Một phụ nữ Việt bị giết ở Nam Hàn

Một phụ nữ Việt bị giết ở Nam Hàn

Các vụ phụ nữ Việt bị sát hại làm chấn động dư luận Hàn Quốc

Nguồn tin Sứ quán Việt Nam ở Hàn Quốc cho hay một phụ nữ Việt Nam vừa bị sát hại sáng sớm Chủ nhật 30/11 ở đảo Jeju.

Cô Nguyễn Thị Thanh Ngân, sinh năm 1992, đã bị một người Hàn Quốc sát hại vào hồi 03:00 ngày 30/11, nguồn tin cho hay.

Cô Ngân, từ TP HCM, đã kết hôn với một người Hàn Quốc và sang nước này sinh sống từ tháng 6/2012 nhưng nay đã ly hôn.

Được biết hiện cô thuộc diện lưu trú bất hợp pháp tại đây.

Cảnh sát Hàn Quốc đã xác định người sát hại cô Nguyễn Thị Thanh Ngân tên là Kim Hee Cheol, sinh năm 1973. Hai người mới gặp nhau trong ngày.

Ông Kim đã tự thú và hiện đã bị cảnh sát bắt để điều tra động cơ giết người.

Nguồn tin đại sứ quán nói họ đang “duy trì liên lạc với cảnh sát miền Tây tỉnh đảo Jeju và gia đình cô Ngân tại Việt Nam để tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ xử lý vụ việc”.

Tại Hàn Quốc hiện có ước chừng khoảng 50.000 cô dâu Việt. Mỗi năm trung bình có khoảng 3-5 vụ phụ nữ Việt lấy chồng bị sát hại mà cơ quan lãnh sự được biết.

Lấy chồng Hàn Quốc

Việc cô dâu Việt lấy chồng Hàn bị ngược đãi, thậm chí sát hại, đã trở thành đề tài được báo chí Hàn Quốc và Việt Nam phản ánh nhiều năm nay.

Năm 2010, một vụ cô dâu Việt bị người chồng tâm thần giết chết đã được chính Tổng thống Hàn Quốc lúc bấy giờ là ông Lee Myung-bak đề cập đến.

Trong 10 năm qua, số lượng ngày càng tăng nam giới Hàn Quốc, nhất là từ những làng nông nghiệp mà dân số ngày càng ít đi, đã ra nước ngoài tìm vợ. Thông qua các công ty mai mối, họ làm quen với những phụ nữ trẻ muốn ổn định kinh tế, đa số là từ các nước Đông Nam Á và Trung Quốc.

Tổng thống Lee khi đó hứa chính phủ sẽ có hành động để trợ giúp tốt hơn cho các gia đình đa văn hóa và sẽ theo dõi cũng như quản lý tốt hơn các hãng mai mối.

Cái chết trên cạn của một người vượt biển

Cái chết trên cạn của một người vượt biển

Chuacuuthe.com

67_7_1329058282_81_nguoiduatin-xacchet

VRNs (27.11.2014) – Sài Gòn-

Người đàn ông cô đơn đó chết sớm nửa năm. Chỉ còn sáu tháng nữa thôi là anh bước vào năm thứ bốn mươi của một người di tản bất hạnh. Anh sẽ được nghe những người đồng hương trong thành phố anh đang lang thang, nhắc đến cái ngày kinh hoàng đó.

Anh chết tình cờ, chết bất ngờ, chết không kịp quay đầu nhìn lại. Vào ngày đầu tháng 10 trong tiệm bánh ngọt quen thuộc, trong một giờ khắc gần như cố định, anh đang cho đường vào tách cà phê hay anh đang ngửa cổ nhấp ngụm đầu tiên. Một chiếc xe rất to, tông vào tiệm, tông vào anh, anh chết.

Có một vài người đồng hương quen biết anh, trò chuyện với anh, nhưng biết tận tường về anh thì không có ai. Khi anh chết người ta hoàn toàn không có thêm một chi tiết gì về anh, ngoài cái tên “Người không nhà”. Trước đây anh có nhà chứ, có cha mẹ nữa, có cả quê hương nữa. Anh có thố lộ một lần. Trước 1975 anh là một học sinh trung học, và anh đã vượt biển cùng với gia đình. Cả nhà chết chỉ mình anh sống. Anh đã chứng kiến những gì thêm trong cái thảm kịch đó, anh không nói tiếp.

Anh chết ở tuổi 53, không biết anh vượt biển năm nào, nếu ta trừ đi 40 năm thì khi anh vượt biển anh khoảng 14, 15 tuổi. Ngoài cha mẹ chết, làm sao ta biết anh còn phải chứng kiến cảnh kinh hoàng nào trong chuyến vượt biển đó, trầm trọng đến thế nào? Chuyến tầu anh đi có bao nhiêu người, anh có chứng kiến hải tặc hiếp mẹ anh và giết cha anh không?

Anh không nhớ được nữa, họ chết hết chỉ còn anh thôi sao? Trí óc anh mù lòa hay anh nhớ quá rõ ràng cũng là một bất hạnh cho anh.

Em thơ dại sao mà em may mắn/Cả một thuyền chết hết chỉ còn em.(*)

Nếu cả một thuyền chết hết, chỉ còn một cậu bé thì cậu phải nhận gánh tất cả bất hạnh của thảm họa đó vào người. Làm sao cậu chất cho hết được vào cái thân thể bé nhỏ đó.

Cậu lang thang trong các thành phố gần 40 năm. Mỗi năm cậu đánh rơi một mảnh bất hạnh xuống những con phố cậu đi qua, những công viên cậu ngủ trên ghế đá, những quán cà phê, những tiệm buôn bán nhỏ của người đồng hương. Cậu đánh rơi xuống, cậu lại nhặt lên. Giống như những cái lon cậu nhặt trên mặt đường, bán đi lấy tiền sinh sống. Những bất hạnh đó là cơm gạo, là thức ăn nuôi cậu bé thành một người đàn ông.

Người đàn ông đó được những người quen biết gọi là: “Người vô gia cư lương hảo”. Vì anh thân thiện, hiền lành, không làm phiền ai dù anh không có nơi ăn ở.

Người ta nghĩ anh là một người thầm lặng, kín đáo. Vì còn rất nhiều điều không ai biết về anh. Khi cái chết bất ngờ xẩy đến, người ta chỉ tìm thấy trong túi anh vài trăm bạc, một cái phôn tay. Trong phôn anh không có gọi cho ai và cũng không ai gọi anh để có số phôn lưu lại.

Một người đàn ông thật sự cô đơn!

Anh không có giấy tờ gì cả, có người cho biết anh sinh năm 1961 và tên là Nguyễn Tuấn. Có biết bao nhiêu người Việt Nam tên là Nguyễn Tuấn và sinh năm 1961. Cuối cùng, sở giảo nghiệm thành phố (Coroner) coi cái chết của anh như  hàng trăm cái chết của kẻ không nhà, không thân thích, không cả họ tên. Người ta cài vào xác anh cái thẻ John Doe No.278 trong một nhà xác công cộng của thành phố Los Angeles, với số cư dân gần 10 triệu.

Nhưng có thật anh là người không lý lịch, vô gia cư vô tổ quốc không?

Thật ra, tất cả những tờ giấy hợp pháp chúng ta mang theo trên mình để chứng minh chúng ta là ông nọ, bà kia chỉ có một cái nghĩa giới hạn nào thôi.

Một người như anh Nguyễn Tuấn không có một giấy tờ tùy thân, không có địa chỉ, số phôn, nhưng khi anh chết, chính cái “Không có gì” của anh nói lên được tất cả tiểu sử của một người Việt Nam di tản. Nói lên thảm nạn của chiến tranh Việt Nam đã mang đến những đau thương, bất hạnh gì cho người dân Việt.

Cái chết cô đơn trên cạn của một thuyền nhân (Có thể anh là người chết cuối cùng trong chuyến vượt biển ấy) sau gần 40 năm là một vết đen trong trang sử nội chiến Bắc Nam, không bao giờ xóa được.

Anh Nguyễn Tuấn anh gặp lại mẹ cha rồi đó. Bây giờ anh đã có một mái ấm gia đình.

Trần Mộng Tú

Tháng 11/9/2014

(*) Thơ tmt

Ghi Chú: ký giả David Montero, đã viết về cái chết của Nguyễn Tuấn (10/8th/2014) trên tờ Los Angeles Daily News.

LỜI CHÚA- ĐIỂM TỰA VÀ SỨC MẠNH CỦA CUỘC ĐỜI

LỜI CHÚA- ĐIỂM TỰA VÀ SỨC MẠNH CỦA CUỘC ĐỜI

Maria Trần Thị Lệ Xuân

Có lẽ không ai trong chúng ta không từng có những giây phút trải qua những thử thách và những đau khổ trong cuộc sống, và không ít người có những lần đi tìm niềm hy vọng trong bóng tối của cuộc đời mình… Những lúc đối diện và chìm ngập giữa những thử thách và đau khổ như thế trong cuộc đời, có lẽ hầu như mọi người chúng ta đều nghĩ về Thiên Chúa và tìm đến với Ngài như một điểm tựa, một niềm tin, một bến bờ, một chiếc phao cứu mạng trong những lúc chúng ta bị “chìm sâu” giữa lòng biển cả của cuộc đời đầy dẫy những gian truân và thử thách….

Tôi muốn chia sẻ những điều mới đây đã xảy đến trong gia đình tôi và những cảm nghiệm của chính tôi khi chúng tôi cùng nhau sống Lời Chúa với niềm tin vững mạnh và để niềm vui của Phúc Âm loan tỏa và soi sáng, hướng dẫn chúng tôi ngay trong những hoàn cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng nhất của con người khi đối diện với cơn bệnh hiểm nghèo mà cuộc sống và niềm hy vọng của con người trở nên thật mong manh, nhỏ bé!

Trước hết, xin được chia sẻ về hoàn cảnh cá nhân của mình. Tôi là người con thứ sáu trong gia đình, ba tôi đã được Chúa gọi về cách đây hơn 7 năm bởi căn bệnh ung thư ruột già và sau đó một năm thì mẹ tôi cũng đã về với Chúa do cơn đột trụy về tim (heart attack) sau những năm tháng nằm liệt trên giường bệnh… Kể từ đó, tôi sống chung cùng với vợ chồng người em gái có ba cháu nhỏ mà đứa lớn nhất được 12 tuổi và đứa nhỏ nhất được 8 tuổi, cùng với vợ chồng người anh mà chúng tôi đã bảo lãnh từ bên Việt Nam qua được hơn 6 năm. Kể từ sau ngày ba mẹ tôi về với Chúa, gia đình chúng tôi tổ chức những buổi đọc kinh tối mỗi ngày để cầu nguyện cho linh hồn của những người quá cố. Truyền thống này được giữ gìn kể từ đó cho đến nay khi mà các đứa cháu của tôi lớn dần lên theo năm tháng cho đến độ tuổi như đã kể trên… Khi các cháu đến tuổi đi học giáo lý và Việt ngữ thì gia đình chúng tôi tập cho các cháu đọc Phúc Âm bằng tiếng Việt…Khởi đầu là các sách Phúc Âm bằng tranh ảnh cho đến hiện nay, các cháu đã có thể đọc rành rẽ Phúc Âm bằng tiếng Việt. Cứ mỗi buổi tối, gia đình chúng tôi sum họp và cùng nhau đọc kinh tối, chia sẻ Lời Chúa qua một đoạn Phúc Âm ngắn và tôi cố gắng giải thích ý nghĩa của Lời Chúa trong đoạn Phúc Âm đó cho các cháu hiểu….

Cuộc sống cứ bình yên trôi qua như thế cho đến một ngày cách đây hơn ba tháng…Rất tình cờ trong một lần đi khám sức khỏe định kỳ, người bác sĩ đã vô tình tìm ra một cái bướu nhỏ trên cơ thể của người em tôi (là mẹ của ba cháu nhỏ). Khi tiến hành xét nghiệm bioxy thì được biết đó là một khối u ác tính… Người bác sĩ đã gửi em tôi đi làm thêm các xét nghiệm về quang tuyến khác để xác định tình trạng tiến triển của khối u ác tính này… Sau tất cả các xét nghiệm thì kết quả được phát hiện là em tôi đã ở vào giai đoạn thứ ba trong bốn giai đoạn của căn bệnh ung thư bạch cầu (lymphoma). Quả là một tin sét đánh ngang tai cho một  người mẹ trẻ mới ngoài 40 tuổi đời với ba đứa con còn thơ dại mới được 8 , 9 và 12 tuổi đầu… Những đứa cháu của tôi đang ở vào lứa tuổi của hồn nhiên và hy vọng, lứa tuổi của những vui tươi, ngây thơ và chưa hiểu, chưa cảm nhận được thế nào là nỗi đau của sự mất mát người mẹ hay người cha…. Khi cái tin “ung thư máu ở thời kỳ thứ ba” được bác sĩ chẩn đoán và lập lại cho người em tôi thì nó cũng đồng nghĩa như một bản án “tử hình” đã được phán quyết và đã để lại sức nặng “ngàn cân” trong lòng của từng người trong gia đình chúng tôi…Chúng tôi dường như quỵ ngã và không tin được vào những gì mà thực tế đang xảy ra trước mắt, ở trong hoàn cảnh rất đau đớn và thương tâm khi nhìn và nghĩ tới hình ảnh của những đứa trẻ sắp sửa mất mẹ ở vào độ tuổi quá nhỏ bé và ngây thơ này…. Chúng tôi chưa thể và chưa quen được với những viễn ảnh thật buồn đang hiện ra ở trước mắt khi nghĩ về tương lai của các cháu…. Thế rồi, sau những giờ phút “choáng váng” vì cái tin “sét đánh” này, gia đình chúng tôi tập làm quen dần với cơn bệnh và tập sống chung với cơn bệnh qua những giờ phút cùng cầu nguyện bên nhau và phó dâng tất cả mọi nỗi đau đớn trong tâm hồn cho Chúa…Chúng tôi vẫn tiếp tục những buổi đọc kinh và chia sẻ Lời Chúa mỗi tối trong bầu không khí thân thương của gia đình, để cố gắng nuôi dưỡng và giữ gìn bầu không khí an bình và phó thác cho Chúa tất cả mọi sự…. Chúng tôi cảm nhận được sự khác biệt của những lần cầu nguyện này so với những lần cầu nguyện lúc trước là: Sự cầu nguyện trở nên thiết tha hơn, sốt sắng hơn và chúng tôi chạy đến cầu khẩn với Đức Mẹ tha thiết hơn với tất cả tấm lòng và con tim để nài xin tình yêu và lời cầu bầu của Đức Mẹ trước ngai tòa của Thiên Chúa, sao cho một phép lạ nào đó sẽ xảy ra để những đứa cháu của tôi không mất đi một người mẹ, và để chúng có thể hưởng những ngày tháng vui vẻ, hồn nhiên của tuổi thơ một cách trọn vẹn….

Lời cầu nguyện của chúng tôi như những tiếng vọng tha thiết bay theo ngàn gió và vang vọng giữa ngàn mây, chứa đựng sức mạnh của một niềm tin tưởng tuyệt đối và một niềm phó thác trọn vẹn vào sự quan phòng và tình yêu bao la vô bờ bến của Thiên Chúa…. Mỗi một lời kinh chúng tôi đọc hàng ngày, mỗi một Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh như thấm sâu mãi vào tâm hồn trong trắng của từng đứa cháu bé nhỏ ngây thơ, và thấm sâu vào tâm khảm, tim óc của từng thành viên trong gia đình thân thương của chúng tôi… Lời nguyện cầu ngày một chất ngất, ngày một cao vời cứ mãi dâng lên như trầm hương bay tỏa trước Thánh nhan Thiên Chúa… Chúng tôi đã làm tất cả những gì mà y học và khả năng con người có thể làm được, phần còn lại chúng tôi đã phó dâng trọn vẹn vào quyền lực và sự che chở của Thiên Chúa tình yêu….. Trong vòng hơn ba tháng, những chuỗi kinh Mân côi được liên lỉ dâng lên trước ngai tòa Đức Mẹ, những chuỗi kinh kính lòng thương xót Chúa được tha thiết khẩn cầu, cùng với niềm phó thác trọn vẹn vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa như lời kinh “Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới”….

Và rồi sức mạnh của niềm tin và lời cầu nguyện đã được đáp trả…. Một phép lạ nhiệm mầu đã được thể hiện để danh Chúa mãi mãi được tỏa sáng và được tôn vinh như lời của Thánh Vịnh 136: “Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” … Một tuần lễ trước đây, với chỉ sau ba lần em tôi được điều trị bằng hóa trị (chemotherapy), kết quả các cuộc xét nghiệm đã cho thấy “Negative”… Tất cả các cục bướu ác tính trước đây trên cơ thể em tôi mà các phim ảnh cho thấy chúng đã lan ra khắp nơi từ vùng ngực, vùng bụng và vùng bên dưới của người phụ nữ, mà các bác sĩ đã xác định bệnh đang ở vào thời kỳ thứ ba trong bốn thời kỳ của căn bệnh ung thư, thì nay đã hoàn toàn biến mất trên phim ảnh xét nghiệm…. Chúng tôi vô cùng xúc động và thật vui mừng trước kết quả mới nhất của cuộc thử nghiệm… Trên đường lái xe từ bệnh viện “City of Hope” về nhà, lòng chúng tôi tràn ngập niềm hân hoan vui mừng và vô cùng cảm tạ, tri ân, ngợi khen Thiên Chúa cao cả…. Ngài đã gửi đến cho chúng tôi những thử thách trong cuộc đời, những đau đớn của sức nặng “ngàn cân” trong cơn bệnh hiểm nghèo, những thử thách của niềm tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa….Tất cả và tất cả những gì Chúa đã gửi đến thì giờ đây, Ngài đã giang cánh tay nhân từ và mở rộng lòng thương xót vô biên của Ngài để cứu chữa và ban phát tình yêu cùng sự bình an trong tâm hồn của từng người trong gia đình chúng tôi…..Tôi cảm nghiệm được rằng: Tất  cả những điều Ngài đang thi ân xuống cho gia đình chúng tôi trong cả cuộc đời của chúng tôi, và đặc biệt trong biến cố vừa qua, để danh Thánh của Thiên Chúa luôn được mãi mãi tôn vinh và tỏa sáng trước con mắt của người đời….Nếu người đời cho những gì là KHÔNG THỂ, thì Thiên Chúa sẽ làm chúng trở thành CÓ THỂ; nếu người đời cho những gì là TUYỆT VỌNG, thì Thiên Chúa biến chúng trở thành NIỀM HY VỌNG; nếu người đời cho những gì là ĐAU KHỔ, thì Thiên Chúa biến chúng trở thành NIỀM VUI; nếu người đời cho những gì là TẬN CÙNG CỦA CHẾT CHÓC, thì Thiên Chúa biến chúng trở thành SỰ SỐNG VĨNH CỬU MUÔN ĐỜI….

Giây phút này đây, khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi muốn được trải lòng mình ra để nói về một Thiên Chúa của tình yêu, một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, rất nhân từ và giàu tình xót thương để cảm tạ, để tri ân và để ngợi khen danh Ngài mãi mãi vì “…Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương….” Lời Chúa phán với đám đông dân chúng và các môn đệ theo Ngài vẫn đang vang vọng trong tâm hồn và trí óc của tôi: “Hãy đến với Ta hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ bổ sức cho các con.” (Mt 11,28)

Năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi từng người chúng ta hãy “Sống niềm vui Phúc Âm trong gia đình”, hãy để cho Lời Chúa trở thành kim chỉ nam và là ngọn đuốc soi đường cho chúng ta giữa muôn nẻo đường chông gai và tăm tối của cuộc đời…. Lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết Sống theo Lời Chúa, cần phải biết mang Lời Chúa để thực thi hàng ngày, nơi gia đình, trong các môi trường xã hội và các nẻo đường mà chúng ta dấn bước trong cuộc đời, để chúng ta luôn tiến bước với một niềm tin vững chắc và để ánh sáng Phúc Âm, ánh sáng của Lời Chúa luôn mang niềm vui và sức mạnh nâng đỡ chúng ta trên muôn vạn nẻo đường…

Ước mong mỗi người chúng ta luôn gặp gỡ được Thiên Chúa qua từng biến cố, từng sự kiện xảy đến trong cuộc đời…Và cũng ước mong mỗi người chúng ta có thể sống niềm vui của Phúc Âm, niềm vui của Tin Mừng và Hy vọng ngay trong chính gia đình của mình, qua từng biến cố xảy đến trong cuộc đời của mình, để ánh sáng của Lời Chúa luôn là ngọn đuốc soi đường cho chúng ta dấn thân và tiến bước như lời của Chân phước Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận: “Chúng ta là những người lữ hành trên con đường hy vọng.”

Xin kính chúc cộng đoàn dân Chúa sống năm “Phúc Âm Gia Đình” tràn ngập Ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa, một năm tràn đầy những niềm vui và hy vọng khi chúng ta sống và mang được Lời Chúa vào trong mỗi gia đình, nơi từng cá nhân nhỏ bé trong gia đình thân yêu của chúng ta.

St. Columban, Ngày Lễ Các Thánh 01/11/2014

Maria Trần Thị Lệ Xuân

Thôi cũng đành một kiếp trăm năm,

“Thôi cũng đành một kiếp trăm năm,

đời người sẽ qua.”
“Cũng đành một thoáng chiêm bao,tình người cũng xa.
Cũng phôi pha,những điêu ngoa theo vết môi cười tàn tạ.

(Từ Công Phụng – Chiếc Que Diêm)

(Lc 19-29-31/1Cr 12: 13)

Trần Ngọc Mười Hai

“Một kiếp trăm năm” ư? Ối chao, mọi sự rồi cũng xong và “đời người rồi (cũng) sẽ qua”. “Một thoáng chiêm bao” sao? Ối chà! Quả thật “tình người cũng xa”, “vết môi cười (rồi cũng) tàn tạ”, mà thôi.

Vâng. Đúng là như thế! Đời người và tình người, nào khác xa những thứ và những sự như tình của người đời, giống truyện kể để mào đầu cho chuyện thần-học, khô lông lốc. Trước hết, ta hãy nghe câu truyện kể cũng ngắn gọn, ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Có chàng trai nọ, đi đây đó rất nhiều ngày trong đời mình. Ấy thế mà, anh vẫn không cẩn trọng, để đến nỗi gẫy mất ống quyển ở chân trái, đành phải bó bột cũng khá lâu. Thoạt vào lúc tháo băng, bác sĩ có xem xét rồi dặn dò anh đừng nên đi cầu thang nữa, kẻo bị lại như lần trước. 4 tháng sau, anh trở lại phòng mạch bác sĩ nói trên để tái khám, đã vội hỏi:

-Thưa bác sĩ, nay tôi đi cầu thang được chưa?

-Được thì vẫn được! Nhưng, anh vẫn phải thật cẩn thận đó, kẻo nguy to.

Nghe vậy, anh bèn thở phào nhẹ nhõm rồi tuyên bố với phân trần, rằng:

-Đỡ quá chừng chừng. Mấy tháng nay, làm thằng bé cứ phải trẻo qua cửa sổ rồi tuột theo đường ống nước, đến là cực!”

“Đến là cực”, còn là trải-nghiệm vẫn nhận thấy đằng sau câu hát của ai đó, hay của người nghệ-sĩ vẫn hát những câu sau đây:

“Thôi cũng đành một kiếp phong ba, lệ tình cũng xa.
Xuống đời ta những nguôi ngoai, rồi người cũng xa.
Cũng xa ta, cũng xa ta theo dòng nghiệt ngã mù lòa.
Vì lời em sớm muộn gì cũng một lần gian dối.
Tình anh sớm muộn gì cũng đưa vào tăm tối.
Đời anh sớm muộn gì…
Đời em sớm muộn gì…
Tình ta sớm muộn gì… cũng hấp hối!…
Rót cho đầy hồn nhau, đắp cho đầy đời nhau,
những men nồng tình sâu rã rời.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Những câu như thế, hát hoài hát mãi vẫn không chán. Nhưng, sao nghệ sĩ nhà mình lại cứ thêm những câu chưa quen tai, như thể để ví von đời mình, như:

“Thôi cũng đành như chiếc que diêm một lần lóe lên.
thắp đời em sáng lung linh, buồn một cõi riêng.
Những đêm sâu, những canh thâu,
nghe nước mắt nặng giọt sầu.
Thôi cũng đành như kiếp rong rêu, một lần hóa thân.
cuốn về phong kín tim ta một đời chói chang.
Những đam mê, những ngô nghê.
với tình người nhỡ lời thề,
Thôi cũng đành như tấm gương tan, mờ phai vết xưa.
Xót giùm cho tấm thân ta ngựa bầy đã xa.
Những đêm mơ thấy tan hoang.
Hương tình vừa chớm muộn màng.

(Từ Công Phụng – bđd)

Ấy đấy! Đời người và đời mình đẹp như thế, mà sao người xưa vẫn cứ hát hò và so sánh với que diêm hay que củi, đến là tàn tạ.

Vốn là nghệ sĩ, thôi thì anh có ví-von so-sánh với đời người thế nào cũng được. Đằng này, đường đường một đấng anh-hào, ở nhà đạo, mà anh lại cứ “nhi nhô” dăm ba câu tuyên bố với giảng giải những điều mà mọi người đều nghe từ thời đức thày Alexandre de Rhodes, thế mới chết không.

Vâng. Nhắc đến cố đạo thời cổ, bần đạo lại nhớ đến sự-kiện xảy đến vào năm 2012 khi ghé viếng thủ-phủ mang tên Esfahan ở Iran, bất chợt gặp được mộ-phần của vị cố đạo vinh-quang một thời làm thừa sai tiên-phong ở miền đất rất A-na-mít, nhưng lại lìa trần chốn lặng thinh lặng ở miền đất, rất đạo Hồi. Cố đạo Alexandre De Rhodes (1591-1660), mà tiếng Việt mình lại phiên-âm là: A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ nghe chẳng khác nào A-lịch-Sơn Đại Đế, đến là thế.

Phải công nhận, là: cố đạo A-Lịch-Sơn rất Đắc Lộ từng có công-đầu đậm-sâu với nền ngôn-ngữ La-Bồ-Việt một thời. Nhưng, về thần-học, đức thày lại chuyên-chở mãi hình-thức sống đạo rất ư “buồn tình” mà người đời nay cứ diễn tả bằng những “câu chuyện đời” đầy ý-nghĩa của chuyện anh đã hứa, như thứ văn hoá của những hứa hẹn như sau:

“Hứa và hẹn rằng:

“Anh sẽ nhận em làm vợ, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em. Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, lúc ốm đau hay khi khỏe mạnh, lúc hoạn nạn hay khi bình an, anh hứa sẽ yêu thương và tôn trọng em mỗi ngày, suốt đời anh.”

Đám cưới diễn ra một cách tốt đẹp. Cô đồng ý lấy anh, một nhân viên IT khô khan và ít lãng mạn. Còn cô là giáo viên dạy vũ đạo, duyên dáng và xinh đẹp, các chàng trai theo đuổi cô không ít. Và, cũng không ai lọt vào mắt xanh của cô. Nhưng khi anh đến, anh yêu cô bằng tình yêu chân-thành và hoàn-toàn lấy lòng gia đình cô, bạn bè cô cũng ủng-hộ anh. Anh làm việc lương không cao, cũng không đẹp trai, thậm chí anh không phải là mẫu người cô thích, thế mà cô lại lấy anh. Đôi lúc, cô cũng không hiểu vì sao cô lại đồng ý lấy anh.

Sau đám cưới, anh và cô ra riêng, cuộc sống của hai người dù ít tiếng cười nhưng chưa bao giờ có chuyện cãi cọ, buồn phiền; và, cô thấy anh cũng không đến nỗi khô-khan như cô nghĩ, những ngày lễ như valentine, 8/3…. Cô đều có hoa quà từ nơi anh. Có thể nói, anh là người chồng rất tốt. Hàng ngày anh chở cô đến chổ dạy, rồi mới đến công-ty làm việc. Cuối tuần, anh chở cô về bên ngoại, hoặc gặp-gỡ bạn-bè. Và, anh luôn cố gắng làm cho cô hạnh-phúc.

Nhưng rồi cuộc sống đã không cho họ hạnh-phúc được lâu dài, lại phải đối mặt với cuộc sống mới, một cuộc sống thật khó chấp nhận… Một hôm, đang làm việc, anh nhận được điện-thoại của cô, nhưng không phải là cô mà là giọng nói khác:

-Xin lỗi, anh có phải là chồng của chị Diễm không ạ?

-Ai đang dùng điện thoại của vợ tôi vậy.

-Em cùng làm với Diễm, anh…anh vào bệnh viện ngay đi, Diễm mới bị tai nạn, đang cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy.

-Sao…Sao vậy, có chuyện gì với Diễm vậy, giọng anh như lạc đi, nghẹn ngào, anh không tin vào chuyện đang xảy ra.

-Anh vào bệnh viện nhanh đi.

Nói rồi người đó cúp máy mà không giải thích gì thêm. Anh lo lắng, hoảng hốt chạy vào bệnh viện, một lúc sau ba mẹ anh và ba mẹ cô ấy cũng đến, mọi người đều không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sáng nay, anh và cô đang vui vẻ ăn sáng với nhau, thế mà….

Sáu tiếng phẩu thuật là sáu tiếng anh đứng ngồi không yên, lòng như lửa đốt. Thấy vị bác sĩ trọng tuổi bước ra khỏi phòng phẫu-thuật, anh hỏi:

-Vợ tôi sao rồi, bác sĩ?.

-Tạm thời cô ấy đã qua cơn nguy kịch, còn phải ở lại bệnh-viện để kiểm tra thêm- ông thở dài- nhưng có lẽ cô ấy khó mà đi lại được. Thông báo của bác sĩ làm anh chết lặng, cô là giáo viên vũ đạo, nếu không đi lại được thì chắc cô chết mất, anh đến bên cô, nhưng không biết nên nói gì. Lúc đó anh ao-ước, giá như anh chịu đựng được những gì cô đang gánh chịu… Nhưng đó là điều không thể xảy ra.

Sau ba tuần ở bệnh viện, cô về nhà trên chiếc xe lăn, khuôn mặt phờ phạc, cả ngôi nhà như u-ám hẳn đi. Từ khi cô biết cô không thể đi lại được nữa, thì mọi thứ xung quanh cô dường như đã chết. Cô không thể nhảy múa được nữa, nghĩa là không thể làm những gì cô yêu thích; với cô, như thế chẳng khác nào chết nửa cuộc đời..

Và cũng từ đó, anh cố gắng để thấy cô cười, bây giờ, mọi việc trong nhà đều do anh một tay sắp xếp, từ giặt dũ đến nấu ăn. Cô thì vẫn thế, lúc nào cũng u buồn.

Mỗi buổi sáng, anh cố gắng dậy sớm, dọn điểm tâm cho cô ăn, anh luôn gọi cô dậy sau khi mọi thứ đã chuẩn bị xong.

-Bà xã!, dậy ăn sáng đi, anh chuẩn bị xong hết rồi- anh vừa nói vừa lay cô dậy

-Anh để em yên. Em không thích ăn gì hết, để em yên- cô gắt lên.

Anh để chiếc xe lăn bên cạnh giường và chuẩn bị đi làm, chính anh cũng không biết nên làm gì để cô thoát khỏi hoàn-cảnh hiện-tại. Bây giờ gánh nặng gia-đình đặt cả lên vai anh, tai nạn của cô cũng đã tiêu-tốn hết số tiền mà hai vợ chồng dành-dụm được, giờ anh phải làm việc thật cật-lực, để có tiền lo cho cô, nhưng anh chưa bao giờ bỏ cuộc hay gục ngã, ngoài công việc ở công-ty anh còn nhận thêm các công việc khác như: thiết-kế trang “web”, lập-trình phần mềm, bất cứ việc gì có thể làm ra tiền anh đều làm, đêm nào anh cũng thức đến nửa đêm. Và, anh vẫn luôn yêu cô như ngày nào. Và, cô nhờ anh cũng dần dà lấy lại được niềm tin trong cuộc sống.

Anh cố gắng tiết-kiệm để mua thêm cho cô một cái “laptop” để cô tiện nói chuyện với bạn bè, khỏi lạc lõng những lúc vắng anh. Mỗi chiều đi làm về, anh đều đưa cô dạo quanh khu phố, để cô tìm được chút niềm vui. Anh nấu những món ăn cô thích, ở đâu có bác sĩ giỏi anh đều sắp-xếp thời-gian đưa cô đi chữa bệnh. Anh chưa bao giờ từ bỏ, luôn động-viên cô phải cố-gắng, nỗ lực. Công việc chăm-sóc của anh làm cho cô thấy ấm lòng, cô không còn tự-ti vì đôi chân tàn-tật nữa, cô bắt đầu học cách chấp-nhận nó. Nhưng đôi khi, vì sự chăm sóc của anh khiến cô thấy tủi thân, cô thấy mình mắc nợ anh nhiều quá

Một hôm, đang giặt quần áo thì nghe tiếng xoong chảo leng keng trong nhà bếp, anh chạy vào thì thấy cô đang cố gắng để nấu món gì đó

– Em đang làm gì vậy?

– Hì, em định nấu bữa tối- cô nhoẻn miệng cười.

– Thôi, em nghỉ ngơi đi, mấy chuyện này để anh lo.

– Nhưng mà em muốn nấu- cô phụng phịu

– Cái bếp cao vậy sao em nấu được, cứ để đó cho anh, em không thấy là anh phải lo đủ chuyện rồi sao, đừng làm anh lo lắng thêm nữa…

Cô lặng lẽ đẩy xe vào phòng, mắt nhòe đi. Cô thấy mình thật vô dụng, những việc tầm-thường của đàn bà con gái mà cũng không giúp được anh. Mấy ngày sau cô vẫn buồn vì chuyện đó.

Anh càng chăm sóc cô, cô càng thấy mình vô dụng, đôi lúc ý-định tự-sát chợt lóe lên trong đầu cô, nhưng cô đã không làm thế, vì cô rất yêu anh. Mỗi đêm, anh ôm cô và thì thầm: “Ngủ ngon em nhé, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi”. Nhưng cô chưa kịp say giấc thì anh lại trở dậy, lại lọc cọc/lạch cạch với máy tính khô-khan, tự nhiên lòng cô quạnh thắt, rồi những suy-nghĩ mong-lung cứ chập chờn trong đầu cô: “Nếu không vì mình, anh đâu phải khổ-cực như vậy, tất cả là tại mình, giờ mình nên làm gì đây. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô: LY HÔN.

Chiều hôm sau, khi anh vừa đi làm về, trên bàn đã có sẵn tờ giấy, anh cầm lên đọc, nét mặt sa sầm lại, đó là đơn ly-hôn, cô đã viết và đã ký.

– Cái này là sao đây- anh chìa tờ giấy ra trước mặt cô

– Em không muốn làm khổ anh nữa, anh ký đi

Anh suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại cô: “em thực sự muốn anh ký thật chứ?”. Cô nhìn anh gật đầu. Anh im lặng, đi chuẩn bị bữa tối, ăn xong thì anh đi đâu mất. Tối đó, cô ở một mình, rất lâu rồi cô mới ở một mình trong đêm tối, tự nhiên cô thấy lạc lõng, nỗi cô đơn như đang gặm nhấm dần trái tim cô.

Đã nửa đêm, anh vẫn chưa về, “anh đi đâu?” Cô bắt đầu lo lắng và không biết nên làm gì ngoài việc khóc, cô thấy nhớ anh vô cùng, rồi cô ngủ thiếp đi. Khi thức giấc đã là 9h sáng, anh vẫn chưa về, cô trở mình, phải khó khăn lắm cô mới lên được chiếc xe lăn, cô đẩy xe đi một vòng quanh nhà, sao mà cảm giác u-ám quá, cô muốn ăn cái gì đó, nhưng chẳng ai giúp được cô lúc này. Đành vậy, cô quay về phòng, chẳng biết làm gì, đầu óc trống rỗng.

Khoảng 11h thì anh về, tay cầm ít rau củ, để nấu bữa trưa. Sau một lúc thì xong, anh đẩy cô ra bàn ăn. Cô chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ ăn, cũng không dám nhìn anh. Đang ăn thì anh nhìn quanh và nói:

– Anh mới vắng nhà có một đêm, sao mà bừa bộn quá vậy, chén bát chẳng ai rửa, quần áo cũng chẳng ai giặt, nhà cửa cũng chẳng ai lau, nói rồi anh thở dài…

Tự nhiên cô thấy miếng cơm trong miệng chát đắng, cô biết anh đang trách móc cô, nhưng biết làm gì hơn. Rồi anh nói tiếp:

– Còn em nữa, chân em như vậy, bộ muốn anh ký vào tờ giấy đó thật hả?

– Dạ…em trả tự do cho anh, em không muốn anh phải khổ vì em nhiều nữa

– Thế anh ký rồi em sẽ ra sao, em suy nghĩ kỹ chưa?

– Rồi anh à

– Không hối hận chứ? anh ngừng đũa hỏi.

– Thì em đã ký rồi, giờ chỉ còn anh quyết định thôi.

Anh rời bàn ăn, một lúc sau anh quay trở lại, trên tay anh cầm một con lật đật bằng gỗ, ngày xưa anh tặng cô, anh để con lật đật xuống bàn rồi đẩy nó ngã xuống, nó lại đứng bật dậy như chưa từng ngã, anh nói:

– Cuộc sống có đôi lúc làm chúng ta gục ngã, nhưng chúng ta phải biết cách đứng dậy em à, em tàn tật thì sao chứ, không đi được thì sao chứ, hãy để anh làm đôi chân cho em nhé, đừng có tự-ti nữa.

Mắt cô bắt đầu nhòe đi vì những lời anh nói.

– Nhưng em….

– Không có nhưng nhị gì hết, em có nhớ những gì anh đã nói trong hôn lễ không, anh hứa sẽ yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh, dù có chuyện gì xảy ra- anh nắm lấy tay cô- hãy để anh thực-hiện điều đó em nhé, Anh Yêu Em!!!.

Cô òa khóc như một đứa trẻ, những giọt nước mắt hạnh-phúc lăn dài trên má cô

– Em xin lỗi, em không bao giờ để anh phải buồn nữa đâu, em cũng yêu anh.

Anh đưa tay gạt đi những giọt nước mắt trên má cô:” Đừng khóc nữa, nước mắt hòa với cơm mặn lắm đó, em biết không hả?” (Truyện kể do tác già “St” sưu-tầm và phổ-biến)

Đọc đến đây, hẳn sẽ có ai đó nhạt-nhoà nước mắt? Nghe truyện kể do nhứng người từng sống trong đời kể về đời người, nhà Đạo mình hẳn sẽ tưởng tượng tình-huống ấy, như những thứ mà cố đạo xưa lại gọi đó là “luyện ngục” hoặc tệ hơn, là: “hoả ngục cuộc đời”, tức: toàn những ngục và ngục, thôi.

Những là, ngục-thất, ngục-tù hoặc ngục … ngã đểu chỉ về nơi chốn con người chôn-chặt con người bằng hận-thù, tức: một hình-ảnh nào đó hiểu theo nghĩa bóng, chứ làm gì có thật.

Thế nhưng, nghe “cố đạo” thời nay giảng-giải ở nhà thờ hoặc trên báo/đài cổ-lỗ-xĩ, hẳn người đọc và người nghe tưởng chừng “cố đạo” A-Lịch-Sơn Đắc-lộ vẫn còn sống ở đâu đó, xứ Ba Tư lừ-đừ Iran/Iraq, đến sợ. Quả thật, không gì sợ bằng, mãi đến hôm nay, mà đức thày John Flader ở Tuần Báo Công Giáo Sydney, vẫn “sát khí đằng đằng” một lời kể, như sau:

“Khi có ai lại ngờ-vực về một khía-cạnh của niềm tin qua đó ta không tìm ra chứng cớ nhãn tiền về chuyện đó, thì cũng khó mà thuyết-phục được họ, dù cho ta có sử-dụng bao nhiêu là luận cứ hoặc “bằng chứng”, cũng đành thôi.

Chắc bà con mình còn nhớ dụ ngôn Chúa kể để tả về người giàu có nọ và ông Lazarô trong đó người giàu có ấy nay đang ở hoả-ngục, cố nài-nỉ Abraham gửi Lazarô về lại nhà cha mình như sau:

Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.  Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. (Lc 16: 29-31)

Vì thế nên, ta không thể trông mong những người đa-nghi ấy lại có thể tin vào là có hoả-ngục cho dù ta có bảo họ là: đã có nhiều người từng thấy cảnh hoả-ngục. Quả thật, trên đời này vẫn còn những người như thế…” (xem Lm John Flader, Is there a hell? You can sadly bet on it, The Catholic Weekly 23/11/2014 tr. 26)

Nếu bạn và tôi, ta gọi những-người-không-tin là hoả-ngục-có-thật một nơi chốn, họ đều là những người đa-nghi cứ nghi-kỵ, nghi-ngờ hoặc nghi-vấn nhiều thứ, thì ngày nay con số những người như thế chừng như lên đến gần 6 hoặc 7 tỷ rồi, phi trừ trường-phái tin và hiểu theo kiểu đức thày nhà đạo tên John họ là Flader ở Sydney, thôi.

Thôi thì, đức thày nay đã già lại cứ chuyên chăm chuyện giảng dạy giáo-lý/sách phần của “thời cổ” thì một ngày rất gần đây, đức ngài cũng sẽ “diện kiến” ngục thất đầy những lửa mà chữ nho hoặc tiếng nôm ta gọi cách nho-nhã là “hoả-ngục”, cũng chẳng sao.

Vấn-đề là: ngày nay, làm sao thuyết-phục được giới-trẻ đến nhà thờ để nghe “cố đạo” thời-đại vẫn níu kéo nền thần-học cổ-lỗ đến chết được. Chết nhiều hơn và nhiều nhất, vẫn là câu kết của đức thày ở bài viết trên, có câu “thòng” rất ư là chắc nịch, như sau:

“Vậy thì, có hoả-ngục thật đấy. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai mà ta nghĩ là đang sống xa vời Chúa để họ ăn-năn hối cải và đừng tới nơi đó. Có thể lời cầu của ta sẽ cứu họ.” (xem Lm John Flader, bđd)

Thôi thì, cãi vã tranh luận mà làm gì, khi ngôn-từ và ý-niệm khô-khan, trừu-tượng của thần-học cổ-lỗ mà lắm khi bạn và tôi, ta cứ tưởng đó là lối học về thần rất chính-mạch có chính-đáng chăng?

Tốt hơn hết, có lẽ ta nên sống thực lời dạy theo đúng ý tác-giả Tin Mừng viết và sống những 40 hoặc 70 năm sau thời đại Đức Giêsu từng sống. Các tác-giả Tin Mừng từng đặt vào miệng Thày Giêsu mình những câu khuyên/lời dạy chỉ mang tính văn-hoá của người xưa, rất Do-thái, mà thôi.

Thôi thì, ta cũng nên đi vào lời khuyên/dạy đầy hưng-phấn của các đấng bậc rất thánh trong Đạo từng đúc-kết ý-nghĩa Lời Thày dạy, bằng câu nói để đời nhưu sau:

“Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn,

mai sau tôi sẽ được biết hết,

như Thiên Chúa biết tôi.

Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến,

cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.”

(1Cr 13: 13)

Với người đời, chí ít là người ngoài đạo, thì sống “đức mến cao trọng hơn cả”, là sống bằng những tư-tưởng rất đúng đạo-làm-người, như truyện kể làm kết-luận ở bên dưới:

“Tại vùng trang trại xa xôi, có người nông-dân nọ, năm nào cũng trồng được những cây ngô rất tốt. Năm nào ông cũng mang ngô tới hội-chợ liên-bang và năm nào ngô của ông cũng đạt giải nhất. Ai cũng cho rằng ông có những bí-quyết riêng độc-đáo. Có lần, một phóng-viên đến phỏng-vấn ông phát-hiện ra rằng: nông-dân này luôn san-sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với hàng xóm ở trang trại xung quanh.

Ông bèn hỏi:

– Tại sao bác lại chia những hạt giống tốt nhất đi, trong khi năm nào họ cũng đem sản-phẩm đến cùng một hội chợ liên-bang để cạnh-tranh với sản-phẩm của bác vậy?
– Anh không biết ư, gió luôn thổi phấn hoa và cuốn chúng từ trang trại này sang trang trại khác, từ cánh-đồng này sang cánh-đồng khác. Nếu những người hàng xóm quanh tôi chỉ trồng được những cây ngô xấu thì việc thụ phấn do gió rõ ràng sẽ làm giảm chất-lượng ngô của chính trang-trại của tôi. Tức là, nếu tôi muốn trồng được ngô tốt, tôi cũng phải giúp những người xung quanh trồng được ngô tốt đã!

Cuộc sống cũng như vậy. Những người muốn được hạnh-phúc phải giúp những người sống quanh mình hạnh-phúc. Những người muốn thành-công phải giúp những người quanh mình thành-công. Giá trị cuộc sống của bạn được đo bằng những cuộc sống mà bạn “chạm” tới. (trích truyện kể do một vị ký tên là “St” từng sưu-tầm, mới vừa gửi lên mạng).

Nghe kể thế rồi, thiết tưởng bạn cũng như tôi, ta cứ âm-thầm cất lên lời ca tiếng hát rất vang vọng một nhắn-nhủ, bảo rằng:

“Tình ta sớm muộn gì… cũng hấp hối!…
Rót cho đầy hồn nhau, đắp cho đầy đời nhau,
những men nồng tình sâu rã rời.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Vâng. Hãy “rót cho đầy hồn nhau”, “những men nồng tình sâu”, rồi ra cuộc sống của bạn và của tôi, cũng sẽ đong đầy nhiều ý-nghĩa. Những ý và nghĩa của thứ tình thương-yêu rất đẹp trong đời. Dành cho hết mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn không tin hoả ngục

như nơi chốn

nhưng còn tin vào thiên-đàng

như tình-huống đàng hoàng

Có kềm hãm giữ mình khi giận tức,

“Có kềm hãm giữ mình khi giận tức,”

Có thứ tha những kẻ nghịch ghét ghen.

Thì tâm hồn mình sẽ mạnh thêm lên.

Sớm nhận thức đâu là phần thưởng thật.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Đỗ)

Mc 1: 1-18

Mai Tá lược dịch

Kềm giữ với hãm mình, còn gì bằng vào lúc mình đang thèm khát. Thèm và khát, không chỉ bây giờ hoặc mai sau, nhưng cả vào mọi tuổi, mọi thời như tâm-tình của chú bé Đanien, kể bên dưới.

Mùa vọng năm ấy, chú bé Đanien tự dưng chạy đến ôm hôm người mẹ hiền, đề nghị một yêu cầu rất nhỏ: “Quà Giáng Sinh năm nay, mẹ nhớ mua cho con một chiếc xe, mẹ nhé.” Nghe lời xin, người mẹ giựt mình, nhưng vẫn từ tốn đáp lại: “Con ạ, nhà mình còn nghèo, mẹ không đủ sức mua xe cho con đạp chơi đâu. Hay là, con chạy đến xin Chúa Hài đồng, xem sao!”

Bé Đanien bèn chạy vào bàn, viết ngay một lá thư ngắn đại ý nói:

Chúa dấu yêu, con biết mình phải thật là ngoan mới được Chúa cho quà. Con nay đã ngoan từ hồi khuya sớm. Vậy, con xin Chúa cho con một chiếc xe đạp nho nhỏ thôi. Chúa nhớ gửi xuống cho con nhé.

Ký tên Đanien.

Viết xong, đọc lại thấy không ổn. Đanien nghĩ lại, mình đâu có ngoan gì cho lắm, mà dám xin món quà lớn lao như thế. Nghĩ vậy, bé xé thư đi rồi viết lại:

“Chúa dấu yêu ơi. Để con kể Chúa nghe nhe. Suốt năm rồi, con là đưa bé khá ngoan. Con muốn xin Chúa một chiếc xe đạp, chạy chơi. Chúa đồng ý cho con nhé.

Ký tên: Đanien của Chúa.”

Viết xong, bé Đanien lại nghĩ: Viết thế này, cũng chưa được đúng cho lắm, lại xé thư, viết lần nữa:

“Chúa Giêsu bé nhỏ của con ơi, lâu nay con vẫn nghĩ con là đưa bé ngoan và giỏi. Có thể nào Chúa cho con một chiếc xe đạp được không?

Ký tên, Đanien.”

Cuối cùng, bé nghĩ: “vẫn không xong. Phải làm thế này, mới chắc ăn”. Đanien chạy một mạch đến nhà thờ. Bưng đại bức tượng nhỏ nơi máng cỏ mang vể cất dưới gầm giường để mẹ mình khỏi la mắng, rồi viết một thứ khác, đầy doạ nạt:

“Chúa mên yêu, con vừa trót dại phạm một điều răn, là: làm bẹp mất búp bê của nhỏ em con, và nhiều chuyện khác khủng khiếp hơn. Con ôm tượng Mẹ Maria về nhà con rồi. Chúa có muốn nhìn lại Mẹ của Chúa dịp Giáng sinh này, thì phải tặng cho con chiếc xe đạp mới. Chúa biết mình phải làm gì rồi, phải không?”

Lời lẽ trong thư Đanien viết cho Chúa Hài Đồng, giống hệt thư tống tiền của băng đảng ngoài đời. Trong đời thường, chuyện của Đanien cũng na ná đôi chút chuyện của nhiều người chúng ta. Nhiều lúc, ta vẫn nghĩ là mình có thể cù cưa/mặc cả với Chúa, rất nhiều điều, để đạt ý mình mong ước. Tuy nhiên, các vụ kèo nài/mặc cả như thế thường không xứng với niềm tin của người tín hữu Đức Kitô, nhất thứ trong khung cảnh mùa Vọng.

Tình huống kèo/trả giá là yếu tố xưa cũ vẫn còn lưu lại nơi đầu của tác giả lịch sử thánh khi ngài viết bài đọc, như: sấm của tiên tri Isaya, như thánh vịnh 84, thư của thánh Phaolô và cả đến Phúc Âm thánh Mác-cô nữa, nhất nhất bộc lộ tâm trạng kèo nài/hạch sách, thế nào đó.

Các bài đọc hôm nay, nhắc nhớ ta một điểm: Đức Chúa vẫn yêu thương loài người. Ngài chẳng bao giờ giữ lại điều gì riêng cho Ngài. Và, khi chấp nhận thân-phận bọt bèo của người phàm có da có thịt, thì Ngài vẫn làm tất cả để ta nhận ra được tình thương yêu cứu-độ, Ngài tặng không. Ngài đã trưng-dẫn tình thương yêu của Ngài bằng chính cuộc sống, để ta theo đó mà làm.

Thành thử, ta phải sống cuộc đời Ngài tặng ban, ăn ở cho công-minh chính-trực và biết thương-yêu ở mức cao độ. Từ đó và qua đó, ta mới thay-đổi được thế-giới đời thường ta đang sống; hầu biến cải thế-giới nên tốt đẹp hơn.

Các tình-huống cuộc đời trong đó ta cứ kèo nài/trả giá với Chúa, vẫn thấy dẫy đầy trong thần-học, cũng như kinh-nguyện/phụng-vụ. Tệ hơn nữa, có nhiều tình-huống ta cứ ngụp lặn trong các thói tật giống như thế, từ thế-hệ này sang thế-hệ khác. Thậm chí, có người còn cả gan trả giá với Chúa bằng nhiều hình thức, rất cầu xin. Thương thảo. Tỉ như câu:

“Lạy Chúa, nếu Chúa giúp sức cho con qua được đại hạn kỳ này,

nghĩa là: ăn như cũ, ngủ như xưa, nhất định con sẽ ăn ở tử tế hơn..”

Có bạn trẻ, chẳng ngại-ngần đánh bạc cả với Chúa. Nghĩa là, có lời lẽ như:

“Lạy Chúa, con xin hứa: con sẽ quay về đi lễ trở lại như lúc trước,

nếu như Chúa cho con thi đỗ khoa này..”;

hoặc:

“Con hứa sẽ cho cháu nhỏ rửa tội và theo Đạo,

nếu như Ngài cho con làm đám cưới/hỏi cho suông sẻ, trót lọt.

Nhất định con sẽ làm như thế..”

Tệ hơn, có người còn thưa với Chúa, như sau:

“Chúa cho con trúng số đi,

con sẽ cúng dâng nhờ một nửa số tiền con lãnh được, để giúp người nghèo…”

Kèo nài/trả giá, thật chẳng hợp với lẽ Đạo, chút nào. Tuy nhiên, Hội thánh cũng chẳng nên trách móc một ai. Tốt hơn, Hội thánh cứ tự nhận trách nhiệm, rồi sẽ sửa đổi não trạng ù lì/chai sạn của dân đi Đạo.

Vào thời đầu, Kinh thánh đã đưa ta về với những lời khuyên nhắn của thánh Gio-an Tẩy Giả, về: sự sống, nỗi chết và sự Phục sinh quang vinh của Chúa. Cả về việc Chúa Thánh Linh vẫn tiếp tục hoạt động trong ta. Ở đây. Bây giờ.

Kinh thánh cũng dạy ta, rằng: ta thật có phước được Chúa cam chịu mọi hiểm nguy, rủi ro của một bội phản, để ta hiểu rõ thế nào là sống chung với thế giới. Sống trong hiện tại, và cho mai ngày. Chúng ta vẫn ôm trọn vào mình cả một mùa Vọng hôm nay, lẫn các mùa lễ khác trong niên lịch phụng vụ. Nơi đó, chứa đựng mọi chân lý ngàn đời.

Từ đó, ta được dặn là hãy loan truyền Tình thương yêu của Đức Chúa. Ngài gỡ bỏ mọi quyền năng mà Ngài có, để đến với loài người qua thân phận hài nhi bé bỏng. Đấy không phải là hành vi của người chỉ kèo nài, trả giá. Đấy, là diện mạo Đức Chúa, Đấng rất mực thương yêu.

Mùa Vọng năm nay, ta đừng để mình trở thành người con bé nhỏ chỉ biết kèo nài/trả giá với các tay độc quyền đòi thiện chí. Cũng chỉ nên nguyện Chúa Nhân Hiền xin Ngài gửi đến với ta, những gì thật cần thiết, đáng ban ân.

Nguyện cầu để cùng hiệp thông, với nhau. Cầu và nguyện, nhưng vẫn tin rằng Đức Chúa đã nghe tiếng ta khẩn cầu. Chính vì Ngài đã nghe tiếng ta cầu nài, nên Ngài mới cho ta Tình yêu đích thực hiển hiện nới Đức Kitô, Con của Ngài.

Trong tinh-thần hiệp-thông cùng nhau nguyện-cầu, ta lại ngâm vang lời thơ trên rằng:

“Có can-đảm, cả khi mình nhút-nhát,

Có khôn-ngoan trong lúc rất hoang-mang.

Có hiên-ngang cả những lúc đầu hàng,

Mới cảm được cõi hồn cao muôn trượng.”

(Nguyên Đỗ – Mỗi Kinh Nghiệm, Một Bài Học)

Can-đảm cả khi nhút nhát, còn là đức-tính và kinh-nghiệm để đạt “cõi hồn cao muôn trượng”. Cõi hồn ấy, mai ngày sẽ không còn giận tức, ghét ghen hay nhút nhát, nhưng vẫn cứ tỏ-bày thương-yêu, tha thứ với mọi người, rất ở đời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Chuyện tình của lão Jim

Chuyện tình của lão Jim

Người viết: Mônica Têrêsa Túy Nga

Lão Jim ơi,

Mình là cái bà được Thiên Chúa cho sinh ra và lớn lên tại vùng ven biển có con sông Cái Lớn của tỉnh Kiên Giang thuộc Miền Nam Việt Nam . Mình hân hạnh được biết lão qua một bài thơ tự do dài trên 100 câu, mang tên “Lời nguyện của lão Jim”, do một người ký tên tắt là DH chuyển dịch ra tiếng Việt, và do cha giáo cũng là cha sở mới về của mình hiện nay cho in ra để gởi tặng cho từng học viên trong lớp học Kinh Thánh vào mỗi tối thứ sáu hằng tuần.

Thú thật với lão nha lão Jim thân mến! Bài thơ đã làm chao động lòng mình dữ quá, và nó cũng đã đánh động mạnh mẽ vào tâm linh của mình, về một cách cầu nguyện có thể bị người đời cho là thấp hèn …. vậy mà lại có sức hút mãnh liệt đối với Chúa Giêsu. Còn với mình, đến đỗi mình không nghĩ lão là một nhân vật hư cấu. Mà chính lão, lão Jim nghèo khổ, tâm tính bình dân hài hòa, đi tới đâu là mang niềm vui đến tới đó cho mọi nơi, là một người hoàn toàn có thật!

Vì vậy, hôm nay mình ngồi viết những dòng suy tư này. Hy vọng dù lão đang ở nơi đâu, lão đang ở trên trời với Thiên Chúa Cha, hay lão đang còn lang thang trên cõi tạm này, lão cũng đều nhận được bài chia sẻ này của mình, và mình xin lão, lão hãy cầu nguyện cho mình và cho những ai chưa từng biết Chúa nữa, nha lão Jim!!

“Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Jim đang ở nơi đây!”

Lão “luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày”, như đôi tình nhân không bao giờ quên nhau, dù chỉ trong một giây phút vắn vỏi bay qua, là lão đã “gãy đúng chỗ ngứa” của Chúa Giêsu, và làm cho Người luôn nghe khoái tỉ tê trong lòng rồi, lão có biết hay không hả lão Jim??

Rồi theo mình, vì yêu thương lão vô cùng, nên Chúa không muốn lão có cảnh sống giàu sang, vì người sang giàu ít khi biết nghĩ tới Chúa. Chúa muốn lão sống một cuộc đời cô đơn hiu quạnh và phải lê lết đi tìm miếng cơm manh áo trong một công xưởng, ở cách xa Thánh đường. Giờ trưa, mọi công nhân khác ăn trưa xong rồi đi nằm nghỉ, chờ vào giờ của ca làm chiều. Còn lão, hằng ngày lão lợi dụng giờ này, để đi tới Thánh đường tìm gặp Chúa Giêsu, với “Túi đồ ăn đeo lủng lẳng bên lưng” …Đã vậy, râu tóc của lão lại còn quá lôi thôi nữa.  Cái áo khoác ngoài của lão thì “chắc lượm của chó tha!” Nên:

“Ông tu sĩ lòng nghi ngờ quá đỗi

Sợ lão ta muốn trộm cắp chi đây?”

Vì thế, lão phải đính chính  sự hiện diện của mình:

“Ông thấy đó! Tôi chỉ vào đây một lát

Vì xưởng tôi, từ đó cũng xa đây

Tôi chỉ quỳ và chuyện trò cùng Chúa

Lời cầu xin ….chỉ đơn giản thế này:

Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Jim đang ở nơi đây!”

Và, thế là:

“Vị tu sĩ bỗng thấy mình ‘cả đẩn’!

Nói với Jim:Thôi chuyện chẳng có gì

Và không sao, cứ tới đây cầu nguyện

Cửa Thánh đường luôn chào đón mỗi khi

Hết giờ, Jim đứng lên vội vã

Miệng lão cười và nói tiếng cám ơn”

Còn vị tu sĩ thì:

“Trái tim lạnh bỗng trở nên bừng ấm

Gặp Giêsu, Tình Chúa đắm chìm

Dòng lệ rơi và trái tim thổn thức

Ông học theo lời nguyện của lão Jim:

Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Con đang ở nơi đây!”

Bỗng một ngày …và ít hôm kế tiếp nữa, vị tu sĩ không nhìn thấy bóng dáng của lão Jim ở đâu. Nóng lòng ngài tìm đến công xưởng để hỏi, ngài mới biết lão Jim đã bị bệnh rồi.

“Ở nhà thương, nhân viên đều lo lắng

Còn lão Jim cứ làm họ phải cười

Họ chẳng hiểu tại sao Jim hạnh phúc

Khi không có hoa, không ai tới thăm nuôi?!

Vị tu sĩ nói với người y tá:

Tôi thấy lão vẫn luôn cô độc

Bạn bè nào có để mà cầu!

Thật không ngờ lão Jim cười ha…hả…

-Ông nói sai, cô y tá cũng sai!

Có điều này, tôi chưa cho ai biết

Người ở đây, Người luôn ở nơi đây!

Mỗi buổi trưa Người luôn ghé đến

Người là bạn tôi, là bạn rất thân quen

Nắm tay tôi, bên giường Người ngồi xuống

Và tôi nghe, một giọng nói êm đềm:

Bạn Jim hỡi, hôm nay tôi lại đến

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Kể từ khi ta kết tình bằng hữu

Tội của anh, tôi đã thứ tha

Tôi lắng nghe mỗi lần anh cầu nguyện

Và tôi luôn nghĩ tới bạn hằng ngày

Này anh Jim! Bạn của lòng tôi hỡi!

Hãy nhìn xem: Giêsu đang ở nơi đây!!”

Lão Jim à,

Vì trang viết có hạn, nên mình chỉ trích ra những câu thơ làm nổi bật chuyện tình của lão với Chúa Giêsu mà thôi. Và hai câu thơ cuối bên trên là hai câu kết thúc.

Nhà thơ thật là lắc léo ở chỗ không cho biết sau đó Chúa Giêsu có rước linh hồn lão về Trời cùng Người hay không? Nhưng dù đã có hay chưa có thể có, do Người còn cần lão làm chứng về Người trên nước thế gian này, thì lão cũng đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để Người luôn ấp ủ vào Trái Tim sốt nóng của Người rồi. Lão sướng nha!!!

Và, cuối cùng trong bài viết hôm nay, mình muốn nói với lão rằng: Vâng! Lão là vị Thầy xuất sắc dạy mình cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Một chuyện làm đơn giản, không cần cầu kỳ hoa mỹ chi cả…Mình cám ơn lão vô vàn. Mình yêu Chúa Giêsu và mình cũng yêu lão nữa …Lão  Jim yêu mến ạ!!

M. T. TN

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bài 2: Về Đặc trưng thứ Hai và Đặc trưng thứ Ba

Trần Quí Cao

Tiếp theo bài 1 đánh giá các thành quả Việt Nam đã đạt được sau 39 năm xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xét theo các tiêu chí của đặc trưng 1, bài này đánh giá theo các tiêu chí của đặc trưng 2 và đặc trưng 3 (1).

Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Chúng ta đã minh định trong bài 1 rằng nước ta không Dân Chủ. Nay ta phân tích chi tiết hơn trong mục này.

Hiểu theo nghĩa thông dụng, Dân Chủ là Nhân dân là chủ của xã hội, của quốc gia. Khái niệm người chủ bao hàm ý: có các quyền tự do đương nhiên của người chủ.

Hiểu theo khía cạnh học thuyết chính trị thì:

Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận Nhân Dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi (2).

Như vậy, hiểu theo cách thông dụng hay theo khía cạnh học thuyết chính trị, Dân Chủ luôn gắn liền với Tự Do. Không có các quyền Tự Do căn bản, Dân Chúng không thể thực hiện quyền, chức năng làm chủ của mình. Nói cách khác: nếu Dân Chúng không được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi trên thế giới thì quốc gia không có Dân Chủ. Các quyền Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Báo Chí, Tự Do Ứng và Bầu Cử, Tự Do Lập Hội, Lập Đảng là các quyền Tự Do chính yếu trong một nền Dân Chủ.

Trên thực tế, dân Việt Nam không có bất kỳ một quyền nào trong các quyền kể trên.

Ngoài ra, các nhà chính trị học còn nêu lên một thuộc tính của thể chế Dân Chủ là Tam Quyền Phân Lập. Đây là một đặc điểm chính yếu của chính thể Dân Chủ, đặc điểm này phân biệt chính thể Dân Chủ xứng danh với chính thể Dân Chủ mạo danh.

Nhà cầm quyền Việt Nam luôn khẳng định không có Tam Quyền Phân Lập. Như vậy, rõ ràng là, cùng với các quyền tự do căn bản mà người dân không được hưởng, nước Việt Nam không có Dân Chủ, không do Nhân Dân Làm Chủ.

Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

Đặc trưng này nói về nền kinh tế với 2 tiêu chí: lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.

Hãy so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế xấp xỉ Việt Nam vài thập niên trước.

Chúng ta đã so sánh với Hàn Quốc bên trên. Trong các tập đoàn lớn nhất của Hàn Quốc (SamSung, Hyundai, LG…) tập đoàn nào cũng có sản phẩm được sản xuất bởi công nghệ hiện đại, cạnh tranh ngang tay với các tập đoàn lừng danh của Nhật và Âu Mỹ… Các tập đoàn này là đối tác kinh doanh toàn cầu được nể trọng của các tập đoàn có truyền thống hùng mạnh của thế giới như General Electric (Mỹ), General Motor (Mỹ), DuPont (Mỹ), Exxon Mobile (Mỹ), BASF (Đức), Siemens (Đức), Total (Pháp)… Khi SamSung triển khai chương trình đầu tư vào Việt Nam, SamSung dành ưu tiên cho các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam cung cấp cho họ 170 sản phẩm chưa phải là cao cấp, thì Việt Nam không thể cung cấp được một sản phẩm nào!

Hãy so sánh thêm với Thái Lan, một nước có nền kinh tế phát triển chưa cao lắm. Năm 2012, ngành công nghiệp xe hơi của họ đứng thứ 9 trên thế giới, một năm sản xuất khoảng 1 triệu rưỡi chiếc xe trong khi Việt Nam sản xuất khoảng 50,00 chiếc, chỉ khoảng ba bốn phần trăm của họ (3). Với Mã Lai, một nước có nền công nghiệp phụ trợ điện tử được ưa chuộng trong khu vực, với Đài Loan, vùng lãnh thổ kinh tế có vị trí thứ tư trên thế giới về nền công nghiệp phụ trợ cung cấp linh kiện cơ khí cho thế giới… So với các nước đó, thì vị trí Việt Nam chúng ta nằm ở đâu?

Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chúng ta xuất khẩu ở dạng thô chứ không ở dạng tinh chế. Chúng ta xuất ở vị trí thấp, thậm chí rất thấp, chứ không ở vị trí cao trên chuỗi giá trị gia tăng. Theo những đánh giá về công nghệ cao, phần đóng góp của công nghệ cao vào nền sản xuất của Việt Nam là rất nhỏ, vài phần trăm.

Việt Nam đã có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại chưa?

Nền kinh tế phát triển cao dực trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

Trên lý thuyết, Việt Nam có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Quả thật, các Tổng Công ty, các Tập đoàn Kinh tế nhà nước bao trùm mọi mặt kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, lợi nhuận từ các tổng công ty, tập đoàn đó rơi vào túi một thiểu số cá nhân quyền lực mà người ta thường gọi là  “nhóm lợi ích”. Điều quan trọng là lợi nhuận tìm được bởi các biện pháp độc quyền (thí dụ trong các ngành Điện, Nước, Xăng Dầu, Than, Khoáng Sản…), bằng các biện pháp hành chánh ưu tiên hay cưỡng bức (thí dụ trong ngành Lúa Gạo), bằng các biện pháp tham nhũng, hối lộ (thí dụ được thấy rõ trong các vụ án Vinashin, Vinalines…) chứ không phải bằng cạnh tranh bình đẳng. Lợi thì vô túi riêng của nhóm lợi ích, Lỗ thì dân gánh chịu.

Có phải những sự việc kể trên chỉ là khuyết điểm của phân bổ không công bình, không quan hệ gì với tính công hữu? Thực ra thì mục tiêu của công hữu là nhằm lo cho số đông dân chúng, nếu công hữu chỉ để một thiểu số vơ vét tài sản của số đông thì chế độ công hữu đó chỉ là chiếc áo thầy tu khoác lên mình tướng cướp. Chế độ công hữu vận hành phối hợp với chế độ độc tài sẽ gây tai hại khủng khiếp cho số đông, người dân làm ra đồng nào sẽ bị gỡ tay lấy hết đồng đó.

Hiện nay, chính sách tư nhân hóa, cổ phần hóa các công ty nhà nước đang được đầy mạnh. Trong hoàn cảnh người dân không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không được tiếp cận quyền lực, rất nhiều người lo ngại rằng một phần lớn “tư liệu sản xuất chủ yếu” trước đây thuộc “công hữu” và đã được tận dụng tạo “giá trị thặng dư” cho “nhóm lợi ích”, nay sẽ được “tư hữu hóa” để cho “các nhóm lợi ích” chia chác thêm nữa tài sản quốc gia.

Và, như vậy, mục tiêu của công hữu nhằm, như lý thuyết nói, ngăn cản, hạn chế sự bất công, lại có tác dụng đẩy bất công và bóc lột lên một mức cao chưa từng thấy.

Xét trên khía cạnh này, Việt Nam hoàn toàn không có chế độ công hữu xứng danh, nghĩa là không có sự công hữu được thực hiện và quản lý theo những chuẩn mực xã hội văn minh hiện đại.

Tóm lại:

Nước Việt Nam không đạt tiêu chí duy nhất trong đặc trưng thứ hai là do nhân dân làm chủ. Và cũng không đạt hai tiêu chí của đặc trưng thứ ba là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Trần Quí Cao

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Hữu Nghĩa. “Những đặc trưng thể hiện yính ưu việt của Chủ nghĩa Xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”, Tham luận tại tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội XI của Đảng (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.

2. Wikipedia. Dân chủ http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7

3. Wikipedia. Automotive Industry In Thailand. http://en.wikipedia.org/wiki/Automotive_industry_in_Thailand

Làm sao tránh bệnh lẩn -Alzheimer

Làm sao tránh bệnh lẩn -Alzheimer

Gần phân nửa số người Mỹ 85 tuổi mắc bệnh Alzheimer’s, một chữ mà người Việt ở Mỹ đã quen thuộc và thường dịch là bệnh lẩn. Một số người còn mắc bệnh này khi chưa đến 65 tuổi, được gọi là bệnh lẩn sớm. Căn bệnh quái ác này thường lởn vởn trong óc tất cả chúng ta và nhiều người thường tự hỏi “Có phải mình đang mắc chứng Alzheimer’s sớm?”

Thực ra thì bệnh hay quên thường được gặp ở mọi lứa tuổi: không thể tìm thấy chìa khóa, quên tên người đối diện hay người trong một câu chuyện đang kể, hoặc bước vào một căn phòng rồi không thể nhớ tại sao lại vào đó. Đối với đa số thì vấn đề chỉ là do thiếu ngủ hoặc căng thẳng tạm thời. Nhưng đôi khi những triệu chứng này trở nên thường xuyên hơn và đáng lo ngại hơn khiến chúng ta cần đến gặp bác sĩ để được chẩn bệnh chính xác. Rất may là nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều loại thực phẩm có thể giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer và thậm chí có thể đảo ngược các vấn đề của trí nhớ khi chúng được phát hiện sớm.

Khi xem xét óc của những người bệnh Alzheimer’s, các nhà khoa học thấy giữa các tế bào não là mảng nhỏ li ti, được gọi là mảng beta- amyloid. Dưới kính hiển vi, những mảng này trông giống như viên thịt hoặc cuộn len. Họ cho rằng những mảng này đã dần dần phá hủy các tế bào óc.
Tại sao có những mảng này? Các nhà nghiên cứu ở Mỹ và châu Âu cho rằng câu trả lời tìm thấy trong thói quen ăn uống của chúng ta. Một số thức ăn làm dễ bị bệnh Alzheimer’s và ngược lại, một số khác giúp ngăn chặn bệnh.

“Chất béo xấu”

Chất béo bão hòa thuộc loại chất béo không lành mạnh: đây là chất béo trong thịt và đặc biệt là trong các sản phẩm sữa, chẳng hạn như phô mai và kem. Các nhà nghiên cứu trong Chicago Health and Aging Project thấy rằng những người ăn nhiều những “chất béo xấu“ có hơn ba lần nguy cơ mắc bệnh Alzheimer’s so với những người tránh ăn những chất béo này. Và đây là điều đáng sợ: Nếu bạn ăn hai quả trứng và một miếng bacon (thịt ba chỉ ướp mặn) cho bữa ăn sáng, một miếng ức gà không da với một ly sữa cho bữa ăn trưa, và một bánh pizza pho mát nhỏ cho bữa ăn tối, bạn đã lấy đủ “chất béo xấu” để được xếp vào nhóm có nguy cơ cao. Đúng vậy. Những thức ăn hàng ngày mà chúng ta quen ăn khiến chúng ta bị xếp vào nhóm có nguy cơ bị bệnh. Chất transfat có trong bánh donut và các món ăn vặt khác cũng làm tăng nguy cơ bị các vấn đề của trí nhớ sau này.

Sắt , đồng và các kim loại khác

Kim loại – sắt và đồng – từ các loại thực phẩm và từ nồi chảo có thể là một phần của vấn đề. Chúng ta đều cần sắt cho hồng huyết cầu và đồng cho các phân hóa tố (enzyme), nhưng với số lượng lớn, các kim loại này sản xuất các gốc hóa học làm tổn thương các tế bào não.

Các kim loại này đến từ đâu? Chất sắt có trong các loại thịt và tất nhiên là trong chảo gang, do đó nên dùng nồi chảo làm bằng thép không rỉ (stainless steel), an toàn hơn. Chất đồng được tìm thấy trong ống nước – vì vậy ta nên dùng máy lọc nước – cũng như trong gan và nhiều loại thực phẩm khác. Cả chất sắt và chất đồng thường được thêm vào các loại vitamin, vì vậy nên đọc kỹ nhãn hiệu vitamin bạn mua và chọn những loại thuốc không có các kim loại này .

Chất nhôm cũng đã được tìm thấy trong óc của bệnh nhân Alzheimer’s. Trong khi các nhà khoa học tiếp tục tranh luận xem các kim loại này là thủ phạm hay chỉ là một chất có mặt vô tội vạ, tốt hơn hết là ta đừng đem chúng vào người. Không nên dùng nồi nấu bằng nhôm và đọc nhãn hiệu kỹ khi mua baking powder, thuốc antacid, và thực phẩm chế biến sẵn để chọn loại không có các chất này.

Thực phẩm bảo vệ khỏi bệnh Alzheimer’s

Không phải tất cả các thực phẩm đều có hại. Một số thực phẩm thực sự bảo vệ óc. Chúng là:

-Các loại hạt chứa nhiều vitamin E, đã được chứng minh là giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer’s. Đặc biệt tốt là hạnh nhân (almonds), quả óc chó (walnuts), quả phỉ (hazelnuts), hạt thông (pinenuts), quả hồ đào (pecans), quả hồ trăn (pistachios), hạt hướng dương (sunflower seeds), hạt vừng (sesame seeds), và hạt lanh (flaxseed). Chỉ cần một ounce (một nắm) mỗi ngày là đủ.

-Quả việt quất (blueberries) và nho có được màu đậm là từ anthocyanins, chất chống oxy hóa mạnh mẽ giúp học tập tốt và tăng trí nhớ trong các nghiên cứu tại Đại học Cincinnati.

-Khoai lang là thức ăn chính của người Okinawa, giống người sống lâu nhất trên trái đất. Họ cũng được biết là có thể duy trì tinh thần minh mẫn vào tuổi già. Khoai lang chứa nhiều beta- carotene, một chất chống oxy hóa mạnh mẽ .

-Các loại rau lá xanh cung cấp sắt trong một hình thức dễ hấp thụ hơn khi cơ thể cần nhiều và ít được hấp thụ khi cơ thể bạn đã có dư, bảo vệ bạn khỏi tình trạng quá dư chất sắt, có thể gây hại cho não. Rau xanh cũng có rất nhiều chất folate, một loại vitamin B bảo vệ óc.

-Các loại đậu và chickpeas có vitamin B6 và folate cũng như protein và cancium, không có chất béo bão hòa hoặc transfat.

-Vitamin B12 rất cần thiết để giúp hệ thần kinh và các tế bào não khỏe mạnh. Folate , vitamin B6 và vitamin B12 hợp chung sẽ loại bỏ homocysteine, là chất tích tụ trong máu – giống như chất thải nhà máy – và làm hư não.

-Ăn chay, nhất là ăn thuần chay rất tốt. Một nghiên cứu tại đại học Loma Linda cho thấy người ăn chay không chỉ sống lâu hơn những người ăn thịt mà họ giữ được sự minh mẫn lâu dài hơn.

Vận động bộ óc thường xuyên

Dùng những cách sau để vận động bộ óc:

-Làm trái tim đập mạnh hon: Đi bộ nhanh 40 phút ba lần mỗi tuần mang oxygen lên óc và có thể đảo ngược sự co rút do tuổi cao của óc, theo trường đại học Illinois.

-Vận động trí óc: Những bài tập kích thích não – từ sách, báo hay các bài tập não đã được chứng minh là làm óc mạnh lên.

-Ngủ. Giấc ngủ rất cần thiết để gìn giữ trí nhớ. Nửa đầu của đêm rất quan trọng cho giấc ngủ sóng chậm, khi bộ óc tổng hợp các sự kiện và từ ngữ học được trong ngày. Nửa thứ hai của đêm nhấn mạnh giấc ngủ REM, khi những cảm xúc và kỹ năng thể lý được tổng hợp. Nên đi ngủ vào khoảng 10:00 tối, và ngủ đủ tám tiếng hoặc nhiều giờ như có thể được.

-Bảo vệ trí nhớ của bạn
Tránh những “chất béo xấu” trong các loại thịt , các sản phẩm sữa, bánh ngọt ăn vặt, và tận dụng các chất dinh dưỡng tốt trong các loại rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt , và đậu. Vitamin B12 là một chất dinh dưỡng cần thiết. Và đừng quên tập thể dục cho thể xác cũng như tinh thần mỗi ngày.

Đừng chần chờ. Nếp nhăn bắt đầu rất sớm và cuộc sống cũng như tóc bạc và những thay đổi trong bộ óc đã bắt đầu và tiến hành trước khi hầu hết chúng ta nhận ra. Ngay bây giờ là thời gian để tận dụng các loại thực phẩm tốt cho não.

Anh chị Thụ Mai gởi

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bài 1: Về đặc trưng thứ nhất và đặc trưng thứ hai

Trần Quí Cao

Ông Trần Quí Cao hứa với chúng tôi sẽ tập trung công sức viết một hệ thống gồm 4 bài xoay quanh chủ đề “đánh giá lại một cách tổng thể thành quả đạt được sau 39 năm Việt Nam xây dựng cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội”. Nay cả 4 bài đã hoàn tất, ông gửi đến trang BVN. Xin được lần lượt đăng lên, mỗi ngày một bài, để bạn đọc rộng rãi tham khảo.

Bauxite Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam hạ quyết tâm tiến hành việc xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam dù phải trả bất cứ giá nào và dù chưa một lần trưng cầu dân ý để biết lòng dân có thuận hay không. Ngày 14/1/2011 ông Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, có bài tham luận cho rằng (1):

a. Xã hội Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dựa trên thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về Chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

b. Xã hội đó có 8 đặc trưng thể hiện tính ưu việt của nó. Tám đặc trưng đó là:

1. Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ.

3. Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

4. Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

6. Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

7. Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

8. Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Từ sau năm 1975, khi toàn thể đất nước thu về một mối và toàn dân tộc Việt Nam nằm dưới sự lãnh đạo của đảng duy nhất của nước Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam (thực ra trước khi khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ, Việt Nam cũng có 2 đảng làm kiểng là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội, tuy nhiên quyền lãnh đạo cũng hoàn toàn trong tay Đảng Cộng sản), cho đến nay đã hơn 39 năm, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại xem Việt Nam đã đạt được những thành quả nào trong tám đặc trưng nói trên. Trong bài này chúng ta sẽ xét đặc trưng thứ nhất, và chỉ đánh giá thành quả chứ chưa thảo luận nguyên nhân của các thành quả đó.

Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Dân giàu:

Năm 2012, tính trong các nước ASEAN, GDP/đầu người của Việt Nam nằm ở vị trí thứ 7 theo thứ tự như sau (2):

Brunei, Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonexia, Philippines, Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia.

Trong đó, GDP/đầu người của Việt Nam xấp xỉ bằng 1/7 của Mã Lai, bằng 1/4 của Thái Lan, bằng 1/2,5 Indonesia, bằng 1/15 của Hàn Quốc, và 1/30 của Nhật.

Vậy, Việt Nam có giàu không?

Nước mạnh:

Bàn về nước Mạnh hay Yếu, ta cần xét trên hai mặt:

1. Thứ nhất, mạnh là bảo vệ được chủ quyền, được tính tự chủ của quốc gia đối với kẻ đang muốn xâm chiếm đất nước. Luxembourg không có nguy cơ bị xâm lấn nên Luxembourg không cần mạnh. Với Luxembourg, chỉ cần giàu là mạnh. Với Việt Nam thì khác, mạnh có nghĩa là Trung Hoa không dám lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam dù đó là đất liền hay hải đảo.

2. Thứ hai, mạnh ở đây nên hiểu theo nghĩa tổng hợp, nghĩa là mạnh trên nhiều mặt: quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị, nội trị… Sức mạnh tổng hợp của các mặt đủ khiến kẻ có dã tâm không dám lấn chiếm hay can thiệp vào chủ quyền của ta.

Ngoại giao: Việt Nam giao thiệp rộng, nhưng yếu vì không có bạn sống chết, nghĩa là không có đồng minh chí cốt, không là Đối tác chiến lược, không có Hiệp ước Phòng thủ chung với một đại cường quốc nào. Khi Trung Hoa tiến công lãnh thổ đất liền Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Khi Trung Hoa tiến chiếm biển đảo Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Chỉ khi Trung Hoa lộ rõ ý đồ độc chiếm biển Đông thì thế giới mới phản đối, nhưng để bảo vệ tự do hàng hải, chứ không phải vì Việt Nam là đồng minh chí cốt của họ. Về mặt này, so sánh Việt Nam với Nhật hay với Philippines, Hàn Quốc, ta thấy rõ rằng Việt Nam rất yếu ớt vì cô đơn ngoại giao.

Kinh tế: Việt Nam nằm ở vị trí thấp về thứ bậc kinh tế tính theo tổng hợp (composite) hay tính theo từng tiêu chí khác nhau. Hệ số ICOR là một trong các ví dụ rõ nét. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng và độ lớn của nợ công là những thí dụ khác. Nền kinh tế của VN càng yếu ớt hơn vì tính mất cân bằng và, do đó, tính lệ thuộc của nó. Sự lệ thuộc này, tai hại thay, lại là lệ thuộc Trung Hoa, nước ngàn năm nay luôn muốn chiếm nước ta, và hiện đang bộc lộ rõ ý đồ không chế Việt Nam!

Chính trị: Sự đoàn kết toàn dân làm nên sức mạnh của quốc gia, nhất là một quốc gia bên cạnh Trung Quốc to lớn và luôn mang ý đồ bành trướng. Chính thể độc tài và toàn trị đã phá hỏng nền tảng sức mạnh này của Việt Nam vì nó liên tục khiến lòng dân bất an và bất mãn. Do đó, nội trị tất phải dựa trên công an trị. Dưới bề mặt có vẻ như ổn định, xung đột sâu sắc giữa giới cầm quyền và dân chúng luôn trong trạng thái âm ỉ và có nguy cơ bùng phát. Sinh lực của dân tộc thay vì dành cho phát triển và bảo vệ tự chủ của quốc gia, lại bị dốc vào đàn áp và trấn áp. Sự hao tổn sinh lực này có thể so sánh với một cuộc nội chiến giới hạn cho dù chưa xảy ra chiến tranh giữa các thành phần dân tộc.

Một đất nước có nền ngoại giao cô đơn, kinh tế lệ thuộc, chính trị không phù hợp, nội trị bất an và tiềm ẩn nội loạn, thì vũ khí hiện đại nào có thể giúp chống ngoại xâm và giữ chủ quyền? Huống chi, sức mạnh kho vũ khí ta đang có cũng rất giới hạn so với kho vũ khí của nước đang uy hiếp chúng ta! Vậy thì, đối diện với Trung Hoa, nước duy nhất trên thế giới có ý đồ và khả năng xâm lược Việt Nam, Việt Nam chẳng những không mạnh mà còn rất YẾU so với họ.

Dân chủ: Một nước mà người dân không có quyền tự do ứng cử, bầu cử, không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không có quyền tự do lập hội, lập đảng, một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, không có Tam quyền phân Lập, nước đó có làm gì có Dân Chủ!

Bình đẳng: Một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, và danh sách ứng cử viên vào Quốc hội phải được đưa ra bởi đảng độc tài đó, người dân trong nước có bình đẳng trong việc tiếp cận quyền lực không? Một nước mà, trong thực tế, người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể bị đưa ra tòa án (ngoại trừ khi đảng viên đó đã bị khai trừ khỏi đảng), thì dân chúng có bình đẳng trước pháp luật không?

Công bằng: Chính thể độc tài và toàn trị khiến quốc gia suy thoái mọi mặt, tầng lớp cầm quyền tham nhũng “không thứ gì không ăn” tạo thành một “bầy sâu tham nhũng lúc nhúc”, họ nắm hàng tỉ đô la trong một đất nước mà mức thu nhập trung bình trên đầu người khoảng hai ngàn đô la/năm. Đất nước có công bằng không? Một nước mà các cơ quan chính quyền cấp bộ nắm các tổng công ty hay công ty rất lớn, hoạt động kinh doanh trong nhiều lãnh vực kinh tế không liên quan hay liên quan rất ít với các lãnh vực then chốt về an ninh, quốc phòng… dân chúng trong nước có được tiếp cận nguồn lực phát triển của Tổ quốc một cách công bằng không?

Một nước không giàu mạnh, không dân chủ, không bình đẳng, không công bằng, nước đó không thể gọi là văn minh!?

Tóm lại:

Nước Việt Nam không đạt một tiêu chí nào trong 5 tiêu chí của đặc trưng thứ nhất là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

T.Q.C.

(còn tiếp)

Tài liệu tham khảo

1. Lê Hữu Nghĩa. “Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”, tham luận tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội XI của Đảng. (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.

2. Wikipedia. List of ASEAN countries by GDP (nominal). http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_ASEAN_countries_by_GDP_(nominal)

3. Wikipedia. Dân chủ. http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7

Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2014/11/26/3124-danh-gia-thanh-qua-dat-duoc-sau-39-nam-xay-dung-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-bai-1-va-bai-2/

Thiên nhiên đã nổi giận?

Thiên nhiên đã nổi giận?

RFA

Đất lở, đá chuồi, lũ quét, động đất, mưa đá, bão tố quăng quật… Hàng loạt thiên tai xuất hiện dày đặc và cuồng bạo ở khắp ba miền đất nước trong vài năm trở lại đây đã làm cho đời sống vốn nghèo khổ của đa phần người dân lại càng thêm khó khăn, ngột ngạt.

Thú rừng xuất hiện ngày càng nhiều ở đồng bằng sau mỗi trận lụt, và con người sau cái đói của ngày mưa tháng lũ lại hè nhau đi tìm thú để săn lùng, không có ngóc ngách nào là con người bỏ qua, từ đào đất tìm hang cho đến đặt bẫy, săn bắn, châm điện, ném thuốc nổ… Không có thủ đoạn nào là con người không dùng đến.

Khi con người càng điên cuồng với thiên nhiên, cái giá phải trả là thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ bằng thiên tai, dịch hoạ, hiện tượng lạ bất lợi cho đời sống con người và hàng loạt những tai ương như một ẩn số luôn phục kích loài người.

Một tháng nay, hầu như cả miền Trung náo động vì chuyện rắn lục đuôi đỏ xuất hiện ngày thêm nhiều và số người bị loài rắn này cắn ngày càng gia tăng. Báo chí trong nước đã đồng loạt đưa tin về chuyện này. Có nhiều cách đặt vấn đề khác nhau, trong đó có người nghi ngại “nước lạ“ đã lén lút thả loài rắn này để cắn người Việt Nam, cũng có nhiều người lại nghiêng về giả thuyết thiên nhiên đã nổi giận.

Ở hướng giả thuyết thiên nhiên nổi giận, người ta nói về sự mất cân bằng sinh thái, sự mất đi số lượng quá lớn của cầy, cáo, chuột… Đã làm ảnh hưởng nặng nề đến nguồn thức ăn cũng như loài khắc tinh của rắn lục đôi đỏ, khiến nó trở nên hung dữ và tìm xuống đồng bằng để tìm thức ăn…

Nhưng trong giả thuyết này không đặt câu hỏi: Loài rắn này vốn dĩ không quen với môi trường đồng bằng, chủ yếu sống trên các dãy núi, trong đó phần lớn sống trong dãy Trường Sơn, làm thế nào nó đã thiên di hàng trăm cây số xuống đồng bằng để sinh sống? Và tại sao nó chỉ xuất hiện ở miền Trung? Và đáng sợ hơn cả là loài rắn vốn không sống trong môi trường nước này hiện tại có khả năng di chuyển trong nước rất nhanh, có thể sống trong môi trường nước một cách bình thường.

Phải chăng chỉ có miền Trung thường xuyên xãy ra lũ lụt, đặc biệt trong vài năm trở lại đây, sau những trận lụt lớn, ở đồng bằng xuất hiện nhiều thú rừng, rắn lục đuôi đỏ cũng là một trong những loài bò sát đã thiên di theo dòng nước nhưng con người chưa phát hiện, chưa săn bắt vì loài này có trọng lượng không lớn, sống kín đáo trong các lùm cây?!

Và những công trình thuỷ điện, hồ chứa mọc lên khắp miền Trung nhấn chìm hàng triệu mét vuông rừng tự nhiên vào lòng hồ cũng đã nhấn chìm hàng ngàn loài thú rừng xuống nước. Để thich nghi và tồn tại, loài rắn này tập làm quen với môi trường nước. Chính dòng nước lũ đã đưa chúng về đồng bằng?

Ở đồng bằng hiếm hoi chồn,cầy rừng, chỉ có chó nhà nhưng chó nhà không dám ra đường vì sợ bọn người đập trộm, chính vì thế, điều kiện sinh tồn của nó rấn đuôi đỏ rất cao. Đặc biệt năm nay tuy có mưa, độ ẩm cao nhưng thuỷ điện không xả đập, không có lụt, loài rắn này tha hồ sinh sôi nay nở vì gặp thời tiết thuận lợi… Thật là đáng sợ khi nghĩ đến chuyện môt ngày nào đó thuỷ điện xả lũ, nước tràn về bất ngờ, mọi thứ giao thông tê liệt, loài rắn này bò lỏm ngỏm trong dòng nước… Lúc đó, tai hoạ khó mà lường được!

Nhưng có phải vì thế mà tìm cách giết sạch loài rắn này? Câu hỏi này rất quan trọng đối với người Việt Nam. Với thói quen chỉ nhìn thấy trước mắt, đa phần nông nổi, thiếu tầm nhìn chiến lược, đã có hàng ngàn bài học trả giá bằng máu và nước mắt kể từ khi “thống nhất đất nước” đến nay nhưng người ta vẫn cứ để tái diễn bởi lòng tham và sự nông cạn.

Ngay ở trung tâm thành phố Sài Gòn và Hà Nội, nơi được xem là trung tâm kinh tế, văn hoá của hai đầu đất nước, người ta có thể ngang nhiên chặt bỏ hàng trăm cây gỗ lớn thuộc vào hàng cổ thụ trăm năm. Trong khi đó, để có một cổ thụ, phải tốn rất nhiều năm, thậm chí vài trăm năm, vài mươi thế hệ để trồng, chăm sóc và giữ gìn.

Nhưng để xây dựng bất kì công trình nào cho dù vĩ đại, tầm cỡ quốc tế, lịch sử gi gì đó, người ta cũng không tốn quá mười năm.  Điều đó cho thấy người ta đã mang cái hàng trăm, hàng ngàn năm ra đổi lấy cái vài năm. Cách làm này, con người tiến bộ và biết suy nghĩ không bao giờ chọn, bởi nó không chỉ mang tính lich sử, nhân văn mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh của con người.

Một cây gỗ rừng phải tốn đến cả vài trăm năm, thậm chí những cây gỗ lớn, thuộc hàng danh mộc có thể sống cả ngàn năm nơi rừng thiêng, nhưng, với con người, đó là món hời để ốp trần nhà, ốp tường, thậm chí lót sàn để thể hiện “đẳng cấp”. Không ai dám trả lời ngôi nhà tồn tại được bao lâu, khi nào người ta sẽ đập phá để xây dựng cái mới nhưng cái cây thì chắc chắn mất đi vĩnh viễn!

Cũng như để ngồi nhậu với nhau vài giờ đồng hồ, người ta sẵn sang bỏ ra hàng đống tiền để giết chết một con vật đã tồn tại và giúp con người cân bằng sinh thái mấy mươi năm. Không ai trả lời được là bữa nhậu giúp ích được gì và sự ích lợi này kéo dài được mấy năm.

Chung qui, để thoả mãn sự ham thích, lòng tham ngắn ngủi, con người đã bất chấp đánh đổi những gì vốn dĩ tồn tại lâu năm, có quan hệ mật thiết với đời sống của đồng loại cũng như đời sống của hành tinh này. Nhưng, ai đã đánh đổi?

Một người nghèo có đủ khả năng ốp trần nhà, ốp tường nhà, lót sàn nhà bằng gỗ quí, gỗ lâu năm? Một phó thường dân có đủ khả năng chi trả một bữa nhậu thịt rừng quí hiếm trong nhà hàng sang trọng? Không, chỉ có những quan chức, những triệu phú, tư bản đỏ mới đủ khả năng làm chuyện này!

Đến đây, không cần nói gì thêm, ngay cả bài học thời niên thiếu dưới mái trường Cộng sản xã hội chủ nghĩa về một đất nước “rừng vàng biển bạc…” cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đất nước khô kiệt tài nguyên, thú hoang tan loạn chạy và đụng chạm với con người như hiện tại.

Thiên nhiên đã nổi giận. Nhưng nổi giận với ai? Và ai đang hưởng thụ, ai đang trả giá cho việc hưởng thụ ngu xuẩn đó. Đã đến lúc cần phải trả lời rốt ráo và giải quyết triệt để câu hỏi này!

Lịch sử Ngày Lễ Tạ ơn

Lịch sử Ngày Lễ Tạ ơn

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng  

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Nhà  thám hiÃm Martin Frobisher

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước.

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh…

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng  ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Le premier repas de Thanksgiving (novembre 1621)

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) L ễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.

 

 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ)

8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

Anh chị Thụ Mai gởi

MỪNG CHÚA ĐẾN TRONG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ GIAO THÔNG CÔNG CỘNG

MỪNG CHÚA ĐẾN TRONG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ GIAO THÔNG CÔNG CỘNG

Tác giả: Lm. PX. Ng Hùng Oánh

Công đồng Vatican II dạy : (Quod ultra individualisticam ethicam progediendum sit)  Profunda  et velox rerum immutatio urgentius postulat ut nemo sit qui , ad rerum cursum non attendens vel inertia torpens , ethicae  mere individualisticae indulgeat. Iustitiae ac caritatis  officium  magis ac magis adimpletur per hoc quod unusquisque , ad bonum commune iuxta  proprias capacitates et aliorum necessitates conferens , etiam institutiones sive publicas sive privatas promovet et adiuvat quae hominum vitae conditionibus in melius mutandis inserviunt . Sunt autem qui , largas generosioresque opiniones profitentes , ita tamen semper reapse vivunt ac si nullam societatis necessitatum curam habeant. Immo plures , in variis regionibus , leges et praescriptiones sociales minimi faciunt . Non paucis , variis fraudibus ac dolis , iusta vectigalia vel lia quae societati debentur effugere non verentur . Alii normas quasdam vitae socialis ,e , gr, ad valetudinem tuendam , aut ad vehiculorum ductum moderantum statutas , parvi aestimant , non animadvertentes se tali incuria vitae suae et aliorum periculum in ferre. (Gaudium et Spes. 30)

(Cần vượt xa ra khỏi thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa ) Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý duy cá nhân mà không lưu tâm hoặc không màng chi  tới diễn tiến thời cuộc .Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn mỗi ngày một hơn là do mỗi người biết , tùy theo những khả năng của mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung, bằng cách cổ võ và trợ giúp những tổ chức công hay tư nhẳm cải thiện những điều kiện sống của con người . Lại có những  người ngoài miệng thì chủ trương rộng rãi và đại lượng , mà thực tế họ luôn luôn sống như là chẳng quan tâm gì tới những nhu cầu của xã hội . Hơn nữa tại nhiều nơi có nhiều người cỏn coi thường các luật lệ và những quy định của xã hội. Một số người không ngần ngại dùng những hình thức gian lận và lừa đảo để trốn những thuế vụ chính đáng hoặc trốn tránh những gì xã hội đòi buộc . Có người lại coi nhẹ một số luật lệ trong cuộc sóng xã hội , chẳng hạn những luật lệ liên đới tới bảo vể sức khỏe , hoặc việc xe cộ lưu thông , bởi vì họ không nhận thức rằng do bất cẩn như thế sẻ gây nguy hiểm cho tính mạng của họ và của những người khác (Bản dịch của Giáo hoàng học viện Pio X )

Những điều có thể thành tội do Công đồng nêu ra :

Người ta coi thường luật lệ liên quan tới sức khỏe như :

  1. Không giữ vệ sinh chung ( vứt vác ra đường, phóng uế ngoài đường..).
  2. Làm cho môi trường sống bị nhiễm độc ( xả rác độc ra sông,  vào không khí … )
  3. Ngay cả khi không chích thuốc ngừa bệnh để cho mình mắc bệnh làm cho người khác lây bệnh .

2. Người ta coi thường luật lệ giao thông công cộng như ;

a. Lái xe trái đường.

b. Lái xe vượt qua đèn đỏ .

c. Lái xe khi mình đang ngà ngà rượu .

Tất cả những điều nầy buộc đòi phải tránh, không phải chỉ tránh khi biết rõ sẽ gây ra tai nạn cho mình hoặc cho kẻ khác trong trường hợp cụ thể, dự đoán chắc chắn xảy ra, mà còn phải tránh trong trường hợp phỏng đoán nữa giống như phải tránh dịp tội gần mà còn phải tránh dịp tội xa, nhất là vì sự hữu ích  của luật lệ (vì sự hữu ích của luật lệ nên tôi phải giữ kể cả khi không có nguy cơ gần hoặc xa ).

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh