Dư luận phẫn nộ về tư dinh xa hoa của ông Nông Đức Mạnh

Dư luận phẫn nộ về tư dinh xa hoa của ông Nông Đức Mạnh
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Tin tường thuật sự kiện Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên CSVN đến chúc Tết ba cựu tổng bí thư Đảng CSVN hôm mùng 1 tháng 1 Âm lịch khiến công chúng phẫn nộ.

Ba tấm hình ông Nông Đức Mạnh tiếp Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Việt Nam tại tư gia hôm 19 tháng 2, 2015, khiến dư luận phẫn nộ. (Hình: Tiền Phong)

Các tờ báo trực thuộc Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Việt Nam như Tiền Phong, Thanh Niên vừa có tin tường thuật về việc Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên CSVN đến chúc Tết các ông: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh – ba nhân vật từng là tổng bí thư Đảng CSVN, Lê Đức Anh – cựu chủ tịch Nhà Nước Việt Nam và thắp nhang cho ông Võ Nguyên Giáp.

Lẽ ra sẽ chẳng có bao nhiêu người quan tâm đến sự kiện này nếu như tờ Tiền Phong không dùng ba tấm ảnh giới thiệu sự xa hoa tại tư gia của ông Nông Đức Mạnh. Phòng khách trong nhà ông Mạnh được bày biện như cung điện. Các vật dụng được chạm trổ cầu kỳ. Kiểu ghế giống như ngai vàng…

Nhiều blogger, Facebooker dẫn lại tin tường thuật này như một bằng chứng về việc tại sao giới lãnh đạo Đảng CSVN tìm mọi cách để Đảng CSVN nắm giữ độc quyền lãnh đạo: Toàn dân, toàn quân phải bảo vệ đảng để giới lãnh đạo Đảng CSVN có thể tiếp tục duy trì cuộc sống xa hoa, vương giả như thế…

Trong quá khứ, việc công bố hình ảnh liên quan đến tư gia của giới lãnh đạo Đảng CSVN đã từng được xem là “trọng án.”

Cũng vì vậy, người ta chưa rõ ba tấm ảnh vừa được tờ Tiền Phong công bố về tư gia của ông Nông Đức Mạnh kể liệu có biến thành một vụ “trọng án” hay không.

Trước Nông Đức Mạnh là Lê Khả Phiêu

Ngày 24 tháng 1 năm 2009, ban liên lạc đồng hương Thanh Hoá ở Hà Nội với đại diện là các ông: Lê Thế Chữ – trưởng ban liên lạc đồng hương Thanh Hoá, Lê Xuân Thảo – trưởng ban doanh nghiệp đồng hương Thanh Hoá, Hoàng Văn Đoàn – phó ban doanh nghiệp đồng hương Thanh Hoá, Lữ Thành Long – tổng giám đốc công ty Misa, Nguyễn Hồng Chung – chủ tịch công ty Luật Đại Việt, Bùi Việt Hà – giám đốc công ty HINCO, Nguyễn Hữu Hùng – công ty Truyền Thông Dầu Khí Việt Nam, Lê Xuân Tiến Trung – công ty Việt FT và một số người khác, cùng là dân Thanh Hoá đã đến tư gia ông Lê Khả Phiêu để chúc Tết, tặng quà cho cựu tổng bí thư Đảng CSVN…

Các thành viên trong đoàn đã được ông Lê Khả Phiêu đưa đi thăm tư gia và không rõ ai đó đã đưa hàng loạt ảnh lên Internet để tất cả mọi người có thể tận mắt mục kích, một cựu tổng bí thư của Đảng CSVN đang sống xa hoa như thế nào (?), sùng bái cá nhân mình ra sao.

Khắp nhà Lê Khả Phiêu, chỗ nào cũng có tượng đồng, tranh, ảnh của ông Lê Khả Phiêu, nhân vật này còn tặng cho các thành viên đến thăm, mỗi người một cuốn sách do Lê Khả Phiêu tự viết về mình với tên sách là… “Mênh mông tình dân”?

Đáng lưu ý là Lê Khả Phiêu từng được tôn vinh như một lãnh đạo liêm khiết, đi đầu trong việc chống tham nhũng nhưng trong tư gia của ông Phiêu lại có những báu vật quốc gia, cấm cá nhân sở hữu như trống đồng, hoặc những bộ ngà voi mà người ta lượng giá không dưới 50,000 Mỹ kim, hoặc vườn rau được trồng, tưới tự động, phục vụ nhu cầu của gia đình ông Phiêu, mà vốn đầu tư được ước đoán không dưới 20,000 Mỹ kim.

Lê Khả Phiêu cũng từng là nhân vật được xem như “tuyệt đối trung thành với lý tưởng Cộng Sản,” từng lớn tiếng dạy dỗ ông Bill Clinton khi ông đến thăm Việt Nam về sự ưu việt của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Lúc đó, loạt ảnh chụp tư gia kèm theo lời bình về sự xa hoa và những tuyên bố giả dối “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” của ông Phiêu cũng như các viên chức cao cấp khác của đảng và chính quyền CSVN đã khiến dư luận trong nước rúng động. Những hình ảnh và lời bình này đã được phát tán rộng rãi trên Internet.

Các nguồn thạo tin kể rằng, đích thân ông Lê Hồng Anh, ủy viên Bộ Chính Trị, thời điểm đó là bộ trưởng Công An Việt Nam đã trực tiếp chỉ đạo điều tra. Sau đó, Công An Việt Nam xác định, trong nhóm đến thăm tư gia ông Phiêu, có ít nhất ba người mang máy ảnh và cả ba đều đã bị triệu tập để lấy lời khai, nhằm xác định xem người đưa tin vô danh là ai…

Nay, hình ảnh về tư gia của ông Mạnh cho thấy nó giống hệt tư gia của ông Phiêu ở cả sự xa hoa lẫn sự tôn vinh ông Hồ Chí Minh – “tấm gương” mà họ “nguyện suốt đời noi theo.” (G.Đ)

Báo Tiền Phong gỡ ảnh ‘nhạy cảm’

Báo Tiền Phong gỡ ảnh ‘nhạy cảm’

Một trong các bức ảnh đã bị gỡ bỏ

Tờ báo của Trung ương Đoàn Thanh niên CS vừa gỡ ba bức ảnh chụp tại tư gia cựu Tổng Bí thư Đảng CSVN Nông Đức Mạnh, vốn gây bàn tán trên các mạng xã hội.

Bài báo ‘ Ban Bí thư T.Ư Đoàn chúc Tết nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước‘ đăng hôm 19/2 phản ánh việc “Ban Bí thư T.Ư Đoàn do Bí thư thứ nhất T.Ư Đoàn Nguyễn Đắc Vinh dẫn đầu tới thăm, chúc Tết các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và thắp hương tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu (Hà Nội)”.

Sự kiện diễn ra sáng 19/2, tức sáng Mùng 1 Tết Ất Mùi.

Trong bài có một số ảnh đoàn đại biểu tới thăm và chúc Tết cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười; Lê Khả Phiêu; cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh và cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Ba bức ảnh được cho là chụp tại tư gia ông Nông Đức Mạnh với nội thất màu vàng rực rỡ đã gây bàn tán khá nhiều trên các mạng xã hội.

Một bức mô tả ông Mạnh ngồi tiếp ông Nguyễn Đắc Vinh trong phòng khách có tượng Hồ Chủ tịch màu vàng bày trước mặt trống đồng cũng màu vàng.

Hai ông ngồi trên hai chiếc ghế bành có tay nắm hình đầu rồng, lưng ghế cao như ngai vàng.

Hai bức khác cũng được chụp trong căn phòng trên, nhưng có nhiều người hơn.

Tư gia ông Nông Đức Mạnh trên các bức ảnh khá khác biệt với nhà của hai ông tiền nhiệm Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu.

Ba bức ảnh nhanh chóng được lưu truyền trên mạng xã hội Facebook với nhiều bình luận khen chê.

Báo Tiền Phong sau đó đã gỡ bỏ ba bức ảnh này và thay bằng một bức khác trung tính hơn mô tả đoàn đại biểu chụp hình lưu niệm cùng ông Nông Đức Mạnh và các em thiếu nhi quàng khăn đỏ. Bức này không nhìn rõ nội thất.

Ông Nông Đức Mạnh, sinh năm 1940, làm tổng bí thư Đảng CSVN hai nhiệm kỳ từ 2001 tới 2011.

Trước đó ông làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam từ 1992 đến 2001.

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Tác Giả : Tạ Duy Anh

Xahoi – Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam.


Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi …Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ ngày một phình to?

Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30 % công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng 800.000. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.

Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor…Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland…

Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng ( 2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều.

Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 5 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giả phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 1500 buổi, với khoảng 9000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.

Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai hoạ của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại công kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách vào nhà nghỉ với chính đồng nghiệp của mình. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì shoping tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày…

Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ đến tuổi là đến. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng…đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách…biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.

Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ. Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

RFA

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

Thơ Nguyễn Bính hay hơn ở những sáng tác trước năm 1945, tức là khi ông chưa sáng tác theo phương pháp hiện thực XHCN, chưa có tính đảng. Đây cũng là nét chung của các nhà thơ trong phong trào thơ mới như Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Chế Lan Viên…

Trong giai đoạn này thì thời kỳ 1936-1940 là thời kỳ rực rỡ nhất của thơ Nguyễn Bính, trong đó thành công hơn cả là mảng mùa xuân – làng quê – tình yêu. Sau đó thì đuối dần.

Khi chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20, chia đều cho100 tác giả, mỗi tác giả 1 bài thì với Nguyễn Bính, người ta chọn bài “Những bóng người trên sân ga”. Không ai phủ nhận đấy là một bài thơ hay nhưng nếu được quyền, tôi sẽ chọn bài “Mưa xuân”. Khi giới thiệu 8 bài thơ của Nguyễn Bính vào “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh không lấy bài này cũng như “Những bóng người trên sân ga”

MƯA XUÂN

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.*

Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

(* Có bản chép “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”, hoặc “lỡ làng”)

Đã có nhiều bài bình về bài thơ này, mỗi người cảm thụ một vẻ, nhưng cũng có những phần giao thoa.

Mùa xuân trong bài thơ có mưa bụi, có hoa xoan, có hội chèo. Ba nét ấy là những nét chấm phá nói về mùa xuân ở làng quê. Bức tranh làng quê sống động hẳn qua ngòi bút của ông. Cách dùng chữ của ông thật tài tình. Mùa xuân đẹp đến hạt mưa cũng bay phơi phới, như nỗi lòng con gái dậy thì, đầy nhựa sống và xúc cảm. Tác giả đã thổi hồn vào hạt mưa thật đẹp. Chữ phơi phới nhiều người dùng, nhưng dùng làm tính từ kèm theo mưa xuân thì chỉ Nguyễn Bính.

Qua hình ảnh “hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy, ta biết bối cảnh trong bài thơ là vào tháng Ba. Lúc này, ở làng quê đang tiếp tục mùa lễ hội. Trong các lễ hội thường có diễn chèo, diễn tuồng, gọi chung là đi xem hát, chứ không nói là xem chèo hay xem tuồng (hát bội). Hát ở đây không phải là chương trình ca nhạc như bây giờ. Đó là các gánh hát tư nhân thường diễn các tích chèo, tuồng cổ. Các đôi trai gái đang yêu vụng nhớ thầm thường mượn những nơi hội hè, phiên chợ để tìm cơ hội gặp nhau. Nhưng cũng chỉ là lúc mới thương thương nhớ nhớ mơ hồ thôi, chứ khi họ đã thuộc về nhau rồi thì chẳng dại gì đem nhau ra những nơi ấy. Họ có bờ ao, gốc cây riêng của họ.

Cô gái trong bài thơ cũng thế. Lý do là đi xem hát nhưng là để mong gặp chàng trai đấy thôi chứ thiết gì xem. Đi chơi cần tiết trời đẹp. Nhưng vì trời đang mưa nên cô phải thử:

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh.

Và cô nghĩ mưa nhưng nhẹ để cho rằng “Thế nào anh ấy chả sang xem”. Cũng qua câu này, ta biết đây không phải là cuộc hẹn mà cô gái phỏng đoán, là hy vọng đấy thôi. Nhưng cũng đáng trách chàng trai là trước đó có hứa, có hẹn gì đấy nhưng không cụ thể, theo kiểu sẽ thế này, sẽ thế nọ.

Cô gái ở đây là con nhà bình dân làn nghề canh cửi, có khuôn phép. Cô đang độ xuân thì, còn trong trắng, ví như “cây lụa trắng” mà quyền bán là của người mẹ. Ấy thế nhưng không thể đóng khao khát yêu đương của cô vào một cái khuôn nào đó:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Hai chữ “hình như” và “có lẽ” đặt vào tâm trạng cô gái lúc này là rất chính xác. Cắt nghĩa ra thì nó không mang tính khẳng định nhưng ai cũng biết má cô bừng đỏ thật, cô đang nghĩ đến người yêu thật, chứ không phải “hình như” hay “có lẽ”. Cô vừa muốn thừa nhận lại vừa sợ người khác biết, thậm chí muốn dối lòng mình nên chỉ lấp lửng như vậy thôi. Nó còn nói lên tâm trạng phân tâm, nên đi hay không đi.

Cuối cùng thì cô đã bị tình cảm lấn át:

Em xin phép mẹ vội vàng đi.

Tác giả tả cảnh, tả tình thật tuyệt vời. Người và cảnh hòa quyện đến độ con đê, hạt mưa, hoa xoan cũng biết vui, biết buồn.

Sau khi “chờ mãi anh sang anh chẳng sang”, cô gái “lầm lụi trên đường về”. Có một sự trách nhẹ ở đây:

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.

Ai đã từng một lần mong gặp người yêu mà không được sẽ thấu hiểu hơn tâm trạng cô gái lúc này. Nguyễn Bính diễn tả tâm lý cô gái khi đi và khi về rất tinh tế. Ông sử dụng thủ pháp tương phản rất hiệu quả. Đây là điều cơ bản tạo nên sự thành công của bài thơ.

Hãy đọc lại những cặp câu tương phản sau:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Mưa bụi nên em không ướt áo/ Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Thôn đoài cách có một thôi đê/ Có ngắn gì đâu một dải đê

Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay/ Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày

Tình cảm của cô gái đã rõ, còn chàng trai đối với cô gái như thế nào? Chàng được nhắc đến hai lần:

… hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Và:

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang.

Có thể nói anh chàng này rất khả nghi, còn tình cảm cô gái rất mãnh liệt. Mặc dù việc không gặp được người yêu làm cho “cả mùa xuân cũng bẽ bàng” nhưng cô gái vẫn tha thiết, mòn mỏi, hy vọng.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

Và với cả sự trách nhẹ của cô đã nhắc trên đây nữa, ta thấy ở cô một tấm lòng bao dung, trong sáng và cao đẹp.

Khi yêu, thường là người con trai chủ động hơn người con gái. Nói như thế, không phải là tình yêu của con trai mãnh liệt hơn. Cô gái ở đây chỉ có một hành động duy nhất là sang hội chèo xem có gặp người ta không, rồi về, thế thôi. Nếu như chàng trai cũng sang xem hát, chắc là cô sẽ không hỏi trước, không tỏ ra vồn vã. Đó là sự kín đáo của con gái, nhất là con gái nhà quê. Nhưng ai bảo là cô không khao khát yêu đương.

Kể ra, bài thơ có thể thay nhân vật cô gái bằng chàng trai. Như vậy có vẻ hợp với lẽ thường hơn. Nhưng nếu thế, có lẽ bài thơ kém hay đi nhiều. Chợt nhớ Huy Thục, ít nhất đã có 2 lần đổi ngôi anh thành ngôi em khi phổ nhạc. Đó là bài “Đợi” của Vũ Quần Phương, “Trăng khuyết” của Phi Tuyết Ba, và cái sự có vẻ trái khoáy ấy làm cho bài hát thành công hơn hẳn:

Anh ngỏ lời yêu em => Em ngỏ lời yêu anh

Anh đứng trên cầu đợi em => Em đứng trên cầu đợi anh.

Trở lại bài “Mưa xuân”. Bài thơ được bố cục rất chặt chẽ. Ta không thể thay đổi vị trí các câu, các khổ thơ cho nhau, cũng không thể bỏ đi hay thêm vào một khổ thơ nào. Từ ngữ được huy động đầy dụng ý, không có một chữ nào khiên cưỡng. Khó có thể thò bút chữa đi một chữ mà không làm suy giảm giá trị của bài thơ. “Những bóng người trên sân ga” cũng được bố cục rất chặt chẽ nhưng ở “Mưa xuân”, ý và chữ nghĩa hay hơn, đẹp hơn. Có thể nói, “Mưa xuân” là một bài thơ toàn bích.

Nguyễn Bính không cố đi tìm những từ lạ, lối diễn đạt lạ. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ bình dân nhưng với ngòi bút tài hoa, ông đã để lại cho đời nhiều bài thơ xuất sắc, trong đó “Mưa xuân” – một bài thơ tình tuyệt đẹp là ví dụ điển hình.

Tháng 2/2013

Tháng 2/2015

NTT

.benmonguyenbinh

Tác giả bài viết bên mộ Nguyễn Bính

Những thương phế binh VNCH không có Tết

Những thương phế binh VNCH không có Tết

Nguoi-viet.com

Việt Hùng/Người Việt

SÀI GÒN (NV)Trên đường phố Sài Gòn ngày 30 Tết Ất Mùi có những phận đời hẩm hiu, xem đường phố là nhà. Họ là những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mưu sinh giữa lòng Sài Gòn khi năm mới cận kề.

Nếu ai đó đã từng đi qua ngã tư Ðiện Biên Phủ-Lê Quí Ðôn, Quận 3, Sài Gòn, ắt hẳn từng bắt gặp hình ảnh một người đàn ông, khoảng 68 tuổi, bị mất cả 2 chân, tay cầm xấp vé số, giơ lên hua qua hua lại: “Các cô các chú giúp giùm một tờ vé số.”



TPB Nguyễn Văn Quang bị mất 2 chân đang bán vé số. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Ðó là chú thương phế binh Nguyễn Văn Quang, số quân 52/711750, thuộc đơn vị Tiểu Ðoàn 328, địa phương quân Tiểu Hậu, xã Hậu Nghĩa, Huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

Chú Quang cho biết: “Hôm nay đã là 30 Tết rồi, chú cố gắng ra đây bán, để kiếm thêm một ít mua vài món quá về làm lễ cúng giao thừa. Nhà trọ của chú ở huyện Nhà Bè, cách đây hơn 30km, chú không có tiền nên phải thuê xa cho nó rẻ…”

Bữa trưa của chú Quang là ổ bánh mì, xong rồi tiếp tục bán cho đến hết khoảng 100 tờ vé số mới nghỉ.

Lau những giọt mồ hôi trên trán, chú cho biết thêm: “Tôi là lính VNCH, tôi bị mất cả 2 chân trong chiến dịch Phượng Hoàng vào năm 1969. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên tôi mới phải đi bán vé số thế này. Nhà nước này không hoan nghênh những trường hợp như tôi, nhưng tôi luôn tự hào vì mình là người lính VNCH, đã chiến đấu cho sự bình yên của miền Nam Việt Nam.”

Khi biết chúng tôi muốn viết phóng sự về những người lính VNCH, chú còn nhiệt tình cho vài số điện thoại của những người bạn mà chú biết. Chú nói thêm: “Hầu hết người lính VNCH bây giờ có hoàn cảnh rất khó khăn, như chú là còn có sức khỏe để bán vé số, chứ nhiều người bây giờ phải nằm liệt giường, hoàn cảnh rất thương tâm.”

Trước khi chào chú ra về, chú Quang còn lấy trong đống hành lý những tấm hình lính cũ ngày xưa mà chú đã cất giữ rất cẩn thận để chúng tôi xem.



TPB Nguyễn Văn Tài hành nghề xe honda ôm, khuôn mặt buồn bã khi không có khách. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Cũng tương tự như trường hợp chú Quang, chú Ðoàn Quang Thí (số quân 131798, đơn vị Triệu Phong, Quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) cũng làm nghề bán vé số ở ngã tư Bà Huyện Thanh Quan-Lý Chính Thắng, Quận 3, Sài Gòn.

Sài Gòn những ngày cận Tết trời nắng gắt, thế nhưng trưa 30 Tết, chúng tôi vẫn bắt gặp chú ngồi trên chiếc xe lăn, tay cầm xấp vé số hua qua hua lại: “Ngày 30 rồi cô chú ơi, mua giúp tờ vé số lấy hên may mắn đầu năm.”

Chú tâm sự: “Chú bị thương vào mùa Hè đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị. Trọng một lần hành quân, đơn vị của chú bị tập kích của địch, chú bị trúng đạn xuyên sống lưng, bị đứt dây thần kinh, nên 2 chân hoàn toàn bị bại liệt. May mắn còn giữ được tính mạng.”

Chú còn cho biết thêm: “Chú không có nhà cửa, cũng không có tiền thuê nhà, bởi vậy mọi sinh hoạt của chú đều trên xe lăn. Buổi tối chú về chỗ nhà thờ Mai Khôi (12 Tú Xương, Quận 3) và lấy nhà vệ sinh chung của nhà thờ để tắm rửa. Ban đêm chú ngủ trên xe lăn ở mai hiên nhà thờ.”

Tuy hoàn cảnh rất thương tâm, thế nhưng khi được chúng tôi hỏi về đời lính, chú rất hào hứng: “Chú sinh ra trong thời chiến, chú tự hào vì đã cầm súng cho chế độ VNCH. Nếu có sự lựa chọn làm lại, thì chú vẫn sẽ làm lính VNCH, vì miền Nam là quê hương máu mủ của chú.”

Những ngày này không khí Tết đã lan tỏa khắp các thôn xóm Việt Nam, nhiều người hồ hởi sắm sửa Tết cho gia đình, nhưng cũng có nhiều người Tết như một giấc chiêm bao mà ở đó cảm giác nửa mơ nửa tỉnh, nửa đói nửa buồn, nửa tồn tại, nửa mơ hồ cứ vây bủa lấy họ.

Ðiển hình là TPB VNCH Nguyễn Văn Tài, số quân 75109488, Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, Lữ Ðoàn 1, chỉ huy trưởng là Trung Úy Thăng, trung đội trưởng là Thiếu Úy Tâm. Hiện nay chú đang làm nghề xe ôm ở góc ngã ba Võ Thị Sáu-Lê Quí Ðôn.

Chúng tôi bắt gặp chú vẫn đang chở đồ thuê vào chiều 30 Tết. Chú cho biết: “Trước đây thì còn có khách đi xe ôm, bây giờ sát Tết rồi, không ai đi xe nữa, nên tôi chuyển sang chở hàng cho khách.”



TPB Ðoàn Quang Thí bị liệt 2 chân ngồi xe lăn bán vé số. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Chú tâm sự: “Chú bị thương vào ngày 23 tháng 12, 1972 vào mua Hè đỏ lửa ở Quảng Trị. Trong một lần nhảy dù xuống để yểm trợ cho quân ta, tiểu đoàn của chú đã bị trúng mìn của địch. Hấu hết đều bỏ mạng vào lúc đó, chú may mắn chỉ bị thương ở chân, nhưng phải cắt bỏ để giữ lấy tính mạng.”

“Ngày mai là mồng Một Tết rồi, tôi cố gắng chạy thêm vài ‘cuốc’ nữa để kiếm thêm chút ít, ngày mai mồng một hẳn nghỉ. Tôi thuê nhà ở quận 9, cách xa chỗ này khoảng 20km. Thuê ở xa cho nó rẻ, chứ ở trung tâm này mắc quá…”

Có lẽ ngày 30 Tết, ai cũng muốn về nhà để yên vui với gia đình, con cái. Thế nhưng với những người từng là lính VNCH, thì mơ ước nhỏ nhoi đó lại là bài toán mà họ đã tìm cách giải hơn 40 năm nay vẫn chưa được.

Cuộc sống có vẽ như quá bất công với họ. Mỗi con người một hoàn cảnh, một ngành nghề kiếm sống khác nhau, thế nhưng điều đọng lại cho người viết khi tiếp xúc với họ đều có một mẫu số chung “Tôi tự hào là một người lính VNCH.”

Từ thế kỷ trước, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết ra câu thơ mô tả dân nghèo thời đấy: “Có một người nghèo không biết Tết. Mang lì chiếc áo độ thu tàn.” Thế nhưng một thế kỷ trôi qua, câu thơ này vẫn con nguyên giá trị của nó.

Thêm một cái Tết nữa đã đến, mùa Xuân đã về. Nhưng còn nhiều lắm những hoàn cảnh TPB VNCH với bao nỗi lo toan vất vả. Mỗi dịp Tết đến là một lần họ lại chạnh lòng thấm thía thân phận của mình trong xã hội Việt Nam hiện nay.

KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ

KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ

Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss

Lễ Mồng Hai Tết tại Gx. Kim Long, Huế

Kính thưa Quý Ông Bà và Anh Chị Em, 

Thiên Chúa đã dành điều răn thứ tư trong 10 điều răn để dạy chúng ta về lòng thảo hiếu. Và Giáo Hội Việt Nam dành Ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ. Chính Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã nhắc việc “thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử[1]. Còn thánh Phaolô trong bài đọc II dạy: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này[2]. Việc cử hành đức thảo hiếu của chúng ta hôm nay có hai phần rõ rệt: một là kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời, hai là quan tâm đến Ông Bà Cha Mẹ đang còn sống.

1) Trước hết, việc kính nhớ nhắc chúng ta biết rằng Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đã qua đời có những người nhờ đời sống thánh thiện đã được đưa thẳng lên Thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa; nhưng cũng có những người vì thân phận yếu đuối của con người nay đang được thanh luyện trong luyện ngục. Các đấng đang ở trong luyện ngục may mắn không làm chi thêm tội, chỉ phải lo đền trả theo lẽ công bằng cho đến đồng xu cuối cùng[3], và các ngài cũng chẳng làm được chi thêm công phúc cho mình, chỉ trông nhờ vào lời cầu bàu của các thánh trên trời và sự giúp đỡ của chúng ta là con cháu của các ngài đang còn sống, nên tích cực cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời là bổn phận đức ái và thảo hiếu không thể thiếu. Giáo Lý dạy chúng ta biết rằng Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta trong luyện ngục phải trải qua những khổ đau dữ dội chẳng khác gì trong hoả ngục, chỉ khác là đau khổ trong luyện ngục có thời hạn và còn hy vọng được nhìn thấy Chúa, còn đau khổ trong hoả ngục là vô tận vì sẽ không bao giờ được nhìn thấy mặt Chúa nữa.

Chúng ta không chỉ nhớ đến các đấng đã sinh thành dưỡng dục mình nên người về phần xác, mà còn phải nhớ đến các đấng sinh thành nuôi dưỡng cùng đào tạo chúng ta trong đức tin và đời sống làm con Chúa nữa, như các linh mục, tu sĩ đã chăm sóc mục vụ cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ đến các ân nhân và mọi người đã chết, nhất là các linh hồn không được ai nhớ đến để cầu nguyện cho, dù lắm khi người thân của họ còn sống đầy dẫy ra đó, quen gọi là các linh hồn mồ côi. Chúng ta cũng không được quên những người mình có liên đới trách nhiệm, những người vì sự thiếu sót, lầm lỗi hay gương mù gương xấu của chúng ta mà giờ đây đang phải đau khổ trong lửa luyện ngục để cầu nguyện cho họ và đền tội chúng ta theo lẽ công bằng. Việc làm này không những lợi ích cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ chúng ta và các linh hồn mà còn cho chính cuộc sống đời đời của chúng ta nữa, vì nó nhắc nhở chúng ta thức tỉnh nhìn lại cuộc sống của chính bản thân mình, nhất là trong Mùa Chay thánh vừa khởi đầu, sẽ phải đến trước toà phán xét trả lời Thiên Chúa về tất cả những gì chúng ta đã làm khi còn sống. Cuộc sống hiện tại rất ngắn ngủi so với cuộc sống đời đời, nhưng chính cuộc sống ngắn ngủi này lại quyết định số phận vô tận đằng sau cái chết và mời gọi chúng ta thức tỉnh ngay từ lúc này, thu xếp mọi sự ổn thỏa trước lúc phải ra đi, kẻo muộn mất chăng.

2) Bổn phận thứ hai của chúng ta là phải quan tâm tới Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đang còn sống, không được viện bất cứ lý lẽ gì để chước miễn bổn phận thảo hiếu này, kể cả những việc làm liên quan đến chính Chúa, như Chúa Giêsu nghiêm khắc quở trách các biệt phái và các kinh sư “là lấy tập tục của người phàm mà bỏ qua Lời Chúa” chúng ta vừa nghe trong bài Phúc âm hôm nay. Chúng ta phải lo phụng dưỡng Ông Bà Cha Mẹ, sớm viếng tối thăm, thuốc thang khi đau ốm, đỡ đần miếng cơm miếng cháo… đừng để khi Ông Bà Cha Mẹ mất đi rồi hối hận muốn làm gì bù đắp cũng không còn được nữa, và còn bị người đời mỉa mai “khi sống con chẳng cho ăn, khi chết làm văn tế ruồi!” hay “một mẹ nuôi được mười con, mà mười con không nuôi nổi một mẹ!”
Ngoài ra, còn phải biết cộng tác giúp đỡ Ông Bà Cha Mẹ trong công việc thường ngày nữa. Kẻ nào quên bổn phận thảo hiếu sẽ không lớn lên thành người được. Câu chuyện đôi bàn tay của mẹ sau đây nói lên điều đó: Một thanh niên kia học hành đỗ đạt nộp đơn vào chức vụ quản trị một công ty lớn. Anh đã qua được các buổi phỏng vấn, và nay đến lượt ông giám đốc trực tiếp phỏng vấn lần cuối để quyết định nhận hay không nhận. Ông xem xét hồ sơ của anh thấy tất cả đều rất tốt, vì năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học, anh cũng đều xuất sắc, vượt bực. Ông hỏi:
– Anh đã được học bỗng nào?

– Thưa, không ạ.

– Thế cha anh trả học phí cho anh à?

– Cha tôi chết khi tôi vừa mới một tuổi. Chính mẹ tôi mới là người trả học phí và lo mọi chuyện cho tôi.

– Mẹ anh làm việc gì, ở đâu ?

– Thưa mẹ tôi giặt áo quần cho các tiệm giặt.

Viên giám đốc bảo người thanh niên đưa đôi bàn tay cho ông xem. Anh đưa ra hai bàn tay mịn màng rất đẹp. Ông hỏi:

– Có bao giờ anh giúp mẹ giặt giũ áo quần không?”

– Chưa bao giờ cả, bởi mẹ luôn bảo tôi phải lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi nhiều.

– Tôi có một yêu cầu: Hôm nay về nhà, anh hãy rửa đôi tay mẹ anh và ngày mai anh đến gặp tôi.

Người thanh niên cảm thấy anh có thể làm rất tốt công việc quá dễ dàng này, nên khi vừa về đến nhà, anh liền thưa với mẹ xin được rửa đôi bàn tay của mẹ. Mẹ anh cảm thấy rất ngạc nhiên, nhưng rồi cũng đưa đôi bàn tay cho con trai. Chàng từ từ rửa đôi bàn tay của mẹ. Nước mắt anh bỗng tuôn ràn rụa, bởi đây là lần đầu tiên anh khám phá ra rằng đôi tay nhăn nheo của mẹ đầy những vết chai cứng, sần sùi. Những vết sần này làm bà đau buốt khi đụng tới. Lần đầu tiên trong đời, anh nhận thức được rằng chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này của mẹ đã giúp anh có cái ăn cái mặc, tiền tiêu và trả học phí trong suốt nhiều năm qua. Những vết chai trên đôi bàn tay của mẹ là cái giá phải trả cho những xuất sắc trong học tập, và cho cả tương lai sẽ tới của anh nữa. Sau khi rửa và lau sạch đôi tay của mẹ, anh lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại. Tối hôm đó, hai mẹ con mới chuyện trò thật lâu với nhau. Sáng hôm sau, anh tới gặp ông giám đốc. Ông để ý thấy những giọt nước mắt lưng tròng trên đôi mắt anh và hỏi:

– Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã cảm nhận được hôm qua ở nhà không?

– Tôi đã rửa và lau sạch đôi tay của mẹ tôi như ông yêu cầu, và tôi đã giặt hết phần áo quần còn lại mà hàng ngày mẹ tôi phải làm.

– Thế cảm tưởng của anh như thế nào?

– Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn. Nếu không có mẹ, tôi không thể có được như ngày hôm nay. Qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức rằng thật là khó khăn và gian khổ để hoàn tất một công việc. Nay tôi càng biết rõ hơn sự quan trọng và giá trị của quan hệ gia đình.

– Ðây mới là những gì tôi tìm nơi người quản trị công ty. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của người khác và sẵn lòng giúp đỡ người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của người khác để hoàn thành nhiệm vụ, một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất trong cuộc đời mình. Anh là người được tuyển dụng. Tôi rất vui.

Kính thưa Quý Ông Bà và Anh Chị Em,

Xin cho việc kính nhớ và cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã khuất càng thôi thúc chúng ta hết lòng quan tâm tới Ông Bà Cha Mẹ chúng ta đang còn sống, hết lòng hiếu thảo phụng dưỡng, an ủi nâng đỡ các ngài, để các ngài được an vui hạnh phúc trong chuỗi ngày còn lại với chúng ta nơi dương thế, đợi ngày về an hưởng hạnh phúc trong Nhà Cha trên trời. Amen.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

[1] Mt 15, 1-6.

[2] Ep 6, 1-3.

[3] x. Lc 12, 59.

Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss

Sài Gòn, chiều 30 Tết và Giao Thừa

Sài Gòn, chiều 30 Tết và Giao Thừa

Văn Lang/Người Việt

SÀI GÒN (NV)Trưa 30 Tết tại chợ hoa Bến Bình Đông vẫn tấp nập người qua kẻ lại. Nhưng người “chơi hoa” dường như vẫn chưa thực sự xuất hiện. Mặc dù năm nay mai nở rất đều, bất chấp trời lạnh và năm nhuần.

Mai nở hoa vàng rực rỡ Bến Bình Đông trưa 30 Tết nhưng không có khách mua. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Mai nở vàng rực rỡ cả Bến Bình Đông… Nhưng giữa đám đông qua lại ồn ào, trong cái nắng “quái”gắt gao của một buổi trưa 30, cất lên một tiếng rao, chói lỏi: “Mua dzô! Mua dzô ! Một trăm ngàn một cây mai đâââyyy…!!!”

Không thấy ai hưởng ứng, người đàn ông có nước da đen nhẻm, tự cất tiếng cười một mình, rồi than: “Cây bây lớn, bán có một trăm ngàn mà chẳng có ma nào thèm mua!”

Gặp một cô gái ôm một chậu tắc nhỏ rất đẹp. Chúng tôi hỏi thăm. Cô gái cho biết mua có… 40 ngàn đồng. Hết hồn! Thời điểm rớt giá của chợ hoa Bến Bình Đông đã điểm.

Một giờ chiều tại chợ hoa đầu mối (bán quanh năm) có tên là Hồ Thị Kỷ, thuộc quận 10. Đó là một con đường nhỏ, một đầu ăn thông với Lý Thái Tổ, gần bùng binh ngã 7, đầu kia ăn thông ra đường Hùng Vương.

Đủ thứ tiếng rao “đại hạ giá” được xướng lên cùng lúc: “Bông cúc 10 ngàn đồng đây! Lây-ơn Đà Lạt 30 ngàn! Lily Đà Lạt 50 ngàn đồng đây!”

Trên đường Lý Thường Kiệt (Nguyễn Văn Thoại cũ), bắt gặp hình ảnh một chiếc xe cẩu đang cẩu những chậu mai cổ thụ lên xe tải. Chúng tôi biết thời điểm của hoa trái lui về “bến xưa” -nơi chốn vườn nhà đã điểm.

Gặp ông chủ của những gốc mai đại thụ đang đứng gần xe tải chờ chở mai về. Chúng tôi hỏi thăm, thì chỉ nhận được một cái lắc đầu, ngao ngán: “Năm nay bán ế lắm!”

Hỏi thăm tiếp, xe chở mai này về tới đâu lận? Ông chủ mai chỉ trả lời bâng quơ: “Xa lắm!”

Trên đường Thành Thái, mai và tắc (loại tốt) cũng đang lần lượt được khiêng lên xe tải để “hồi cố hương.”

Duy chỉ có mấy gian hàng bán cây trái kiểng coi bộ “kẹt cứng.” Đã là 14 giờ chiều của ngày 30 tết mà gian hàng quýt kiểng vẫn gần như còn nguyên, có lẽ vì đã kêu giá quá cao, từ 2 triệu rưỡi tới 4-5 triệu đồng/1 cây. Ổi kiểng và “lão vú sữa”cũng chịu chung số phận, trong khi năm ngoái thì hai loại cây kiểng có trái đẹp này gần như bán hết ngay trong ngày đầu (23 Tháng Chạp). Năm nay, cây kiểng chỉ có Thanh Long là bán hết hàng, có lẽ do giá bình dân, chỉ từ 300 ngàn đồng tới 1 triệu. Và cây Thanh Long trưng tết cũng khá đẹp và “hợp duyên” với Tết.

Dưa hấu bị chủ nhân “bỏ rơi” lăn lóc trên vỉa hè (đường Bắc Hải nối dài) vào trưa 30 Tết. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Kế bên đường Thành Thái là đường Bắc Hải (nối dài).Thấy nhiều người đang lúi húi bên một đống dưa hấu khá lớn trên vỉa hè. Chúng tôi ghé lại để hỏi thăm giá dưa, ai dè một người đàn ông đang lựa dưa hấu cho biết là chủ dưa đã bỏ, ai thích thì cứ lựa mà lấy.

Vụ chủ dưa bỏ lại dưa trên vỉa hè, chúng tôi cũng đã chứng kiến mấy lần, nhưng chưa bao giờ chúng tôi thấy ai lại bỏ lại những trái dưa hấu lớn như vậy, trong khi trời còn sớm mới chỉ chưa tới 15 giờ chiều.

Bốn giờ chiều, nắng bớt gắt, trời mát dịu, nhưng hầu hết các chủ hoa đều…mặt héo. Vì dù đã ra rả kêu gọi “đại hạ giá,” nhưng bông vẫn còn nhiều.Lác đác đã có những chủ bông (loại bèo) “đứng lên,” mặc cho đám hoa héo thành ra …vô chủ.

Năm giờ chiều, cổng chợ Bà Chiểu, những gian hàng quần áo bày trên vỉa hè, ngoài khu mặt tiền chợ vẫn tấp nập kẻ mua người bán.

Quần áo bán ở đây khá đẹp, người bán không quá nói thách, cái hay là khu chợ này bao giờ cũng bán tới tận tối 30. Nên những người nghèo, người bận rộn công việc cuối năm thường nhớ tới khu này để sắm cho mình “một cái gì đó,” kịp trước thềm năm mới.

Lăng Ông cổng vẫn khép hờ.Phải tới sau 21 giờ mới có người đến viếng, đông dần lên cho tới tận giao thừa.

Đón Giao Thừa

Trở lại Bến Bình Đông vào lúc 9 giờ 30 tối, chúng tôi thật ngạc nhiên khi thấy vẫn tấp nập người…đi coi bông. Mặc dù một số ghe đã quay lui, nhưng cũng còn không ít ghe vẫn kiên trì “bám trụ.”

Dưới ánh đèn đường gương mặt người bán bông như tối hẳn lại. Cả tuần qua họ đã quá mệt mỏi, bây giờ đang bước gần tới thời điểm đón giao thừa mà hàng vẫn còn đó, đường về quê lại xa.

Ít thấy khi nào như năm nay, tới tận 11 giờ mà một số nơi vẫn còn người bán bông (như bên hông Thuận Kiều Plaza) và cả trên Bến Bình Đông, mai tắc loại vừa và nhỏ cùng với những vựa dưa hấu vẫn ê hề…

Quang cảnh chùa Bà (Thiên Hậu) quận 5 trong đêm giao thừa. (Hình: Văn Lang/Người Việt)
Sau 10 giờ đêm, có hai dòng người như “chảy” ngược chiều nhau.

Đa số lớp trung niên, người lớn tuổi (đôi khi được những người trẻ đi kèm) đổ về chùa chiền, nơi thờ tự, như: chùa Vĩnh Nghiêm, Lăng Ông – Bà Chiểu, còn người Hoa vùng Chợ Lớn thì đổ về chùa Bà (Thiên Hậu)…

Lớp trẻ thì đổ về khu trung tâm Sài Gòn, để “lượn lờ”xem đường hoa (năm nay đã dời qua đường Hàm Nghi, thay gì đường Nguyễn Huệ như mọi năm). Và chờ coi bắn pháo bông từ bến Bạch Đằng.

Lăng Ông, Chùa Bà, chùa Vĩnh Nghiêm năm nay cũng như mọi năm đều đông và khói nhang mù mịt.

Gần tới giao thừa, dòng xe Honda chạy trên đường phố Sài Gòn như lao vun vút, hối hả hơn. Nhưng cũng không ít người chợt dừng xe, khi họ thấy trên đường 3 tháng 2 (đường Trần Quốc Toản cũ), có nhiều người lang thang phải ngủ vỉa hè giữa đêm lạnh. Của ít lòng nhiều, họ đặt vô tay những người kia ít đồng bạc, với hy vọng an ủi được chút nào với những người có số phận không may…

Tiếng pháo bông nổ lụp bụp trên bầu trời Sài Gòn báo hiệu thời khắc “tống cựu nghênh tân” – Tiễn năm cũ đi và đón năm mới về.

Cùng với tiếng trống báo hiệu từ Lăng Ông, tiếng chuông chùa Vĩnh Nghiêm hòa cùng tiếng chuông trầm ấm của hàng trăm, hàng ngàn tiếng chuông từ các ngôi chùa lớn nhỏ ở Sài Gòn, rền vang lên tiếng ngân trong không gian như một câu bi chú cầu chúc cho nhân gian được thái hòa…

NGÀY XUÂN NGHE LẠI CA KHÚC “XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ”

NGÀY XUÂN NGHE LẠI CA KHÚC “XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ”

Nguyễn Tường Thụy

RFA

“Xuân này con không về” là sáng tác của bộ ba nhạc sĩ Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân, vào khoảng năm 1960. Ca khúc này, Duy Khánh thể hiện thành công nhất.

Thời chiến tranh, Miền Bắc không bao giờ có những bài hát kiểu này (được gọi là nhạc vàng). Nhạc vàng, và cả những bài thuộc dòng nhạc xanh (nhạc tiền chiến) bị cấm cho đến khi hết chiến tranh mới được phổ biến. Còn nhạc đỏ là phục vụ cho cách mạng (cộng sản). Tuy nhiên, sự phân loại xanh, đỏ, vàng cũng chỉ là tương đối.

Nghe “Xuân này con không về” mà người lính muốn bỏ trận địa. Nhưng Việt Nam Cộng Hòa vẫn chấp nhận dòng nhạc này. Ca khúc thường được phát trên sóng phát thanh miền Nam Việt Nam vào mỗi dịp xuân sang cho đến năm 1975.

Có thể VNCH tự tin, có thể không nhận ra tác động tâm lý của dòng nhạc này, có thể vì nhân bản. Dù sao thì đấy là một trong những điểm yếu (không nói là sai lầm) của VNCH trong chiến tranh nhưng tôi tin họ không bao giờ ân hận.

Thực ra, dòng nhạc này không có tội. Nhạc sĩ sáng tác bằng cảm xúc thật của mình nên không thể gọi là nhạc tâm lý chiến. Nó phản ánh rất trung thực cảm xúc, tâm trạng con người. Ở đây là những người lính. Nội dung bài hát không nói đến các vấn đề chính trị lớn lao. Khác với các ca khúc thiên về căm hờn, giục giã, xung trận dành cho người lính miền Bắc, tâm lý người lính ở đây nặng về gia đình, quê hương, chiến hữu… nói chung là các trạng thái tình cảm của con người. Không có chuyện lên gân, lên cốt theo kiểu con không về vì nhiệm vụ, vì lời kêu gọi của quốc gia, dân tộc.

Giai điệu hay, ca từ cảm động lại được thể hiện bằng giọng ca tuyệt vời của Duy Khánh, bài hát đã đi sâu vào lòng người qua nhiều thế hệ. Mỗi độ Tết đến, Xuân về, nghe lại ca khúc này, lòng người không khỏi rưng rưng.

Chỉ tiếc câu cuối, những lần hát sau được sửa là “Mẹ thương con xin đợi ngày mai”. Việc sửa này nó mang cái gì đó khiên cưỡng, mòn xáo. Còn bản cũ, điệp khúc “Mẹ ơi con xuân này vắng nhà” kéo dài, nghe càng lắng sâu, càng thêm da diết.

httpv://www.youtube.com/watch?v=D2qSGfyISHc#t=164

Nhân đây, xin giới thiệu thêm một clip thể hiện bài hát này của Đỗ Thị Minh Hạnh – một tù nhân lương tâm mới được trả tự do Tháng 6/2014. Xin lưu ý, Minh Hạnh không phải là ca sĩ chuyên nghiệp hay nghiệp dư mà chỉ là cô gái hay ca hát. Clip vừa được thực hiện ngày 27 âm lịch vừa rồi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=9QuBrGk0Ijc

Tết Ất Mùi (2015)

Nguyễn Tường Thụy

Cá Hồi Đỏ

Cá Hồi Đỏ

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.

Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN, chi nhánh TP HCM

Trang Câu Lạc Bộ Kỹ Thuật Việt Kiều đăng tải một bài viết (“Cuộc Di Cư Lớn Nhất Của Cá Hồi Đỏ Trong 100 Năm”) khá thú vị. Xin ghi lại toàn văn:

Khoảng 15.000 người đã đổ về tỉnh British Columbia của Canada để chứng kiến một trong những hiện tượng bí ẩn của tự nhiên: cuộc di cư khổng lồ của cá hồi đỏ, được cho là lớn nhất trong 1 thế kỷ trở lại đây.

Dự kiến, khoảng từ 6-8 triệu con cá hồi đỏ sẽ di cư tới sông Adams thuộc khu vực Shuswap của tỉnh British Columbia trong năm nay và đây được xem là cuộc di cư lớn nhất của cá hồi đỏ kể từ năm 1913.

Cá hồi đỏ là một trong các loại cá sống ở nước mặn và sinh sản ở nước ngọt. Cá hồi đỏ thường đẻ trứng trong vùng nước nông trên sông Adams vào tháng 10 hàng năm. Sau khi phát triển trong vùng nước ngọt khoảng 1 năm, những con cá nhỏ nở ra từ trứng sẽ di cư ra biển và sống ở đó khoảng 3 năm rồi quay trở lại chính nơi chúng được sinh ra.

Loài cá hồi khi di chuyển định hướng bằng mùi. Mỗi con cá nhớ đều nhớ mùi của dòng sông nơi nó sinh ra. Khi di chuyển qua đại dương trở về con sông sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó một cách hoàn toàn bản năng vì mùi vị thân quen càng gần càng trở nên rõ rệt.

Khi vào lại vùng nước ngọt, cá hồi sẽ không ăn và chuyển sang màu đỏ sáng.

Cá hồi có khả năng bơi ngược sông, vượt qua các dòng nước chảy xiết trong hành trình dài gần 500km từ biển tới sông Adams. Sau khi đã trở về nhà, chúng đẻ trứng rồi cuối cùng kiệt sức và chết. Trứng sau đó nở ra con non và con non lại hành trình ra biển.

Hiện tượng di cư bí ẩn của cá hồi luôn thu hút sự quan tâm của du khách đến với sông Adams. Tại công viên Roderick Haig-Brown cạnh sông Adams – địa điểm quan sát cá hồi đẻ trứng tốt nhất, bầu không khí tại khu vực vốn yên tĩnh này đã trở nên nhộn nhịp giống lễ hội đường phố.

Brian Riddell, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Quỹ cá hồi Thái Bình Dương, gọi cuộc di cư khổng lồ lần này là “điều bất ngờ thú vị” khi số cá hồi đỏ di cư nhiều gấp đôi so với dự đoán trước đó.

Nguồn ảnh: ovsclub.com.vn

Cá hồi Dại Tây Dương (Atlantic salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về từ sông ra biển và ngược lại nhiều lần mà không hề do dự hay nao núng, dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến hàng ngàn dặm, với vô số khó khăn và chướng ngại.

Bản năng về nguồn của cá hồi, tất nhiên, đã được loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.

Xét về số lượng, mức sản xuất của người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là điều cần cần phải được lưu tâm và học hỏi.

Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá hồi ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ tinh để mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau đó, chúng sẽ được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời “tha phương cầu thực.”

Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở biển từ sáu tháng đến năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” đuợc từ trường của lòng đất và sự chuyển động của hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến bờ, giác quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê nhà – tức sông xưa bến cũ – và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến tận nơi sinh nở.

Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa sông để giúp cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ tạo ra một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới di động. Màng luới này chuyển động không ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào…hộp !

Nói tóm lại là người Nhật thả cá hồi con ra biển, theo kiểu “đem con bỏ chợ,” để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng theo bản năng trở về, họ dụ cho cá vào nhà máy để đóng hộp, và mang bán.

Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc) là nhiều. Bởi vậy, có kẻ  bắt chước. Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (tên kêu gọn thường dùng là Việt Cộng) cũng học theo cách làm ăn không vốn gần như vậy. Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người để kinh doanh, thay cá.

Từ năm 1978 cho đế năm 1990, bằng hình thức này hay hình thức khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất là vài triệu người dân ra biển. Người ta ước tính rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá hồi rời bến sông ra đi thì ít nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi săn cho loài người, cho loài chim, hoặc những loài cá khác. Tương tự, trong số mấy triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả – tối thiểu – cũng phải một phần ba đã vong mạng.

Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì bị xô đuổi một cách lạnh lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận. Nơi đây thuyền bè của họ thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh giữa trời nước bao la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng không còn đủ lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.

Ảnh: wikipedia

Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ biến thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị Quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội. Đám dân “trôi sông lạc chợ” này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài, cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.

Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi chết thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã có thời gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á – cũng mang số phận y như  vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn có dịp ra đi nữa. Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông – khi phần đất này còn thuộc Anh – Anh Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ Kim mỗi đầu nguời để Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành hạ hay ngược đãi !

Số người Việt may mắn hơn, hiện đang phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây Dương – giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược lại. Những kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt Kiều về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu trăm Mỹ Kim mà có thể là đến sáu ngàn Ðô La, hay nhiều hơn nữa.

“Lượng kiều hối nhiều khả năng đạt 12 tỷ USD năm 2014,” theo như tin loan của  Đài Tiếng Nói Việt Nam –  nghe được vào hôm 30 tháng 11 năm 2014. Cùng thời điểm này, Nguyễn Hoàng Minh, (Phó Giám đốc NHNN – chi nhánh TP HCM) cho biết:“Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.”

Hà Nội có lý do để hãnh diện về thành quả này – thành quả kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ tiêu – về kỹ nghệ xuất và nhập cảng người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi nuớc những con nguời cùng quẫn và sôi xục bất mãn, rồi “thu về” những Việt kiều yêu nuớc và giàu sang.

Thiệt khoẻ !