Một năm sau khi VN vào Hội đồng Nhân quyền: Tăng bắt bớ những người vô tội

Một năm sau khi VN vào Hội đồng Nhân quyền: Tăng bắt bớ những người vô tội

RFA

Nhà văn Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội

  • Quà Giáng sinh: bắt bớ người viết trung thực

“Cho đến thời điểm này, những  ngày cuối năm 2014, phải nói rằng còn rất nhiều tù nhân lương tâm đang phải chịu hành hạ, đày đọa, tra tấn đủ mọi kiểu. ..Và còn hằng lọat tù nhân khác mặc dù cho đến thời điểm này, nhà nứơc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết Công ứơc Chống Tra tấn với quốc tế rồi mà tình hình không có gì cải thiện hết. Đó là điều mà ai cũng thấy”.

Blogger Nguyễn Ngọc Già(được xác định là Nguyễn Đình Ngọc) đã xót xa về các tù nhân lương tâm cho đến những ngày cuối năm vẫn đang  bị giam cầm như vậy, trong bài trả lời phỏng vấn rfa.org ngày 22/12/2014. Về nhà văn Nguyễn Quang Lập mới bị bắt,  Nguyễn Ngọc Già cũng phản đối mạnh mẽ : “Điều gây xúc động lớn nhất đối với tôi, nguời theo dõi sát tình hình Việt Nam từ trước  đến nay, là chưa có một tù nhân lương tâm nào bị bắt vào lúc mà chính bản thân nguời đó đang bị ‘bán thân bất tọai’ như thế”.

Và rồi chỉ vài ngày sau, Nguyễn Ngọc Già đã bị bắt. Chính anh cũng phải nhập dòng nạn nhân vô tội bị chế độ độc tài VN  đày đọa trong tù.

Tỏ rõ sự bất chấp trước Hiến pháp quy định về quyền công dân, những cam kết quốc tế mà VN đã ký  và dư luận phản đối, bắt  Nguyễn Ngọc Già vào  ngày 27/12/2014, nhà chức trách đã chứng tỏ thêm thái độ “sắt máu” với những người bày tỏ chính kiến.

Một điều khiến người ta khâm phục và biết ơn  Nguyễn Ngọc Già là dù đã hình dung rất rõ ràng những hiểm nguy khi viết và nói lên sự thật, khi đứng về phía quyền lợi của đất nước và người dân VN nhưng anh vẫn tiếp tục con đường của mình và không hề nao núng trước đe dọa:

Hãy bỏ mặc những lời dèm xiểm và chọc ngoáy, nếu bạn viết từ óc và từ tim của chính bạn – viết cho dân oan, tù oan. Viết cho thế hệ trẻ và viết cho ngay chính người CS dưới mọi lớp áo hiểu rằng: Việt Nam này không của riêng ai. Chính vì thế người CS hãy dừng tay cướp đoạt của chúng tôi, của chúng ta và của tất cả người Việt Nam trên toàn cầu.

Người CS hãy dừng tay cướp đoạt tất cả mọi loại tài sản của người Việt Nam trước khi quá muộn! Ngược lại, họ sẽ phải trả giá. Không lâu nữa đâu – một niềm tin có căn cứ khoa học.”

Chính kiến rất rõ ràng nhưng Nguyễn Ngọc Già không vi phạm pháp luật. Trước sau, blogger này vẫn chủ trương cải thiện xã hội, thể chế bằng biện pháp ôn hòa, bất bạo động”:

“Hiện nay có khỏang 20 tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, nhưng tôi chưa nghĩ đến ‘đòan kết’ vì đòan kết là một chương trình khoa học, chứ không phải gọi lên ‘khơi khơi’, ai cũng gọi được vì sẽ trở nên ‘coi thường’ và hạ thấp chữ ‘đòan kết’. Mà trứơc tiên tôi cho rằng phải ‘liên kết’ 20 hội đòan đó. Có liên kết được một cách chặt chẽ thì tạo dần niềm tin lẫn nhau. Đó là điều mà 20 tổ chức xã hội dân sự đó nên nghĩ tới. Đứng kêu gọi đòan kết trong lúc này mà hãy liên kết chặt chẽ trong khoa học bằng những chương trình, mục tiêu công khai, ôn hòa, bất bạo động’…

Nhưng sự vô tội của công dân VN đã tỏ ra chẳng có giá trị gì trước bộ máy đàn áp nhân quyền và tự do ngôn luận của người dân VN.

  • Sự đổi giọng  và âm hưởng Cách mạng Văn hóa

Ngược với cam kết cải cách thể chế của nhà cầm quyền VN đưa ra vào tháng 1/2014, Giáng sinh 2014 và Năm mới 2015 đến trong tiếng gọi xé lòng của dân oan, trong những cuộc bắt bớ, khủng bố tăng cường những tù nhân lương tâm.

Có thể nói những ngày cuối năm 2014 đã in dấu những vết đen trong lịch sử  của nhà cầm quyền VN khi họ đã bất chấp thể diện của một chính thể khổng lồ lại đi  “bắt quả tang một nhà văn đang viết văn…”, giam cầm nhà văn  ôn hòa – blogger Nguyễn Quang Lập đã bị liệt nửa người, bị bệnh hiểm nghèo trong tù ngục.

Và nơi nơi tại VN ngày càng thêm nhiều cái chết tức tưởi của người dân mới bị bắt vào đồn công an mà theo chứng cứ hiển hiện và sự tố cáo của gia đình nạn nhân cùng nhiều luật sư thì đó là những cái chết do tra tấn, bức cung và nhục hình chứ không phải là tự sát. Chưa kể có rất nhiều án tử đã được tuyên một cách tàn nhẫn và oan trái do không đủ chứng cứ, do bức cung và nhục hình bởi quyền lợi của một ai đó trong bộ máy quyền lực hoặc do thành tích, hoặc do “nén bạc đâm toạc tờ giấy”…

Bên cạnh việc tăng cường bắt bớ các blogger, điều khiến người đọc ngỡ ngàng là trên  trang web mang  tên một số  vị  lãnh đạo cao nhất xưa nay vẫn giương cao khẩu hiệu “lắng nghe tiếng nói phản biện”, “chống tham nhũng”, “cải cách thể chế….”.. thì nay lại đăng những loạt bài mang tính đe dọa và lăng mạ những công dân trung thực,  vô tội, xưa nay có phát biểu hoặc viết ra những ý kiến phản biện cũng chỉ vì lợi ích của đất nước.

Những trang web này đã  nêu đích danh những blogger và trí thức bất đồng chính kiến  như Phạm Chí Dũng; Đinh Kim Phúc; Nguyễn Thị Từ Huy; Nguyễn Tường Thụy; Nguyễn Xuân Diện; Nguyễn Hồ Nhật Thành; Hà Sĩ Phu; Nguyên Ngọc; Nguyễn Quang A; Bùi Chát; Bùi Minh Quốc; Chu Hảo; Huỳnh Kim Báu; Phạm Đình Trọng; Phan Thị Hoàng Oanh…và một số người khác là  “có tư tưởng chống đối ngông cuồng”và  đe dọa sẽ bắt giam họ. Một loạt bài với những tiêu đề gây sốc: “Những kẻ phá hoại đội lốt nhà dân chủ sẽ sa lưới pháp luật”, “Hồi chuông cảnh tỉnh cho những kẻ mang tư tưởng phá hoại”, “Kẻ nối gót sẽ bị pháp luật trừng trị”…”Đập tan âm mưu đen tối chống phá Đảng và Nhà nước của các đối tượng chống đối”…

Và họ kết luận : “Đây là âm mưu hoạt động của các đối tượng và tổ chức chính trị phản động rất nguy hiểm đi từ bất bạo động đến công khai chống đối chính quyền và cuối cùng là thay đổi chế độ”.

Công dân chỉ phát biểu chính kiến của mình một cách ôn hòa, chống tham nhũng, bảo vệ chủ quyền đất nước, bênh vực dân oan, đề nghị cải cách thể chế theo kêu gọi của nhà cầm quyền, mà bị quy chụp, khủng bố đến mức ấy sao?!

Một điều khiến cho người ta không thể không sốc là giọng điệu nói trên bỗng mang hơi hướng quy chụp của thời Cải cách ruộng đất ở VN, giọng điệu Hồng vệ binh của thời Cách mạng văn hóa và Đại nhẩy vọt của Trung quốc những năm trước đây.

Tưởng đã xa lắm rồi, thời người ta thực hành những tội ác chống lại nhân loại. Thời điểm mù lòa của những người nhân danh quyền lợi của nhân dân để quy tội cho bất kỳ ai đó là địa chủ, là phản động …để khiến cho con phải đi đổ tội cho cha, vợ đấu tố chồng hòng sống sót. Cái thời những người đã từng nhịn ăn giúp cách mạng và thành lập những chi bộ cộng sản đầu tiên cũng bị đồng chí búa liểm của mình đổ tội và mang ra đập đầu phọt óc chết giữa ruộng mạ,  bất kể tòa án và công lý.

Tưởng như nghe trong không trung tiếng rên xiết chói óc của mấy chục triệu người chết dưới bàn tay của Mao và “bè lũ bốn tên”. Những cách chụp mũ, đổ tội cho bất kỳ ai đã là công cụ để hãm hại, tàn sát người trí thức, nhà văn và người dân Trung quốc. Những người này bị giết chết  bởi chính tay đồng bào đồng chí của mình và chết đói dưới thời Cách mạng Văn hóa và Đại nhẩy vọt…

Các nhà cầm quyền Việt Nam! Hãy tỉnh ngộ! Bởi vì nếu tiếp tục giọng điệu này trên những cách chỉ đạo và tuyên truyền của các vị, thì rất nguy hiểm. Không có gì để đảm bảo rằng cung cách này nếu đi tiếp thì sẽ không đẩy VN đến ngày tái diễn thảm họa huynh đệ tương tàn, một cuộc khủng bố và giết chóc giữa người VN với nhau như trong lịch sử đã từng diễn ra và kéo lùi lịch sử VN trở về thời Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm tàn bạo và mông muội.

Vì ai cũng biết rằng, quyền lực và tài sản vốn rất mong manh, lại càng mong manh hơn trong  không khí mông muội và huynh đệ tương tàn. Vệt chết của Cách mạng Văn hóa, Cải cách ruộng đất, Đại nhẩy vọt cho tới Khơ me Đỏ là những thí dụ còn tươi rói. Đó là một vệt đỏ khiến loài người ghê sợ và dùng đủ mọi cách để ngăn chặn. Các đồng chí trong vệt đỏ đó đã làm những gì với nhau và người dân của họ, là một thí dụ được tạc bởi núi xương sông máu.

Thời thế đã khác xưa rồi. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, loài người đã khôn ngoan hơn, biết vì nhau hơn và có những công cụ tốt hơn để tự vệ trước sự đàn áp dân chủ và nhân quyền./.

VTH

Ăn Mày, Ăn Bẩn & Ăn Cướp

Ăn Mày, Ăn Bẩn & Ăn Cướp

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

“Mục tiêu đến năm 2010 giải quyết cơ bản không còn người lang thang xin ăn ở TP.”

Nguyễn Văn Xê – Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH

Ngày 22 tháng 12 năm 2014, báo Tuổi Trẻ hân hoan đăng lời “kêu gọi người dân không cho tiền người ăn xin,” cùng với một kế hoạch rất hoành tráng và (xem chừng) quyết liệt của UBND TP.HCM:

“Kể từ ngày 28-12, TP.HCM sẽ bắt đầu đưa những người ăn xin, người sống nơi công cộng không có nơi cư trú nhất định vào các cơ sở xã hội…

Trung tâm hỗ trợ xã hội được giao nhiệm vụ tăng cường khảo sát, phối hợp với các lực lượng công an, thanh niên xung phong, các đoàn thể… tập trung người lang thang về các cơ sở xã hội.

Đường dây nóng của trung tâm sẽ trực 24/24g để tiếp nhận thông tin về người lang thang trên địa bàn TP…

Người nào bị đưa vào Trung tâm hỗ trợ xã hội từ lần thứ hai trở lên thì trung tâm tiếp nhận nuôi dưỡng. Tại đây, các đối tượng được học văn hóa, học nghề và giới thiệu việc làm. Người nước ngoài lang thang xin ăn sẽ được đưa về nước theo quy định…

Việc giải quyết tình trạng người xin ăn lang thang phải được giải quyết theo hướng căn bản, thiết thực và bền vững.”

Mấy bữa sau, cũng báo Tuổi Trẻ buồn rầu cho biết: “Người ăn xin vẫn đầy đường Sài Gòn ngày đầu năm.”

Hình chụp tại góc đường 3-2 và đường Lý Thường Kiệt lúc 10g trưa 1-1-2015, bà cụ ngồi ngay giữa trời nắng nóng – Ảnh và chú thích: T.T.N.Đ

Đây không phải là lần đầu tiên “đám ăn mày” hay “tụi ăn xin” đã “làm phiền” công luận. Nhiều năm trước, chính xác là vào ngày 7 tháng 7 năm 2009, báo Pháp Luật cũng đã có lời kêu gọi (thiết tha) tương tự, cùng với nhiều kế hoạch quyết liệt không kém:

“Dự kiến từ tháng 7-2009, các quận, huyện phải đưa nội dung phát động không cho tiền người ăn xin sống lang thang nơi công cộng vào buổi họp tổ dân phố, khu phố.

Ông Nguyễn Văn Xê, Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH, cho rằng để giải quyết tình trạng lang thang xin ăn cần rà soát khu vực, tuyến đường trọng điểm, phân rõ trách nhiệm của quận, huyện, không để trách nhiệm chung chung như hiện nay. Có như thế mới mong thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 giải quyết cơ bản không còn người lang thang xin ăn ở TP.”

Về  “mục tiêu cơ bản” này (hồi đó) ở trong nước, đã có vị độc giả nhận xét như sau:

“Thôi nói thẳng ra là thế này. Mới đây, UBND TPHCM đã chỉ đạo tăng cường vận động nhân dân không cho tiền trực tiếp các ‘đối tượng’ lang thang, ăn xin trên đường phố. Mà cái chỉ đạo này thì thật ra có từ năm 2003 rồi. Nay thì quyết liệt làm lại…”

Không phải từ năm 2003 đâu mà trước nữa lâu lắm lận, theo lời của nhà báo Văn Lang:

40 năm qua, biết bao nhiêu lần họ mở chiến dịch “thu gom” mà đâu vẫn hoàn đấy, là vì nước nghèo thì ăn mày – ăn xin vẫn cứ tiếp tục sản sinh ra, đem “giấu” đi đâu cho hết?”

Những người vô gia cư ngủ ở trạm xe buýt ở Sài Gòn. Ảnh: Văn Lang/Người Việt

Sở dĩ cứ phải mở “chiến dịch thu gom” rồi “quyết liệt làm lại” hoài hoài chỉ vì cách “làm sạch” đường phố, theo kiểu “quét” hết ăn xin, của UBND TPHCM đã đi ngược … qui trình: đó là cách quét rác cầu thang bắt đầu từ bậc thấp nhất.

Tại sao cứ chăm chăm lo hốt đám ăn mày mà lại dung túng và bao che cho bọn ăn bẩn. Bọn này ăn tất tần tật. “Ăn của dân không từ một cái gì” nên mới đẩy không ít nạn nhân của chúng vào cảnh phải ăn mày.

Xin đan cử một thí dụ (ngay) trong địa bàn thành phố:

Ngày 8 tháng 8 năm 2010, luật sư Cù Huy Hà Vũ đã nộp  đơn “tố cáo và yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự và đưa ra vành móng ngựa tên Lê Thanh Hải, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và đồng bọn do đã đập nhà, cướp đất ở của bà Dương Thị Kính, thân nhân của Ba Liệt sĩ, tại 255/6/27 Ngô Tất Tố, phường 22 quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.”

Đây là một lời tố cáo vô cùng nghiêm trọng nhưng người bị đưa ra trước vành móng ngựa lại không phải là ông UVBCT Lê Thanh Hải (và đồng bọn) mà lại là chính L.S. Cù Huy Hà Vũ với “tội tuyên truyền chống nhà nước,” cùng bản án bảy năm tù giam và ba năm quản chế.

Vụ Án Hai Bao Cao Xu Đã Qua Sử Dụng (theo như cách gọi của dân gian) chung cuộc đã trở thành một màn hài kịch vô duyên và lố bịch. Nó đã không cứu vãn được “thanh danh” cho ông Lê Thanh Hải (đã đành) mà còn khiến cho đương sự trông càng bẩn thỉu hơn.

Câu hỏi đặt ra là đã có bao nhiêu vụ cướp đất tương tự đã xẩy ra ở Sài Gòn, và có bao nhiêu người dân đã trở nên trắng tay rồi buộc phải ngửa tay ăn xin (hay ăn mày) sau những chuyện ăn bẩn như vậy của đám quan chức ở thành phố này?

Trên phạm vi toàn quốc thì có vô số những quan chức cũng đã ăn bẩn hay ăn cướp (giữa ban ngày) y như thế. Chỉ xin nhắc đến hai vị đang được công luận quan tâm (ông Trần Văn Truyền và ông Nguyễn Xuân Phúc) theo như thông tin đọc được trên trang Dân Luận:

“Ông Trần Văn Truyền sở hữu căn biệt thự cùng 4 căn nhà gỗ đặc biệt ở xứ tỉnh Bến Tre, rộng trên 16.000m2 ước tính 24 tỷ riêng tiền đất; 1 căn nhà 300m2 được cấp hồi làm bí thư tỉnh ủy; 1 nhà 200m2 trước cổng chùa Bạch Vân; 3 cơ ngơi ở khu đô thị 5 sao Phú Mỹ Hưng, TP Hồ Chí Minh, do người thân quản lí.

Nhà đất có liên quan đến ông Trần Văn Truyền ước tính trị giá chưa tới 100 tỷ… Còn khối bất động sản của Phó Thủ tướng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc thì lại ở đẳng cấp quốc tế ước tính nhiều nghìn tỷ mà ông Truyền khó có thể so sánh:

Tài sản (tính theo bất động sản) của ông Trần Văn Truyền xem ra vẫn còn khiêm tốn lắm lắm so với khối bất động sản nhiều nghìn tỷ của Phó Thủ tướng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc.

Dù sao thì ông Trần Văn Truyền cũng đã nghỉ hưu, mối họa ông để lại cho nhân dân cũng không lớn lắm nhưng còn ông Phó Thủ tướng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc thì vẫn còn đang đương chức và có khả năng tiến xa hơn nữa … Đây mới là thực sự là nhân tố hút cạn máu Nhân dân …”

Cán bộ Đảng thi nhau “hút cạn máu” thiên hạ thì nhân dân, những kẻ sống trong “thiên đàng của bọn tham nhũng,” tránh sao được cảnh ăn mày?

Đó mới là chuyện ở bình diện cá nhân của một “bộ phận không nhỏ những cán bộ biến chất,” hay còn gọi (theo ngôn ngữ đương đại) là những “bầy sâu,” đang ngày đêm (ngoem ngoém) đục khoét tài sản quốc gia.

Ở bình diện thể chế thì những đường lối và chính sách cướp ngày của Đảng và Nhà Nước (CCRĐ, Hợp Tác Hoá Nông Nghiệp, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Kiểm Kê Tài Sản, Đổi Tiền, Thu Hồi Đất Đai …) đã “sản xuất” ra vô số ăn xin. Đó là chưa kể không ít những chủ trương lớn (Kinh Tế Quốc Doanh Chủ Đạo, Vinashin, Bauxite…) không ngừng đưa cả đất nước và dân tộc đến mức bần cùng.

Hãy đọc qua vài tiêu đề trên cùng một tờ báo, báo Pháp Luật:

Gia cảnh cơ cực của hai cụ già 10 năm xích chân con

Đắng lòng gia cảnh thanh niên nhặt rác chết cóng

Rơi nước mắt cảnh mẹ già nuôi 3 con bị tâm thần

Cha già bươn chải nuôi 2 con tâm thần

Bên dưới những bài viết thương tâm này thường có đôi dòng viết phụ:

Mọi sự giúp đỡ của những tấm lòng hảo tâm xin gửi về địa chỉ:

– Cụ Nguyễn Văn Thân

Xóm 2, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Báo Đời sống & Pháp luật tại Miền Trung

Số 03, Đại lộ Lê Nin, TP Vinh – Nghệ An; ĐT/Fax: 038.8601010;

Số tài khoản: 0191012468008, Ngân hàng Bảo Việt Nghệ An, chủ tài khoản: Báo Đời sống & Pháp luật tại Miền Trung.

Mỗi tuần tôi nhận được qua bưu điện bốn tờ tuần báo: Sống (phát hành từ Westminster, California) Thời Báo (Cheektowaga, New York) Trẻ (Dallas, Texas) và Việt Tribune (San Jose, California). Trừ tờ cuối cùng, ba tờ còn lại đều có mục “Những Tấm Lòng Vàng” hay “Trang Tương Trợ” với tên tuổi, địa chỉ, và hình ảnh những đồng bào đang lâm trọng bệnh hay rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát – ở quê nhà – cùng với lời kêu gọi xin độc giả hảo tâm giúp đỡ.

Sống trong một đất nước không có mạng lưới an sinh xã hội để nâng đỡ những người neo đơn, thất thế, già yếu, bệnh tật .. thì người dân còn biết trông chờ và đâu – ngoài lòng hảo tâm của tha nhân. Chớ không ngửa tay xin thì biết làm sao khác.

Sự giúp đỡ không chỉ giới hạn ở mức độ cá nhân.  Thử “google” vài cụm từ, như  “giúp đỡ xây cầu” (chả hạn) trong vòng năm mươi giây sẽ thấy hơn chục ngàn “kết quả” – đại loại như:

Nhóm Việt kiều xây hơn 100 chiếc cầu cho quê hương

Bạn đọc Dân trí ủng hộ xây cầu Dân trí ở Quảng Bình gần 1,3 tỷ đồng

Độc giả VnExpress quyên góp xây cầu vượt sông Pôkô

Cầu treo ở Khánh Hòa. Ảnh Nguyễn Thành Chung. Nguồn: Dân Trí

Một cá nhân, một gia đình, hoặc ngay cả một tập thể người (đôi lúc) cũng cần đến sự trợ giúp khi hoạn nạn nhưng một quốc gia thì không thể theo đuổi chính sách sống nhờ vào lòng từ thiện, vào kiều hối, hay vay vốn ODA nước ngoài – mãi mãi – như vậy được.

Vậy mà đây lại là một trong những chủ trương và chính sách (lớn) của Đảng và Nhà Nước, theo như nhận định của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói ‘Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày’. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.

Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54%, nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD.”

Vừa mở mắt chào đời đã mang một đống nợ nần, rồi lớn lên trong một xứ sở “chuyên xin xỏ” thì thế hệ tương lai e (lại) cũng sẽ lâm vào cảnh ăn mày thôi – nếu chế độ hiện hành vẫn còn tồn tại.

NHỮNG CÂU NÓI ĐÁNG SUY NGẪM

NHỮNG CÂU NÓI ĐÁNG SUY NGẪM

1. Cầu nguyện không phải là “bánh xe dự phòng” để lấy ra khi gặp khó khăn, nhưng là “tay lái” để lái đi đúng đường suốt cuộc tạm hành trên trái đất nầy.

2. Tại sao xe hơi có KIẾNG TRƯỚC lớn hơn nhiều so với KIẾNG CHIẾU HẬU? Vì QUÁ KHỨ của chúng ta không quan trọng so với TƯƠNG LAI. Vậy, hãy nhìn thẳng phía trước và đi tới.

3. Tình bạn như một QUYỂN SÁCH. Chỉ cần vài phút để đốt đi, nhưng cần vài năm để viết.

4. Tất cả những điều mình có trong đời sống nầy đều tạm bợ. Nếu được hạnh thông, hãy vui hưởng, vì nó sẽ chóng qua. Nếu không thuận lợi, cũng đừng lo lắng, vì nó cũng sẽ không kéo dài.

5. Thường khi ta mất hy vọng và nghĩ đây là đoạn cuối đường, THƯỢNG ĐẾ ở trên cao cười và nói: “Hãy thư giãn, con yêu của ta, đó chỉ là khúc quanh, chứ không phải là đường cùng.”

6. Khi Thượng Đế giải quyết những vấn đề của ta, ta đặt niềm tin nơi Ngài. Khi Thượng Đế không giải quyết những vấn đề của ta, Ngài đặt niềm tin vào khả năng của ta.

7. Một người mù hỏi thánh Anthony: “Có thể còn điều nào khổ hơn là bị mù không?” Thánh trả lời: “Có, lúc ngươi mất định hướng!”

8. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, Thượng Đế lắng nghe và ban phước cho người đó, và đôi khi chúng ta bình an, hạnh phúc, hãy nhớ rằng một người nào đó đã cầu nguyện cho ta.

9. Sự LO LẮNG không dẹp bỏ được sự KHÓ KHĂN ngày mai. Nhưng nó lấy đi sự BÌNH AN của hiện tại.

(Sưu tầm)

Photo: ĐÔI TAI CỦA TÂM HỒN    Một cô bé vừa gầy vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng chỉ tại cô bé ấy lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn, vừa cũ lại vừa rộng nữa.     Cô bé buồn tủi ngồi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ, tại sao mình lại không được hát? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao? Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.

ĐÔI TAI CỦA TÂM HỒN

Một cô bé vừa gầy vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng chỉ tại cô bé ấy lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn, vừa cũ lại vừa rộng nữa.

Cô bé buồn tủi ngồi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ, tại sao mình lại không được hát? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao? Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.

“Cháu hát hay quá!’.
Một giọng nói vang lên: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ, cháu đã cho ta cả một buổi chiều thật vui vẻ”. Cô bé ngẩn người. Người vừa khen cô bé là một ông cụ tóc bạc trắng. Ông cụ nói xong liền đứng dậy và chậm rãi bước đi.

Hôm sau, khi cô bé tới công viên đã thấy ông già ngồi ở chiếc ghế đá hôm trước, khuôn mặt hiền từ mỉm cười chào cô bé. Cô bé lại hát, cụ già vẫn chăm chú lắng nghe. Ông vỗ tay nói lớn: “Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ của ta, cháu hát hay quá!” Nói xong cụ già lại chậm rãi một mình bước đi.

Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, cô bé giờ đây đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Cô gái vẫn không quên cụ già ngồi tựa lưng vào thành ghế đá trong công viên nghe cô hát. Một buổi chiều mùa đông, cô đến công viên tìm cụ nhưng ở đó chỉ còn lại chiếc ghế đá trống không.

Hỏi một người làm trong công viên, cô nghe được câu trả lời:
“Cụ già ấy đã qua đời rồi. Cụ ấy điếc đã hơn 20 năm nay.”

(Sưu tầm)

TrueMove H : Giving

TrueMove H : Giving

httpv://www.youtube.com/watch?list=PLgasypGCGRsSJ2XOegoIAFIF9Aohg_8Nb&v=7s22HX18wDY

Phim “Cho Đi” làm hằng triệu người chảy nước mắt.

Dài chỉ có ba phút, mà Phim “Giving” (Cho Đi) làm hằng triệu người chảy nước mắt.

”Đoạn phim” ấy do Công Ty Viễn Thông TrueMoveH, Thái Lan, sản xuất.

Sau một tuần, tức vào ngày 11.9.2013, phim được năm triệu người xem.

Chuyện phim:

Cậu bé nọ ăn cắp chai thuốc trị bệnh. Bà chủ tiệm giựt lại chai thuốc và chửi mắng cậu ta xối xả.

Có người đàn ông, là chủ quán ăn, động lòng thương, liền chạy ra, hỏi cậu để biết rõ sự việc.

Khi hay rằng cậu bé ăn cắp chai thuốc vì mẹ của cậu đang bệnh nặng, ông chủ quán ăn liền trả tiền cho bà chủ tiệm thuốc, rồi tặng cậu bé chai thuốc ấy và còn bảo con gái của ông mang cho cậu bé ít thức ăn.

Ba mươi năm sau, người-đàn-ông-tốt-bụng-xưa-kia vẫn còn là chủ quán ăn cùng cô con gái đã lớn.

Ngày nọ, ông bị đột quỵ và phải nhập viện. Muốn chạy chữa thì ông ta phải trả số tiền quá lớn!

Cô con gái tính đến chuyện bán quán ăn…

Nào ai ngờ rằng ”cậu-bé-ăn-trộm-năm-xưa” giờ là bác sỹ tình cờ tiếp nhận bệnh nhân là ân nhân của mình.

Với lòng biết ơn, ”ông-bác-sỹ-chịu-ơn” quyết tâm chữa trị cho ân nhân, mà không để ông ta phải trả tiền bởi vì “Viện-phí-của-người-đàn-ông-ngày-hôm-nay đã được trả trước cách đây ba mươi năm!!!”

từ: http://baomai.blogspot.com/2013/09/bm-phim-cho-i-lam-hang-trieu-nguoi-chay.html

Thằng nhỏ cầm cái lon …

Thằng nhỏ cầm cái lon …

image

Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn.

Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?

image

Note: hình trong bài này là minh họa

Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

– “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”

Tôi hỏi tiếp:

– “Còn con có đi học không ?”

Thằng bé nói:

– “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”…

Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nữa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.

Có lần thằng bé hỏi tôi:

– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ” Chú đang làm thinh”.

image

Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cữ sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chỗ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ.

Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nẫy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

image

Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn. Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau này nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó.

Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.

image

Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.

Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lỗi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé “…

http://baomai.blogspot.com/

Đời nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.

Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

Minh Tạo

Đứa con của biển Đông.

Đứa con của biển Đông.

Đây là câu chuyện có thật được cha Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời năm 2002.

Giao Chỉ, San Jose đặt lại tựa đề và chuyển tiếp từ internet. Bài này phổ biến cách đây hơn 10 năm. Lịch sử Thuyền Nhân Việt Nam trên biển Đông suốt 20 năm từ 1975 đến 1995 với 1 triệu người đến bến tự do và một phần tư là thảm kịch. Sóng gió tầu chìm chết ngay lại là những cái chết hạnh phúc. Năm mười lần hải tặc là bi kịch hãi hùng. Bị bắt giữ trên hoang đảo là những ngày dài thảm khốc. Đau thương hơn cả là những em bé gái bất hạnh bị bắt có thể vẫn còn sống trong các nhà chứa bên Thái Lan. Nhưng câu chuyện này là một phép lạ viết về đứa con của biển Đông 3 tuổi. Câu chuyện liên quan đến 3 bà mẹ. Bà mẹ Việt Nam, bà mẹ Tàu và đức mẹ Teresa. Cha của đứa bé là ông Việt Nam ngồi lặng thinh tráng bánh trong trại chuyển tiếp trên đất Phi, ba tháng góp được 20 Mỹ kim gửi cho vợ con bên trại Hồng Kông. Giấc mơ vô vọng của ông là tìm lại đứa con trai 3 tuổi bị bắt đi đang lưu lạc trong số hàng tỷ dân Tàu. Chúng ta có 40 năm trôi nổi trên thế giới và hiện đã an cư lạc nghiệp. Xin ngồi xuống đây nghe cha Tầm Thường kể chuyện về đứa con của biển Đông. Xin linh mục tác giả vui lòng liên lạc với chúng tôi, Viện bảo tàng Thuyền Nhân tại San Jose. Ai biết gia đình này hiện ở đâu, xin cho chúng tôi biết.  (giaochi12@gmail.com) Sau đây là nguyên văn câu chuyện.

(Linh mục Nguyễn Tầm Thường) Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu…

Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ta ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiềnPhilippines.

Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông này lại phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, phần ông lo tráng bánh. Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ. Cha già Crawford người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào,. Phần ông Việt Nam rời cửa biển Cam Ranh ngày 2/9/1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót.

Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này. Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn đường sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không hy sinh đứa bé, toàn ghe có thể chết.

Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ?

Vợ chồng mỗi người một ngả. Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi. Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha M ỹ gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào tìm cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già Mỹ nghe chuyện mất con. Phần tôi, tác giả bài này kể tiếp….Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện.

Câu chuyện bắt đầu về chuyến đi sau của vợ con.

Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển nhưng hơn ba tháng sau nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.

Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Tiếp theo là câu chuyện mất đứa con trai. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông.. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ. Không nghe ông oán trách sao vợ lại bỏ con của ông. Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán. Bao giờ ông mới được định cư ? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước ? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm ? Bao nhiêu khó khăn tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.

– Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong ?

Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha Mỹ già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu bốn phương…

Những lá thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Tỵ Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand.

Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh. Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và vẳng nghe có tiếng chuông mỗi chiều.

Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ đi từ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến.. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.

Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé. Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam. Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền sinh hoạt trong gia đình Tàu Hải Nam. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.

Ðể thỏa mãn điều kiện, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui đến như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng, không tin chuyện có thể xảy ra như thế. Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không nhận mình. Tất cả ai cũng khóc. Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm của con người với con người.

Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết hết để bịt miệng. Ðối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm ?

Ðây là lý do:

Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế..

Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa.

Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:

– Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.

Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. ….

Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.

Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.

Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia.

Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.

Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất.

Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác. Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.

Khi tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.

Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết , còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ ?

Người nghèo phải chết

Người nghèo phải chết

VienDongDaily.Com

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Đây là tiêu đề của một người dân, bạn Lê Phương đăng trên báo Người Lao Động ngày 5 tháng Một, 2015 vừa qua. Bài này phát xuất do một số quy định có hiệu lực từ đầu năm nay. Trong đó quy định về cắt giảm việc trả chi phí cho các loại thuốc có chi phí cao với những bệnh nhân có bảo hiểm y tế làm dấy lên một luồng dư luận vô cùng hoang mang lo ngại cho hầu hết những gia đình nghèo.
Quy định này của Bộ Y Tế VN có nhiều chi tiết nhưng có thể tóm tắt vài điểm chính:
Từ ngày 1/1/2015, một số thuốc ung thư mới, chi phí cao sẽ chỉ được quỹ bảo hiểm chi trả 50% thay vì 100% như trước đây, hoặc không được chi trả.
Bộ Y Tế vừa ban hành danh mục thuốc tân dược được Quỹ Bảo Hiểm Y Tế (BHYT) chi trả, gồm 845 hoạt chất, 1,064 thuốc tân dược; giảm cả về số lượng hoạt chất và thuốc được chi trả so với danh mục hiện nay. Danh mục thuốc được BHYT chi trả hiện hành có 900 hoạt chất với 1,143 thuốc.
Ông Phạm Lương Sơn, trưởng ban thực hiện chính sách BHYT, Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam cho biết, danh mục thuốc BHYT lần này có tổng số lượng thuốc ít hơn vì bỏ bớt một số loại.
Số thuốc bị giảm chi từ quỹ gồm 4 loại, giảm từ chi trả 100% chi phí xuống còn 30-50%. Đây đều là các thuốc giá rất cao mà hiệu quả điều trị chưa được chứng minh rõ ràng. Trong số này có thuốc điều trị viêm gan siêu vi C phải giảm chi từ 100% xuống còn 30%. Ước tính nếu dùng thuốc này phải mất 90,000 tỷ đồng mỗi năm để chi cho đủ nhu cầu điều trị của bệnh nhân, trong khi thu quỹ cả năm 2014 mới được khoảng 53,000 tỷ đồng. Sắp tới Bộ Y tế sẽ ban hành tiếp danh mục thuốc Đông y được quỹ bảo hiểm thanh toán.

Tại sao người nghèo phải chết?

Không phải tất cả bệnh nhân đang dùng thuốc mới, giá cao đều có thể đổi sang dùng thuốc thông thường. Vì thế, với không ít người mắc bệnh hiểm nghèo, sự thay đổi này thực sự là một gánh nặng. Bởi nếu không được chữa trị với những loại thuốc thường dùng họ sẽ phải chết. Mời bạn đọc bài “tâm sự” của người dân.
– Bạn Lê Phương viết: “Tôi nhớ một bác già nằm vắt tay lên trán, chép miệng: “Mấy ổng ban hành chính sách như vậy chẳng khác nào ép người nghèo phải chết”.
Ba tôi nghỉ hưu đã 6 năm. Chưa kịp an hưởng tuổi già bên con cháu thì ông mắc phải căn bệnh quái ác: ung thư gan. Sau 2 lần phẫu thuật rồi hóa trị, xạ trị bệnh tình vẫn không thuyên giảm.
May mắn thay, gần đây bệnh viện thay đổi phác đồ điều trị và hiệu quả thấy rõ. Ba tôi đã ăn được, ngủ được, da dẻ hồng hào, khối u gom lại còn bằng 1/2 lúc trước.
Nếu không có bảo hiểm y tế chi trả các khoản chi phí điều trị căn bệnh hiểm nghèo này, ba tôi chắc đã theo ông, theo bà.

Tổng Cục Hải quan vừa bắt 1 lô hàng thiết bị y tế quá đát nhập vào Việt Nam. (Báo Tiền Phong)
Ấy vậy mà ngay trong Đêm Giáng sinh an lành, ba tôi nhận được tin sét đánh: Từ ngày 1-1-2015, loại thuốc đang điều trị cho ba tôi nằm trong danh sách 28 loại thuốc mới, đắt tiền sẽ thay đổi phương thức chi trả từ bảo hiểm y tế. Thay vì được thanh toán 100% như trước thì nay chỉ được chi trả tối đa 50%.
Hay tin này, ngay tối đó ba tôi đã không ăn uống rồi không ngủ được. Hôm sau ông bảo mẹ tôi về lấy quyển sổ tiết kiệm đem vào bệnh viện cho ông kiểm tra. Sau gần 40 năm làm việc, cống hiến, ba tôi dành dụm được 500 triệu đồng. Đây là khoản tiền “dưỡng già” như cách ba tôi hay nói vui.
Ông bảo: “Tao với mẹ mày có lương hưu, có bảo hiểm y tế; tụi bây khỏi lo. Tiền tiết kiệm này thì để dành đi du lịch và lo hậu sự”. Đó là nói chuyện trước kia, còn từ khi phát hiện bệnh hiểm nghèo, ba tôi không còn lạc quan như trước. Ông luôn miệng nói: “May mà có bảo hiểm y tế, nếu không chắc chỉ còn biết nằm chờ chết chứ tiền đâu mà chữa trị? Bởi vậy người ta mới gọi là bệnh nan y…”.
Ấy vậy mà mấy hôm nay niềm hi vọng sống vốn đã mong manh của ba tôi lại càng lay lắt như ngọn đèn trước gió. Ông nói quả quyết: “Nằm bệnh viện tới 31-12 thì về. Trước sau gì cũng chết, tốn kém làm gì?”. Ông không chỉ quyết định như vậy mà còn “rủ rê” mấy người bạn chung phòng “về nhà chờ chết”. Tôi nhìn hoàn cảnh của những người kia mà không khỏi áy náy trong lòng.
Họ đều là người hưởng lương hưu, là dân nghèo hoặc cận nghèo. Tiền mua thẻ bảo hiểm y tế phải trông chờ nhà nước hỗ trợ, vậy thì lấy đâu để “đồng chi trả” một khoản chi phí cao ngất ngưởng như vậy?
Chợt nhớ mục đích của chính sách bảo hiểm y tế là “người khỏe san sẻ cho người bệnh”. Những năm qua, hẳn là số người khỏe lớn hơn người bệnh gấp nhiều lần nên mới có khoản kết dư bảo hiểm y tế 20.000 tỉ. Ấy vậy mà các quan chức bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế lại lo vỡ quỹ nên không dám chi và còn đổ thừa qua lại.
Biết làm sao được. Chỉ còn mong cho toàn dân khỏe mạnh để những người rủi ro bệnh tật sẽ được cứu sống từ sự chung sức của cộng đồng. Nếu không thì chắc chắn những người nghèo mắc bệnh nan y sẽ phải chết dù y học có phát triển đến đâu!”
Lá thư này đã cho bạn biết rõ tại sao người nghèo phải chết.

Chuyện ở Mỹ và ở VN

Tất nhiên tôi không dại gì đi so sánh nền văn minh nhân loại hay nói gọn hơn là sự chăm sóc người dân giữa Mỹ và VN. Đây chỉ là câu chuyện nhỏ.
Tôi nhớ có lần nói chuyện qua điện thoại với ông bạn ở Virginia, ông hỏi tôi hồi này cuộc sống thế nào. Tôi thành thật trả lời ngay, “Bây giờ tôi già rồi, từ ngày tôi bị CA sờ gáy, chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày đã có ông chủ báo ở Úc cũng là bạn cùng làm báo và là đồng đội từ những ngày xa xưa lo cho từ A đến Z đến khi tôi chết hoặc ông ấy ra đi. Tôi chỉ còn lo mỗi chuyện khi phải vào bệnh viện (BV). Bắt buộc phải có một khoản tiền để sẵn, ở đây vào BV không có tiền chỉ có nước nằm đầu hè chờ chết.”
Ông bạn tôi kể chuyện ở Mỹ, vào BV là “nó” lo cho rất kỹ, có khi còn lo hơn cả điều mình mong muốn. Bởi “nó” tính tiền cho nhà nước Mẽo trả chứ tụi tôi đâu có mất xu nào.
Tôi kể tiếp rằng tôi không mua bảo hiểm, và cũng căn dặn người nhà rất kỹ dù gần chết cũng không đưa tôi vào BV công. Vì có mua bảo hiểm cũng như không, còn gặp nhiều phiền toái. Cụ thể như bà Thụy Vũ, có thẻ bảo hiểm nhưng đến khi về Sài Gòn chữa bệnh không dám đưa thẻ bảo hiểm ra vì thứ nhất phải chờ dài người mới được khám, thứ hai là uống loại thuốc rẻ tiền, còn lâu mới hết bệnh. Đấy là chưa nói đến những chuyện khác như máy móc thuộc loại hàng giả, hàng “đểu”, tay nghề kém nên có nhiều bệnh nhân khám không ra bệnh hoặc đi hai ba bệnh viện đều cho kết quả khác nhau.
Một vấn đề nhức nhối hơn đó là y đức của một số không nhỏ bác sĩ (BS) tại VN. Tôi không nói là tất cả các BS VN đều kém y đức, vẫn còn có những “lương y như từ mẫu” như tôi đã tường thuật trong bài “Buồn Vui Ở Bệnh Viện” ngày 11 tháng 5, 2012, nhưng một số không ít những BS và y tá đã “nhiễm” cái thói quen có phong bì thì săn sóc đến nơi đến chốn, còn không phong bì thì à ơi ví dầu cho xong chuyện. Mời bạn đọc vài “chuyện vặt” sau đây để hiểu rõ những gì đã và đang xảy ra với các BV ở VN.
Tôi chỉ nêu 3 vấn đề chính:

Máy xịn của Mỹ, Nhật trùm mền, xài máy TQ trôi nổi

Sở Y Tế tỉnh Đồng Nai vừa có kết luận các sai phạm trong việc quản lý, sử dụng trang thiết bị y tế (TBYT) và công tác dược đối với BV huyện Xuân Lộc (Đồng Nai). Theo đó có hàng loạt sai phạm tại bệnh viện (BV) này như không dùng máy được Nhà nước trang bị mà sử dụng máy trôi nổi, đã qua sử dụng của Trung Quốc; giao cho người không đủ điều kiện bán thuốc gây nghiện, thả nổi việc quản lý dược…
Theo kết luận, tháng 5-2012, BV Đa khoa Xuân Lộc được trang bị, đưa vào sử dụng máy xét nghiệm 2000i do Nhật sản xuất. Hai tháng trước khi đưa máy vào sử dụng, công ty Nguyễn Tùng (đơn vị cung cấp máy) trúng thầu cung cấp hóa chất xét nghiệm dùng cho máy này. Tuy nhiên, BV chỉ sử dụng máy ba tháng rồi ngưng với lý do đưa ra là BV không có hóa chất.
Với lý do “không có hóa chất” nên không xài máy “nhà nước”, Sở Y tế chỉ rõ: Trước khi máy hoạt động, đơn vị cung cấp máy đã trúng thầu hóa chất sử dụng cho máy. Năm 2013, Công ty Kỹ thuật thiết bị y tế Tân Hồng Bảo trúng thầu hóa chất xét nghiệm, cũng có hóa chất sử dụng cho máy trên. Cuối năm 2013, khoa Dược của BV xuất hóa chất xét nghiệm cho chiếc máy (trị giá gần 52 triệu đồng). Vì vậy BV cho rằng không có hóa chất nên không sử dụng máy là không hợp lý.
Cũng năm 2012, BV được trang bị một máy xét nghiệm tự động XL 640 do Nhật sản xuất và máy hoạt động bình thường. Tuy nhiên, từ khi đưa vào sử dụng đến tháng 10-2014, BV không sử dụng cũng với lý do… không có hóa chất. Trong khi loại hóa chất sử dụng cho máy thì BV vẫn mua!
Tương tự, năm 2007 phòng sinh hóa của BV được cấp một máy xét nghiệm do Mỹ sản xuất nhưng đến năm 2012 thì cho đắp chiếu với lý do chuyển sang sử dụng máy tự động.
Đối với thiết bị hệ thống tán sỏi ngoài cơ thể bị “trùm mền” từ tháng 11-2012 đến nay, máy do Sở Y tế làm chủ dự án cung cấp cho bệnh viện trong khi bệnh viện chưa có phòng bảo đảm đủ điều kiện về an toàn bức xạ nên phải để tạm ở chân cầu thang.
Ngoài ra, bộ phẫu thuật nội soi mũi xoang được bệnh viện mua về từ năm 2007 nhưng sử dụng không hiệu quả vì trước khi mua sắm, bệnh viện chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật cho viên chức bệnh viện, chưa thực hiện đúng công năng của thiết bị nên hiệu quả phục vụ điều trị chưa cao. Nói thẳng ra là các viên chức này chưa biết cách sử dụng máy nên… nhắm mắt làm liều để kiếm tiền của người bệnh.

Công ty Bio-Rad của Mỹ hối lộ $2.2 triệu USD cho các quan chức chính phủ Việt Nam

Theo hồ sơ của Ủy ban Chứng khoán Mỹ và Bộ Tư pháp nước này, Bio-Rad là nhà cung cấp các thiết bị xét nghiệm và chẩn đoán y tế nổi tiếng tại Mỹ, đã thừa nhận đã hối lộ $7.5 triệu USD cho quan chức y tế các nước Nga, Thái Lan và cả Việt Nam. Số tiền để bôi trơn tại VN được cho là $2.3 triệu USD và đổi lại họ có được doanh số đạt hơn $23 triệu USD.
Hồ sơ điều tra từ năm 2005- 2009, Bio-Rad Văn phòng tại Việt Nam có hàng loạt hợp đồng bán thiết bị với giá mỗi hợp đồng từ $100,000 USD- $200,000 USD và mỗi hợp đồng có được họ phải chi “hoa hồng” khoảng $20,000 USD.
Sự việc bị phát lộ khi giám đốc Bio-Rad Singapore nhận thấy đại diện Văn phòng tại Việt Nam đã đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức kinh doanh bị cấm của Bio-Rad nhưng theo tờ BBC, đại diện của Bio-Rad tại Việt Nam cho rằng “nếu không bôi trơn họ sẽ mất trên 80% doanh số”.
Được biết văn phòng Bio-Rad tại Việt Nam đưa số tiền $2.2 triệu USD thông qua một đơn vị trung gian để hối lộ lại cho các quan chức bệnh viện. Vụ việc sẽ làm sáng tỏ khi Bộ Công An vào cuộc.

Nhiều hình thức hối lộ tinh vi trong lĩnh vực y tế

Tài trợ tiền, mời bác sĩ dự hội thảo quốc tế, hoa hồng qua hóa đơn… những cách hối lộ trong lĩnh vực y tế được Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội Nguyễn Văn Tiên nêu ra trong cuộc phỏng vấn sáng 6/11.
Ông Tiên nói: Năm ngoái, Trung Quốc đã xử phạt một công ty của Mỹ mấy trăm triệu USD vì tội hối lộ mà họ chấp nhận chịu phạt. Còn trường hợp này ở ta (VN), hiện nay phải xác định là họ hoạt động trong lĩnh vực nào: thuốc, hóa chất hay thiết bị y tế… Tôi nghĩ là trong 5 năm hối lộ $2.2 triệu USD, có lẽ còn quá nhỏ.
Thực tế nhiều năm nay, chi hoa hồng cho bác sĩ kê đơn thuốc là chuyện phổ biến. Đây là một vấn đề rất lớn. Ở các nước như Mỹ thì họ kiểm soát ngay từ các công ty, xem danh sách chi hoa hồng, chi cho những ai do đó mới phát hiện được. Ta cũng muốn kiểm soát nhưng rất khó. Tôi mong là qua đợt này, chúng ta sẽ phát hiện được xem ở lĩnh vực nào, dược hay thiết bị y tế.
Họ có thể tài trợ dưới hình thức mời đi nước ngoài tham dự hội thảo, cộng vào là có thể thành mấy triệu đôla. Ví dụ, hãng tài trợ cho mấy trăm bác sĩ đi dự hội thảo, mỗi người vài nghìn đôla cộng lại đã thành một khoản lớn. Hình thức hối lộ rất khó, vấn đề phát hiện ra như thế nào. Nhiều nơi có tình trạng chủ yếu trả hoa hồng qua đơn thuốc rất tinh vi.
Tôi nghĩ là những công bố của cơ quan điều tra ở nước ngoài như vậy sẽ khó với chúng ta. Nhưng đây cũng là một dịp tốt cho Việt Nam tìm cách đưa giá thuốc, giá trang thiết bị y tế về giá thực mà không bị chi phối bởi những khoản hoa hồng rất khó kiểm soát.
Tôi rất muốn Quốc hội ban hành luật Đấu thầu, trong đó có mục riêng cho đấu thầu cung ứng thuốc và thiết bị y tế để kiểm soát. Nhưng cũng rất vất vả vì thực tế này tồn tại ở nhiều nước.
Có hàng mấy chục công ty nước ngoài đầu tư trang thiết bị y tế và bán thuốc ở Việt Nam. Chỗ nào cũng có hoa hồng, vấn đề là làm thế nào để phát hiện được, rất khó.
Ở đây là vấn đề y đức, sự tự giác, quản lý của cơ quan cán bộ, bác sĩ đó.
Ví dụ mời đi hội thảo, ta không phát hiện được. Họ có cơ chế trả hoa hồng rất tinh vi, không qua tài khoản, ngân hàng…
Ngoài ra, Cục Điều tra chống buôn lậu – Tổng Cục Hải quan đã phá đường dây chuyên nhập khẩu thiết bị y tế quá đát của Công ty Kĩ thuật Thiết bị Y tế Bảo Trân (Công ty Bảo Trân, ở số 19, 180/2, đường Trần Duy Hưng, Hà Nội). Theo kết quả giám định ban đầu, toàn bộ số thiết bị y tế nhập khẩu gồm máy soi dạ dày, máy scan phim X Quang và các phụ kiện đi kèm của có xuất xứ từ Nhật Bản, Trung Quốc, Mexico đã bị thải ra do không còn giá trị sử dụng. Hiện cơ quan chức năng tiếp tục điều tra làm rõ vụ việc.

Tốn hàng tỉ USD đi nước ngoài chữa bệnh

Chỉ cần nhìn qua vài sự kiện trên bạn còn thể tin tưởng gì vào những thiết bị y tế để khám chữa bệnh của BV tại VN được không? Vì thế bạn đọc hiểu rõ hơn tại sao tôi căn dặn người nhà có chết cũng không đưa tôi vào BV công. Còn một số lớn các “đại gia, đại quan” cứ mắc bệnh là đi Singapore, đi Mỹ chữa bệnh. Mỗi năm chảy ra nước ngoài hàng tỉ đồng chứ không ít.
Theo thống kê, hiện cả nước VN có khoảng 170 bệnh viện tư nhân với vốn đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng (chưa kể hệ thống bệnh viện công xuống tới cấp huyện). Tuy nhiên, theo Bộ Y tế, hằng năm người Việt vẫn đem hơn 2 tỷ USD ra nước ngoài chữa bệnh
Có những câu chuyện khiến ngay cả người vai vế trong xã hội cũng phát khóc khi phải chịu đựng lối ứng xử hống hách của một số bác sĩ tại bệnh viện của giới nhà giàu. Không ít bệnh viện gắn sao được xây to, trang bị hiện đại, nhưng cung cách ứng xử vẫn hống hách, coi thường bệnh nhân.

Dài cổ chờ mua thuốc ở bệnh viện

Gần xế chiều, các nhà thuốc tại các bệnh viện ở TP Sài Gòn vẫn đông nghịt bệnh nhân chờ đợi. Nhiều người ở tỉnh xa trót hẹn xe đến đón buộc phải dời lại giờ, số khác ngại mất thời gian đã chấp nhận ra ngoài mua.
Nguyên nhân gây quá tải nhà thuốc là do quá tải tải bệnh viện dẫn đến người mua thuốc nhiều. Trong khi đó mỗi bệnh viện chỉ có một nhà thuốc.
Nhà thuốc Bệnh viện Nhân dân Gia Định, dù không phải là ngày đầu tuần, số bệnh nhân đến khám không quá đông, nhưng đến gần 11 giờ vẫn ngập người ngồi đợi.
Khu vực cấp thuốc bảo hiểm y tế, có khoảng 100 người ngồi chờ đến lượt. Khu bán thuốc cạnh đó cũng đông người chờ. Cảnh chờ đợi mua thuốc kéo dài gần đến xế chiều mới vơi dần.
Chờ mệt mỏi, nhiều bệnh nhân bỏ bảo hiểm khám dịch vụ
Người dân xếp hàng dài đợi chờ, mệt mỏi với các thủ tục hành chính rườm rà, nhiều người đành bỏ bảo hiểm sang khám dịch vụ khiến khu dịch vụ của các bệnh viện đông lại càng đông. Gần nửa tháng áp dụng Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), tình hình quá tải tại các bệnh viện tuyến trên không những vấn tiếp diễn, mà phía người bệnh còn chật vật hơn khi đi khám chữa bệnh
Đông nhất là Bệnh viện Bạch Mai, người đến khám bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) chen nhau chật kín quầy tiếp đón. Bác Trịnh Văn Quân, trú tại quận Hoàng Mai than thở: “Đi bệnh viện thời nay mà như đi xếp hàng thời bao cấp vậy, chờ đợi sốt ruột vẫn chưa đến lượt mình. Càng ngày tôi càng phải chờ đợi lâu hơn”.
Sự đông đúc này khiến nhiều người đành phải bỏ BHYT để khám dịch vụ. Do đó, tại khu khám dịch vụ của các bệnh viện, số bệnh nhân rất đông.
Còn ở TP. Sài Gòn, tại Bệnh viện Thống Nhất và Bệnh viện Chợ Rẫy, 2 đơn vị thí điểm được Bộ Y tế chọn để thục hiện việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cũng vẫn có nhiều bệnh nhân phải than phiền vì chờ đợi.
Đến đây bạn đọc lại có thể thông cảm với người dân Việt về nỗi khổ của cái bảo hiểm y tế và nỗi sợ hãi thế nào khi phải vào bệnh viện công ở VN.
Đề tài này còn khá dài, tôi sẽ có dịp tường thuật với bạn đọc vào một kỳ báo sau.

Văn Quang

(9 tháng Một, 2015)

“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”,

“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”,

Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya.

(Trịnh Công Sơn – Biển Nhớ)

(Thư Do thái 4: 7-13)

Trần Ngọc Mười Hai

Ngày em đi, phải chăng là đi ra biển để đến nỗi biển vẫn nhớ? Nhớ đến độ, người viết nhạc họ Trịnh, lại cứ đong đưa những điệu nhạc phải nghe tiếp kẻo quên sót, như sau:

“Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ, nghe buồn nhịp chân bơ vơ
Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn, bàn tay chắn gió mưa sang
Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đêm mờ
Hồn lẽ nghiêng vai gọi buồn, nghe ngoài biển động buồn hơn.

Hôm nào em về, bàn tay buông lối ngõ
Đàn lên cung phím chờ sầu lên dây hoang vu”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Người viết nhạc đầy hồn thơ, thì viết thế. Chứ, người làm thơ đầy hồn nhạc, lại sẽ diễn-tả như sau:

“Mai tôi đi… chẳng có gì quan trọng,
Lẽ thường tình, như lá rụng công viên,
Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,
Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn…
Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng,
Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,
Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,
Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.
Khoảnh khắc cuối… Đâu còn gì tha thiết…
Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian.
Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn,
Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…
Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,
Để đi vào ranh giới của âm dương,
Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương,
Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…
Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,
Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,
Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,
Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…
Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,
Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu,
Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.
Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống…
Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng,
Đến trần truồng và đi vẫn tay không.
Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,
Nay rũ sạch… lên bờ, thuyền đến bến…
Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện,
Nên xem như giải thoát một kiếp người,
Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,
Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…

Thơ và nhạc, mà lại nói về “cõi hết” cũng rất buồn. Dù bạn dù người “ra đi” có khyên bảo “xin đừng khóc”. Có khóc hay không, đời mình vẫn thế. Cũng vì vẫn như thế, nên có người viết lại đã vội vang đề nghị những lời như sau:

“Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong sân trường khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nữa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống.

Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.

Ta vẫn biết khi ta ra đời ,ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo. Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình. Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.

Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .

Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.

Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt. Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rỗi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẻ. Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gỡ bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nữa.

Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghĩ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.

Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghĩ đến đồng tiền, đừng nghĩ đến giàu hay nghèo nữa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền. Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta.

Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.

Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.

Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già. (Dodom ST sư tầm và chuyển cho mọi người đọc trên mạng)

Đọc trên mạng, hay đọc trong cuộc đời, vẫn có những điều mình chưa được biết trọn gói hay trọn vẹn. Đọc trên mạng hoặc đọc trên thư từ bạn bè gửi, lại cũng có những điều chỉ nói một nhưng hiểu nhiều. Cũng tựa hồ như chuyện nhà Đạo có những Tin vui mừng lâu nay tưởng chừng như đã quen quen, dù được “chia sẻ” mỗi Chúa nhật, suốt một đời, thế mà cứ tưởng như rất mới. Mới như câu chuyện được đề cập ở bên dưới:

“Cô bé và cậu bé là hàng xóm từ thuở nhỏ. Trò chơi thuở bé của hai đứa trẻ là chạy ra bờ sông nghịch, lấy đất nặn thành hình búp bê. Khi khuôn mặt cậu bé nhem nhuốc đầy buồn đất, cô bé sẽ khẽ dùng tay áo quẹt đi những vết bẩn trên mặt cậu. Và cậu bé sẽ nhoẻn miệng cười cảm ơn cô bé. Lúc đó, khuôn mặt của hai đứa trẻ trông còn đáng yêu hơn cả những con búp bê mà chúng nặn ra.

Cô bé vốn hay khóc nhè. Một con sâu nhỏ cũng có thể làm cô bé khóc thét vì sợ hãi. Những lúc đó, cậu bé sẽ dẫm chết con sâu, rồi làm ra vẻ người lớn dỗ dành cô bạn nhỏ.

Cô bé vẫn thút thít không ngừng. Cậu bé không biết nên làm thế nào, rút từ trong túi quần ra một đồng xu nhỏ mà khi đứng đợi cô bé đã nhặt được trên đường. Cậu bé đặt đồng xu nằm trong lòng bàn tay để trước mặt cô bé.

“Em xem này, đây là đồng xu anh nhặt được trên đường lúc nãy. Hai mặt của nó không giống nhau đâu. Bây giờ anh tung nó lên, nếu lúc rơi xuống nó vẫn là mặt này, thì em không được khóc nữa. Còn nếu là mặt kia thì anh sẽ khóc cùng với em có được không?”.

Cô bé dụi mắt, nhìn đồng bạc sáng loáng trước mặt lạ lẫm hiếu kỳ, rồi ngước lên nhìn cậu bé gật đầu mếu máo. Cậu bé khẽ tung đồng xu vào không trung. Đồng xu lật mấy lần, rồi trở lại lòng bàn tay cậu bé. Cô bé tò mò vội gỡ những ngón tay bụ bẫm của cậu bé. Vẫn là mặt lúc nãy của đồng xu. Hai đứa trẻ nhoẻn miệng cười thật to. Cô bé không khóc nữa. Chúng chạy ra bờ sông nặn búp bê bằng đất.

Tuổi thơ của hai đứa trẻ trôi qua trên những cánh đồng bát ngát, những buổi đi bắt chuồn chuồn bên bờ ao và thả thuyền giấy trên con kênh nhỏ. Cả hai cùng bước vào tiểu học. Những lúc không có người bạn thời thơ ấu bên cạnh, cô bé vẫn thường bị những đứa bé trai cùng lớp trêu đùa bắt nạt. Cô bé khóc nhè cả quãng đường về nhà. Đợi đến khi cậu bé về, đồng tiền xu ngày trước lại xoay vòng trên không trung để quyết định tất cả. Hai đứa trẻ lại nhoẻn miệng cười rồi đi tìm trò chơi thuở bé.

Thời gian lại trôi nhanh qua những bài hát đồng dao thuở học trò. Hai đứa trẻ học lên trung học. Cậu bé cho dù ham chơi đến đâu cũng vẫn có thể tính ra những đáp số chính xác nhờ công thức được học. Thầy giáo luôn khen cậu là một học sinh thông minh.

Còn cô bé, cho dù có cố gắng đến đâu cũng không thể hiểu được rằng, khi X và Y có quan hệ, Y và Z có quan hệ, thì X và Z nhất thiết phải có mối quan hệ nào đó. Sau mỗi lần trả bài kiểm tra, cô bé lại nằm bò ra bàn và khóc, nước mắt rơi ướt nhòe cả khung điểm kém. Cậu bé lại rút đồng xu từ trong túi ra và tung vào không trung. Vẫn quy định cũ. Cô bé không khóc nữa, ngoan ngoãn ngồi nghe cậu bé giảng giải những chỗ không hiểu, những công thức toán học, những định luật vật lý mà cô không nắm vững. Điểm số của cô không còn thấp dưới 5.

Thời gian lại trôi theo những tháng ngày bận rộn, những kỳ thi cuối cấp. Khoảng trời đại học mở ra trước mắt hai người bạn. Cuộc sống thời đại học an nhàn tự tại. Tuổi thanh xuân với những tình cảm lứa đôi ngây thơ trong sáng in dấu từng góc sân trường. Chàng trai và cô gái kết thành một đôi kim đồng ngọc nữ trong sự ngưỡng mộ của biết bao nhiêu người. Tình yêu chân thành và bình lặng trong từng khoảnh khắc. Cô gái vẫn hay mau nước mắt. Và chàng trai vẫn luôn giữ đồng xu thuở bé bên mình.

Trong một trận đấu bóng chuyền của trường, chàng trai tham gia cùng vài người bạn. Cô gái đứng trên hàng ghế khán giả, cầm áo khoác cho anh và không quên reo hò cổ vũ. Cuối trận đấu, chàng trai cảm thấy khá mệt, mồ hôi vã ra trên trán. Anh lảo đảo bước về phía khán đài. Mọi thứ trước mắt bất chợt trở nên mơ hồ như qua một làn khói ảo.

Khi còn chưa bước được tới trước mặt người yêu dấu, anh cảm thấy một luồng khí nóng trào qua lồng ngực. Rồi máu từ mũi chảy xuống. Chàng trai ngã xuống trước ánh mắt hốt hoảng của cô gái cùng sự ngạc nhiên của bao người đứng đó.

Bác sĩ cho biết chàng trai bị ung thư máu. Trái tim cô gái vốn nhỏ bé mềm yếu lại như vỡ ra từng mảnh. Khi lần đầu tiên đến thăm anh trong bệnh viện, khi lần đầu tiên nhìn khuôn mặt thân thương của anh nhợt nhạt mệt mỏi, cô không nén nổi xúc động, ôm lấy anh và òa khóc. Những giọt nước mắt rớt vội trên bờ môi anh, ấm áp và mặn chát.

Anh cố gắng với tay lấy từ dưới gối đồng xu mà năn nỉ mãi bác sĩ mới cho giữ lại.

-Em nhìn này, đây là cái gì?”.

Cô gái lấy tay quệt nước mắt, nhìn đồng xu thân thương. “Vẫn quy tắc cũ nhé. Nếu là mặt này, em không được khóc nữa. Còn nếu là mặt kia, anh sẽ khóc cùng em có được không?”

Cô nhìn người con trai thân yêu đang nằm đó. Anh đang cố gắng dỗ dành cô. Bao năm rồi vẫn vậy, anh chưa từng dửng dưng trước giọt nước mắt của cô. Và cô cũng chưa từng lắc đầu mỗi khi anh lấy đồng xu nhỏ ra.

Chàng trai run rẩy tung đồng xu lên không trung. Đồng xu lại xoay vòng lóe sáng rồi rơi xuống lòng bàn tay anh. Vẫn là mặt “không được khóc nữa”. Chàng trai cố gắng mỉm cười kéo cô gái vào lòng dỗ dành như thời thơ ấu. Nước mắt anh chảy xuôi theo nụ cười.

Đám tang anh, mọi người đến dự trong bao đau buồn và tiếc nuối. Cô tiễn anh không một giọt nước mắt. Mọi người nghĩ cô thật cứng rắn. Nhưng họ không biết, trái tim cô đang vỡ vụn. Và nước mắt cô không thể rơi cho anh được nữa.

Ba mẹ anh gửi cho cô một chiếc hộp nhỏ nói là món quà cuối cùng của anh muốn dành tặng cô. Cô run rẩy mở chiếc hộp của anh. Bên trong là một tờ giấy nhỏ với dòng chữ: “Đừng khóc nữa người mà anh yêu suốt đời”, và một đồng tiền xu sáng bóng.

Đồng tiền xu quen thuộc đã theo hai người từ thời thơ ấu. Cô cầm đồng tiền lên, lần đầu tiên mới nhìn kỹ nó. Nước mắt cô chợt trào ra. Đồng tiền xu rơi xuống đất xoay vòng lóe sáng. Hai mặt của nó vốn dĩ không hề khác nhau…” (Lính thủy sưu tầm)

Sưu tầm chuyện ngắn, đâu cứ chỉ mỗi anh lính thủy còn làm việc ấy. Sưu tầm chuyện nhà Đạo, hẳn bạn và tôi, ta vẫn cứ sưu và cứ tầm, rồi ra sẽ nhận được quà tặng như lời dặn sau đây:

“Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng.

Thật vậy, nếu ông Giôsuê đã cho họ được yên nghỉ,

thì sau đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa.

Như thế, Dân Thiên Chúa còn có thể được nghỉ

như Thiên Chúa nghỉ ngày thứ bảy,

vì ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa,

thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công việc của mình,

như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người.

Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này,

kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã.

Lời Thiên Chúa là lời sống động,

hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi:

xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ;

lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.

Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa,

nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.”

(Thư Do thái 4: 7-13)

Hiểu thế rồi, bạn và tôi, ta cứ hiên ngang hát lời buồn nhưng không bực, có ca-từ như sau:

“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về,
Chiều sương ướt đẫm cơn mê,
Trời cao níu bước sơn khê.
Ngày mai em đi, cồn đá rêu phong rũ buồn,
Đèn phố nghe mưa tủi hồn, nghe ngoài trời giăng mây luôn.
Ngày mai em đi, biển có bâng khuâng gọi thầm,
Ngày mưa tháng nắng còn buồn, bàn tay nghe ngóng tin sang.
Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đèn vang,
Nửa bóng xuân qua ngập ngừng, nghe trời gió lộng mà thương”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

“Nghe trời lộng gió mà thương”. Vâng. Đúng thế. Hôm nay và mai ngày dù trời có lộng gió hay không, ta cứ thương. Thương, như lời người kể truyện ở bên dưới làm đoạn kết cho buổi phiếm luận, rất hôm nay.

“Truyện rằng:

Ngày lễ hội hôm ấy, hai người bạn thân gặp nhau sau một thời-gian xa cách, ít có dịp tâm sự đôi điều về nhân-sinh cuộc đời, vui buồn lẫn lộn. Trò chuyện một hồi lâu, chợ ngu72i này hỏi:

-À này, mối tình của cậu với “con nai vang ngơ ngác” khi xưa bây giờ ra sao?

-Hết rồi cậu ạ! Lâu lắm rồi, chẳng thấy “nai vang” nào còn ngơ ngác hết, mà chỉ là…

-Chỉ là làm sao?

-Chỉ là “muông thú quen gầm, ở Hà Đông thôi!

-Ấy chết! Sao lại là sư tử Hà Đông được?

-Chữ đó là do cậu nói đấy, chứ không phải của tớ đâu nhé. Liều mồm mà ăn nói, kẻo chết không kịp ngáp cho mà coi.

-Tớ chết từ lâu rồi, cậu ạ. Nưng, chỉ là chết trong lòng một chút ít, thôi…”

Chết trong lòng một ít hay rất nhiều, vẫn là sống như đang chết. Là, thứ chết rồi nhưng vẫn còn ngáp. Ngá ngáp, chứ chẳng chơi. Đó là cuộc đời, của bạn và của tôi, rất hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn luôn chết trong lòng một ít

Suốt nhiều ngày

Trong đời.

” Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.”

” Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.”

“Màu như ru, sóng âm thanh xô đẩy .
Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,
Lên bốc lên và ân huệ dường bay .
Ôi! khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Yn 1: 35-42

Mai Tá lược dịch.

Sóng âm thanh – nguồn hương thơm, như màu ru xô đẩy, nơi lời nguyện. Lời nguyện hôm nay, là nguyện và cầu theo ý Chúa, có lời mời. Ngài mời dân con nhà Đạo mỗi người mỗi cách, như đã ghi giữ trong trình thuật.

Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an ghi giữ lời gọi mời Chúa gửi đến, với mọi người. Chúa gọi mời mọi người làm dân con đồ đệ, nay uỷ thác. Ngài uỷ thác, lối sống thân thương giùm giúp, bằng quà tặng rất trân quý.

Bài đọc 1, Chúa đã gọi mời người trẻ, tên Samuel, những ba lần. Còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm về gọi mời, nên Samuel cứ ngỡ tiếng Ngài gọi là tiếng từ thày mình, rất Êlya. Thế nên, Chúa gọi hai lần đầu Samuel đều đi ngủ. Cả hai lần đến với Elya, cứ hỏi han. Mãi lần ba, người thanh niên trẻ Samuel mới dám nghe lời thày mách bảo: “lần sau, hễ có ai gọi thì con nhớ thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”

Rồi từ đó, “Samuel đã lớn lên. Và, Đức Chúa ở với ông. Người không để rơi xuống đất một lời nào Người đã phán với ông” (1S 3: 19). Như thế là, anh vẫn tiếp tục lắng tai nghe rất cẩn trọng. Nghe những gì Đức Chúa nói với ông. Lắng nghe tiếng Người gọi mời. Và đổi lại, ông đã chuyển đến với mọi người, những gì mình đã nghe. Bởi, Lời Chúa không là Lời để ta giữ lại, cho riêng mình. Cũng giống như người tôi tớ lĩnh nhận đồng tiền vàng, rồi đem chôn.

Và vì thế, mỗi lần Lời Chúa nói, mọi người cần lắng nghe. Lắng nghe, là: để tai ra mà nghe. Là, thông hiểu. Là, chấp nhận và đồng hoá như của mình. Để rồi, san sẻ với người khác bằng lời lẽ và hành vi. Thành thử, ví thử Chúa gọi ta hôm nay, Ngài sẽ nói gì? Ta có sẵn sàng để lắng tai, không?

Trình thuật nay cũng nói về một gọi mời. Gọi mời, là lời gọi đến hai lần. Lời gọi hôm nay, là về hai người đã trở thành đồ đệ của Gio-an Tẩy Giả. Thánh nhân chỉ cho họ thấy Đức Giê-su rồi bảo: “Này, là Chiên Thiên Chúa!” Thánh Gio-an biết: vai trò thủ lĩnh của ông chỉ ngắn hạn, và tạm thời. Và, ông tập trung nhấn mạnh đến vai trò chỉ đạo của Đức Chúa. ”Chiên Thiên Chúa”, là danh xưng mà thánh Gio-an thánh sử tặng cho Đức Giê-su, ngay chương đầu. Chương này, thánh nhân nối kết Chúa vào với lịch sử cứu độ, dân Do Thái. Và thánh nhân nói: Chúa hy sinh cả cuộc sống vì Ngài thương yêu chúng ta.

Đồ đệ Chúa, thoạt nghe lời gọi mời, chẳng tỏ bày một ngạc nhiên, nhưng đã bước theo Chúa. Thấy thế, Chúa quay lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Câu hỏi này, Chúa cũng đang gửi đến mỗi người, ngày hôm nay. Thông thường, ta cứ nghĩ mình là người hỏi Chúa:“Ngài tìm ai thế?” Không phải vậy. Ở đây, Chúa chỉ muốn hỏi: ta muốn điều gì? Trả lời câu Chúa hỏi, không phải để trả lời Ngài, mà cốt ý làm lợi cho ta. Câu trả lời, sẽ cho ta biết: đâu là ưu tiên một, ta có thực sự dành cho Chúa. Cho mọi người chung quanh?

Hỏi, là để biết xem ta thực sự muốn cho cuộc sống mình ra như thế nào? Muốn Chúa làm gì cho ta? Và đây chính là câu hỏi không dễ gì có câu trả lời, ngay tức khắc. Trả lời Ngài, có thể cũng chỉ lớt phớt, rất thoáng qua. Nhưng câu trả lời sẽ cho thấy, ta ra như thế nào. Và, đây là câu hỏi buộc ta phải phản hồi, theo từng giai đoạn, trong cuộc sống. Tuỳ hoàn cảnh.

Và, trả lời của đồ đệ cho câu hỏi “anh tìm gì?” là thế nào? Chưa có trả lời, nhưng đồ đệ Chúa, lại cứ hỏi: Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Hỏi như thế, có nghĩa: “Thưa Thầy, Thầy ở nơi nào để con tìm đến? Chúng con đi đâu mới tìm ra được Thầy? Trong cuộc sống, chúng con làm thế nào để giáp mặt cùng Thầy?” Thật phúc thay, nếu ngày nay mọi người chúng ta cũng có câu trả lời như thế,.

Và câu đáp trả của Chúa, vẫn là: “Hãy đến mà xem.” Đến mà xem, trước tiên không phải là một hiểu biết về Đức Kitô và biết được nơi Ngài lưu lại. Cũng không là vấn đề truyền thông tin tức. Cũng chẳng phải là chuyện có liên quan đến mọi ý nghĩa thần học, tín lý hoặc tu đức. Cũng chẳng phải là vấn đề phải có chuyên môn về giáo huấn và luật lệ của Hội thánh: nhóm Pharisêu thuộc mọi thời đại đều rất giỏi chuyện này.

Hiểu biết Chúa, là vấn đề của kinh nghiệm. Người người đều có thể hiểu và biết Giáo lý mới của Hội thánh, dầy những 700 trang. Và, có khi còn thuộc lòng nhiều đoạn. Nhưng vẫn chưa biết Chúa. Biết Chúa, theo nghĩa của trình thuật hôm nay, là biết đi tìm, gặp gỡ và đáp trả sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài, trong cuộc sống.

Biết đến Chúa, là dám lao mình tìm hiểu giáo huấn của Ngài. Tìm và hiểu, cả vào khi xem ra mình cứ phải đối đầu với những người khác nghĩ. Là, yêu thương không điều kiện. Là, thứ tha, đưa má kia cho người tát. Là, vác thập giá nặng theo sau Đức Chúa. Là, chịu đựng mọi sỉ vả, chê bai và hành hình. Hãy đến mà xem, chính là theo chân bước vào con đường Chúa đã đi. Không có cách nào khác.

Hai đồ đệ được nói đến trong trình thuật, đều đã chấp nhận lời gọi mời. Các ngài đã thực sự ra đi và lưu lại nơi Chúa từng, dừng chân vào cuối ngày. Và, kết quả của quyết tâm lưu lại với Chúa, sẽ ra sao? Một trong hai đồ đệ ấy, là thánh Anrê, không chỉ quyết tâm theo Chúa mà thôi, nhưng còn là người rao giảng Tin Mừng, không xa Chúa. Chính thánh nhân là người đã đến kể với anh em mình : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia!” Cũng từ đó, Simôn đã trở thành Phêrô, một đồ đệ rất gần gủi. Một lĩnh tụ của cộng đoàn mới.

Cũng nên nhớ, thánh Phêrô, dù đảm trách vai trò quan trọng trong tương lai, lúc đầu vẫn không là người được Chúa đích danh, trực tiếp gọi mời. Mà, qua người em của thánh nhân. Và, chuyện như thế vẫn xảy đến rất nhiều lần ngày hôm nay. Mọi người chúng ta, kể cả các thánh, đều do người khác, những người yếu kém hơn mình, dẫn đưa đến Chúa. Như ta, hôm nay, cũng đều do người nào khác đem đến với Chúa.

 

Bởi thế nên, cũng hãy hỏi:

*Chúa đang gọi ta hôm nay, bây giờ để làm gì? Và, ta có thực sự để tai mà lắng nghe những điều Ngài muốn nói với tôi, không?

*Có ai đang chờ người như ta để nhờ dẫn dắt, đến cùng Chúa, không?

Và, ai là người đang đợi chờ lời gọi mời rất vang vọng: “Hãy đến mà xem”?

Hỏi, tức đã trả lời. Và, câu trả lời của ta, có là câu đáp trả rất tích cực?

Trong tự vấn, ta cứ hiên ngang cất tiếng hát lên để khẳng định một quyết tâm, hát rằng:

“Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù

Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu

Lửa âm u ai đốt từ lâu

Miền quê tôi khan tiếng kêu gào

Lời tôi ca như nước nhiệm mầu

Thành mưa rơi cho dứt niềm đau”

(Phạm Duy – Tiếng hát to)

Cứ hát to. Hát, cho thêm ý. “Thêm nguồn hương thơm”của cuộc đời. Cuộc đời, nay đã thấy “Lên bốc lên và ân huệ dường bay.” Thấy “khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng” . Ánh sáng nhiệm mầu, nơi gọi mời, của Đức Chúa.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch.

Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Từ Thức (Paris)

(VNTB) – André Gide nói ‘’ C’est avec des beaux sentiments qu’on fait de mauvaise littérature ‘’  ( Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở ).

Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người. Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghĩa quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần lại gần những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghĩa quá héng. Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghĩa đồng bào vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống. Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực.

Miệt Vườn

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’ . Ông kể chuyện ; không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách, ông viết với tấm lòng.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng. Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa chỉ rất ‘’miệt vườn ‘’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương , lạ tai , ngồ ngộ. Âm thanh như một câu vọng cổ.

Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseilles, hiện sống ở ngoại ô Paris,  nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’. Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái.

Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi . ( Sự thực Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’. Còn báo Nhân Dân không ? Đéo còn, chỉ còn Người Hà Lội )

Những giọt nước mắt

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng. Tất cả đều la những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con , thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút, nói : cho con cái ni (ông là người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén , nghèo đói quá, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân  đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ ăn cháo.

‘’ Chiếc khăn mùi xoa ‘’ có thể coi là  điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghĩa, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ , trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’ Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận .  Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng‘’.

Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà , Cầu cỏ , tìm người bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc.Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.

Không Điên Cũng Khùng

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính : những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đưà nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ , những mói tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó,  những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư , kể cả vùng quê, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc , gian sảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đùa, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư , như bà Hai , như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác. Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’

Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng. Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ‘’ cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đáng tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng

***

Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Sàigòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản vào miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lừa gạt, suốt ngày đay nghiến trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết ; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm , không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm lầm lũi lội chết dưới  biển.

Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đứa con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘ khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.

Thầy Năm Chén ( trong truyện cùng tên ) phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi kiếm ăn . ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghĩa trang. Sợ người ta để ý, Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý, Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.

Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’

Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui  bán chánh thức ‘’, nghĩa là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bẩy suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh . Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi… quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật. ‘’. Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghĩa ). Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt.

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn dễ dãi, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý, trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái , khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt . Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười trong những ngày bình an và ngay cả trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm , một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử Việt.

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm vẫn giữ kín

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm vẫn giữ kín

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Hội nghị trung ương 10 vừa qua vẫn được giữ kín.

Các nhà quan sát trong nước mà BBC liên lạc đều nói về tình hình “kín như bưng, không thể bình luận”.

Hội nghị Trung ương 10 đã kết thúc sau tám ngày làm việc với diễn văn bế mạc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Diễn văn này của ông Trọng đã đề cập rất ít về việc lấy phiếu tín nhiệm và giới thiệu nhân sự cho Bộ Chính trị so với các nội dung khác mặc dù đây là những vấn đề quan trọng được bàn thảo tại Hội nghị 10 và được người dân quan tâm.

‘Đấu đá là bình thường’

Trao đổi với BBC về các chủ đề được các ủy viên Trung ương Đảng đem ra bàn luận tại Hội nghị 10, ông Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, nói rằng ‘nhân sự là vấn đề hàng đầu’.

“Các vấn đề về văn kiện chính trị, quản lý báo chí, tinh giảm biên chế là những việc mà họ (Đảng Cộng sản) đã tiến hành dài dài nhiều thời gian rồi. Họ có ban bệ chuẩn bị rất kỹ và cũng đã thảo luận ở nơi này nơi kia nhiều lần rồi,” ông A nói.

“Giống như tất cả hội nghị trung ương chuẩn bị cho một sự kiện lớn của Đảng Cộng sản thì vấn đề nhân sự là vấn đề hàng đầu mà người ta (các ủy viên trung ương) quan tâm nhất.”

Về việc Đảng không công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm sau khi kết thúc Hội nghị 10, ông A nhận định rằng việc ‘Đảng càng thiếu minh bạch thì càng mất niềm tin trong chính nội bộ của họ’.

“Đằng nào thì những chuyện như thế cũng tiết lộ ra,” ông A cho biết, “Hôm qua tôi đi xe buýt tôi nghe người ta kháo nhau ầm ầm kể cả con số phiếu, những ông nào nhất ông nào nhì.”

Khi được hỏi về nhân sự lãnh đạo cho khóa mới của Đảng có nhân tố nào có thể tin tưởng được, ông A nói ông ‘chưa nhìn thấy một nhân tố nào cả’. Về việc Trung ương Đảng cũng đã bỏ phiếu giới thiệu nhân sự cho Bộ Chính trị khóa sau, ông A nói việc các phe phái trong Đảng đấu đá nhau để đưa người của mình lên là ‘chuyện bình thường’.

‘Giấu giếm chẳng được lợi gì’

“Chuyện cạnh tranh trong bất kỳ đảng nào cũng là chuyện bình thường,” ông giải thích, “Đáng ra Đảng Cộng sản Việt Nam phải coi đó là việc bình thường cũng như bất kỳ đảng nào khác trên thế giới có phái này phái kia, người này người nọ cạnh tranh với nhau giành quyền lãnh đạo.”

“Rất đáng tiếc Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ lúc thành lập đến giờ luôn giấu sự cạnh tranh sợ mọi người nói là đấu đá nội bộ, gây mất lòng tin,” ông nói thêm.

“Giấu cái đó thì chẳng được lợi gì cho họ cả.”

Khi đường hỏi về đường lối phát triển đất nước trong nhiệm kỳ tới mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phác họa trong diễn văn bế mạc Hội nghị 10, ông A nói ‘chẳng có gì mới mẻ cả’.

“Tôi hy vọng những mong muốn của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ không thành sự thật và sẽ có chuyển biến gì đấy từ lúc này cho đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra,” ông nói.

Theo diễn văn bế mạc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì ngoài các vấn đề nhân sự và lấy phiếu tín nhiệm, Hội nghị 10 đã bàn bạc rất nhiều vấn đề để chuẩn bị cho Đại hội 12 bao gồm Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội sau 5 năm, Báo cáo Tổng kết 30 năm ‘đổi mới’, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng, đề án tinh giản biên chế và đề án quy hoạch và quản lý báo chí.

Xin xem thêm:

Lãnh đạo Đảng CSVN không dám công bố sự tín nhiệm(Nguoi-viet.com)