Nên thánh

Nên thánh

Chuacuuthe.com

VRNs (25.11.2014) – Sài Gòn

Chúa đã dạy: “Hãy trở nên hoàn thiện

Giống như Cha, Đấng ngự ở trên trời” (*)

Chúa bảo con phải nên thánh đấy thôi

Không nên thánh, nghĩa là phụ lòng Chúa

Đường nên thánh không có hoa thắm nở

Đầy trắc trở, gập ghềnh và chông gai

Chuyện nên thánh không ở thời tương lai

Mà là chuyện hằng ngày, thời hiện tại

Với Thiên Chúa, người khôn là kẻ dại

Còn kẻ dại lại chính là người khôn

Đích nên thánh không xa mà rất gần

Là bỏ mình từ những điều rất nhỏ

Vác thập giá đôi khi cũng té ngã

Cứ ngã rồi lại cố gắng đứng lên

Chẳng hề có thập giá nào dịu êm

Nên người vác sẽ chịu nhiều bầm giập

Tài sản quý của con người nhiều thật

Tính ích kỷ, thói kiêu ngạo, giả hình

Thích người giàu, ai nghèo hèn thì khinh

Đâu ai muốn bán hết tài sản đó

Không bán hết thì đừng mong theo Chúa

Không theo Chúa thì chẳng nên thánh đâu

Vác thập giá phải trước cũng như sau

Không nên thánh nếu “bán đồ nhi phế”

Muốn nên thánh ắt phải chịu đau khổ

Đau thân xác và khổ cả tinh thần

Vác thập giá mà tà tà, an nhàn

Chắc chắn rằng không thể nên thánh được

Lạy Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót

Xin giúp con bán hết cả cuộc đời

Không giữ lại điều gì, dù nhỏ nhoi

Vì con muốn theo Ngài để nên thánh

TRẦM THIÊN THU

‘Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu’

‘Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu’

Duy Chiến thực hiện

“Hậu quả của lối làm ăn chụp giật, giả dối này ghê gớm lắm. Tôi sợ nhất là nó truyền đời đến con cháu”, nguyên Chủ tịch An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị chia sẻ.

LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Minh Nhị, tên thường gọi là Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang.

clip_image001

Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch An Giang. Ảnh: Duy Chiến

Mở đầu những trăn trở về nông nghiệp và người nông dân VN, ông Bảy Nhị chia sẻ câu chuyện thăng trầm của cá ba sa – loài cá được dựng tượng đài tại Châu Đốc – An Giang vì tầm quan trọng của nó.

Làm ăn kiểu “tình chị duyên em”

Sau khi thịt cá ba sa phi lê tìm được đường xuất khẩu vào thị trường Mỹ đầu những năm 1990, trải qua quá trình nghiên cứu, khảo sát vất vả, ông Nhị và các đồng nghiệp đã thành công trong việc cho loài cá này sinh sản nhân tạo. Một thời cơ vàng dường như mở ra khi chúng ta chủ động được nguồn giống và nhu cầu thị trường lúc đó đang rất lớn.

Vậy nhưng…

Ông Nguyễn Minh Nhị: Tôi còn nhớ có lúc cao điểm giá cá ba sa xuất khẩu lên đến 8 USD/kg! Các bè cá mới mọc san sát trên sông Hậu. Các nhà máy, cơ sở chế biến tấp nập ra đời.

Lúc ấy tôi cũng lo là để phát triển tự phát sẽ chèn ép lẫn nhau, cạnh tranh sẽ không đảm bảo chất lượng, có sự gian dối nên đề nghị Nhà nước phải quản lý, nhất là khâu giống. Nhưng không ai nghe cả. Họ nói: “Thị trường là tự do! Nhà nước không nên can thiệp”.

Khi nhu cầu cá ba sa tăng nhanh thì khách hàng ở Mỹ, mấy ông Việt kiều gợi ý đưa cá tra vào nuôi đội lốt cá ba sa kiếm lời khủng. Cá tra dễ nuôi, năng suất cao, trong khi cá ba sa rất ‘trưởng giả”, khó tính. Cũng nên biết rằng, trên thế giới này chỉ có Việt Nam nuôi cá ba sa thương phẩm thành công.

Vậy là bất chấp tất cả, có quy hoạch hay không, bất kể đất lúa màu mỡ, rất nhiều người cứ thế đào ao nuôi cá tra rồi quy hoạch sau. Phong trào rộ lên từ tỉnh đầu nguồn, lan ra khắp ĐBSCL, rồi đến lượt các nhà máy chế biến cũng bị hút vào cuộc, thi nhau vay vốn đầu tư.

Từ sau năm 2000, sản lượng nuôi tăng vọt, số nhà máy chế biến cũng tăng theo. Từ đó cung vượt cầu, sinh ra cạnh tranh kiểu “tự hủy diệt”. Cứ sau mỗi kỳ hội chợ thủy sản ở Boston (Mỹ), Brussels (Bỉ) hay ở Việt Nam là giá cá lại sụt, vì các DN đến hội chợ chủ yếu “đi đêm” chào giá thấp.

Khi dự hội nghị Chính phủ tại Hà Nội, tôi từng phát biểu tình hình này với tâm trạng rất bức xúc. Bức xúc nhất là việc gian lận đánh tráo cá tra vào, mà tôi gọi là “Tình chị duyên em”, khiến cá ba sa không còn mấy người nuôi. Hành vi này làm mất uy tín Việt Nam trên thương trường, vừa làm cạn kiệt một giống loài là nguồn thực phẩm quí hiếm mà thiên nhiên ban tặng.

Bây giờ ngay tại An Giang, quê hương của cá ba sa mà cá ba sa cũng chẳng còn. Tôi đi tiếp khách vào nhà hàng thấy thực đơn có món cá ba sa, bèn gọi. Dù đã hỏi, căn dặn nhà hàng mấy lượt là phải đúng cá ba sa, họ dạ dạ vâng vâng nhưng đưa lên toàn cá tra! Tôi giận quá, truy hỏi tại sao, họ trả lời: “Dạ, bây giờ không còn ai nuôi cá ba sa nữa. Bác thông cảm!”. Chết không?

Con cá ba sa trời ban tặng cho miền sông Hậu đã đi vào truyện cổ tích mất rồi. Tôi đang viết lại câu chuyện này để con cháu mai sau còn nhớ trên quê hương mình có giống cá “độc nhất vô nhị” mà không giữ được!

Thưa ông, thời ông làm Chủ tịch UBND tỉnh, An Giang xây tượng cá ba sa, bông lúa – hai biểu tượng kinh tế nông nghiệp của An Giang. Nay cá ba sa đã “đi vào cổ tích”, ông có lo cây lúa cũng theo bước?

clip_image002

Tượng đài cá Basa tại Châu Đốc. Ảnh: Bazantravel

Ông Nguyễn Minh Nhị: Có chuyện này tôi mới nghe mà hết hồn hết vía! Nhiều hộ nông dân đang áp dụng kiểu ăn gian, ngày mốt cắt thì bữa nay xả nước vào ruộng, phun thuốc vào. Hôm sau xả nước ra để ngày mai cắt lúa. Kiểu gian dối này cho thêm khoảng 1 tấn/ha.

Tôi điện hỏi mấy anh em DN có biết không? Họ trả lời biết rồi, nhưng không sao vì họ có máy móc thiết bị đo độ ẩm, dễ gì ăn gian được. Chết là mấy ông hàng xáo đi thu mua, nhưng họ cũng chỉ một lần bị mắc lừa nông dân thôi.

Người ta nói “điếm vườn sao bằng điếm chợ”, nông dân mình cứ tưởng làm vậy là khôn, có cái lợi trước mắt. Nhưng chính họ sẽ bị trả giá nhiều nhất, không chỉ bị thương lái biết rồi ép trở lại, mà họ không thấy rằng uy tín của hạt gạo không có thì họ cũng bị thiệt nhất.

Làm ăn không nhìn xa thấy rộng, chỉ thấy lợi trước mắt, bất chấp thiệt hại lớn gấp nhiều lần sau đó. Nuôi cá cũng vậy, trồng lúa cũng vậy, rất chụp giật…

Đừng trách người nông dân

Thưa ông, tại sao tầng lớp nông dân luôn được xem là thật thà, chất phác mà lại có những trò gian dối như vậy? Không chỉ có trong nuôi cá và trồng lúa, họ sẵn sàng phun thuốc trừ sâu vào rau để sáng mai thu hoạch bán, bất chấp sức khỏe của người tiêu dùng?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Nông dân mình có nhiều cái tệ, nhưng không trách họ được, và cũng không nên trách. Họ không có điều kiện để hiểu biết hết nên thấy cái gì có lợi là làm, hứng lên là làm. Có ai chỉ [cho] họ làm cái gì cho có hiệu quả đâu? Họ phải tự mày mò, tự mưu sinh, làm ra sản phẩm may thì bán được, không may thì lãnh đủ nợ nần!

Họ không có tổ chức, không có ai hướng dẫn họ làm cái gì, không nên làm cái gì, làm ra bán ở đâu. Họ phải tự mưu sinh bằng những cách làm hại chính cả họ. Và, cuối cùng họ vẫn là người chịu thiệt thòi nhất. Theo tôi biết, ở các nước, nông dân được quan tâm, được tổ chức rất tốt chứ không bỏ mặc như nông dân ở ta đâu.

Theo ông, nguyên nhân những khiếm khuyết đó của nông dân ta, mà trầm kha nhất là chụp giật, tầm nhìn ngắn, tự đục vào chân mình là gì?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Ngày xưa, nông dân ta luôn được đánh giá là lương thiện, đạo đức, cần cù. Còn ngày nay, họ cũng bị ảnh hưởng rất nhiều thói xấu. Tất cả bắt nguồn từ sự chụp giật, tranh thủ tối đa, bất kể hậu quả. Căn bệnh này đã lây lan rộng chứ không chỉ nông dân. Nhưng với nông dân thì quả thật đau lòng, vì họ lẽ ra phải là thành trì của đạo đức, của sự lương thiện, chất phác phải không?

Theo tôi, chúng ta phải nhìn sâu xa vào những nguyên nhân từ trong chính sách. Bản chất của nông dân là gắn với đất đai, cả ngàn đời nay là vậy. Nông dân là đất, đất là nông dân.

Khi đất không phải của nông dân mà chỉ được sử dụng có thời hạn thì họ chẳng còn gắn bó máu thịt với đất đai như xưa.

Không còn gắn bó thì cũng không còn gìn giữ, bồi đắp vào cho đất, vì ngày mai có còn là của mình nữa đâu! Nhiều cái xấu ra đời từ đây, chính vì không gắn bó với đất, không nặng lòng với đất mà lương tâm, tình làng nghĩa xóm, tình quê hương bị tha hóa, sẵn sàng đánh đổi vì những lợi ích ngắn hạn.

Tôi còn nhớ hồi mới giải phóng, ta thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ áo” giống như ở miền Bắc trước đây. Hồi ấy, những người có nhiều ruộng đất trong Nam là do họ cần cù, siêng năng, chịu khó mà có nên nặng lòng với đất. Tôi nhớ như in nhiều nông dân nghèo được Nhà nước chia lại ruộng của những người này, đã không nhận. Họ nói: “Người ta làm sáng tối, không biết nghỉ mới có nhiều đất. Mình lấy không của người ta coi sao được!”.

Tôi báo cáo việc này lên Tỉnh ủy, ông Bí thư lúc ấy kết luận: “Nếu không nhận đất thì không phải là nông dân, thì không cho nữa!”. Đơn giản thế thôi. Lúc ấy chúng ta không lường được hậu quả tai hại như ngày nay đang chứng kiến.

Người nông dân vốn dĩ là tốt, đã chuyển hóa và tha hóa từ đó. Lúc đầu thấy nhận đất của người khác, tức mồ hôi và nước mắt của người khác là “kỳ lắm”, “coi không được”, quyết không nhận! Nay thì khác rồi. Hai đám ruộng của hai nhà liền ranh còn lấn nhau từng chút huống chi những chuyện khác có nhiều lợi ích hơn. Cái gì lợi cho mình thì dẫu có hại cho người khác cũng làm.

Cái tình của người nông dân với đất phôi phai đi cũng làm cho cái tình với quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn không còn thiêng liêng như xưa. Những giềng mối gìn giữ đạo đức, lương tri, nhân bản chân chất nhất cũng từ đấy mà sút sổ, long ra.

clip_image003

Làng bè cá Châu Đốc

“Nói một đàng làm một ngả” nhiều quá

Từng giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, về hưu trở lại làm nông dân trồng lúa và nuôi cá, ông nhìn nhận các chủ trương, chính sách và công tác quản lý nhà nước với nông nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Tình trạng chung nhất là “Nói một đàng làm một ngả” nhiều quá. Có muôn thứ chuyện chứng minh cho điều này.

Chẳng hạn chuyện vận động nông dân làm ra nhiều lúa gạo rồi bán không được, mặc cho họ bị thua lỗ. Xui nông dân nuôi con nọ, trồng thứ cây kia rồi bỏ chạy mất, không biết bán cho ai. Lẽ ra, bảo nông dân trồng lúa thì phải có công ty mua số lúa làm ra chứ. Có bên quăng thì phải có bên hứng, phải tổ chức cho khớp nhau thì nói và làm mới đi đôi chứ?

Gần đây tôi nghe Bộ NN-PTNT triển khai kế hoạch chuyển 200.000 ha đất lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng bắp, đậu nành và màu. Tôi thấy băn khoăn không hiểu trồng những thứ đó rồi nông dân bán cho ai hay lại đẩy họ vào chỗ khó như các chương trình chăn nuôi bò trước kia?

Thưa ông, theo tôi biết hàng năm Chính phủ vẫn cho thu mua tạm trữ, giảm áp lực tiêu thụ lúa cho nông dân mà?

Ông Nguyễn Minh Nhị: Chuyện này tôi quá hiểu! Khi lúa chín rộ, các công ty lương thực sàng bên này, lách bên kia để chậm triển khai. Bởi giá lúa càng thấp thì họ càng có lợi. Đến khi triển khai cũng đâu có làm đúng như tinh thần chỉ đạo. Nông dân gần như chẳng được gì.

Tôi có ông bạn cùng quê xứ Tịnh Biên làm công tác thu mua lúa. Tôi đến mấy trạm thu mua của ông ấy kiểm tra, thấy có hai giá mua, cao và thấp khác nhau. Giá rẻ để ngoài là giá mua thật cho nông dân, còn giá cao cất bên trong, khi có đoàn kiểm tra đến thì trưng ra! Bữa tôi bất ngờ đến, họ thay không kịp, tôi hỏi sao làm ăn vậy. Họ trả lời: “Giá cao là giá Nhà nước quy định. Còn giá thấp là giá thu mua theo… thị trường!”. Bất nhẫn vậy đấy. Nhà nước cho vay không lãi để thu mua song thực chất họ mua vẫn ép nông dân chứ có nương gì đâu!

Tôi cũng nhiều lần đi ký hợp đồng xuất khẩu gạo với anh em. Ký xong về giá lúa lên là… bẻ chĩa ngay!

Hậu quả của lối làm ăn chụp giật, giả dối này ghê gớm lắm. Tôi sợ nhất là nó truyền đời đến con cháu sau này thành một xã hội giả dối. Thế hệ chúng tôi dù sao cũng được “chích ngừa”, còn phản kháng lại được.

Còn thế hệ sau thì sao? Lo lắm!

D.C.

(Còn tiếp)

Nguồn:http://m.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/198130/-toi-so-su-gia-doi-truyen-den-doi-con-chau-.html#

Ai đang làm xấu hình ảnh Thủ đô ?

Ai đang làm xấu hình ảnh Thủ đô ?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-11-23

11232014-pettitio-n-hanoi-face.mp3

Bà con dân oan Dương Nội đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.

Bà con dân oan Dương Nội bị ngăn cản khi đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.

Photo:FB Trịnh Bá Phương & Bạch Hồng Quyền

Người khiếu kiện khắp mọi tỉnh thành phải về đến tận các cơ quan trung ương của chính phủ và đảng ở Hà Nội để yêu cầu giải quyết cho trường hợp bị cho là oan ức của họ.

Do không được giải quyết thỏa đáng nên họ phải bám trụ tại thủ đô. Tuy nhiên cứ vào những dịp quan trọng như lễ lạc, quốc hội họp …, họ bị xua đổi, thậm chí đánh đập vì cho làm mất mỹ quan của thủ đô Hà Nội.

Gia Minh trình bày tình trạng của họ trong những ngày diễn ra kỳ họp thứ 8, quốc hội khóa 13 hiện nay.

Xua đuổi, đánh đập

Từ ngày 20 tháng 10 vừa qua, khi quốc hội bắt đầu khai mạc khóa họp thường kỳ thứ hai trong năm, những người dân oan có mặt tại Hà Nội lại phải chịu cảnh dồn ép đưa đi hay bị đánh đập.

Chị Nguyễn thị Thúy, một dân oan từ Đồng Linh Hải Phòng cho biết diễn biến một vụ càn quét dân oan trong những ngày cuối tháng 10 như sau:

Dân oan đi khiếu kiện lên Hà Nội này hầu như ai cũng bị bắt bớ, trong đó có tôi. Chúng tôi chỉ bị bắt đưa về Ngô thì Nhậm thôi chứ có anh Trần Văn Thông, đoàn Tây Ninh bị đánh đến trọng thương luôn. Anh này bị đưa về đồn Công an Quang Trung và bị đánh trọng thương. Hầu như ai trong đợt này cũng bị đánh do côn đồ.

Hôm ngày 22 khi chúng tôi ở chợ Phủ chủ tịch giăng biểu ngữ cũng đã bị công an ra giật khẩu hiệu và dùng lời lẽ nói “cho côn đồ đánh chết những bà khiếu kiện này đi’. Gia đình tôi có 6 người lớn và 4 trẻ nhỏ cũng bị ra giằng giật, cướp mày rồi cũng bị đánh đập. Lúc đó chúng tôi xác định đi ở cổng Phủ chủ tịch mà họ đối xử với dân oan bằng cách đánh thì mình phải tự vệ.

Hình ảnh trấn áp dân ngay tại Hà Nội

Hình ảnh trấn áp dân ngay tại Hà Nội

” Hôm ngày 22 khi chúng tôi ở chợ Phủ chủ tịch giăng biểu ngữ cũng đã bị công an ra giật khẩu hiệu và dùng lời lẽ nói “cho côn đồ đánh chết những bà khiếu kiện này đi’. Gia đình tôi có 6 người lớn và 4 trẻ nhỏ cũng bị ra giằng giật, cướp mày rồi cũng bị đánh đập

Chị Nguyễn thị Thúy”

Áo ‘phản cảm’

Do đơn thư không được ngó ngàng đến nên gần đây một số người dân viết lên áo mặc tóm tắt trường hợp khiếu kiện và yêu cầu của họ. Tuy nhiên khi vào các cơ quan công quyền, họ bị yêu cầu phải cởi bỏ những chiếc áo đó ra vì lý do được nói là phản cảm.

Một video clip được truyền tải trên mạng ghi lại cảnh một phụ nữ đến gặp các đại biểu quốc hội và bị yêu cầu cởi chiếc áo có ghi những nội dung khiếu kiện kêu oan với lý do phản cảm.

Nguyên nhân được nêu

Chị Phương Bích, một người dân Hà Nội, tham gia giúp đỡ những người dân oan cơ nhỡ, thiếu thốn, bệnh tật, lập luận cần phải tìm ra nguyên nhân khiến cho những người dân phải ‘dầm sương, giải nắng’, ngày này qua ngày khác đến tại các cơ quan công quyền trung ương để khiếu kiện như thế. Chị nói:

Xấu rồi, nhưng xấu do ai gây nên? Một thủ đô nói là hòa bình, dân chủ mà có những đoàn dân oan ‘mặc áo’ đi ròng rã hết ngày này qua ngày khác. Điều đó là rất xấu nhưng phải hỏi đó là gì và nguyên nhân gây ra cái đó là gì. Hỏi mà đã có câu trả lời rồi. Những phòng tiếp dân hay trụ sở tiếp dân của chính phủ hay quốc hội đi nữa chỉ là những nơi chuyển đơn mà họ không hề là những người giải quyết. Kể cả ông trưởng ban tiếp dân ở số 1 Ngô Thì Nhậm, quyền không ở trong tay ông ta. Khi tôi gặp ông ta tôi cũng nói thế: các ông không hề có quyền giải quyết.

Chị Nguyễn thị Thúy nói về cáo buộc cho rằng những người dân đi khiếu kiện làm xấu bộ mặt thủ đô như sau:

” Xấu rồi, nhưng xấu do ai gây nên? Một thủ đô nói là hòa bình, dân chủ mà có những đoàn dân oan ‘mặc áo’ đi ròng rã hết ngày này qua ngày khác. Điều đó là rất xấu nhưng phải hỏi đó là gì và nguyên nhân gây ra cái đó là gì

Chị Phương Bích”

Chúng tôi đi khiếu kiện là làm đúng chứ không làm xấu, đó là điều mà nhà cầm quyền vu khống cho chúng tôi. Đơn chúng tôi gửi thì đùn đẩy cho nhau không bao giờ nhận. Theo luật thì nếu không nhận, chúng tôi phải xuống đường biểu tình để cho họ nhận đơn. Chúng tôi đi đòi quyền lợi chính đáng của mình, chúng tôi là những người bị mất đất, mất nhà, bị đánh đập, bị đàn áp, mất quyền sống, quyền làm người. Chúng tôi sống không bằng chết nên chúng tôi đi đòi quyền của mình. Họ chuyên vu khống, ‘cỗ máy’ của họ đàn áp, nạt nộ dân chứ không bao giờ thấy được nỗi khổ của dân, họ đối xử với dân không bằng một con súc vật.

Ngày 8/10/2014, bà con dân oan Dương Nội cùng với người dân Văn Giang, Đồng Linh Hải Phòng và nhiều nơi khác trên cả nước đã biểu tình tại Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, số 46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Ngày 8/10/2014, bà con dân oan Dương Nội cùng với người dân Văn Giang, Đồng Linh Hải Phòng và nhiều nơi khác trên cả nước đã biểu tình tại Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, số 46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

Ngoài cáo buộc cho rằng những người dân đi khiếu kiện, mặc áo dân oan như thế làm nhếch nhác thủ đô, một số quan chức vừa qua khi nói về việc khiếu kiện của người dân còn cho rằng những người khiếu kiện lâu năm ở Hà Nội bị những ‘thế lực xấu’ kích động. Ngoài ra còn do những người dân tại Hà Nội cho gạo, mỳ tôm … hằng tháng cho họ nên việc khiếu kiện tiếp tục được.

Bản thân những người khiếu kiện đều bác bỏ những cáo buộc như thế và họ nói rõ việc nhận sự giúp đỡ từ những người khác vì tình đồng loại mà chia sẽ không có gì sai trái; nhất là khi sự giúp đỡ dành cho những người nông dân mất hết công cụ sản xuất là đất đai, không còn phương kế sinh nhai nào khác.

” Tôi nói với bà con dân oan trước mặt công an, an ninh chụp ảnh như thế: bà con hãy cố lên chỉ có chế độ mới người ta mới giải quyết cho bà con thôi, mấy chục năm bà con ra đây rồi mà không ai giải quyết cho bà con cả!

Chị Phương Bich”

Bế tắc

Một người nông dân ở Thanh Oai, Hà Nội cho biết vụ việc lấy đất bất công ở xã người này đã được trình đến các cơ quan trung ương, nhưng rồi chính cán bộ tiếp dân cho thấy có sự bao che rõ ràng. Ông này cho biết:

Thực tế tôi thấy chính quyền (cấp dưới) có sự bưng bịt là do cấp trên. Tôi từng tham gia đi nộp đơn tại ngoài cơ quan trung ương  chính phủ. Tôi nói với những người nhận đơn nếu không trực tiếp ‘ra tay’ thì đến lúc phía dân đổ máu mới nhận sao; chứ gạt bỏ và cách tiếp dân như thế này là bao che cho cấp dưới. Chính bà Nguyễn thị Nhiên, phó thanh tra chính phủ, khi dân ra kêu gào có gọi về chủ tịch huyện nhưng chủ tịch huyện không ra để đối chất, sau đó gọi thanh tra huyện lên, nhưng từ tháng tư đến nay vẫn chưa đi đến đâu, vẫn chưa trả lời dân.

Chị Phương Bich thì nói đến một giải pháp rốt ráo cho vấn đề khiếu kiện của nhiều dân oan khắp nơi tại Việt Nam như sau:

Tôi cảm thấy bất lực, tôi nói với những người khiếu kiện ở Hà Nội hãy cầm hơi để chờ đến ngày một chế độ mới; chứ như thế này thì không bao giờ giải quyết được. Tôi nói với bà con dân oan trước mặt công an, an ninh chụp ảnh như thế:  bà con hãy cố lên chỉ có chế độ mới người ta mới giải quyết cho bà con thôi, mấy chục năm bà con ra đây rồi mà không ai giải quyết cho bà con cả!

Cách thức mà chị Phương Bích vừa nêu ra chắc hẳn sẽ bị cho là âm mưu lật độ chính quyền như nhiều người từng bị kết tội khi mà cho rằng cần phải thay đổi thể chế hiện nay vì không còn khả năng điều hành đất nước, mang lại cơm no- áo ấm, cuộc sống ổn định cho người dân.

Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió

Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió

Chuacuuthe.com

Trần Ngọc Mười Hai

VRNs (24.11.2014) – Úc Đại Lợi – Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ nhất Mùa Vọng năm B 16-11-2014

“Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió,
Thả đam mê và buông những ưu phiền.”

(Nhạc: Anh Bằng/Thơ: Trần Mộng Tú – Gọi Anh Mùa Xuân)

(2 Cor 1: 3-5)

Ưu-phiền thật đấy, chí ít là khi cả anh lẫn em đều nghe truyện kể không lê thê ướt át, nhưng vẫn buồn. Buồn làm sao, khi người kể cứ kết vội câu chuyện ngăn ngắn bằng những tiếng, rất như sau:

“Một ông kể lại chuyện cãi nhau với vợ :

Vợ tôi hỏi: Trên TV có gì không anh?

Tôi trả lời: Có rất nhiều bụi bặm, chắc tại em quên lau.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Cuối tuần, vợ tôi muốn đi đến một nơi thật đắt tiền.

Tôi chở bả tới tiệm bán xăng.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Ngày mai sinh nhật bà xã tôi, tôi hỏi bả muốn gì? Bả nói bả muốn một cái gì láng cóng, đi từ 0 tới 200 trong vòng 3 giây. Tôi mua cho bả cái cân nhỏ để trong phòng tắm.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Vợ tôi khỏa thân đứng trước tấm gương ngắm nghía 5 phút rồi bảo tôi:

– Em thấy hình như em ốm đi và giảm cân một chút phải không anh?

Tôi nói: Chắc em cần phải đi bác sĩ mắt khám lại.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau

Vợ tôi khỏa thân đứng trước gương ngắm nghía 5 phút rồi lại bảo tôi:

– Sau hai mươi năm lấy nhau, em thấy mình già hơn, mập hơn và xấu hơn trước nhiều phải không anh? Em buồn quá, ơ anh nói gì đi chứ.

Tôi nói: Tuy vậy mắt em vẫn còn tốt như hai mươi năm về trước, 20/20.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Kỷ niệm hai mươi năm cưới nhau, tôi hỏi bả muốn đi đâu.

Bả nói: Em muốn đi đến một chỗ mà từ lâu em đã không đặt chân đến.

Tôi nói: Ủa em muốn vào trong bếp hả?

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Vợ tôi hỏi: Anh ơi cái quần xanh này có làm mông em to hơn không anh?

Tôi nói: Ừa, nhưng mà không to bằng cái quần trắng hôm qua.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Khi đi ngang qua tiệm Walmart, tôi mua 4 cái vỏ bánh xe hơi, vợ tôi

cằn nhằn: “Anh mua vỏ bánh xe làm gì, anh đâu có xe đâu”.

Tôi nói: Chứ hồi nãy em mua 4 cái xu – chiêng anh có cằn nhằn gì em đâu?

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Tôi nói: Sau ngày cưới em anh thành triệu phú.

Vợ tôi: Em hãnh diện quá. Có phải nhờ em anh thành công không?

Tôi nói: Trước khi cưới em anh là tỷ phú.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Vợ tôi: Ngày cưới em có phải là ngày vui nhất đời anh không?

Tôi nói: Không! Chỉ là ngày vui hạng nhì thôi.

Vợ tôi: Chứ ngày vui thứ nhất là ngày gì?

Tôi nói: Là cái ngày em về bên má em 3 tuần. Giời ơi ngày nào cũng xỉn.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau. Giận dỗi.

Trước ngày Tình nhân vợ tôi nói: “Đêm hôm qua, em nằm mơ thấy anh tặng em cái nhẫn hột soàn, thế nghĩa là gì hả anh?”

Ngày lễ Tình nhân tôi tặng nàng cuốn sách “Đoán điềm giải mộng”.

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Tôi đăng báo bán: “Một quyển từ điển Bách Khoa Việt Nam, dày 3.000 trang còn mới giá rẻ hơn 200 nghìn đồng, lý do lấy vợ tháng vừa rồi không cần nữa, có vợ cái gì cô ấy cũng biết hết”

Thế là hai vợ chồng cãi nhau.

Thói quen hoặc chủ-trương cãi vã/tranh-luận giữa hai vợ chồng hoặc hai bạn tình, là cvhuyện dài ở huyện.Chuyện dài ấy, còn kéo lê cả đến tư-thế sống giữa nhiều người như truyện kể ở bên dưới:

Tôi với vợ tôi vào phòng khám bệnh nha khoa.

– Bác sĩ nhổ răng tốn bao nhiêu tiền vậy?

– 100 USD

– Ồ! Đắt quá bớt được không?

– Nếu không dùng thuốc tê 80 USD.

– 80 USD vẫn đắt.

– Nếu nhổ bắng cái kìm bình thường để nhổ đinh thì 40 USD.

– Vẫn còn đắt.

– Ok 20 USD nhưng học trò tôi sẽ nhổ chứ không phải tôi.

– Được… được. Em, em mau mau ngồi xuống trước khi bác sĩ đổi ý.

Lần này hai vợ chồng uýnh nhau chứ không cãi nhau.

Tôi hỏi: Tối hôm qua em đi đâu, suốt đêm không về?

Vợ nói: Em ở bên nhà con Phượng – bạn thân em, đánh tứ sắc suốt đêm.

Tôi nói: Em học tính nói láo từ hồi nào vậy? Anh ở bên con Phượng suốt đêm có thấy em đâu?.

Lần này suýt chút nữa phải gọi xe cứu thương, con vợ gì đâu dữ dằn quá! (trích truyện kể do sưu-tầm-gia ký tên là St siêu tầm để cho vui)

Siêu-tầm hay sưu-tầm chuyện ngoài đời, giữa vợ chồng như thế nghe cứ như là chuyện thật và vẫn cứ là chuyện thật ở đời.

Siêu-tầm hay truy-tầm chuyện kể xảy ra ở nhà Đạo mình về một số đề-tài thần-học hay triết-lý tuy không có những câu kết ngăn ngắn như thế, nhưng vẫn có ý/lời được nói rõ rất như sau:

“Ngày 7 tháng Năm 2006, tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney, trong mục giải đáp thắc mắc, Lm John Flader có trả lời một số câu hỏi do bạn đọc gửi đến những vấn nạn như: tại sao Đức Giêsu phải chết? Ngài chết có phải để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không? Phải chăng Ngài chết cách đặc-biệt như thế là để cứu ta khỏi mọi tội của gian trần? Ngài chết đi, hẳn cũng vì lý do chính-trị nào đó chứ? Phải chăng Ngài chết chỉ cốt để thách-thức giới cầm-quyền ở nhiều nơi mà thôi không? Chết như thế, là Ngài để lại cho ta một bài học khách quan và đơn giản? Phải chăng Ngài có chết, mới đem đến cho ta sự tha-thứ có từ Thiên-Chúa-là-Cha? Và đơn giản hơn, nội việc Ngài chết đi cũng đủ nói lên quan-điểm/lập-trường nào đó khiến mọi người đều quan-tâm? vv..

… Lm John Flader lại đã không trả lời các câu hỏi do người đọc đưa ra như một tổng-thể để bàn thảo, nhưng ông lại gộp chung các vấn-nạn trên thành thắc-mắc duy-nhất chỉ hỏi rằng: phải chăng Đức Giêsu chết đi là để cứu-chuộc loài người, tức Ngài đã đền bù tội lỗi của con người rồi? Câu trả lời là: Có! Lm John Flader vẫn cho rằng cụm-từ “cứu-chuộc” hoặc “cứu-rỗi”, “cứu độ” ngang bằng cụm từ “đền bù tội lỗi”, thế thôi. Mặt khác, ông cũng chẳng bình-giải hoặc định-nghĩa tự-vựng nào cho riêng rẽ, hết. Ông cho rằng, khi trả lời “có” với luận-điểm tuyệt-đối như thế mới phù-hợp với huấn-thị trước-sau-như-một của Kinh Sách và Thánh-truyền ở Đạo mình.

Nhưng sau đó, ông lại trưng-dẫn một số chương/đoạn rút từ Kinh Sách rồi gọi đó là nền-tảng của Giáo-hội. Có 6 đoạn Kinh Sách được ông trưng-dẫn cũng trong cùng mục-đích đó. Có đoạn tập-trung vào câu chuyện được bàn-thảo nhiều hơn chương/đoạn khác. Tuy nhiên, đoạn nào cũng bao gồm các tự-vựng như: cứu-chuộc, tội lỗi, thứ-tha, hoà-giải, chuộc tội. Làm thế, chỉ cốt trả-lời cho các thắc-mắc thông thường có liên-quan đến vấn-đề đặt ra. Nói cách khác, ông làm như thế cũng đủ để đáp-ứng và thực-hiện mục-tiêu đề ra trong một bài viết khá ngắn cho tuần báo đạo. Bởi, tất cả đều dẫn đến cao điểm là lời trích từ kinh Tin Kính có từ thời Công đồng Nixêa trong đó có câu nói được nhấn mạnh, là: “Vì loài người chúng tôi và để cứu-chuộc chúng tôi”.

Đã đành là, ngôn-từ đặt ra như thế từng thấy có trong văn-bản Kinh Sách và Thánh-truyền đã từ lâu. Tuy nhiên, bản dịch tiếng Anh đâu phải lúc nào cũng giống thế. Thông thường, thì tự-vựng được dùng có mục đích để chuyên chở tính-cách được diễn-tả ở tiếng Hy-Lạp là bản-văn gốc được sử-dụng ngay từ đầu, tức cho thấy rằng: khi tác-giả viết những điều như thế thành lời nói là cốt sử-dụng cho mục-đích viết ra, mà thôi. Tính-cách này được tiếp-tục suốt năm thập-niên qua hoặc còn xa hơn nữa, từ một nền văn-hoá khác với văn-hóa của chúng ta.

Ngôn-ngữ ta sử dụng, là để diễn-tả các tư-tưởng không có ở kinh-kệ và/hoặc Sách thánh được dịch sang tiếng Anh. Những lời như thế, tuyệt nhiên, không mang tính hời-hợt bên ngoài nhưng là hiểu theo cung-cách thần-học, chúng còn phong-phú hơn cụm-từ giản đơn, như: “cứu-chuộc”, “đền bù tội lỗi”. Thời xưa, các tự-vựng này nói lên thứ gì đó khác hẳn lời dịch mà ta thường dùng ở nhiều nơi. Truyền-thống Giáo-hội, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa nào như mấy tự-vựng ở trên muốn chuyển-tải cả. Đúng hơn, làm thế như là để cho giới kinh-điển ta suy nghĩ thêm về niềm tin mình đang có…”

Trong lời giải-đáp thắc-mắc trên tờ The Catholic Weekly, Lm John Flader còn trích dẫn hai đoạn Kinh Sách trọng-yếu khác, đó là Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 20 câu 28 và đoạn 26 câu 28, đại ý nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Còn, đoạn sau ghi: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”.

Nói chung thì: ở hai trích-dẫn này, tác-giả Mát-thêu đều rút từ Tin Mừng do thánh Máccô viết trước, nhưng đã không thay-đổi điều gì, trong đó. Tự-vựng chính được thánh-sử ghi, lại đã biểu-hiện một cách chính-xác việc Chúa “ban-phát Tâm-Thân của Ngài như một đảm-bảo cho lời hứa với quần-chúng nói chung, chứ không riêng gì cho người Do thái, thôi.”

Hôm nay, chúng ta đã đi vào với ý-nghĩa chính của văn-bản trọng-yếu này. Điều này, muốn nói rằng Đức Giêsu đã chọn con đường đi vào với thứ chính-trị hoặc thứ nào đó không mang tính quyền-lực, cốt để ra khỏi cuộc chạy đua phù-phiếm vốn tạo nên mọi khó khăn và vi-phạm nơi con người để rồi tìm được ở nơi đó sự tự-do vượt khỏi mọi hình-thái của mọi quyền-lực, rất bức bách… (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và giòng tuy-tư cùng một chiều, www.thanhlinh.net ngày 1/5/2014)

Để ra một bên điều mà có thể sẽ có người cho rằng đây chỉ là một tranh-luận thần-học giữa hai đấng bậc nhà Đạo. Nhưng thực ra không phải thế, và hơn thế. Hơn thế, ở chỗ: là đấng-bậc dẫn dắt người thường về thần-học, cũng nên có động-thái thận-trọng sau khi đã học rộng hiểu nhiều hơn người khác.

Đó là ý-kiến của bậc thày thần-học kinh thánh hơn 40 năm sống ở Sydney, như sau:

“Ở cuối bài viết, Lm John Flader có đề-cập đến tự-vựng “chén máu” trong Tiệc Tạ Từ khi Chúa nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Lm John Flader trích câu này từ Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 26 câu 28. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, chỉ có mỗi thánh Mát-thêu là tác-giả duy-nhất sử-dụng thành-ngữ “muôn người được tha tội”, là ở đây…

Bài viết trên tuần báo nói ở trên, Lm John Flader lại tiếp tục khẳng-định rằng: nhờ vào giáo-huấn rút ra từ văn-bản như thế, Hội-thánh của ta luôn chủ-trương rằng: Con-Thiên-Chúa-làm-người đã cứu-chuộc ta bằng cái chết khổ nhục trên thập-tự. Và, công-cuộc cứu-chuộc của Ngài tựa hồ như con đường tắt-ngang đưa dẫn người bị mờ-mắt vào với ý-nghĩa của văn-bản. Và, văn-bản đây có thể cũng cùng một ý-nghĩa ra như thế. Nói thế, tức: muốn hiểu sao lại thế, thì có lẽ, ta cũng nên tạo một thế quân-bình bằng động-thái quay về với công-việc của Ủy-Ban Thần-Học Quốc-Tế là cơ-quan từng đăng-tải vấn-đề này.

Đấng bậc phụ-trách dẫn dắt công việc này, khi ấy, là Hồng Y Ratzinger. Và, chính Hồng Y Ratzinger -sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16- đã có thẩm-định riêng của ngài ngang qua tư-cách của nhà thần-học chính-mạch. Có thể là: ngôn-từ diễn-tả nơi câu viết: “Máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tội”, nếu không giải-thích cho rõ, có thể sẽ khiến ta có cảm-tưởng rằng: tự nơi thâm-tâm của những người từng nghĩ đến, thì văn-bản đây không cố ý diễn-tả chỉ chuyện ấy theo nghĩa đen, thôi.

Cuối cùng thì, linh mục John Flader lại kết-thúc bài viết của ông bằng hai đoạn trích rút từ sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo để dẫn-chứng cho điều ông biện-minh trước đó. Hai đoạn trích này đều nói về việc Đức Giêsu là Đấng Bậc ở trên cao đã “kiến-tạo” nên tội “tổ-tông” để rồi hậu-quả của tội này lại sẽ đổ lên đầu cộng-đồng nhân-loại. Thật ra thì, sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo cũng để ra hai đoạn viết riêng-rẽ, tách-bạch cùng qui về tội “tổ-tông”, nhưng cả hai lại không ăn-khớp với nhau cách trọn-hảo, như ta tưởng. (Ở đây, xin mở thêm một dấu ngoặc để nhắn với anh em rằng: sau đây, ta sẽ dành ra nguyên một chương để bàn về tội “tổ-tông” cho ngọn ngành, ra nhẽ).

Tuy nhiên, cũng nên nói ngay ở đây rằng, thành-ngữ “kiến-tạo nên sự việc”, là ngôn-từ dù không do Lm John Flader chọn, nhưng cũng đã đề-nghị một quan-điểm thần-học riêng-tư mà Hội-thánh chưa từng dính-dự vào đó theo cung-cách biệt-lập, có một không hai.

Lạ thay, các đoạn trích mà Linh mục John Flader sử-dụng lại không phù-hợp với khuôn-khổ của bài giải-đáp thắc-mắc đăng trên báo, do không đủ chỗ, để người đọc có thể qui-chiếu số lượng khổng-lồ gồm các nghiên-cứu/học-hỏi nghiêm-túc về cuộc đời của Đức Giêsu trong vòng chỉ hơn một phần tư thế-kỷ, thôi. Bởi những điều như thế, đều dựa trên căn-bản chú-ý nhiều vào trọng-tâm của bản-văn đến độ có thể khiến người đọc thêm băn-khoăn/bối rối về văn-bản và về lời bình-giải nội-dung mang tính lịch-sử nơi các sự-kiện xảy đến với đời Ngài. Cũng từ đó, lại thấy xuất-hiện ảnh-hình đặc-trưng cho thấy cung-cách Đức Giêsu từng sống như thế nào và Ngài chết ra làm sao.

Quả là, Đức Giêsu đã sống kết-hợp với người nghèo hèn sống ở thời Ngài, từng bị ức-hiếp đến mức độ ra sao. Và, Ngài đã đứng lên bênh-vực họ để chống lại quyền-lực trần-thế và giới cầm-quyền từng áp-bức những người yếu thế. Ngài cũng đã khổ-sở vì hậu-quả các động-thái ấy khi giới có quyền và nắm trong tay quyền-lực đã loại bỏ Ngài rồi giết chết Ngài cách thảm-hại. Nhưng Ngài lại đã trỗi dậy từ cõi chết do Thiên-Chúa của những người nghèo hèn ấy đã nâng nhấc Ngài. Và, Thiên-Chúa đã thuỷ-chung ở với họ và với Đức Giêsu, cốt duy-trì công-việc của Chúa sống-động mãi, ngang qua động-thái giải-trừ mọi độc-hại của quyền-lực.

Động-thái giải-trừ, không là trò chơi được sử-dụng để thay cho quyền-lực; nhưng là để khước-từ mọi quyền-uy thế-lực đến từ bất cứ nơi đâu, chốn gian-trần. Và, đó lại là ý-nghĩa rất mới được Chúa đưa vào làm thành-phần ngôn-ngữ cũ/xưa của Kinh Sách, tựa hồ như tự-vựng “ơn cứu-chuộc”, ta thường dùng. Chúa đưa vào đó bằng cách-thế mới của sự sống không quyền-uy thế-lực nào hết.

Đến đây, tôi muốn trở về với các câu thắc-mắc ban đầu người đọc gửi đến nhờ linh mục John Flader giải-thích.

Đức Giêsu chết đi phải chăng là để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không?

Vâng. Đúng thế. Nhưng, không theo cách rất chung chung như ta thường thấy. Đức Giêsu minh-chứng cho ta thấy tình-thương-yêu mà loài người không thể tưởng-tượng được của Thiên-Chúa với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình thương-yêu thần thánh của Ngài, Thiên-Chúa luôn khước-từ mọi quyền-lực dù chỉ để chống lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, đi nữa. Khi nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình-thương-yêu của Ngài với con người, nói như thế không làm giảm-suy những gì Ngài từng thực-hiện. Nếu so sánh với ý-tưởng về “tình yêu” thông-thường ở đời, thì Tình-thương-yêu của Ngài, ở đây, cần được thăng-hoa dàn trải thật lớn rộng.

Phải chăng Ngài chết cách đặc-biệt như thế là để cứu ta khỏi mọi tội của gian trần?

Ở đây, trước tiên, cần làm sáng-tỏ ngôn-từ ta sử-dụng, như câu nói: “Tội lỗi của chúng ta”. Chỉ nên hiều, là: tội và lỗi mà mọi người hằng phạm phải mỗi ngày, cả những hành-xử đầy tội-phạm theo nghĩa nặng, ở chốn riêng-tư và có thể cả cuộc sống hiện tại của ta ở nhà nữa, đều không dính-dự cách “đặc-trưng/đặc-thù”, nào hết. Chúng ta –hoặc các lỗi tội này/khác của ta trong hiện tại- đều không là những “cớ sự” để có thể giết được Chúa.

Mà, chính tính chuyên-quyền lộng-hành ở quyền-lực, trong hệ-thống toàn-trị chuyên hà-hiếp người khác, mới là những gì giết chết Ngài, như sử-sách còn ghi chép. Đó là ý-nghĩa diễn-lộ ra ngoài của lỗi-tội; và, đã tỏ-bày ngang qua cuộc sống và nỗi chết của Đức Giêsu. Lỗi tội của ta, là những tội và những lỗi thuộc loại-hình này, tức: đã dùng đến quyền-lực để hà-hiếp kẻ khác, cho đến nay, chỉ thấy hiển-hiện khi chúng diễn-bày quyền-lực ra bên ngoài, trên người khác.

Nói khác đi, nếu ai đó có phạm tội hay lỗi gì đi nữa, cũng chỉ là vi-phạm những điều chống lại tình thương-yêu, tức thể-loại Tình-yêu Chúa từng tỏ-bày cho người đó, qua Đức Giêsu. Tình-thương-yêu tỏ-lộ cho mọi người, chứng-tỏ Ngài sống và chết đi như thế nào, chỉ vậy thôi.

Ngài chết đi, hẳn cũng vì lý do chính-trị nào đó đấy chứ?

Đương nhiên, ở đây, chuyện chính-trị có dính-phần ở trong đó. Giới cầm-quyền thời đó đã ra quyết-định mang tính-cách chính-trị hoặc chiến-thuật, nhằm tạo điều lợi cho thể-chế cai-trị tạm-bợ, để rồi họ nhất-định loại-bỏ Ngài đi, vì họ vẫn coi Ngài như thế-lực tiềm-ẩn (chứ không thực-thụ) ngấm-ngầm đe-doạ thế-đứng của họ. Nhìn vào giới thẩm-quyền ở đời hoặc trong đạo, có thể cả hai đều có chung một phán-đoán tựa như thế. Và, nhiều giới-chức cầm-quyền ở các nơi, cả ở trong đạo lẫn ngoài đời, nay vẫn còn làm như thế, không ngừng nghỉ.

Thế nhưng, Đức Giêsu lại đã chết cho thứ gì đó còn sâu-sắc hơn cả chính-trị, rất nhiều. Ngài chết đi, vì Ngài quyết chung-thủy với thứ tình-thương-yêu không dựa vào quyền-lực mà Thiên-Chúa dành-để cho người hèn kém/bé nhỏ. Đó là điều mà thánh Phaolô khi xưa vẫn ưa gọi là sự “công chính của Thiên-Chúa” rất khác thường. Đó cũng không là chính-trị, mà là “hồi chuông báo tử” một lần cuối dành cho các tầm-kích quyền-lực của mọi chính-trị nơi loài người.

Phải chăng Ngài chết đi là để thách-thức giới cầm-quyền ở nhiều nơi mà thôi không?

Tôi không nghĩ như thế. Động-thái Ngài hành-xử, không hề mang tính thách-thức nào hết. Đó, là động-thái không chỉ chứng-tỏ cho họ mà thôi, nhưng còn đưa họ vào với tình-thương-yêu và tính-chất “vô quyền/bất-lực” mà họ không am hiểu nổi. Và, điều đó sẽ tẩy rửa họ cũng như toàn-thể thế-giới sạch khỏi các sự việc mang tính quyền-uy/thế-lực họ thực-thi.

Chết như thế, có phải là Ngài để lại cho ta một bài học khách quan và đơn giản?

Không. Những gì Ngài thực-hiện, có thể gọi đó như bài học đạo-đức cho tất cả chúng ta, nhưng thật ra, còn hơn thế nhiều. Ngài chết, là để lấy đi quyền-uy/thế-lực ngay trong ý-nghĩa đầy tính huỷ-hoại và bức-ép của nó, bằng cách dìm nó vào chính sự “vô-quyền/bất-lực”, là thế. Phục sinh/trỗi dậy, khiến Đức Giêsu có thể truyền-đạt khả-năng sống thực để những ai tin vào Ngài và những người thương-yêu kẻ hèn kém/bé nhỏ của Ngài. Khả-năng này không chỉ để khích-lệ một đạo-đức, mà đích-thực là năng-lực khiến cải-hoá được cuộc sống của mọi người, tự bên trong.

Phải chăng Ngài có chết, mới đem đến cho ta sự tha-thứ có từ Thiên-Chúa-là-Cha?

Vâng, đúng là thế và có thể cũng không thế. Đúng, là hiểu một cách chắc-chắn theo nghĩa: Ngài đã “cho đi chính mình Ngài”. Cho, tức là đã thứ-tha những người mà Ngài và Cha yêu-thương họ biết chừng nào; và cho như thế Ngài đã trừ khử được mọi tính-chất tiêu-cực cũng như trò chơi quyền-lực của thế-giới, bằng việc Ngài tự biến Mình Ngài thành hư-vô/trống-rỗng, không quyền-thế.

Trả lời là: “không”, tức: theo nghĩa bảo rằng: trước nhất Ngài ưu-tư đi thẳng vào động-thái “thứ tha. Tha thứ, theo nghĩa nghi-thức hoà-giải mà ta đang thực-hiện, mãi đến hôm nay.

Việc Ngài chết đi có đủ nói lên quan-điểm/lập-trường nào đó không?

Câu trả lời là: Không! Không, ở đây, theo nghĩa của người đặt câu hỏi từng có dụng-đích/ý-đồ nào đó. Nhưng, câu trả lời thực ra là “Có”! Ngài có đưa ra một luận-điểm. Luận-điểm này, trước đây, chưa ai làm thế. Nhưng buồn thay! Luận-điểm này, cho đến nay, vẫn không được nhiều người chú ý nắm bắt.” (xem thêm Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu Chuộc và khúc cuối một giòng sử, www.thanhlinh.net ngày 08/5/2014)

Đấng bậc trong Đạo học về Chúa cũng rất nhiều, nghiên-cứu về Đức Giêsu lịch-sử ở Kinh thánh, lại không thiếu. Các ngài có học có nghiên-cứu nhiều như thế, cũng tựa-hồ nhưng bậc thánh-hiền từng quyết rằng:

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái,

và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.

Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách,

để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ,

chính chúng ta cũng biết an ủi

những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.

Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô,

thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi.”

(2 Cr 1: 3-5)

Có biện-luận về cái chết của Chúa hay về Ơn Cứu-chuộc là cứu và chuộc để đưa mọi người đi thẳng vào tình thương-yêu Chúa tỏ bày cho hết mọi loài, mà thôi. Nghiên-cứu hay biện-luận, để rồi sẽ luôn chúc tụng Thiên Chúa là Đấng luôn ủi-an, yêu thương hết mọi người trong chúng ta.

Để bài phiếm hôm nay được nhẹ nhàng thư-thái, cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi ta cứ hiên ngang ca vang bài ca vừa khởi xướng, cứ hát rằng:

“Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,

Trái tim em mảnh vườn cũ quê xưa.

Cành mai chiết tay ai còn in dấu,

Thiều quang ơi hoa nhớ đến xót xa.

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,

Trái tim em thành đốm lửa hải đăng.

Lửa sinh diệt thắp hoài không dám tắt,

Bờ bến nào mà cá vẫn bặt tăm.

Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,

Trái tim em trầm quế đợi xông hương.

Con chim nhỏ đã bay qua biển Bắc,

Ai tìm ai ngậm ngải giữa mù sương.

Đã lâu quá anh không về gõ cửa,

Lồng ngực em trái đỏ vẫn còn nguyên.

Ôi có phải mùa xuân đang nhóm lửa,

Tay lạnh thế này ai sưởi cho em.”

(Anh Bằng/Trần Mộng Tú – bđd)

Hát ca từ tình-tự như thế, chỉ để bạn và tôi ta hiên ngang tiến về phía trước mà chúc tụng Thên-Chúa-Là-Tình-Yêu, luôn sáng tỏ tình Ngài với muôn người. Ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Cầu mong cho mắt mình sẽ sáng mãi

Và cũng tỏ như bao giờ.

Nhà báo Trung Quốc ra tòa vì làm rò rỉ bí mật quốc gia

Nhà báo Trung Quốc ra tòa vì làm rò rỉ bí mật quốc gia

Chuacuuthe.com

VRNs (24.11.2014) – Sài Gòn – Hãng tin BBC cho biết, một nhà báo Trung Quốc, bà Gao Yu, 70 tuổi hiện phải đối mặt với bản án chung thân vì những cáo buộc làm rò rỉ bí mật quốc gia.

Đài truyền hình Trung Hoa đã cho phát sóng một đọan băng về việc nhà báo Gao Yu thú nhận rằng bà đã mắc một “sai lầm nghiêm trọng” khi đã đánh cắp một tài liệu bí mật của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và bán cho một trang báo mạng nước ngòai.

Nhiều người cho rằng nhà báo Gao đang ở tuổi 70 đã bị ép phải nhận tội.

Bà Gao Yu, 70 tuổi hiện phải đối mặt với bản án chung thân vì những cáo buộc làm rò rỉ bí mật quốc gia. Ảnh BBC

Bà Gao Yu, 70 tuổi hiện phải đối mặt với bản án chung thân vì những cáo buộc làm rò rỉ bí mật quốc gia. Ảnh BBC

Tại buổi điều trần trước khi tòa án chính thức xét xử, bà Gao tuyên bố rằng bà đã nhận tội một cách sai lầm vì những đe dọa từ phía cảnh sát rằng con trai bà sẽ bị bắt.

Chính phủ Trung Quốc cáo buộc bà đã làm rò rỉ “Văn Bản số 9″ đến các trang mạng nước ngoài, trong đó có trang tiếng Hoa cùa Đài truyền hình Đức Deutsche Welle.

Các Luật sư của bà yêu cầu tòa án bác bỏ nội dung của lời thú tội trên vì lý lo bà đã bị cưỡng ép. Đồng thời, luật sư cũng yêu cầu tòa xem xét lại vấn đề “bí mật quốc gia” vì những tài liệu trên đã được phát tán rộng rãi.

Các nhóm bảo vệ quyền con người và các quan sát viên lãnh vực truyền thông đã lên tiếng chỉ trích các cáo buộc trên của chính quyền Trung Hoa.

Maya Wang, một nhà nghiên cứu Nhân Quyền tại Hồng Kông cho biết. “Bà bị bắt và bị xét xử vì tiết lộ bí mật quốc gia trong bối cảnh Trung Quốc rất lo lắng về những can thiệp cuả nước ngòai vào các cuộc cách mạng màu tại đất nước này.”

“Văn Bản số 9”

Tháng 5 năm 2013, bà Gao đã viết một bài bình luận về “Văn Bản số 9”, một tài liệu đã mang bà ra tòa. Văn bản này có nội dung kêu gọi các đảng viên nên chống lại các ý tưởng mang tính đe dọa các nguyên tắc của Đảng, bao gồm cả “ý tưởng phương Tây” về lãnh vực truyền thông “có thể dẫn đến sự băng họai của Đảng và của xã hội vì đã khuấy động dư luận”.

Tài liệu cũng cảnh báo về các “giá trị phổ quát” và vấn đề “xã hội dân sự”. Những vấn đề này có thể tạo nên một sức mạnh chính trị bên ngòai hệ thống Đảng Cộng Sản.

Ngòai ra, trong một cuộc phỏng vấn tháng 3 năm 2013 với BBC bà Gao cho biết trong “Văn Bản số 9”, chủ tịch Tập được trích dẫn rẳng “chỉ đề cập đến cải cách, không được đề cập đến dân chủ.”

Theo bà “Kế hoạch chính trị của Chủ Tịch Tập là xây dựng một chính phủ có hiệu quả và không tham nhũng. Cho dù mục tiêu này có thể đạt được hay không khi không có dân chủ và hiến pháp. Việc đa đảng và tự do báo chí là vẫn còn là một dấu hỏi.”

Bách Hợp

Vì sao dối trá ?

Vì sao dối trá ?

RFA

nguyenthituhuy

Trước những vấn nạn của đất nước, của dân tộc ngày hôm nay, những người Việt Nam nào còn một chút lương tri, còn có trách nhiệm và còn suy nghĩ đều tự đặt câu hỏi: « vì sao chúng ta đến nông nỗi này ? ». Và đã có không ít người đi tìm nguyên nhân trong căn tính của dân tộc.

Thế nhưng, nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của Phương Tây mà tôi từng có dịp tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi, nói với tôi, với những cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng ý tưởng đều rất thống nhất : Đừng tìm nguyên nhân trong truyền thống dân tộc của các bạn. Vấn nạn của các bạn hiện nay đến từ một mô hình chính trị mà các bạn đã nhập khẩu hoàn toàn từ Phương Tây.

Dĩ nhiên, mô hình nhập khẩu đó chính là chủ nghĩa cộng sản.

Theo tôi, điều này rất đáng để chúng ta cùng nhau suy nghĩ một cách thấu đáo.

Ở đây, tôi đưa ra một vấn nạn thôi : sự dối trá.

Chúng ta không phủ nhận được một thực tế là dối trá đang trở thành một hiện tượng phổ biến trong toàn xã hội. Ta có thể tìm thấy sự nhận xét đồng thuận về thực tế này trên báo chí cả lề phải và lề trái, hay lề đảng và lề dân, muốn gọi cách nào thì tùy.

Vậy dối trá có phải là truyền thống của người Việt Nam không, có bắt nguồn từ truyền thống của chúng ta không ? Câu trả lời của tôi là : KHÔNG !

Chúng ta hãy đọc câu này :

« … cách mạng cộng sản luôn luôn là một sự tình cờ có tính lịch sử và một sự lừa dối vĩ đại (tôi nhấn mạnh – NTTH). Theo một nghĩa nào đó thì lí do như sau: không có cuộc cách mạng nào lại đòi hỏi những hoàn cảnh đặc biệt đến như thế và cũng không có cuộc cách mạng nào hứa nhiều như thế mà lại làm ít đến như thế.

Thói mị dân, những lời nói quanh co, không nhất quán là đặc trưng của các lãnh tụ cộng sản, nhất là khi họ buộc phải hứa hẹn một xã hội siêu lí tưởng và “thủ tiêu tất cả áp bức, bóc lột”.”

Người viết đoạn văn này là một lãnh tụ cộng sản cao cấp, đã phải vào tù vì chống lại chính chủ nghĩa cộng sản, vì đã sớm nhận thức được tính phi nhân và sự sụp đổ tất yếu của mô hình cộng sản chủ nghĩa. Đó là Milovan Djilas, cựu phó tổng thống Nam Tư, mà tôi từng nhắc đến vài lần.

Tôi dùng trích dẫn này để chúng ta thấy rằng chính những người cộng sản nói về chủ nghĩa cộng sản như vậy, chính những người cộng sản đã nhìn ra rằng chủ nghĩa cộng sản và sự dối trá là một ; và để chúng ta thấy rằng dối trá là hiện tượng thuộc về bản chất của các xã hội cộng sản trên toàn thế giới. Sự dối trá ấy hoàn toàn không liên quan gì đến truyền thống dân tộc của chúng ta. Trái lại sự dối trá nhập khẩu này đang làm biến dạng tính cách dân tộc của chúng ta. Chúng ta cần cứu lấy dân tộc tính và truyền thống của mình, trước khi quá muộn.

Nếu theo dõi các phân tích mà Djilas tiến hành trong cuốn « Giai cấp mới » ( mà tôi khuyến nghị là chúng ta nên đọc, đặc biệt là Hội đồng Lý luận Trung Ương và những người làm khoa học xã hội ở Việt Nam nên đọc, để hiểu thực chất của xã hội chúng ta) thì ta sẽ không ngạc nhiên trước những biểu hiện « lừa dối vĩ đại » (tôi dùng lại chữ của Djilas) của các lãnh đạo cao cấp.

Dối trá trở thành nguyên lý vận hành của toàn xã hội. Các lãnh đạo, dĩ nhiên, theo phân tích của Djilas, không còn cảm thấy xấu hổ khi nói dối. Lâu dần, không chỉ có các lãnh đạo, mà đến người dân bình thường cũng bị lôi vào và thích ứng với sự dối trá. Các quan hệ xã hội được xây dựng trên sự dối trá. Thậm chí các hiện tượng xã hội cũng được xây dựng trên nguyên lý dối trá này. Các khái niệm không cần phải trùng hợp với nội dung thực tế, nhưng điều đáng nói là tất cả mọi người đều thấy chuyện đó là bình thường. Mỗi người đều thấy việc người khác nói dối là bình thường, việc mình nói dối cũng là bình thường, việc tất cả tham gia vào tấn kịch dối trá của toàn xã hội cũng là bình thường.

Một trong những cách thức để bình thường hóa cái nguyên lý dối trá này là người ta cấp cho mọi sự dối trá cái nhãn hiệu : « kiểu Việt Nam ». Ví dụ nhan nhản, ai cũng có thể cung cấp ngay lập tức. Ở đây tôi chỉ lấy một sự việc : Quốc hội kiểu Việt Nam. Quốc hội có đấy, nhưng không phải do dân chọn (đảng đâu có giấu diếm việc « đảng cử dân bầu »), không làm việc vì lợi ích của dân, cũng không làm việc vì lợi ích của đất nước (hẳn chưa ai quên được rằng trong những ngày dàn khoan Trung Quốc cắm sâu vào lòng mẹ Biển Đông của chúng ta thì Quốc hội Việt Nam không ra nổi một nghị quyết về Biển Đông, họ nhường việc đó cho Quốc hội Mỹ). Rồi bây giờ Quốc hội lại chuyển sang họp kín !!! Vậy thì còn lý do gì cho sự tồn tại của Quốc hội ? Trên thực tế chỉ có cái xác chữ « Quốc hội » tồn tại, cái xác chữ đó không có nội dung. Hàng mấy trăm « đại biểu » ấy không làm nên một Quốc hội thực sự, họ cũng chẳng cần quan tâm xem thế nào là một quốc hội thực sự. Một sự dối trá như vậy được hầu như toàn xã hội chấp nhận một cách bình thường.

Sự dối trá mà chúng ta đang phải chịu đựng hiện nay chính là bản chất của mô hình chính trị mà chúng ta nhập khẩu từ Phương Tây : mô hình chính trị độc đảng cộng sản chủ nghĩa. Mô hình này đã bị chính phương Tây loại bỏ sau khi đã chứng kiến bao nhiêu tội ác, bao nhiêu sự trì trệ, đình đốn và phản tiến bộ do nó gây ra.

Nếu không quyết liệt chống lại sự dối trá đang trở thành phổ biến hiện nay, chúng ta sẽ đánh mất dân tộc tính, đánh mất bản sắc, đánh mất truyền thống, và mất nhiều thứ khác nữa. Và muốn chống lại sự dối trá trên phạm vi toàn xã hội, thì mỗi cá nhân phải có khả năng chống lại sự dối trá đã dần dần định hình trong tính cách của mình.

Chúng ta có làm được điều đó không ?

Paris, 23/11/2014

Nguyễn Thị Từ Huy

THẤT THẤT LAI TUẦN JOHN DOE N. 278

THẤT THẤT LAI TUẦN JOHN DOE N. 278

Ngô Nhân Dụng

Chắc quý vị không ai biết Nguyễn Tuấn. Anh qua đời khi đang ngồi trong quán bánh ngọt tên là Jolly Donuts nằm ở góc Đại lộ Roscoe và Đường De Soto trong thành phố Los Angeles, nước Mỹ. Một chiếc xe hơi SUV lớn đâm thẳng vào tiệm bánh lúc anh đang uống cà phê, khoảng 10 giờ đêm ngày 4 tháng Mười năm 2014.

Khi chết đi, trong túi Nguyễn Tuấn chỉ có mấy tấm vé sổ số cũ, 350 đô la tiền mặt, và một điện thoại di động. Thi hài anh được đưa vào nhà xác thành phố, tạm ghi tên là John Doe No. 278. John Doe là cái tên chung đặt cho những người không biết rõ họ, tên. Giống như lối người Việt gọi những người không rõ họ tên Nguyễn Văn Mỗ. Anh là tên Nguyễn Văn Mỗ thứ 278, trong số mấy trăm di hài vô thừa nhận trong nhà xác Los Angeles, một thành phố dân số gần 10 triệu.

Sở giảo nghiệm (Coroner) chắc đã nhờ cảnh sát hỏi nhân viên làm trong quán cà phê mà đêm nào anh cũng tới, biết người ta gọi anh là “Tuan,” họ “Nguyen.” Vậy chắc tên anh là Nguyễn Tuân hay Nguyễn Tuấn. Nhưng vì anh không mang giấy tờ nào, cũng không thấy thân nhân nào đến nhận diện, cho nên họ vẫn ghi cái tên John Doe No. 278. Dấu tay anh được đưa cho cảnh sát tìm thêm, nhưng họ tìm không thấy trong các hồ sơ lưu trữ. Cả đời anh chưa bao giờ bị bắt vì phạm tội. Có người cho biết tuổi anh, chắc sinh vào năm 1961. Sở Xe tự động (DMV) cho chạy tên Tuan Nguyen 1961 trong máy vi tính, hy vọng tìm ra các chi tiết khác. Máy cho biết có 623 người họ, tên tương tự. Nếu tìm trong hồ sơ của Sở Di trú chính phủ Mỹ, chắc có thể thấy những dấu tay giống của anh; vì khi một di dân vào nước Mỹ thế nào cũng được lấy dấu tay. Nhưng trước đây gần 40 năm chưa có máy vi tính để chứa được nhiều dữ kiện trong hồ sơ các di dân như vậy. Cuối cùng, trước pháp luật, anh chỉ là John Doe No. 278, vô danh.

Thi hài Nguyễn Tuấn đang được giữ trong phòng lạnh của thành phố, với vài trăm người khác. Người ta sẽ lấy mẫu sinh học DNA từ người anh, lưu giữ để sau này cần sẽ dùng. Trong thời gian từ ha đến sáu tháng, nếu không ai đến nhận, anh sẽ được hỏa thiêu, rồi đưa về cất tại nghĩa trang của Quận Los Angeles. Trong vài năm, nếu vẫn chưa ai tìm, tro của anh sẽ được đem chôn. Mỗi năm, vào tháng Mười Hai, thành phố sẽ làm một lễ cầu nguyện cho tất cả những người được chôn chung như anh.

Tôi viết bài này để xin báo Người Việt đăng ngày 22 tháng 11 năm 2014, nhân dịp 49 ngày Nguyễn Tuấn. Để xin quý vị cùng cầu nguyện hương linh anh bước vào một cõi bình an vĩnh cửu.

Tôi biết đến Tuan Nguyen nhờ đọc ký giả David Montero, tác giả bài “Who was Tuan Nguyen?” Tuan Nguyen là ai? trên tờ Los Angeles Daily News, số ngày 25 tháng Mười. Anh Thiện Giao, chủ bút nhật báo Người Việt, đã gửi bài ký hay cho tòa soạn cùng học hỏi. Montero đã tìm thêm, biết Tuan Nguyen là một người Việt trong số những thuyền nhân, “boat people” chạy khỏi nước Việt Nam trước đây hơn 30 năm.

Những người đầu tiên Montero phỏng vấn chắc là các nhân viên tiệm bánh, ai cũng nhớ Tuan Nguyen. Họ cho biết mỗi buổi tối anh đều tới quán đúng 9 giờ, trả một đô la mua ly cà phê. Anh cho rất nhiều đường và chỉ quấy sữa bột, không bao giờ dùng sữa lỏng. Anh ngồi ở một cái bàn nhất định, nếu chỗ đó có ai ngồi thì anh chờ tới lúc bàn trống mới vào. Lý do vì cái bàn đó gần chỗ cắm điện để anh “chạc” máy điện thoại di động. Vì cái máy đó mà mỗi đêm anh đến quán cà phê “chạc” điện. Buổi tối anh qua đời, cái máy vẫn còn chạc chưa đầy.  Chắc anh chỉ dùng cái cell phone để chơi “games,” các trò chơi điện tử. Trong máy không ghi lại một số điện thoại của người nào. Cũng không thấy số điện thoại nào gọi tới mà không gặp. Anh có rất nhiều bạn trong khu này; nhưng chắc anh không gọi cho ai bao giờ.

Tuan Nguyen sống không nhà, một người “homeless.” Mỗi ngày anh đi lượm lon, bán lấy tiền sống. Tối ngủ quanh quẩn trong công viên Canoga Park hay Winnetka Park. Ký giả Montero đã hỏi chuyện bà Lori Huynh, 77 tuổi. Bà biết Tuấn đã 20 năm nay; thân với nhau vì cùng trải qua cảnh vượt biển. Bà Huỳnh đi năm 1980 khi chồng bà còn nằm tù trong trại “cải tạo.” Chiếc thuyền chở 300 người chạy trốn chế độ cộng sản; tới được một hòn đảo ở Indonesia, bà đã sống ở đó sáu tháng. Bà Huỳnh kể lại nhiều cảnh hãi hùng. Năm 1986 bà mua lại một tiệm làm Nails.  Thấy một anh da vàng hay đi qua lại, bà làm quen, mời anh ly cà phê. Hai năm sau Tuấn mới thổ lộ, kể rằng cha mẹ anh đã chết hết trên biển; anh là người duy nhất còn sống sót.

Không biết gia đình Nguyễn Tuấn vượt biển năm nào. Năm nay anh 53 tuổi thì chắc lúc đến nước Mỹ anh đã hơn 13 rồi. Tuấn kể với bà Huỳnh rằng cha mẹ anh từng làm việc tại “cơ quan điện nước” ở thành phố Sài Gòn. Gia đình sống trong khu chúng cư, một khu nhà đẹp đẽ thuộc lớp trung lưu, của sở. Anh đã học Trung học Petrus Ký lúc trường chưa bị đổi tên; vậy trước 1975 anh đã hơn 10 tuổi. Anh kể khi đi học anh giỏi toán. Nhiều người cũng nhớ lại trong túi đeo vai của anh lúc nào cũng có một cuốn sách, lâu lâu anh lại ngồi xuống vẽ các đồ biểu hay hình học.

Nhà báo Montero cũng gặp Ben Massaband, chủ nhân một tiệm giặt khô trong 32 năm qua, nằm bên cạnh tiệm Nails của bà Huỳnh. Lâu lâu Tuan Nguyen vẫn giúp ông đem thùng rác ra cho xe đổ rác lấy. Ông nói, “Tôi gặp Tuan Nguyen nhiều hơn gặp vợ con.” Cô Kate Leone là chủ nhân một tiệm thẩm mỹ gần đó; cô kể có lần Tuan Nguyen đã giúp cô mà không cho cô biết. Một tối Chủ Nhật cô Kate đóng cửa tiệm mà không vặn khóa. Tiệm nghỉ ngày Thứ Hai, đến sáng Thứ Ba cô tới mới biết mình đã quên. Sau khi kiểm soát khắp chỗ, thấy không mất gì cả, cô vào coi lại trong máy truyền hình tự động. Trong cuộn phim cô nhìn thấy anh Tuan Nguyen đã đứng gác trước cửa tiệm giúp cô cả ngày Thứ Hai; có lúc anh đi khỏi, khi quay về lại kiểm soát xem có ai mở cửa vào tiệm hay không. Cô Maria Avila là thợ hớt tóc, biết Tuan Nguyên rất nhiều, mỗi năm cô cắt tóc cho anh hai lần. Cô kể mỗi lần lại bảo cô cắt cho anh không lấy tiền, nhưng lần nào anh cũng từ chối, nhất định trả đủ 10 đô la. Cô vừa nói vừa khóc: “Tuan Nguyên nghĩ chúng tôi săn sóc anh ấy, nhưng thực ra chính anh đã chăm sóc cho chúng tôi.”

Một người bạn “homeless” của Tuan Nguyên là bà Brooke Carrillo, 42 tuổi. Năm ngoái bà bị mất nhà, vì mất việc rồi không đủ tiền trả nợ ngân hàng. Mỗi Thứ Năm bà đến nấu nướng giúp nhà thờ, cung cấp bữa ăn cho những người vô gia cư khác. Tuan Nguyên tuần nào cũng tới, lần chót là hai ngày trước khi anh mất. Bà còn nhớ anh thích ăn mì spaghetti kiểu Ý và nước trái cây. Bà biết anh thường ngủ ở công viên Winnetka Park hoặc một chỗ kín đáo trên con đường đó. Bà Carrillo đang sống trong cái xe hơi cũ của mình, trên nóc xe chất đầy đồ, phủ mền kín. Hàng ngày bà cũng đi lượm lon. Bà cần tiền đổ xăng, vì phải di chuyển chiếc xe hơi trong những ngày đường cấm đậu xe. Bà nhớ lại có lần hết tiền mua xăng, Tuan Nguyên cho. Bà cũng khóc, “Anh ta là một người nhân từ, hào hiệp, không bao giờ làm phiền ai cả.”

Bà Huỳnh vượt biển đã bán tiệm Violet Nails từ năm 2007, sau khi quen Nguyễn Tuấn 20 năm. Bà đã giặn dò người chủ mới “phải trông nom cho Tuấn” như một điều kiện khi bán tiệm. Và những người chủ mới vẫn giữ lời; nghe tin anh chết, ai cũng khóc. Họ đem hoa tới đặt tại nơi xẩy ra tai nạn. Cách đây ít lâu, Tuan Nguyên trúng vé số, được 800 đô la. Anh đã đi mua hoa đến tặng tiệm Violet Nails và mua nước hoa tặng các cô nhân viên.

Ký giả David Montero, dưới tựa bài “Who was Tuan Nguyen?” đã viết thêm một dòng tự nhỏ: “Bạn bè kể lại niềm bí ẩn của người vô gia cư chết tai nạn xe hơi ở LA” (Friends unravel mystery of homeless man killed in LA accident).

Nhưng nhiều bí ẩn khác trong cuộc đời Nguyễn Tuấn sẽ không bao giờ được kể lại. Tại sao anh phải sống không nhà suốt mấy chục năm qua, trong khi nhiều thiếu niên cùng tuổi với anh đến tị nạn ở Mỹ một mình, các em đó vẫn sống  được, nhiều người đã thành công? Anh đã chứng kiến những thảm cảnh nào trong chuyến vượt biển, lúc 14, 15 tuổi Nguyễn Tuấn chỉ kể chuyện đời mình với bà Huỳnh sau hai năm quen biết, và bà kể lại rất ít chi tiết. Có phải vì anh vẫn còn kinh hoàng khi nhớ lạ quá khứ hay không? Cái chết của cha mẹ anh, và bao nhiêu người khác trong chuyến đi đã ảnh hưởng tới tâm não anh thế nào? Anh đã trông thấy những gì, nghe những âm thanh nào trên mặt chập trùng gào thét? Nguyễn Tuấn mang theo những niềm bí ẩn đó xuống tuyền đài. Chắc hương hồn anh đã bay ngay lập tức về Biển Đông tìm gặp lại cha mẹ anh. Dân tộc Việt đã vác cây thánh giá trong bao nhiêu năm, hết cuộc chiến tranh lại đến chế độ độc tài tàn ác khiến mấy trăm ngàn người phải chết chìm trên biển cả khi chạy tị nạn. Nguyễn Tuấn vẫn một mình vác cây thánh giá đó bao nhiêu năm, cho đến ngày 4 tháng Mười năm 2014.

Nhưng có một điều rõ ràng, minh bạch, không bí ẩn trong cuộc đời Nguyễn Tuấn: Anh qua đời, tất cả những người quen biết anh đều thương tiếc – như David Montero kể. Không một ai nói một kỷ niệm xấu nào. Một người “không bao giờ làm phiền ai cả” như bà Carrillo nói về anh, đã khó kiếm. Nhưng Nguyễn Tuấn còn đáng ngợi khen hơn thế nữa. Anh nhân từ, hào hiệp, sẵn sàng giúp đỡ người chung quanh. Thấy có thể giúp được ai, là giúp, như một Hướng Đạo sinh tuân theo lời hứa thứ hai. Giúp một người chủ tiệm quên khóa cửa cho tới một người bạn homeless thiếu tiền đổ xăng; và chắc còn bao nhiêu người khác mà ký giả Montero không gặp. Nguyễn Tuấn sống một mình nhưng không cô đơn, vì lúc nào anh cũng nghĩ đến người khác. Anh sống vô gia cư nhưng có cả một gia đình lớn, là những người gặp gỡ hàng ngày, ai cũng quý mến anh. Anh tận tình giúp người mà không muốn nhờ vả ai, không chờ ai đền đáp. Anh giữ tư cách, không nhận người khác bố thí cho mình, dù chỉ là công cắt tóc trị giá 10 đồng. Khi có tiền, 800 đô la là một món tiền lớn đối với anh, anh không hưởng một mình mà đem chia sẻ niềm vui chung với những người tử tế quanh mình.

Nguyễn Tuấn đã theo một quy tắc cư xử mà loài người vẫn dậy nhau mấy ngàn năm nay: Sống đàng hoàng tử tế; người khác sẽ tử tế với mình. Cứ thế, chúng ta sẽ tạo nên một thế giới gồm những người tử tế.

Một thiếu niên bơ vơ nơi đất khách quê người, không thân thích, không nơi nương tựa; chắc anh đã trả qua những thất bại lớn trong đời nên sống vô gia cư mấy chục năm nay. Nhưng khi qua đời anh vẫn được người khác kính trọng. Anh sống ở Mỹ, nhưng nếu sau khi vượt biển anh có lưu lạc đến xứ Zambia hay Equator thì chắc tư cách đàng hoàng của anh vẫn không thay đổi. Cha mẹ anh đã dậy dỗ thế nào để đứa con giữ được tư cách như thế? Họ đã học hỏi từ đâu mà truyền lại cho anh các đức tính kể trên? Cha mẹ anh chỉ dậy anh theo truyền thống dân Việt. Nền luân lý mấy ngàn năm để lại, cùng nền nếp xã hội trước năm 1975 tạo môi trường đào luyện những con người như Nguyễn Tuấn.

Có ai biết Nguyễn Tuấn không? Chúng ta vẫn có hàng triệu, hàng chục triệu những Nguyễn Tuấn đang được cha mẹ người Việt Nam làm gương và dậy bảo. Để các em sẽ trở thành những con người nhân từ, hào hiệp, sống tư cách đường hoàng như Nguyễn Tuấn. Dù còn ở trong nước hay đang sống khắp bốn phương trời, những Nguyễn Tuấn vẫn mang theo truyền thống luân lý của tổ tiên làm hành trang cho cả cuộc đời.

Nguyễn Tuấn mang trong mình một di sản văn hóa anh đã nhận được từ cha mẹ, ông bà, từ những người cùng sống trong xã hội chung quanh từ lúc anh sinh ra đời. Anh đã  sống di sản văn hóa đó suốt cuộc đời một người vô gia cư. Cuộc sống càng gian nan, các đức tính anh thể hiện càng sáng lên rực rỡ.

Đọc xong bài báo của David Montero, nhiều người không cầm được nước mắt. Nhưng không cần ai thương xót Nguyễn Tuấn. Chúng ta có thể còn hãnh diện về Nguyễn Tuấn. Vì mình là một người Việt Nam như anh. Tôi muốn dậy các con tôi tấm gương của anh: Dù gặp cảnh cùng quẫn đến đâu nữa cũng giữ vững vàng tư cách xứng đáng của một người Việt Nam.

~~~~~~~~~~~~~

– Who was Tuan Nguyen? Friends unravel mystery of homeless man killed in LA accident

–  John Doe N.278

– Valley story: Vietnam refugee dies homeless in Canoga Park for decades

From: huong phan & Nguyễn Kim BBằăng gởi

Đất Nước Việt Nam Mất Dần Vào Tay Tầu Cộng

Đất Nước Việt Nam Mất Dần Vào Tay Tầu Cộng

Vietbao.com

Từ mấy thập niên nay, người dân Việt đã biết rằng giải đất quê hương thân yêu hình chữ S sẽ mất vào tay Tầu Cộng, qua việc đảng Cộng Sản Việt Nam tán tận lương tâm dâng đất cho Tầu Cộng để đổi lấy sự bình ổn chính trị của chúng, nói rõ ra là để cho bọn chúng được yên tâm mà tận hưởng giầu sang, phú quý cướp được từ dân chúng. Nhiều dư luận cho rằng, qua thỏa ước Thành Đô, qua các hiệp ước ký ngầm hoặc công khai với Bắc Kinh, Việt Nam sẽ trở thành một quận huyện của Tầu vào năm 2020. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng việc đó đến sớm hơn dự định. Hiện nay, nhiều vùng trên đất Việt Nam đã hoàn toàn thuộc Tầu. Các phu phố rặt Tầu đã mọc lên khắp nơi, từ Thác Bản Giốc, Móng Cáy, xuống miền Trung, khu Gia La-Tân Rai, tới tận Hà Tiên, đâu đâu cũng có những khu phố Tầu, mà người dân ở đó phải nói tiếng Tầu, dùng căn cước Tầu, xài tiền Tầu. Ngay tại Bình dương sát Saigon, năm 2011, Tầu cộng đã dựng nguyên môt thành phố đặt tên là Đông Đô Đại Phố rộng 26 mẫu tây, với số vốn 300 triệu đô la, để phổ biến sinh hoạt rặt Tầu, nghĩa là áp dụng văn hóa Tầu, chữ Tầu thay cho chữ Việt, xài căn cước Tầu, và đặc biệt nhất là cấm tuyệt đối không cho văn hóa Việt được phát triển ở đây. Tuy không có bảng cấm “Người Việt không được vào”, nhưng những người Việt bước vào khu này, nếu không phải là có quan hệ với người Tầu ở đây, thì sẽ gặp những rắc rối khó khăn, những cặp mắt căm thù, khiến phải nhanh chân trở ra. Điều khác biệt giữa Đông Đô Đại Phố và các khu phố Tầu khác trên thế giới ở chỗ đây là một tỉnh lỵ nhỏ của người Tầu và không một dân tộc nào khác được vào đây mua đât, mua nhà như ở các khu phố Tầu khác. Đường phố chính của Đông Đô Đại Phố là một trung tâm thương mại, có 3 mặt tiền giáp với đường lớn rộng 35 mét, cao 3 tầng với đầy đủ các dịch vụ kinh doanh buôn bán, giải trí, ẩm thực rặt văn hóa Tầu với tên cửa hàng chỉ viết chữ Hán. Trong giao dịch ở đây, chỉ có ngôn ngữ Tầu được sử dụng, nói líu lo. Như vậy, có nghĩa là phần đất này đã được bán cho Tầu môt trăm phần trăm.

Tuy nhiên, nếu Đông Đô Đại Phố là cái gai nhọn trong chân người Việt, thì khu Gia Lai-Tân Rai lại ghê gớm hơn vì nơi đó chính là nguồn gốc sự tiêu hủy môi trường và con người chung quanh vùng này. Từ khi lấy tiếng là khai thác bâu xít để lấy quặng nhôm cho đến nay, số lượng nhôm được khai thác chỉ là những con số huyễn hoặc không ai có thể kiểm tra là đúng hay xạo. Trong khi sự thật lại là việc các công nhân Tầu làm việc ở đây chính là những công an, bộ đội Tầu, được lệnh phải lấy được vợ người Việt chung quanh để biến họ thành dân Tầu với những ưu tiên về mọi mặt. Nhiều thôn nữ nghèo khổ trong vùng, khi nghe những lời đường mật dẫn dụ về các đặc quyền đặc lợi mà họ sẽ được hưởng nếu lấy chồng Tầu, thì sẵn sàng “trao duyên cho tướng cướp”. Sau đó, thì sinh con đẻ cái cho chúng, lập thành một dân tộc riêng biệt chiếm lĩnh vùng cao nguyên mầu mỡ này. Những công nhân gốc công an, bộ đội này dành quyền miễn trừ ngoại giao cho chính chúng nó, nếu chúng có xông ra đánh đập, đâm chém người dân chung quanh thì chính quyền sở tại không dám đụng đến, ngược lại, nếu thanh niên trai làng mà có chuyện xích mích với chúng, thì chúng có quyền bắt trói, gông cổ ngay tại cổng trại! Có lần cả gần 200 công nhân-công an Tầu tràn ra đường với gậy gộc đánh đập thanh niên chung quanh chạy trối chết mà công an Việt chỉ biết đứng trơ mắt ốc ra mà nhìn. Gần đây, điều kinh khủng nhất đã xẩy ra: vì xây cất dỏm, nên bùn đỏ tràn hồ làm hủy hoại toàn thể môi trường chung quanh. Bùn đỏ là bùn độc hại, bởi vì có lượng xút rất cao, khoảng 75kg xút/1 tấn bùn đỏ cộng với độ PH rất cao sẽ làm chết hết cây cỏ, động vật, thực vật, phá hủy kim loại. Khi chẩy xuống nguồn nước thì cá tôm sẽ chết hết, người ta nếu ăn vào thì cũng sẽ chết theo tôm cá. Ngoài ra, bùn đỏ còn có thể kéo theo các kim loại nặng và chất phóng xạ nguy hiểm cho đời sống con người. Đồng thời với việc bùn đỏ tràn hồ, việc các xe tải chở Aluminum (hay chở vật liệu gì đó, thì không ai biết được!) chạy qua các thành phố liên hệ, cũng là môt nỗi ám ảnh không dứt cho người dân sống trong vùng này. Các xe tải của công ty khai thác bâu xít chạy ầm ĩ trên các đường lộ đông dân cư và trẻ em, đã gây ra không biết bao nhiêu tai nạn, hoặc lật xe, đổ chất độc xuống đường, hoặc cán chết người vô tội vạ.

Tháng 6 năm 2014, điều mà dân Việt lo sợ nhất đã chính thức xẩy ra: khu kinh tế Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh của Việt Nam gửi thư lên nhà cầm quyền Hà Nội và yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam cho được lập đặc khu với nhiều quyền hạn vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp bình thường, nghĩa là đòi trở thành một đặc khu người Tầu dưới sự cai trị của người Tầu, dứt khoát chê bỏ chính quyền của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy đòi hỏi này chưa được chấp thuận, nhưng với sự hèn nhát của Đảng Cộng và dưới áp lực của các bản hiệp ước bán nước cho Tầu, dần dần rồi yêu cầu này cũng được chấp thuận, hoặc cứ tà tà mà thực hiện, không cần phải đánh trống khua chiêng ầm ĩ. Theo thư xin được đặc quyền này gửi cho Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải là một con cờ của Bắc Kinh, Tổng giám đốc công ty Hưng Nghiệp Formosa Dương Hồng Chí, người Tầu, nói lý do là việc thiết lập đặc khu kinh tế nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và đầu tư các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện, nước… Thực tế, chúng gửi yêu cầu để tách vùng Vũng Áng, Hà Tĩnh, thành như một vùng tự trị trong lòng giang sơn Việt Nam. Với con số trên dưới 10,000 công nhân Tầu không có giấy tờ hợp pháp, khu Vũng Áng đã có một lực lượng quân sự khá lớn, nếu xẩy ra đụng chạm giữa Việt Nam và Trung Cộng. Điều này cũng là sự thực, không phải phỏng đoán, vì những ai sinh sống gần khu Vũng Áng đều thấy rằng có môt lực lượng an ninh với vũ khí đặc biệt trấn đóng trong khu này. Những khuôn mặt lầm lì, những lần tuần tra có vũ khí của lực lượng công nhân Tầu đã cho người ta thấy rõ dã tâm của bọn Tầu khi đã chuẩn bị sẵn để bất cứ lúc nào cũng có thể tấn công các lực lượng phòng thủ của công anh hay quân đội quanh miền này.

Như thế, với 10,000 “quân nhân” Tầu tại Vũng Áng, cộng với hơn 10.000 “quân nhân” Tầu tại Gia Lai-Tân Rai, và vài chục ngàn “quân nhân” Tầu tại Đông Đô Đại Phố, cùng các lực lượng nhỏ của Tầu nằm rải rác khắp nơi trên đắt Việt,từ Móng Cáy, Hòn Gai, đến Cà Mâu, Hà Tiên… nếu có một trận chiến xẩy ra giữa Tầu Cộng và Việt Cộng thì Việt Cộng sẽ thấy kết quả thua trận ngay trước mắt. Trận chiến 1979 do Tầu khởi xướng chỉ tại mỗi môt miền Bắc, mà Việt Cộng đã phải hy sinh 24,000 người chết, (chưa kể người bị thương), thì trong tương lai, nếu có trận chiến thứ hai xẩy ra giữa “hai anh em môi hở, răng lạnh” này, mà thằng anh đã gài sẵn môt hệ thống “da beo” trên khắp miền đất Việt Nam, nhất định thằng em Việt Cộng sẽ chết không dưới 200,000 người, và như thế, thì lá cờ trắng sẽ được treo trên cột cờ thành phố Hà Nội chỉ trong vòng 3 ngày chiến đấu. Máu Việt Nam sẽ đổ tràn lan trên khắp miền Nam, Trung, Bắc. Thế hệ sau của Việt nam sẽ biến thành thế hệ của Tầu…

Thật đau lòng cho các vua đời Đinh, đời Lê, đời Lý, đời Trần và Hoàng Đế Quang Trung đã hiến dâng tính mạng mình cho đất nước, mà giờ đây, con cháu lại bán đứt đất nước cho giặc! Ôi! Nhục thay! Thảm Thương thay cho dân Việt, đã hơn 4000 năm văn hiến, bảo vệ giang sơn, mà giờ đây, bọn Cộng Nô lại nỡ tâm đem bán để cho chúng hưởng đời tỷ phú huy hoàng.

Chu Tất Tiến

Biết Tạ Ơn Ai

Biết Tạ Ơn Ai

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Đời vẫn vốn không nương người thất thế.
Nguyễn Tất Nhiên

Những ngày cận lễ, tôi hân hạnh nhận được qua email một bài viết mới (“Thanksgiving 2014 & Dân Việt Tỵ Nạn”) của nhà văn Giao Chỉ. Xin được trích dẫn đôi đoạn ngắn để chia sẻ cùng độc giả:

Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày Lễ Tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm. Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng…

Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.

Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay…

Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.

Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có cơ hội trở thành người Mỹ. Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee Act…

Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân Việt đã ra đi trong đó nhiều di dân không bao giờ đến được miền đất Hứa…​

Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower Việt Nam đã ra đi từ khắp miền duyên hải có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.

Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền. Boat People ngày nay có nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.

Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền đất mà chúng ta yêu quý. (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love).

Nhận định này, tiếc thay, không hẳn đã hoàn toàn đúng với tuyệt đại đa số người Việt đang sống lây lất ở Cambodia. Phần lớn họ không được chính phủ sở tại xem là cư dân hợp pháp nên vẫn cứ là những boat people (bấp bênh sinh sống trên thuyền) ở Biển Hồ, và nhiều bến bờ khác nữa xuôi theo dòng sông Tonlé Sap.

Ảnh NCB – November 2014

Sau một chuyến đi thăm đồng hương ở đất nước này, nhà báo Văn Quang kết luận:

“Hầu hết là người Việt Nam lưu lạc qua Campuchia vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng tựu chung họ là những người đi kiếm sống ở một vùng tưởng rằng đó là đất hứa… Trước hay sau họ cũng phải tìm đường đi thôi. Nhưng đi đâu, làm cái gì để sống là những hòn đá tảng níu chân họ lại. Rồi bao nhiêu đời vẫn cứ thay nhau lầm than cơ cực ở nơi xứ người này, không có lối thoát. Họ vẫn chỉ có một ý nghĩ, ở đây họ còn có chiếc thuyền, dù rách nát, nhưng họ vẫn có một nghề chài lưới kiếm sống qua ngày. Đi nơi khác, chẳng biết bấu víu vào đâu!”

Ảnh NCB – November 2014

Trong bản tường trình (The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia) của MIRO – Minority Rights Organization – phổ biến vào tháng 3 năm 2014, tổ chức này đã ví von đám người Việt đang sinh sống nơi đây là “những kẻ đang sống ngoài cửa thiên đàng.” Ngay giữa thiên đàng của xứ Chùa Tháp (ngó bộ) cũng không hạnh phúc hay tự do gì cho lắm, nói chi đến thân phận của những kẻ còn “kẹt” ở bên ngoài.

Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?

Xin thưa cái … quốc tịch Cambodia.

Nhà văn Giao Chỉ cho biết “Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.” Cao Miên không phải là Mỹ Quốc nên xứ sở này không có luật lệ gì đàng hoàng và rõ ràng, cùng với những lời lẽ “vàng ngọc” như vậy.

Vô số người Việt sinh đẻ ở Miên còn chưa được cấp cái giấy khai sinh, nói chi đến những thứ xa xỉ như thẻ căn cước hay quốc tịch. Và không quốc tịch cũng có nghĩa là không có quyền tiếp cận với tất cả những dịch vụ và quyền lợi tối thiểu như người dân bản xứ: không y tế, không giáo dục, không có quyền sở hữu đất đai hay tài sản …

Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ mong được sống cho nó yên thên thôi nhưng sự mong muốn giản dị này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.

Chính phủ Cambodia đang tiến hành một cuộc kiểm tra dân số mà nhiều quan sát viên cho rằng mục đích chính của nó là nhắm vào đám dân Việt Nam đang ngụ cư ở đất nước này. Ông Sok Hieng – công nhân xây cất,  33 tuổi, sinh ở Nam Vang nhưng có bố mẹ gốc việt – bầy tỏ sự lo âu: “Tôi sợ rằng mình sẽ buộc phải rời khỏi Cambodia vì tôi chưa có thẻ căn cước. Khi tôi đến Việt Nam, họ coi tôi là người Miên; tôi ở giữa người Miên và người Việt.” (Sean Teehan & Phak Seangly. “Vietnamese wary of planned census.” The Phnom Penh Post 26 August 2014).

Nỗi lo sợ của Sok Hieng đã trở thành sự thực vào hai tháng sau, vân theo The Phnom Penh Post, số ra ngày 3 tháng 10 năm 2014: “Chỉ trong vòng một ngày 142 người di dân bất hợp pháp Việt Nam đã bị trả qua biên giới – Census deportations hit 142 in single day.”

Cùng với sự bất an, nếp sống bấp bênh và nghèo khó là nét nổi bật trong sinh hoạt hàng ngày của đa số dân Việt ở Cambodia –  theo như tường trình của thông tín viên Quốc Việt, RFA:

“Hầu hết người Việt sống trên làng nổi, theo bờ sông đều không có đất đai sản xuất nên họ bắt buộc lăn lộn lén lút đi đánh bắt cá. Các gia đình đều muốn cho con em có nơi chỗ ăn học để vươn lên trong xã hội và đóng góp cho đất nước tuy nhiên tất cả đều không có khả năng.”

Nhiều năm trước, sau khi chia tay đồng bào mình ở Cambodia – vào tháng 12 năm 2008 – nhà báo Văn Quang vẫn còn ngoái nhìn, với rất nhiều ái ngại:

“Hình ảnh những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ, những gia đình 7-8 đứa con sống lúc nhúc trên chiếc ghe rách tơi tả còn bám theo tôi mãi.”

Đến hôm nay chúng tôi mới lò dò đến xứ sở này, và kinh ngạc nhận ra rằng hình ảnh của “những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ” vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thời gian, dường như, không hề trôi trên những bến nước ở nơi đây.

Ảnh NCB. November 2014

Chúng tôi ghé làng nổi Kandal và Chong Kok, thuộc xã Phsar Chhnang – tỉnh Kampong Chhnang – nằm ở phần đuôi của Biển Hồ (nơi hiếm có khách du lịch nào lai vãng) vào cuối tháng 11 năm 2014. Theo lời ông trưởng thôn: nơi đây có 931 gia đình người Việt, nhân khẩu chính xác là 4,760, tất cả đều là người Việt hay gốc Việt.

Người Miên và người Chàm không sống trên ghe, và họ có quyền lựa chọn một lối sống bình thường (trên bờ) như đa phần nhân loại. Số dân Việt Nam đang trôi nổi ở xứ Chùa Tháp thì không. Họ là thứ sắc dân vô tổ quốc (stateless ethnic Vietnamese, theo như cách gọi chính thức của các N.G.O đang hoạt động ở Cambodia) nên  không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai, và buộc phải chấp nhận một nếp sống rất bồng bềnh, và vô cùng bấp bênh – như hiện cảnh.

Chúng tôi đi ghe vòng vòng thăm hỏi và trò chuyện với chừng chục gia đình người Việt, những thuyền nhân (boat people) ở Kampong Chhnang. Không ai chuẩn bị gì ráo trọi cho mùa Thanksgiving này cả. Họ hoàn toàn không có chút khái niệm gì về Lễ Tạ Ơn. Họ biết tạ ơn ai, và “tạ” về chuyện gì đây?

Ảnh NCB – November 2014

Có bao nhiêu ông Trần Văn Truyền khác trong vỏ bọc liêm khiết?

Có bao nhiêu ông Trần Văn Truyền khác trong vỏ bọc liêm khiết?

Một Thế Giới

Kiến Giang

23-11-2014

Kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về khối tài sản của ông Trần Văn Truyền là rất rõ ràng. Hầu hết là nhà đất được cấp sai nguyên tắc. Cấp sai thì thu hồi lại, đó là việc đương nhiên. Dẫu vậy, vụ việc liên quan đến ông Truyền gây ra quá nhiều tổn hại. Mà tổn hại lớn nhất, chính là lòng tin của người dân.

Khi một người đầu ngành chống tham nhũng lại vơ vét của cải thì lòng tin của dân về công cuộc chống tham nhũng chắc chắn sẽ bị lung lay và sẽ phát sinh câu hỏi: Có bao nhiêu ông Truyền khác đang khoác vỏ bọc liêm khiết?

Sau kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, điều người dân hoang mang không chỉ là những khối tài sản kếch xù thiếu minh bạch mà ông có được.

Hoang mang là đã có lúc, ông với cương vị người đứng đầu cơ quan thanh tra, đã có những tuyên bố mạnh mẽ, đương đầu với quốc nạn tham nhũng. Người ta vẫn tin ông là một người thanh liêm, có trách nhiệm, dám nói dám làm.

Thế nhưng, khi mọi việc vở lẽ, người ta ngao ngán thực tế rằng những gì ông nói trái ngược hẳn với những gì ông làm. Thậm chí, nếu quá tức giận, người ta có thể gọi ông là kẻ “tay ăn cắp, miệng la làng” cũng không có gì quá đáng.

Cuối tháng 12/2007, ông phát biểu đầy cảm khái: “Càng công khai, minh bạch, càng kiểm soát được tình hình; nhất là công khai các hoạt động của bộ máy nhà nước, công khai các việc mà công chức nhà nước phải làm; từ đây công khai, minh bạch luôn cả về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức”.

Cùng thời gian đó, con gái ông được làm thủ tục mua lại căn nhà ở đường Nguyễn Trong Tuyển, Q.Phú Nhuận mà trước đây ông thuê lại.

Giữa năm 2010, một thời gian chưa lâu sau khi ông làm thụ tục xin mua lại căn nhà rộng lớn ở thành phố Bến Tre và được xét duyệt, ông lại đăng đàn phát biểu hùng hồn: “Đấu tranh chống tham những, tiêu cực rất gian nan, khó khăn nên chúng ta phải có bản lĩnh, dám đương đầu và chấp nhận để đấu tranh. Nếu đấu tranh mà giải quyết được tình trạng tiêu cực thì đó là có lợi cho cái chung, đất nước đang cần, nhân dân đang mong”.

Hoang mang lớn nữa của người dân là tại sao ông Trần Văn Truyền “vô tư” lấy nhà đất công một cách dễ dàng, nhanh gọn. Phát biểu của lãnh đạo đầu ngành TP.HCM và Bến Tre rằng cấp nhà do không biết ông Truyền đã có nhà nơi khác là không hợp lý.

Vì chúng ta có hẳn một hệ thống quản lý tài sản công, thủ tục hóa giá nhà theo nghị định 61 cũng rất nhiêu khê, xác minh rất cặn kẽ. Trong khi ông Truyền không gặp trở ngại nào.

Tại TP.HCM, nói không thể xác minh việc ông Truyền có nhà nơi khác lại càng không thể chấp nhận. Bởi vì căn nhà đó được hóa giá cho con gái ông Truyền, một nhân viên bảo hiểm, không nằm trong diện được xét duyệt. Việc bà này sở hữu một căn hộ cao cấp ở quận 5, TP.HCM dân thường còn biết, không thể nói cán bộ quản lý nhà không biết.

Không thể có cách lý giải nào khác ngoài việc các cơ quan quản lý tài sản công, vì một lý do nào đó, đã không thi hành chức trách của mình, tạo điều kiện cho ông Truyền và gia đình vơ vét của công.

Cuối cùng, một câu hỏi đặt ra, nếu ông Truyền không xây biệt thự hoành tráng, ai sẽ biết ông lắm tiền nhiều của? Không có báo chí vào cuộc phanh phui, cơ quan chức năng nào sẽ vào cuộc điều tra khối tài sản khổng lồ của ông?

Thậm chí, nếu báo chí không đặt vấn đề, có lẽ sự việc của ông Truyền có thể đã rơi vào im lặng. Ông tiếp tục sở hữu tài sản kếch xù, tiếp tục vung tay phát ngôn về đạo đức cán bộ, về minh bạch và chống tham nhũng. Như có lần ông hùng hồn tuyên bố: “Chống tham nhũng hiện không chùng xuống, nếu chùng xuống thì chỉ có báo chí chùng, còn các cơ quan chống tham nhũng khác không chùng”.

Sẽ có nhiều người “tội nghiệp” ông Truyền vì trót phô trương, trót vương giả nên mới bị soi mói. Thực tế, có người cho rằng rất ít cán bộ dám thoát ra ngoài bộ quần áo giản dị, chiếc xe máy bình thường mặc dù đang sở hữu tài sản lớn. Nhiều người đợi đến khi về hưu vài năm mới dám đầu tư chiếc xe hơi vừa giá để tránh soi mói như một hình thức hạ cánh an toàn và nhẹ nhàng. Cán bộ cả gan như ông Truyền còn lắm.

Ông Truyền đáng bị chê trách. Nhưng nhờ ông, dư luận có quyền đặt câu hỏi, có bao nhiêu ông Truyền khác đang ẩn mình? Và bằng cách nào bóc được lớp vỏ bọc liêm khiết?

Một người tỏ ra cương trực, thẳng thắn như ông Truyền lại là người không minh bạch. Người ta không nghi ngại về những cán bộ ít ngoại giao, khép mình. Khi quyền lực đi với quyền lợi quá lớn và dễ dàng như trường hợp của ông Truyền, sẽ có bao nhiêu người giữ được sự công tâm vô tư? Câu trả lời quá khó.

Cũng như quá khó để trả lời câu hỏi: Thu hồi nhà đất của ông Truyền, làm sao “thu hồi” được lòng tin của người dân?

KHÍA CẠNH NHÂN LOẠI NƠI THÁNH TÊRÊXA AVILA

KHÍA CẠNH NHÂN LOẠI NƠI THÁNH TÊRÊXA AVILA

Thánh Têrêxa Avila là một nhà chiêm niệm vĩ đại, đã đạt tới một trình độ thần hiệp rất cao và đã dựa vào kinh nghiệm thiêng liêng của mình viết nên những tác phẩm tu đức rất giá trị, đến nỗi đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tôn lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh ngày 27-9-1970.  Nhưng tôi không muốn nhấn mạnh khía cạnh cao siêu này vì không biết nhiều và cũng vì cảm thấy mình khó lòng noi theo.  Điều đánh động tôi hơn cả là khía cạnh con người nơi thánh nhân, chắc hẳn vì thấy “vừa tầm” với mình hơn.

1. Không Bao Giờ Quá Muộn Để Trở Lại Với Chúa:

Trước tiên, tôi thấy thánh Têrêxa vào dòng Cát Minh ở Avila năm 1536 lúc 21 tuổi, nhưng trong suốt gần 20 năm dài, Bà đã sống đời tu một cách tầm thường, ươn ái như đa số các đồng bạn thời ấy, mặc dù Bà vẫn cố gắng phấn đấu để khỏi quá sa đà.  Mãi đến lúc đã ngoài 40 tuổi, Bà mới hoán cải và thực sự nghiêm chỉnh sống đời tận hiến cho Chúa.

Là một nữ tu kín, nhưng Têrêxa lại rất thích tiếp xúc với bên ngoài, mất nhiều thời giờ cho những cuộc tiếp khách, trò chuyện vui vẻ, phù phiếm.  Bà nổi tiếng là rất có duyên, nói chuyện hay, thông minh, dí dỏm, nên giới quí tộc cả thành phố Avila không ngớt tìm đến gặp.  Năm tháng trôi qua, và cuộc sống Bà cũng cứ tà tà trôi qua như thế, tưởng chừng như không sao thay đổi được nữa.  Thật ra, thời gian 20 năm dài dặc ấy là 20 năm Bà “kéo co” với Chúa.  Về sau nhớ lại giai đoạn này, thánh Têrêxa đã viết :

“Một đàng, Thiên Chúa mời gọi tôi, đàng khác tôi lại đi theo thế gian.  Tất cả mọi sự thuộc về Chúa đều làm tôi hài lòng, nhưng các sự thế gian lại ràng buộc tôi.  Có thể nói: tôi muốn dung hoà hai thái cực này, muốn kéo hai kẻ thù này xích lại gần nhau, đó là đời sống thiêng liêng theo Thần Khí và những vui thú, tiêu khiển xác thịt”.

Cuộc chiến đấu dằng co ấy kéo dài đến lúc Têrêxa ngoài 40 tuổi, và cuối cùng ơn Chúa đã toàn thắng.

Đọc giai đoạn đầu cuộc đời tu của thánh nữ Têrêxa, tôi thấy Chúa thật là kiên nhẫn.  Người kiên nhẫn với những tập thể lớn như một dân tộc, một hội dòng, đến những tập thể nhỏ hơn như một giáo xứ, một cộng đoàn tu trì, một gia đình, và cả với từng cá nhân chúng ta nữa.  Chúa chấp nhận chơi trò chơi kéo co với ta tuy Người là Đấng toàn năng, bởi vì Người tôn trọng tự do của ta; nói là kéo co, nhưng thật ra Người mời gọi, nài nỉ chúng ta đi theo Người thay vì dùng sức mạnh áp đảo chúng ta.

Truyện thánh Têrêxa cũng gợi cho tôi ý nghĩ rằng không bao giờ quá muộn để hoán cải.  Thánh Augustino trở lại vào khoảng 30 tuổi, chưa lấy gì làm già lắm.  Thế mà Ngài đã hối hận:Lạy Chúa, con biết Chúa quá muộn!”  Còn thánh Phanxicô Assisi đến khi gần chết vẫn còn nói với anh em:Anh em ơi, ta hãy bắt đầu lại phụng sự Chúa vì cho tới nay, ta chưa làm được gì đáng kể”.

2. Một Con Người Thực Tế:

Điểm thứ hai đánh động tôi: thánh Têrêxa là bậc chiêm niệm cao cả, nhưng không sống trên mây gió, ngoài thực tế, trái lại bà thực tế cách lạ lùng.  Cuộc đời Bà không thiếu những sự kiện chứng minh.

Trong vòng 20 năm, Bà đã lập ra 17 nhà dòng cải cách theo Luật nguyên thủy nhiệm nhặt. Đó hoàn toàn không phải là việc của một người ngây thơ, mơ mộng.  Nào là xin phép, nào là chọn địa điểm, vẽ đồ án, mua bán, giám sát công việc, rồi còn xếp đặt, tổ chức.  Chưa kể phải chạy tiền nữa – một việc không nhỏ.  Lúc này là lúc Bà trổ tài “ngoại giao”, sự lịch lãm và cả duyên dáng của mình!

Bà quan tâm tới từng chi tiết nhỏ nhặt nhất.  Chỗ này nên đặt một cái bình lọc nuớc để chị em có nước trong mà uống, chỗ kia nên dùng những cái vại đất đựng nước để giữ cho nước mát mẻ.  Cái lò nấu ăn tốn củi quá, thì phải dẹp đi, liệu cách khác.

Thánh Têrêxa thực tế không những trong các vấn đề vật chất mà cả trong quan niệm tu trì nữa.  Không bao giờ Bà là nạn nhân của ảo tưởng.  Bà nói:Chúng ta không phải là thiên thần”.  Bà khuyên các chị bị kích động thần kinh nên ăn cá, còn những chị thiếu máu cứ đinh ninh mình có thị kiến cao siêu, thì nên ăn thịt. “Nên săn sóc mình một chút còn hơn là để mình bị đau”, Bà bảo thế.  Bà ấn định các chị em phải cắt tóc ngắn không vì lý do hãm mình, những để khỏi mất thì giờ chải chuốt…..

Một vị đại thánh mà lại bình thường như mọi người, như thế mới thật là hay.

3. Một Vị Thánh Rất Quân Bình Và Rất Người:

Cuộc đời Thánh Têrêxa chứng minh rằng ân sủng không huỷ diệt tự nhiên, nhưng nâng cao tự nhiên lên.  Bà đã đi đến với Chúa với tất cả con người mình.  Bà không bỏ mất chút gì trong những đức tính trời phú bẩm cho: trí thông minh, lòng cương nghị, sự tế nhị và can đảm.  Dù đạt tới độ kết hợp với Chúa phi thường, Bà vẫn là một người phụ nữ dễ thương.  Bà đã thuyết phục được phe chống đối đường lối cải cách của mình nhờ ơn Chúa và sự thánh thiện đã đành, nhưng cũng nhờ tính tình tự nhiên, tế nhị, dễ thương, khéo léo.  Tôi thích những mẫu chuyện nho nhỏ người ta hay kể về Thánh nữ nói lên óc hài hước của Bà.

Bà nói với chị em: “Trong đời mẹ, người ta chỉ thực sự vu khống mẹ có ba lần, và lần thứ nhất là khi mẹ còn trẻ, người ta nói mẹ đẹp”.  Một chị được bàu làm bề trên, nhưng có lẽ do hiểu đức khiêm nhường không đúng cách nên không muốn nhận chức, thánh Têrêxa đã dí dm nói:Chẳng sao cả, con bất xứng mẹ biết rồi, nhưng rế rách cũng vẫn đỡ nóng tay mà”.

Người ta nói đùa trong các nhà dòng chúng ta: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con nhiều vị thánh, nhưng xin đừng cho nhà dòng con vị thánh nào cả”.  Ngụ ý: sống với các thánh khó lắm, họ thường kỳ quặc, khó tánh, lập dị (?). Nhưng những ai nghĩ rằng phải hủy diệt con người tự nhiên bình thường và lành mạnh của mình mới nên thánh, người ấy lầm to.  Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đảm nhận lấy trọn vẹn thân phận con người chúng ta.  Có lần Thánh nữ khuyên chị em: “Các con chớ buồn vì đức vâng lời buộc các con phải quan tâm tới những sự vật bên ngoài.  Nếu làm bếp, các con nên biết rằng Chúa ở ngay giữa nồi niêu xoong chảo”.

Đời sống đạo đức của thánh Têrêxa là một nền đạo đức nhập thể.

4. Hoạt Động Và Chiêm Niệm Gắn Bó Với Nhau:

Điều vừa nói đưa tôi đến một điểm chót mà tôi muốn chia sẻ:  Chiêm niệm và hoạt động không đối nghịch nhau, nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau.  Một người đàn bà ngồi trên xe bò đi đây đi đó, phải đối phó với đủ mọi thứ chống đối và nghịch cảnh để lập ra 17 nhà dòng trong vòng 20 năm: ai “hoạt động” hơn Têrêxa?  Thế mà đồng thời ai nói tới đời sống chiêm niệm, đời sống thần bí mà lại có thể bỏ qua vị thánh này được?  Bà là gương mẫu và bậc thầy hàng đầu trong lãnh vực này.  Đối với những tâm hồn đã để cho Chúa chiếm đoạt, đã dành trọn tình yêu cho Chúa như Thánh nữ, thì không còn phân chia hoạt động và chiêm niệm cách gò bó, giả tạo nữa.  Tình yêu Chúa là nam châm thu hút tất cả, tập trung tất cả.  Họ tràn ngập thiên Chúa như người hôn phu tràn ngập hình ảnh người hôn thê yêu dấu.  Bởi thế, dù là hoạt dộng hay cầu nguyện, dù là nói năng hay im lặng, họ luôn luôn được tình yêu chi phối.  Thánh Têrêxa vừa là Matta vừa là Maria.

Trong Giáo Hội có những người sống cuộc đời chuyên lo chiêm niệm, với những điều kiện thuận lợi cho việc cầu nguyện, hy sinh hãm mình, tìm kiếm Chúa và kết hiệp với Người.  Nhưng điều đó không có nghĩa là những kẻ ấy đương nhiên đã là những nhà chiêm niệm rồi và những nguời khác không phải và không thể chiêm niệm được.   Chiêm niệm, trước hết là một thái độ tâm hồn.  Xét về nếp sống bên ngoài thì quả thực thánh Têrêxa hơi kỳ quặc.  Một nữ tu kín mà “đi lang thang”, cho dù để làm việc cải tổ lại dòng Cát Minh, dù sao cũng là một ngoại lệ.  Nhưng vì Bà là một tâm hồn đã được Chúa làm chủ hoàn toàn, nên đi đây đi đó, Bà vẫn là một nhà chiêm niệm thực thụ.  Tâm hồn Bà luôn luôn qui hướng về với Chúa, gắn chặt mọi sự vào với Chúa, nhìn mọi sự trong kế hoạch của Người và tìm kiếm cái bền vững trong cái hay đổi thay.

Vậy chiêm niệm không dành riêng cho một số tu sĩ ở trong nhà dòng, nhưng hết mọi người Kitô hữu đều được mời gọi chiêm niệm (theo nghĩa đã mô tả trên đây).  Đời sống người Kitô hữu đã được ẩn dấu cùng với Đức Kitô trong Thiên Chúa, và cùng đích của người đi tu cũng như kẻ ở đời đều như nhau, đó là trực tiếp nhìn ngắm Thiên Chúa Ba Ngôi trong cõi hồng phúc đời đời.  Nhưng sự chiêm ngắm hòng phúc ấy không phải là cái gì đột xuất mà một ngày nào đó, sau cuộc sống trần gian, chúng ta sẽ bỗng chốc được Chúa ban cho.  Trái lại ngay bây giờ chúng ta cũng đã bắt đầu được nếm cảm, dĩ nhiên một cách lờ mờ và thường là thoáng qua.  Nói cho cùng, cuộc sống Kitô hữu ở trần gian là một cuộc thực tập cho sự chiêm ngắm Thiên Chúa tỏ tường và vĩnh cữu mai sau.  Một cách nào đó có thể nói Bà đã đem lý tưởng chiêm ngưỡng xuống gần với mọi người, mọi bậc sống.

LM Nguyễn Hồng giáo

Trích: Nguyễn Hồng Giáo, Đạo trong Đời, Học viện Phanxicô, SG 2005

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi