không thích nữa.

Hải Ninh: Human Rights Watch nhiều năm nay liên tục kêu gọi chính quyền Việt Nam tôn trọng quyền con người. Thế nhưng dường như chính quyền Việt Nam cố tình lờ đi. Họ cứ tiến một bước rồi lại lùi hai bước. Liệu Human Rights Watch có thể làm gì để thay đổi điều này?

Brad Adams: Điều tôi thấy ở đây là nếu cộng đồng đấu tranh về nhân quyền không tiến hành vận động cho những tù nhân bất đồng chính kiến, số người bị bắt còn nhiều hơn thế nữa. Chúng ta không biết còn những ai sẽ bị bắt nếu chúng tôi không làm việc của mình. Tôi đồng ý rằng khi chúng tôi vận động việc thả một tù nhân nhất định, dường như chính phủ Việt Nam lại bắt người khác thay thế. Điều rất đáng thất vọng bây giờ là họ đưa những tù nhân này ra nước ngoài sống lưu vong. Đó không phải là giải pháp hợp lý.

Họ còn dùng những tay côn đồ để đánh các nhà hoạt động, thay vì bắt bớ. Chính quyền Việt Nam nói với quốc tế rằng số lượng người bị bắt đã giảm xuống, mọi chuyện đã khá hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng người bị bắt không thấp hơn, chúng tôi có con số chứng minh. Thêm vào đó, đánh người không tốt hơn là tống người ta vào tù và chúng ta bắt đầu thấy nó diễn ra và điều đó là hoàn toàn không thể chấp nhận được.

Về câu hỏi tầm ảnh hưởng của chúng tôi, chúng tôi đưa ra báo cáo về việc cảnh sát hành hung các nhà hoạt động vào năm ngoái, và thấy những sự phản ứng về chính sách ở cấp cao. Quốc hội Việt Nam đã tiến hành một cuộc điều trần ở uỷ ban tư pháp về việc cảnh sát đánh người, điều chưa từng xảy ra trước đó. Bộ trưởng Công an, phó bộ trưởng Công an, và các bộ trưởng khác phải đến và giải trình công khai trước quốc hội.

Tôi nghĩ sở dĩ điều  này diễn ra là vì chúng tôi chọn việc tập trung vào các báo cáo cảnh sát đánh người vì chúng tôi nghe được điều đó từ chính người dân Việt Nam, chúng tôi đọc được trên báo, người ta giận dữ về cách cảnh sát đối xử với người dân. Vì thế, chúng tôi tập trung vào các vấn đề mà chúng tôi nghĩ rằng chính phủ cũng nhận ra đó là một vấn nạn. Và dù họ không nói với chúng tôi rằng xin cảm ơn báo cáo của các vị, chúng tôi trân trọng việc các vị quan tâm tới các người Việt Nam được đối xử, và chúng tôi sẽ làm việc dựa trên các đề xuất của các vị, nhưng rõ ràng là họ có thay đổi. Tôi thấy có dấu hiệu rằng chính phủ Việt Nam nhận thấy họ không thể chỉ khư khư hoạt động trong vòng Việt Nam nữa và giả vờ rằng cả thế giới không tồn tại và rằng người dân Việt Nam chẳng biết gì cả.

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.