‘Không thể tránh cải cách thể chế nữa’

‘Không thể tránh cải cách thể chế nữa’

Thứ sáu, 27 tháng 6, 2014

Việt Nam đứng trước áp lực cải cách toàn diện để đáp ứng nhu cầu hội nhập của nền kinh tế

Kinh tế gia Phạm Chi Lan nói nhu cầu hội nhập của nền kinh tế giữa lúc căng thẳng gia tăng với Trung Quốc sẽ khiến Hà Nội không thể không cải cách thể chế.

Bà có nhận định trên trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 27/6, ngay sau khi Tổng cục Thống kê (GSO) công bố chỉ số tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm.

Báo cáo mới nhất của GSO cho biết trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6 năm nay, kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng 5,18%, cao hơn so với mức 4,9% cùng kỳ năm ngoái.

Tuy nhiên, theo bà Lan, con số này có thể chưa phản ánh hết tác động của tình hình bất ổn vừa qua.

“Có thể những tác động của giàn khoan đối với Việt Nam chưa được tính hết vào vì thống kê tăng trưởng của Việt Nam thường có độ trễ nhất định,” bà nói.

“Nhưng tôi nghĩ ảnh hưởng cũng không nhiều, vì thời gian xảy ra các sự kiện đó cũng ngắn và phần đóng góp của các doanh nghiệp đó vào toàn bộ sản lượng công nghiệp và xuất khẩu cũng không lớn lắm.”

Đẩy mạnh cải cách thể chế

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Nhận xét về chỉ tiêu tăng trưởng 5,8% trong năm nay và 6% cho năm sau của chính phủ, bà Lan cho rằng mức này là “cao so với khả năng”.

“Thực tế là những vấn đề như giàn khoan và quan hệ kinh tế với Trung Quốc có thể có những diễn biến phức tạp hơn và do đó có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, cho nên tôi nghĩ là cần đặt ở mức khiêm tốn hơn”, bà nói.

Bà Lan nhận định kinh tế Việt Nam trong năm 2015 và những năm tới sẽ phụ thuộc vào việc chính quyền Việt Nam ứng phó ra sao trước căng thẳng trên biển và những thay đổi trong quan hệ với Trung Quốc.

Bên cạnh đó, bà cũng cho rằng chính phủ cần ‘đẩy mạnh các chương trình tái cơ cấu kinh tế, cải cách thể chế để tạo động lực mạnh hơn, môi trường thuận lợi hơn cho khu vực tư nhân phát triển”.

“Chương trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước cũng phải được thúc đẩy mạnh hơn để hướng nguồn lực hiếm hoi của Việt Nam vào khu vực hiệu quả hơn”, bà nói.

Trả lời câu hỏi của BBC về việc liệu nỗ lực cải cách thể chế của Việt Nam sẽ có biên độ lớn đến đâu, bà nói:

“Càng ngày Việt Nam càng thấy rõ hơn sức ép về việc cải cách thể chế và cảm thấy cần làm nhanh hơn nữa”.

“Những phát triển trong thời gian qua không được như mong muốn và nhiều chương trình tái cơ cấu chưa được đẩy mạnh lên do việc cải cách thể chế chưa tiến hành được bao nhiêu.”

“Mặt khác, sức ép từ những cuộc hội nhập mà Việt Nam sắp tham gia từ 2015 trở đi cũng như từ các hoạt động đối ngoại sẽ khiến chính quyền không cải cách không được.”

“Tôi nghĩ thực sự trong thời gian tới Việt Nam sẽ phải thúc đẩy cải cách thể chế mặc dù trong nước còn ngần ngại.”

“Đến lúc không thể không làm được nữa rồi.”

Giảm lệ thuộc

Ngành xuất khẩu của Việt Nam sử dụng một lượng lớn nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc

Thống kê tăng trưởng được GSO công bố một tuần sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định điều chỉnh tỷ giá đôla/VNĐ trong nỗ lực nhằm thúc đẩy xuất khẩu.

Mặc dù vậy, bà Lan cho rằng quyết định này “không có tác động lớn” về ngắn hạn.

“Nhiều ngành xuất khẩu của Việt Nam vẫn dựa rất nhiều vào hàng nhập khẩu từ bên ngoài, nhất là sản phẩm trung gian,” bà nói.

“Vì vậy tác động đối với xuất khẩu được cải thiện một chút thì lại bị phần nhập khẩu vào với giá cao hơn bù lại”.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam đang có nỗ lực để khắc phục điều này, bà cho biết.

“Ngành xuất khẩu đang cố gắng phát triển những khâu có thể làm được ở Việt Nam để giảm bớt sự lệ thuộc từ bên ngoài, nhất là các sản phẩm trung gian.”

“Kinh tế Việt Nam đã đủ phát triển để có thể sản xuất ra các sản phẩm trung gian ở trong nước.”

‘Lưỡi Bò’ Trung Quốc phát triển thành 10 đoạn, nuốt gần trọn Biển Đông

‘Lưỡi Bò’ Trung Quốc phát triển thành 10 đoạn, nuốt gần trọn Biển Đông
June 25, 2014

Nguoi-viet.com


BẮC KINH 25-6 (NV) –
Một nhà xuất bản ở Trung Quốc phát hành bản đồ mới của nước này với cái “Lưỡi Bò” có 10 vạch, thay vì 9 vạch như trước đây, chiếm gần hết Biển Đông.

Bản đồ mới của Trung Quốc hình dọc với cái “Lưỡi Bò” mới với 10 đoạn, thay vì 9 đoạn như những bản đồ trước đây. (Hình: Tân Hoa Xã)

Tân Hoa Xã hôm Thứ Tư 25/6/2014 đưa tin một nhà xuất bản bản đồ ở tỉnh Hồ Nam phổ biến tấm bản đồ toàn thể nước Trung Hoa hình dọc bao gồm luôn cả khu vực Biển Đông. Điểm đặc biệt là tại phần biển họ gọi là Nam Hải (Việt Nam gọi là Biển Đông), bản đồ vừa kể vẽ 10 đoạn xác định chủ quyền chiếm gần hết vùng biển này theo hình “Lưỡi Bò.”

Các bản đồ Trung Quốc trước đây theo chiều ngang nên phần bản đồ Nam Hải chỉ là một khung nhỏ nằm về một góc, trên đó có hai quần đảo họ gọi là Tây Sa và Nam Sa mà Việt Nam gọi là Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời, các bản đồ cũ chỉ có 9 đoạn gom lại thành hình “Lưỡi Bò” như cách vẽ có từ thời Tưởng Giới Thạch nắm quyền.

Hôm Thứ Hai 23/6/2013, Lei Yixun (Lôi Nhất Huân) tổng biên tập nhà xuất bản bản đồ tỉnh Hồ Nam tại thành phố Thành Đô họp báo giới thiệu tấm bản đồ mới. Với tấm bản đồ mới này, hình dọc, người ta nhìn thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nằm gọn trong cái “Lưỡi Bò” 10 đoạn này.

Các nước khác, Việt Nam phía tây, Phi Luật Tân phía đông, Indonesia, Malaysia, Brunei phía nam bị cái vạch “Lưỡi Bò” liếm sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo Công ước Quốc tế về Luật Biển (UNCLOS).

“Các đảo ở Nam hải theo những tấm bản đồ truyền thống (cũ) của Trung Quốc được thấy ở trong các ô riêng nên độc giả không thể biết đầy đủ và trực tiếp bản đồ toàn diện Trung Quốc.” Tờ Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh viết. Theo lập luận của tờ báo này, bản đồ cũ với các đảo trên biển Nam Hải giống như  phụ thuộc thay vì là một phần của toàn thể nước Trung Hoa. Bởi vậy bản đồ mới cho người ta nhìn thấy ngay khi mới liếc mắt.

“Bản đồ Trung Hoa dọc có ý nghĩa quan trọng để cổ võ người dân hiểu hơn về duy trì chủ quyền biển và sự toàn vẹn lãnh thổ.” Một viên chức của nhà xuất bản không nêu tên nói với thông tấn Reuters.

Tuy nhà cầm quyền trung ương ở Bắc Kinh cho một nhà xuất bản ở địa phương thực hiện và công bố bản đồ mới như một cách tránh tiếng, nhưng theo báo Hoa Nam Bưu Báo (SCMP) thì Cục Khảo Sát Địa Dự và Bản Đồ của Trung Quốc đã chấp thuận cho Nhà xuất bản bản đồ tỉnh Hồ Nam thực hiện.

Đưa ra bản đồ mới thách đố Việt Nam và các nước khác, Lee Yunglung, một giáo chức tại đại học Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến nói rằng hành động cố ý này “Khẳng định với các nước láng giềng rằng nhà cầm quyền Trung Quốc coi trọng lãnh thổ trên biển ngang như trên đất liền.” Theo báo SCMP tường thuật. “Nó hàm ngụ Trung Quốc dự trù phản ứng về các tranh chấp trên biển với cùng một mức độ cứng rắn như họ đối phó với những người ly khai ở Tây Tạng và Tân Cương.”

Chưa thấy Bộ Ngoại Giao CSVN tại Hà Nội có phản ứng gì đối với cái bản đồ mới này. Mới chỉ thấy TTXVN đưa tin “Trung Quốc phát hành bản đồ nuốt trọn Biển Đông” trong đó viết rằng “Qua những chứng cứ lịch sử về xác lập chủ quyền, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và coi “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ là không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn.”

Hiện các lực lượng cảnh sát biển và kiểm ngư của Việt Nam vẫn đối đầu ngày đêm với các lực lượng hải giám, hải cảnh và các lực lượng khác của họ ở khu vực giàn khoan HD981 phía nam quần đảo Hoàng Sa. Khi các tàu của Việt Nam tới gần khu vực là lực lượng Trung Quốc đông đảo hơn, to hơn lao tới ngăn cản và tấn công.

Ngoài giàn khoan HD981, Trung Quốc loan báo sẽ đưa thêm 4 giàn khoan khác xuồng khu vực nhưng chưa biết đích xác chúng sẽ được cắm ở đây. Các nước như Việt Nam và Phi Luật Tân đang cố gắng theo dõi biến động.

Theo nhận định của ông Ian Storey, chuyên viên tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á tại Singapore,  nói với báo Đức Deutsch Welle hôm Thứ Hai vừa qua, chiến lược của Bắc Kinh trên Biển Đông hiện nay là “tạo ra tiền lệ” để trở thành việc đã rồi vì các nước nhỏ phía nam quá yếu, “không có nhiều lựa chọn” để đối phó với các trò ngang ngược của Trung Quốc. (TN)

 

Người gốc Việt làm toàn quyền Nam Úc

Người gốc Việt làm toàn quyền Nam Úc

Thứ năm, 26 tháng 6, 2014

Thủ hiến tiểu bang Nam Úc, ông Jay Weatherill, loan báo bổ nhiệm ông Lê Văn Hiếu (trái) làm toàn quyền tiểu bang.

Một chính khách gốc Việt từng là dân tỵ nạn sẽ trở thành toàn quyền kế tiếp của bang Nam Úc của nước Úc.

Ông Lê Văn Hiếu sẽ lên thay Chuẩn Đô đốc Kevin Scarce vào tháng Chín, thủ hiến Jay Weatherhill của bang Nam Úc thông báo.

Thủ hiến Weatherhill cho biết ông Hiếu sẽ là vị toàn quyền thứ 35 của tiểu bang này và là di dân châu Á đầu tiên đảm nhận cương vị này.

Ông Hiếu hiện là phó toàn quyền tiểu bang – một vị trí mà ông đã nắm giữ từ năm 2007.

Ông đến Úc hồi năm 1977. Ông nói với các phóng viên rằng ông cảm thấy khiêm nhường và vinh hạnh

“Tôi đặt chân đến Úc 36 năm trước khi còn là một ‘thuyền nhân’ còn trẻ. Khi đó tôi không có gì trong tay ngoài một chiếc va li vô hình chất đầy những ước mơ,” ông nói.

“Đó là giấc mơ được sống ở một xứ sở yên bình, an lành và tự do và sống một cuộc sống trọn vẹn và ý nghĩa.”

“Nhưng được ban cho vinh dự lớn nhất đời và đặc ân được giữ chức toàn quyền chắc chắn là điều mà trong giấc mơ hoang đường nhất tôi cũng không dám nghĩ đến,” ông nói thêm.

Ông nói vai trò mới này của ông đặt ông vào vị trí phù hợp để có thể nói về tình hình người tỵ nạn của Úc.

Mơ thấy mình là người Việt Nam’

thấy mình là người Việt Nam’

Nguyễn Hưng Quốc

25.06.2014

Thời chiến tranh, từ 1954 đến 1975, ở miền Bắc, bộ máy tuyên truyền của nhà nước lúc nào cũng rang rảng khoe là ở Việt Nam (nghĩa là miền Bắc và “vùng giải phóng” ở miền Nam), chỉ cần bước ra ngõ là gặp ngay anh hùng; còn trên thế giới thì hầu như mọi người đều ngưỡng mộ Việt Nam; nhiều người, tối ngủ, nằm mơ thấy mình làm người Việt Nam!

Trong số những người nằm mơ thấy mình là người Việt Nam ấy, từ cái nhìn của miền Bắc, có cả Susan Sontag (1933-2004), một nhà trí thức và là một nhà văn nổi tiếng của Mỹ.

Sontag nổi tiếng trong nhiều lãnh vực. Với tư cách một nhà văn, bà là người sáng tác khá đa dạng, từ kịch bản đến truyện phim và tiểu thuyết (một số tác phẩm của bà được giải thưởng lớn, ví dụ giải National Book Award năm 2000); bà còn là một nhà phê bình văn học sắc sảo; một lý thuyết gia văn học, với bài tiểu luận “Chống diễn dịch” (Against Interpretation) được xem là một trong những người tiên phong của chủ nghĩa hậu hiện đại; một nhà phân tích văn hoá, bao quát nhiều phạm vi khác nhau, từ xã hội đến nhiếp ảnh, bệnh hoạn và vấn đề phái tính, v.v… Cuối cùng, bà còn là một nhà hoạt động xã hội, trong đó, nổi bật nhất là các hoạt động liên quan đến chiến tranh Việt Nam: Bà được xem là một trong những gương mặt phản chiến lừng danh nhất tại Mỹ.

Trong tất cả các lãnh vực trên, ở đâu Sontag cũng để lại những dấu ấn sâu sắc. Ngày bà mất, nhiều tờ báo lớn khen bà là một trong những người có tính khiêu khích và ảnh hưởng lớn nhất trong thế hệ của bà, thế hệ những người sinh ra trong thập niên 1930 và trưởng thành trong thập niên 1960, thời điểm của nhiều cuộc cách mạng văn hoá, chính trị và xã hội, trong đó, trung tâm là sự xuất hiện của phong trào tự do tình dục, phong trào nữ quyền cũng như sự thức tỉnh của quần chúng (đặc biệt qua các cuộc xuống đường của thanh niên sinh viên tại Pháp vào năm 1968).

Trong các hoạt động của Sontag, đáng kể nhất là các hoạt động phản chiến: Bà tham gia biểu tình rồi thuyết trình rồi xuất hiện trên các cơ quan thông tin đại chúng phản đối việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Nhờ uy tín của một nhà văn và nhà báo, một giáo sư và một diễn giả có tài hùng biện, bà dần dần trở thành một trong những gương mặt phản chiến tiêu biểu nhất tại Mỹ trong nửa sau thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970.

Năm 1968, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Susan Sontag, qua đó, lợi dụng tiếng tăm của bà để thu phục nhân tâm tại Mỹ, nhà cầm quyền miền Bắc đã mời Sontag sang thăm Việt Nam trong hai tuần, từ ngày 3 đến ngày 17 tháng 5. Về lại Mỹ, bà viết cuốn “Trip to Hanoi” (Chuyến đi Hà Nội), thoạt đầu đăng trên tờ Esquire vào cuối năm 1968; sau, in trong cuốn “Styles of Radical Will” năm 1969; sau nữa, in riêng thành một cuốn sách mỏng.

Trong cuốn sách mỏng, chưa tới 100 trang ấy, Sontag ghi chép lại những gì bà nghe, thấy và suy nghĩ về Việt Nam. Dù ở Việt Nam chỉ một thời gian rất ngắn, nhưng với óc quan sát tinh tế, Sontag cũng ghi nhận được rất nhiều những nét khác biệt văn hoá giữa miền Bắc và Tây phương. Không phải điều gì cũng làm bà hài lòng. Bà không thích những cách nhìn hẹp hòi, một chiều và cứng nhắc, đầy tính công thức của những cán bộ và trí thức bà được gặp. Nhưng nói chung, bà không giấu giếm sự ngưỡng mộ đối với lòng yêu nước và sự anh hùng của họ. Cuối cuốn sách, bà cho chuyến đi thăm Hà Nội đã mở rộng tầm mắt của bà. Bắc Việt được xem như một Cái Khác Lý Tưởng (ideal Other) đối lập với một nước Mỹ đang phản bội lại chính những lý tưởng thời lập quốc của mình.

Cùng với cuốn Hanoi (1968) của Mary McCarthy, cuốn sách của Sontag đã gây ảnh hưởng lớn lên giới trí thức, sinh viên và quần chúng Mỹ, góp phần làm cho phong trào phản chiến tại Mỹ càng ngày càng dâng cao, và cuối cùng, đủ để tạo thành sức ép nặng nề lên chính phủ Mỹ khiến chính phủ phải tìm mọi cách rút quân ra khỏi Việt Nam. Chắc chắn Bắc Việt lúc ấy vô cùng cảm kích trước món quà to lớn của Susan Sontag. Trong những lời tuyên truyền của chính phủ Việt Nam cho nhiều người Tây phương, kể cả người Mỹ, cũng ngưỡng mộ Việt Nam và ao ước được sinh ra là người Việt Nam, không chừng có cả hình ảnh của Sontag.

Có điều, đó không phải là toàn bộ sự thật.

Mới đây, tôi đọc cuốn “As Consciousness Is Harnessed to Flesh” bao gồm nhiều trích đoạn từ các cuốn nhật ký và sổ tay Susan Sontag viết trong những năm từ 1964 đến 1980 do con trai của bà, David Rieff biên tập, được Farrar Straus Giroux xuất bản tại New York năm 2012. Trong cuốn này có một số đoạn ghi chép của Sontag thời gian thăm viếng Hà Nội. Một số ghi chép đã được sửa và phát triển thành cuốn Trip to Hanoi; nhưng một số khác thì không. Tôi thích những đoạn không được đưa vào sách, hoặc đưa, nhưng bị sửa chữa khá nhiều: Chúng thực hơn.

Chẳng hạn, bà ghi nhận, tất cả những người Việt Nam bà được gặp, dù toàn là những trí thức hàng đầu và những cán bộ lãnh đạo thuộc loại cao cấp nhất, đều có những cách nói và nội dung giống hẳn nhau (tr. 240), khiến bà cảm thấy bà chẳng học hỏi được gì ở họ (tr. 241). Nói chuyện với họ, nhiều lần bà tự hỏi: Liệu họ có tin những gì họ nói? (tr. 242). Bà có cảm giác họ như những đứa con nít đẹp đẽ, ngây thơ và bướng bỉnh (tr. 242). Nói chuyện, lúc nào họ cũng khẳng định, không bao giờ biết nghi vấn điều gì (tr. 245). Bà so sánh Bắc Việt và Cuba và thừa nhận bà thích Cuba hơn hẳn Bắc Việt: Bà cảm thấy những người cộng sản Cuba “người” hơn, thân thiện hơn, hoạt bát hơn (tr. 245-6).

Sau này, từ những năm cuối thập niên 1970, quan điểm của Susan Sontag về chủ nghĩa cộng sản thay đổi hoàn toàn. Trong một cuộc họp tại Town Hall ở New York vào năm 1982, bà nói một câu gây chấn động giới khuynh tả Tây phương: “Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa phát xít với gương mặt người” (Communism was fascism with a human face). Bà lớn tiếng phê phán giới trí thức Tây phương, đặc biệt những người khuynh tả – vốn là các “đồng chí” của bà – là họ vô trách nhiệm trước những tội ác do cộng sản gây ra và vô lương tâm trước các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, bao gồm những người phản kháng và những người tị nạn, những người bị giết chết và những người bị tù đày.

Một lần, đi xa hơn, bà cho các trí thức khuynh tả đã nói dối về thực trạng các nước cộng sản; sau đó, bà khẳng định: “Người ta phải chống lại chủ nghĩa cộng sản: Nó đòi chúng ta phải nói dối” (One must oppose communism: it asks us to lie).

Trong những lời nói dối ấy, chắc chắn có những câu đại loại: Mơ thấy mình làm người Việt Nam mà bộ máy tuyên truyền của Việt Nam không ngớt lải nhải suốt cả mấy chục năm trước đây.

 

Người Nhật ‘thoát Á’ và người Việt ‘xấu xí’

Người Nhật ‘thoát Á’ và người Việt ‘xấu xí’

Cao Huy Huân

23.06.2014

Trước đây, thời còn là nghiên cứu sinh, những lúc rảnh rỗi tôi hay dạo quanh các diễn đàn với chủ đề đại loại như “nước Việt Nam lớn hay nhỏ”. Quả thật đó là một chủ đề bất tận để mà bàn cãi và tranh luận. Ngay cái tên của chủ đề cũng đã thấy có nhiều vấn đề cần được mổ xẻ và bình luận rồi. Lại thêm cái cảnh người Việt rất thích tranh luận trên thế giới ảo nên tha hồ mà tôi đọc được các ý kiến đủ mọi loại. Qua những diễn đàn này tôi cũng được vinh dự biết đến những thành công của người Việt trên quy mô quốc tế. Rồi còn yêu thêm những tinh hoa trong ẩm thực Việt Nam đang dần dần chinh phục những thực khách khó tính nhất trên thế giới. Liệu như vậy đã đáng tự hào? Đáng chứ! Sao lại không? Tuy nhiên, tôi cũng không quá tự hào mà quên mất, chính người Việt chúng ta cũng đang làm xấu đi hình ảnh của dân tộc mình trong tâm tưởng của công dân toàn cầu.

Nhân đọc một bài báo nói về tinh thần tự giác giữ gìn vệ sinh công cộng và bảo vệ môi trường của người Nhật, tôi lại càng cảm thấy cần có một sự thay đổi trong tư duy của người Việt Nam. Bài báo đại loại chia sẻ những hình ảnh chụp các cổ động viên người Nhật của World Cup 2014 đang diễn ra tại Brazil. Sau khi đội bóng nước nhà thua trận trước các tuyển thủ đến từ Bờ Biển Ngà, chẳng những không tỏ vẻ tức giận, những cổ động viên Nhật Bản còn đồng loạt nhặt rác ở khu vực khán đài của sân vận động nơi diễn ra trận bóng, và sân vận động đó tất nhiên là ở Brazil. Hình ảnh này sau đó được chia sẻ với tốc độ khủng khiếp trên các trang mạng xã hội trên toàn thế giới và ngay tại Việt Nam.

Hình ảnh người Nhật cúi người nhặt rác không làm cho họ thấp hơn trong mắt cư dân toàn cầu, mà ngược lại còn làm cho họ trở thành những người đáng kính nể và khâm phục. Đơn giản thôi, một hành động chẳng có gì to tát nhưng lại khiến cho danh tiếng của một dân tộc lại càng thêm sáng chói. Thời còn học tập tại Mỹ, tôi thường được  nghe các giáo sư của mình bày tỏ niềm kính trọng đối với người Nhật, nhất là sau khi đất nước Mặt Trời Mọc phải hứng chịu thảm họa sóng thần vào năm 2011. Ý thức dân tộc của họ quá tuyệt vời giúp họ nhanh chóng khắc phục những hậu quả của thảm họa và nhanh chóng quên đi đau thương để bước tiếp.

Trước đây, khi còn nhỏ, trong tâm tưởng tôi người Nhật là dân tộc có ngoại hình xấu, thể trạng nhỏ và rất kì quặc. Là vì những người lớn đã gieo vào đầu tôi hình ảnh đó. Thậm chí phim ảnh Việt Nam lúc bấy giờ luôn khắc họa hình ảnh người Nhật là những người lùn độc tài. Có lẽ dân Việt luôn chỉ muốn khắc họa một hình ảnh phát xít Nhật xấu xí như vậy. Lạ lùng thật! Trong khuôn khổ bài viết này, tôi không muốn nhắc đến những vấn đề liên quan đến tính lịch sử chính trị, chỉ xin phép nói đến những vấn đề liên quan đến tư duy, thói quen và ý thức của các dân tộc.

Do vô tình, một lần được đọc về con đường phát triển của Nhật Bản, tôi được biết, quốc gia này là quốc gia Đông Á duy nhất được cho là đã “thoát Á”. Đầu tiên, xin giải thích chút ít về cụm từ “thoát Á”. “Thoát Á” là cụm từ dùng để chỉ việc thoát khỏi vòng kềm kẹp của nền văn hóa tiểu nông (một nền văn hóa lạc hậu cổ hủ, nặng tính hình thức giả tạo và coi trọng hư danh, điển hình là Trung Quốc) để hội nhập với phương Tây và bước ra cùng thế giới. Phải nói là trước đó, tôi đã có suy nghĩ rất trái ngược về đất nước Nhật Bản. Tôi đã nghĩ họ là dân tộc tự tôn đến mức cổ hủ, không cho phép văn hóa Tây phương được phép len lỏi vào đời sống của người dân nước họ. Rõ ràng là một suy nghĩ sai lầm trầm trọng!

Thực ra học thuyết Thoát Á, hay còn được gọi là Thoát Á Luận khởi nguồn từ một bài viết được đăng báo của học giả FukuzawaYukichi giữa thế kỷ 19. Ông là nhà tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội Nhật Bản ngày nay. Tư tưởng tiến bộ của ông đã tác động rất nhiều đến phong trào Khai Sáng ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Có thể nói, xã hội Nhật Bản ngày nay là một xã hội vừa văn minh tiến bộ, vừa giữ gìn truyền thống tốt đẹp. Sự hội nhập của Nhật Bản với phương Tây là một sự hội nhập đúng đắn và tạo tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của công nghệ, kỹ thuật và nền kinh tế của người khổng lồ châu Á. Đáng ngưỡng mộ!

Tôi còn nhớ ngày tôi còn ở Mỹ, một anh bạn người Mỹ đã hỏi tôi: “Ở Việt Nam, các cậu có ăn vận như chúng tôi không?” Câu hỏi đó đã làm tôi vừa buồn cười vừa khó chịu. Buồn cười vì ở đất nước văn minh như vậy lại có một thanh niên hỏi một câu hỏi ngô nghê. Khó chịu vì cảm thấy tủi hổ khi tất cả những gì đại chúng Mỹ biết về Việt Nam là qua cuộc chiến tranh Việt Nam – Hoa Kỳ. Vậy dân Mỹ có quan tâm đến Việt Nam không? Câu trả lời là không.

Cách đây mấy ngày, tôi có đọc một bài viết về suy nghĩ của một chủ doanh nghiệp người Nhật đối với những lao động người Việt Nam. Bài viết khởi đầu rất ấn tượng khi cho rằng, người Việt Nam đừng nên tự ảo tưởng mình với những lời khen ngợi mang tính ngoại giao của các quan chức cao cấp mà hãy nghe chính những người bình thường, trực tiếp tiếp xúc với dân Việt nói về người Việt. Theo đó, vị sếp người Nhật này đánh giá người lao động Việt Nam là những người “chỉ biết nghĩ đến những cái lợi lộc nhỏ của cá nhân mà không biết nghĩ đến cái lợi lớn của chung”.  Chính vì đánh giá lao động Việt như vậy, cho nên phân tích của vị sếp Nhật này cũng xuất phát từ những cái nhỏ. Ông so sánh thú vị rằng một cái tua vít của doanh nghiệp nhập về giá 40 ngàn đồng bị các nhân viên Việt Nam dẫm lên, thậm chí đá lăn đi mất chỉ vì đó không phải là tài sản của họ. Trong khi đó họ sẵn sàng cúi xuống nhặt một điếu thuốc lá đang hút dở dang chỉ đáng giá 1.000 đồng, vì đó là tài sản của họ. Rồi đến chuyện ăn cắp tài sản của doanh nghiệp mang ra ngoài bán. Và cuối cùng ông kể câu chuyện về anh tài xế đã khai khống quãng đường đi và ăn chặn tiền xăng của ông trong suốt 5 năm ông làm việc tại Việt Nam như thế nào.

Trước khi về nước, ông đã mang quà đến tặng cho người tài xế đó và cảm ơn vì suốt thời gian qua người này đã đảm bảo an toàn tính mạng của ông khi lưu thông trên đường phố. Những việc làm sai trái của người tài xế đều được ông lưu tâm nhưng suốt 5 năm qua không hề nói ra. Nhưng thay vì tăng lương cao hơn cho anh ta, ông đã tăng rất ít. Hỡi người Việt Nam, chúng ta đừng suy nghĩ thiển cận rằng họ không nói ra là họ không hề biết. Một khi đã là chủ doanh nghiệp, tức là đầu óc của họ đã hơn người công nhân các anh rồi, dễ dàng qua mặt được họ sao? Thật đáng hổ thẹn!

Rồi những cửa hàng tại Nhật Bản trưng bảng tiếng Việt cảnh báo hành vi ăn cắp, những nhà hàng ở Thái Lan cũng trưng bảng tiếng Việt yêu cầu khách đừng phung phí thức ăn. Chúng ta trở nên xấu xí như vậy sao? Những hành vi tùy tiện, tham lam, nhỏ nhen và ích kỷ của một bộ phận không nhỏ người Việt đã vô hình trung làm người nước khác đánh giá chúng ta là một dân tộc xấu xí.

Thêm nữa, đại đa số người Việt chúng ta vẫn còn tư tưởng “tiểu nông”. Những người luôn sợ mất mặt với bà con, làng xóm, xã hội. Những người thấy đám đông vây quanh một vụ tai nạn cũng sẽ nhanh chóng chạy đến tham gia, tuyệt nhiên không màng đến việc cả một quãng đường bị tắt. Những người sẵn sàng vứt rác ra đường thay vì bước vài bước đến thùng rác công cộng, tuy nhiên nhà cửa lúc nào cũng phải đẹp và chỉn chu bề ngoài để khách đến phải trầm trồ khen ngợi. Những người sẵn sàng phóng xe mô tô không cần mũ bảo hiểm vì sợ hư mái tóc bồng bềnh xinh đẹp. Những người sẵn sàng đánh chết người chỉ vì ăn trộm chó, nhưng vẫn thản nhiên nhậu thịt chó ngon lành… Còn rất nhiều những điều kỳ quặc như vậy.

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn mượn một câu nói nổi tiếng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài nói rằng:

Hãy cẩn thận với những suy nghĩ, vì chúng biến thành lời nói.
Hãy cẩn thận với lời nói, vì chúng biến thành hành động.
Hãy cẩn thận với hành động, vì chúng biến thành thói quen.
Hãy cẩn thận với thói quen, vì chúng biến thành tính cách.
Hãy cẩn thận với tích cách, vì chúng biến thành số phận của bạn.

Người Nhật Bản đã không những “thoát Á” để vận dụng những tư tưởng văn minh vào công cuộc xây dựng đất nước mà họ còn dạy cho con cháu họ những tính cách quý báu để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Dẫu biết là “giang sơn dễ đổi bản tính khó dời”, nhưng khó không có nghĩa là chúng ta không làm được. Người lớn không thay đổi được thì lớp trẻ sẽ thay đổi được. Tôi tin là sẽ đến một ngày, Việt Nam cũng sẽ “thoát Á”.

Chệch Hướng & Ngược Hướng

Chệch Hướng & Ngược Hướng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự tồn vong của chế độ.

Huy Đức

Năm 1882 – khi bước chân đến Mỹ – Oscar Wilde nói với nhân viên hải quan ở New York rằng: “Ngoài thiên tài ra, ông không có gì để khai báo cả.” (I have nothing to declare except my genius).

Một trăm năm sau, tại phi trường San Francisco, tôi cũng nghe một câu hỏi tương tự (Do you have anything to declare?) nhưngchỉ buồn bã lắc đầu thay cho câu trả lời vì tôi hoàn toàn không có tài sản hay tài ba gì ráo (để khai báo) ngoài khả năng … chịu đói.

Cái khả năng “đặc biệt” này, chắc chắn, cũng được tập thành bởi rất nhiều người Việt. Xứ sở của chúng tôi là nơi mà nghèo đói hiển hiện ở mọi thời, và hầu như ở khắp cả mọi nơi.

Hồi tháng Giêng năm nay, báo chí trong nước ái ngại đi tin: “Mười một tỉnh (Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Kom Tum) đồng loại xin cứu đói.”

Hai tháng sau, cái đói lan tới tuốt Hậu Giang: “Bốn Mươi Bốn Công Nhân Nhập Viện Vì Quá Đói.” Dù đói tới cỡ đó nhưng nhờ khả năng nhịn đói triền miên nên giới công nhân (thỉnh thoảng) vẫn bị Nhà Nước “cấu” bớt một hai ngày lương để giúp đỡ đồng bào vùng lũ lụt, để xây trường mầm non cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, để cất nhà tình nghĩa cho gia đình nghèo khó, để  tặng quà cho qúi bà mẹ Việt Nam anh hùng, để làm cầu cho đồng bào sắc tộc (ở vùng xa, vùng sâu vùng căn cứ cách mạng) hay để ủng hộ (thêm một ngày lương nữa) cho chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” tri ân liệt sĩ (của ta) và những người lính Việt Nam Cộng Hoà – như lời của ông Đặng Ngọc Tùng – Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (trên báo Lao Động) vào hôm 12 tháng 3 năm 2014.

Tuy cuộc chiến Bắc/Nam đã qua gần bốn mươi năm nhưng (có lẽ) đây là lần đầu tiên “đám lính Sài Gòn”– hay còn bị gọi một cách xách mé hơn là “bọn ngụy quân” – được một quan chức cao cấp của Nhà Nước nhắc đến với đôi chút trọng thị và tình nghĩa: “Máu của những người con đất Việt dù trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã đổ xuống để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam yêu dấu.”

Sự tử tế khó ngờ (và đột ngột) của nhà đương cuộc Hà Nội khiến cho nhiều độc giả ngỡ ngàng, và không ít kẻ vô cùng … thất vọng:

21 năm chiến đấu trong mưa bom bão đạn, hàng triệu người Việt Nam đã ngã xuống mới có ngày 30.4.1975. Hôm nay tại sao ông Tùng và báo Lao Động lại kêu gọi ủng hộ tri ân những người lính của chế độ VNCH?

Mới mấy chục năm đã vội quên quá khứ rồi sao? Hay mọi sự qua rồi, thì chúng ta nên thực hiện “hoà hợp”, phải cào bằng giá trị lịch sử? Các vị đang đánh đồng xương máu của những người chiến đấu cho chính nghĩa, cho dân tộc và xương máu của những kẻ chiến đấu cho bọn phản quốc. Trắng – đen, phải – trái, chính- tà cần được khẳng định rõ ràng, chứ không được lập lờ và bẻ cong lịch sử !

© An Nam ( Nghệ An)

Ngôn ngữ sắt thép của ông An Nam khiến tôi nhớ đến không khí sắt máu trong phong trào “phóng tay phát động quần chúng để thực hiện chính sách cải cách ruộng đất” (cũng ở Nghệ An) vào năm 1953, theo như ghi nhận của một nhà văn:

“Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe nhứng tiếng quát lớn;’Mi có khai không? Mi có khai không?’ trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch…”

‘Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian’ – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mạnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập trên đất lổn nhổn cứt sắt… Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sõng xoài trên đất ….”  (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).

Ông An Nam, tất nhiên, không phải là một nhân vật từ trên trời (vừa) rơi xuống nước Việt. Ông là thành quả hiển nhiên của nỗ lực và quan niệm  trồng người (thụ nhân chi kế) đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh du nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ trước: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.”

Những con người (mới) xã hội chủ nghĩa hôm nay, theo giáo sư Đỗ Mạnh Tri, chính là di sản của Mác –xít tại Việt Nam. Di sản này hiển hiện khắp nơi, kể cả nghị trường.

Nguyễn Bắc Việt, đai biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: Anh Ninh Thủ Đô

Sau việc Trung Cộng Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, ông Nguyễn Bắc Việtđại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận – đã “tham gia một số ý kiến” như sau:

Một, phải xác định cho rõ nguyên nhân, phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi?

Hai, phải tiên định mục tiêu lý tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” như Bác đã căn dặn. Đó là phải làm sao giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Xem nhẹ chúng ta sẽ chệch hướng.

Khi nói đến nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, thiên hạ hay nghĩ đến những người bị đấu tố trong C.C.R.Đ, những kẻ bị vùi dập trong Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm hay Xét Lại, những xác người vùi lấp dưới lòng biển cả và giữa rừng sâu hoặc cạnh những trại tù heo hút (rải rác) khắp nước… nhưng không mấy ai quan tâm đến đến hàng chục triệu nạn nhân  đáng thương khác – những kẻ bị giam cầm suốt đời trong thù hận, tăm tối, và dốt nát – như qúi ông An Nam hoặc Nguyễn Bắc Việt.

Nỗi lo Đảng đang “chệch hướng” của ông đại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận cũng dễ khiến người ta nghĩ đến sự băn khoăn của giáo sư Hoàng Tụy về hiện tượng “lạc hướng” của nền giáo dục hiện nay:

“Giáo dục đang đi lạc hướng, nếu không có bài thuốc nào chữa thì có hết cải tiến rồi lại lùi, đổi mới liên tục nhưng vụn vặt, chắp vá, đổi đi đổi lại chỉ thêm tốn kém tiền của, công sức của dân mà rốt cục lại quay về điểm xuất phát…

Trong thế giới hiện đại, với xu thế toàn cầu hóa không thể đảo ngược được cái lý trên, nước nào không hội nhập, không thích nghi được tất sẽ bị cô lập, bị bỏ rơi, chết lâm sàng rồi từ từ bị đào thải, nếu không sớm tỉnh ngộ.”

Nguồn ảnh: Website Trường Tiểu Học Lê Văn Tám

Không riêng gì giáo sư Hoàng Tụy, nhiều vị thức giả khác cũng đã có lúc bầy tỏ sự quan tâm về hiện tượng “lạc hướng” đáng lo này. Và (chắc) vì vậy nên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Ủy Ban Quốc Gia Đổi Mới Giáo Dục và Đào Tạo. Theo đó, chính ông là Chủ Tịch Ủy Ban,Trưởng Ban Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh và Phó Thủ Tướng Chính Phủ Vũ Đức Đam làm Phó Chủ Tịch Ủy ban – theo như tin loan của Vietnam.net, đọc được vào hôm 27 tháng 5 năm 2014 vừa qua.

Thiệt là … trao duyên lầm tướng cướp!

Ông Nguyễn Tấn Dũng là quan chức đã ký chỉ thị 37 CP cấm tư nhân hoá báo chí. Còn ông Đinh Thế Huynh chính là người làm cho cả dân tộc này “mát mặt” sau khi tuyên bố (trước thềm đại hội ĐCSVN toàn quốc lần thứ 11) rằng: Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên, đa đảng và dứt khoát không đa nguyên đa đảng.”

Với cái tâm và cái tầm của Chủ Tịch Uỷ Ban (Nguyễn Tấn Dũng) và Phó Ủy Ban (Đinh Thế Huynh) thì nền giáo dục Việt Nam – phen này – kể như là đi đứt. Nỗi lo “chệch hướng” hay “quay về điểm xuất phát”  (đương nhiên) cũng chấm dứt luôn vì ông Dũng và ông Huynh, chắc chắn, sẽ đi … ngược hướng!

Những thế nào là một nền giáo dục đúng hướng?

Xin mượn lời của ông  Nguyễn Trân Sâm – người tự giới thiệu mình là một thường dân – để trả lời cho câu hỏi (không) khó khăn này:

Xin thưa, đó là nền giáo dục đáp ứng được những yêu cầu hết sức bình thường. Nói ngắn gọn là nó đào tạo được những con người tử tế, tức là có những phẩm chất cơ bản sau: có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác (riêng với cha mẹ, thầy cô và những người cao tuổi còn phải biết lễ phép, nhưng không tuân theo những đòi hỏi phi lý và phi pháp), có năng lực lao động để đem lại lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chính mình và xã hội (có kiến thức và kỹ năng tốt hoặc đạt yêu cầu về nghề nghiệp), có ý thức tôn trọng pháp luật (nhưng không tuân theo vô điều kiện những luật lệ phản động, lạc hậu).

Trong lịch sử các dân tộc phương Đông như Việt Nam, Trung Hoa,… người ta đã diễn đạt những yêu cầu đó bằng những khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Chỉ thế là đủ. Chỉ có điều ở thời đại ngày nay, đừng lồng vào những khái niệm đó những nội dung như trung thành tuyệt đối với một cá nhân hay nhóm người nào.

Người tử tế không thể xoen xoét nói những điều nhân nghĩa nhưng trong hành động thì chỉ làm và sẵn sàng làm mọi việc vì quyền lợi bản thân, kể cả chà đạp lên quyền lợi người khác, kể cả lợi dụng quyền lực để đàn áp dân lành. Người tử tế không thể là kẻ bợ đỡ, liếm gót những kẻ có quyền lực, đem tiền đi mua bằng cấp, chức tước, dùng chức tước bòn rút tiền bạc và thành quả lao động của người khác. Người tử tế không thể bắt hàng triệu người phải theo mình, phục vụ mình, tôn thờ mình như thánh. Người tử tế không tự nhận mình là người thông thái nhất, là đỉnh cao trí tuệ.

Quan điểm giáo dục nhân bản bình dị đến vậy cớ sao Đảng và Nhà Nước ta (nói chung) hoặc hai ông Nguyễn Tấn Dũng (nói riêng) lại cứ nhất định dẫn dắt toàn dân đi chệch hướng hay lạc hướng? Vì tự bản chất họ không phải là những người tử tế nên không thể thực hiện được bất cứ điều gì đàng hoàng hay tử tế, chớ sao.

 

Thánh Gioan Tẩy Giả, con người kỳ diệu

Thánh Gioan Tẩy Giả, con người kỳ diệu

st-jean-baptistes

Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu ( 25.12), Sinh nhật của Đức Maria ( 8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6) .

Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.

Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

1 .Sinh nhật kỳ diệu

Thánh Luca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gioan ” Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” ( Lc 1,14).

a. Dacaria bị câm

Thân phụ của Gioan bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình ( Lc 1,5- 23)

b. Khỏi Tội Nguyên tổ

Bà Isave có thai được 6 tháng, Đức Maria đã đến viếng thăm,vừa nghe lời của Đức Maria chào thì thai nhi Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ ( Lc 1,41) và được đầy tràn Thánh Thần(Lc1,15).Hồng ân này được Giáo hội hiểu là Gioan đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Maria, cả nhân loại không ai có được.

c. Son sẻ mà có con

Hai ông bà Dacaria và Isave là người công chính trước mặt Thiên Chúa,nhưng họ lại không con,vì Bà Isave là người hiếm hoi,cả hai đều đã cao niên ( Lc 1,6- 7).

Vậy mà Bà đã sinh con ” Bà sinh hạ một con trai,nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy,láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,57-58). Trong Cưụ ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy.Bà Sara mẹ Isaac ( St 11,30;21,1- 7).Bà Rebecca mẹ của Esau và Giacop ( St 25,21- 26).Bà Rakhel mẹ của Giuse ( St 29,21; 30,22- 24).Bà Anna mẹ của Samuel ( 1Sm 1,2- 20).

d. Tên Gioan và hết câm

Gioan sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Dacaria nhưng bà mẹ lên tiếng “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả.Khi Dacaria viết tên Gioan trên tấm bảng tức thì miệng lưỡi ông được mở ra,ông hết câm và nói lại được như trước kia ( Lc 1,59- 65).

Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gioan vì ” Quả thật,có bàn tay Chúa phù hộ em” ( Lc 1,66).

Sinh nhật Gioan kỳ diệu cũng đúng thôi vì Gioan sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

2 . Ơn Gọi kỳ diệu

a Ngôn sứ Isaia loan báo

” Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Ngài đi.Mọi thung lũng phải lấp cho đầy,mọi núi đồi phải bạt cho thấp,khúc quanh co phải uốn cho ngay,đường lồi lõm phải san cho phẳng.Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Is 40,3- 5; Mc 1,3; Lc 3,4-6; Mt 3,3) . Isaia đã giới thiệu về Gioan như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.

b. Ngôn sứ Malakia tiên báo

” Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con,người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu” ( Ml 3,1- 24; Mt 1,10; Lc 1,17;7,27).Lời Ngôn sứ Malakia nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gioan như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến .

c. Sứ Thần Truyền Tin xác nhận

Sứ Thần của Chúa hiện ra với Dacaria,đứng bên phải hương án,xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gioan Tẩy Giả ” Sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”( Lc1,17).

e. Thân phụ Dacaria

Dưới tác động của Thánh Thần, Dacaria đã hát lên bài ca chúc tụng “Benedictus” về ơn gọi của người con trai mình “Hài Nhi hỡi,con sẽ đi trước mặt Chúa,mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết,Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên” ( Lc 1,76- 77).

f. Gioan khẳng định

Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và một người Do thái về việc thanh tẩy,tại Enon,gần Salem thuộc miền Giuđê,chính Gioan đã xác nhận ơn gọi của mình : ” Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói : Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài” ( Ga 3,28).

Qua sinh nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gioan,Thiên Chúa đã đặt Gioan làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.

Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: ” Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Đức Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15,18 – 19 )

Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa.Gioan đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.

Người Kitô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách ngôn sứ chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu.Với tư cách là Tẩy Giả,chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đoa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cụôc sống.Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gioan : Ngài phải lớn lên,còn tôi phải lu mờ đi.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Anh chị Thụ Mai gởi

Kiện Trung Quốc, Việt Nam được gì ngay cả khi thua?

Kiện Trung Quốc, Việt Nam được gì ngay cả khi thua?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-06-24

maclam06242014.mp3

000_Hkg9862437-305.jpg

Một tàu cảnh sát biển Trung Quốc (trái) gần giàn khoan dầu của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp với VN ở Biển Đông hôm 14 tháng 5 năm 2014.

AFP PHOTO / HOANG DINH NAM

Câu chuyện có nên kiện Trung Quốc hay không khi nước này ngày một lấn chân sâu hơn vào chủ quyển biển đảo của Việt Nam, đặc biệt là việc giàn khoan HD 981. Mặc Lâm trình bày lại những ý kiến mà các chuyên gia về Biển Đông cũng như công pháp quốc tế phát biểu về vấn đề này.

Uy tín quốc gia

Vấn đề Việt Nam có nên kiện Trung Quốc hay không vẫn chưa có câu trả lời tuyệt đối vì khi một vụ kiện xảy ra khả năng thắng hay thua mỗi bên không ai biết trước được vì còn tùy theo các yếu tố có chứng minh là thỏa đáng và thuyết phục tới mức nào.

Tuy nhiên nhiều chuyên gia luật pháp quốc tế cũng như về Biển Đông vừa qua cho rằng Trung Quốc mang giàn khoan vào vùng biển mà theo công ước luật biển 1982 của UNCLOS quy định thuộc đặc quyền kinh tế Việt Nam, Trung Quốc đã liều lĩnh với con bài chủ quyền lỏng lẻo khi chủ quan cho rằng Tòa án quốc tế không thể can dự vào vấn đề này vì Bắc Kinh có quyền chọn lựa chấp nhận tham dự vào vụ kiện hay không.

Yếu tố không tham gia đã khiến nhiều người lo ngại đem Trung Quốc ra tòa là tốn công sức và làm vấn đề nặng nề hơn. Tuy nhiên khi nhìn vào Philippines, nước đã mạnh mẽ đưa hành động xâm lăng của Trung Quốc ra tòa quốc tế thì Việt Nam có thể rút ra được nhiều kinh nghiệm nếu nghiêm túc tiến hành những bước cần thiết cho vụ kiện.

“ Nếu Việt Nam nhận thấy được, về mặt nhà nước, đây là một khúc quanh, một bước ngoặt thì nhà nước hoàn toàn có thể chủ động với đội ngũ luật sư, luật gia của Việt Nam.
-TS Đinh Hoàng Thắng “

Khi Philippines chấp nhận mang Trung Quốc ra tòa quốc tế có nghĩa là Manila chấp nhận việc Trung Quốc từ chối. Tuy nhiên Phi cũng hiểu rằng sự từ chối sẽ làm Trung Quốc mất nhiều thứ trong khi Phillipines không hề mất điều gì.

Cái mất nặng nhất thuộc về Trung Quốc đó là uy tín quốc gia. Trong khi nỗ lực và hết sức tốn kém để kiến tạo quyền lực mềm trên khắp thế giới bao gồm tiền bạc và các Viện Không Tử, Bắc Kinh đang khó khăn lắm để đặt nền tảng văn hóa Trung Quốc nhằm chinh phục thế giới với triết lý Đông phương, vốn theo đuổi quan niệm hòa nhã, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nếu không tham gia vụ kiện của một nước nhỏ hơn, Trung Quốc phải đối diện với mất mát to lớn về uy tín đối với các nước khác, đặc biệt là những nước nhỏ, đang dựa dẫm vào kinh tế Trung Quốc để phát triển. Sự tin cậy cần thiết của các nước sẽ không còn khi biết rằng người bạn khổng lồ rất khó để mà đặt lòng tin vào, ngay cả lòng tin của một hợp đồng mua bán.

Các nước lớn hơn như Hoa Kỳ hay liên minh EU, Nhật Bản sẽ đưa ra những ràng buộc có tính kỹ thuật để hàng hóa Trung Quốc gặp trở ngại với lý do trả đũa vì Trung Quốc đã không tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong lúc Nhật đã thấy và có biện pháp mạnh với Trung Quốc, hành động bất tuân luật pháp của Bắc Kinh trong các vụ kiện sẽ giúp cho Tokyo có thêm lý do thuyết phục người dân nước họ thay đổi quan niệm về một Trung Quốc hiền hòa vô hại như trước đây họ từng nghĩ.

1_copy-305.jpg

Hội thảo quốc tế về Hoàng Sa-Trường Sa tổ chức tại Đà Nẵng vào ngày 21/6, hội tụ được nhiều học giả, chuyên gia quốc tế về Biển Đông.

Đối với Việt Nam, khi Trung Quốc trưng ra những bằng chứng bất lợi về công hàm Phạm Văn Đồng, bản đồ và sách giáo khoa công nhận Hoàng Sa – Trường Sa là của Trung Quốc có thể là một trở ngại lớn mà nhiều viên chức chính phủ cho là sẽ khó vượt qua. TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hà Lan cho biết ý kiến của ông về vấn đề này:

“Do hoàn cảnh khách quan đặc biệt do hai cuộc kháng chiến mà có thể giữa hai nhà nước, hai đảng có những thỏa hiệp, những tactic, gọi là thỏa hiệp mang tính chiến thuật. Những thỏa hiệp ấy có liên quan đến vấn đề biển đảo và do đó bây giờ về phía Việt Nam cũng có những điều khó ăn khó nói.

Tuy nhiên nếu Việt Nam nhận thấy được, về mặt nhà nước, đây là một khúc quanh, một bước ngoặt thì nhà nước hoàn toàn có thể chủ động với đội ngũ luật sư, luật gia của Việt Nam trong nước cũng như nước ngoài kể cả những người yêu chuộng Việt Nam, yêu chuộng hòa bình công lý, hoàn toàn có thể xây dựng bằng được hồ sơ để đưa Trung Quốc ra tòa về hai phương diện thủ tục và nội dung pháp lý.”

Chắc chắn sẽ thắng?

Nhìn chung hoàn cảnh lịch sử và tình trạng về công hàm ấy Giáo sư Luật Erik Franckx, trong Hội thảo “Hoàng Sa-Trường Sa: Sự thật lịch sử” diễn ra tại Đà Nẵng vừa qua, với tư cách là một thành viên của Tòa trọng tài thường trực ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đề cập đến việc mở rộng lãnh hải của Trung Quốc chứ không hề nhắc đến Hoàng Sa hay Trường Sa.

Giáo sư Erik Franckx cho biết vào năm 1958 khi công hàm được đưa ra cũng có nhiều nước ra tuyên bố mở rộng lãnh hải 12 hải lý và ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “ủng hộ cho việc mở rộng đó của Trung Quốc” mà không hề đề cập cụ thể đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” vì vậy không thể cho rằng Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa hay Trường Sa.

“ Nếu kiện vụ giàn khoan thì hầu như chắc chắn sẽ thắng, còn nếu kiện chủ quyền của Hoàng Sa-Trường Sa rất là khó nói.
-GS Phạm Quang Tuấn “

Dù sao đây là một ý kiến đáng ghi nhận và phần việc còn lại Việt Nam phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi mang vấn đề này ra tòa quốc tế.

Tuy nhiên nếu xét về luật biển UNCLOS 1982, ngay cả Hoàng Sa-Trường Sa đang tranh chấp đi nữa thì việc đem giàn khoan vào vùng biển ấy cũng khiến Trung Quốc thua kiện trước tòa án quốc tế. Giáo sư Phạm Quang Tuấn, người theo dõi và có nhiều bài viết phản biện về Biển Đông cho biết nhận định của ông:

“Nếu kiện vụ giàn khoan thì hầu như chắc chắn sẽ thắng, còn nếu kiện chủ quyền của Hoàng Sa-Trường Sa rất là khó nói.

Kiện giàn khoan chắc chắn là thắng vì theo luật biển thì luật này có nói rõ ràng khi mà có một vùng biển đang tranh chấp giữa hai quốc gia thì hai bên phải tránh làm bất cứ điều gì có vẻ khiêu khích hay đơn phương hành động mà phải thương lượng với nhau trước đã. Vụ này rõ ràng rằng nước Tàu nó không thương lượng với Việt Nam trước khi nó đem giàn khoan vô vùng đó mà đó là vùng đang tranh cãi giữa hai quốc gia thành ra Tàu nó làm như vậy là chắc chắn trái với luật quốc tế rồi. Đã có những vụ án trong quá khứ xảy ra tương tự như vậy và cũng được tòa xét xử.

Hầu như ai cũng thấy là Tàu nó làm trái luật vì vậy đem vụ này ra kiện vì nó mang giàn khoan vào mà không thương lượng trước với Việt Nam trong vùng tranh cãi là nó đã trái luật.”

GS. Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu hai khóa của Quốc hội cho rằng quốc hội phải yêu cầu chính phủ đưa vụ kiện ra tòa án quốc tế và đồng thời ra nghị quyết về việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam:

“Quốc hội cần phải ra nghị quyết về vấn đề này. Trong nghị quyết đó thì Quốc hội cũng nên yêu cầu chính phủ phải đưa vụ này ra tòa án quốc tế, còn cụ thể chúng ta kiện như thế nào thì việc ấy giao cho chính phủ để tính toán đầy đủ những cái lý lẽ làm sao cho có lợi nhất trong việc bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc.”

Kiện Trung Quốc để giành phần thắng có thể Việt Nam phải gian nan vì những chứng lý mà Trung Quốc đưa ra, tuy nhiên nếu Trung Quốc biết rằng các chứng lý ấy khó thuyết phục tòa án và từ chối tham dự phiên tòa thì Việt Nam đương nhiên hưởng lợi. Thế giới sẽ thấy được hai mặt của vấn đề mà mặt tích cực sẽ được Việt Nam chiếm lấy.

Ngay cả nếu Trung Quốc ra tòa và vụ kiện kéo dài thì cái lợi của Việt Nam còn lớn hơn: Cơ hội để cả nước nhìn lại những gì mà Trung Quốc đã và đang mang tới cho dân tộc.

Dân Việt ‘nghèo mà chơi sang’

Dân Việt ‘nghèo mà chơi sang’

Nguoi-viet.com

VIỆT NAM (NV) Dân Việt “nghèo mà chơi sang,” theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế Việt Nam.

Báo mạng Trí Thức Trẻ trích dẫn kết quả cuộc khảo sát trên trang web của Maritime Bank cho rằng, người Việt Nam có khuynh hướng “thể hiện bản thân,” qua việc mua sắm các vật dụng cá nhân và phương tiện đi lại đắt tiền.


Một cửa hàng bán đồ hiệu Chanel tại khu vực trung tâm Sài Gòn. (Hình: Getty Images)

Cuộc khảo sát này cũng nói rằng, chỉ có 12.24% số người được hỏi ý kiến nói “đợi đủ tiền mới mua sắm một món hàng có giá trị tương đối lớn.” Số người còn lại thì cho biết, hoặc vay ngân hàng, hoặc vay của bạn bè, người thân để mua cho được món hàng đang chuộng.

Theo ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên viên kinh tế tại Sài Gòn, cuộc khảo sát trên cho thấy tâm lý thích hưởng thụ ở người dân Việt Nam rất mạnh. Ông Hiếu nói rằng, gần 90% người dân Việt không muốn chờ đợi để dành đủ tiền, mà sẵn sàng “vung tay quá trán” khi quyết định mua sắm một vật dụng cần thiết hoặc một chiếc xe làm phương tiện đi lại. Ða số này, cuối cùng thường tìm đến các công ty tài chính để xin vay, với điều kiện tương đối dễ dàng so với các ngân hàng thương mại.

Ông Hiếu cũng cảnh cáo rằng, các hợp đồng vay tiền được soạn thảo theo khuynh hướng có lợi cho công ty tài chính. Còn khách hàng thì có vẻ như không nhận biết gánh nặng nợ nần, cho tới khi bị thúc trả nợ, mới bật ngửa ra. Theo ông, người vay tiền cứ nhắm mắt ký tên bừa cốt sớm được nhận tiền, chẳng khác người tự “đeo gông vào cổ,” và tự làm khổ mình suốt đời.

Ông Nguyễn Trí Hiếu khuyến cáo người dân Việt nên cần biết “kềm chế sự ham muốn” trước các cuộc mời gọi của đại diện các công ty tài chính. Ông nói rằng, chỉ khi thật sự cần kíp, và không còn sự lựa chọn nào khác thì mới đi vay tiền cho nhu cầu mua sắm cá nhân. (PL)

 

Vui buồn nghề nuôi bệnh thuê ở Sài Gòn

Vui buồn nghề nuôi bệnh thuê ở Sài Gòn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-06-24

TTVN06242014.mp3

benh-vien-305.jpg

Một phòng bệnh ở Bệnh Viện Ung Bứu TPHCM (ảnh minh họa).

RFA

Ở các bệnh viện lớn trong thành phố, dường như bất kỳ ngày nào, bệnh nhân cũng có thể gặp những người chuyên nuôi bệnh thuê đến hỏi thăm, thậm chí gạ gẫm để được chăm sóc thuê và đưa ra mức chi phí vừa phải để người nhà bệnh nhân chấp nhận cho họ chăm sóc người thân. Nghề nuôi bệnh thuê là một nhóm nghề có thu nhập tương đối khá so với các nhóm lao động khác nhưng bù vào đó, những người chuyên nuôi bệnh thuê có cuộc sống và số phận hết sức trắc ẩn và tủi buồn.

Nghề nhiều nước mắt

Một người tên Loan, trôi dạt từ xứ Quảng vào Sài Gòn suốt mười bảy năm với nghề bán mì quảng để rồi trong một cơn bạo bệnh, bà phải bán sạch vốn liếng để điều trị, sau khi lành bệnh, không còn gì để sống, bà chuyển sang nghề nuôi bệnh thuê và sống với nó suốt tám năm nay, chia sẻ: “Mình thấy rứa mình cũng xót, vì mình thay gia đình họ chăm sóc mà, mỗi khi họ lên cơn đau mình thấy mình xót lắm, điên cái ruột ấy chứ! Mình không có tâm thì sao mình chăm họ được, mình phải thương họ như cha mẹ mình ấy chứ! Ở bệnh viện có nhiều cảnh đau thương lắm, mình đã nghèo mà họ còn nghèo hơn mình nữa, họ nằm viện mà bệnh không hết, họ không có tiền trả tiền thuốc bệnh viện nên nửa đêm họ lén họ về, cơm họ còn không có để ăn lấy gì họ trả tiền bệnh viện.”

Mình không có tâm thì sao mình chăm họ được, mình phải thương họ như cha mẹ mình ấy chứ! Ở bệnh viện có nhiều cảnh đau thương lắm, mình đã nghèo mà họ còn nghèo hơn mình nữa.
-Bà Loan

Theo Bà Loan, nghề nuôi bệnh thuê là cái nghề hết sức ngẫu nhiên và buồn nhiều hơn vui. Cũng có thể nói thêm rằng đây là cái nghề mà người ta có thể chiêm nghiệm sâu sắc về thân phận con người cũng như sự sống nhỏ nhoi, heo hút của kiếp người nơi bệnh viện. Chính vì thế, bất kỳ một người nào có đời sống nội tâm phong phú, họ sẽ làm công việc nuôi bệnh thuê với tấm lòng chan chứa yêu thương và luôn xem mình là con cháu của Hải Thượng Lãn Ông mặc dù họ không có chuyên môn về y học.

Bà Loan nói rằng sở dĩ những người nuôi bệnh thuê xem mình là con cháu của Hải Thượng Lãn Ông bởi vì đức độ của Hải Thượng Lãn Ông cao vời, Người đã cống hiến cuộc đời của mình để nghiên cứu, chữa chạy cho người bệnh. Nếu như các bác sĩ giỏi thừa kế được phần tài năng của ngài Hải Thượng để chữa bệnh, điều trị cho người bệnh thì những người nuôi bệnh thuê phải thừa kế được phần đức của ngài trong vấn đề chăm sóc, biết đau cùng cái đau của người bệnh và nâng niu, ân cần với người bệnh.

Bà Loan nói thêm rằng đương nhiên, trong xã hội hiện tại, không thiếu những kẻ tuy làm nghề nuôi bệnh thuê nhưng tâm ý chỉ nghĩ đến đồng tiền và không cần biết người bệnh đau đớn, cô đơn đến mức độ nào. Chuyện đau đớn đối với người bệnh thì dễ hiểu, nhưng chuyện một người bệnh thiếu vắng người thân chăm sóc, phải nhờ đến người nuôi bệnh thuê, đó là nỗi đau ẩn khuất mà nếu người nuôi thuê không khéo léo sẽ khiến cho người bệnh thêm nặng và nguy cơ tử vong là trong tầm tay.

benh-vien-250.jpg

Khu khám bệnh ở Bệnh Viện Ung Bứu TPHCM (ảnh minh họa). RFA PHOTO.

Vốn là người trôi dạt, không còn đồng xu dính túi và sống dựa vào những bữa cơm tình thương ở bệnh viện để lây lất qua ngày, tồn tại cho đến lúc khỏe mạnh và ra trước tượng Hải Thượng Lãn Ông, vái lạy xin ngài ban cho sức mạnh để làm một người nuôi bệnh thuê, nghề nuôi bệnh thuê của bà Loan bắt đầu từ đó. Có nhiều trường hợp, bà nuôi với mức phí từ 200 ngàn đồng đến 250 ngàn đồng cho 24 giờ, cũng có trường hợp bà chỉ nhận 100 ngàn đồng mỗi 24 giờ, và cũng không thiếu những trường hợp bà chỉ nuôi miễn phí bởi cuộc đời và số phận của họ làm bà rơi nước mắt, cám cảnh đến những ngày lây lất nơi bệnh viện của mình.

Trong quãng đời nuôi bệnh thuê gần mười năm của bà Loan, có hai lần bà rơi nước mắt và không thể nén tiếng khóc, đó là lần một bệnh nhân nghèo vốn là gái đứng đường lúc mạt vận, không xu dính túi, không người thân đã liều lĩnh nhờ bà chăm sóc vì không còn lựa chọn nào khác khi mổ ruột thừa. Đến ngày chị này tỉnh dậy, bệnh viện đòi viện phí, chị này đã quì lạy và tình nguyện ở đợ cho bà hai tháng để trừ tiền công. Nghe cảnh ngộ của chị ta, bà không thể kiềm nén xúc động, tuyên bố miễn phí và tặng thêm một ít tiền để chị ra về. Và một lần người mẹ đã nhờ bà chăm sóc đứa con để ra đứng đường kiếm tiền chạy chữa cho con. Lần đó bà cũng chăm sóc miễn phí và cũng là lần mà bà cảm nhận ra cái nghèo và sự sống nó thổn thức, đau thương đến mức độ nào.

Tràn lan dịch vụ nuôi bệnh thuê

Trường hợp của bà Loan là một trong những trường hợp hiếm hoi, có lương tâm và có tôn chỉ, mục đích trong công việc nuôi bệnh thuê. Cũng không thiếu những trường hợp bịp bợm và xã hội luôn tràn lan những kẻ vô cảm làm nghề này. Một bệnh nhân tên Trung, ở Gò Vấp, Sài Gòn, chia sẻ: “Nuôi bệnh thuê mỗi ngày đôi khi một trăm có, hai trăm có, ba trăm có, tùy theo mỗi dịch vụ, thí dụ như họ lo đầy đủ, chăm sóc, giặt đồ… thì ba trăm, chỉ tới chăm sóc mà không giặt giũ thì hai trăm, đôi khi một trăm họ cũng tới, ngồi đó, chỉ gì làm đó thì một trăm. Cái giá tiền khác nhau, như chuyển người qua giường thì họ cũng rành lắm, làm như y tá. Nhưng cái nghề này cũng như osin thôi chứ có gì đâu, cũng vì tiền đi giúp việc.”

Nuôi bệnh thuê mỗi ngày đôi khi một trăm có, hai trăm có, ba trăm có, tùy theo mỗi dịch vụ, thí dụ như họ lo đầy đủ, chăm sóc, giặt đồ… thì ba trăm, chỉ tới chăm sóc mà không giặt giũ thì hai trăm.
-AnhTrung

Theo ông Trung, chuyện nuôi bệnh thuê và nghề nuôi bệnh thuê hiện nay đã tràn lan khắp các bệnh viện thành phố. Người nuôi bệnh có đạo đức thì hiếm hoi nhưng kẻ lợi dụng thì nhiều vô kể. Sở dĩ có chuyện như thế bởi vì ngành y tế Việt Nam đang ở giai đoạn khủng hoảng đạo đức trầm trọng, ngay cả các bác sĩ, y tá được đào tạo bài bản, có tri thức mà vẫn còn mè nheo, vòi vĩnh tiền của bệnh nhân thì huống gì những người nuôi bệnh thuê được chăng hay chớ.

Như trường hợp ông gặp là một ví dụ đau lòng, ông bị viêm túi mật, phải đi phẫu thuật ở bệnh viện nhân dân Gia Định, trong lúc các con và vợ ông đang đi du lịch ở Mỹ. Không có người nhà, ông phải thuê một cô nuôi thuê. Cô này lúc đầu thì hiền hòa, dễ mến. Nhưng khi chính thức bắt tay vào công việc, cô đòi hỏi đủ thứ, ngoài khoản tiền 300 ngàn đồng mỗi ngày, cô yêu cầu ông đóng thuế cho các hộ lý thông qua cô và chính cô cũng là người gợi ý ông bỏ phong bì cho các bác sĩ, y tá có liên quan đến ca mổ của ông.

Vì không có người thân, tâm trạng lại buồn bã sau khi mất đi một phần trong cơ thể, sức lực yếu hẳn ra, cộng thêm sự vô cảm của người chăm sóc khiến ông nhiều lần chẳng còn tha thiết sống. Nhưng nghĩ đến vợ và các con ở xa, ông quyết cắn răng chịu đựng để sống cho đến ngày ra viện.

Ông Trung nói rằng người nuôi bệnh thuê rất đông nhưng ông chấp nhận cắn răng chịu đựng bởi vì nếu ngưng hợp đồng với cô này để thuê một cô khác, sẽ rất khó khăn cho ông bởi họ cùng hội cùng thuyền với nhau cả, có thể người nuôi sau sẽ gây khó khăn cho ông nhiều hơn cả người nuôi trước để bỏ ghét. Như vậy chẳng khác nào tiền mất mà tật mang. Cuối cùng, ông quyết định cắn răng chịu đựng.

Xã hội đang ngày càng đông đúc, mọi thứ trở nên phì đại và con người trở nên lẻ loi, cô đơn trước thế giới mình hiện hữu, nhất là khi đối diện vợi bệnh tật, đối diện với các thiết bị y tế cùng với âm thanh của nó cũng như đối diện với bức tường trắng và khoản sân côi cút của bệnh viện… Hơn bao giờ hết, con người cảm nhận ra mình nhỏ nhoi và bất an, và cũng hơn bao giờ hết, người bệnh cần sự chia sẻ, chăm sóc tận tình, ân cần của đồng loại. Thế nhưng, câu chuyện của người nuôi bệnh thuê luôn là một đề tài trắc ẩn!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Tại sao cần phải xóa cơ chế Đảng cử dân bầu?

Tại sao cần phải xóa cơ chế Đảng cử dân bầu?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-06-24

06242014-party-nomi-peop-vote.mp3

Các lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam từ phải sang: Chủ tịch Trương tấn Sang, TBT Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Các lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam từ phải sang: Chủ tịch Trương tấn Sang, TBT Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

AFP

Cần xóa cơ chế “Đảng cử dân bầu” đó là kiến nghị của trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng Huỳnh Nghĩa tại phiên thảo luận Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) ngày 16.6.2014. Vậy trên thực tế cơ chế này là gì và tại sao cần phải xóa bỏ?

Điều 69 Hiến pháp Sửa đổi năm 2013 quy định rõ: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Quốc hội của đảng hay của dân?

Theo quy định thì các đại biểu quốc hội Việt Nam, do cử tri Việt Nam bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Thông qua các đại biểu và thông qua Quốc hội, nhân dân Việt Nam sử dụng quyền lực của mình để định đoạt các vấn đề của đất nước

Song trên thực tế từ nhiều chục năm qua Quốc hội Việt nam được dư luận đánh giá là một bức bình phong trang trí, nhằm hợp thức hóa các nghị quyết của Đảng CSVN. Có tới trên 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên đảng CS.

Giải thích nội dung của cơ chế “Đảng cử, dân bầu”, Nhà báo Mai Dũng từ Hà nội cho rằng: đó là thứ cơ chế để hợp thức hóa quyền lãnh đạo của Đảng CSVN, mà trong đó tất cả những chức vụ quan trọng của nhà nước đã được Đảng xắp xếp trước. Quốc hội chỉ làm một công việc là hợp thức hóa những gì Đảng đã sắp đặt, ngay bản thân Quốc hội cũng do Đảng sắp xếp trước, rồi để người dân bầu lên theo lối “Đảng cử, dân bầu”, cho nên Quốc hội này cũng là Quốc hội của Đảng.

Hiện nay việc đi bầu cử là như thế, dân thì đi bầu theo danh sách Đảng cử ra, như thế người ta gọi là cơ chế Đảng cử, dân bầu. Cái này toàn dân thấy rõ là cái việc hết sức kỳ cục, thế nhưng cũng chả biết làm sao? Đến nỗi mấy cái ông được Đảng cử ra cũng tự thấy quá áy náy, nên các ông ấy phải đưa vấn đề này ra trước Quốc hội

Nhà báo Mai Dũng

Theo ông chính vì lý do Đảng CSVN thao túng toàn bộ nên người dân không có một tác động gì vào bộ máy nhà nước.

Nhà báo Mai Dũng nói với chúng tôi:

“Hiện nay việc đi bầu cử là như thế, dân thì đi bầu theo danh sách Đảng cử ra, như thế người ta gọi là cơ chế Đảng cử, dân bầu. Cái này toàn dân thấy rõ là cái việc hết sức kỳ cục, thế nhưng cũng chả biết làm sao? Đến nỗi mấy cái ông được Đảng cử ra cũng tự thấy quá áy náy, nên các ông ấy phải đưa vấn đề này ra trước Quốc hội”.

Các đại biểu quốc hội đều đồng ý, nhất trí...(minh họa)

Các đại biểu quốc hội đều giơ thẻ đảng đồng ý, nhất trí…(minh họa)

Nói về vai trò của Quốc Hội có là cơ quan quyền lực cao nhất và đại diện cho nguyện vọng của người dân hay không? Bà Dương Thu Hương, nguyên Phó Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước VN cho rằng: trên thực tế các đại biểu Quốc hội VN đã không làm đúng và đủ trách nhiệm của mình đối với cử tri. Theo bà đây là hậu quả của cơ chế “Đảng cử, dân bầu.

Bà Dương Thu Hương nói:

“Tôi rất xấu hổ khi nói rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền gì đâu mà bảo là cơ quan quyền lực cao nhất. Thế rồi Đại biểu Quốc hội là đảng viên thì lại không dám phát biểu cái gì theo chính kiến của mình mà lại phải giơ tay đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cho nên nếu là một Đại biểu quốc hội, vừa là đảng viên vừa là Đại biểu quốc hội thì trong con người đó hoàn toàn mâu thuẫn, tức là không đảm bảo được quyền lợi của cử tri mà phải thực hiện vai trò đảng viên của mình. Và có thể lúc ấy là phải hy sinh cái quyền lợi của cử tri.”

Tôi rất xấu hổ khi nói rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền gì đâu mà bảo là cơ quan quyền lực cao nhất. Thế rồi Đại biểu Quốc hội là đảng viên thì lại không dám phát biểu cái gì theo chính kiến của mình mà lại phải giơ tay đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước

Bà Dương Thu Hương

Cơ chế “Đảng cử, dân bầu”: vừa đá bóng anh vừa thổi còi

Khi được hỏi  tại sao cần phải xóa bỏ cơ chế “Đảng cử, dân bầu”?  Nhà báo Nguyễn Vũ Bình thấy rằng người dân bây giờ, ai cũng biết rằng các kỳ bầu đại biểu Quốc hội là trò hề bầu cử do Đảng bày ra, không có tí gì gọi là dân chủ cả. Thực chất đây là những cuộc bầu cử áp đặt. Nhưng họ vẫn buộc phải đi bầu để khỏi bị công an quấy rầy, chứ thực ra đây đâu phải là thực hiện quyền công dân một cách đúng nghĩa.

Nhà báo Nguyễn Vũ Bình nói với chúng tôi:

“Cơ chế này chủ yếu để nhằm hợp thức hóa quyền lãnh đạo của Đảng CS, do vậy nó có rất nhiều chi tiết, tình tiết đã áp đặt và đã làm tới mức mà nó đi vượt quá. Đã không để lại chút gì cho quyền lực của người dân cả”

Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng Huỳnh Nghĩa phát biểu tại một kỳ họp Quốc hội

Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng Huỳnh Nghĩa phát biểu tại một kỳ họp Quốc hội

Nhà báo Mai Dũng thấy rằng việc bầu cử ở VN hiện nay chỉ là một màn kịch do Đảng đạo diễn, hoàn toàn không minh bạch, thiếu dân chủ và công bằng. Những ứng cử viên hầu hết do Đảng nắm và chỉ đạo, kể cả việc để cho ai trúng cử cũng do Đảng quyết định từ trước. Không những thế, việc đưa các ứng cử viên ở khu vực khác về những nơi mà cử tri không hề biết về họ, đó là việc làm có chủ đích nhằm làm rắc rối vấn đề. Theo ông việc chấp nhận cho các ứng cử viên tự do với tỷ lệ rất thấp cũng chỉ là hình thức, vì thực chất các ứng cử viên phải thông qua sự xét duyệt của Mặt trận Tổ quốc – một cánh tay đắc lực của Đảng thì việc đó hoàn toàn vô nghĩa.

Cơ chế này chủ yếu để nhằm hợp thức hóa quyền lãnh đạo của Đảng CS, do vậy nó có rất nhiều chi tiết, tình tiết đã áp đặt và đã làm tới mức mà nó đi vượt quá. Đã không để lại chút gì cho quyền lực của người dân cả

Nhà báo Nguyễn Vũ Bình

Nhà báo Mai Dũng nói:

“Trong chuyện minh bạch thì hoàn tòan không khả thi, bởi vì các cơ quan bầu cử hoàn toàn do các cơ quan Đảng điều hành kiểm soát. Cho nên là liệu điều đó có minh bạch được không? Tôi nghĩ rằng đấy là việc hoàn toàn không có minh bạch. Anh vừa đá bóng anh vừa thổi còi thì sao có minh bạch được?”

Nói về các giải pháp để tiến tới xóa bỏ cơ chế “Đảng cử, dân bầu” ở VN hiện nay, Nhà báo Nguyễn Vũ Bình thấy rằng trước hết phải để người dân được quyền tự do ứng cử. Đồng thời các tiêu chuẩn và các thủ tục không được tạo ra bất kể sự phân biệt nào giữa các đối tượng ứng cử, như: không được đưa ra vấn đề lý lịch, tôn giáo; không có chuyện xét duyệt của Mặt trận Tổ quốc hay tổ dân phố và những hành động khác có thể tạo ra sự phân biệt.

Theo ông, ngoài tự do ứng cử còn phải có các hội đồng bầu cử độc lập, trung thực và hoạt động của chúng phải được giám sát một cách chặt chẽ.

Nhà báo Nguyễn Vũ Bình nói:

“Tất nhiên là Đảng người ta phải cử, nhưng họ phải để dân cũng được cử và dân tụ ứng cử nữa. Quan trọng là người dân phải bỏ phiếu trung thực và có một Hội đồng bầu cử phải là của người dân. Đơn giản vậy thôi”

Nhà báo Mai Dũng nhận xét rằng cơ chế “Đảng cử, dân bầu” là hệ quả của thể chế chính trị độc đảng, độc tôn chính trị của Đảng CSVN, họ không muốn phân chia quyền lực với bất kỳ ai. Do vậy muốn xóa bỏ cơ chế “Đảng cử, dân bầu” ở VN thì nhất thiết phải để người dân có quyền thực sự để lựa chọn các đại biểu của mình vào Quốc hội.

Nhà báo Mai Dũng nói:

“Để xóa bỏ cái cơ chế bầu cử này đi thì chắc chắn một điều là sẽ phải thay đổi cơ chế thôi. Cần thay đổi một thể chế chính trị cho dân chủ như các nước dân chủ khác trên thế giới”

Dân chủ là chế độ chính trị thể hiện quyền lực thuộc về nhân dân. Người dân thực hiện các quyền của mình bằng cách trực tiếp hoặc bằng cách chọn ra các đại biểu để đảm nhiệm các công việc trong bộ máy nhà nước. Và chỉ có như thế mới tạo ra một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.

 

Căng thẳng ở Biển Đông thể hiện sự mong manh của chế độ Trung Quốc

Căng thẳng ở Biển Đông thể hiện sự mong manh của chế độ Trung Quốc

Tàu tuần dương Trung Quốc (màu trắng) cản mũi tàu cảnh sát biển Việt Nam trong vùng biển của Việt Nam (ảnh chụp ngày 14/05/2014)

Tàu tuần dương Trung Quốc (màu trắng) cản mũi tàu cảnh sát biển Việt Nam trong vùng biển của Việt Nam (ảnh chụp ngày 14/05/2014)

REUTERS

Trọng Nghĩa

Trung Quốc trong thời gian gần đây đã gây căng thẳng với hầu hết các láng giềng, từ Nhật Bản cho đến Việt Nam, Philippines. Trả lời nhật báo Công giáo La Croix ngày 16/06/2014, chuyên gia Pháp Valérie Niquet, đứng đầu bộ phận châu Á của Hiệp hội Nghiên cứu Chiến lược FRS (Fondation pour la Recherche stratégique) nhận định : Chế độ Bắc Kinh – bị suy yếu từ bên trong – đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc và tham vọng bá quyền trên biển để lấy lại tính chính đáng. Chiến lược này, theo bà, không phải là không có rủi ro.

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn :

La Croix : Yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông có chính đáng hay không ?

Valérie Niquet : Vấn đề chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc tại Biển Đông hay biển Hoa Đông đã được không chỉ các nước láng giềng của Bắc Kinh (Việt Nam, Philippines,Nhật Bản) mà cả cộng đồng quốc tế nêu lên bởi vì Trung Quốc chỉ đơn thuần giải thích các tuyên bố chủ quyền của họ bằng nguyên nhân lịch sử.

Lập luận của Trung Quốc là gì ? Là kể từ thời Hán – hơn hai thế kỷ trước Công nguyên – các thủy thủ Trung Quốc đã nhận biết khu vực này, và trên cơ sở đó Bắc Kinh đòi chủ quyền trên toàn bộ biển bao quanh Trung Quốc. Nếu như vậy, thì Hy Lạp cũng có thể đòi chủ quyền trên toàn bộ biển Địa Trung Hải…

Vấn đề thứ hai là những tuyên bố chủ quyền khá mới mẻ đó lại không được Trung Quốc xác định rõ ràng như Philippines và Việt Nam đã yêu cầu. Ngày nay, Bắc Kinh dựa trên một đường chín đoạn đã được chính quyền Trung Hoa vẽ ra một cách thô thiển và nhanh chóng vào năm 1948, để đòi chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông.

Nhưng người ta không biết là Trung Quốc đòi chủ quyền trên các đảo với các khu vực đặc quyền kinh tế và lãnh hải xung quanh hay là họ muốn toàn bộ Biển Đông mà không dựa vào một vùng lãnh thổ cụ thể nào.

La Croix : Các hành động của Trung Quốc – sự hiện diện của các tàu tuần duyên, việc cắm các giàn khoan dầu… – có thể gây nên hay không một cuộc chiến tranh cục bộ hay rộng lớn hơn, lôi kéo Nhật Bản và Hoa Kỳ nhập cuộc ?

Valérie Niquet : Kể từ cuối những năm 2000 và cuộc khủng hoảng kinh tế, Bắc Kinh đã thay đổi chiến lược trên Biển Đông và quyết định thử sức phản ứng và quyết tâm đáp trả của các nước láng giềng và Hoa Kỳ. Mục tiêu của Trung Quốc là tạo ra một tình huống để phân tích quan hệ quyền lực trong khu vực chứ không phải là một cộng đồng quốc tế được tổ chức hài hòa.

Phải đối mặt với chiến lược thử sức đó, các nền dân chủ như Nhật Bản hay Hoa Kỳ không muốn Trung Quốc đi quá xa, nhưng cũng không sẵn sàng lao vào một cuộc xung đột trực diện Bắc Kinh. Nhưng nguy cơ sự cố đáng tiếc xảy ra không phải là không có : Từ đầu năm đến nay, tại Biển Hoa Đông, Nhật Bản đã cho phi cơ cất cánh hơn 400 lần do các sự cố với Trung Quốc.

Tại Biển Đông, tình hình khác hơn, và có thể xấu đi một cách nhanh chóng. Ở đó, Bắc Kinh đang phải đối mặt với các quốc gia kém dân chủ hơn, chẳng hạn như Việt Nam. Khi Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan dầu ở vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, chúng ta không nên quên là nhiều cuộc biểu tình bạo động nhắm vào các cơ sở của Trung Quốc hay Đài Loan đã xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam vào tháng trước.

Trung Quốc hiện nay như đang cho rằng họ ở một thế mạnh và có thể đẩy quân cờ của mình về phía trước. Ta hoàn toàn có thể lo ngại rằng đó là một tính toán sai lầm và cuối cùng Trung Quốc sẽ phải đối mặt với phản ứng dữ dội từ Việt Nam, Nhật Bản hay Hoa Kỳ.

La Croix : Giới hạn mà Trung Quốc không được vượt quá là gì ?

Valérie Niquet : Tại vùng Biển Đông, rất khó mà xác định điều này. Trung Quốc từ lâu đã hiện diện trên quần đảo Hoàng Sa. Và Hoa Kỳ, dù đã tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực với Philippines, Malaysia và Việt Nam, nhưng chưa sẵn sàng đối đầu với Bắc Kinh để bảo vệ hai hoặc ba hòn đảo do Manila và Hà Nội tuyên bố chủ quyền.

Một trong những lằn ranh mà Mỹ đã đề cập đến trong vấn đề Biển Đông là việc Bắc Kinh thiết lập một vùng nhận dạng phòng không như họ đã làm tại vùng Biển Hoa Đông.

Ngược lại, ở trên Biển Hoa Đông, Bắc Kinh sẽ vượt quá giới hạn nếu dùng võ lực chiếm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản quản lý. Điều đó sẽ dẫn đến một phản ứng từ phía Hoa Kỳ. Chỉ mới gần đây thôi, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ còn tuyên bố rằng quần đảo đó được che chở bằng thỏa thuận quân sự giữa Washington với Tokyo.

La Croix : Những mối căng thẳng đó liệu có cơ may giảm bớt hay không ?

Valérie Niquet : Tình hình chỉ có thể thay đổi với sự chuyển biến của chính quyền Trung Quốc. Thật vậy, chế độ Bắc Kinh dù mở cửa về kinh tế, nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ về chính trị. Và ngày nay nó xây dựng tính chính đáng trên nền tảng chủ nghĩa đân tộc, điều được gọi là thực hiện giấc mơ về một nước Trung Quốc được phục hưng.

Những tham vọng về một nước lớn đó dùng để bảo vệ tính chính đáng của Đảng Cộng sản giải thích tại sao Trung Quốc rất hung hăng với các láng giềng sát cạnh mình, để cố gắng áp đặt mình vào vị trí một cường quốc không thể tranh cãi và lãnh đạo châu Á.

Các vấn đề tài nguyên, lãnh thổ, năng lượng và thủy sản chỉ là cái cớ. Chúng ta đang phải đối mặt với một cường quốc bị suy yếu từ bên trong và dựa trên chủ nghĩa dân tộc và tham vọng bành trướng để tìm lại tính chính đáng của mình.

Bà Valérie Niquet, Chuyên gia Pháp về Châu Á

 

24/06/2014

 

Nghe (05:58)