Ðồng Nai: Man rợ vụ giết người, hiếp rồi đốt xác

Ðồng Nai: Man rợ vụ giết người, hiếp rồi đốt xác

Nguoi-viet.com

ÐỒNG NAI (NV)Chiều 30 Tết, hai nghi can nhậu xong đòi bạn nữ cho quan hệ tình dục nhưng bị cự tuyệt, cả hai đã bóp chết nạn nhân, thay nhau hiếp xác rồi đốt để phi tang.

Báo Công Lý đưa tin, ngày 23 tháng 4, công an tỉnh Ðồng Nai cho biết, đang bắt giữ hai hung thủ là Lương Tấn Khanh (38 tuổi), ngụ tại huyện Tân Phú và Bùi Thanh Hoài (29 tuổi), ngụ tại tỉnh Long An) về hành vi giết người.



Hiện trường vụ giết người, đốt xác ở rừng tràm. (Hình: báo Công Lý)

Trước đó, vào ngày 20 tháng 2 (tức ngày mồng 2 Tết), người dân phát hiện một xác chết bị thiêu rụi trong đồi tràm tại ấp Lộ Ðức, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom. Nạn nhân được công an xác định là Phạm Thị Phương Vân (30 tuổi), ngụ tại ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom.

Theo thông tin từ gia đình nạn nhân, ông Phạm Công Sơn, anh ruột của nạn nhân cho biết, bà Vân chưa có gia đình riêng, hiện đang sống cùng bố mẹ và làm nghề buôn bán tạp hóa. Khoảng 10 giờ ngày 18 tháng 2 (tức ngày 30 Tết), bà Vân chạy xe máy rời khỏi nhà để đi chơi cùng với bạn nhưng không cho biết mình đi đâu. Cũng kể từ hôm đó, gia đình không thấy bà Vân trở về nhà.

Cho đến trưa ngày 20 tháng 2, thì gia đình ông Sơn nhận được hung tin là bà Vân đã bị thiêu cháy trong đồi tràm. Khi đến nơi kiểm tra, gia đình thấy thi thể đã bị cháy đen, nhưng tất cả tài sản thì vẫn còn nguyên không bị mất.

Xác định đây là một vụ án giết người nên cơ quan công an đã truy tìm hung thủ. Liền sau đó, hai hung thủ giết người đã ra đầu thú và khai nhận tội.

Báo Công Lý dẫn lời khai ban đầu của các hung thủ Khanh và Hoài với cơ quan điều tra, bà Vân là bạn chung, thường tổ chức ăn nhậu cùng nhau. Vào ngày 20 tháng 2, cả 3 tổ chức nhậu chung tại xưởng gỗ thuộc ấp Lộ Ðức.

Trong cơn say, ông Khanh và ông Hoài đã đòi bà Vân phải quan hệ tình dục với mình. Bị bạn gái cự tuyệt, cả hai đã bóp cổ cho đến khi bà Vân tắt thở, rồi thay nhau hiếp xác nạn nhân. Sau đó đưa xác vào đồi hoang để đốt phi tang và cùng nhau bỏ trốn. (Tr.N)

Ân xá Quốc tế : Việt Nam vẫn hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do ngôn luận

Ân xá Quốc tế : Việt Nam vẫn hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do ngôn luận

Thanh Phương

RFI

media

Biểu tượng “Ngọn nến Hy vọng” trên trang amnesty.fr (DR)

Trong bản báo cáo thường niên 2014 về tình hình nhân quyền trên thế giới, tổ chức Ân xá Quốc tế nhận định rằng Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do tập hợp một cách ôn hòa.

Hôm nay, 25/02/2015, tổ chức Ân xá Quốc tế ( Amnesty International ) vừa công bố bản báo cáo thường niên 2014 về tình hình nhân quyền trên toàn thế giới.

Nhận định chung của Ân xá Quốc tế : năm 2014 là một năm « rất tồi tệ » đối với hàng triệu người là nạn nhân của bạo lực. Thế mà phản ứng của cộng đồng quốc tế với các vụ xung đột và hành động bạo lực của các quốc gia và các tổ chức vũ trang rất là vô hiệu quả và đáng chê trách. Theo Ân xá Quốc tế, trước việc gia tăng các vụ tấn công man rợ và trước việc người dân nhiều nước bị đàn áp, cộng đồng quốc tế đã không có hành động gì.

Riêng về Việt Nam, trong phần mở đầu, Ân xá Quốc tế nhận định : « Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do tập hợp một cách ôn hòa. Nhiều tù nhân lương tâm bị giam giữ trong những điều kiện khắc nghiệt sau những phiên xử không công bằng (… ) Đã có thêm các blogger và nhà hoạt động nhân quyền bị bắt giữ và xét xử. Chính quyền đã tìm cách ngăn chận hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự chưa được cấp phép, bằng cách sách nhiễu, theo dõi và hạn chế tự do đi lại. Các nhân viên an ninh đã sách nhiễu và hành hung các nhà hoạt động hôn hòa và bắt giam họ trong thời gian ngắn. »

Trong báo cáo, Ân xá Quốc tế cũng nhắc lại rằng Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc vào tháng 01/2014 với nhiệm kỳ hai năm. Nhưng vào tháng 6 năm ngoái, Việt Nam đã bác bỏ 45 trên 227 khuyến nghị của Nhóm làm việc về Phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát trong tháng 02/2014. Những khuyến nghị bị bác bỏ bao gồm những khuyến nghị về các nhà hoạt động nhân quyền và bất đồng chính kiến, về tự do ngôn luận và về án tử hình.

Báo cáo cũng cho biết là vào tháng 2 năm ngoái, một một phái đoàn Ân xá Quốc tế đã đến thăm Việt Nam để mở các cuộc họp chính thức. Trong chuyến viếng thăm vào tháng 7, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về quyền tự do tôn giáo đã tìm thấy bằng chứng về những vụ vi phạm nghiêm trọng, trong đó các vụ công an bố ráp, ngăn cản nghi lễ tôn giáo, đánh đập, tấn công các thành viên những tổ chức tôn giáo độc lập.

Thế giới nào là ảo?

Thế giới nào là ảo?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chuacuuthe.com


VRNs (25.02.2015) – Đồng Nai – Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.

Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.

Royalty-Free Stock Photography by Rubberball.com

Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.

Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.

Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.

Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Việt Nam đối diện với “tảng băng chìm”

Việt Nam đối diện với “tảng băng chìm”

Chuacuuthe.com

150225001


VRNs (25.02.2015) – Sài Gòn – Năm Ất Mùi được đánh giá là năm có nhiều biến động ở bề nổi, nhưng thực ra nguy cơ vỡ ra của phầm chìm cũng thật lớn.

Sống chết ở Việt Nam

Thông tấn xã Việt Nam cho biết: Trong 9 ngày nghỉ Tết Ất Mùi 2015, toàn quốc đã xảy ra 536 vụ tai nạn giao thông, làm chết 317 người và làm bị thương 509 người.

Theo thông tin từ Uỷ ban an toàn giao thông Quốc gia, thống kê trong 2 tháng đầu năm (từ 16/12 đến 15/2), toàn quốc có 1.567 người chết vì tai nạn giao thông trên tổng số 4.115 vụ tai nạn. Ngoài ra, tai nạn giao thông còn khiến cho 3.771 người bị thương. Trong đó, các vụ tai nạn giao thông đường bộ đã cướp đi sinh mạng của 1.527 người, làm bị thương 1.094 người.

Vậy là bao nhiêu người xa quê trở về quê ăn Tết để góp vui với gia đình thì lại làm cho cả gia tộc và láng giềng đau xót.

Trên thế giới chỉ một hai người bị IS giết, hoặc một tai nạn giao thông chết vài người đã gây ra hoảng loạn, nhưng ở Việt Nam với con số người chết trong hai tháng là hơn 2 ngàn 5 trăm người và chỉ mới chín ngày có 317 người chết vẫn chưa làm cho người dân thấy có vấn đề gì, nhất là ông Bộ trưởng, phó Ban an toàn giao thông quốc gia còn tỏ ra mừng, vì số trường hợp tử vong có giảm.

Người Việt Nam đang bị sát hại ngay tại trong nước bởi chính sách sai lầm về giao thong.

Giàu nghèo

Vietnamnet cho hay: Bản điều tra tỷ phú USD “Billionaire Census 2014″ của Wealth-X và UBS (ngân hàng Thụy Sĩ) vừa công bố cho biết, năm 2014, Việt Nam tiếp tục có mặt trong danh sách 14 nước châu Á có tỷ phú đô-la. Trong năm 2014, số lượng tỷ phú Việt Nam đã tăng từ 1 lên 2 người và tổng giá trị tài sản tăng từ 1 lên 3 tỷ USD.

Cũng theo Wealth-X và UBS, trong năm 2014, Việt Nam góp mặt 210 đại diện siêu giàu với tiêu chí đầu tiê là có tài sản trên 30 triệu USD/người (tổng tài sản hơn 6,3 tỉ USD).

Báo Người lao động cho hay, dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2014 tính theo giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD. Dựa trên quy mô dân số 90,73 triệu người của năm 2014, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028 USD, tương đương 169 USD/tháng.

Báo Tuổi trẻ cho biết thêm, thu nhập bình quân đầu người sống ở Sài Gòn năm 2014 con số này tăng lên 5.131 USD.

Các nhà xã hội đã cảnh báo nguy cơ 80% tài sản quốc gia thuộc về 20% người giàu, còn 80% ngời nghèo chỉ gữ lại được 20% tài sản. Với các số liệu này ở Việt Nam, thì số người chiếm 80% tài sản chỉ chiếm chưa tới 1% dân số.

Một chính sách sai lầm về kinh tế đã đẩy người trung lưu trở nên nghèo, và người nghèo trở nên nghèo hơn. Những cố gắng tăng lương từ đầu năm 2015 cũng chỉ là cách mị dân, vì với quy định lương tối thiếu, người làm công ở đất nước XHCN này vẫn không thể sống nổi.

Đến năn 2015 này, mức lương tối thiểu được xác định là: Vùng (1): 3.100.000 đồng/tháng; Vùng (2): 2.750.000 đồng/tháng; Vùng (3): 2.400.000 đồng/tháng;Vùng (4): 2.150.000 đồng/tháng.

Vùng (1) cao nhất, thì mức lương tối thiểu cũng không thể đạt được 200 USD/tháng, còn vùng (4) thấp nhất còn tệ hơn nữa là chỉ được 100 USD/tháng. Trong khi đó, mức lương tối thiểu của đế quốc Mỹ của ngời lao động phổ thong (không có nghề chuyên môn) là 80 USD/ngày.

Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đang làm cho một vài thiểu số trở nên “vua”, còn đại đa số con dân nước Việt ra “tôi mọi”.

Chế độ tồn tại nhờ tiền ở đâu

Mỗi năm, cần hơn 6 tỉ đô la chi phí cho bộ máy hành chánh và hệ thống chính trị quốc gia Việt Nam. Nguồn tài chính nội tại của Việt Nam dựa vào xuất khẩu dầu hỏa thô, và sức lao động, nhưng các nguồn này đang thất thu vì nhiều lý do. Do vậy, nguồn tu từ bên ngoài vẫn là ước mong của chế độ.

Nguồn tài chính đổ về Việt Nam hiện nay từ ba nguồn: FDI (năm 2014 là hơn 20 tỉ USD, nhưng đây chỉ là hứa đầu tư và được cấp phép của doanh nghiệp nước ngoài tại VN, chứ trong thực tế con số này không cao đến như vậy), kiều hối (năm 2014 là 12 tỉ USD. Đây là số tiền đã về Việt Nam và đang được lưu thông trong thị trường Việt Nam dưới nhiều hình thức), ODA (đây là tiền viện trợ và vay nợ quốc tế. Năm 2014 là 5 tỉ USD, trong đó chỉ có 60 triệu USD là được viện trợ không hoàn lại, còn tất cả là vay nợ).

Theo báo Giáo dục VN, trong giai đoạn 1991-2013, lượng kiều hối chính thức vào Việt Nam hàng năm đã tăng trưởng trung bình 38,6%/năm, với tổng giá trị kiều hối là 80,4 tỉ đô la Mỹ, chưa tính lượng kiều hối năm nay 2014, dự kiến vào khoảng 11-12 tỉ đô la Mỹ. Báo này còn cho biết thêm Viện nghiên cứu quản lý trung ương VN nói: riêng trong giai đoạn 2007-2013, tổng kiều hối là nguồn vốn lớn thứ 2 tại Việt Nam (sau vốn FDI – vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào VN) và lớn hơn cả vốn ODA (viện trợ / vay nợ quốc tế) đã giải ngân.

Tuy cả bà nguồn tiền này hiện vẫn đang tồn tại, nhưng các nguồn FDI và ODA tuy đã có con số, nhưng vẫn bếp bênh, vì các doanh nghiệp nước ngoài ký kết sẽ đầu tư (FDI), nhưng do tình hình làm ăn không thuận lợi, bởi chính sách lấy quốc doanh làm trọng tâm khiến họ chỉ mới đầu tư cho có, mà không thực sự thúc đẩy hoạt động đúng tầm của dự án. Còn ODA để được giải ngân cần phải có nhiều thủ tục, nhất là càng ngày chỉ số tham nhũng ở VN càng cao, khiến ODA khó được giải ngân hơn. Như vậy chỉ có nguồn kiều hối là chắc chắn.

Giả sử một ngày nào đó, các nguồn thu nội địa “đột tử”, còn nguồn vốn FDI và ODA bị đ1ng băng hoàn toàn, thì chế độ hiện hành của VN vẫn sống, vì chỉ cần 1 năm thu kiều hối đủ cho chi phí duy trì chế độ được 2 năm.

Chuyện mị dân trong năm nay và vài năm tới

Một cựu đảng viên CSVN cho biết Bộ chính trị VN đang xem xét cho phép phục hoạt các đảng Dân Chủa và Xã Hội nhằm mị dân, và cũng để chính thức hóa giải quyết những căng thẳng quyền lợi trong một đảng quá lớn, có nguy cơ làm nổ tung chính nó.

Như vậy việc đa đảng này không có lợi gì cho dân, vì chỉ giúp đảng CSVN tiếp tục mị dân, và khẳng định đảng CSVN có quyền trên các đảng khác. Cách làm này của đảng CSVN trái với Hiến pháp.

Nổ lực đa đảng không hề nhằm đáp ứng nhu cầu của dân chúng, vì cho đến nay, các phong trào dân chủ trong nước không đủ sức gây áp lực, mà chỉ mới ở tầm “tấm bảng trang trí” cho chế độ có vẻ dân chủ mà thôi.

Nhưng dù sao, nó vẫn là cơ hội cho những ai muốn đất nước thay đổi, và đất nước chỉ thật sự thay đổi khi những người đó dám nổ lực gấp 100 lần năm ngoái. Không nổ lực được thì đừng mơ nữa, vì trời đã sáng rồi.

K.Thuyên

Nhật cảnh báo sau vụ tu nghiệp sinh Việt Nam ‘trộm dê’ làm thịt

Nhật cảnh báo sau vụ tu nghiệp sinh Việt Nam ‘trộm dê’ làm thịt

Nguoi-viet.com

NHẬT BẢN (NV) – Cảnh báo vừa kể được đưa ra sau khi sau khi có hai người Việt bị cảnh sát Nhật bắt giữ rồi công tố Nhật đề nghị tòa án phạt tù họ vì “trộm cắp.”

Hồi tháng 12 năm ngoái, ông Lê Thế Lộc, 30 tuổi và cựu sinh viên Bùi Văn Vỹ, 22 tuổi, bị bắt sau khi bắt trộm hai con dê trong một đàn dê 16 con được nuôi ở công viên Minokamo, tỉnh Gifu, để làm thịt cho một nhóm khoảng 20 người cùng ăn.



Hai người Việt bị đề nghị phạt tù vì trộm hai con dê trong đàn dê được nuôi ở công viên Minokamo, tỉnh Gifu, Nhật. (Hình: Asahi Shimbun)

Vụ bắt trộm dê được xem là nghiêm trọng vì 16 con dê vừa kể đang được Ðại Học Gifu phối hợp với thành phố Minokamo nuôi để thử nghiệm phương thức dùng động vật diệt cỏ.

Theo Asahi Shimbun, một tờ báo tại Nhật, thì Bùi Văn Vỹ đến Nhật để du học và bỏ dở việc học vì không có khả năng trả học phí.

Cựu sinh viên Bùi Văn Vỹ thuê chỗ trọ ở cùng với ông Lê Thế Lộc và trường hợp phạm tội của ông Lộc được Asahi Shimbun khắc họa rất chi tiết.

Ông Lộc, người đã có vợ và một bé gái từng là tài xế taxi tại Việt Nam. Do thu nhập thấp, không đủ sống, lại được một công ty chuyên xuất cảng lao động mời mọc, ông Lộc bàn bạc với gia đình, rồi đem thế chấp cả nhà lẫn đất, vay ngân hàng khoảng 270 triệu (tương đương 1.5 triệu Yen), để sang Nhật làm thuê dưới danh nghĩa tu nghiệp sinh trong Chương Trình Ðào Tạo Thực Tập Sinh Kỹ Thuật (TITP).

TITP là một chương trình do chính phủ Nhật mở ra để giúp công dân một số quốc gia mà chính phủ Nhật lựa chọn có cơ hội làm việc tại Nhật để phát triển kỹ năng nghề nghiệp rồi đem những kỹ năng đó về ứng dụng tại quê nhà. Mỗi tu nghiệp sinh có thể cư trú và làm việc tại Nhật trong ba năm.

Cho đến nay, có khoảng 150,000 tu nghiệp sinh ngoại quốc đang cư trú và làm việc trong 69 lĩnh vực nghề nghiệp tại Nhật theo chương trình TITP.

Qua trường hợp của ông Lộc, Asahi Shimbun cảnh báo chương trình TITP đang bị lạm dụng và đẩy nhiều người vào nghịch cảnh.

Lý do ông Lộc được gia đình ủng hộ trong việc thế chấp nhà đất – vay tiền ngân hàng để nộp cho công ty xuất cảng lao động sang Nhật làm tu nghiệp sinh vì công ty này khẳng định, tại Nhật, nếu làm việc 8 tiếng/ngày, 5 ngày/tuần, mỗi tháng, ông Lộc có thể kiếm được từ 200,000 Yen đến 300,000 Yen. Ngoài ra nơi ông Lộc làm việc sẽ cung cấp chỗ ở miễn phí.

Tuy nhiên trên thực tế, tháng 3 năm 2013, khi đến trồng cà chua cho một công ty ở tỉnh Nagano, ông Lộc phải làm việc 20 tiếng/ngày và 7 ngày/tuần. Còn lương chỉ có 80,000 Yen/tháng. Chưa kể mỗi tháng ông phải trả 20,000 yên cho việc thuê “chỗ ở,” trong khi “chỗ ở” là dưới gầm thùng cầu dao điện của một nhà kho chứa nông cụ, có một vòi nước để tắm nhưng không có nhà vệ sinh.

Tính ra mỗi tháng, ông Lộc chỉ còn 60,000 Yen và mỗi tháng chỉ có thể gửi về nhà từ 30,000 đến 40,000 Yen để gia đình trả nợ ngân hàng.

Sau bảy tháng làm việc và ăn ở theo kiểu như thế, ông Lộc kiệt sức và quyết định bỏ việc. Dựa vào những thông tin tuyển dụng được đăng trên Internet, ông Lộc tìm đến xin làm việc cho một công ty cơ khí ở tỉnh Aichi. Tuy nhiên, ông Lộc chỉ có thể làm việc tại đó cho đến tháng 3 năm 2014 thì phải nghỉ làm việc vì giấy phép cư trú tại Nhật hết hạn.

Ông Lộc kể với Asahi Shimbun rằng, ông hoàn toàn bế tắc bởi không có việc làm thì không có tiền gửi về cho gia đình trả nợ ngân hàng và sẽ mất sạch nhà cửa, đất đai. Ở lại Nhật thì thành người cư trú bất hợp pháp còn quay về Việt Nam thì cũng chẳng còn đường sống. Cuối cùng, ông Lộc quyết định ở lại Nhật và giấu tình cảnh của mình không cho người thân ở Việt Nam biết.

Sau khi thất nghiệp, ông Lộc trộm cắp thực phẩm tại các siêu thị ở Nhật để ăn trước khi bị bắt…

Trong vài năm gần đây, nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế liên tục cảnh báo về thảm trạng của những người Việt được các công ty xuất cảng lao động của Việt Nam đưa ra ngoại quốc làm thuê.

Hồi tháng 9 năm ngoái, Verité – một tổ chức quốc tế công bố kết quả một cuộc khảo sát kéo dài trong hai năm, theo đó, 40% người Việt đến Mã Lai làm thuê bị cưỡng bức lao động.

Chẳng riêng Verité cảnh báo về tình trạng người Việt bị các công ty môi giới lao động bóc lột từ trong nước và bị chủ ngoại quốc bóc lột tiếp khi ra ngoại quốc làm thuê.

Trước nữa, vào tháng 5 năm 2013, American Thinker đăng một bài viết của Michael Benge, lên án chính quyền Việt Nam chủ trương buôn người.

Ông Benge đã đưa ra nhiều dẫn chứng về việc chính quyền Việt Nam chuyên buôn người, qua hoạt động của các công ty xuất cảng lao động. Các công ty này thường có nguồn gốc phức tạp, thường xuyên lừa gạt người nghèo bằng những hợp đồng hấp dẫn (lương cao, điều kiện làm việc lý tưởng). Có những người nghèo phải trả tới 10,000 Mỹ kim cho cái gọi là phí nộp đơn. Vì nghèo, họ được khuyến khích thế chấp tài sản để vay tiền ngân hàng thanh toán các loại chi phí.

Khi ra đến ngoại quốc, họ bị thu hộ chiếu, bị ép ký những hợp đồng khác hẳn những gì đã được hứa hẹn, phải làm việc nhiều hơn, điều kiện làm việc tồi tệ hơn, chưa kể hàng tháng còn phải nộp môt khoản nhất định cho công ty xuất cảng lao động…

Kết quả, người nghèo đi làm thuê ở nước ngoài ngập trong nợ, lệ thuộc vì nợ, gia đình của họ tại Việt Nam thì mất hết tài sản. Ông Benge khẳng định, có nhiều dấu hiệu rõ ràng để kết luận, các công ty xuất cảng lao động đã liên kết với các ngân hàng và các viên chức chính quyền. (G.Ð

Tình yêu sai trái

Tình yêu sai trái

1388159723-anhmatemthatroi_tinhyeugioitinh_eva1.jpg2

Em biết rằng yêu anh là sai trái
Nhưng mà em chẳng giữ nỗi tim mình
Khi yêu rồi, lý trí chẳng phân minh
Yêu người này hay là yêu người khác

Em, cô gái quê, tuổi tròn mười tám
Lên thị thành để sống đời sinh viên
Xa làng quê, xa bến nước con thuyền
Sống cô đơn một mình nơi viễn xứ.

Rồi bỗng dưng, bằng nụ cười quyến rũ
Giọng nói mềm chất chứa cả trời thơ
Anh làm em biết thao thức mong chờ
Xua tan đi những muộn phiền trống trãi.

Ai bảo anh nâng phím đàn êm ái
Biết làm thơ, biết hát thật là hay
Rồi những khi em nước mắt đong đầy
Anh quan tâm, và tận tình chia sẻ.

Ai bảo anh luôn bình an vui vẻ
Trên môi anh luôn có những nụ cười
Anh âm thầm phục vụ chẳng nghỉ ngơi
Tim trắng trong, còn lòng thì thành ý

Em cố ngăn, không cho mình suy nghĩ
Không mơ mộng hay tưởng nhớ đến anh
Với sinh viên, anh là thầy đồng hành
Trọn cuộc đời anh đã dâng cho Chúa.

Em băn khoăn chẳng biết làm sao nữa
Càng cố quên, lại càng nhớ thêm nhiều
Em biết mình đã vướng vào lưới yêu
Cố vẫy vùng nhưng em không thể thoát

Con tim mình, em không sao kiểm soát
Bao đêm rồi nước mắt cứ tuôn rơi
Dù lòng em gượng bảo hãy cố cười
Có gì đâu mà u buồn đến thế?

Hãy để em cứ yêu thầy, thầy nhé!
Chỉ yêu thôi, chẳng giữ thầy lại đâu.
Vì với em, thầy là mối tình đầu,
Mối tình câm, mối tình đầy dấu ái.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

“Một thời mây biếc đã trôi qua,

“Một thời mây biếc đã trôi qua,

Nay tưởng cây vàng đã nở hoa.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Tin Mừng Mc 9: 2-10

Mai Tá lược dịch

“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.5 Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.7 Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.

Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.”

Về chuyện kể dân gian, bi hùng, dã sử ta không hề thấy thiếu trong Cựu Ước. Phần lớn các bài đọc trong thánh lễ Mùa Chay vẫn dọi lại những câu chuyện tưởng-như-đùa trong kho-tàng lịch-sử Do Thái.

Bài đọc hôm nay đưa ra hình ảnh của 3 nhân vật chủ chốt trong các chuyện kể nói trên. Ðó là: Abraham, Môsê và Êlya. Tiếc một điều, những gì chúng ta biết được về 3 nhân vật này còn mù mờ và mang nét bí hiểm. Chẳng thế mà, nếu có ai trong chúng ta suy nghĩ như các em học sinh tiểu học ở dưới đây, khi “trả bài” giáo-lý hệt như viết chuyện phim, cũng không là điều đáng trách:

“Ông Môshê chăn dắt người Do thái dưới lòng Biển Ðỏ. Ðến nửa đường, thấy dân đói quá, ông bèn chế ra một loại bánh mì mà chẳng cần đến men hay bột gì hết trơn. Người Ai cập biết được, bèn đuổi theo nhưng bị chết đuối quá chừng chừng, ngay giữa lòng sa mạc. Sau đó, Môshê bèn tà tà, tản bộ lên núi Xya-nuya để kiếm cho được Mười Ðiều Giáo Luật. Mà, điều thứ nhất nói đến việc bà Evà quát cho Ađam một hồi, lại còn ra lệnh cho ông phải ăn trái táo đang bị cấm nữa.

Còn, lời răng thứ năm thì nói: ta phải luôn luôn làm cho cha mẹ khoái chí cười toe-toét hoài hoài, như thế mới được…”

Dù sao, thì người Do Thái thuộc cộng đoàn Mat-thêu, lẽ đáng ra, phải nhớ vanh vách mọi chi tiết về Abraham, Môsê và Êlya mới phải. Các vị, dẫu sao cũng là anh-hùng cái-thế của dân Do Thái vào mọi thời và mọi lúc.

Con người thời ban đầu, nếu được kể về việc Ðức Chúa biến hình, chắc cũng mường-tượng ra mối liên-kết chặt-chẽ giữa Giêsu Ðức Chúa với Abraham, Môsê và Êlya, tức: những người có nhiều kinh-nghiệm tiếp-xúc với Chúa trên đỉnh núi.

Ở đây, mỗi vị đều thấy mình phải biến-cải/đổi đời khi diện-kiến Ðức Chúa. Và, hẳn nhiên là các vị đều được chói-sáng dù nhìn dưới bất cứ góc cạnh nào đi nữa. Các vị đều được Giavê Thiên-Chúa mời gọi thực-thi công-tác đặc-biệt. Các vị xuống núi với tất cả uy-lực hùng-mạnh có khả-năng nhìn xuyên-suốt mọi vật.

Mát-thêu thánh-sử đặc-biệt chú-trọng đến trường-hợp của Môsê. Những ai chịu khó đọc toàn-bộ Tin mừng của thánh-nhân sẽ thấy điệp-khúc trong đó tác giả thánh cứ muốn so-sánh Đức Giêsu như Môsê mới. Ngài hoàn-thành lề luật và trở-thành ánh-sáng làm rực-rỡ đêm trời tối-tăm,  mù mịt.

Càng so sánh, người đọc sẽ càng vui mừng thích thú khi nhận ra được điểm tương đồng giữa một Môsê trên núi Sinai và Giêsu Ðức Chúa trên núi Tabor. Nhưng, nếu thực-hiện hành-trình gian-lao suốt Chay Mùa lành thánh, hẳn ta sẽ nhận ra được nhiều khác biệt hơn tương đồng. Chẳng hạn: Môsê có leo lên núi thánh, thì cũng chỉ một thân một mình ông thôi.

Còn, Giêsu Ðức Chúa lại dẫn-dắt cả bầu đàn môn đệ đi theo Ngài để cùng sẻ-san kinh-nghiệm và làm nhân-chứng cho sự-kiện tỏ rõ uy-lực ấy. Trong chuyện Môsê, Giavê Ðức Chúa chẳng bao giờ thấy hai vị xuất đầu lộ diện. Còn, trên núi Tabor, Ðức Giêsu Kitô đem đến cho ta khuôn mặt dịu-hiền của Ðức Chúa đối với thế-giới nhân-trần.

Trên núi Sinai cũng thế, Môsê nhận-lĩnh mười điều giới-luật Chúa ban tặng và được dặn-dò phải làm sao cho dân tình biết tuân-thủ luật Giavê ban ra. Trong khi đó, ở trên núi Tabor, Giêsu Ðức Chúa đón-nhận lời truyền về tình thương yêu của Chúa. Và, qua đó, ta được yêu cầu phải nghe lời Ngài. Trong khi Môsê trực-diện với thứ ánh-sáng chỉ chói-chang nơi bụi rậm, thì toàn thân mình của Chúa đã biến thành ánh-sáng chan-hòa. Môsê được lệnh xuống núi phải áp đặt lề-luật cho toàn dân.

Trong khi đó, Giêsu Ðức Chúa thân-hành giáng-hạ với gian-trần để chấp-nhận cái chết nhục-hình ngõ hầu giúp ta sống mạnh, sống vui và sống vững chãi với mọi người.

Một khi ta coi Chay Mùa tâm tịnh như chuỗi ngày khổ hình/khắc nghiệt, có những yêu cầu phải từ bỏ chính mình, thì Giáo-hội sẽ kể cho ta nghe chuyện Giêsu Ðức Chúa Biến Hình, ngõ hầu thâu-nhận mọi hy-sinh/gian-khổ của chúng ta để đưa vào bối-cảnh của Mùa lễ.

Chỉ một lý do duy nhất, khiến ta từ bỏ bất cứ thứ gì thuộc về mình; hoặc, yêu cầu ta quyết-tâm tham-gia mọi công-tác phục-vụ người đồng-loại trong suốt 40 ngày này, là cốt để ta được lớn mạnh và đi sâu vào tình thương-yêu của Ðức Chúa, Ðấng hằng yêu thương ta trong suốt cả đời người.

Sám hối Mùa Chay kiêng, không có nghĩa bỏ đi lòng tự-trọng của ta, bao giờ hết. Trái lại, mục đích của sám-hối là để giúp ta giải-quyết những gì đang trở thành vấn-đề. Ðem ánh sáng chiếu rọi đêm đen của đời mình. Và, đặt trọng-tâm vào tương-quan giao-tế nào khả dĩ đưa ra ý- nghĩa và mục-tiêu của sự sống trong thế giới hôm nay và mai ngày.

Ðức Chúa ở trên núi Tabor sẽ không lấy gì làm thích thú khi có người trong chúng ta có cảm giác bị bỏ bê, đơn độc. Lý do, là vì ta chỉ biết giữ luật theo từng nét từng chữ, mà thôi. Ngược lại, Ngài muốn mỗi người chúng ta có tâm-hồn biết lắng nghe Tin Vui An Bình ngập tràn tình thương yêu của Ngài. Ðể rồi khi đó, ta sẽ có uy-lực biến-cải thế giới này bằng những hy-sinh cao cả trong cuộc sống thường nhật.

Trong chừng mực nhẹ nhàng hơn, Thánh lễ Chúa nhật vẫn mang ý  nghĩa của kinh nghiệm hàng tuần có trên đỉnh núi vẫn gọi là Tabor tâm-hồn. Ở nơi đó, ta nghe tiếng Chúa mời gọi mỗi người bằng tên riêng của mình. Và, Ngài cũng tỏ-lộ tâm-tình Ngài yêu-thương ta rất mực.

Ở nơi đó, ta thấy mình lại được nạp năng-lượng thần-thiêng giúp thi-hành nhiệm-vụ đem ánh-sáng biến-hình của Ngài chiếu rọi thế giới nhân trần. Trong bối cảnh ấy, tất cả những gì ta làm trong Mùa Chay này, đều giúp ta phá vỡ thứ đá tảng cản-ngăn không cho ta đáp-ứng cách trọn-vẹn tình thương-yêu của Ngài.

Trong cảm-nghiệm về tình thương đó, ta lại sẽ ngâm nga lời thơ những hát rằng:

“Một thời mây biếc đã trôi qua,

Nay tưởng cây vàng đã nở hoa.

Em chẳng mơ gì, tôi chẳng nói,

Đôi hồn không biết có nhìn xa…”

(Đinh Hùng – Bướm Xuân)

Với nhà thơ đời, thì có mơ và có nói gì đi nữa cũng chỉ là Những “bướm Xuân” chẳng biết nhìn xa trông rộng. Với nhà Đạo, có mơ và có tưởng-nhớ những là Abraham, Môsê và Êlya, cũng chỉ là hình-ảnh của Đức Chúa đến gần ta và gần người, thôi.  Mơ và nhớ như thế, vẫn sẽ là nhớ về cõi mơ rất “một thời mây biếc” đã trôi qua và sẽ còn qua đi về chốn trường-cửu rất vĩnh-hằng.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

40 lời khuyên cho cuộc sống tốt lành

40 li khuyên  cho cuc sng tt lành

1.Uống nhiều nước.
2.Ăn sáng như Vua,ăn trưa như Ông hoàng và ăn tối như Kẻ ăn xin (ăn ít).

3.Ăn nhiều thức ăn mọc trên cây và ăn ít thức ăn được chế tạo trong nhà máy.
4.Sống với 3 chữ N: Năng lực –Nhiệt thành- Nhân ái.
5.Tìm ra thời gian để cầu nguyện.
6.Chơi trò chơi nhiều hơn.
7.Đọc sách nhiều hơn so với năm trước.
8.Mỗi ngày dành 10 phút ngồi yên lặng.
9-Ngủ tối thiểu 7 giờ.
10- Vừa đi bộ vừa mỉm cười 10-30 phút mỗi ngày.
11-Đừng so sánh cuộc đời của mình với cuộc đời của những người khác. Không biết hành trình của họ như thế nào đâu.
12-Đừng có những suy nghĩ tiêu cực hoặc nghĩ những điều mà mình không thể làm chủ. Thay vào đó, hãy đầu tư năng lực của mình vào ngay thời điểm hiện tại.
13-Đừng làm gì quá sức. Phải giữ một giới hạn cho bản thân.
14-Đừng coi mình quá quan trọng, coi như không ai sánh nổi.
15-Đừng phí năng lực quý
báu vào những chuyện ngồi lê đôi mách.
16-Hãy biết mơ nhiều hơn ngay khi còn đang thức
17-Ghen tỵ là phí thì giờ. Mình đã có tất cả những gì mình cần rồi.
18-Hãy quên đi những chuyện đã qua. Đừng nhắc người thân nhớ lại những lỗi lầm trong quá khứ. Điều đó sẽ làm tan vỡ hạnh phúc đang có.
19-Cuộc sống quá ngắn để tốn thời gian căm ghét bất cứ ai. Chớ ghét bỏ ai.
20-Hãy dàn hòa với quá khứ của mình đẻ tránh làm hỏng cái hiện có.

21-Không ai nuôi dưỡng hạnh phúc của mình, ngoài chính mình.
22-Hãy coi cuộc đời là một trường học và bạn đang ở đó để học. Hãy coi mình luôn luôn vẫn còn là học trò .Những điều khó hiểu chỉ là một phần của chương trình học, chúng xuất hiện rồi biến dần giống như môn Đại số. Nhưng những bài học mình thu nhận được sẽ kéo dài suốt đời.
23-Hãy mỉm cười và cười nhiều hơn nữa .
24-Không buộc phải thắng trong mọi cuộc tranh cãi. Hãy bằng lòng với sự bất đồng .
25-Hãy tránh nói nhiều và biết lắng nghe để học hỏi.
26-Mỗi ngày hãy đưa lại vài điều tốt cho người khác
27-Hãy tha thứ cho mọi người về mọi chuyện
28-Hãy dành thời gian cho các cụ ngoài 70 và các cháu dưới 6 tuổi
29-Cố gắng làm được cho 3 người mỉm cười mỗi ngày
30-Khi mình nghĩ đúng, làm đúng, không cần biết những gì người khác nghĩ về mình.

31-Năng tập luyện việc tự chăm sóc phòng khi mình đau ốm.
32-Hãy luôn tránh moi móc chuyện đời tư của người khác.
33-Hãy gạt bỏ mọi chuyện bất lợi, không đẹp hoặc không vui.
34-Trời sẽ chữa lành mọi chuyện.
35-Dù cho mọi hoàn cảnh tốt hay xấu cũng sẽ thay đổi.
36-Mặc dù cảm thấy thế nào cũng hãy đứng dậy, trưng diện lên và khoe với mọi người.
37-Điều tốt nhất rồi sẽ đến.
38-Thức dậy thấy vẫn sống, hãy cảm ơn Thượng đế.
39-Trong lòng luôn thấy hạnh phúc. Đó chính là hạnh phúc.
40-Hãy có những ngày cuối tuần thật tuyệt vời.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

. Trần Trung Đạo: Hãy nói trước ngày chết

. Trần Trung Đạo: Hãy nói trước ngày chết

Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.

Tương Tri

Trần Trung Đạo

22-03-2015

H1

Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản.
Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.

Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Quốc và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề tranh cải nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?

Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành động bất nhân của chúng.

Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khờ Me Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì họ là “ kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.

Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.

Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án.

Với chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.

Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.

Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”

Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ.

Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.

Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân : “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.

Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi.”

Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương.

Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi trên những đường hẽm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v. và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh.”

Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiếng vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.

Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt ngào như thế.

Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một người trong cuộc.

Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.

Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết nhân đọc bài “Trịnh công sơn – Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người.”

Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa…”

Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.

Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin được.

Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân hoặc đã giết hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông không?

Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v.. mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.

Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác.

Đời sống của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẻ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau buồn, tủi nhục.

Tại sao ông không viết?

Phải chăng những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ ?

Sự im lặng của các ông là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.

Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.

Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.

Suy niệm năm sự Thương

Suy niệm năm sự Thương

Chuacuuthe.com

VNRs (24.02.2015) – Sài Gòn – PHI LỘ – Năm 1917, khi hiện ra tại Fátima (Bồ Đào Nha) với ba trẻ chăn chiên – Luxia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã nhắn nhủ: “Hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày… Hãy cầu nguyện nhiều và dâng những hy sinh để cầu cho các tội nhân… Ta là Mẹ Mân Côi. Chỉ có Mẹ mới có thể giúp các con. …Cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ thắng!”.

Năm 2017 là dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fátima, chúng ta hãy nhắc nhở nhau về ba lời khuyên của Đức Mẹ: [1] Ăn năn đền tội, [2] Tôn sùng Mẫu Tâm, [3] Siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ đã cho biết rằng mỗi lần đọc một kinh Kính Mừng là dâng cho Mẹ một đóa hồng tươi đẹp, và đọc xong một chuỗi Mân Côi là dâng cho Mẹ một triều thiên hoa hồng.

Trong tâm tình yêu mến Đức Mẹ, đặc biệt là tận hiến cho Đức Mẹ và lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng tìm hiểu Năm Sự Thương. Chuỗi Mân Côi quan trọng vì là “Kinh Thánh tóm gọn”. Khi lần chuỗi Mân Côi với năm sự Thương, chúng ta thấy đời sống hằng ngày của chúng ta thêm sức mạnh để vượt qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời, đồng thời thêm nhiều lợi ích qua việc kết hiệp với Đức Kitô và lòng sùng kính Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta nhờ Đức Mẹ để đến với Đức Giêsu Kitô, qua Chúa Con để đến với Chúa Cha.

1. Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu (Mt 26:36-40). Chúng ta cầu xin ơn biết “ăn năn tội nên”. Ăn năn tội “cho nên” là sám hối thật lòng chứ không làm chiếu lệ, cho xong lần, hoặc làm theo “phong trào” (dịp lễ, tết, dịp đặc biệt,…). Tuy nhiên, ăn năn tội có hai cách: [1] Ăn năn tội cách trọn, [2] Ăn năn tội cách chẳng trọn. “Ăn năn tội cách trọn” là chân thành sám hối vì nhận biết Thiên Chúa là Đấng chí thánh mà mình đã xúc phạm đến Ngài, sám hối vì yêu mến Ngài; còn “ăn năn tội cách chẳng trọn” là sám hối vì sợ bị Chúa trừng phạt, sợ mất phần thưởng đời đời.

Ăn năn sám hối rồi thì phải quyết tâm dốc lòng chừa, quyết tâm chống lại mọi cám dỗ. Hãy khó với chính mình, đừng để “cái tôi” vùng lên kẻo sập bẫy của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ). Trong ba thù, “xác thịt” là đối thủ ở gần chúng ta nhất, vì thế mà cũng nguy hiểm nhất – nghĩa là chúng ta phải cảnh giác với nó nhiều nhất.

Chúa Giêsu vác Thánh Giá

Chúa Giêsu vác Thánh Giá

Thánh sử Mátthêu cho biết: Bấy giờ Đức Giêsu đi cùng với các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Ngài nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện”. Rồi Người đưa ông Phêrô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy”. Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:36-39). Thánh sử Luca nói chi tiết: “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22:44).

Khi cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tìm được sức mạnh và niềm tin, và rồi các thiên thần đã tới an ủi Ngài. Chúa Giêsu sẽ an ủi và nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng ân cần nói với chúng ta: “Tại sao con lại lo lắng trong những lúc khó khăn? Hãy tín thác và vững mạnh trong Thầy. Hãy hướng lên Thiên Chúa của con trong những lúc con gặp khó khăn nhất, và con sẽ chiến thắng”. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời cho Chúa, và cứ để Ngài hành động theo Thánh Ý Ngài, như Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong lúc “căng thẳng” nhất: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:39 và 42).

2. Chúa Giêsu chịu đánh đòn (Mt 27:26). Chúng ta cầu xin ơn biết “hãm mình, chịu khó bằng lòng”. Đó là chấp nhận sự khốn khó với niềm tín thác chứ không than thân trách phận, không tự so sánh hoàn cảnh của mình với hoàn cảnh của người khác.
Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô (Mc 15:1). Các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu nhiều tội, nhưng Ngài không nói gì. Tổng trấn Philatô hỏi ý kiến đám đông, họ la to: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Mà Baraba là một tên cướp khét tiếng. Và rồi ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Ngài (Ga 19:1).
Chúa Giêsu im lặng khi được tra xét, Ngài cũng im lặng khi chịu đánh đòn dã man. Và Ngài dịu dàng nói với mỗi chúng ta: “Con ơi, các nhục hình họ áp dụng thật khủng khiếp, nhưng Ta vẫn có thể cam chịu vì yêu thương con, vì thương xót con. Tại sao con không thể yêu mến Ta mà chịu các nỗi đau khổ ở thế gian? Mà các nỗi đau khổ đó có đáng gì so với đau khổ mà Ta đã phải chịu đâu? Hãy chấp nhận mọi đau khổ vì yêu mến Ta, Ta không bỏ con một mình đâu, họ gây đau khổ cho con cũng là gây đau khổ cho Ta thêm nhiều lần nữa. Con oan một thì Ta oan mười. Con đau một thì Ta đau mười. Con hãy cố gắng lên!”.

William Arthur Ward (1921-1994) nói: “Cũng như thung lũng cho ngọn núi chiều cao, đau khổ tạo ý nghĩa cho lạc thú; cũng như mạch nước là nguồn của suối, nghịch cảnh sâu sắc có thể là châu báu”. Thật dễ để dùng ống tay áo lau khô những giọt lệ rơi, nhưng phải biết cách để xóa dấu nước mắt khỏi trái tim mình. Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Họ có lòng can đảm, sự nhạy cảm và sự thấu hiểu đối với cuộc đời. Chính cuộc đời đã làm cho họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Người đẹp không thể tự nhiên mà có. Đau khổ có vẻ đẹp riêng của nó, chẳng vậy mà Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta chịu đau khổ – tinh thần và thể lý.

3. Chúa Giêsu chịu đội mão gai (Mt 27:27-31). Chúng ta cầu xin ơn biết “chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng”. Cũng như chịu đau khổ, chúng ta phải biết “nuốt nó vào trong”. Khi bị người khác sỉ nhục, “cái tôi” sẽ đòi nổi dậy chống lại đối phương. Người xấu có thể tìm cách lăng nhục người khác bằng cách gieo oan giáng họa, bịa đặt, vu khống. Bị sỉ nhục oan mà có thể dằn lòng thì tốt, nhưng nếu bị sỉ nhục vì đáng bị như vậy thì không oan. Kinh Thánh nói: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường” (Cn 11:2). Coi chừng “cái tôi” là cảnh giác với tính kiêu ngạo – đầu mối các thứ xấu xa khác.

Thánh sử Mátthêu cho biết: Bấy giờ, lính của tổng trấn đem Đức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!”. Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá (Mt 27:27-31).

Hãy nghĩ về sự sỉ nhục, sự xúc phạm, và nỗi đau khổ mà Chúa Giêsu đã chịu. Họ tước đoạt nhân phẩm của Ngài, chà đạp nhân vị của Ngài, coi Ngài như một tội nhân ghê gớm nhất. Ngài nhìn và nói với chúng ta: “Tại sao con thất vọng khi gặp đau khổ? Đó không là cách con yêu mến Ta sao? Con hãy suy về nỗi thống khổ của Ta và tìm kiếm sự phong phú kỳ diệu trong nỗi đau khổ đó”. Chúng ta hãy nghĩ về Chúa Giêsu chịu đau khổ vì chúng ta, và hãy cầu xin Ngài ban thêm sức mạnh để chúng ta khả dĩ chấp nhận mọi điều sỉ nhục ở đời này – cả tinh thần lẫn thể lý.

Văn sĩ Auguste Villier de l’Isle Adam (1838-1889, Pháp quốc) nhận xét: “Người nhục mạ bạn, họ chỉ nhục mạ ý tưởng của họ nghĩ về bạn, tức là họ nhục mạ chính họ!”. Như vậy, khi mình bị nhục mạ mà lại không bị, nếu mình nhịn nhục thì họ càng tức, vì sự im lặng của chúng ta như cục than hồng đặt vào họ. Thật là hay, thế thì rất đáng để thực hành noi gương Đức Giêsu Kitô: Nhịn nhục.

4. Chúa Giêsu vác Thánh Giá (Mt 27:27-32). Chúng ta cầu xin ơn vui lòng “vác Thánh Giá theo chân Chúa”. Chúa Giêsu nhiều lần bảo chúng ta phải từ bỏ mình, vì có thể từ bỏ chính mình thì mới khả dĩ theo Ngài, mà theo Ngài thì không được sung sướng, không an nhàn, không thảnh thơi, mà ngược lại, theo Ngài thì phải vác thập giá, nghĩa là luôn phải chịu thiệt thòi, luôn gặp khốn khó, xui tận mạng. Chắc chắn ai theo Ngài thì phải can đảm lắm!

Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu. Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: ‘Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!’. Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: ‘Đổ xuống chúng tôi đi!’, và với gò nống: ‘Phủ lấp chúng tôi đi!’. Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?”. Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người (Lc 23:26-32). Chúa Giêsu cũng đang nói với chúng ta những lời như vậy: “Con hãy thật lòng than khóc vì tội con chứ Ta không cần con thương khóc gì Ta đâu!”.

Mặc dù Chúa Giêsu chịu đau khổ vì chúng ta, nhưng Ngài vẫn chấp nhận gánh nặng vì thương xót chúng ta, tình yêu của Ngài hoàn toàn dành cho chúng ta vô điều kiện. Thập Giá gồm hai thanh gỗ ghép lại, nặng cả trăm ký, kéo lê đi thì sức nặng cũng còn khoảng 80 kg. Không phải dễ vác đi lên đồi cao trên con đường gồ ghề.

Trên đường từ dinh Philatô tới Đồi Sọ, Đức Maria chứng kiến nỗi đau khổ và nhục nhã mà Con Trai phải chịu. Chúng ta có thể tưởng tượng đôi mắt và khuôn mặt của Đức Mẹ thế nào? Chắc chắn Mẹ đau đớn lắm. Chúng ta hãy cầu xin Chúa thêm sức cho chúng ta đủ sức vác thập giá đời mình đến cuối đường trần, và cầu xin Đức Mẹ nâng đỡ chúng ta trên con đường thập giá trần thế này.

5. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thánh Giá (Mt 27:33-35; Ga 19:31-37; Lc 23:33-46). Chúng ta cầu xin ơn biết “đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa”. Tính xác thịt chính là “cái tôi”. Nó là một trong ba kẻ thù nguy hiểm nhất (xác thịt, thế gian, ma quỷ). Nhưng “tính xác thịt” nguy hiểm hơn, vì nó là chính chúng ta. Kẻ thù này ở gần nhất và dễ thấy nhất, nhưng lại là kẻ thù khó chiến thắng nhất.

Nó chỉ chết thật khi chúng ta dám “đóng đinh” nó vào Thánh Giá của Đức Giêsu Kitô. Ghim chặt được nó rồi cũng chưa an tâm, phải đợi cho nó chết thật thì chúng ta mới có thể thanh thản bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu. Nó nhỏ mà to, bé mà sống dai. Nó chẳng là gì nhưng nó có thể làm sụp đổ mọi lâu đài mà chính chúng ta dày công xây dựng cả đời. Ghê sợ thật!

Thánh sử Gioan tường thuật: Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu: “Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19:25-27).

Chúa Giêsu nhận chúng ta là con cái của Đức Mẹ, đồng thời Ngài cũng muốn chúng ta gần gũi và thân mật với Đức Mẹ. Ngài muốn chúng ta với tư cách là con cái, chúng ta hãy nắm chặt lấy tay Đức Mẹ. Ngài cũng muốn chúng ta hãy trao phó cuộc đời mình cho Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà chúng ta đến với Con Yêu Dấu của Mẹ là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm và khiêm nhường, chúng ta cầu xin Mẹ giúp chúng ta chiến thắng tội lỗi nhờ ơn Vô Nhiễm của Mẹ, và cầu xin Mẹ giúp chúng ta triệt tiêu thói kiêu ngạo nhờ đức khiêm nhường của Mẹ. Được như vậy thì chúng ta chắc chắn được gần kề bên Chúa Giêsu, thanh thản nghỉ ngơi trong Thánh Tâm Ngài.

Suy niệm sự thương khó của Chúa Giêsu nhưng lòng chúng ta lại cảm thấy nhẹ nhàng chứ không trĩu nặng. Quả thật, đời sống Kitô hữu thực sự là chuỗi Mầu Nhiệm Thương kéo dài, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này…

TRẦM THIÊN THU

Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca

Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca

Trần Ngọc Mười Hai

VRNs (24.02.2015) – Úc Đại Lợi – Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Chay năm B 29/02/2015

“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca,
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc,
Bằng lời dịu dàng anh đã giết em, giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa, nhắm mắt với nỗi đau, ngọt lịm dạ.”

(Nhạc: Killing Me Softly – Lời Việt: Lê Hựu Hà – Nỗi Đau Dịu Dàng)

(Rm 5: 1-2)

Không hiểu sao, khi nghe lại nhạc-bản này vào đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 13/11/2014, bần đạo cứ như đi vào một thứ “mê-hồn-trận” của âm-nhạc, có lời dịch rất thi-ca kiểu “liêu-trai”, rất trữ-tình.

Không hiểu sao, mỗi lần đầm mình vào giòng chảy đầy nhạc “trẻ” có những tâm-tình hay như thế, bần đạo đây lại cảm-nghiệm một thực-tại nhiều hy-vọng thấm dần vào tâm can, hơn bao giờ.

Quả thật, cũng dễ hiểu, là: khi diễn-tả tâm-tưởng của người trẻ các nơi, người diễn thường đưa ra sức sống nào đó nghe như “hát tình ca”, tựa hồ ca-từ bài hát trên, còn nói thêm:

“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca.

Ngỡ như đất trời giao hòa.

Và tai nghe thấy một rừng âm vang.

khúc hát dâng đời ta.

Cỏ cây muôn loại điều hân hoan.

Nhưng riêng em tưởng như anh.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Riêng phần bần đạo, mỗi lần diễn-dịch tâm-tư và ý-tưởng của ai đó, thường thì bần đạo dùng ngòi bút trẻ để diễn-tả tâm tình mình; dù đó chỉ là tâm-can/tình-tự để diễn-tả một hiểu-biết về thần-học/tu-đức, nữa.

Thế nhưng, nhiều lúc diễn và dịch quá nhiều về thần-học lẫn tu-đức, bần đạo thấy mình ra như người đi trên mây trời lồng lộng, thiếu thiết thực. Đôi lúc, lại phải nhờ vào thi-ca hoặc âm-nhạc để có thêm hứng mà suy tiếp.

Nghĩ thế rồi, bần đạo lại đã thấy cứ hiên ngang mà về với lời ca trên, mà hát tiếp những giòng chảy như sau:

“Rồi khi cơn sốt đun tình tôi.

Bỗng theo cõi nhạc xa vời.

Và anh lên tiếng gọi hồn em.

đang khóc bên con vực sâu.

Hãy mau lên đường về uyên uyến.

Khi nghe thân xác nài van.

Giờ đây ai hát lên tình ca.

Khiến tôi thấy minh xa lạ.

Lời ca âu yếm vỗ về em.

Nhưng vẫn thấy xa thật xa.

Thiếu anh khúc nhạc thành vô duyên.

Tim em vẫn còn nghe.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Phải thú thật thêm rằng thì là: viết “Chuyện Phiếm” lai rai/dài dài như bần đạo vẫn làm, đôi lúc cũng thấy mình trẻ ra rất nhiều tuổi. Một thứ tuổi trẻ mà chỉ những ai thường xuyên tiếp xúc với lớp trẻ/bé mới thông cảm. Có tâm-hồn trẻ, tức: có tâm-trạng như những người vẫn kể về cảm-nghiệm của riêng mình ở nhiều nơi, trên báo chí, trang mạng hay cuộc đời, rất thực-tế.

Trên thực tế, không chỉ mỗi người nghệ-sĩ trẻ tên Lê Hựu Hà mới viết nên tâm-tình của người mình cũng rất trẻ; mà, cả đến những người không-còn-trẻ như tác-giả nọ từng kể lại thứ tâm-tình-lạ-vẫn-rất-trẻ bằng trang viết như sau:

“Ông cụ quay sang nhìn người bạn già đi bên cạnh mình, ông mỉm cười:

-Bà này, mỗi buổi sáng, dậy sớm, đi tập thể dục, nghe chim hót, ngắm mặt trời lên, có bà bên cạnh, với tôi cứ như là đã chờ đợi từ lâu lắm rồi.

-Thì ông công tác xa, lại được giữ lại làm cố vấn, tôi ở xa ông cũng quen rồi. Có khi bây giờ ông về, tôi lại chưa quen ấy chứ!

-Cái bà này, tôi kể cả là ở xa, nhưng khi ở bên bà, tôi có thấy lạ gì đâu? Tôi vẫn thấy lòng mình thanh thản lắm.

-Thì giờ già rồi, chỉ mong thanh thản thôi.

Ngày nào họ cũng cùng nhau đi như thế. Dưới con mắt ngưỡng mộ của cả người trẻ và người già. Người trẻ nhìn ông bà mà ước: Ước gì già mình cũng được như thế. Người già thì ghen tỵ vì có người còn có người bạn đồng hành, có người thì không. Nhưng nhiều khi già rồi, lại trái tính, trái nết, mấy ai mà được tình cảm như hai ông bà. Tình già vẫn còn vương, nhất là cụ ông, cũng xấp xỉ bẩy mươi tuổi nhưng vẫn phong độ nhanh nhẹn lắm. Đúng là quân nhân có khác. Được rèn luyện qua gian khổ nên mới được như vậy. Còn cụ bà có vẻ yếu đuối hơn, lưng bà cũng đã không còn thẳng nữa, nhưng khuôn mặt phúc hậu khi nào cũng lấp lánh ánh cười.

Ông kéo ghế cho bà ngồi xuống bên cạnh, còn mình thì ngồi chiếc ghế gỗ nhỏ, ông chăm chú nhìn nồi cháo đang sôi, lát lại lấy cái giá ngoáy cho cháo đỡ bị dính dưới đáy nồi. Bà bảo để bà làm cho, nhưng ông nhất định không chịu, ông cười:

-Bao nhiêu năm, chỉ toàn bà nấu cháo cho các con tôi, cho bố mẹ tôi, bây giờ, tôi có nấu cho bà ăn tới hết đời cũng chưa thỏa lòng mà!

Bà nhìn ông, đôi mắt nâu đã nhạt màu vì thời gian ngân ngấn nước, mấy sợi tóc bạc trắng của bà phất phơ trước mặt. Bà vén mấy sợ tóc cho gọn rồi nhìn ông:

-Thứ tôi nuối tiếc duy nhất là khi còn trẻ chúng ta không được sống gần nhau. Ông là một người đàn ông dịu dàng. Nhưng bây giờ, ông về rồi. Với tôi thế là đủ!

Ông nhìn bà, ánh mắt lấp lánh niềm vui, và ngập tràn yêu mến. Đúng là khi già, người ta mới cần người làm bầu làm bạn, có người sớm tối bên nhau, câu chuyện câu trò thì cùng nhau ăn bát cháo trắng cũng ấm lòng biết mấy.

Bà nhìn giàn mướp trổ đầy hoa vàng, những con ong mật từ đâu kéo về bay vo vo trước hiên nhà. Ánh nắng buổi sáng chưa gắt, chút gió mát từ ngoài sống thổi lại khiến không khí thoáng dịu vô cùng. Bà nhắc ông:

-Thằng cả nó bảo hôm nay nó cũng nghỉ phép đưa cả vợ con nó về đấy. Ông tính mua cái gì về làm cơm bây giờ?

-Ôi dào, bà kệ chúng nó, nó về khắc biết mua gì mà ăn. Bà chăm nó mấy chục năm, phải để nó chăm lại bà chứ?

-Nhưng mà chúng nó về đây, biết cái gì mà mua.

Ông nhìn bà, ánh mắt cười vẫn không đổi.

-Thì mua được cái gì, ăn cái đó!

Bà cũng cười nhìn ông:

-Vậy thì nghe ông! Rồi như sực nhớ ra điều gì, bà bảo ông:

-Quên mất, nhà mình có gà đấy, việc gì phải mua cái gì nữa. Chuyện đó cứ để đấy, tôi với bà ăn cháo đã.

Ông bưng hai bát cháo để lên chiếc bàn nhỏ ở góc sân, hai ông bà ngồi ăn cháo và nói chuyện gì đó rất vui, khiến bà cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười hoài. Những nếp nhăn trên mặt cứ xô vào rồi lai dãn ra, như dấu bước của thời gian, cứ im lìm, lặng lẽ nhưng không thể xóa nhòa.

Khi còn trẻ, hai ông bà cùng mệnh kim, nên người ta nói, ở với nhau rất hay va chạm. Bà là người phụ nữ thông minh, lại chịu thương chịu khó, nhưng cũng khá bướng bỉnh, nên khi nào ông cũng là người nhường nhịn bà. Ông cười:

-Thua ai mới sợ, chứ thua vợ là đương nhiên! Này nhé: Tôi làm sao mà đẻ được cho bà được hai đứa con vừa ngoan ngoãn như bà, làm sao mà một lúc chăm cả bốn đứa trẻ (ý ông nói là cả bố mẹ chồng, các cụ xưa chả có câu: Một già một trẻ bằng nhau là gì)…

Ngoài ra, bà biết sửa điện, biết tháo lắp các đồ điện trong nhà bị hỏng, bà biết nấu những món ăn ngon mà chỉ về nhà ông mới được ăn. Nói chung là vì bà vĩ đại như thế, nên ông thua là cái chắc. Có lẽ suốt cuộc đời bà, chưa khi nào phải cãi nhau với ông. Nói ra thì chẳng ai có thể tin. Bà biết vì ông lúc nào cũng thương và trọng bà.

Trong thâm tâm bà cũng vậy, khi còn trẻ, lấy ông vì yêu ông, và cho tới tận bây giờ, tình cảm đó vẫn không thay đổi. Ngày ấy trẻ, những lần ông về buổi tối khi nào hai ông bà cũng nằm tâm sự tới khuya, có lần bà ôm ông nói:

-Sau này chúng mình già, anh không được chết trước em, em không muốn mình sống cô đơn một mình. Em đã sống cô đơn một mình nhiều rồi, nay mai anh về, em không muốn mình lại phải một lần nữa sống như thế. Vì vậy, nhất định anh phải sống lâu hơn em đấy! Em sẽ rất sợ nếu một sáng nào đó em tỉnh dậy và chỉ còn lại một mình. Em sẽ khóc đến hết nước mắt! Em không muốn sống cô đơn không có anh lần hai. Anh nhớ đấy nha!

Từ đó, bà thấy ông ít uống rượu hơn, nghe nói, ông còn bỏ cả thuốc lá mặc dù ông nghiện nặng. Không phải vì ông muốn sống lâu hơn bà, mà vì ông muốn, khi về già, ông phải khỏe mạnh hơn bà để có thể chăm sóc bà, và cũng có thể, để sống bên bà tới cùng thì thôi. Ông cũng sợ phải sống một mình, nhưng ông sợ bà phải sống một mình hơn. Nhưng nỗi niềm ấy, ông không nói cho bà biết. Đàn ông thường là thế. Yêu ai yêu hơn cả tính mạng của mình, nhưng vẫn cứ lặng lẽ mình mình biết, mình mình hay.

Từ ngày có ông về nhà, bà vui vẻ lên nhiều, sức khỏe cũng tốt hơn, bệnh huyết áp thấp của bà cũng đỡ hơn nhiều. Sáng nào ông cũng dậy sớm hơn, đánh thức bà và họ lại nắm tay nhau đi tập thể dục. Vậy mà đột nhiên mấy hôm nay, khi nào bà tỉnh dậy cũng chỉ thấy có một mình trên giường, ông thức từ khi nào? Ông đã đi tập thể dục một mình sao? Bà thầm nghĩ: Cái ông này, làm gì cũng được vài bữa, Thật ra cái vài bữa bà nói ấy cũng đã hơn ba năm rồi.

Bà dậy, mặc thêm cái áo len, trời sang thu nên buổi sáng hơi lạnh. Bà thấy ông từ đằng xa, tay xách tùi đồ ăn sáng, khuôn mặt có vẻ đăm chiêu. Nhưng vừa nhìn thấy bà, ông lại mỉm cười ngay được. Bà nhìn ông, người đàn ông cao lớn, đẹp trai ngày nào, rồi cũng thành một ông già, thời gian trôi cứ ngỡ mới là hôm qua, nhưng thời gian cũng thật khắc nghiệt với con người và với cả tình yêu. Thấy vẻ mặt suy tư của bà, ông cười:

-Bà lại đang nghĩ gì thế?

-Tôi chỉ nghĩ không biết ông đi đâu? Ông cười:

-Tôi đi mua bánh khúc của bà Dần đấy. Món này bà thích nhất mà. Gớm, bà bà ấy làm bánh khúc cỡ cũng ba bốn chục năm rồi ấy nhỉ?

-Bánh khúc của bà ấy, thì chẳng ai làm ngon được bằng ông ạ. Từ ngày hai đứa con nhà mình mới hai ba tuổi, đã ăn bánh của bà ấy rồi. Mà ăn bánh khúc của bà ấy, thì đi ăn ở đâu cũng không thấy ngon nữa. Nhưng vừa rồi bà ấy bảo, bà ấy bán nốt tuần này thôi. Bà ấy thấy mệt rồi.

Bà thở dài, nhìn ông:

-Thì chúng ta già cả rồi mà. Ông nhìn xem, cây mít này tôi trồng khi thằng Hải mới được mấy tuổi, vậy mà năm nay nó cũng đã cằn cỗi rồi! Có ra được quả nào nữa đâu!

-Cứ để nó đấy làm kỉ niệm bà ạ, nhưng sao dạo này không thấy ông dậy đánh thức tôi dậy cùng thế? Ông nhìn xa xa, rồi quay lại nhìn bà, ánh mắt vẫn âu yếm như thế:

-Tôi thấy bà ngủ ngon quá, nên không đánh thức bà dậy làm gì.

-Lần sau, ông cứ đánh thức tôi dậy đi cùng ông!

Ông biết tâm tình của bà. Ông đưa tay nắm lấy tay bà bảo:

-Thôi tôi với bà về ăn bánh khúc thôi!

Nhưng tất cả những buổi sáng sau nữa, ông vẫn không đánh thức bà. Khi nào tỉnh dậy trên giường, bà cũng chỉ thấy có một mình. Lúc đầu bà có chút hốt hoảng, nhưng sau vài buổi sáng, bà biết, ông không đi đâu xa, ông chỉ đang ngồi ở ngoài sân hoặc lại đi lại mua đồ ăn sáng, nên bà vẫn thấy an lòng. Bà chỉ thấy thắc mắc, dạo này nhiều lúc vắng bà, là ông lại trâm ngâm đến lạ. Có lần bà về rồi, nhưng ông không biết, khuôn mặt ông nặng trĩu suy tư. Chợt bà thấy lòng mình có chút bất an.

Ông đang ngồi nấu cháo bên chiếc bếp than nhỏ quen thuộc ở góc sân. Nhưng nối cháo đã trào cả ra ngoài mà ông không biết. Bà cầm chiếc áo khoác lên người ông rồi mở vung nồi cháo cho đỡ trào. Giọng bà vẫn dịu dàng như mọi khi:

-Buổi sáng cuối thu rồi, trời sắp chuyển lạnh đấy ông ạ. Mà dạo này, tôi thấy ông gầy đi!

Ông đưa mắt nhìn bà, miệng nở một nụ cười:

-Bà yên tâm, tôi ốm sao được! Nhưng dạo này, tôi thấy ông cứ suy nghĩ đi đâu ấy!

-Tôi thì nghĩ đi đâu được ngoài bà!

Mấy tháng sau, người ta không còn thấy hình ảnh hai vợ chồng già dắt tay nhau đi dạo nữa. Mà chỉ thấy có một mình bà cụ đi vào mỗi buổi sáng. Khuôn mặt bà không còn rạng rỡ như ngày nào. Đôi mắt dường như mờ đục hơn, như được phủ mờ bởi một lớp sương mỏng. Bà đi quanh một vòng rồi lặng lẽ về nhà, nấu cháo, múc hai bát và đặt trên bàn. Bà ăn cháo và ánh mắt bà lại lấp lánh ánh cười.

Một năm sau, đúng ngày ông mất, bà cũng ra đi. Khi con gái dọn dẹp đồ đạc của cha mẹ mới phát hiện ra lá thư của ông viết cho bà, nét chữ run run nhòe ướt, không biết vì nước mắt của ông khi viết hay của bà mỗi khi đọc, cô chỉ thấy những nếp gấp gần như bị rách ra:

“Mình à!

“Tôi muốn được sống lâu hơn mình để có thể nấu cháo cho mình ăn mỗi sáng, đánh thức mình dậy mỗi sáng và để mình không phải sống cô đơn một mình những năm tuổi già. Khi trẻ, tôi đã để mình sống cô đơn như vậy. Tôi muốn bù đắp lại cho mình.

Những ngày tháng này, là những tháng ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Khi được sống bên mình, được chăm sóc cho mình để bù đắp những tháng ngày tôi không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nhưng ông trời không chiều lòng người rồi.

“Tôi biết, nếu đột ngột một sáng nào đó mình tỉnh dậy và không còn thấy tôi ở bên cạnh nữa, chắc hẳn mình sẽ không chịu nổi đâu. Nên khi tôi biết tôi bị ung thư giai đoạn cuối, tôi biết tôi sẽ chẳng sống được lâu nữa. Tôi đã hết sức lo lắng bởi tôi lại thất hứa với mình rồi. Sáng nào tôi cũng tỉnh giấc trước mình và để mình lại đó. Tôi muốn mình quen cảm giác ấy đi. Để sau này khi tôi đi rồi, mình không quá hụt hẫng. Không biết mình đã quen chưa?Nhưng dù sao, khi thức dậy một sáng nào đó, không có tôi bên cạnh, mình cũng đừng khóc đấy!

“Khi không có tôi bên cạnh, mình vẫn phải chăm sóc bản thân và sống vui vẻ. Nếu mình cảm thấy cô đơn quá, thì có thể về ở với thằng cả. Vợ chồng nó sẽ thay tôi chăm sóc mình.

Tôi vẫn chưa nói câu này với mình: Tôi yêu mình!”

Bức thư trên tay cô gái chữ đã nhòe gần như không đọc được nữa. Lau nước mắt, cô gái lặng lẽ đặt bức thư của bố dưới bức ảnh của mẹ trên bàn thờ. Dù không thể cùng đi với ông, nhưng cuối cùng bà cũng đã thỏa nguyện được về gần ông. Cô gái thấy tự hào về bản thân mình, vì cô được sinh ra từ chính tình yêu sâu đậm, đẹp đẽ của cha mẹ mình. Và cô tin, ở một nơi nào đó, chắc hẳn, bố cô lại sáng sáng đánh thức mẹ dậy, hai người cùng nhau thong dong đi tập thể dục mỗi sáng, trong ánh mắt mờ đục vì thời gian của họ, hạnh phúc vẫn cứ hiện lên rạng ngời hơn cả ánh bình minh!” (Tuệ Minh – Ohay TV – Sưu tầm)

Viết về tâm-tình của người trẻ nơi truyện kể ở đâu đó chỉ cốt tạo niềm vui hy-vọng cho mọi người, cả người già và người trẻ nữa. Viết về tâm-tình cần phải trẻ, còn được thấy nhiều đoạn viết ngay cả văn-bản của nhà Đạo mình để tạo cho người đi Đạo có hy-vọng mà sống. Sống hiên ngang, vì có đấng bậc hiển thánh trên đời vẫn từng bảo:

“Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta

vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay;

chúng ta lại còn tự hào về niềm hy-vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”

(Rm 5: 1-2)

Viết về tâm-tình trẻ, còn thấy viết trên rất nhiều trang giấy, cả những trang báo đạo hoặc báo đời có những sự-kiện về lối viết và lối trình-bày tâm-tư rất trẻ của người mình. Viết về những tâm-tình trẻ cần phải có vào mùa Chay-tịnh, còn là lối viết của vị Giáo Hoàng có tâm-hồn trẻ là Đức Phanxicô, hôm vừa rồi như sau:

“Anh Chị Em thân mến,

Mùa Chay là thời điểm canh tân cho toàn thể Giáo Hội, cho mỗi một cộng đoàn và hết mọi tín hữu. Trước hết nó là “thời điểm của ân sủng” (2Corinto 6:2). Thiên Chúa không xin chúng ta bất cứ điều gì mà chính Ngài không ban cho chúng ta trước. “Chúng ta hãy mến yêu vì Ngài đã yêu mến chúng ta trước” (1Gioan 4:19).

Người không cách xa chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có một chỗ ở trong cõi lòng Ngài. Ngài biết đích danh chúng ta, Ngài chăm sóc cho chúng ta và Ngài tìm kiếm chúng ta những khi chúng ta trở mặt với Ngài. Ngài chuyên chú tới từng người chúng ta; tình yêu của Ngài không cho phép Ngài được dửng dưng lạnh lùng với những gì xẩy ra cho chúng ta.

Bình thường, khi chúng ta được lành mạnh và thoải mái, chúng ta quên mất người khác (những gì Thiên Chúa chẳng bao giờ làm): chúng ta chẳng quan tâm gì tới các vấn đề của họ, các khổ đau của họ và các thứ bất công họ phải chịu…

Cõi lòng của chúng ta trở nên lạnh lùng. Bao lâu tôi còn tương đối lành mạnh và thoải mái, tôi không nghĩ đến những ai kém may mắn. Ngày nay, thái độ dửng dưng vị kỷ này đã đạt tới tầm mức toàn cầu, đến độ chúng ta có thể nói đến một thứ toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng. Nó là một vấn đề mà chúng ta là thành phần Kitô hữu cần phải đương đầu.

Khi dân của Thiên Chúa hoán cải trở về với tình yêu của Ngài thì họ thấy được những giải đáp cho các vấn nạn được lịch sử liên tục khơi lên. Một trong những thách đố khẩn trương nhất tôi muốn nói đến trong Sứ Điệp này đó chính là vấn đề toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng.

Thái độ dửng dưng lạnh lùng với tha nhân của chúng ta và với Thiên Chúa cũng cho thấy một chước cám dỗ thực sự đối với cả Kitô hữu chúng ta nữa. Mỗi năm, trong Mùa Chay, chúng ta cần nghe lại một lần nữa tiếng của các vị tiên tri kêu lên khiến cho lương tâm của chúng ta day dứt.

Thiên Chúa không tỏ ra dửng dưng lạnh lùng với thế giới của chúng ta; Ngài đã quá yêu thương nó đến ban Con của Ngài vì phần rỗi của chúng ta. Trong việc Nhập Thể, nơi đời sống trần gian, nơi cái chết và phục sinh của Con Thiên Chúa, cánh cổng giữa Thiên Chúa và con người, giữa trời và đất, một lần nữa được mở ra cho tất cả mọi người.

Giáo Hội như thể bàn tay giữ cho cánh cửa mở ra, nhờ việc Giáo Hội loan báo lời của Thiên Chúa, việc Giáo Hội cử hành các bí tích và nhờ chứng từ đức tin qua đức ái của Giáo Hội (Galát 5:6).

Thế nhưng thế giới lại có khuynh hướng co mình lại và đóng lại cánh cửa mà qua đó Thiên Chúa đã tiến vào thế gian và thế gian có thể đến với Ngài. Bởi thế mà bàn tay, tức Giáo Hội, không bao giờ được tỏ ra ngạc nhiên khi bị loại trừ, chà đạp và đả thương.

Bởi vậy, dân của Thiên Chúa cần đến cuộc canh tân nội tâm này, kẻo chúng ta trở nên dửng dưng lạnh lùng và thu mình lại.” (trích Sứ Điệp Mùa Chay 2015 của Đức Phanxiô, do Đa Minh Maria Cao Tấn Tĩnh dịch từ www.zenit.org/en/articles/pope-francis-homily-at-celebretiong-of-vespers-at-the-basilia-of-st-paul)

Sứ điệp Mùa Chay 2015, thật ra còn là sứ điệp của mọi ngày, rất chay kiêng. Chay không ở mỗi chuyện hãm mình phạt xác. Kiêng, không chỉ mỗi việc kiêng thịt mỡ mà thôi, nhưng lại cứ “xơi” “đồ biển” rất đắt tiền.

Sứ điệp Mùa Chay rất hằng ngày, còn là lời nhắn nhủ gửi đến muôn người từ đấng bậc linh-mục nọ vẫn cứ nhủ và cứ khuyên mọi người “hãy sống Phục Sinh mọi ngày, cả trong Mùa Chay nữa”.

Sống như thế, sẽ thấy niềm vui/hy-vọng ở đường hầm đầy tăm tối vẫn le lói ánh sáng của sự “trỗi dậy” rất Phục Sinh, ở mọi ngày. Mọi thời, và mọi nơi. Sống Phục Sinh vào cả Mùa Chay là sống trong hy-vọng “được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” như đấng thánh hiền vẫn nhắn nhủ người dân thành Rôma thời nào, như trích dẫn.

Sống niềm vui Phục Sinh cả vào Mùa Chay và mọi mùa còn là và vẫn là sống rất vững chãi trong tin-tưởng như câu truyện kể để kết-luận, rất như sau:

“Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.

Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.

Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.

Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.

Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.

Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.

Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.

Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “xếp sòng”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.

Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để che chở cho nhau.

Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.

Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau. Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.

Tình bạn rực rỡ như bảy sắc cầu vồng: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. Đỏ là quả chín, cam là ngọn lửa bất diệt, vàng là ánh dương chiếu rọi, lục là cây cỏ bừng mạch sống, lam là giòng nước trong xanh, chàm là niềm mơ ước trong tim, tím là nụ hoa sắp nở. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay chăm sóc tình bạn để tình bạn trổ nụ đơm hoa nhé!” (trích truyện kể do St sưu-tầm/phổ-biến trên mạng toàn cầu).

Nghe kể rồi, hẳn bạn và tôi, ta sẽ hiên ngang mà sống mạnh sống vững chãi, hy-vọng sẽ thấy niềm vui chan hoà, vào phút cuối. Thế đó, là niềm vui hy-vọng của tôi, của bạn, vào mọi ngày trong đời, vẫn an-bình hiền hoà.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn hy vọng đó là niềm-vui-hy-vọng

Tồn-tại mãi trong đời.

Của mọi người.

Tâm sự người vợ H.O.

Tâm sự người vợ H.O.

Nguoi-viet.com

Nguyễn Kim Loan

Tôi không phải là nhà văn. Tôi cũng không phải là nhà thơ. Tôi chỉ là một cô giáo già với tuổi đời đã gần 80 và tuổi nghề 35 năm trong ngành giáo dục. Nguyện vọng của tôi khi viết bài nầy là để lưu lại một kỷ niệm thân thương cho con cháu khi chúng muốn tìm lại cội nguồn, khi muốn nhớ lại người mẹ, người bà yêu mến, chúng sẽ đọc và sẽ tự hào là người Việt Nam.

Tôi không bao giờ quên được ngày 30 tháng 04 năm 1975,  ngày quốc hận và cũng là ngày biến cố quan trọng của đời tôi. Bọn cộng sản tàn ác, vô lương tâm xâm chiếm miền Nam. Chúng gieo rắc bao chết chóc, tang tóc cho biết bao gia đình! Con phải mất cha, vợ phải xa chồng, gia đình phải ly tán nhau! Bao nhiêu máu đổ thây phơi, bao nhiêu trái tim tan nát…

Chúng gọi những quân nhân trong quân lực Việt nam Cộng Hòa là ngụy quân. Chúng bắt họ ra trình diện và đưa đi “học tập cải tạo” một tuần lễ. Một tuần lễ đối với chúng nó mà kéo dài tới hai, ba năm hoặc tới hai mươi năm, tùy theo cấp bực.

Tôi nhớ lại lời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói với quân, dân miền Nam: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì chúng nó làm.” Thật không sai! Chúng nó nói một đàng mà làm một nẻo.

Chồng tôi, Nguyễn Văn Quy, bị gọi đi trình diện và bị đi học tập cải tạo ở Cây Cầy (Tây Ninh). Một mình tôi ở nhà, vừa làm cha vừa làm mẹ, nuôi dạy bốn đứa con còn nhỏ dại, đứa con trai lớn nhứt mới mười một tuổi, đứa con gái nhỏ nhứt mới năm tuổi.

Tôi dạy ban ngày ở trường tiểu học Bạch Đằng. Ban đêm thì dạy lớp bổ túc văn hóa cho quý cô, quý bác lớn tuổi thất học (mù chữ). Chủ Nhật thì dạy kèm tại gia cho các học sinh học kém. Ông bà ta thường nói “nhất nghệ tinh nhất thân vinh.” Thân vinh đâu tôi không thấy mà tôi thấy tôi cực như trâu. Mà đúng vậy các bạn ạ. Tôi tuổi Sửu. Mà con trâu thì ban ngày kéo cày, tối được nằm nghỉ ngơi. Tôi còn cực hơn trâu các bạn ạ. Người ta thường nói “trâu ruộng bộn bề không bằng một nghề trong tay.” Với nghề dạy học, tôi bán chữ nuôi cha mẹ bịnh tật già yếu, nuôi chồng đang học tập cải tạo trong lao tù khổ sở, nuôi bốn đứa con nhỏ dại tiếp tục cấp sách đến trường.

Cha tôi, tám mươi lăm tuổi, bị té gẫy xương hông nên đã nằm liệt giường suốt năm năm qua. Mẹ tôi tám mươi tuổi, bị mổ bướu buồng trứng ba lần nên sức khoẻ rất yếu. Gánh nặng gia đình oằn xuống trên đôi vai gầy yếu của tôi.

Có một lần nọ, bốn đứa con lần lượt bị ban đỏ (bệnh sởi). Nhìn các con nằm rên xiết trên giường, tôi đau lòng quá! Tôi quẫn trí, định đưa các con lên cầu Bình Triệu (Thủ Đức) để mẹ con cùng nhảy xuống sông chết hết cho rồi!! Nhưng tôi sực nhớ lại, tôi còn cha mẹ già yếu đang cần đến sự chăm sóc của tôi, còn chồng tôi đang học tập cải tạo, đang cần đến sự thăm nuôi của tôi và nhứt là, bốn đứa con yêu quí của tôi đang rất cần đến bàn tay mẹ hiền. Tôi tự nhủ thầm rằng “ Tôi Phải Sống.” Bổn phận làm con, tôi phải báo hiếu cho mẹ cha. Bổn phận làm vợ, tôi phải lo tròn đạo phu thê. Bổn phận làm mẹ, tôi phải nuôi dạy các con khôn lớn nên người. Ròng rã suốt bảy năm trời thì cũng có ngày chồng tôi được trả tự do.

Ngày 21 Tháng Giêng năm 1982, ngày mà chồng tôi được ra khỏi tù cộng sản, ngày mà cả gia đình tôi đều nở nụ cười mừng rỡ. Nhìn chồng gầy ốm xanh xao, tóc đổi màu bạc trắng, tôi cay đắng, nghẹn ngào.Tôi chạy đến ôm anh, chỉ thốt ra được hai tiếng “Mình ơi,” rồi nước mắt tuôn ra thắm đẩm gò má và loang lổ trên ngực áo. Anh thì cũng chẳng thốt được lời nào, chỉ ôm chặt lấy tôi với khóe mắt rưng rưng đầy lệ.

Ôi làm sao tả xiết cảnh đoàn tụ sao bao năm dài xa cách. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Kể từ bây giờ tôi sẽ có người bạn đời bên cạnh để chia sẻ vui buồn, để chung nuôi con cái, để phụng dưỡng cha mẹ già.

Mỗi tháng anh phải viết báo cáo và trình diện tại phường 24 quận Bình Thạnh (nơi cư trú của gia đình tôi). Sau một năm, anh đi làm thư ký cho khách sạn bên Khánh Hội dưới sự kiểm soát của phường. Đến năm 1984, tôi nhờ một chị bạn làm tại bưu điện Saigon gởi hồ sơ của chúng tôi tới tòa đại sứ Mỹ bên Thái Lan, xin đi Mỹ theo diện H.O.. Chờ đợi mỏi mòn mười năm, hồ sơ được chấp thuận cho cả gia đình gồm cha mẹ và ba đứa con qua Mỹ (đứa thứ tư đã vượt biên năm 1988 và định cư tại Canada).

Làm sao để ta có thể giải thích được phước họa ở đời? Ngày 30 Tháng Chín năm 1994, vợ chồng con cái chuẩn bị đi phỏng vấn cho một cuộc đổi đời thì sự thay đổi oan nghiệt lại lù lù hiện tới: Mẹ tôi đột ngột qua đời! Hỡi ôi, thân nầy ví xẻ làm hai được! Tôi nên đi theo chồng con, hay ở lại lo hậu sự cho mẹ hiền? Thôi thì tùy duyên. Anh và con hãy đi trước đi. Anh ơi hãy cho em… Các con ơi hãy cho mẹ…một lần cuối cùng nhỏ lệ khóc thương đấng sanh thành.

Ngày 17 Tháng Mười, năm 1994, anh và ba đứa con ngậm ngùi từ giã quê hương. Đại úy Nguyễn Văn Quy của sư đoàn 25 Bộ Binh, dẫn theo ba con lên máy bay, đi Mỹ theo diện H.O. 23, để lại người vợ héo hon, người mẹ nát lòng. Sự sống của tôi đã theo đường bay trong đám mây ảm đạm kia mà mất dần, mất dần…Tôi ngã xuống trong chiếc xe mang tôi trở về. Cấp cứu của người bạn bác sĩ làm tôi tỉnh lại và bao lời khuyên lơn của bạn bè lối xóm, làm tôi thuyên giảm nỗi đau lòng. Tôi tự nhủ, thôi thì chỉ có xa nhau sáu tháng. Lo cho mẹ mồ yên mả đẹp rồi gia đình lại sẽ gặp nhau.

Anh và các con qua California ở nhờ nhà người bạn thân mà anh đã kết nghĩa anh em trong tù! Cùng nhau chia sẻ hoạn nạn, dằn vặt, nhục nhã, đói khát, anh và Thạch đã coi nhau như anh em ruột.

Thạch và Bảo, vợ Thạch, cùng các con đã đem hết tấm lòng thương yêu ra, giúp đỡ cho gia đình tôi. Cả nhà đi học ESL. Con trai tôi vì đã học hết hai năm tại trường sư phạm, môn Anh Văn, nên dễ dàng kiếm được việc làm. Cháu đạp xe  đi làm nên người bạn Mễ cùng sở thương tình cho cháu quá giang khi mùa đông lạnh tới. Tuy không phải là người cùng chung huyết thống mà cậu ta xem con tôi như người bạn đã thân quen lâu đời. Rồi dần dần cả anh và hai đứa con gái cũng đều có việc làm.

Thế là Chủ Nhật cuộc gọi phone tưng bừng diễn ra. Ôi đại dương ơi, dù mi có xa xôi muôn trùng nhưng cũng không có quyền lực cách ngăn tình chồng nghĩa vợ, tình mẫu tử thiêng liêng. Nhưng hãng điện thoại thì có đủ quyền lực gởi cái “bill” đến với giá sáu trăm đô la! Ôi Chúa ơi, những lần sau tôi đều luôn miệng ngăn cản: “Thôi stop đi anh ơi. Thôi stop đi con ơi …” Tôi xin được phỏng vấn lại sau bốn tháng xa cách.

Ngày 17 Tháng Hai, năm 1995, tôi rời Việt Nam với một tâm hồn nặng trĩu, lớp lưu luyến nơi chôn nhau cắt rún, lớp lo lắng cho bệnh tình của cha già. Tôi không dám đến từ giã người, vì tôi sợ tôi bị xúc động rồi ngất xỉu đi thì sẽ không đi Mỹ được. Tôi bị bịnh cao máu nặng, mỗi khi tôi bị buồn rầu hay xúc động thì tôi bị ngất xỉu rất lâu mới tỉnh dậy. Máy bay cất cánh rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 12 giờ rưỡi và sau 20 tiếng đồng hồ, gia đình tôi xum họp lại tại Mỹ.

Ngày ngày tôi đến trung tâm St. Alsem để học Anh văn. Sau sáu tháng tôi phải đi mổ mắt. Trước khi đi mổ, tôi quỳ gối trước bàn thờ và thành tâm khấn nguyện: “Xin Đức Mẹ cho con thấy được rõ ràng sau khi mổ mắt. Nếu con bị mù chắc con tự tử chết quá, vì con không muốn làm khổ chồng và các con của con !” Có lẽ vì quá thương chồng và các con nên tôi mới có ý nghĩ điên cuồng như thế.

Đức Mẹ đã nhận lời cầu nguyện của tôi nên sau khi mổ, đôi mắt tôi rất sáng và trông thấy rõ ràng. Tôi có thể đọc sách mà không cần mang kiếng lão nữa. Con xin cám ơn Mẹ Maria, tôi xin cám ơn bác sĩ Minh, người đã mổ mắt cườm cho tôi. Tôi đặt chân lên đất Mỹ ở cái tuổi năm mươi tám, cái tuổi dở thầy, dở thợ, và không muốn đi ở đợ. Ở Việt Nam tôi làm cô giáo, qua Mỹ tôi “tháo giầy.”

Làm cô giáo 35 năm, hôm nay đổi đời tôi trở lại làm học trò! Thật là một kinh nghiệm sâu sắc và quí giá. Chồng tôi học Anh văn và Spanish vào buổi tối. Tôi học buổi sáng. Ban ngày anh đi làm việc ở tận Long Beach. Chiều về ăn vội vài chén cơm rồi đi ngủ để đến 10 giờ tối thì vợ chồng tôi lại đến xưởng phân phát báo Los Angeles Times, để xếp báo. Đến 5 giờ sáng thì cùng nhau đi bỏ báo. Địa điểm bỏ báo của chúng tôi ở gần biển nên mùa Hè thì dễ chịu, còn mùa Đông thì lại vất vả, khổ sở. Gió biển lạnh thấu xương. Tay xách, vai mang bị đựng báo, chúng tôi lê bước bỏ báo đến từng nhà, vì chúng tôi tuổi già, sức yếu, tay run nên không thể ngồi trên xe mà quăng báo một cách điệu nghệ như đám trẻ. Xong việc, anh đưa tôi tới Golden West để tôi tham gia lớp học, còn anh lại đi làm thêm.

Tôi học Anh văn rất khó khăn, nên mấy tháng đầu nghe thầy giảng mà như vịt nghe sấm! Phần lớn tuổi, phần đầu óc chậm tiếp thu, nên thay vì học lớp cắm hoa chỉ có hai năm,  tôi phải mất bốn năm. Sau bốn năm miệt mài tôi cũng ra trường  vào mùa hè 2001 với chứng chỉ Floral Design & Shop Management. Dù có chứng chỉ trong tay nhưng với số tuổi đời đã muộn nên không có tiệm hoa nào mướn tôi hết. Tôi đành ở nhà lo cơm nước cho chồng và các con. Đêm đêm cùng chồng đi bỏ báo cho đến lúc hưởng tiền già.

Tôi thuộc loại “Giamaha” (già mà ham). Ham học, ham làm chớ không ham đi shopping. Vì tiết kiệm ngân quỹ gia đình, tôi chỉ mặc đồ hiệu ‘”DOMIBO” (đồ Mỹ bỏ ) và “DOREMI” (đồ rẻ Mỹ). Ba đứa con tôi tiện tặn để dành tiền trong ba năm và mua được một căn nhà ba phòng ngủ, hai phòng tắm, giá $158,000 mà chỉ đặt tiền trước có $ 10,000.

Trước khi mua nhà chúng tôi tạm trú với Thạch. Sau một năm chúng tôi muớn một căn hộ hai phòng đường Magnolia để ra riêng. Sau khi ở được hai ngày, đứa con trai lớn xuống garage thì thấy xe đã mất. Tôi bủn rủn cả chân tay. Chiếc xe chưa trả hết tiền mà đã mất.

Nỗi khổ mất xe còn nóng hổi thì anh cả tôi bên ViệtNam kêu qua, báo tin ba tôi vừa mới qua đời sáng ngày 05 Tháng Tư, năm 1995. Con người có thể chịu đựng được bao nhiêu đau khổ dập dồn trong một thời gian ngắn ngủi hả bạn? Lòng tôi ray rứt, ăn năn. Phải chi tôi nán lại Việt Nam hai tháng thôi thì tôi đã có cơ hội mang chiếc khăn tang tiễn đưa ba tôi đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Phải chi tôi đừng vội vàng, tôi đã có thể quỳ bên giường bệnh và vuốt mắt đấng sanh thành trong lần tiễn biệt. Tôi khóc như mưa và khấn nguyện: “ Cha ơi, xin hãy tha cho con tội bất hiếu. Con không thể nào vẹn vẻ cả đôi đường…Xin cha hiểu cho con. Con thương cha nhiều lắm…” Tôi không thể về VN được nên gởi tiền về cho anh tôi lo ma chay. Trong sáu tháng tôi mồ côi cả mẹ lẫn cha !

Tôi ở nhà lo việc nội trợ, nấu nướng để khi chồng và các con về sẽ có bát canh nóng, chén cơm dẻo. Cả nhà sống trong hạnh phúc giản dị, chân thành. Các con ban ngày làm việc, tối học thêm ở Golden West College. Chúng hiện đã hoàn thành “ Giấc Mơ Mỹ” với công việc ổn định, nhà cửa đàng hoàng. Vợ chồng tôi chỉ ao ước sớm có cháu nội ngoại để ẵm bồng cho vui tuổi già. Các con tôi đều hiếu thảo, hiền ngoan. Gia đình tôi rất hạnh phúc. Cuối tuần xum họp, ăn uống và cùng nhau đi lễ ở nhà thờ Westminster. Chúng tôi tập cho các con biết thương yêu, chia sẻ và nâng đỡ nhau trong những khi tối lửa tắt đèn.

Sau mười sáu năm cùng nhau chia sẻ tất cả thăng trầm, buồn vui, khổ đau và hạnh phúc, ngày 14 Tháng Giêng, năm 2009, chồng tôi bỏ tôi ra đi, về với Chúa. Anh trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Fountain Valley vì nhồi máu cơ tim. Trước khi hôn mê, anh đã thì thầm với tôi: “Loan ơi, anh mệt lắm.” Nghe anh nói mà tim tôi đau nhói. Tôi cảm thấy như có muôn ngàn mũi tên đâm vào trái tim tôi. Tôi nắm tay anh, cố nén tiếng khóc. Đau khổ ơi, hãy chảy ngược vào tim đi, hãy nằm đó rã tan và thấm đậm. Rồi một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng nhau gặm nhắm từng phút, từng giây, từng nét rạch, từng đường vỡ để cho nước mắt nhỏ từng giọt xuống mộ bia lạnh lẻo, để người nằm đó nhắm mắt thở dài…Anh chăm chú nhìn tôi rất lâu mà không nói được cho đến khi hoàn toàn chìm vào hôn mê. Bác sĩ mời mẹ con tôi ra ngoài để họ dùng máy nhồi tim. Mẹ con tôi ngồi chờ trên đống lửa. Sau cùng ông ra, buồn rầu và nghiêm trang, nói: “Xin lỗi bà, chúng tôi đã làm hết sức. Ông nhà quá yếu…”

Các con dìu người mẹ khổ đau ngồi xuống ghế. Tình yêu, hạnh phúc, xum họp, chia lìa… Như những bọt nước…như những chiếc lá vàng… mênh mông… bềnh bồng… vô tận…

Chúng tôi được phép xuống phòng ICU để nhìn mặt anh lần cuối cùng. Sau khi Cha làm phép xức dầu và đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn Gioan Baotixita sớm về với Chúa thì y tá đến rút ống oxy. Tôi nắm bàn tay mềm mại và còn chút hơi ấm của chồng mà nước mắt tuôn rơi. Tôi than thầm: “ Mình ơi, sao mình nỡ đi trước, bỏ em lại bơ vơ một mình. Mình nhớ cầu xin Chúa sớm rước em đi theo mình nghen mình!!”

Chúng tôi quàn anh tại nhà thờ Dilday Brothers ở đường Beach. Chúng tôi xin cảm tạ tất cả quý Cha, quý thân nhân, bằng hữu đã an ủi, thăm viếng và tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Chúng tôi cũng không quên cám ơn nước Mỹ đã cho những gia đình cựu quân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hoà được tị nạn trên miền đất tự do nầy… được tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do ứng cử và bầu cử, và được tự do biểu tình v..v..

Chúng tôi nguyện chọn nơi đây là quê hương thứ hai và chúng tôi cũng sẽ gởi nắm xương tàn tại non nước nầy, giống như người chồng, người cha yêu quý của chúng tôi vậy.