Chứng Tích Người Từ Hỏa Ngục Hiện Về

Chứng Tích Người Từ Hỏa Ngục Hiện Về

Hiện nay nhà xứ Cái Mơn còn lưu giữ một miếng ván có kích thước: 2,05 x 0,82 mét, dầy hơn 4,5 cm. Trên miếng ván có một chỗ bị cháy đen và khuyết xuống giống như “phần mông” của một người ngồi để lại. Miếng ván này được lưu giữ như là một chứng tích của việc có hỏa ngục và sự thưởng phạt đời đời.

tamvantaicaimon2

Bà Tám (vợ của ông Biện Nguyễn Văn Nhung) và tấm ván hiện giờ.
Ảnh chụp ngày 8 / 10 / 2011, tại khuôn viên nhà thờ Cái Mơn.

Bài viết này được người trực nhà xứ, thời Cha Sở Gs Thích còn sống, ghi lại theo lời tường thuật của ông biện Nguyễn Văn Nhung, cháu cố của ông biện Đài và của ông Nguyễn Văn  Thật. Nay xin mạn phép tóm lại như sau:

tamvantaicaimon1

Tấm ván khi mới được đưa về nhà xứ Cái Mơn
(không rõ năm nào)

Khoảng đầu thế kỷ 18, tại Cái Mơn, có một bà lão nọ là người tu xuất đã ngoài bảy mươi. Đời sống của bà không tốt lắm. Bà bệnh nặng và liệt giường khoảng ba tháng, không ăn uống. Gia đình giữ linh hồn cho bà suốt thời gian ấy đã mệt mỏi. Hôm ấy, ông Biện Nguyễn Văn Đài (sau là Trùm Họ) đến đọc kinh giữ linh hồn cho bà. Ông bảo gia đình đi ngủ để ông giữ thay cho một hôm.

Khi ông biện Đài đang sốt sắng nhìn sách đọc kinh, thình lình bệnh nhân ngồi phắt dậy, thổi tắt đèn, rồi ôm lấy cổ ông và đeo cứng người ông. Ông bình tĩnh không la lên sợ làm rối gia đình, và ông cứ mang bà lão trên mình để đi đốt đèn. Đốt đèn xong, ông trở lại giường, gỡ hai tay bà ra khỏi cổ ông và để bà nằm xuống. Bà nằm trong tư thế như thường lệ: hai chân duỗi thẳng, hai tay để lên ngực và vẫn im lặng như người đang hấp hối.

tamvantaicaimon3

Dấu bị cháy khuyết xuống do mông của người chết hiện về để lại trên tấm ván.

Cũng nên biết, vào thời điểm này chưa có dầu lửa và đá lửa. Người ta dùng dao đánh vào hòn đá đen cho lửa xẹt vào bông gòn trong ống tre. Khi bông gòn bén lửa, người ta thổi lên cho có lửa ngọn rồi mới dùng cây rọi lấy lửa mồi vào đèn. Cây rọi là mảnh vải bằng hai ngón tay, nhúng dầu mù u, xe xoắn lại phơi khô. Đèn dầu mù u thì không bắt lửa nhanh như đèn dầu ngày nay. Nhắc chuyện này để hiểu rằng thời gian ông biện mang bệnh nhân trên cổ là khá lâu.

Ngày hôm sau bà này chết. Việc an táng theo nghi thức đạo như thường lệ. Sau khi an táng, gia đình và hàng xóm tập trung để cầu lễ cho bà. Theo như tập tục thường kéo dài một tuần, lâu hơn hay ít hơn là tùy hoàn cảnh gia đình.

Một tối no, khi mọi người đang sốt sắng cầu lễ, bỗng dưng đèn tắt hết. Người chết xuất hiện, mình đầy lửa, mang dây xích, đến ngồi trên bộ ván, nói lớn tiếng: “Các người đừng cầu nguyện cho tôi nữa, bởi vì đã lỗi đức công bằng,  tôi xuống Hỏa ngục rồi“. Nói bây nhiêu lời rồi biến mất. Mọi người có mặt chết điếng người, lặng thinh và ngưng đọc kinh nhưng không dám đi một mình về nhà.

Ông chủ nhà nói: “Tôi không dám để bộ ván này trong nhà nữa, đem ra sông cái  liệng cho nó trôi khuất cho rồi“. Nói vậy nhưng có lẽ do quá sợ, ông không dám chở đi nên đã liệng xuống rạch bên hông nhà. Nhà ông ở trên ngọn, nhà ông biện Đài ở cuối nguồn, nên nước ròng ông biện đã vớt được tấm ván ghi dấu cái mông của linh hồn sa hỏa ngục, tấm kia trôi mất (bộ ván gồm hai miếng).

Ông biện Đài cố ý giữ tấm ván lại trong nhà để nhắc nhở con cháu và người đời sau nhớ rằng có Hỏa Ngục. Ông dặn con cháu sau này không được nói  tên người bất hạnh cho ai biết, để giữ thanh danh cho họ.

Bộ ván này dài gần 3 mét, dầy khoảng 8 cm, bằng gỗ sao gồm hai tấm. Linh hồn hiện về ngồi bên tấm ván này, chống hai chân và hai tay qua tấm ván bên kia. Tấm ván bên này để lại dấu mông, và tấm ván kia là dấu hai bàn chân và hai bàn tay úp xuống. Dấu lửa cháy ăn sâu xuống cả hai tấm ván. Không biết ngày xưa gìn giữ thế nào nhưng mấy mươi năm sau này, gia đình ông Nguyễn Văn Nhung bỏ phế ngoài vườn cây. Thời chiến tranh Ông Nhung đã dùng để làm hầm núp bom đạn. Chiến tranh chấm dứt, ông lại quăng tấm ván ra bờ mương. Một hôm có người đến ngỏ ý xin miếng ván, gia đình mới cạo rửa và định tống khứ nó đi. Khi hay được sự việc, cha sở Gs Thích đã ngỏ ý xin và đã đem về lưu giữ tại nhà xứ. Theo lời ông Thật thì có ai đó đã cưa  tấm ván mất mấy tấc. Có lẽ vì nó dài và nặng nề, khó di chuyển, nên đã vô tình cưa bớt đi.

Ông biện Nguyễn Văn Nhung thuật lại theo truyền khẩu của gia đình. Phần ông Nguyễn Văn Thật thì nói theo lời kể của ông Isiđôrô Võ Văn Vạn, thường gọi là Sáu Vạn, thầy tuồng của Cái Mơn ngày xưa. Ông là con đỡ đầu của Đức Cha Isiđôrô Đượm, tên Pháp là Dumortier, cha sở Cái Mơn, sau là Giám Mục Địa Phận Sài Gòn. Ông Vạn mất hơn 30 năm nay, thọ 90 tuổi.

Theo một số thông đáng tin cậy, thì người đã chết hiện về này có thể cùng thời với Thánh Philipphê Phan Văn Minh. Thánh nhân sinh năm 1815, như vậy, câu chuyện xảy ra cũng khoảng gần 200 năm có rồi.

Đối chiếu với gia phả của ông biện Nguyễn Văn Đài thì thời gian như vậy là đúng.

Ông biện Đài, sau thăng chức là Trùm Đài, không biết tuổi.

Con của ông Trùm Đài là ông Trùm Thiệu, sống 92 tuổi.

Con ông Biện Thiệu là ông biện Gioang, sống 72 tuổi.

Con ông Biện Gioang là ông Biện Nguyễn Văn Nhung đã mất, còn bà Nhung hiện nay trên 80 tuổi và đã có cháu cố.

Lm Phêrô Phạm Bá Trung

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

httpv://www.youtube.com/watch?v=J3X_DtEheYY&list=UU8Z8xvp0-Qwkhlsfcll6Zqg

Nếu không còn một ngày để sống

Nếu không còn một ngày để sống

Chuacuuthe.com

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

VRNs (01.11.2014) – Sống cho mọi người nhớ đến đã khó, chết đi rồi mà không một ai quên đó mới là điều khó khăn hơn gấp bội. Ngày nay, có rất nhiều cách giúp cho người ta khiến người khác nhớ đến mình khi còn đang sống. Có những cách gây ấn tượng một cách tự nhiên, chính trực. Ví như những nhà bác học, những thiên tài, những bậc vĩ nhân… Ngược lại, là cách gây chú ý bằng việc gây sốc, làm ra một loạt những vụ scandal. Tất nhiên, cách gây chú ý nào thiên về sự công chính chắc chắn sẽ khiến người ta nhớ mãi với lòng ngưỡng mộ, thương mến. Nếu như thế giới ai cũng cố gắng dù chỉ một lần khắc ghi tên tuổi của mình vào lòng nhân loại thì chắc chắn cuộc sống này sẽ bớt bất hạnh hơn. Khổ nỗi người tốt thì ít mà kẻ ác lại nhiều. Cho nên số lượng kẻ gây sốc cho người khác nhớ thì nhiều mà người gieo ấn tượng lại ít.

Quả thật, sống cho người ta thương đã khó, chết cho người ta nhớ lại càng khó hơn. Thế nhưng, đó chỉ là những cái nhớ cái thương của nhân loại. Còn cái nhớ với những kẻ đã qua đời đối với tín hữu Kytô giáo lại hoàn toàn khác biệt. Người tín hữu có bổn phận nhớ đến tất cả mọi anh chị em đã qua đời không phải vì những ấn tượng tốt họ đã làm hoặc các lỗi lầm họ đã phạm, nhưng chính là tình thương mến thương, sự hiệp thông của lời cầu nguyện giữa người đã qua đời và kẻ còn đang sống.

Giáo hội dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho mọi tín hữu đã mất, nhằm nhắc nhớ cho những ai còn đang sống biết rằng đến lượt mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ bỏ lại tất cả mà ra đi. Vậy hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng để sống, thay vì sẽ làm ra những điều gây sốc thì hãy tạo ấn tượng bằng cách khắc ghi những hành động đẹp giữa lòng thế giới, để khi mất đi, mọi người sẽ nhớ đến mình trong niềm tiếc thương và nhung nhớ.

Nói thì nói thế, nhưng thực tế lại không thể chút nào. Ai chẳng thích sống khiến người ta thích, người ta thương, người ta nhớ, nhưng đâu phải muốn là được. Chỉ khi nào bạn chọn Thiên Chúa làm cùng đích đời mình và bước đi trong đường lối của Ngài mới hòng mong có được những ấn tượng tốt trong lòng thế giới. Riêng ai sống chỉ biết đến bản thân mình, sống buông thả theo những đam mê, dục vọng cá nhân thì làm sao có thể?

Ai biết sống chu toàn lề luật Chúa, người ấy sẽ được diện kiến nhan thánh Ngài. Trái lại, ai từ chối Thiên Chúa, sống phản nghịch đường lối Ngài, chắc chắn sẽ phải chịu diệt vong. Giáo hội dành riêng tháng này để cầu nguyện cho họ, nhờ lời cầu nguyện của nhiều người mà Thiên Chúa đoái thương tha thứ những lỗi lầm họ đã trót phạm.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, ai cũng biết nói rằng tôi sẽ sống yêu thương hơn. Nhưng thực tế, chẳng ai chịu tin rằng tôi chỉ còn có một ngày để sống. Ai cũng nghĩ còn lâu tôi mới chết, tôi sẽ còn sống lâu lắm, rất lâu, rất lâu. Ai đang ở trong Giáo hội đau khổ đều có một lỗi lầm lớn nhất là như vậy. Vì cho rằng tôi sẽ còn sống lâu lắm kìa, không cần phải thay đổi. Đâu ngờ rằng, một ngày để sống xảy đến thật. Khi đã không còn cơ hội, họ mới bắt đầu đau khổ hối tiếc. Nhưng cái giá trị một ngày để sống không còn nữa, họ đã đánh mất cơ hội của mình và giờ đây chỉ còn đau khổ và hối tiếc. Bổn phận của chúng ta những người còn đang sống là cầu nguyện cho họ.

Tất nhiên, những ai khi còn sống biết khắc ghi tên tuổi mình bằng hành động đẹp, thì giờ đây khi họ no đầy ơn phúc trên Thiên quốc, chắc chắn họ sẽ cầu nguyện cho những kẻ khi còn sống hoặc đang sống chỉ biết gây rối, gây sốc bằng những hành động điên loạn của mình.

Mầu nhiệm Giáo hội cùng thông công là như vậy. Chúng ta những người đang sống trong Giáo hội lữ hành, hãy biết ý thức dù tôi đang sống đây nhưng luôn nhớ rằng sẽ có ngày mình chỉ còn một ngày để sống Và nếu ngày ấy là hôm nay, thì hãy biết sống tốt hơn, hầu không phải hối tiếc khi thời gian không còn nữa.

Lạy Chúa, nếu chỉ còn một ngày để sống, chắc chắn con sẽ thưa với Ngài rằng con sẽ sống tốt hơn. Nếu như con không thể khắc vào lòng người những ấn tượng tốt để khi chết đi có thể khiến người khác nhớ đến mình, thì con cũng biết khắc vào lòng Chúa tình yêu, sự hy sinh và lòng mến, để khi không còn một ngày để sống, con sẽ không phải hối tiếc vì chưa biết yêu thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-30

10302014-25y-velv-memories.mp3

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

AFP

Ngày 9/11 năm nay kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ. Sự kiện đó trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng Đông Âu thành công, xóa đi hệ thống cộng sản tại lục địa này. Nhân dịp này chúng tôi tìm gặp những nhân chứng của của diễn biến lớn lao bậc nhất trong xã hội loài người, để nghe câu chuyện ký ức 25 năm trước của họ. Hôm nay chúng tôi bắt đầu bằng quốc gia cộng sản đầu tiên chuyển biến trong năm 1989: nước Hungary.

Sự sụp đổ của hệ thống cộng sản

Đó là giai điệu dòng Danube xanh, con sông chảy ngang vùng Trung Âu thơ mộng, chảy ngang nước Hungary êm đềm, nơi cách đây đúng một phần tư thế kỷ đã bắt đầu những sự kiện khơi mào cho cuộc cách mạng nhung làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản.

Mùa hè năm 1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức sang Hungary tìm đường sang Áo và Tây Đức. Trong một hành động mang tính biểu tượng, ngày 27/6/1989 hai Ngoại trưởng Hungary và Áo dùng kềm cắt bỏ hàng rào ngăn cách hai quốc gia.

Ngày 19/8/1989 những tổ chức dân sự Hungary tổ chức một sự kiện tên là Picnic toàn Âu để nói lên nguyện vọng về một châu Âu thống nhất, hàng ngàn người Đức đang tị nạn ở Hungary đã vượt biên giới sang nước Áo.

” Những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới

Anh Nguyễn Hoàng Linh”

Anh Nguyễn Hoàng Linh hồi tưởng những ngày tháng lịch sử ấy, khi anh là sinh viên tại thủ đô Budapest:

Khi cách biên giới khoảng vài cây số thì những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới. Phải nói rằng đó là một hình ảnh đối với anh em chúng tôi hết sức là cảm động, phải nói  là chấn động.

Cảm xúc rất là đặc biệt, tôi nghĩ là ai ở Hungary thời kỳ đó mà bỏ qua những cái đó thì bỏ qua những ấn tượng rất là lớn trong đời người.

Những cảm xúc chấn động của các sinh viên người Việt lúc ấy còn kèm theo cả sự ngạc nhiên. Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, hiện là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Đông nam Á ở Hawaii, là sinh viên năm thứ ba tại đại học Bách khoa Budapest vào năm 1989 nhớ lại rằng vừa bước ra khỏi khủng cảnh bao cấp khốn khó của Việt nam, thì Hungary đối với anh đã là một loại thiên đường.

Thế mà đọc báo thấy giới gọi là trí thức họ nói là tình hình rất khó khăn, chúng ta phải thay đổi rất ghê gớm. Đối với tôi đó là một cái gì rất là khó hiểu, và tôi tò mò để tìm hiểu. Thì mới hiểu rằng họ có những so sánh riêng còn người Việt nam mình nghèo quá thì như vậy đã là tốt rồi. Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do, được làm những việc lớn, mình cảm thấy thích thú lắm.”

” Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Hiệu ứng dây chuyền

Chuyển biến chính trị ở Hungary giống như một mồi thuốc châm ngòi cho một phản ứng dây chuyền lan khắp Đông Âu, làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản xây dựng dưới bóng quân đội Liên xô từ sau năm 1945. Hơn hai tháng sau khi hàng rào biên giới Áo Hung bị gỡ bỏ, một hàng rào khác mang tính biểu trưng của bức màn sắt và xung đột chiến tranh lạnh bị xóa bỏ, đó là bức tường Berlin ngăn đôi thủ đô nước Đức bị đập tan vào ngày 9/11/1989.

Nhưng tất cả những sự kiện được lịch sử ghi lại chỉ là những dấu mốc, còn quá trình thay đổi ở Hungary đã diễn ra từ lâu, từ năm 1956 khi cuộc nổi dậy của người dân Hungary bị xe tăng Liên xô đàn áp, dẫn đến cái chết của người lãnh đạo cộng sản Hung lúc đó ủng hộ cuộc nổi dậy là ông Imre Nagy.

” 25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, hiện là một nhà hoạt động xã hội dân sự tại Hà nội, nói rằng chính ở Hungary, nơi mà ông học tập trước khi cuộc cách mạng 1989 nổ ra, ông đã nhận ra những lỗi không thể sửa chữa được của hệ thống cộng sản:

Vâng chính xác như vậy. Tức là ở đó, mình có nhiều thông tin hơn do cái sự cởi mở của người ta. Và mình tiếp cận được với những người có ý kiến khác nhau, mình nghe được những chính kiến khác nhau, thì mình phát hiện ra cái hệ thống này không thể phát triển được, không thể tồn tại một cách lâu dài.”

25 năm sau ngày những người cộng sản Hungary thay đổi ý thức, cùng với những người đối lập với họ tháo bỏ bức tường ngăn cách Đông Tây, cộng đồng người Việt tại Hungary vẫn hãy còn là một cộng đồng nhỏ so với các cộng đồng người Việt hải ngoại khác. Nhưng theo anh Nguyễn Hoàng Linh hiện sống và tham gia hoạt động truyền thông của người Việt tại Budapest thì người Việt ở đây đã bắt đầu quan tâm đến đời sống chính trị của quốc gia Hungary.

25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa.

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Chợt thấy vui như trẻ thơ. Đời ta có khi là đóm lửa,
Một hôm nhóm trong vườn khuya.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở, đời ta có ai vừa qua.”

(Trịnh Công Sơn – Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)

(2Cor 1: 12 )

Trần Ngọc Mười Hai

Kìa, này bạn gần/xa. Bạn hát, sao nhiều thế? Nhiều thế, tức: cứ về đêm, là thấy thác đổ sao? Cứ về phố chợ, là thấy vui đời trẻ thơ sao? Lời bạn hát, có lẽ chưa thuyết phục mọi người, nhiều cho lắm. Nay đề nghị, bạn hãy hát thêm câu tiếp để xem sự việc ra sao, dẫu có thế nào! Câu ấy như sau:

“Một đêm bước chân về gác nhỏ,

chợt nhớ đóa hoa Tường Vi.

Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ,

giờ đây đã quên vườn xưa.

Một hôm bước qua thành phố lạ,

thành phố đã đi ngủ trưa.

Đời ta có khi tựa lá cỏ,

Ngồi hát ca rất tự do.

Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà,

Từ những phố xưa tôi về.

Ngày xuân bước chân người rất nhẹ,

Mùa xuân đã qua bao giờ”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thơ/nhạc bạn hát, cũng thơ mộng thật không ít. Tuy nhiên, dù bạn hát nhiều như thế nhưng nói năng lại rất ít. Thôi thì, chi bằng ta cứ ngồi đó nghe bầy tôi đây kể chuyện nhà Đạo, sẽ vui hơn. Vui, vì biết chuyện vừa xảy ra ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma, cũng từa tựa như chuyện trong làng/ngoài xã, ta đoán kết-cuộc ngay trước đó, rồi. Bởi, nhà Đạo của có tên tục gọi là “Vũ như Cẩn” (tức Vẫn Như Cũ) hoặc Nguyễn Y Vân (tức Vẫn Y Nguyên) mà.

Nhưng, trước khi xem sự thể ra sao ở nhà Đạo, bầy tôi chợt có ý-định đề-nghị bạn là: ta cứ nghe thử bọn trẻ kể chuyện tiếu lâm nhạt/chay, cũng hay hay:

“Truyện rằng:

Có hai bé em, xem chương-trình hỏi/đáp trên truyền-hình, lại cứ bảo:

-Khó quá mày nhỉ! Năm ngoái, chị tao biết trước đề thi cả 30 phút, thế mà vẫn rớt đấy!

-Vậy sao? Như thế, vẫn chưa bằng bà cô tao từng biết trước đề thi cả hai tháng, mà vẫn ra rìa, ngoài hạng!

-Ủa! Cô mày thi gì mà khó đậu thế?

-Thi Hoa Hậu ấy mà.

-Thi Hoa hậu mà khó thế sao?

-Đúng. Thường thì không, nhưng đằng này lại thi Hoa Hậu Phu Nhân, mới chết chứ!”

(Trích tiếu-lâm trên mạng, đọc cho qua).

Vâng. Truyện tiếu-lâm mà đọc trên mạng, thì đương nhiên chỉ cho qua dăm ba phút phù-du, chứ nào có là sự thật đâu mà để ý! Đằng này, chuyện nhà Đạo tuy nghiêm-trang/nghiêm-túc thấy vui. Vui, là bởi: nhà Đạo thường hay kể lể về các buổi họp-hành/bàn-luận rất cao-siêu nhiệm mầu nhà thờ, nhà thánh cũng nghiêm-trang như sau:

Tại Thượng Hội Đồng  vừa qua, cặp vợ chồng người Úc là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng: “gia đình phải đối mặt với sự căng-thẳng trong việc bảo-tồn chân-lý đức tin trong khi vẫn phải thể-hiện lòng từ-bi và thương xót”. Họ kể lại việc bạn bè họ phải làm thế nào khi người con đồng tính của mình muốn đem bạn tình về nhà, dịp Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”…

Vợ chồng này giải thích: “Dần dần chúng con nghiệm thấy có mối liên-hệ đặc-biệt giữa bí-tích hôn-nhân của chúng con là do Đức Kitô thiết-lập có liên-hệ trong đời sống tính-dục. Hôn-nhân là bí-tích diễn-tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào vợ chồng kính-trọng việc hợp-nhất trong tính-dục như phần quan-yếu của đời sống tâm-linh, thì họ mới hiểu rõ được giá-trị cao đẹp của giáo-lý hôn-nhân vốn được trình-bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần các phương-pháp mới và ngôn-ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người…”

…Về điều này, ông Ron và bà Marvis đã giải thích thêm: “Mô-hình truyền-giáo cho các giáo xứ phải có khả-năng trả-lời các tình-huống tương-tự!” “Nhiệm-vụ và mục-đích chính của Giáo-huấn có từ Giáo-Hội là cho thế giới biết về tình-yêu của Thiên-Chúa.”

Cặp vợ chồng người Úc này còn kể lại kinh-nghiệm thực-tế khác: “Một người bạn của chúng con đã ly-dị, có nói rằng: đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn-toàn được đón-nhận trong giáo xứ mình ở. Tuy vậy, cô vẫn tham-dự thánh-lễ thường-xuyên và vẫn giáo-dục con cái rất tốt. Đối lại, giáo-xứ lại không có thiện cảm gì với cô và việc cô ly dị là một chướng tai/gai mắt đối với họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng: tất cả chúng con vẫn còn nhiều khiếm-khuyết trong cuộc sống. Nhận ra được khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt đi việc phán-xét người khác. Bởi, phán xét làm cản-trở việc loan-báo Tin Mừng.” (Hoàng Minh tường trình về Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma tháng 10/2014 trên www.chuacuuthe.com 07/10/2014)

Kể ra, thì cũng tội. Đường đường là vợ chồng, thì ông bà Ron và Marvis Piola vẫn là cặp phối-ngẫu lý-tưởng sống đạo-hạnh, đại-diện cho Giáo-hội ở Úc “đem chuông đi đánh xứ người”. Kết cuộc, cũng  không có quyền “bỏ” phiếu, tức: chỉ gióng tiếng chuông lạ, nghe đã khó.

Kể ra, lại cũng vui. Đường đường, là nhà Đạo Công giáo, lâu lâu tổ-chức một “Thượng Hội Đồng” tốn kém khá nhiều để bàn “chuyện” của các gia-đình Công-giáo khắp nơi, có cả chuyện nghe được và được nghe, giống như chuyện của ông Vũ Như Cẫn, cũng công phu nhưng khó thành.

Kể ra, thì những chuyện xảy đến trước/sau ngày “Thượng Hội Đồng” kết thúc, có nhà báo/nhà văn và cũng là nhà đạo kia/nọ lại nhấn-mạnh đôi điều qua giòng trích-dẫn rất như sau:

Kết thúc Thượng Hội Đồng ngoại-thường về những thách đố mục-vụ gia-đình, mà không che giấu gì những khó khăn được trải qua trong suốt hai tuần tranh-luận vừa qua, Đức Phanxicô đã rút ra một bản tổng-kết tích-cực về kinh-nghiệm Thượng Hội Đồng này, được sống trong tự do phát-biểu thực-sự.

“Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và hội-đồng-tính, ta đã thực sự sống kinh nghiệm Thượng Hội Đồng, thực-sự hành-trình liên-đới cùng một con đường với nhau. Cũng như: trên mỗi con đường, đã có những thời-điểm chạy nhanh, hầu như muốn chinh-phục thời-gian và đạt tới đích một cách nhanh hết sức có thể, và những thời-điểm mỏi-mệt (…), những thời điểm nhiệt thành và hăng say khác…” (xem Tý Linh, Đức Phanxicô Kết Thúc Thượng Hội Đồng Bằng Một Bài Phát Biểu Đanh Thép, www.xuanbichvietnam.net 19/10/2014)

Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và Hội-đồng-tính”, có lẽ là “ý chính” trải rộng trong ngày các đấng bậc lu-bù họp hành để xem xét mọi sự, cho “rõ chuyện”. Bằng “hành-trình liên-đới và cùng một con đường với nhau”, có thể là “bài bản” hoặc “đường-đi-nước-bước” mà Giáo hội thời hiện-tại đang bước dần vào đời thường, của người thường.

Bằng bài bản của “tinh-thần tập-thể” hiểu theo đường-lối chính-mạch trong Đạo, thì: có thể là như thế. Thế nhưng, hiểu theo tầm-kích của báo đạo và/hoặc báo đời, ở ngoài đời thì có lẽ sẽ như sau:

“Thật ra, cũng không là chuyện thường tình xảy đến, khi người Công-giáo khắp nơi tụ-tập tại Rôma để xem Giáo hội mình đưa quyết định này khác, có theo cách-thế trong sáng/minh-bạch hay không? Các báo-cáo/tường-trình từ Thượng Hội Đồng về “chuyện” gia-đình, khiến ai có thói quen coi việc bàn-luận và cãi vã trong phòng kín, đều là “Sự đã rồi”, hết. Các đề-tài được Giáo hội gần như đồng-loạt biểu-quyết, ít ra cũng cho thấy: nay nhen-nhúm trong lòng Giáo-hội mức độ nào đó về tính đa-dạng, khác kiểu ít thấy kể từ ngày Công Đồng Vaticăng II kết thúc…” (X. Neil Ormerod, Catholic Church returns to Pluriformity of Vatican II, www.eurekastreet.com.au/article.aspx?aeid=42160 19/10/2014)

Thế đó, lại có thêm đôi nhận-định của đấng bậc khác ở đâu đó Úc-Châu, Âu-Châu hay Mỹ-Châu, mà người người nên để mắt hoặc tai xem thế nào. Trước nhất, là ý-kiến của một vị thày dạy ở Melbourne, Úc như sau:

“Phần đông dân chúng trông mong nhiều vào Thượng Hội Đồng Giám Mục hồi tháng 10/2014 khi phác-thảo được chuẩn-bị, rất kỹ…

Cuối cùng thì, với nhiều người, Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ này, là một thất-bại không nhỏ với vị Giáo-hoàng năng-nổ là Đức Phanxicô đương-đại. Thất-bại, để rồi mọi chuyện lại rơi vào bàn tay sắt đá của nhóm Giám-mục bảo-thủ. Là người đau khổ nhiều vì thất-bại, Đức Giáo Hoàng Phanxicô xem ra thấy cũng hiện rõ trên nét mặt.

Độc-giả ở đây, hẳn biết rõ Đức Phanxicô lâu nay thường tỏ-bày rằng: ngài chẳng bao giờ muốn hoặc có ý-định thay-đổi giáo-huấn của Hội-thánh, thế nên động-thái thư-thả, trầm-tĩnh của ngài cũng không có gì lạ. Đức đương kim Giáo-hoàng đây đơn-giản chỉ muốn tìm khả-năng mới để Giáo-hội Công-giáo có thể đến với người sống ngoài lề, hoặc xa cách. Điều, mà ngài quả-quyết cũng không có trọng-lượng là bao, đối với người vẫn cứ trông mong Giáo-hội có được đổi thay, cả những người chống đối mọi thay-đổi, cũng đều thế. Cả hai phía đều tin rằng: cung-cách thừa-tác mục-vụ, tự căn-bản, không thể thay-đổi nếu ta không đổi-thay về học-thuyết, lẫn tín-điều.

Thế nhưng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn cho điều ngài nói mang ý-nghĩa rất nhiều. Ý-nghĩa, có thể là ngài vẫn từng coi Thượng Hội Đồng kỳ này là một chiến-thắng đối với tầm-nhìn của ngài về sự quản-cai Giáo-hội, tức: cho phép người tham-gia cầm quyền được dự phần vào cuộc bàn cãi có mở rộng, mà trong đó không có rào cản nào, ở xung quanh.

Tính cởi mở trong trao-đổi được nhấn mạnh bằng thái-độ thẳng-thắn, bộc trực và sự khác-biệt trong say mê phát-biểu giữa các giám-mục khác nhau về trường-phái hoặc ngoài Thượng Hội Đồng. Tính trong-sáng cũng được tỏ-lộ qua thương-lượng để phác-thảo một văn-kiện “nháp” hầu đề-bạt và lấy phiếu bầu cho văn-kiện chung-cuộc.

Có thể nói, thách-thức lớn mà Thượng Hội Đồng đặt ra cho các Giám-mục tham-dự họp khi các ngài quay trở về địa-phận mình, là: làm sao tháp-nhập được tính cởi mở, trong-sáng trong quản-trị, lại là những điều lộ rõ nơi động-thái của quan-chức có mặt ở Thượng Hội Đồng. Đức Phanxicô đã chứng-tỏ rằng: cung-cách quản-cai giáo-hội xưa nay được xây dựng trên việc kềm-chế/kiểm-soát và bảo mật, có lẽ cũng nên thay thế cách nào đó cho tốt đẹp hơn; thay thế, nhưng trong đó vẫn có sự tham-gia của người dân bên dưới bằng các khuyến-khích đối-thoại cùng cởi mở và bằng sự trong-sáng/minh-bạch. Có giám mục coi đó là chuyện nên cổ võ; có vị, lại cứ coi như mình đang bị áp-lực từ gương lành của Đức Giáo hoàng hầu khai-phá thêm khả-năng khác có lợi cho giáo-hội địa phương mình…” (xem Lm Andrew Hamilton, Synod Affirms Francis’ vision of Church Governance, www.eurekastreet.net 21/10/14)

Với người ngoài, như nghệ-sĩ ở trên vẫn hát có câu ca khá lạc-điệu như:

“Nhiều đêm thấy ta là thác đổ,
Tỉnh ra có khi còn nghe.
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ,
Tôi nghĩ quanh đây hồ như.
Đời ta hết mang điều mới lạ,
Tôi đã sống rất ơ hờ.
Lòng tôi có đôi lần khép cửa,
Rồi bên vết thương tôi quì.
Vì em đã mang lời khấn nhỏ,
Bỏ tôi đứng bên đời kia”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Với đấng bậc nhân-hiền lành thánh, lại có ý/lời vẫn từng dẫn dụ như sau:

“Điều khiến chúng tôi tự hào là

lương tâm chúng tôi làm chứng rằng:

chúng tôi lấy sự thánh thiện

và chân thành Thiên Chúa ban

mà cư xử với người ta ở đời,

đặc biệt là với anh em.

Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời,

nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa.

(2Cor 1: 12)

Không cư xử theo lẽ khôn-ngoan người đời”, là lối cư-xử theo tính tập-thể rất hiệp-nhất, đúng như nhận-định của đấng bậc thày dạy từng đứng bục ở trường lớp rất Công-giáo, như sau:

“Nơi Giáo hội, ta nói nhiều về Tập-đoàn Giám mục, Hồng Y và đôi khi cả đến đoàn-ngũ linh-mục nữa, theo cung-cách mà các ngài vẫn thực-thi công-việc theo đội-ngũ. “Tôi rất lấy làm cảm-kích khi thấy ngài thực-thi hoạt-động theo tập-thể-tính biết dường nào” (Hồng Y Sean O’Malley nói về Giáo hoàng Phanxicô).

Loại hình tập-thể-tính như thế, vẫn còn thấy bên ngoài Giáo-hội đôi lúc nhiều hơn ở bên trong, hoặc giữa các đấng với nhau.

Lý do để ta có thể gọi được như thế, là vì: Giáo hội mình đích-thực là sự hiệp-thông hoặc như ai đó vẫn cứ gọi là: Tính tập-thể. Tính tập-thể vừa là ‘tiến-trình’ vốn dĩ cho phép Giáo-hội trổi bật lên trên và còn là sự diễn-tả về những gì khiến Giáo-hội phải trở-thành. Đáng tiếc thay, điều này thường không mấy hiện rõ, cho đủ. Giáo-hội mà lại không ‘hiệp-thông’ thì không phải là Giáo-hội. Và Hiệp-thông không thể xảy đến nếu không có tập-thể-tính.

Nay, ta sẽ cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô đi vào hiểu-biết ngọn-ngành về Giáo-hội như một hiệp-thông (mà tiếng Hy-Lạp gọi đó là: koinonia). Với Giáo-hội hôm nay, thì vấn-đề “tập-thể-tính” đơn-giản lại chỉ được coi như một từ-vựng khác nữa về ‘hiệp-thông’ mà thôi, chứ chưa mang đúng ý-nghĩa, của từ-vựng.

Tập-thể-tính, hoặc hiệp-thông hoặc tính-cách được thấy ở Thượng Hội Đồng, vv.. còn mang ý-nghĩa của cung-cách mới được nhấn mạnh lần nữa về đường-lối suy-tư và sống-thực của Giáo hội. Điều này, làm nổi bật sự việc ta đến với nhau đi vào động-thái kết-hợp thành-viên Giáo-hội qua tư-cách là nhóm/hội vốn dĩ tự mình và do mình chọn theo cách tự-nhiên và theo đúng luật-lệ vẫn tản mác, khác nhau. Tập-thể-tính hoặc gọi đó là tính gì đi nữa, vẫn yêu-cầu để cho quyền cá-nhân riêng-lẻ cứ thế ra đi. Yêu-cầu ấy, do bởi các cá-thể và bè/cánh trong nhóm/hội ra như thế để dễ được sự đồng-tâm nhất-trí trong nhóm/hội đoàn-thể đang trào dậy. Điều này không làm cho nhóm/hội này khác trở thành bất-lực. Thật ra, thì sự đồng-tâm nhất-trí vượt khỏi lựa-chọn thông-phần sẻ-san để rồi sẽ không sử-dụng bất cứ quyền-bính nào mà cá-nhân hoặc phân-bộ nào đó có thể có, hầu để cho nhóm/hội được tốt-lành. Có thể nói, đây là khí-cụ tạo lợi-ích chung.

Ngoài ra, nói về tính tập-thể tức: không có ý nói phải làm sao tạo được đa số phiếu tuyệt-đối với thành-viên tham-dự; hoặc ít ra cũng phải 2/3 phiếu hoặc đa số tuyệt đối các phiếu bầu. Đây là vấn-đề thuộc về não-trạng. Nhưng, không là não-trạng của việc thắng/thua.

Điều này, không có nghĩa là mình cảm thấy vui lòng/thoải mái trước khi, trong lúc hoặc sau khi xảy đến sự việc. Điều này, cũng không là câu trả lời cho vấn-nạn nào ta không đồng-thuận với nó.

Tính tập-thể không là đòi hỏi phải hoàn-toàn đồng-thuận, nhưng đòi tất cả mọi người ở đó, phải tôn-trọng lẫn nhau. Và điều đó, còn quan-trọng hơn cả trách-nhiệm trở thành dân-con vào mọi lúc. Điều đó, đòi hỏi phải hủy bỏ/tách rời bất cứ và toàn-bộ quan-điểm nào mang tính cứng-ngắc hoặc cố-định.

Tính tập-thể, không có nghĩa là: lắng tai nghe những vị cứ cho rằng điều mình kể là những điều mà Đức Giáo Hoàng vẫn thích nghe.

Hiệp-thông lại cũng không mang ý-nghĩa của sự việc hoàn-toàn thống-nhất ý-kiến. Mà là cung-cách để ta khai-thác sự khác-biệt trong khi ta sống với những thứ ấy. Đó còn là cung-cách cứ để họ sống với ta. Đó là bối-cảnh để làm sáng tỏ bất cứ bất-đồng nào có thể.

Đây cũng không là đấu-trường trong đó ta có thể chống-đối sự bất khoan-nhượng với bất nhượng-bộ. Đó cũng không là cung-cách để ta củng cố những gì được đưa ra như quan-điểm triệt-để, hoặc đường-lối để người người đào sâu rẽ chia.

Tập-thể-tính bao gồm việc xem người khác bất-đồng với mình về chuyện gì, là địch-thủ chứ không là địch-thù của mình. Tính-chất này đòi phải có sự đồng-hàng với mọi người, không vì điều họ nói hoặc do họ bỏ phiếu bầu thuận hoặc nghịch, mà vì họ đang có mặt ở đó.

Đang có mặt ở đó”, đấy mới là vấn-đề, chứ vấn-đề tuyệt-nhiên không do mức-độ thông-minh hoặc trọng-lực của luận-cứ khi tranh-cãi. Tiến bước thêm về phía trước, là cốt để dời chỗ đi từ sự bất-đồng chính-kiến về giải-pháp đưa ra cho đến bất-đồng về những điều được coi như vấn-nạn muôn thuở. Và cứ thế, ta tiến dần về với vấn-nạn nào thực-sự là vấn-đề hoặc cả việc tự xem mình có thế không hoặc có còn như thế không. Đó, mới thành chuyện!

Nói tóm lại, đây là cách-thức ta thể-hiện sự khác-biệt trong hiệp-nhất; và cứ tạo hiệp-nhất mới-mẻ hơn…” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Spelling Out The Issues of Collegiality, Strathfield ACU Workshop 23/8/2014, tr. 1 & 2 …)

Đi vào đời, đã thấy ngay đám trẻ bé đối-xử với nhau theo tính tập-thể, không uẩn-khúc. Nhưng, đã quan-niệm thoải mái qua các đoạn tả cảnh/tả tình về tình đời, như sau:

Để tả cảnh hoặc tả tình ông nội mình, có em nhỏ từng mô-tả như sau:

“Nhà em có nuôi một ông nội. Ông nội suốt ngày chẳng làm gì cả, chỉ trùm chăn ngủ. Đến bữa ăn, ông tỏ dấu vẫn cứ hỏi: Cơm chín chưa bay?

Để tả dụng cụ lao-động, em lại thích viết những điều như:

“Chiếc xẻng nhà em có rất nhiều công-dụng, và dùng nó để xúc phân của con chó nữa!”

Mô-tả về ông bố, có đoạn văn bất hủ của một học-trò khác như sau:

“Bố em có một hàm răng vàng, hàm răng vàng luôn chỉ bảo em những điều hay lẽ phải.”

Và, để miêu-tả mùa Xuân, có em lại viết rằng:

“Mùa xuân ở quê em mở rất nhiều hội. Vào những ngày ấy, trên đường có rất nhiều các ông các bà tay cầm ô đen ô đỏ, có vị còn mặc áo dài áo ngắn đứng ngồi lố nhố. Các cụ nói chuyện râm ran, như bầy chim líu lo gọi mẹ, mà em chẳng hiểu gì hết…”

Tả cây chuối, có em nọ lại viết những câu như:

“Nhà em có cây chuối rất to, chiều nào em cũng leo lên cây chuối, để thấy rõ hết mọi người ở bên dưới. Ngồi trên cành chuối rung rinh, em rất thích.”

Trả lời câu “Hãy tả con vật mà em yêu thích nhất”, có em nọ lại đã viết:

“Nhà em có nuôi một con gà trống rất đẹp. Em rất yêu nó. Vì hằng ngày nó tỏ ra hiên-ngang với các con gà mái yếu ớt. Hàng ngày, em cho nó ăn nên chiều chiều nó gáy những tiếng như con gà trống lớn coi thường mọi gà con dưới nó.”

Tả cái cặp đi học, có em khác lại cũng viết:

“Bố em mua cho em cái cặp rất to và đẹp, hàng ngày em đeo nó đến trường, cái cặp đựng được nhiều sách vở, nó to như cái bình thuốc sâu của mẹ.”

Tả cô giáo mà em yêu quí, em kia tả rất lẹ:

“Cô giáo em rất đẹp. Cô có vầng trán cao thể-hiện sự thông minh. Mái tóc cô dài thướt tha như giòng nước. Nhưng cái mà em thích nhất, vẫn là cái răng nanh của cô. Nó làm cho nụ cười của cô thêm phần quyến rũ. Cô hay đọc tập làm văn cho tụi em chép, nên em viết văn cũng giống cô…”

Tả người thày em yêu quí nhất, có em tả thế này:

“Thấm thoát đã 3 mùa hoa ban nở, thầy giáo phải tạm biệt chúng em để về xuôi. Cả làng cả bản đứng tiễn thầy vô cùng ngậm ngùi. Riêng em đứng nhìn theo thầy đến khi thầy xa dần, xa dần, đến khi nhỏ bằng con chó em mới quay lại bản.”

Tả anh lính chiến, có em tả như sau:

“Lính chiến làng em cao một thước hai, cây súng anh mang dài thước rưỡi. Thế mới oai…”

(Trích: “Các bài văn bất hủ của học trò” ở lên mạng, đọc cho biết).

Ở quê nhà, các em cũng đã học cách viết văn để miêu-tả những điều mình nhận-xét, như mọi người. Nhưng, người nhà Đạo lại suy-nghĩ hoặc viết-lách vẫn “cao siêu” hơn thế, rất nhiều. Cao và siêu, đến độ nhiều vị có chức-tước hoặc ngạch-trật cứ cãi nhau suốt, tưởng chừng không bao giờ chấm dứt.

Chấm và dứt sao được, khi người trong cuộc lại cứ nói và cứ cãi, những điều mình chẳng khi nào trải-nghiệm. Chấm và dứt làm sao, khi nhiều người những muốn nói điều mình trải-nghiệm, nhưng vì không ở cùng mạch chính, nên không có quyền quyết-định bằng lá phiếu.

Tóm lại, vấn-đề gì cũng thế, dù diễn ra ở trong hay ngoài cuộc, càng thấy khó bàn-cãi, nói chi đến “cuộc chơi”, ở đời. Thế đó, một vài ý mọn ở đâu đó, có bạn đạo nọ gom góp, nhặt nhạnh để lưu-giữ hầu biến nó thành kinh-nghiệm đời, cho mai sau. Kinh và nghiệm, là những gì bạn và tôi, ta cần cảm và nghiệm nhưng lại không hề “kinh nhi viễn chi”.

Trần Ngọc Mười Hai

Tuy chưa có kinh nghiệm

Quản cai ai cả

Nhưng vẫn muốn nghiệm và kinh

Hết mọi người mọi vị

ở trong đời.

Anh với tôi mộng canh trường

“Anh với tôi mộng canh trường,”

“Giăng kề song cửa, hoa kề gối

“Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 2: 13-22

Mai Tá lược dịch

Truyện sầu hay truyện mến thương của tôi và anh, đâu chỉ là chuyện của thi ca, và âm nhạc. Truyện như thế, vẫn trải dài ở nhiều nơi, cả ở ngoài đời lẫn trong Đạo.

Rất nhiều người ở đời thường, vẫn hay tỏ bày nỗi ngạc nhiên rất mực, khi khám phá ra rằng: ngay như nhà Đạo, vẫn có chuyện phân biệt giữa đền thánh với nguyện đường, ở địa phương. Điều mà nhiều người thường nghĩ, đó là: đền thánh Phêrô không phải là Nhà Thờ Chánh Toà của Giáo phận La Mã. Thậm chí, có khách hành hương còn đến đây, để tìm cho ra ngai triều của Đức Giáo Hoàng, tức Đức Giám Mục thành Rôma, nhưng không thấy.

Có người lại cứ tưởng chiếc ghế chạm trổ công phu của thánh Phêrô đặt sau bàn thờ trên cao, là ngai-triều chính-hiệu của ngài, nhưng vẫn lầm. Có người lại cứ nghĩ: chiếc ghế di-động mà Đức Giáo Hoàng thường ngồi, là ngai triều của ngài, cũng  không đúng.

Thánh đường Latêranô đích-thực là Vương Cung Thánh Đường, của La Mã. Ở nơi đó, có ngai-triều của Đức Giám Mục thành Rôma, rất đúng thực. Từ thế kỷ IV, Giáo hội dùng nơi này để cung-hiến thành chốn thánh dâng lên Chúa.

Nơi đây, mỗi năm Đức Giáo Hoàng vẫn thân-hành đến chủ-trì các nghi lễ phụng-tự, rất long trọng. Và chính tại thánh-đường này, ngài uy-nghi ngồi trên ngai-toà mình ngõ hầu ban huấn-từ, giãi-bày nhiều điều cho dân Chúa biết.

Trong cuộc sống Giáo hội, nhiều giáo hội địa phương cũng dùng việc kỷ-niệm cung-hiến thánh đường trong giáo-phận mình, coi như lễ trọng. Cung-hiến thánh-đường Latêranô, là lễ-hội toàn-cầu, nhằm nhắc ta nhớ mà hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng, trên cương-vị ngài là Giám Mục thành La Mã.

Bằng vào cử-chỉ này, ta chứng-tỏ rằng: Giáo-hội mình là Giáo-hội của chung, rất Công giáo. Nhưng, điều đáng buồn, là: đôi khi ta cũng thấy nhiều người nghĩ rằng họ được phép chọn-lựa giữa Giám-mục địa-phận mình với cả Giám-mục thành La Mã nữa. Điều này, thật cũng có ý nghĩa, nhưng đó không phải là tính-cách chung, của Công giáo.

Nói cho cùng, dù ta có lòng mến mộ Đức Giáo Hoàng đặc-biệt thế nào đi nữa, thì tình-cảm riêng-tư của ta vẫn không dẫn đến kết-quả như một hiệp-thông với ngài. Bởi, ta chỉ có thể hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng khi có được sự thông-hiệp ngang qua Giám-mục sở tại của mình, mà thôi.

Và, Đức Giám mục địa phận sở tại của ta cũng chủ sự cùng một Tiệc Thánh Thể như và với Đức Giám Mục thành La Mã là Đức Giáo Hoàng.

Trong cuộc sống thường-nhật, nhiều nguời cũng mắc phải sai lầm tựa như thế, cũng là điều dễ hiểu thôi. Nhiều năm qua, Hội-thánh ta vẫn tập-trung vào vai-trò của Đức Giáo Hoàng mạnh đến độ ta sẽ được tha thứ nếu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng chỉ là Cán bộ Cấp Cao của Giáo triều Vaticăng.

Và Đức Giám Mục sở tại lại là Giám-đốc hay Thủ-trưởng, một chi-nhánh của giới cầm-quyền.

Nên, khi Đức Giáo Hoàng ra lệnh “hãy nhảy lên”, thì ta hỏi: “Dạ thưa, cao đến cỡ nào ạ?” Thành thử, vấn-đề này xem ra hơi giống thái-độ của những người “bảo hoàng hơn vua”, luôn có nguồn sử của Hội thánh, cũng tương tự như thế.

Chính vì thế, nên Công Đồng Vatican II đã làm sáng-tỏ vai-trò của Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai, giáo-huấn và thực-thi hiến-pháp, trong Giáo hội. Công Đồng Vatican minh định rất thận trọng, là nhằm hồi-phục chức-năng đúng-đắn khi xưa, về cương-vị lãnh-đạo của Đức Giáo Hoàng.

Công Đồng đây cho thấy, việc cai quản, giáo huấn và thi hành giáo-luật luôn chứa-đựng một bối-cảnh, vẫn có từ khi trước. Công Đông vẫn dạy rằng: Đức Giáo Hoàng thực thi cương-vị lãnh-đạo như vị thủ-lĩnh tối cao trong số các Giám mục. Ngài là mục-tử mang tính toàn-cầu. Là, dấu chỉ của sự hiệp-nhất trong Hội thánh.

Và, là người có trọng-trách giáo-huấn, duy-trì và bảo-vệ niềm tin của toàn-thể Hội thánh, ngang qua phương cách mà ngài xác nhận với những người anh em Giám mục có cùng một trọng trách trong giáo hội địa phương của các ngài.

Chính từ đó, nguồn cội của cụm từ “vâng phục” lại có ý nghĩa của sự việc “lắng nghe một cách cẩn trọng”.

Vì thế nên, Tiệc thánh hôm nay là để ta cử-hành sự hiệp-nhất trong đa-dạng, khi ta tập-trung nhấn mạnh đến Mẹ thánh Giáo-hội đối với các giáo-hội Công giáo La Mã, ở địa phương.

Cầu mong sao, từ đó ta lĩnh-hội được điều tốt đẹp để có quyết-tâm với Đức Giám Mục sở tại nơi ta sống. Bởi, ngài cũng là đấng kế-vị của các thánh tông đồ. Và, ngài cũng đáp-ứng với lời kêu gọi của Đức đương kim Giáo Hoàng giúp ngài nghĩ ra các phương-cách khả dĩ thực-hiện công việc phục-vụ Hội thánh. Đó, là “dấu chỉ” lớn lao hơn cho sự hiệp-nhất Đạo của Chúa với thế-giới nhân-trần, trong lai thời.

Cũng cầu mong sao, để mỗi người chúng ta nhớ được rằng: tinh-thần mà Tin Mừng hôm nay muốn tỏ-bày, chính là sự việc Giáo-hội cũng được dựng-xây bằng gạch hồ thật đấy. Thế nhưng, Thân Mình Rất Hiển Vinh của Đức Kitô lại vẫn được đúc-kết bằng những người con biết sống-thực tình yêu thương cứu-độ Ngài ban cho thế-giới, rất hôm nay.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm những điều như thế, ta lại sẽ ngâm nga câu hát của nhà thơ ở trên, vẫn hát rằng:

“Anh với tôi mộng canh trường,

Giăng kề song cửa, hoa kề gối

Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương.

Anh buồn từ thuở giăng lên núi

Ấy độ tôi về ước lại mong.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Nỗi buồn, thuở nào cũng vẫn là buồn một nỗi thời muôn thuở. Miễn anh và tôi, ta cũng chớ buồn vì sự chênh-lệch quyền-bính ở nhà thờ và nhà Đạo, rất hôm nay. Bởi lẽ, quyền-bính với quyền-hành ngày hôm nay, dù ở nơi nào đi nữa, vẫn là vấn-đề muôn thuở của tôi và của anh, rất sáng ngời, đầy bực bõ.

Thế nên, giải quyết được tranh-chấp quyền-hành ở mọi chốn, cũng là giải quyết tận gốc mọi nỗi buồn của người con trong nhà Đạo, suốt mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

Tác giả: Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

1. Lịch sử của ngày lễ.

Ngay thời tiên khởi, Hội Thánh đã luôn luôn dạy hãy cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustinô viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”.

Nhưng Thuở ban đầu này, do ảnh hưởng thời tiền Kitô giáo, các nghi thức cầu cho người chết còn chứa nhiều màu sắc dị đoan. Kinh nghiệm của đời sống phụng vụ của Hội Thánh loại trừ dần những cổ hũ ấy. Mãi đến thời trung cổ, nhờ các ẩn sĩ, là những người có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm, một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh: Mọi tu viện của dòng phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2.11, ngay sau lễ các Thánh hàng năm. Truyền thống này càng ngày càng lan rộng trong Hội Thánh. Sau cùng Hội Thánh chấp nhận và đưa vào niên lịch Công giáo Rôma.

Ý nghĩa thần học nền tảng của việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã qua đời, là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít ai đạt được đời sống trọn hảo, nhưng hầu hết đều mang vết tích tội lỗi trong khi qua đời. Đã là con người yếu đuối, nên cần thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận lời cầu nguyện, những hy sinh của người sống, khi có ý dành cho người đang ở tình trạng luyện tội, có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người ấy.

Việc cử hành lễ cầu cho các tín hữu qua đời, ngày nay đã trở thành việc đạo đức quen thuộc, thường xuyên của mọi Kitô hữu. Ngay nay, người ta tổ còn tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng nến và hoa.

2. Sứ điệp của ngày lễ.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ, niềm hy vọng cho con người.

Trên đó cũng thường có tấm bia khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia người ta khắc ba chữ: R. I. P. (Viết tắt của câu Latinh: requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu).

Có những tấm bia trên phần mộ ghi câu Kinh Thánh hay những lời từ biệt, lời cám ơn. Phải chăng chết đi về thế giới bên kia là hết, là chấm dứt mọi liên đới ?

Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, đã nói lời từ giã trước khi tự nguyện hy sinh chịu chết: “Thày đi về cùng Cha Thày!” (Ga 14, 1-14). Lời từ biệt này nói lên mối dây ràng buộc niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa.

Người thân yêu đã ra đi, theo niềm tin của người Công giáo dựa trên chính lời Chúa Giêsu, đó cũng chính là lúc họ về cùng Thiên Chúa Cha. Và cũng như Chúa Giêsu, họ cũng để lại di chúc cho chúng ta và cho mọi người đi sau họ:

– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.

– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này, nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha tôi. Tôi biết Ngài luôn yêu mến tôi.

Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người thân còn sống: Tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến mọi người quá cố. Xin đón rước và thứ tha cho ông bà, anh chị em, bạn hữu, và mọi người thân yêu, mọi người đã đi qua trong đời này mà nay đã an giấc.

Xin Chúa cũng thương tha thứ và đón nhận chúng con, những người còn lữ hành trên dương thế, được vào nước Chúa, vào một ngày mà Chúa gọi chúng con về trình diện trước Thánh Nhan Chúa. Amen.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

(Trích trong tập sách “Giờ Kinh Gia Đình với Lời Chúa” của giáo phận Phú Cường)

Đài Loan cáo buộc VN xây đảo ở Trường Sa

Đài Loan cáo buộc VN xây đảo ở Trường Sa

Chủ quyền trên biển Đông luôn là vấn đề gây tranh cãi quyết liệt giữa chính phủ và người dân các nước

Đài Loan nói các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam đang quyết liệt hơn cả Trung Quốc trong việc mở rộng đảo ở các khu vực có tranh chấp trên biển Đông, trang tin wantchinatimes.com của Đài Loan nói.

Bài tường thuật trên wantchinatimes dẫn nguồn ông Vương Thành Cơ từ Trung tâm Khảo sát Vệ tinh thuộc Vụ Quản lý Đất đai của Bộ Nội vụ Đài Loan nói ông này đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra Việt Nam đang mở rộng các rặng san hô và các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa.

Được biết ông Vương là người phụ trách dự án trị giá 3 triệu đô la Mỹ chuyên trách các hình ảnh vệ tinh có độ phân giải cao ở khu vực có tranh chấp trên biển Đông.

Ông Vương nói dự án tạo diện tích mới trên biển Đông của Việt Nam rộng tương đương 11 sân bóng đá.

Tuy nhiên, bài tường thuật của trang mạng này không đưa hình ảnh nào minh họa cho các bình luận của ông Vương, cũng không nhắc tới tên đảo hay rặng san hô nào, hay vị trí cụ thể nào mà ông Vương cho là Việt Nam đangn ở rộng.

‘Trung Quốc và Đài Loan cùng phe trong tranh cãi chủ quyền’

Quần đảo Trường Sa là nơi Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia cùng tuyên bố chủ quyền.

Đảo Ba Bình, mà Đài Loan gọi là đảo Thái Bình, hay còn được gọi là Itu Aba, là đảo lớn nhất của Trường Sa trước khi có các dự án mở rộng diện tích các đảo, và là đảo duy nhất hiện thuộc quyền kiểm soát của Đài Loan, nơi Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.

Đảo Ba Bình là đảo lớn nhất ở Trường Sa và là đảo duy nhất Đài Loan hiện đang kiểm soát

Đảo Ba Bình cũng là hòn đảo duy nhất trên quần đảo Trường Sa đủ lớn để xây dựng một hải cảng.

Đài Loan đang xây dựng cảng trên Ba Bình nhằm cho phép chiến hạm và tàu hải giám trọng tại 3.000 tấn ra vào, dự kiến hoàn thành vào cuối 2015.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã mô tả hành động này của Đài Loan là ‘bất hợp pháp và không có cơ sở’.

Tuy nhiên, trong một thông cáo gửi cho hãng tin Reuters, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố: “Đài Loan và đại lục đều là cùng một nước Trung Quốc. Những hoạt động của người dân Trung Quốc ở quần đảo Nam Sa và vùng biển lân cận, bao gồm đảo Thái Bình, là không có gì phải phê phán.”

Nay, với tin tức mới nhất về các hình ảnh vệ tinh mà Đài Loan cho là chứng tỏ có việc mở rộng đảo từ phía Việt Nam, trang mạng wantchinatimes nói rằng nếu Việt Nam tiếp tục mở rộng ảnh hưởng trong khu vực thì có khả năng sẽ xảy ra xung đột có vũ trang giữa Đài Bắc và Hà Nội.

Việt Nam từ giữa năm 2011 tới nay đã và đang thực hiện phong trào ‘Góp đá xây dựng Trường Sa’ do Trung ương Đoàn và báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh phát động.

Truyền thông trong nước đưa tin nhiều về phong trào này, và công trình xây dựng đầu tiên được khánh thành là tại Đảo Đá Tây A thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa hồi tháng Ba 2012.

Đó là một khu vực gồm nhà ở, bến cập xuồng, bể dầu và một số hạng mục khác, được xây cất tại khu đảo đã có người ở.

Tuy nhiên, không thấy Việt Nam nhắc tới việc xây cất ở các khu đảo đá ngầm hay các khu đảo không người ở.

BBC Tiếng Việt đã liên hệ với Bộ Ngoại giao Việt Nam và đang chờ phản ứng chính thức từ phía Việt Nam liên quan tới các nội dung nêu trong bài tường thuật của wantchinatimes.

Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng Đức Tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris Đứng cuối Nhà Thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère.

Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi: “Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?”

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ: “Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến Đức Tin!”

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: “Anh lầm rồi, Đức Tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?”

Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?” Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

“Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!”

LỄ CÁC LINH HỒN

LỄ CÁC LINH HỒN

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR

Theo truyền thống của người dân Hoa Kỳ, hằng năm, vào tối ngày 31 tháng 10 dương lịch, trẻ nhỏ rủ nhau chơi “Đêm Halloween” cũng gọi là trò “Trick or Treat”.  Các em từng tốp mang mặt nạ, đến gõ cửa  mỗi nhà và nói “Trick or Treat” (cho chúng tôi quà bằng không chúng tôi sẽ phá phách)…  Trò chơi này làm cho chúng ta có cảm tưởng như là các linh hồn của những người ở thế giới bên kia hiện về xin bố thí hoặc nhắn nhủ điều gì đó cho những người còn sống trên trần gian.

Tục lệ tối Halloween nầy là dấu vết thời xa xưa còn sót lại của người La-mã dùng để tưởng nhớ người quá cố.  Thuở ấy người La-mã có thói quen đúc mặt nạ của người thân mới qua đời để cất làm kỷ niệm.  Mỗi khi trong gia đình có người chết thì người nhà phải mang tất cả các mặt nạ hiện có trong gia đình, sắp hàng dài đi trước quan tài, để dẫn đưa người vừa quá cố tới nơi an nghỉ cuối cùng.

Nguyên tiếng Halloween, theo truyền thống Công giáo, bởi 3 tiếng  ALL HALOWS’ EVE  hoặc EVE OF ALL HALLOWS ghép lại, có nghĩa là “buổi tối áp lễ các thánh”…  tuồng như các Thánh trên trời đi diễn hành trước mặt chúng ta để nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ đến các ngài, nhớ đến công ơn các ngài và thúc giục chúng ta noi gương các ngài trong việc làm con cái Chúa, và một mặt khác nữa là kêu xin chúng ta dâng lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.


Thật vậy, hằng năm Hội thánh Công giáo Hoàn vũ dâng ngày 01 tháng 11 dương lịch để kính mừng Các Thánh Nam Nữ trên trời và dành riêng trọn tháng 11 dương lịch, bắt đầu từ ngày mồng 02, để cầu nguyện cho Các Linh Hồn trong Luyện ngục.

Công Đồng Trentô dạy rằng các linh hồn ở Luyện ngục là thành phần của Hội Thánh cần nhờ đến lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta, những người còn sống.  Giáo lý của Hội Thánh về Luyện ngục là điều có sức yên ủi lòng ta và tỏ bày lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta.  Việc cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện ngục là một việc làm do tình thương thúc đẩy để bù đắp phần nào mối tình và bổn phận phải có đối với các kẻ đã qua đời mà có lẽ khi các ngài còn sống chúng ta đã không chu toàn.

Chứng Tích Về Luyện Ngục:

Những chứng tích về việc các Linh hồn ở Luyện ngục hiện về được Tòa Thánh công nhận thì nhiều lắm.  Ở đây, chúng tôi chỉ xin đơn cử một ít chứng tích, trong nhiều chứng tích, đang được trưng bày tại Thánh đường Đức Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Luyện Hình tại Rôma.  Khi có dịp hành hương về Rôma, kính mời quí vị đến kính viếng Vương cung Thánh đường này và ghé thăm phòng triển lãm.

Chứng tích 1: Bạn bè hiện về với nhau

Chúa nhật ngày 05 tháng 3 năm 1871, bà Palmira Rastelli, chị ruột của linh mục Santelli, chánh xứ Thánh Anrê tại Rimini, qua đời ngày 20-11-1870 đã hiện về với bà bạn là Maria Zelanti cũng thuộc giáo xứ Thánh Anrê để xin cầu nguyện và xin nhắn với ông anh linh mục dâng lễ cho mình.  Để cho người còn sống vững tin thì linh hồn hiện về đã in dấu 3 ngón tay của mình trên cuốn sách nguyện của bà Zelanti. Dấu lửa in 3 ngón tay trên trang sách đã không thiêu hủy tờ giấy và cũng không làm mất các hàng chữ trên trang giấy.

Chứng tích 2: Vợ hiện về với chồng

Bà Louise Sénéchal, qua đời ngày 7 tháng 5 năm 1878, đã hiện về với chồng là Louis Sénéchal xin cầu nguyện và xin dâng cho bà 5 thánh lễ.  Bà đã in 5 ngón tay lửa của mình lên chiếc mũ trùm đầu của chồng bà như là một dấu hữu hình để chồng và các con tin.

Chứng tích 3: Nữ tu hiện về với chị em trong tu viện

Nữ tu Clara Schoelers, Dòng Bênêđitô ở Vinnemberg, Westphalie, qua dời năm 1637 đã hiện về với nữ tu Maria Herendorps ngày 30 tháng 10 năm 1696 (59 năm sau).  Để làm bằng chứng, linh hồn hiện về đã in dấu cháy hai bàn tay của mình trên áo khoác làm việc của  nữ tu Maria Herendorps và trên một tấm vải trắng.

Chứng tích 4: Mẹ hiện về với con trai

Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai là Joseph Leleux ở Wodecq (Bỉ).  Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh.  Bà cầm tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết quả là anh đã trở lại sống thánh thiện, lập một hội đạo đức dành cho giáo dân; các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh.  Anh đã qua đời cách thánh thiện ngày 19-4-1825.

Chứng tích 5:  Mẹ chồng hiện về với con dâu

Nhạc mẫu của bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con dâu.  Bà buồn bã nhìn con dâu như có ý xin điều gì.  Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được mẹ chồng cho biết là mình về để xin con (dâu) cầu nguyện cho, bằng cách đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở Mariental.  Người con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin.  Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là mình đã được ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng.  Bà Magarita xin một bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình lên trang sách Gương Phước đang để mở trên bàn.  Và từ đó bà không còn hiện về nữa.

Hôm nay là dịp để chúng ta nhớ đến linh hồn những người thân yêu mà Chúa đã gởi đến trong cuộc đời như: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt, bằng hữu…  Ta cũng nhớ đến những linh hồn bị quên lãng không có ai nhớ đến để cầu nguyện cho.

Bà Thánh Monica khi còn sống đã căn dặn con mình là Thánh giám mục Augustinô rằng: “Con ơi, khi mẹ chết rồi, con có thể chôn cất mẹ ở đâu cũng đươc.  Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ mà cầu nguyện cho mẹ mỗi ngày khi con bước lên bàn thờ tế lễ Chúa”.  Bà Monica khi còn sống đã đạt tới sự thánh thiện trọn hảo mà còn lo lắng cho thân phận mình sau khi chết như vậy.

Nơi một nghĩa trang ở Rôma, bên nước Ý-đại-lợi, ta đọc thấy hàng chữ này bằng tiếng La-tinh: “Hodie Tibi, Cras Mihi” có nghĩa là HÔM NAY BẠN (Hodie Tibi), NGÀY MAI TÔI (Cras Mihi)… nhắc chúng ta nhớ đến Sự Chết.  Sự Chết không tha cho một ai cả.  Có nhớ đến sự chết, có suy gẫm về sự chết mới biết phải sống thế nào cho đẹp để được chết lành.

Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho người, ngày mai người khác sẽ lại cầu nguyện cho ta: Một sự vay trả, trả vay rất hữu lý.  Hôm nay ta cầu nguyện cho các Linh hồn trong Luyện ngục, ngày mai khi được về hưởng nhan thánh Chúa trên trời, các Linh hồn người lành sẽ đền đáp lại cho chúng ta bằng lời chuyển cầu thần thế của các ngài trước mặt Chúa.

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

CÁC THÁNH LÀ AI VẬY?

CÁC THÁNH LÀ AI VẬY?

Lễ Các Thánh Nam Nữ

(Mt 5, 1-12a)

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội. Mừng kính các thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quan tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.

Hỏi : Thiên đàng là gì ?

Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21). Thiên đàng là nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.

Hỏi : Các thánh là ai vậy ?

Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như mối phúc trong Tin Mừng tuyên bố :  “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).

Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm các thánh là ai. Các thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là  “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tác khỏi sự phàm tục. Các thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.

Hỏi : Các thánh làm gì trên thiên đàng?

Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà các thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui của, “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.

Hỏi : Các thánh mặc áo gì?

Các thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.

Hỏi : Các thánh là bao nhiêu?

Sách Khải Huyền nói : “số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bìh nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, Đồng trinh, Hiển tu, Ẩn tu.

Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi, thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào sổ những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.

Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lí do tại sao hôm nay Giáo hội thiết lập ngày lễ các thánh, để mừng kính chung các thánh gồm cả các thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.

Hôm nay Giáo hội mừng kính toàn thể các thánh, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cảo sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.

Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.

Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.

Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).

Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Giáo xứ Thái Hà: Phản đối chính quyền Hà Nội trên bảng điện tử

Giáo xứ Thái Hà: Phản đối chính quyền Hà Nội trên bảng điện tử

Dòng Chúa Cứu Thế,

 

VRNs (29.10.2014) – Hà Nội – Trong những ngày qua, khi mà chính quyền Hà Nội bất chấp sự phản đối của giáo dân Thái Hà và các tu sĩ DCCT Hà Nội để biến khu đất Hồ Ba Giang thành công viên, những người đến Giáo xứ Thái Hà và Tu viện DCCT Hà Nội sẽ thấy một bảng điện tử lớn đặt trên lầu thượng Tu viện ngày đêm chạy với nội dung: “CHÚNG TÔI PHẢN ĐỐI CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI  CHIẾM ĐOẠT ĐẤT HỒ BA GIANG – TÀI SẢN HỢP PHÁP CỦA NHÀ THỜ THÁI HÀ”

Thầy Phanxicô Trần Văn Bắc, DCCT Hà Nội cho biết, nhiều người nhờ để ý đến những lời phản đối chính quyền qua bảng điện tử này đã chú ý đến vụ việc đất Hồ Ba Giang. Khi quan sát thấy có bệnh nhân và người nhà của họ đứng trước sân bệnh viện Đống Đa đọc những lời trên bảng điện tử. Tôi không biết họ có biết sự việc đất Hồ Ba Giang không, nhưng chắc chắn là họ biết chúng tôi đang phản đối chính quyền Hà Nội như nội dung bảng điện tử chạy”.

Nói về lý do tại sao có bảng điện tử với những nội dung phản đối trên, cha Giuse Nguyễn Văn Phượng, chánh xứ Giáo xứ Thái Hà cho biết: “Đây là một trong những cách chúng tôi phản đối việc làm phi pháp của chính quyền Hà Nội khi bất chấp tiếng nói của chúng tôi để thi công trái phép trên khu vực đất Hồ Ba Giang. Còn có những cách thức khác để phản đối việc làm phi pháp của chính quyền Hà Nội, nhưng đây là một trong những cách chúng tôi thực hiện. Mục đích để phản đối chính quyền và cũng để cho mọi người ngày đêm, có thể từ xa đọc được nội dung này. Khi đọc được nội dung này, họ sẽ thắc mắc, họ tìm hiểu và họ nhận ra bộ mặt thật của chính quyền Hà Nội đang đối xử với tôn giáo, cụ thể là đối với Giáo xứ Thái Hà và Tu viện DCCT Hà Nội chúng tôi.”

“Chúng tôi không những lên tiếng trên các phương tiện truyền thông để cho quốc tế biết, nhưng chúng tôi còn cho những người sống ngay trong thành phố này cũng rõ việc làm đó của chính quyền Hà Nội. Có nhiều người dân không hiểu sự việc, họ chỉ thấy chính quyền làm công viên và tưởng như vậy là một việc làm tốt; nhưng họ không biết rằng, đó là khu đất thuộc sở hữu, quản lý hợp pháp của chúng tôi, mà trong các văn bản gần đây khi chính quyền nói về khu đất này cũng công nhận điều đó, nhưng giờ họ lại hành xử như vậy.”

IMG_1382

Bảng điện tử nhìn từ xa

CHÚNG TÔI PHẢN ĐỐI CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI

“CHÚNG TÔI PHẢN ĐỐI CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI

NỘI  CHIẾM ĐOẠT ĐẤT HỒ BA GIANG -

CHIẾM ĐOẠT ĐẤT HỒ BA GIANG –

- TÀI SẢN HỢP PHÁP CỦA NHÀ THỜ THÁI HÀ”

– TÀI SẢN HỢP PHÁP CỦA NHÀ THỜ THÁI HÀ”

Bảng điện tử nhìn từ cổng nhà thờ

Bảng điện tử nhìn từ cổng nhà thờ

VRNs tại Hà Nội