11 tuổi đời đi tìm công lý cho cha mẹ

11 tuổi đời đi tìm công lý cho cha mẹ

Hòa Ái, phóng viên RFA
11-11-2014

Ở nhiều nước, việc một em bé 11 tuổi như em bé Cẩm Hiếu ở xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước vượt hàng ngàn cây số ra Hà Nội đội đơn kêu oan cho cha mẹ ròng rã mấy tháng trời trước cửa công đường chắc chắn sẽ làm lay động lương tri của toàn xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì có vẻ như đó chỉ là chuyện vặt bởi cho đến nay vẫn chưa thấy cá nhân nào, tờ báo nào, hội phụ nữ nào, mặt trận tổ quốc nào, hội cựu chiến binh nào… lên tiếng bênh vực, xót thương cho em. Hay là vì dân ta đã chịu quá nhiều đau khổ, hay là vì em chỉ là một dân oan bé nhỏ đến mức không ai nhìn thấy giữa hàng triệu triệu dân oan từ bao nhiêu năm nay mỏi cổ ngóng chờ công lý, hay là vì người Việt đã trở nên độc ác, hoàn toàn vô cảm trước nỗi đau của người khác. 

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu kể: … “ra Hà Nội em ở đó khoảng 3 tháng hè. Xong rồi em lại về đây… Em đi thêm khoảng 1,2 tháng nữa. Đi khiếu kiện ở các cơ quan như Bộ Tư pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện Kiểm sát… Có vài nơi phải đợi lâu lắm người ta mới tiếp cho…”. Tại phiên phúc thẩm thứ 2 mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, bé Cẩm Hiếu òa khóc trước tòa, kêu oan cho cha mẹ, đặt câu hỏi với tòa rằng: Chú Tư hàng xóm chứng kiến vụ việc xẩy ra mà sao không được mời lên làm nhân chứng? Thế nhưng một vị thẩm phán đã cắt ngang câu hỏi này…

Bộ Tư pháp, Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát hoàn toàn không có một cử chỉ nào, dù nhỏ nhất để giúp đỡ em về mặt tinh thần cũng như vật chất. Những kẻ thực thi pháp luật đã vi phạm luật pháp về quyền trẻ em.

Con người Việt Nam nói chung và giới quan trường nói riêng đang ngày càng trở nên vô cảm – một trạng thái tâm lý, nếu theo lẽ tự nhiên, thì chỉ phổ biến ở loài vật, nhưng đau xót thay, hiện nay nó đang trở nên phổ biến ở con người.

Bauxite Việt Nam

clip_image001

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu chụp trước Toà án huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong phiên sơ thẩm ngày 25/2/2014. Photo courtesy of danlambao

Trong số hàng triệu dân oan ở VN hiện nay có không ít nạn nhân là trẻ em. Hòa Ái ghi nhận một trường hợp điển hình về hành trình kêu oan cho cha mẹ của cô bé 11 tuổi, ở Bình Phước, tên Ngô Thị Cẩm Hiếu.

“Hồi lúc ra Hà Nội, em ở đó khoảng 3 tháng hè. Xong rồi em về lại đây. Em đi thêm khoảng 1,2 tháng nữa. Sau đó em ở nhà, mẹ đi còn em không đi nữa. Cũng có nhiều người đi kiện nên khoảng 5,6 người ở cùng 1 nhà trọ. Lúc em đi với mẹ thì không làm gì nhưng khi mẹ đi một mình thì mẹ phải đi rửa chén thuê. Đi khiếu kiện ở các cơ quan như Bộ Tư pháp, cơ quan Cảnh sát Điều tra và Viện Kiểm sát… Có vài nơi phải đợi lâu lắm thì người ta mới tiếp cho. Người ta xem kỹ hồ sơ rồi viết đơn yêu cầu tỉnh Bình Phước điều tra và làm rõ lại vụ việc…Em muốn Tòa án phải điều tra thật kỹ càng, phải xử thật nghiêm minh để những ai làm sai trái trước pháp luật bị pháp luật trừng trị chứ không được bắt oan những người như ba mẹ của em”.

Vừa rồi là câu chuyện kể đi kêu oan và ước vọng của bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, 11 tuổi, con của 2 dân oan là ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm ở xã Đường 10, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Em muốn Tòa án phải điều tra thật kỹ càng, phải xử thật nghiêm minh để những ai làm sai trái trước pháp luật bị pháp luật trừng trị chứ không được bắt oan những người như ba mẹ của em.

Bé Ngô Thị Cẩm Hiếu

Biến cố xảy đến với gia đình bé Cẩm Hiếu cách nay 4 năm, bắt đầu từ một giao dịch dân sự. Gia đình bị cảnh xiết nợ gây thiệt hại tài sản, bị mất đất trở thành dân oan. Bé Cẩm Hiếu đã cùng mẹ ngược xuôi Nam- Bắc đi khiếu kiện vì cho rằng cơ quan thẩm quyền địa phương giải quyết vụ cưỡng chế bán đấu giá tài sản của gia đình không thỏa đáng. Ông Ngô Văn Huynh, cha bé Cẩm Hiếu bị bắt ngày 4 tháng 7 năm 2013 và mẹ bé Cẩm Hiếu, bà Nguyễn Thị Tâm bị bắt giữ sau chồng 2 tháng vì bị cáo buộc tội đánh cán bộ xã là người thân của chủ nợ. Bí thư Xã đoàn, đảng viên Trần Thị Bích Toàn được chỉ định là người bảo hộ cho bé Cẩm Hiếu. Tuy nhiên, bé Cẩm Hiếu không nhận được bất kỳ sự liên lạc nào từ người bảo hộ do Tòa án Nhân dân huyện Bù Đăng chỉ định mà em phải nương nhờ vào gia đình của người bác họ.

Phiên tòa sơ thẩm TAND huyện Bù Đăng mở hôm 25 tháng 2 năm 2014, kết án ông Huynh và bà Tâm, mỗi người, 5 năm 6 tháng tù giam với tội danh “cố ý gây thương tích” theo khoản 3, Điều 114 Bộ luật Hình sự và bị buộc bồi thường cho nạn nhân, ông Nguyễn Bá Tuyên, số tiền 71 triệu đồng. Cha mẹ của bé Cẩm Hiếu đã phản đối bản án này và làm đơn kháng cáo phúc thẩm.

Phiên tòa phúc thẩm được mở 2 lần. Lần thứ nhất vào ngày 17 tháng 9 năm 2014 nhưng đã hoãn lại do thiếu nhân chứng và nhiều chứng cứ quan trọng chưa được kiểm tra làm rõ. Phiên phúc thẩm thứ hai được mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, bé Cẩm Hiếu òa khóc trước tòa, kêu oan cho cha mẹ, đặt câu hỏi với tòa rằng “chú Tư-hàng xóm chứng kiến vụ việc xảy ra mà sao không được mời lên làm nhân chứng”.

Thế nhưng, một vị Thẩm phán đã cắt ngang câu hỏi này. Cũng tại phiên tòa phúc thẩm lần 2, ông Ngô Văn Huynh đã nói ông không còn cách nào khác hơn là phải đánh trả lại ông Nguyễn Bá Tuyên khi ông này cầm gậy xông vào đánh vợ con mình. Ông Huynh cũng xin Tòa ở tù thay cho vợ để bà Tâm được về nuôi con. Kết thúc phiên tòa phúc thẩm lần hai là quyết định của Tòa hủy bảm án sơ thẩm ngay lập tức.

Quyền trẻ em ở đâu?

Cuộc sum họp gia đình ngắn ngủi 45 phút đồng hồ của cô bé 11 tuổi với cha mẹ trong khi chờ tòa nghị án và tuyên bố hủy bán án sơ thẩm là niềm hạnh phúc vô bờ bến đối với bé Cẩm Hiếu. Niềm hân hoan và hy vọng sớm gặp lại được cha mẹ của bé Cẩm Hiếu được bày tỏ khi trò chuyện với đài ACTD sau khi gặp cha mẹ ở tòa. Bà Bùi Thị Qui, người đang nuôi dưỡng bé Cẩm Hiếu chia sẻ:

“Hôm nọ thì bảo là bảo lãnh cho ba mẹ cháu ra thì nó mừng từ hôm nọ tới nay. Nếu ở trên giúp đỡ cho cháu thì cháu nó cũng đỡ. Mà chắc gì…tôi sợ là không được”.

Trao đổi về hoàn cảnh gia đình của bé Cẩm Hiếu, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP. HCM, cho biết bản án sơ thẩm đối với cha mẹ của bé Cẩm Hiếu có vấn đề. Luật sư Hậu phân tích đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và trong quá trình xét xử vụ án, phiên tòa sơ thẩm đã không xem xét kỹ hồ sơ, không điều tra đầy đủ cho nên phiên tòa phúc thẩm có thể hủy hoặc sửa lại bản án. Luật sư Hậu cho biết thêm, trong quá trình hủy hay sửa bản án, tòa có thẩm quyền ra phán quyết thả tự do cho bị cáo do thấy thời gian cách ly không cần thiết. Luật sư Hậu nhấn mạnh, theo Hiến pháp và luật pháp quy định, những người thân trong họ hàng thuộc diện thừa kế thứ nhất của gia đình bé Cẩm Hiếu hoặc Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em có thể làm đơn cho cả ông Ngô Văn Huynh và bà Nguyễn Thị Tâm tại ngoại trong khi vụ án xét xử lại từ đầu. Luật sư Hậu nói:

Theo Luật Luật sư thì họ phải bảo vệ công lý, phải giúp cho bị can-bị cáo và bảo đảm quyền tự do, quyền con người của công dân đó, đặc biệt đối với trẻ em vị thành niên.

– Luật sư Nguyễn Văn Hậu

“Họ có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng tức là Tòa án hoặc Viện Kiểm sát đề nghị với Đoàn Luật sư ở địa phương cử luật sư bào chữa cho trẻ em chỉ định này. Và khi luật sư chỉ định tham gia thì họ phải tận tâm. Theo Luật Luật sư thì họ phải bảo vệ công lý, phải giúp cho bị can-bị cáo và bảo đảm quyền tự do, quyền con người của công dân đó, đặc biệt đối với trẻ em vị thành niên”.

Năm 1941, trong bài thơ “Kêu gọi Thiếu nhi”, Hồ Chủ tịch viết “Trẻ em như búp trên cành/Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Thế nhưng, bé Cẩm Hiếu là một “bé ngoan” khi phải lặn lội hơn trăm cây số thăm nuôi cha mẹ với chút ít thức ăn trong hoàn cảnh không có tiền và giữ kín không cho ai biết cha mẹ bị đi tù dù là tù oan vì sợ thân sinh bị khinh ghét, dèm pha.

Câu chuyện tuổi thơ của cô bé Ngô Thị Cẩm Hiếu, học lớp 6 cũng là câu chuyện của nhiều trẻ em không may mắn ở VN khi gia đình bị rơi vào hoàn cảnh dân oan. Và hành trình đi tìm công lý của các gia đình này vẫn đầy chông gai trước mắt.

H.A

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/petition-for-parents-when-11-year-old-11112014104215.html

Chấn hưng dân trí: Mỹ dạy học sinh tiểu học cái gì?

Chấn hưng dân trí: Mỹ dạy học sinh tiểu học cái gì?

Chị bạn làm thông dịch viên tình nguyện cho Davis School District, Hạt Salt Lake, tiểu bang Utah. Họ nhờ dịch một bài về “Human Rights” cho học sinh Việt Nam trong Học Khu.

Do chị không có phông chữ Việt nên dịch xong, chị nhờ mình đánh máy lại (bỏ dấu).

Đọc bài học dành cho học sinh tiểu học, mình hết hồn, ngửa cổ lên trời mà than rằng, hèn chi tụi nó dẫy hoài mà chẳng chết.

clip_image002

QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA CHÚNG TA

Tôi có quyền được sung sướng và được đối xử tử tế ở đây,
Có nghĩa là không ai nhạo báng tôi và làm tổn thương tự ái của tôi.

Tôi có quyền là tôi ở đây,
Có nghĩa là không ai được kỳ thị vì màu da của tôi,
Gầy hay mập,
Cao hay thấp,
Trai hay gái,
Hoặc vì cái bề ngoài của tôi.

Tôi có quyền được an toàn ở đây,
Có nghĩa là không ai được đánh tôi,
Đá tôi, đẩy tôi,
nhéo tôi,
làm đau tôi.

Tôi có quyền được nghe và được lắng nghe ở đây,
Có nghĩa là không ai được
La hét,
Quát lên
Hoặc làm ầm ĩ.

Tôi có quyền tìm hiểu về bản thân của tôi ở đây,
Có nghĩa là tôi sẽ được tự do
Phát biểu tình cảm
Và ý kiến của tôi mà không bị gián đoạn hoặc bị trừng phạt.

Tôi có quyền học hỏi theo khả năng của tôi,
Có nghĩa là không ai được gọi tên nhạo báng
Vì cách học hỏi của tôi,
Và với những quyền lợi này,
tôi cũng sẽ áp dụng với những người khác cùng trong phòng học.

___________

Bản tiếng Anh:

Our Human Rights

I have a right to be happy and to be
treated with compassion in this room:
This means that no one
will laugh at me or
hurt my feelings.

I have a right to be myself in this room:
This means that no one will treat me
unfairly because of my skin color,
fat or thin,
tall or short,
boy or girl,
or by the way I look.

I have a right to be safe in this room:
This means that no one will
hit me,
kick me, push me,
pinch me,
or hurt me.

I have a right to hear and be heard in this room:
This means that no one will
yell,
scream,
shout
or make loud noises.

I have a right to learn about myself in this room:
This means that I will be
free to express my feelings
and opinions without being
interrupted or punished.

I have a right to learn according to my own ability:
This means that no one will call
me names because of the way I learn.

With all these rights I have, I give the
same rights to all people in this classroom.

Source: Cummings M (1974), Individual Differences: An Experience in Human Relations for Children
Madison, WI: Madison Public Schools
Adaptation by Julie Cox, Davis School District, Utah

Nguồn: April Nguyen https://www.facebook.com/aprilho.ho.7

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

LM Giuse Hoàng Kim Ton

Bên cạnh cuộc sống ồn ào, vội vã, có người về nơi tĩnh lặng, những vành khăn tang, những tiếng kèn đồng đưa tiễn, những lời kinh chen lẫn tiếng ồn ào của xe cộ, những chiếc máy phát âm thanh, những tiếng rao, cười nói.  Người yên lặng ra đi như gợi lại một lời Chúa bảo các Tông đồ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).

Tĩnh tâm: Để tâm hồn thanh thản yên tĩnh không trĩu nặng buồn hay vui, không mê ảo, không xáo động.  Tâm tĩnh là một trạng thái tựa mặt hồ tĩnh lặng soi bóng hàng cây, bầu trời, rõ nét, không lẫn lộn.  Hiệu quả tâm tình luôn là sáng suốt sáng tạo, trong sáng trong suy nghĩ.  Như lời thầm thì, kinh nghiệm của Thánh Phanxicô Assisi trong bài ca mặt trời, nói về tĩnh lặng của tâm hồn để kể về anh mặt trời, chị mặt trăng, anh gió và chị nước, trong đó lời của thiên nhiên tỏ bày những tâm tư sâu kín của cõi lòng con người.  Tĩnh lặng để nói với đóa hoa chưa nở về buổi khai nguyên, về những gì sắp hoàn tất và ngay cả những gì chưa thể hoàn tất.  Trong nội tâm sâu kín của con người cũng mang đầy ước vọng, khi dồi dào, phong phú; khi khô hạn, héo hon; khi vui tươi hoặc cả khi buồn chán.  Yên tĩnh để tiếng nói của Tình Yêu vô tận ngỏ lời, vì trong tiếng nói Tình Yêu ấy sẽ như làn gió mát đuổi cơn nồng, có thể như ngày mới của bình minh chiếu toả.  Sức mạnh không vận dụng từ bên ngoài mà vận dụng tự nội tâm thanh vắng.  Chúa Giêsu nói với các Tông đồ sau khi vui mừng gặt hái kết quả của chuyến loan báo Tin Mừng: “tìm nơi thanh vắng”.

Nơi an nghỉ: Trong tiếng nói yên tĩnh nhất của “chị chết”, mọi người đều không thoát nổi, nhưng “chị chết” cũng cần tập chết đi cho mỗi ngày.  “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6, 11).  Chết, một sự an nghỉ hoàn toàn, không tội lỗi trọng nào, ấy là cái chết đối với tội lỗi.  Vậy “chị chết”, như hạt lúa gieo vào lòng đất, trong mình nó ươm mầm một sự sống, như bình minh sẽ mọc sau đêm tối.  Tĩnh lặng của sự chết không phải là kết thúc mà là một thời gian cần thiết nghỉ ngơi, lấy lại sức lực, đổ rỗng những nặng nề mang lấy gánh nhẹ nhàng.  Kinh nghiệm của tĩnh lặng từ nơi “chị chết” giống như thời gian lặng yên nhìn lại mình trong sám hối, chuẩn bị cho việc đối diện với chính mình bằng việc xưng tội.  Bình minh sẽ lên, chính vì thế, trong bài ca mặt trời của Thánh Phanxicô vẫn liên kết chị chết với anh mặt trời, để không chết trong lần thứ hai là chết trong tội trọng đáng thương, thiếu mất một bình minh.

An tĩnh để kể về tình yêu

Tình yêu như Thánh Phanxicô tường thuật, đó là lời kể của Thiên Chúa thì thầm trong các thụ tạo.  Kể cho đất nghe, chính bàn tay Thiên Chúa đã làm nên, kể cho nắng nghe, Chúa đã làm ra mặt trời, kể cho người nghe, tất cả thụ tạo được trao cho họ…  Ân nghĩa dồi dào từ mẹ thiên nhiên, nếu con người biết yên tĩnh để lắng nghe, sẽ nhận ra vì yêu thương “con người được tạo dựng giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (St 1, 27).  Con người được yêu thương để sống yêu thương, con người sẽ không tàn phá thiên nhiên, con người sẽ sống hài hoà với nhau, tôn trọng sự sống của nhau.  Con người an tĩnh sẽ tường thuật tình yêu trong cuộc đời mình, “không thù hận, không oán ghét, không mừng vui vì những bất công, không ích kỷ tìm tư lợi” (x. 1 Cr 13, 4).  Tĩnh lặng để nhận ra lẽ sống của “Kinh Hoà bình”, “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”  Rất nhiều sứ điệp để kể về về tình yêu để con người sống trong thế giới hoà bình.  Tắt đi những chiến tranh, những vũ khí hạng nặng, những thứ giết người hàng loạt, những sự kiện khủng bố, những lời dao búa, những tính chất côn đồ…

Yên tĩnh để suy nghĩ về những điều tuyệt diệu của cuộc sống bằng lời mời gọi “vào nơi tĩnh lặng”, sống tâm tư của tháng mười một, nơi các linh hồn đang an nghỉ và kể về bình an của sự chết trong ánh sáng bình minh.

LM Giuse Hoàng Kim Ton

From: KittyThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Người chứng thứ nhất

Người chứng thứ nhất

Ga 12,24-26

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.

Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.

Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).

Anh chị em thân mến,

Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.

Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).

Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.

Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.

Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.

Thưa anh chị em,

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Con đường hạt lúa

Con đường hạt lúa

ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Ga 12, 20-32

Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.

Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.

Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.

Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

  1. Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
  2. Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
  3. Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Giao trứng cho ác

Giao trứng cho ác

Nam Nguyên, phóng viên RFA

namnguyen11122014.mp3

MG_0496-622.jpg

Đường lên Đèo Hải Vân, ảnh chụp hôm 6/7/2011.

RFA PHOTO

Dư luận bất bình

Dư luận phản ứng gay gắt về việc chính quyền Thừa Thiên-Huế cấp giấy chứng nhận đầu tư khu nghỉ dưỡng rộng 200 ha cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu ở đèo Hải Vân. Đây là một vị trí chiến lược khống chế cả vùng trời vùng núi và vùng biển Đà Nẵng và có thể chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 16.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một công dân Đà Nẵng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội dân sự đã nhanh chóng phản ứng:

“Cũng như bạn bè và học trò, chúng tôi vô cùng sửng sốt không hiểu tại sao chính quyền Thừa Thiên Huế lại làm việc này. Chúng ta biết là Việt Nam trong quá trình mở rộng về phương Nam thì đèo Hải Vân là một trong những chướng ngại thuở xưa. Trong chiến tranh gần đây cũng thế đèo Hải Vân chia cách đất nước Việt Nam, ở đỉnh cao hiểm trở như thế mà cho người nước ngoài thuê để làm cái này cái kia thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Nói thật là chúng tôi vô cùng sửng sốt về chuyện này.”

” Cũng như bạn bè và học trò, chúng tôi vô cùng sửng sốt không hiểu tại sao chính quyền Thừa Thiên Huế lại làm việc này.
-TS Nguyễn Thế Hùng”

Đây là dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế do doanh nghiệp Trung Quốc làm chủ đầu tư với tổng vốn 250 triệu USD. Người Trung Quốc được phép sử dụng diện tích 200 ha tại khu vực mũi Cửa khẻm, nơi núi Hải Vân đâm ra biển. Tại đây nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023 trên thực tế đã bắt đầu xây dựng một số hạng mục và cơ sở hạ tầng.

Tuy vậy Ủy ban Nhân dân TP. Đà Nẵng vừa kiến nghị Chính phủ rút giấy phép đầu tư mà Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc. Lý do Chính quyền Đà Nẵng đưa ra là dự án nằm ở vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. Hơn nữa về nguyên tắc dự án này có một vùng chồng lấn trong khu vực chưa thống nhất về địa giới hành chính giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng.

Đối với sự kiện một dự án trải rộng 200 ha nằm ở khu vực có vị trí chiến lược lại nằm trong tay nước ngoài đặc biệt là Trung Quốc. Thiếu tướng hồi hưu Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ Hà Nội phát biểu với Đài Á Châu Tự Do:

“Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, Như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”

Vị trí yết hầu có thể chia cắt đất nước

Đại tá Thái Thanh Hùng, nguyên chỉ huy phó Bộ chỉ huy quân sự TP. Đà Nẵng, đương kim Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Đà Nẵng được báo điện tử Infonet trích lời nói rằng: “Dự án Trung Quốc trên đèo Hải Vân nằm ở vị trí yết hầu có thể chia cắt đất nước. Nắm vị trí đó là nắm cả vùng trời, vùng núi, vùng biển khu vực phòng thủ Đà Nẵng.”

MG_0498-400.jpg

Cửa Hầm Hải Vân phía nam, ảnh chụp 6/7/2011. RFA PHOTO.

Là một nhà quân sự Đại tá Thái Thanh Hùng nhấn mạnh rằng, đây là vị trí chiến lược, là địa bàn trọng điểm. Ở miền Trung thì khu vực đèo Hải Vân ai cũng biết cả…Nếu xảy ra chiến tranh, nơi này bị chiếm thì đất nước bị chia cắt liền. Do nó đặc biệt quan trọng như vậy nên Đại tá Thái Thanh Hùng cho là không nên cho nước ngoài đầu tư vào khu vực đó.

Vẫn theo Infonet và Đại tá Thái Thanh Hùng, vị trí Thừa Thiên-Huế cấp phép cho phía Trung Quốc xây dựng khu du lịch lại nằm ngay mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân đâm ra biển và coi như bao trùm cả hòn Sơn Trà con cách đó không xa. Khu vực này chính là “yết hầu” của vịnh Đà Nẵng với núi Hải Vân và bán đảo Sơn Trà tọa thành hình cánh cung trấn giữ phía Bắc và phía Đông Bắc. Trong khi vịnh Đà Nẵng là một trong những khu vực vô cùng trọng yếu trên dọc tuyến biển Việt Nam.

Dự án khu nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân với chủ đầu tư là là doanh nghiệp Trung Quốc gây ra mối lo ngại về an ninh quốc phòng, là sự kiện mới nhất về việc các tỉnh trao nhiều đặc quyền cho nhà đầu tư Trung Quốc trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thiếu tướng hồi hưu Nguyễn Trọng Vĩnh nối kết các sự kiện liên quan đến nhiều dự án ở những vị trí trọng yếu được trao cho nhà đầu tư Trung Quốc. Ông nói:

” Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước.
-Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh”

“Hà Tĩnh là cái yết hầu của miền Trung và hơn nữa nó xây dựng thành một thứ căn cứ, ở trong đó phức tạp lắm chứ không phải chỉ đơn giản là chỗ luyện thép đâu. Hay Cảng Đông Hà cũng vậy thôi cũng là một chỗ quan trọng cũng là bán cho nó, cho nó thuê nó có thể làm thành căn cứ quân sự, rồi từ Kỳ Anh vào tới chân đèo Ngang cũng thế thôi cũng lại cho nó thuê, phía biển nó làm gì ngoài ấy cũng không biết. Những người lãnh đạo chỉ huy các tỉnh chỉ thấy tiền mà không thấy nguy hiểm cho đất nước, những người ấy vô hình chung tạo điều kiện để mất nước, dù là không có ý thức đi nữa thì cũng là tạo điều kiện để cho Trung Quốc nó chiếm nước mình.”

Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành hiện làm việc ở Hà Nội từng báo động về việc các nhà đầu tư Trung Quốc, lợi dụng chính sách của Việt Nam đã thuê dài hạn nhiều khu vực dọc theo biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc để trồng và khai thác lâm sản, đặc biệt là các dự án ở Vũng Áng Hà Tĩnh mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Ông Bùi Kiến Thành nhận định:

“Vùng Vũng Áng Hà Tĩnh đối diện gần với Hải Nam, nếu ngày nào Trung Quốc xây dựng Cảng Vũng Áng mà Hải Nam chĩa ngay qua  Vũng Áng thì có thể nói Vịnh Bắc Bộ biến thành một cái ao hồ của Trung Quốc và nó ngăn cản sự vận chuyển giao thông hàng hải của Việt Nam từ Bắc vào Nam thì sẽ ra sao. Ngoài ra nó có những nguy cơ về quốc phòng từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ 50 km thôi. Như vậy nếu có chuyện thì làm sao phòng thủ, Trung Quốc từ bên Lào đi xe ô tô qua Vũng Áng chạy ô tô vài tiếng đồng hồ là cắt đôi Việt Nam ra làm hai khúc.”

Không hiểu Chính phủ Việt Nam từ Trung ương xuống địa phương nhận thức thế nào về hiểm họa quốc phòng, khi bất chấp ý kiến của giới nhân sĩ trí thức cựu sĩ quan cao cấp, kể cả chiến lược gia quân sự Võ Nguyên Giáp khi còn sống, cũng gởi thư cho Trung ương Đảng và lãnh đạo nhà nước để cảnh báo về việc không thể cho thuê đất ở các vị trí chiến lược.

Dự án Khu nghỉ dưỡng quốc tế World Shine ở mũi Khẻm núi Hải Vân, nơi chia cách Thừa Thiên-Huế và Đà Nẵng, chỉ là một mắt xích mới nhất trong chuỗi vị trí chiến lược trọng yếu về an ninh quốc phòng đã và đang được trao vào tay nhà đầu tư Trung Quốc.

Công an đứng sau vụ hành hung Tổng Lãnh sự Pháp

Công an đứng sau vụ hành hung Tổng Lãnh sự Pháp

Nguoi-viet.com

PARIS (NV) .- Đó là nhận định của Tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) trong thông báo về sự kiện ông Phạm Minh Hoàng, ông Nguyễn Bắc Truyển và ông Emmanuel Ly – Battallan  cùng bị hành hung ở Sài Gòn.

Từ trái qua, ông Pham Minh Hoàng, ông Emmanuel Ly Batallan và ông Nguyễn Bắc Truyển. Ảnh chụp tại tư gia ông Hoàng hôm 5 tháng 11. (Hình: VNHRD)

Ông Phạm Minh Hoàng, một người Việt có quốc tịch Pháp, từng là giảng viên Đại học Bách khoa ở Sài Gòn. Năm 2011, ông Hoàng bị bắt, bị truy tố và bị kết án ba năm tù vì  “âm mưu lật đổ chính quyền”. Trước khi bị bắt, ông Hoàng là tác giả nhiều bài viết ký tên Phạm Kiến Quốc, phân tích những sai lầm của chính quyền Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục, môi trường, đặc biệt là trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy đã mãn hạn tù nhưng ông Hoàng vẫn đang bị quản chế ba năm.

Ông Nguyễn Bắc Truyển từng là luật sư, đồng thời còn là doanh nhân, chủ hai doanh nghiệp tại Sài Gòn. Ông tham gia Đảng Dân chủ nhân dân và viết nhiều bài vận động cho dân chủ, nhân quyền. Cuối năm 2006, ông cùng một số đồng chí bị bắt, bị đưa ra tòa và bị phạt 40 tháng tù, kèm hai năm quản chế do “tuyên truyền chống nhà nước”.

Sau khi mãn hạn tù vào tháng 5 năm 2010, ông Truyển là một trong những cựu tù chính trị cung cấp hàng loạt thông tin về số phận của những người tù bị giam giữ vì lý do chính trị và tôn giáo tại trại giam Z30A ở huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Nhờ vậy, người ta mới biết số phận của một số quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị giam giữ cho đến khi chết, hoặc ở tù đến năm thứ 38 như ông Nguyễn Hữu Cầu.

Ông Truyển còn tham gia sáng lập và điều hành Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo, hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất cho các cựu tù chính trị, tôn giáo cũng như thân nhân của họ. Gần đây, ông Truyển bắt đầu tham gia nhiều hơn vào những hoạt động cho dân chủ, nhân quyền của những tổ chức dân sự khác và thường xuyên bị những kẻ lạ mặt mặc thường phục hành hung.

Vì ông Truyển liên tục bị truy bức, gần đây, gia đình ông Hoàng cho ông Truyển tá túc trong nhà của họ. Cũng vì vậy, tư gia của họ bị giám sát 24/24. Ngày 5 tháng 11-2014, những kẻ lạ mặt mặc thường phục bắt đầu hăm dọa, gây sức ép lên các thành viên trong gia đình ông Hoàng để họ ngưng “chứa chấp” ông Truyển.

“Côn đồ” tụ tập quanh cửa, ngăn cản mọi người ra vào, khi vợ ông Hoàng phản đối, côn đồ đã dùng dao dọa bà. Gia đình ông Hoàng gọi điện thoại báo cho công an phường nhưng công an phường từ chối can thiệp vì “bận họp”. Bởi có quốc tịch Pháp, vợ chồng ông Hoàng gọi điện thoại cho Lãnh sự quán Pháp tại Sài Gòn nhờ hỗ trợ.

Ông Emmanuel Ly – Battallan, Tổng Lãnh sự Pháp đến tận nơi, dùng máy ảnh chụp lại cảnh côn đồ vây tư gia của ông Hoàng, ngăn cản mọi người ra vào, đồng thới qua nhà đối diện chụp cả những kẻ giám sát từ xa. Côn đồ đã lôi ông Battallan vào nhà, kẹp cổ, khống chế để hăm dọa ông Battallan khoảng mười phút.

Trong thông báo cảnh báo về sự kiện vừa kể, ông Benjamin Ismail, người phụ trách khu vực châu Á –Thái Bình Dương của RSF, nhận định, những hành vi bạo lực như vậy là không thể chấp nhận được. RSF khẳng định, Công an Việt Nam có liên quan đến vụ này. RSF yêu cầu Việt Nam cần chấm dứt ngay lập tức việc quấy nhiễu, hăm dọa, dùng vũ lực đối với các blogger và thân nhân của họ. (G.Đ)

Hồng y Tauran: Hệ thống Cộng Sản không hoạt động hiệu quả nữa và nó sẽ phải sụp đổ

Hồng y Tauran: Hệ thống Cộng Sản không hoạt động hiệu quả nữa và nó sẽ phải sụp đổ

Chuacuuthe.com

VRNs (13.11.2014) – Sài Gòn –theo  zenit- Hồng y Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại liên tôn, vào ngày 9 tháng 11 vừa qua, nhân kỷ niệm 25 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ đã dành cho hãng tin Zenit một cuộc phỏng vấn.

Ngài chia sẻ ký ức về sự kiện đó như sau:

ZENIT: Ngài đã ở đâu và Ngài nhận tin sụp đổ của bức tường Berlin như thế nào?

Hồng y Tauran: Năm đó tôi làm thư ký dưới quyền của Quốc vụ khanh Tòa Thánh; Tôi đã ở vị trí đó từ năm 1988 đến năm 1990. Tôi đang nghỉ hè tại quê nhà ở Bordeaux. Tôi nhớ những gì Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng: mọi người đều biết hệ thống Cộng Sản không hoạt động hiệu quả nữa và nó sẽ phải sụp đổ; tuy nhiên, không ai nghĩ hoặc có thể dự đoán rằng nó sụp đổ quá nhanh mà không cần đổ máu. Khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đắc cử, tôi đã nói: “Cộng sản sẽ bị tiêu diệt”

ZENIT: Những ai ra lệnh ám sát Giáo hoàng Gioan Phao lô II chắc đã ước mong tránh được sự sụp đổ của chế độ Sô Viết.

Hồng y Tauran: Điều đó không biết được, mặc dù thông điệp rất rõ ràng: Ngài là vị Giáo hoàng gây ảnh hưởng với tốc độ lan đi nhanh chóng.

Tôi luôn nói rằng điều đó đã được chuẩn bị bởi 3 việc: 1. tiến trình Helsinki đã tạo ra một triết lý mới trong mối quan hệ; 2. với sự ra đời hiệp định Final Act năm 1975; 3. Tổng thống Gorbachew và Giáo hoàng Giao Phaolô II, hai nhân vật gây ảnh hưởng đã gặp gỡ nhau.

ZENIT: Còn chính sách Ostpolitik của Vatican thì sao?

Hồng y Tauran: Chính sách đó làm cho Giáo hội im lặng không dám lên tiếng nói. Mãi cho đến khi Giám mục Krakow đắc cử Giáo Hoàng, sự im lặng mới được khắc phục…

ZENIT: Làm sao GH Gioan Phaolô II biết được điều này?

Hồng y Tauran: Ngài biết được điều này nhờ phương tiện truyền thông; thêm nữa, lúc đó có các Giám mục lưu động, như giám mục Luigi Poggi, đặc biệt phụ trách trong mối quan hệ với Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Rumani và Bungari.

ZENIT: GH Gioan Phaolô II đã làm gì khi Ngài nhận được tin?

Hồng y tauran: Ngài chắc chắn đã cầu nguyện. Tôi cũng nhớ rằng khi chuyến viếng thăm của Gorbachew được thông báo, Gioan Phaolô II đã chuẩn bị cả tháng trước đó, hằng ngày Ngài đọc một trang Tin Mừng bằng tiếng Nga. Cuộc gặp mặt giữa hai người không cần thông dịch vì họ hiểu nhau; Ngài nói tiếng Ba Lan và Gorbachew nói tiếng Nga.

ZENIT: Bức Màn Sắt dạy chúng ta điều gì?

Hồng y Tauran: Rằng con người không thể chia rẽ lẫn nhau, chúng ta được tạo ra để sống cùng nhau trong tôn trọng con người và văn hóa của nhau.

ZENIT: Có phải cộng sản rất sợ Kitô hữu Phương tây hơn cả chúng ta sợ Hồi giáo cực đoan ngày nay không?

Hồng y tauran: Phải. Nhưng mỗi nỗi sợ hãi có nét riêng của nó. Nói về châu Âu, tất cả các quốc gia ở Đông Âu có một di sản chung: Thiên chúa giáo. Theo lẽ tự nhiên, một ngày nào đó những đất nước này sẽ chọn nguồn gốc chung của họ.

ZENIT: GH Gioan Phao lô II đã đến Ba Lan lần 2 trong thời gian luật thống chế. Ngài đã ảnh hưởng đến việc đó như thế nào?

Hồng y Tauran: Tôi không có mặt trong chuyến đi đó, nhưng tại Đông Đức, mọi thứ bắt đầu từ các nhà thờ Chính thống giáo, người ta đốt nến diễu hành đến bức tường Berlin yêu cầu tự do. Mọi thứ diễn ra quá nhanh mà không cần đổ máu; hệ thống bị bỏ trống từ bên trong. Và sau đó vào năm 1987 hoặc 1988, khi tôi đang ở Vienna thương thuyết một hội nghị hợp tác, đó là vào tháng 5, trang Sự Thật phỏng vấn vị trưởng Giáo hội chính thống Pimen cùng với hình của ông, với niềm tin, là Kitô hữu gốc Nga, vì thế có gì đó đang chuyển động.

ZENIT: Dân tộc phương Đông cảm nhận Giáo Hoàng Balan như thế nào?

Hồng y tauran: Họ có cảm giác an tâm. Họ biết rằng, Ngài biết Giáo hội từ bên trong; Ngài không phải nhà ngoại giao mà là người lãnh đạo tôn giáo. Họ biết rằng Ngài đại diện cho tiếng nói của tất cả mọi người. Giáo hội không còn im lặng nữa.

ZENIT: Giá trị đạo đức của câu chuyện này là gì?

Hồng y Tauran: Cuối cùng, Sự thật luôn luôn chiến thắng.

Pv. VRNs

Bốn chữ ‘không’ tồi tệ trong giao thông ở Việt Nam

Bốn chữ ‘không’ tồi tệ trong giao thông ở Việt Nam

Nguoi-viet.com

TỔNG HỢP (NV) – Giao thông ở Việt Nam ngày càng tồi tệ không chỉ do nhà cầm quyền tham nhũng, yếu kém, mà còn do văn hóa giao thông “4 không” mất căn bản của người dân…

Phân luồng như thế này không kẹt xe mới là chuyện lạ. (Hình: Tuổi Trẻ)

Với tinh thần “Tưởng nhớ người đi – vì người ở lại,” ngày 9 tháng 11, hàng ngàn người đến dự đại lễ cầu siêu tưởng niệm những người chết bởi tai nạn giao thông được tổ chức tại Sài Gòn.

Đây là đại lễ bày tỏ niềm thương xót những người không may thiệt mạng, đồng thời chia sẻ đau thương, mất mát với những gia đình nạn nhân.

Chuyện giao thông ở các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay càng nói, càng bàn, càng rối càng không hiểu nổi.

Gạt bỏ những thứ chung chung, cứ nói đến giao thông là nói đến văn hóa giao thông. Mà văn hóa giao thông cụ thể là gỉ?

Với người dân, chuyện về văn hóa giao thông là 4 chữ “không”: không sợ; không nhường; không xếp hàng và không biết ngại.

“Không sợ” là vấn đề nhận thức. Không sợ nên chạy xe bạt mạng, lạng lách, băng qua đầu xe, quay đầu đột ngột, sang đường bất chợt, uống rượu lái xe…

“Không nhường” là vấn đề thái độ ứng xử. Đường của chung, mạnh ai nấy cứ lấn tới, thấy chỗ nào trống cũng cố dí đầu xe vào dù chỉ để hơn nửa bánh xe, rồi đè đầu xe người khác mà chạy, bất kể lịch sự, bất chấp văn minh.

Không nhường kết hợp với cái “không sợ,” thế là sẵn sàng dí đầu xe gắn máy của mình vào ngay trước đầu xe hơi.

“Không xếp hàng” là vấn đề về hành vi. Việc này diễn ra từ nhà ra phố nên người Việt khi ra đường sẵn sàng tìm cách lấn làn, chèn đầu xe người khác khi chờ đèn đỏ đã trở nên phổ biến. Xe sau chèn xe trước, kiểu cài thế răng lược ở các nút giao thông và rồi kẹt xe. Đường hẹp cũng kẹt mà đường rộng cũng thông.

“Không biết ngại” là vấn đề đạo đức. Trời mưa cứ lao xe vào vũng nước với tốc độ cao, nước bẩn văng tung tóe, ai trúng ráng chịu. Chèn đầu xe lấn làn gây kẹt cho cả đám người, ai nhắc thì quay ra sửng cồ, to tiếng. Đường là của thiên hạ, nên cứ thế mà tạt nước, mà vứt rác… Hành vi sai đã đáng phê, biểu hiện đạo đức còn đáng trách hơn nhiều.

Còn với nhà cầm quyền thì sao? Cũng là chuyện về 4 chữ “không”: không khoa học; không nhất quán; không nghiêm và không đàng hoàng.

“Không khoa học” thì đã rõ, chỉ cần xem cách bố trí đèn giao thông ở Việt Nam cũng đủ biết. Đèn xanh, hai dòng xe ngược chiều cùng xông tới, các làn xe rẽ trái, rẽ phải, đi thẳng cùng nhận lệnh xung phong. Xe nọ đè đầu xe kia, cài qua cài lại đến hết lượt đèn chỉ đi được vài chiếc.

Trong tình cảnh đó, người tham gia giao thông sẵn sàng chơi trò liều mạng không sợ hoặc láu cá bằng mọi cách để qua được nút đèn nhanh nhất. Thế là đè đầu xe người khác để vượt đèn, rồi thì người này chạy xe đàng hoàng nhưng bị kẻ chạy xe ít đàng hoàng hơn chửi…

“Không nhất quán” lại càng rõ. Mỗi chuyện đèn đỏ quẹo phải mà chỗ được phép, chỗ không; lúc được phép lúc không; giờ cao điểm được giờ bình thường thì không. Vậy nên dân tình đi xe quen chơi trò hên xui, còn lực lượng làm nhiệm vụ thì tùy cơ hội thuận tiện mà thổi còi “làm luật.”

“Không nghiêm” là vì muốn nghiêm cũng không nghiêm nổi. Lúc cao điểm là lúc cần người dân tuân thủ luật lệ nhất, thì lại là lúc gần như người dân được phép lấn làn xe, rướn đèn, chạy ngược chiều…vì cảnh sát giao thông kẹt nhiệm vụ điều khiển, không thể phạt nổi. Thậm chí, có trường hợp người đi đường còn chủ động chỉ cho người chạy xe đi trái luật.

“Không đàng hoàng” là chuyện đạo đức của những người thực thi công vụ. Núp và canh bắt những lỗi sơ suất không đáng của người đi đường để làm luật, trong khi những lỗi nghiêm trọng thì lại hầu như không bắt được. (Tr.N)

Một Ngày Không Thể Quên truyện Phương Lan PPS Vi Sơn

Một Ngày Không Thể Quên truyện Phương Lan PPS Vi Sơn

httpv://www.youtube.com/watch?v=HrJOa4Pk3j4

Một Ngày Không Thể Quên

Hôm nay là ngày quyết định sẽ đưa mẹ vào Viện dưỡng lão.
Cả đêm qua thao thức không ngủ được, Phượng trằn trọc xuốt đêm, nghĩ ngợi lan man hết chuyện này sang chuyện khác, lòng rối như tơ vò. Gần sáng nàng mới mệt mỏi thiếp đi, nhưng vừa chợp mắt được một lát, Phượng bỗng choàng tỉnh dậy vì một mùi khét từ nhà bếp xông lên làm nàng tỉnh hẳn ngủ. “ Thôi chết rồi, mẹ lại quên tắt bếp ” Phượng nói thầm như vậy, rồi không kịp xỏ dép, nàng hốt hoảng chạy thật nhanh xuống nhà dưới. Căn bếp mù những khói, hơi khét từ cái nồi đang nấu trên bếp bay tỏa khắp căn phòng, lửa xanh vẫn liếm quanh đáy nồi. Phượng vội vàng tắt bếp gas, bê cái nồi đặt qua một bên, rồi mở tất cả các cửa cho khói bay ra, may quá, nàng xuống kịp, nếu không cả nhà lại bị một phen hoảng vía.
Từ khi mẹ bị bệnh lú lẫn, Phượng phải khoá ống gas mỗi khi đi làm, nhưng hôm nay nàng ở nhà nên không khóa, vì có dè đâu bà cụ lò mò xuống bếp sớm thế. Phượng đứng im, định thần một lúc cho tim bớt đập, rồi mới chậm rãi bước ra cửa sau.
Nàng gặp mẹ từ ngoài vườn đi vào, tay cầm một nắm lá gì dài dài, xanh xanh. Thấy con gái, bà Trình mỉm cười vui vẻ:
Sáng bảnh mắt rồi, giờ này mới ngủ dậy à? May cho cô, tôi là má ruột, nếu là má chồng, thể nào cô cũng bị rầy.
Phượng nhìn lên bầu trời trắng đục, vừng đông chưa ló dạng, bóng đêm còn lảng vảng, cô khoan khoái hít một hơi thật sâu làn không khí mát mẻ của buổi ban mai, rồi quay sang mẹ, hỏi:
Má ra vườn chi sớm thế?
Má ra hái ít hành ngò để bỏ vô nồi cháo…
Vừa nói bà vừa đưa nắm lá lên khoe, Phượng suýt bật cười, nhận ra đó chỉ là một nhúm cỏ, nàng thở ra một hơi dài:
Má lại quên tắt bếp, mà má định nấu món gì vậy?
Má nấu cháo gà. Lâu lâu cũng nên đổi món, sáng nào cũng ăn bánh mì hoài, khô khan quá.
Phượng nhìn vô trong nồi, chỉ thấy lổn nhổn một ít gạo sống, và hai con gà bằng nhựa, đồ chơi của mấy đứa nhỏ, mẹ nàng đã bỏ tất cả vô một cái nồi với một chút nước, và bật bếp… Bây giờ tất cả đều cháy thành than, nhưng còn nhận diện ra được, Phượng nhăn mặt:
Sao má để lửa lớn thế?
Má muốn nấu cho lẹ để ba ăn xong còn kịp đi làm. Thôi, con lên lầu đánh thức ổng đi, má ở dưới đây pha cho ba ly cà phê.
Thấy Phượng vẫn đứng im, bà dục:
Sao không đi đi, còn đứng đó? trễ giờ rồi.
Phượng đau xót nhìn mẹ:
Má, nhớ lại đi! ba đi xa rồi mà, ba đâu có nhà?
Thiệt à? ba đi xa thiệt à?
Bà nhớ hôm đó không biết là ngày gì mà nhà bà đông người lắm, khách khứa ra vô tấp nập, đủ mặt bà con họ hàng và cả những người bạn bè. Gia đình hai đứa con trai lớn của bà từ hai tiểu bang khác cũng về họp mặt đông đủ. Lũ cháu nội, con của Sơn, Hải hiệp cùng hai đứa cháu ngoại con của vợ chồng Phượng thành một đám giặc, rượt đuổi nhau lung tung khắp nhà, làm bà chóng cả mặt. Nhưng bố mẹ chúng trái lại, rất khẽ khàng, họ chỉ thì thầm bàn tán, người nào cũng có vẻ mặt quan trọng, người nào cũng mặc quần áo trắng lùng thùng, trông chẳng ra làm sao. Phượng cũng đưa cho bà một bộ quần áo trắng bằng vải sô, và biểu bà mặc vô. Bà hỏi chi vậy? nó nói mặc áo vô để đi tiễn ba. A! bà hiểu rồi, đây là lúc tiễn ông lên đường, vì ông sắp phải đi xa…
Bà nhớ mấy hôm trước, bệnh ông có mòi thuyên giảm, không thấy ông rên rỉ, những cơn đau hình như cũng rút lui, không còn hành hạ ông như mọi ngày. Bà ngồi bên giường, canh cho ông ngủ. Ông nằm im lìm, mắt nhắm nghiền, một cái mền mỏng đắp lên tới ngực, che thân hình ốm nhom chỉ còn da bọc xương thấy tội quá, căn bệnh ung thư quái ác đã lấy đi của ông hết da thịt. Ông ngủ không yên, lúc tỉnh, lúc mơ, thỉnh thoảng lại ú ớ… Nhưng đến trưa, thì ông hoàn toàn tỉnh táo, ông cầm tay bà dặn dò:
Tôi sắp phải đi xa, bà đừng khóc nhé? Hãy can đảm lên…
Ông còn nói nhiều nữa, nhưng bà nghe tiếng được, tiếng mất, vì ông nói không rõ, ông chỉ thều thào… Bà tưởng ông nói sảng, chứ đang đau mà đi đâu? vợ chồng chưa bao giờ xa nhau, lần nào đi xa, ông cũng cùng đi với bà, chẳng lẽ cuộc hành trình lần này, ông lại đơn độc một mình? Bà khuyên ông nằm nghỉ, không nên nói nhiều, ông nhìn bà lờ đờ, rồi ông thở ra một hơi dài, nhắm mắt lại. Sau bà, đến lượt các con xúm quanh giường nghe ông dặn dò, đứa nào mắt cũng đỏ hoe. Rồi ông thôi không nói nữa, ông nằm im, từ từ chìm sâu vào giấc ngủ, giấc ngủ cuối cùng của đời người, mắt ông khép kín, nét mặt thanh thản không chút ưu phiền. Các con lặng lẽ rút kui, để mẹ riêng tư với cha. Bà nghĩ chắc ông mệt nên ngủ say lắm, không thấy ông trở mình. Bà sờ thử, thấy tay chân ông lạnh ngắt, bà vội vàng lấy thêm mền đắp cho ông, trời mùa đông rét mướt, những người già thật khổ, nhất là ông lại đang bệnh…
Bà chờ ông tỉnh dậy, để nghe ông xác nhận rằng ông chỉ nói chơi thôi, nhưng ông cứ ngủ hoài. Bà rón rén, không dám cử động mạnh, sợ phá giấc ngủ của chồng, chả mấy khi ông ngủ được yên giấc. Bà muốn ngồi đây hoài, không muốn rời ông, để khi ông tỉnh, trông thấy bà, ông yên tâm. Tội nghiệp, từ dạo đau nặng, ông đổi tánh giống như con nít, hay hốt hoảng, sợ hãi, hơi một tí là giận hờn… Bà ngồi bên ông không biết bao lâu, cho tới khi một đứa con kéo bà đứng lên, nói:
Má ơi! gần tối rồi, má phải đi ăn, từ sáng tới giờ má chưa ăn gì cả.
Bà đâu có thiết ăn? bữa cơm không có ông mới buồn làm sao, bà nói:
Tụi bay và mấy đứa nhỏ cứ ăn trước đi, đừng để phần cho má. Má không thấy đói, má muốn ngồi đây với ba thêm một lúc nữa.
Nhưng chúng nó cương quyết kéo bà ra khỏi phòng, nói ba mệt để cho ba nghỉ. Thằng Sơn còn kéo cái mền phủ kín cả mặt ba nó, cái thằng thiệt vô ý, vô tứ quá, trùm kín thế làm sao ông thở được?
Trời ơi! có bỏ ra không? ba bây ngộp mất thôi.
Bà la lên phản đối, bắt Sơn phải kéo cái mền xuống như cũ, bà mới chịu ra khỏi phòng. Từ lúc đó, tụi nó thay phiên nhau canh gác, không cho bà vô với ông nữa, nói đã có tụi con…
Bà vẫn không tin rằng ông sẽ đi xa, vậy mà ông đi thiệt mới lạ chứ? sự thật mà cứ ngỡ như trong một giấc mơ. Cuộc tiễn đưa khá long trọng, có cả kèn trống. Bà và các con mặc áo trắng tiễn ông đi. Trời mưa sụt sùi, các con đi cạnh bà cũng sụt sùi, bà không bằng lòng, gắt:
Ba không bao giờ bỏ má đâu, ổng đi rồi ổng lại về, tụi bây khóc lóc chi vậy? để ba bây nóng ruột.
Bà kiên nhẫn đợi ông về, chỗ ngồi của ông trên bàn ăn, bữa nào bà cũng bầy chén, đũa, để ông nhớ rằng ông vẫn còn chỗ trong gia đình này. Nhưng sao ông đi đâu mà lâu quá? Bà ngậm ngùi nói với con gái:
Dạo ba con ở nhà, sáng nào ba cũng chở thằng Thái đi học, còn má ở nhà coi con Uyên…
Rồi sực nhớ ra điều gì, bà hối:
Con lên coi tụi nhỏ dậy chưa? bồng con Uyên xuống đây cho má thay tã.
Phượng nhìn mẹ thương xót, Uyên đã chín tuổi rồi, mà sáng nào bà cũng đòi bồng đi thay tã, trí nhớ của bà dừng lại ở ngày ông vĩnh viễn ra đi. Phượng ôm vai mẹ đi vô trong nhà, nàng bật TV lên rồi nói:
Chắc cháu Uyên còn ngủ. Má ngồi đây coi chương trình truyền hình Việt Nam, đừng xuống bếp nữa nghe má? để con lên lầu coi tụi nhỏ ra sao.
Bà Trình gật đầu, vơ lấy cuộn len và cái áo đan dở lên ngắm nghía:
Được, con đi đi! má vừa coi TV vừa đan nốt cái áo cho ba. Mùa đông sắp tới rồi, ba cần có áo ấm, mấy cái kia cũ cả rồi.
Tánh bà tham công tiếc việc, chẳng muốn ở không, bà coi việc chăm lo miếng ngon, áo ấm cho chồng, cho con, cháu là bổn phận và cũng là một thú vui của bà. Ông mất đã tám năm, mà ngày nào bà cũng đan áo cho ông, đan gần xong, rồi lại tháo ra đan lại, như vậy cả mấy chục lần.
Phượng lên lầu, vào buồng mẹ, kiểm soát lại một lần chót cái va li lát nữa sẽ đem theo. Va li đựng toàn quần áo và những vật dụng cá nhân của bà Trình. Khi biết chắc không còn quên món gì, Phượng đóng nắp lại, ngồi thừ người rất lâu. Lúc soạn cái va li này, nàng đã không cầm được nước mắt, mỗi món đồ của mẹ đều gợi lại những kỷ niệm. Nhìn chiếc ghế đu mẹ thường ngồi, Phượng tưởng như được nghe tiếng ru của mẹ. Trên cái ghế ấy, bà đã ru cháu, lúc còn bé thơ, Thái và Uyên không chịu ngủ nếu không có tiếng ru của bà. Ngày xưa, cũng những tiếng ru “ ầu ơ, ví dầu ” đó đã đưa Phượng vào giấc ngủ êm đềm, bây giờ thì đến các cháu… Những buổi sáng tinh mơ, khi các con cháu còn nằm trong chăn ấm, bà đã thức dậy, lui cui nấu nướng, lo bữa sáng ngon lành cho cả nhà. Những buổi tối mùa đông rét mướt, bà thức rất khuya, ngồi bên lò sưởi đan áo ấm. Những khi trái nắng, trở trời, bà không quản ngại thức suốt đêm, trông chừng, dỗ cho cháu ngủ yên giấc… Bà đã nuôi con, nuôi cháu lớn lên bằng tất cả tình thương của bà. Tình mẹ bao la như một dòng sông, nước chảy miên man, vô tận. Qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, mẹ lúc nào cũng sát cánh bên đàn con, tận tụy hy sinh, bảo vệ, che chở, giúp đỡ… Gia đình lúc nào cũng đầm ấm, yên vui, mọi người quây quần đông đủ dưới một mái nhà. Thế mà lúc cuối đời, mẹ lại phải đơn độc một mình. Ôi chặng đường cuối cùng bao giờ cũng là một chặng đường buồn thảm.
Phượng hiểu nỗi cô đơn của mẹ trong những ngày sắp tới, nàng thấy lòng xót xa, nhưng chẳng còn cách nào khác. Ý định đưa mẹ vô viện dưỡng lão thật ra đã manh nha có từ lâu, kể từ khi bà Trình có triệu chứng lú lẫn và có những hành động có thể gây nguy hiểm. Nhưng Phượng còn nấn ná chưa chịu thi hành, tại thương mẹ nên không nỡ. Cho tới mấy tháng gần đây, tình trạng trở nên tồi tệ, khi bà Trình hay mặc quần áo ngủ đi lang thang ra phố một mình và không biết đường về, hàng xóm phải đi tìm dùm. Một lần, bà suýt bị đụng xe lúc băng qua đường, may người tài xế thắng xe lại kịp, bà chỉ bị trầy trụa sơ sài. Bà mỉm cười ngu ngơ lúc được cảnh sát đưa về, mọi người hỏi bà đi đâu? bà nói bà đi đón ông. Tội nghiệp, ngày nào bà cũng đi đón ông, nhiều lần bà thức dậy từ hai, ba giờ sáng, vô phòng đánh thức mấy đứa cháu, biểu sửa soạn đi đón ông ngoại. Từ đó, sợ các con mất ngủ, mỗi buổi tối, sau khi đưa mẹ vô phòng riêng, Phượng phải khoá cửa lại. Có đêm nàng nghe tiếng đập cửa thình thình, mẹ đòi mở cửa cho bà đi chợ…
Bà Trình thích nấu nướng lắm, phải công nhận ngày trước, bà nấu ăn rất ngon, nhưng từ dạo bị mất trí nhớ, bà chẳng bao giờ tắt bếp. Mấy lần, bà suýt làm cháy nhà vì cái tật hay quên đó, vì vậy, trước khi đi làm, Phượng đã phải tắt ống gas và khoá cửa, sợ mẹ ra ngoài rồi gặp nạn. Như vẫn chưa yên tâm, nàng khoá cả ống dẫn nước vì mẹ hay mở vòi nước mà không tắt, làm nước chảy lênh láng khắp nhà, ướt cả thảm, may sao bà chưa trợt chân té ngã. Phượng đi làm mà trong bụng cứ phập phồng, không yên…
Tình trạng này không thể kéo dài, không thể để bà cụ ở nhà một mình được nũa. Một cuộc họp gia đình đã diễn ra giữa Phượng và hai người em trai ở tiểu bang khác. Vì sinh kế, không ai có thể bỏ việc để ở nhà săn sóc mẹ, nên tất cả đều đi đến quyết định là phải cho mẹ vào nhà dưỡng lão, nơi đó bà cụ sẽ được chăm sóc tử tế. Phượng đã đi thăm dò nhiều nơi, sau cùng nàng chọn cho mẹ một nhà dưỡng lão có người Việt Nam để mẹ đỡ cô đơn. Cuộc hẹn đưa mẹ vô viện sẽ là 11 giờ sáng nay.
Phượng vô phòng đánh thức hai đứa con để chúng ăn sáng và sửa soạn đi học, xong nàng bước vô phòng ngủ của hai vợ chồng. Dũng đã thức và đang cạo râu, chàng nhìn vợ qua gương và hỏi:
Nãy giờ em ở dưới nhà à?
Phượng gật đầu, kể cho chồng nghe về nồi cháo, và nói má đòi thay tã cho con Uyên, khiến Dũng bật lên cười. Thường ngày Phượng không bao giờ cảm thấy khó chịu vì những tiếng cười vô tư của chồng khi chứng kiến những hành động ngây ngô, nhiều khi rất con nít của mẹ, nàng biết chồng không có ý châm biếm, chàng cười chỉ vì buồn cười mà thôi. Dũng mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, chàng thiếu tình mẫu tử nên rất quí mẹ vợ. Phượng cho là mình may mắn và vẫn thầm cám ơn chồng, nhưng không hiểu sao hôm nay Phượng lại thấy bực mình vì tiếng cười vô tư của chồng mà nàng thấy là không đúng lúc, Phượng có cảm tưởng như chàng là người ngoại cuộc, nàng cau mày trách:
Anh có im đi không? em đang rối ruột đây!
Dũng ngạc nhiên ngó vợ, nhưng rồi chợt nhớ ra hôm nay là ngày gì, chàng lập tức ngưng ngay tiếng cười vô ý thức của mình. Im lặng một lúc, chàng mới nói, giọng băn khoăn:
Hôm nay anh không thể nghỉ làm để đưa má đi được.
Không sao, tự em sẽ đưa má đi, như vậy tốt hơn. Anh đưa hai đứa nhỏ tới trường và đón về dùm em, vì không biết em sẽ phải ở lại với má bao lâu…
Được, được, em cứ thong thả lo cho má. Xong việc, nhớ điện thoại vào sở ngay cho anh, cho biết tình hình ra sao.
Phượng đứng trên đầu cầu thang, nhìn hai đứa nhỏ ôm hôn bà ngoại trước khi đi học, có cảm tưởng như đó là những cái hôn vĩnh biệt, lòng nàng đau như dao cắt.
Đợi cho chồng và hai con đã ra khỏi nhà, Phượng mới xuống bếp sửa soạn bữa ăn sáng cho mẹ. Ý nghĩ đây là bữa ăn cuối cùng của mẹ ở nhà, khiến Phượng thấy tim se lại, nàng nhớ tới một đoạn phim được xem đã lâu, nói về bữa ăn cuối cùng của người tử tội, nàng bỗng thấy lòng rưng rưng. Phượng tự nhủ thôi đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa, cứ để việc gì phải tới, sẽ tới. Vừa làm nàng vừa hát nho nhỏ, cố tìm hiểu ý nghĩa của lời ca, nhưng không thể. Dọn bàn xong, nàng mời mẹ ra ăn. Bà Trình nhìn mặt bàn ê hề những thức ăn, hỏi con:
Sao con làm nhiều đồ ăn thế?
Phượng nhìn đi chỗ khác, nói:
Má ăn đi, thay cho bữa trưa luôn thể.
Con cũng cùng ăn với má chứ?
Phượng gật đầu, nàng ngồi vào bàn, nhưng không tài nào nuốt được. Nhìn mẹ ăn ngon lành, nàng có mặc cảm phạm tội vì đang đánh lừa mẹ. Đợi bà ăn xong bữa, Phượng ngập ngừng mãi mới mở miệng nói dối:
Má có muốn đi phố một lúc không? vô phòng thay đồ đi, con chở má đi chơi.
Đi chơi thiệt sao? thích quá.
Mắt bà mẹ sáng lên với vẻ vui mừng, được đi ra ngoài, bà sung suớng lắm. Thường ngày cứ bị nhốt ở nhà, bà thấy bực bội, năm thì mười hoạ mới được con chở đi chơi, những dịp ấy đối với bà vui như một ngày hội. Thấy Phượng xách theo va li, bà hỏi:
Đi du lịch à?
Vừa nói bà vừa nhìn quanh khắp căn nhà như để kiểm soát một lần cuối cùng, theo thói quen trước khi đi xa. Không hiểu sao Phượng có cảm tưởng những tia nhìn của mẹ có vẻ lưu luyến rất tội nghiệp, chắc bà có linh cảm sẽ không được trở về đây nữa? Không muốn kéo dài giây phút đau lòng, nàng vội vã đưa mẹ ra xe. Phượng ngồi vào tay lái, tâm trạng bất an nên Phượng lái xe mà đầu óc để tận đâu đâu, mấy lần bị xe khác bấm còi inh ỏi. Bà mẹ bất chợt lên tiếng:
Dũng lái xe giỏi hơn con, sao không để cho nó lái?
Rồi như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi giọng lo lắng:
Đi du lịch mà sao không có Dũng và hai đứa nhỏ?
Phượng ậm ừ, tránh không trả lời, nàng cho xe ra khỏi xa lộ và tìm hướng vào thành phố. Viện dưỡng lão kia rồi, từ xa đã thấy một toà nhà đồ sộ sơn màu vàng nhạt, trông như một cái bệnh viện. Khi quẹo xe vô cổng, Phượng nhìn đồng hồ, 11 giờ 15, trễ mất mười lăm phút. Nàng hoảng lên, trời! làm thế nào nếu họ không tiếp và cho một cái hẹn khác? chắc nàng không có can đảm…
Đậu xe xong, Phượng kéo mẹ đi như chạy tới phòng hướng dẫn, nơi đó người ta chỉ cho nàng phải đi lối nào. Viện dưỡng lão có ba dãy nhà bao quanh một khu vườn rộng có trồng hoa, và nhiều cây lớn cho bóng mát. Nơi đây có nhiều cụ già chống gậy đi thơ thẩn một mình, hoặc túm năm tụm ba ngồi trò chuyện trên những băng đá, đó là các cụ tương đối còn mạnh khoẻ. Cũng có những cụ già ngồi trên xe lăn, đang được những người khán hộ đẩy đi quanh vườn để sưởi nắng. Khi hai mẹ con sắp bước tới cái cửa tự động để vô tòa buyn đinh chính giữa, bà mẹ bỗng chùn lại không chịu đi nữa, bà hỏi với một giọng lo lắng:
Đây là đâu? trông không có giống khách sạn tí nào. Má không muốn vô, con đưa má về đi, má không muốn đi du lịch nữa.
Phượng dỗ:
Vô một chút thôi má, vô làm giấy tờ xong rồi về.
Tới phòng nhận bệnh, Phượng trình giấy tờ và được mời vào, cửa được đóng lại ngay sau lưng. Bà y tá người da trắng, trông có vẻ hiền lành tử tế, mời hai mẹ con ngồi, rồi tự giới thiệu:
Tôi là Ingrid, y tá trưởng ở đây. Còn đây là…
Phượng vội đỡ lời:
Bà Nguyễn Thị Trình, mẹ tôi. Xin lỗi cô Ingrid, mẹ tôi không nói được tiếng Anh…
Không sao cả, ở đây có bốn y tá là người Việt và cũng có một số bệnh nhân là Việt Nam, mẹ cô sẽ không cô đơn đâu.
Được vậy tôi rất mừng.
Sau khi chờ cho Phượng điền một lô những giấy tờ liên quan đến bảo hiểm y tế, tên tuổi, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật và những thuốc men mẹ nàng đang dùng, cô Ingrid cầm xem sơ qua một lượt rồi nói:
Sáng mai chúng tôi sẽ đưa bà cụ đi khám bác sĩ để lập hồ sơ bệnh lý. Bây giờ tôi cho người đưa bà cụ đi nhận phòng.
Cô Ingrid bấm chuông, và một người tá mới xuất hiện, Phượng gật đầu chào và hỏi:
Tôi đi theo được chứ?
Dĩ nhiên! mời hai người theo tôi.
Cô y tá đi trước dẫn đường, hai mẹ con lúp xúp theo sau, bà mẹ đi sát vào con gái như tìm sự che chở, bà chỉ yên tâm khi có con ở bên cạnh. Họ đi thang máy lên lầu hai, tới trước căn phòng sơn màu xanh, có đề bảng số 204 B, cô y tá dừng lại, gõ nhẹ vào cửa hai tiếng, rồi mở toang cửa phòng:
Đây là phòng của mẹ cô, ở chung với một bà cụ cũng người Việt Nam.
Rồi cô quay đi, sau khi chỉ cho Phượng chỗ để quần áo, cô ghé sát vào tận tai nàng thì thầm:
Hai mẹ con từ giã nhau đi nhé, lát nữa tôi sẽ quay lại.
Phượng thấy tim nhói lên một cái, nàng đưa mắt nhìn mẹ, bà Trình đang nhìn theo cô y tá với một vẻ sợ sệt. Đợi cô ta đi khỏi, Phượng mới đưa mắt quan sát, căn phòng tương đối sáng sủa, tường sơn màu xanh dịu mắt, có một cái cửa sổ trông xuống vườn hoa. Ngoài một cái TV ở chính giữa, treo ở trên cao, và một cái bàn hình vuông có bốn cái ghế kê ở cuối phòng – chắc dùng làm chỗ tiếp khách – những đồ đạc còn lại, thứ nào cũng có hai cái: hai tủ đựng quần áo, hai bàn đêm và hai cái giường, một cái để trống dành cho mẹ nàng, và trên cái giường kia có một bà cụ đang nằm xây mặt vào tường. Thấy có tiếng động, bà ta quay lại, nở một nụ cười méo mó:
Người mới hả? ở đây tụi tui kêu là… con so. Tui tên Năm, ở đây trên ba năm rồi. Không sao đâu bà cụ! vô đây làm bạn với tui cho vui, nằm một mình buồn lắm. Cái giường kia bỏ trống cả tháng nay, người nằm đó chết rồi, chết vì chứng ung thư máu…
Bà Trình rùng mình, kéo tay con gái:
Ở đây toàn người bịnh, sợ quá, má muốn về nhà. Đi về lẹ lên đi con! mình ở đây khá lâu rồi đó, đã tới giờ con đi rước mấy đứa nhỏ, còn má phải sửa soạn bữa cơm chiều…
Phượng thở dài, lòng cô chùng xuống, tội nghiệp mẹ luôn luôn nhớ bữa cơm chiều… Đối với bà, bữa cơm chiều là quan trọng nhất, vì là giờ phút xum họp của tất cả mọi người trong gia đình trở về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc. Bằng tất cả thương yêu, trìu mến, mẹ chăm sóc miếng ngon cho cả nhà, hạnh phúc của mẹ là được nhìn thấy các con cháu sung sướng. Nếu mẹ biết sẽ chẳng bao giờ còn có những bữa cơm gia đình, sẽ chẳng bao giờ mẹ còn được tựa cửa ngóng trông con, cháu trở về? Phượng thấy lòng bất nhẫn quá, nhưng nàng biết sẽ phải cuơng quyết, nếu không, sẽ không còn cơ hội nào nữa. Tim đập nhanh trong lồng ngực, Phượng dìu mẹ ngồi xuống giường…
Đây là giây phút quan trọng nhất, Phượng ngập ngừng mãi, không biết phải mở đầu như thế nào. Sau cùng, nàng hít vô một hơi thật sâu để lấy thêm can đảm, rồi bằng tất cả cố gắng, nàng nắm lấy tay mẹ, giọng run run:
Má nghe con nói! Đây là phòng của má, má hãy ở đây đêm nay, ngày mai con và Dũng sẽ đưa mấy đứa nhỏ vô thăm má…
Ồ không… con ơi! Mẹ nàng kêu lên thảng thốt, vùng ôm chặt lấy con gái như sợ cô chạy mất, má không muốn ở đây, má chỉ thích cái phòng riêng của má, cái giường của má. Má nhớ hai đứa nhỏ, nhớ cái bàn thờ có hình của ba con…
Phượng ứa nước mắt, nàng cũng ôm mẹ thật chặt:
Má hiểu cho con, con cũng đâu có muốn xa má. Nhưng tình thế bắt buộc, má cần người săn sóc, mà con thì không thể… Má ở đây con yên tâm hơn, vì luôn luôn có các bác sĩ, y tá thường trực ngày đêm, chăm lo sức khoẻ cho tất cả mọi người.
Bà mẹ vừa khóc vừa nói:
Má không cần bác sĩ, má chỉ cần các con cháu. Giọng bà bỗng dưng tỉnh táo một cách lạ lùng, má biết dạo này má già cả, lẫn cẫn, không còn giúp ích gì cho mọi người, má vô dụng rồi. Chắc con giận má hay sơ ý, mấy lần suýt làm cháy nhà? Má cũng ân hận lắm, hãy cho má thêm một cơ hội nữa, má hứa sẽ không gây phiền phức cho con nữa đâu. Má hứa sẽ nhớ tắt bếp, má cũng sẽ không đi lang thang ra đường một mình, má sẽ ở nhà suốt ngày đợi con, cháu về…
Tới đây thì Phượng không thể chịu đựng nổi nữa, nàng cũng bật khóc lên thành tiếng, nước mắt chảy ròng ròng:
Ồ không phải vậy đâu má, nhưng mà…
Phượng nghẹn ngào, không biết sẽ phải tiếp tục ra sao, hai mẹ con ôm nhau, cùng nức nở… Bỗng cánh cửa bật mở, cô y tá hồi nãy trở lại, thấy cảnh đó thì thở dài, làm việc ở đây đã lâu, những cảnh này đối với cô quen thuộc quá, nhưng mỗi khi phải chứng kiến, lòng cô không khỏi se lại. Chờ cho hai mẹ con bịn rịn thêm một lúc nữa, cô mới nhẹ nhàng an ủi:
Mới đầu thì ai cũng vậy, nhưng chỉ dăm bữa, nửa tháng nữa thôi, mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy cả.
Rồi cô quay qua, nói riêng với Phượng:
Sáng mai sẽ có y tá người Việt Nam, hy vọng bà cụ sẽ thấy thoải mái. Cô yên tâm, chúng tôi sẽ săn sóc mẹ cô tử tế. Bây giờ cô nên về đi, như thế sẽ dễ cho chúng tôi hơn.
Bà cụ nằm giường bên bỗng lên tiếng:
Dùng dằng mãi cũng chỉ đến thế, chẳng ích gì. Cô cứ về đi, không sao đâu, tôi sẽ an ủi mẹ cô dùm cho.
Vâng cháu xin nhờ cụ.
Bà mẹ nghe thấy thế, thì vội vàng níu chặt lấy áo con gái. Phượng nhẹ nhàng gỡ tay mẹ ra, dỗ dành:
Má thấy chưa? bác Năm tốt lắm, các cô y tá cũng vậy, ở đây ai cũng chỉ muốn giúp đỡ má thôi mà. Má yên tâm đi, chẳng việc gì phải sợ hãi cả. Bây giờ con phải về đón mấy đứa nhỏ nghen má.
Thế con có trở lại không?
Có chứ, nếu má đừng gây lộn xộn, chiều mai con sẽ đưa các cháu vô thăm má.
Phượng dịu dàng đặt một cái hôn lên trán mẹ, nàng ôm xiết mẹ một lúc rồi buông ra:
Má! con phải đi, mai con sẽ trở lại.
Con sẽ không bỏ má ở lại đây một mình chứ?
Con sẽ vô thăm má thường xuyên mà. Phượng nói với mẹ mà như một lời nhắc nhở với chính mình, con hứa mỗi cuối tuần sẽ đến đón má về. Thôi bây giờ má đi nghỉ đi, con phải về lo cho các cháu.
Nói xong, Phượng đứng dậy, cô y tá lẹ làng đứng chen vào giữa hai mẹ con, và đẩy nhẹ lưng Phượng:
Cô đi ngay đi, lẹ lên!
Cô ta nắm lấy cánh tay bà mẹ, nhưng bà dằng ra, run rẩy chạy theo con ra cửa:
Con ơi! đừng bỏ má, van con đừng bỏ má!
Phượng ngập ngừng, quay lại, nhưng cánh cửa đã được khép lại sau lưng nàng, như một bức tường ngăn cách giữa hai mẹ con, ngăn cách những con người già nua, bệnh tật khốn khổ ở bên trong với thế giới vui tươi, sinh động ở bên ngoài. Phượng nghe tiếng mẹ gào lớn:
Con ơi! con ơi…
Phượng rùng mình, có cảm tưởng như vừa nghe tiếng kêu cứu của người tử tội trước khi bị lên máy chém. Nàng bịt tai lại, vùng bỏ chạy, nhưng những tiếng gọi của mẹ vẫn đuổi theo. Phượng biết suốt đời nàng sẽ không bao giờ quên được tiếng gọi “ con ơi ” ai oán của mẹ.

PHƯƠNG – LAN

Gọi vốn qua IPO kiểu VN ‘chẳng giống ai’

Gọi vốn qua IPO kiểu VN ‘chẳng giống ai’

Vietnam Airlines đã nhiều lần định cổ phần hóa nhưng không thành.

Vietnam Airlines theo dự kiến sẽ có đợt bán cổ phần ra công chúng lần đầu tiên (IPO) vào ngày 14/11.

Để tìm hiểu về đợt IPO này nói riêng và nỗ lực tư nhân hóa nền kinh tế tại Việt Nam, BBC tiếng Việt đã phỏng vấn ông Kevin Snowball, giám đốc điều hành Quỹ Tài sản PXP Vietnam.

Ông Snowball cho rằng cách huy động vốn tư nhân qua IPO cho doanh nghiệp nhà nước không có kết quả và chính phủ Việt Nam thiếu rõ ràng về cách phát triển thị trường chứng khoán.

BBC: Dường như ông có vẻ không mấy hào hứng trước đợt IPO này, tại sao vậy?

“98% số cổ phiếu sẽ được bán cho hai ngân hàng trong nước mà chúng tôi hiểu rằng họ là Techcombank và Vietcombank mặc dù thông tin này chưa được xác nhận”

Kevin Snowball, CEO PXP Vietnam

Về cơ bản thì cầu vượt quá cung một chút. Tức là nhu cầu muốn mua nhiều hơn số cổ phiếu sẽ được chào bán ra 1.70 lần. 98% số cổ phiếu sẽ được bán cho hai ngân hàng trong nước mà chúng tôi hiểu rằng họ là Techcombank và Vietcombank mặc dù thông tin này chưa được xác nhận. Nhà đầu tư nước ngoài tham gia rất ít, có vẻ như 28 cá nhân từ giới đầu tư nước ngoài chia nhau mua khoảng 100.000 USD trị giá cổ phiếu.

Có một số lý do khiến chúng tôi không tham gia mua. Tức là về cơ bản là IPO tại Việt Nam hiện có một số vấn đề. Thứ nhất là giá cổ phiếu là quá đắt. Thông tin cũng không thật đầy đủ và rõ ràng, nói cách khác đi là thiếu minh bạch. Đây là IPO nhưng lại không có ngày cụ thể cho việc khi nào trong tương lai mới niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Tức là đó không phải là cách người ta thực hiện IPO như bình thường.

BBC: Vậy IPO có ý nghĩa gì đối với Vietnam Airlines (VNA)?

Họ dự kiến huy động dưới 50 triệu USD, là việc gọi vốn nhỏ. VNA muốn tìm nhà đầu tư chiến lược. Chúng tôi nghe nói có nhà đầu tư muốn mua 20% cổ phần VNA nhưng cho tới nay thì không có thông tin rằng nhà đầu tư đó là ai. Do đó đợt IPO này chỉ là việc bán ra cổ phần rất nhỏ cho một vài nhà đầu tư nội địa, do đó chẳng có chút hào hứng nào cả.

BBC: Nhìn rộng ra về nỗ lực cổ phần hóa của Chính phủ Việt Nam, ông đánh giá thế nào?

Tôi cho là mọi việc diễn ra không được suôn sẻ. Trong năm nay đã có hàng chục IPO, tôi chỉ thấy có một trường hợp có thể tạm coi là thành công là trường hợp Vinatex. Chúng ta thấy là tuần trước Việt Nam bán 1 tỉ đôla trái phiếu để huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế và cầu gấp 10 lần cung. Đó là bởi giá bán là hợp lý, ấn định giá đúng thì bán cái gì cũng được.

Đối với nhà đầu tư nước ngoài thì để có thể tham gia vào IPO thì hẳn phải có triển vọng thực sự là họ sẽ kiếm được tiền từ đó. Đó là một trong những đặc điểm của thị trường chứng khoán. Còn nếu bán cổ phiếu ra để giới đầu tư trông đợi 100 năm nữa mới có lãi thì khả năng để người ta huy động được vốn là rất ít. Tức là trong trường hợp này thị trường nói với chính phủ là giới đầu tư không thích kiểu thực hiện IPO này của VNA.

BBC: Nhà nước vẫn nắm cổ phần chính của Vietnam Airlines và phải chăng đó là chỉ dấu cho thấy nhà nước chưa sẵn sàng có những thay đổi thực sự tại VNA nói riêng và nền kinh tế mà quốc doanh nắm vai trò chủ đạo nói chung?

” Rồi sẽ đến lúc người ta sẽ hỏi rằng liệu có cần phải có thị trường chứng khoán không và làm gì với nó”

Hiện nhà nước vẫn nắm 96.5% cổ phần của Vietnam Airlines. Họ chưa bán 20% cổ phần. Có việc đồn đoán là có thể có nhà đầu tư Nhật nào đó sẽ mua nhưng hiện chưa thấy chỉ dấu nào từ phía Nhật là họ muốn thực hiện điều đó. Có một số nhỏ cổ đông nắm 3.5% cổ phần của VNA nhưng họ không biết sẽ buôn bán các cổ phần này ở đâu.

Thực tế rằng Việt Nam giới hạn mức sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài ở mức tối đa là 49% cho thấy là Việt Nam chưa sẵn sàng để cho thị trường chứng khoán vận hành theo cách mà đáng ra phải vận hành như tại những nơi khác. Có nhiều công ty được niêm yết trên sàn giao dịch tại Việt Nam nhưng đa số vẫn thuộc quyền sở hữu thuộc về nhà nước.

Tôi nghĩ là có vấn đề mang tính tổng quát hơn đối với thị trường chứng khoán và cách vận hành cũng như vấn đề về chủ trương. IPO là bước đi cốt để cung cấp nguồn tiền mặt thì dường như đã và đang không có mấy kết quả. Chúng ta đang đối diện rủi ro là cứ để tình trạng này càng kéo dài bao lâu thì nó chỉ càng thêm tiêu cực. Rồi sẽ đến lúc người ta sẽ hỏi rằng liệu có cần phải có thị trường chứng khoán không và làm gì với nó. Tức là chính phủ Việt Nam không có chính sách rõ ràng việc họ muốn phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam như thế nào.

Sài Gòn: Đi siêu âm, nữ bệnh nhân bị trộm mất quần!

Sài Gòn: Đi siêu âm, nữ bệnh nhân bị trộm mất quần!
November 11, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN ( NV) – Trong lúc thay váy của bệnh viện để siêu âm, nữ bệnh nhân đã bị trộm mất chiếc quần cùng số tài sản để ngay dưới chân bác sĩ tại một bệnh viện nổi tiếng ở Sài Gòn.

Nơi bà V. đi siêu âm bị mất trộm quần và tài sản ( Hình: Người Lao Động)

Theo báo Tuổi Trẻ, ngày 13 tháng 10, bà N.T.T.V. ở quận 10 đến Bệnh Viện Đại Học Y Dược Sài Gòn khám bệnh, thì được bác sĩ chỉ định siêu âm phụ khoa ở phòng 21.

“Khi tôi thay váy của bệnh viện để siêu âm, do trong phòng không có móc treo quần áo nên tôi để dưới chân bác sĩ. Lúc này, trong phòng chỉ có một bác sĩ, một điều dưỡng tên D. và một bệnh nhân mới được siêu âm trước đó.

Khi siêu âm xong, tôi lấy quần áo để mặc thì phát hiện chiếc quần của tôi biến mất cùng 15 triệu đồng và một chiếc điện thoại iPhone 4S trong túi quần,” bà V. cho biết.

Sau khi phát hiện bị mất đồ, bà V. nghi ngờ bệnh nhân trước đó đã lấy đồ của mình, nên đề nghị điều dưỡng D. cho thông tin bệnh nhân, song bà D. đã không cho, thậm chí “Khi tôi kiểm tra đồ xung quanh đó xem quần tôi có lẫn ở đâu không, cô D. còn lớn tiếng với tôi, ‘Tưởng tôi lấy đồ của bà hả?’”

“Trên người tôi lúc này chỉ có cái váy của bệnh viện. Tôi mếu máo ra ngoài mượn điện thoại gọi cho người thân thì lúc này mới được sự hỗ trợ của cô y tá trưởng,” bà V. uất ức kể lại.

Sau khi hỏi chuyện, y tá trưởng đã báo công an và đề nghị bà V. làm bản tường trình vụ việc. “Tôi nghĩ, nếu được sự hỗ trợ của nhân viên bệnh viện sớm hơn, tôi đã tìm được đồ của mình,” bà V. tiếc nuối.

Ông Trần Văn Hùng, phó trưởng phòng hành chính Bệnh Viện Đại Học Y Dược Sài Gòn cho biết, “Sau khi sự việc xảy ra, điều dưỡng trưởng đã mời bảo vệ tiếp nhận sự việc, đồng thời trình báo công an phường. Đây chuyện đáng tiếc xảy ra ngoài dự kiến.”

Theo ông Hùng, việc điều dưỡng D. không cung cấp thông tin cá nhân của người bệnh siêu âm trước đó cho bà V. là do bệnh viện phải giữ thông tin bí mật của bệnh nhân. Tuy nhiên, sau đó bệnh viện đã cung cấp cho cơ quan công an để phục vụ công tác điều tra.

Liên quan đến việc này, điều dưỡng D. chỉ bị viết bản tường trình, bệnh viện đề xuất hình thức kỷ luật nhưng không cho biết cụ thể và tạm đình chỉ công việc…hai tuần.

Thật ra đây chỉ là giọt nước làm tràn ly về việc mất cắp tài sản tương tự đã từng xảy ra ở bệnh viện này, cũng như nhiều bệnh viện khác ở Việt Nam.

Chuyện mất đồ của bà V. là một cảnh báo cho nhiều người rằng, dù ở bất cứ địa điểm đông người nào ở Việt Nam cũng phải cố gắng tự giữ gìn, bảo quản tài sản của mình để tránh rơi vào tình huống “dở khóc, dở cười” như trên. (Tr.N)