Không phải tạm dung!

Không phải tạm dung!

Nguoi-viet.com

Lệ Hoa Wilson

Tôi người Việt Nam. Ông xã người Mỹ. Chúng tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa con. Ông xã thì cũng 30 tuổi và còn là trai tơ.

Vùng I chiến thuật lấy Ðà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của Hải Quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tay mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà xác! Một nhà xác không có nhiều nước mắt vì thân nhân ở mãi mười ngàn dặm xa!

Trước mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy được các quân cảnh Mỹ chận lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…

Đại gia đình tác giả (áo đỏ, đứng thứ 2 từ trái) trong lần cậu con trai út tốt nghiệp đại học UC Berkeley. (Hình: Tác giả cung cấp)

Vì ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương. Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh Việt Nam, có thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam Cộng Hòa phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, cánh tay quấn băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ còn một vài lọn lỏng lẻo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh mặt.

Bạn ơi, hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn mùi soa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc!

Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại. Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay. Người mẹ ở ngàn dặm xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát?… Một cái gì đó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút đi.

Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng 6, 1973, tôi sanh đứa con trai đầu lòng cho anh. Tháng 9 năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảng. Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại Việt Nam. Ðiều kiện để tôi nói “I do” là chúng tôi phải ở Việt Nam và sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!

Thời cuộc thay đổi, đến tháng 3 năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam thì Saigon vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.

Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thoại ngày một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để thoa mặt, v.v.. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.

Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.

Ngày 20 tháng 4, 1975 một trung sĩ Việt Nam lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cửa:

“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.

Tôi trả lời:

“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”

Viên trung sĩ vội nói:

“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”

Tôi cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường Tân Sơn Nhất. Khi vào văn phòng,vị đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.

Vị đại tá nhìn xấp tài liệu nói:

“Chồng bà yêu cầu tòa đại sứ giúp đỡ bà và ba đứa con di tản khỏi Việt Nam lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ nầy lại đây cho cô thơ ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay.”

Tôi ngẩn ngơ nhìn vị đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:

“Ngài đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… xin ngài hãy nói là ngài nói chơi, chuyện nầy không có thật…”

Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị đại tá rộng lượng nhìn tôi :

“Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ nầy đến nhà bà sáng mai.”

Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa,vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.

Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị đại tá không dám giỡn với tánh mạng người khác nên phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có được một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.

Ba má tôi không đi vì tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là sĩ quan Cộng Hòa: sợ mang tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo chồng.

Ba đứa cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh Cộng Sản.

Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:

“Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! Tôi thật không thể giúp bà.”

Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:

“Tôi hiểu thưa đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con tôi cũng xin ở lại.”

Vị đại tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì Việt Nam sẽ mất, rồi thì một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ nầy có thấm gì đối với số người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công văn “eight months pregnant wife and seven children of US citizen need to be evacuated” rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác người nhớn nhác ra đi.

Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 5 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hòa chỉ có bảy ngàn dân, cách San Francisco sáu tiếng đường xe về hướng bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Xô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.

Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người lạnh cóng. Ðêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ tục.

Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?

Không Giống Ai Hết!

Ðây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì cát bụi, mặt hỏm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v.v… và trùm lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy tờ.

Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Ðây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với sum họp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rã, với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp, lúc quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?

Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.

Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn, đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưỡi một giờ.

Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được đổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn xuống miền Nam California, tỉnh La Habra.

Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại Việt Nam, anh thì trước khi biến cố Việt Nam xảy ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngũ thì rất vui vẻ nói:

“Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn.”

Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười cười nhìn ông

“Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin chúng tôi không?”

Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

“Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp.”

Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghĩa là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phải là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai, Phong Ðiền, Cờ Ðỏ nên mỗi mùa Hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn Nam bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là sang trọng như người Việt Nam sống ở Mỹ. Biết sao!

Sau khi dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẩn ngơ và phán một câu, “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ.”

Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề nầy tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip thì… ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh, anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả nhiên là… ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ hỏi…bà có… bà có… bà có…. Cứ trả lời… dạ chưa… dạ chưa… dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.

Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng như thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…” Tôi nói với anh đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn Anh văn, bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:

“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ kiếm việc làm.”

Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:

“Dạ tôi cũng không biết chắc.”

Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm nhiệt thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.

Đại gia đình tác giả chụp trong dịp Tết. (Hình: Tác giả cung cấp)

Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế toán xuất nhập.

Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội, dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.

Những người bạn ngoại quốc mới nầy giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp.

Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái.

Biết văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo Hiến Pháp. Biết tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy lòng.

Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo.

Họ cười lăn lóc với cái accent Á Ðông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.

Chín mươi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Ðây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình. Họ sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người. Khi ở Việt Nam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn về Việt Nam hưởng thụ.

Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ khi té quị xuống bãi cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên.

Bạn hãy nhìn cả nhà húp sột soạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, it’s nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom (or dad). My home work is done.”

Ðây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hòa quyện vào nhau. Ðây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào. Chúng sẽ lớn lên với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn xẻ chia trong bài tập, với thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu.Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng đi.

Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước nầy, dân tộc nầy với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai.

Tôi sẽ hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi nầy làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia nầy.

Thay vì trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương nầy. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…

Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi nầy làm quê hương.

Quốc Phụ và Quốc Sư

Quốc Phụ và Quốc Sư

Huy Đức

BBC

Báo Tiền Phong đã gỡ vài bức ảnh ‘nhạy cảm’.

Tuy thất vọng trước chương trình Táo quân Giao thừa 2015, nhưng ngay sáng mùng Một Tết, công chúng đã được đền bù khi nhìn thấy những tấm hình chụp “thâm cung” nhà Cựu TBT Nông Đức Mạnh.

Trận cười chưa dứt thì hôm qua, mùng 6 Tết, dân chúng lại mục kích loạt ảnh GS Vũ Khiêu hôn má và cho chữ hoa hậu Kỳ Duyên. Nhưng đừng tưởng truyền thông nhà nước chỉ đóng vai trò mua vui. Các nhà báo lề phải thâm thúy hơn những gì vài facebookers đang chế nhạo.

Lâu nay, giới học thật – căn cứ vào những “tác phẩm” từng xuất bản khi ông còn trẻ – không lạ gì vốn chữ nghĩa của học giả Vũ Khiêu.

Nhưng với công chúng số đông, nếu truyền thông nhà nước không cho chúng ta đọc câu đối mà Vũ Khiêu tặng Kỳ Duyên – “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc – Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” – làm sao biết, GS Vũ Khiêu không những không biết “niêm luật” tối thiểu khi viết câu đối mà còn, phần văn vẻ nhất, lại đạo thơ Lý Bạch (chưa kể về ý, vế đầu tự viết thì tối nghĩa, vế sau của Lý Bạch thì dung tục khi dùng cho tình huống một ông già trăm tuổi tặng cô gái 19 tuổi – Vũ Khiêu cũng đã từng đạo lời Quản Trọng nói về Thúc Nha, thời Đông Chu, khi “khóc” Tướng Giáp).

Một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất

Nhiều người sững sờ khi nhìn thấy Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế tay rồng, trước một hương án “thếp vàng”. Không nói về sự xa hoa. Dân chúng không còn kỳ vọng vào sự thanh liêm của những người như ông.

Nhưng dân chúng, theo lẽ tư duy thông thường, nghĩ, một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất.

Ngoài khía cạnh văn hóa, việc tổng bí thư của một đảng cộng sản khi về hưu tự thửa cho mình một chiếc ghế mô phỏng ngai vàng còn cho thấy, tuy kêu gọi dân chúng làm cách mạng, quét sạch tàn dư phong kiến nhưng trong thẳm sâu, không ai thèm khát tàn dư phong kiến bằng họ – những nông dân có quyền vua chúa.

Có lẽ những chức tước đã kinh qua và những danh hiệu “cao quý nhất” mà Chế độ đã gắn cho GS Vũ Khiêu không những làm công chúng mà chính ông cũng choáng ngợp và tưởng thật.

Khi ngồi trên cái ngai vàng hàng nhái đó để tiếp khách chính thức, có chụp ảnh (có thể còn quay phim), chắc chắn ông Mạnh không nhận ra thân phận của một “hoàng đế cởi truồng”. Nhưng vàng, thau thì không bao giờ lẫn lộn. Khi xuất hiện trước công chúng, những công dân trưởng thành đã chỉ ra sự tồng ngồng của họ.

Sau thất bại của “Táo quân” tưởng không có gì vui. Sau những cuộc cười đau bụng tưởng đã có gì vui. Nhưng đời chẳng có gì vui.

Văn chương như Vũ Khiêu mà biết bao năm qua vẫn được không ít người tôn là “quốc sư”, vẫn được không ít người trông coi đình đền miếu mão mời viết văn bia; Văn hóa như Nông Đức Mạnh mà vẫn có thể làm Chủ tịch Quốc hội tới 9 năm, vẫn làm Tổng bí thư tới 10 năm… thì, đất nước không như thế này mới lạ.

Cướp – phong tục của Hội !?

Cướp – phong tục của Hội !?

Chuacuuthe.com

VRNs (25.02.2015) – Sài Gòn – Video có độ dài chưa đầy 30 giây được lan truyền trên các trang mạng xã hội mô tả sự hỗn loạn của nhiều thanh niên cướp kiệu giò hoa, dùng gậy quật, vụt vào những người bảo vệ kiệu, phản ứng lại, những người bảo vệ này cũng dùng gậy quất vào đám đông tại lễ hội đền Gióng, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, vào sáng ngày 24.02, tức mồng 6 Tết.

Vnexpress cho hay, trước khi kết thúc lễ hội, đám đông hàng chục thanh niên lao vào giằng xé, xô đẩy nhau để tranh cướp lộc, một số thanh niên mặc lễ phục hộ tống cầm thanh tre vụt vào đám đông.

150225009

Tuy nhiên, ông Nguyễn Khắc Lợi, Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội cũng có mặt ở đó tham dự lễ hội khẳng định: “… không thấy hỗn chiến, đánh nhau nào…”. Còn Trưởng công an huyện Sóc Sơn ông Trần Quang Huy cũng cho rằng “không có đánh nhau, không có ai trình báo”.

Bạn đọc Truong Cong Suong xót xa: “Đầu năm mở mạng đọc báo mạng cũng thấy xã hội đen thui”. Hoang Phuoc Quy đau lòng cho người dân: “Mình không bị đánh mà sao thấy quá đau!!!”.

Một số bạn đọc khác nhận định, đó là do kết quả của chế độ vô thần toàn trị đã dùng bạo lực trấn áp người dân khiến cho người dân Việt mất đi bản sắc dân tộc.

Daniel Nguyen nói mỉa mai: “nền văn hóa bạo lực do đảng CS tiêm vào con người VN đã thành công hoàn toàn.” Dinhnguyen Dinh nhận xét: “Đây là hệ quả của một nền giáo dục không nhân tính, nhân bản…” Tính Đoán có vẻ bực tức: “cái xứ lừa này, ông cha ta đã truyền lại từ bao đời này rằng:” Vô Văn Hóa và mê tín dị đoan” là phải đi đầu bác ah.”

Một số người bạn khác cho rằng, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho những người nhập viện đánh nhau trong những ngày đầu xuân Ất Mùi gia tăng.

Bạn đọc Mua Thu chán nản: “Con số bị thương do đánh nhau ngày tết còn nhiều hơn cả con số tai nạn giao thông là ở đây chứ còn đâu. Dân Lừa dưới thời nhà sản ngày càng mu muội.” Bạn đọc Tuyen Chí Nguyen tiếp lời: “Mình vừa xem xong cái clip quay cảnh lễ hội đền Gióng năm nay. Xem xong thì mình không lấy làm ngạc nhiên với con số mấy nghìn người nhập viện vì ĐÁNH NHAU đến NHẬP VIỆN trong dịp Tết vừa qua nữa. Dân ta có truyền thống đánh nhau rất giỏi và đó là một vốn quý cần “gìn giữ và phát huy”. Chấm hết!”. Bạn đọc Võ Tiến Cường cho rằng: “Tôi nghĩ nước mình nên gộp tất cả các lễ hội thành lễ hội Đánh, vừa vui vừa rõ ràng về mục đích lễ hội. Cho dùng tất các dụng cụ bao gồm cả súng. Ai lành lặn đi về cho tuyển thẳng vào lực lượng Côn An ( côn đồ làm công tác bảo vệ an ninh).”

Theo thống kê sơ bộ của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, trong những ngày đầu năm Ất Mùi có hơn 300 người chết do tai nạn giao thông và 6.000 người nhập viện vì đánh nhau.

Cũng theo vnexpress, lễ hội đền Gióng, huyện Sóc Sơn (Hà Nội) diễn ra từ mùng 6 đến 8 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ Thánh Gióng, vị anh hùng trong truyền thuyết đánh thắng giặc Ân, đem lại thái bình cho đất nước.

Về phía quan điểm của nhà cầm quyền địa phương khi trao đổi với Zing.vn về hình ảnh ẩu đả tại lễ hội đền Gióng sáng 24.02, ông Lê Hữu Mạnh, Phó chủ tịch UBND huyện Sóc Sơn cho rằng, sự việc trên là bình thường, bởi đây là phong tục của hội. “Lễ hội không tổ chức phát lộc cho người dân nên ai muốn có phải cướp. Việc xảy ra xô xát là bình thường”, ông Mạnh nói thêm, Đại tá Trần Quang Huy, Trưởng công an huyện Sóc Sơn cũng xác nhận việc này”.

Lập luận này có thể trở thành “châm ngôn”: hễ Lễ hội nào không tổ chức phát mà ai muốn có thì phải cướp. Từ nay, các Lễ, hội như kỷ lục bánh trưng, tô hủ tiếu kỷ lục, chợ hoa, hội hoa xuân, lễ hội hoa anh đào… nếu không tổ chức phát thì ai muốn có phải cướp, và cướp này là bình thường, là phong tục của lễ, của hội. Đúng như người dân từng nói: nhà dột từ nóc. Cũng từ quan điểm này, ai cũng phải hiểu: ông Trần Văn Truyền, ông cựu Tổng Mạnh, cựu Tổng Phiêu, ông X, ông Y… do không được phát biệt thự, ngai vàng, tượng đồng, ngà voi, nhà thờ họ… nên phải cướp.  Và cướp này là ‘bình thường’, đây là phong tục của cộng sản.

HT, VRNs

ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.

Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.

Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.

Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.

Ba môn đệ thân tín được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.

Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.

Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.  Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.  Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.

Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.  Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.  Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.  Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.

Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:  tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.  Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.  Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3, 18).  Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.

Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.  Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.  Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.

Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ. Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo.  Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.

**************************************

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.  Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

Trích trong “Manna”

Từ bỏ một lý tưởng (phần 1)

Từ bỏ một lý tưởng (phần 1)

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-02-24

Nghe audio: Chủ nghĩa cộng sản, Ảo tưởng và bi kịch

Chủ nghĩa cộng sản, Ảo tưởng và bi kịch...

Chủ nghĩa cộng sản, Ảo tưởng và bi kịch…

Files photos

Your browser does not support the audio element.

Phần một: Chủ nghĩa cộng sản, ảo tưởng và bi kịch

Ngày 30 tháng tư năm nay đánh dấu 40 năm ngày đảng cộng sản Việt nam nắm quyền thống trị trên toàn bộ nước Việt nam. Dưới chế độ độc đảng, xã hội Việt nam được qui định chỉ có một hệ tư tưởng duy nhất mà thôi đó là chủ nghĩa cộng sản. Song người ta thấy rằng những người không đồng tình với chủ nghĩa này càng đông, đồng thời họ cũng không đồng ý rằng đảng cộng sản Việt nam độc quyền cai trị đất nước.

Những người đầu tiên

Trong chương trình kỷ niệm Ký ức 40 năm, chúng tôi xin điểm lại sự hình thành và phát triển của dòng ý tưởng trái chiều đó ở Việt nam. Bài đầu tiên nói về những người đầu tiên chống lại sự độc quyền tư tưởng.

Vùng lên hỡi những nô lệ ở thế gian

Vùng lên hỡi ai cơ khổ bần hàn

…….

Đó là lời ca trong bài Quốc tế ca xuất phát từ phong trào cộng sản quốc tế vào cuối thế kỷ 19, nói lên niềm hy vọng xây dựng một xã hội lý tưởng của loài người. Đó là lý tưởng cộng sản và cốt lõi đấu tranh giai cấp của nó.

Năm 1930 đảng cộng sản Việt nam thành lập và từng bước nắm quyền trên toàn cõi đất nước. Đảng này thiết lập một hệ thống toàn trị với vài triệu đảng viên kiểm soát hết mọi cơ cấu tổ chức trong xã hội, từ cấu trúc cầm quyền tối cao cho đến những chi bộ ở thôn ấp, làng xã.

Nhưng ngay bước đầu tiên cầm quyền của nó, sự không tưởng đã lộ ra với một thực tế đẫm máu của cải cách ruộng đất, về mặt lý thuyết cộng sản là được tiến hành để tạo công bằng xã hội.

Bi Kịch

Ông Nguyễn Minh Cần, một đảng viên cao cấp thời cách mạng tháng tám 1945, nhớ lại:

Từ sau cuộc cải cách ruộng đất, đầu óc tôi bắt đầu suy nghĩ. Tôi cảm thấy là vì sao một cái đảng nhân danh nhân dân, nhân dân lao động mà lại đi đàn áp, giết chóc, những người lao động, những người nông dân, những người rất là bình thường một cách tàn bạo như vậy. Và cũng từ đó càng ngày tôi càng suy nghĩ hơn, rồi tiếp theo là cái cuộc đấu đá anh chị em trong phong trào Nhân văn giai phẩm, thì tôi thấy một sự bất công rất rõ rệt, nó bắt buộc tôi phải suy nghĩ lại vì sao?”

” Từ sau cuộc cải cách ruộng đất, đầu óc tôi bắt đầu suy nghĩ. Tôi cảm thấy là vì sao một cái đảng nhân danh nhân dân, nhân dân lao động mà lại đi đàn áp, giết chóc, những người lao động, những người nông dân, những người rất là bình thường một cách tàn bạo như vậy

Ông Nguyễn Minh Cần”

Ông Nguyễn Minh Cần tị nạn ở nước Nga từ những năm 1960, từ bấy đến nay ông không một lần về thăm quê hương, điều đó ông cho là một sự đau khổ và bi kịch.

Bi kịch cũng được một đảng viên cao cấp giấu tên đề cập đến.

Trước đây có những người yêu nước, có lòng với nhân dân, nhưng không có chổ nào, có một chổ đó thì người ta vào. Cái đảng theo mô hình Lê Nin này nó lợi dụng nhân dân làm công cụ, đánh cắp lòng yêu nước của nhân dân để thực hiện chế độ đảng trị. Tôi thấy đó là một bi kịch.”

Việc nhận ra tính bi kịch của chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam đến với những số phận khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Mấy mươi năm sau khi ông Nguyễn Minh Cần tị nạn chính trị tại Nga, sau ngày 30/4/1975, người cha của luật sư Lê Công Định, một cán bộ cộng sản cao cấp tại Sài gòn vỡ mộng về thực tại cộng sản. Luật sư Định kể lại:

Ba tôi là một người cộng sản xuất thân từ miền Nam, có một sự tranh chấp về mặt nội bộ với những đảng viên từ Hà nội vào. Họ là những người đi vào đây với tư thế của những người đi chiếm đóng. Còn ba tôi là một người cộng sản với tư cách của một người đang xây dựng một xã hội mới, một hệ thống mới.”

” Sau khi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp về, mình thấy rõ hơn về mặt chính trị, là cái hệ thống cộng sản nó vướng những mâu thuẫn rất là căn bản

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu”

Người đảng viên đó bị bắt giam, được thả ra, rồi người ta dự định phục hồi danh dự cho ông với điều kiện ông phải làm bảng kiểm điểm. Ông khước từ và nói rằng công cuộc đi theo đảng của ông đã là một bảng kiểm điểm vĩ đại.

Con đường Đông Âu

Có một con đường đi của những tư tưởng không cộng sản đến Việt nam là từ chính những quốc gia cộng sản từ rất sớm. Nhà văn bất đồng chính kiến Nguyễn Xuân Nghĩa vào năm 1967 được sang Tiệp Khắc du học. Gia đình ông là một gia đình tham gia cách mạng cộng sản từ những năm 1930. Tại Tiệp khắc ông chứng kiến mùa xuân Prague 1968, được nghe kể cuộc nổi dậy Hungary 1956, được các bạn đồng học kể cho nghe câu chuyện sinh viên Tiệp tự thiêu phản đối Hồng quân Liên Xô tiến vào Tiệp Khắc.

Dù Tiệp Khắc cũ là một xã hội cộng sản đóng nhưng cũng có hở, có phim ảnh, rồi những tờ báo ca ngợi cuộc sống ở Mỹ ở Đức, rồi dần dần tôi thấy phải suy nghĩ lại tư tưởng của mình, phải có ý thức về chính trị.”

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người đã có những suy nghĩ về sự bất hợp lý của mô hình cộng sản ngay khi bắt đầu nghiên cứu khoa học tại Việt nam trong những năm 1960, khẳng định được những điều đó sau khi ở Tiệp khắc trở về.

Sau khi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp về, mình thấy rõ hơn về mặt chính trị, là cái hệ thống cộng sản nó vướng những mâu thuẫn rất là căn bản.”

Con đường Sài gòn

30/4/1975, Sài gòn và Việt nam Cộng hòa sụp đổ. Nhưng những giá trị của nó không mất đi, mà tác động ngược lại lên những người đến từ miền Bắc. Vài ngày sau cái ngày lịch sử ấy Tiến sĩ Hà Sĩ Phu vào Sài gòn.

Đó là một cú chuyển biến rất mạnh. Tức là nhảy vào Sài gòn thì mình thấy nó phát triển, đầy đủ mà trước đây mình không biết. Trước đây miền Bắc tuyên truyền rằng miền Nam đau khổ. Tôi vẫn còn nhớ bài hát của nhạc sĩ Hoàng Hà rằng

” Và không chỉ là vấn đề khoa học, mà khi tôi đi quan hệ ngoài xã hội, tôi thấy con người miền Nam họ sống với lễ giáo phương Đông rất là nền nã, chứ không bị pha tạp, bị hủy hoại như ở miền Bắc

Tiến sĩ Địa vật lý Nguyễn Thanh Giang”

Hôm nay em mặt đôi áo mới

Màu áo nâu non hồng tươi

Chúng ta có cơm và áo rồi

Nhưng trong Nam còn đang rối bời

Mong sao rồi đây cơm áo được khắp Bắc Nam cùng vui.

Tôi tưởng miền Nam khổ lắm.”

Miền Nam Việt nam cũng gây ấn tượng cho Tiến sĩ Địa vật lý Nguyễn Thanh Giang, người từng đi bộ đội Việt minh thời chiến tranh chống thực dân Pháp. Khi tiếp xúc với các đồng nghiệp người miền Nam ông thấy rằng họ là những nhà khoa học thực thụ, và ông còn thấy những điều khác trong lần đầu ông vào miền nam.

Và không chỉ là vấn đề khoa học, mà khi tôi đi quan hệ ngoài xã hội, tôi thấy con người miền Nam họ sống với lễ giáo phương Đông rất là nền nã, chứ không bị pha tạp, bị hủy hoại như ở miền Bắc.”

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang là một trong những người đầu tiên trong giới khoa học ở miền Bắc sang Mỹ tham dự hội thảo khoa học. Ông nhớ lại:

Tôi vỡ nhẽ ra rằng những điều tôi được nhồi sọ từ trường phổ thông tới đại học là không đúng. Họ bảo rằng tư bản giãy chết, xã hội tư bản đầy dẫy những xấu xa. Lúc bấy giờ thì trong đoàn có năm người, trong đó có ông Phạm Quốc Tường là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, tôi vỡ nhẽ ra và nói với ông ấy rằng anh ơi đây mới chính là xã hội chủ nghĩa chứ không phải là Liên Xô đâu anh!”

Vào giữa những năm 1980 Tiến sĩ Hà Sĩ Phu công bố bài viết của mình mang tên Dắt tay nhau đi dưới tấm bảng chỉ đường của trí tuệ, một bài viết chống lại sự áp đặt của tư tưởng cộng sản. Ông bị bắt giam sau đó.

Những bi kịch của những người cộng sản còn có thể kể ra trường hợp ông Bùi Tín, Đại tá cộng sản Việt nam có mặt tại Sài gòn vào ngày 30/4. Sau khi tị nạn chính trị tại Pháp, ông viết Hoa Xuyên Tuyết, để nói lên niềm hy vọng của ông là những đóa hoa bé nhỏ sẽ xuyên thủng bức màn che đậy tư tưởng vô minh của chế độc độc tài.

Một người khác là Thiếu tướng Trần Độ, người từng nói với các sĩ quan Pháp sau trận Điện Biên Phủ rằng binh lính Việt Minh của ông bừng bừng khí thế chiến đấu vì căm thù giai cấp và dân tộc bị áp bức, đã kết thúc cuộc đời với tư cách tội đồ trong tay những người đồng chí cũ.

Trong phần tiếp theo của loạt bài này chúng tôi xin điểm lại sự chuyển biến nhận thức của những người trẻ tuổi hơn, hoặc những người nhận thức trễ hơn về một ý tưởng xã hội khác với cộng sản. Xin mời quí vị theo dõi.

“LÂU ĐÀI” CỦA ÔNG NÔNG ĐỨC MẠNH VÀ CHÍNH SÁCH NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG

“LÂU ĐÀI” CỦA ÔNG NÔNG ĐỨC MẠNH VÀ CHÍNH SÁCH NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG

Huỳnh Ngọc Chênh

Ảnh trên báo Tiền Phong đã bị gỡ xuống

Ảnh trên báo Tiền Phong đã được gỡ xuống

Con gà khoe tiếng gáy; Con thú lo chăm chút bộ lông (ngay cả khi đồng loại của nó đang gào thét vì đau đớn); Trọc phú khoe của cải và nhà cao cửa rộng; Nhà văn hóa tự hào về tác phẩm của mình; Nhà lãnh đạo chính trị chăm chút sự nghiệp và những công trình để lại cho dân cho nước.

Ông cựu TBT Nông Đức Mạnh lại chăm chút cái lâu đài hào nhoáng của mình.

Ông bỏ công chăm chút đến từng chi tiết trên ghế ngồi, từng hoa văn trên mặt đá cẩm thạch lót nền và lót tường…nghĩa là ông chăm chút độ hào nhoáng của lâu đài ông đến từng cm, mặc cho chung quanh, dân chúng của ông đang lầm than rách nát vì đói nghèo, vì bất công xã hội. Trẻ con vùng cao thiếu trường để học, thiếu áo quần giữ ấm, thiếu cầu để vượt sông, thiếu thịt để ăn. Bà con dân oan lang thang giữa thủ đô ngay trong đêm 30 tết, không nơi trú ngụ. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng…

Khi sự hào nhoáng đến kệch cỡm của lâu đài ông lộ ra thì không những tầm văn hóa và tầm nhận thức của ông lộ ra, bộ mặt đạo đức giả cũng rơi xuống mà cả cái chính sách nhân sự của đảng CSVN cũng phơi trần ra mặt trái của nó.

Ông là người cộng sản được tổ chức đánh giá tốt nhất trong gần 4 triệu đảng viên, nên ông mới được sàng lọc và chọn ra là người số một, người đứng đầu đảng và cũng là người lãnh đạo tuyệt đối đất nước.

Người cộng sản tốt nhất là người “vừa hồng vừa chuyên” tốt nhất trong số 4 triệu người vừa hồng vừa chuyên, có đạo đức cao vời vợi không ai sánh bằng, có trí tuệ và nhận thức không ai theo kịp… và có như vậy thì mới được đưa lên làm tổng bí thư.

Ở cương vị TBT, ngoài việc lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện đất nước, ông còn là người số một đưa ra quyết định chọn lựa ai là nhân tài để kế vị ông, kế vị những chức danh cao nhất cho bộ máy nhà nước theo chính sách xây dựng nhân sự của đảng ông.

Ông là người quyết định cao nhất ai sẽ là TBT, ai sẽ là chủ tịch nước, ai sẽ là thủ tướng, ai sẽ là bộ trưởng…trong các nhiệm kỳ sau ông.

Tại hội nghị 10 vừa rồi, ông Tô Huy Rứa đã tuyên bố nhiệm vụ chọn lựa đội ngũ nhân sự kế thừa là rất gay go nhưng bô chính trị và trung ương đảng đã hoàn thành tốt đẹp khi chọn ra được 22 người được cho là xuất sắc nhất để quy hoạch vào bộ chính trị và ban bí thư kế thừa, rồi trong số đó sẽ chọn ra người tài đức số một để đưa lên làm TBT.
Hội nghị trung ương đảng trước đây trên 10 năm cũng đã làm như vậy để chọn ra ông để đưa lên. Ông dĩ nhiên được đánh giá là tài đức nhất vào khi đó.

Thế nhưng, sau khi vãn tuồng, ông nhanh chóng bộc lộ ra là một con người như thế nào thì ai nhìn vào cũng biết là như thế nào.

Vậy thì làm sao tin được những nhân sự kế thừa ông do ông lựa ra, tin được những nhân sự tiếp theo, tin vào 22 nhân sự mà hội nghị 10 vừa quy hoạch?

Làm sao tin được chính sách nhân sự theo kiểu người trước nhường ngôi lại cho người sau một cách chủ quan duy ý chí không thông qua sự bầu bán dân chủ thật sự của toàn dân?

HNC

Chỉ có con thú mới ngoảnh đi trước nỗi đau của đồng loại để chăm chút cho bộ lông của mình.

https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/02/h1172.jpg

Ðồng Nai: Man rợ vụ giết người, hiếp rồi đốt xác

Ðồng Nai: Man rợ vụ giết người, hiếp rồi đốt xác

Nguoi-viet.com

ÐỒNG NAI (NV)Chiều 30 Tết, hai nghi can nhậu xong đòi bạn nữ cho quan hệ tình dục nhưng bị cự tuyệt, cả hai đã bóp chết nạn nhân, thay nhau hiếp xác rồi đốt để phi tang.

Báo Công Lý đưa tin, ngày 23 tháng 4, công an tỉnh Ðồng Nai cho biết, đang bắt giữ hai hung thủ là Lương Tấn Khanh (38 tuổi), ngụ tại huyện Tân Phú và Bùi Thanh Hoài (29 tuổi), ngụ tại tỉnh Long An) về hành vi giết người.



Hiện trường vụ giết người, đốt xác ở rừng tràm. (Hình: báo Công Lý)

Trước đó, vào ngày 20 tháng 2 (tức ngày mồng 2 Tết), người dân phát hiện một xác chết bị thiêu rụi trong đồi tràm tại ấp Lộ Ðức, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom. Nạn nhân được công an xác định là Phạm Thị Phương Vân (30 tuổi), ngụ tại ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom.

Theo thông tin từ gia đình nạn nhân, ông Phạm Công Sơn, anh ruột của nạn nhân cho biết, bà Vân chưa có gia đình riêng, hiện đang sống cùng bố mẹ và làm nghề buôn bán tạp hóa. Khoảng 10 giờ ngày 18 tháng 2 (tức ngày 30 Tết), bà Vân chạy xe máy rời khỏi nhà để đi chơi cùng với bạn nhưng không cho biết mình đi đâu. Cũng kể từ hôm đó, gia đình không thấy bà Vân trở về nhà.

Cho đến trưa ngày 20 tháng 2, thì gia đình ông Sơn nhận được hung tin là bà Vân đã bị thiêu cháy trong đồi tràm. Khi đến nơi kiểm tra, gia đình thấy thi thể đã bị cháy đen, nhưng tất cả tài sản thì vẫn còn nguyên không bị mất.

Xác định đây là một vụ án giết người nên cơ quan công an đã truy tìm hung thủ. Liền sau đó, hai hung thủ giết người đã ra đầu thú và khai nhận tội.

Báo Công Lý dẫn lời khai ban đầu của các hung thủ Khanh và Hoài với cơ quan điều tra, bà Vân là bạn chung, thường tổ chức ăn nhậu cùng nhau. Vào ngày 20 tháng 2, cả 3 tổ chức nhậu chung tại xưởng gỗ thuộc ấp Lộ Ðức.

Trong cơn say, ông Khanh và ông Hoài đã đòi bà Vân phải quan hệ tình dục với mình. Bị bạn gái cự tuyệt, cả hai đã bóp cổ cho đến khi bà Vân tắt thở, rồi thay nhau hiếp xác nạn nhân. Sau đó đưa xác vào đồi hoang để đốt phi tang và cùng nhau bỏ trốn. (Tr.N)

Ân xá Quốc tế : Việt Nam vẫn hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do ngôn luận

Ân xá Quốc tế : Việt Nam vẫn hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do ngôn luận

Thanh Phương

RFI

media

Biểu tượng “Ngọn nến Hy vọng” trên trang amnesty.fr (DR)

Trong bản báo cáo thường niên 2014 về tình hình nhân quyền trên thế giới, tổ chức Ân xá Quốc tế nhận định rằng Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do tập hợp một cách ôn hòa.

Hôm nay, 25/02/2015, tổ chức Ân xá Quốc tế ( Amnesty International ) vừa công bố bản báo cáo thường niên 2014 về tình hình nhân quyền trên toàn thế giới.

Nhận định chung của Ân xá Quốc tế : năm 2014 là một năm « rất tồi tệ » đối với hàng triệu người là nạn nhân của bạo lực. Thế mà phản ứng của cộng đồng quốc tế với các vụ xung đột và hành động bạo lực của các quốc gia và các tổ chức vũ trang rất là vô hiệu quả và đáng chê trách. Theo Ân xá Quốc tế, trước việc gia tăng các vụ tấn công man rợ và trước việc người dân nhiều nước bị đàn áp, cộng đồng quốc tế đã không có hành động gì.

Riêng về Việt Nam, trong phần mở đầu, Ân xá Quốc tế nhận định : « Việt Nam tiếp tục hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do tập hợp một cách ôn hòa. Nhiều tù nhân lương tâm bị giam giữ trong những điều kiện khắc nghiệt sau những phiên xử không công bằng (… ) Đã có thêm các blogger và nhà hoạt động nhân quyền bị bắt giữ và xét xử. Chính quyền đã tìm cách ngăn chận hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự chưa được cấp phép, bằng cách sách nhiễu, theo dõi và hạn chế tự do đi lại. Các nhân viên an ninh đã sách nhiễu và hành hung các nhà hoạt động hôn hòa và bắt giam họ trong thời gian ngắn. »

Trong báo cáo, Ân xá Quốc tế cũng nhắc lại rằng Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc vào tháng 01/2014 với nhiệm kỳ hai năm. Nhưng vào tháng 6 năm ngoái, Việt Nam đã bác bỏ 45 trên 227 khuyến nghị của Nhóm làm việc về Phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát trong tháng 02/2014. Những khuyến nghị bị bác bỏ bao gồm những khuyến nghị về các nhà hoạt động nhân quyền và bất đồng chính kiến, về tự do ngôn luận và về án tử hình.

Báo cáo cũng cho biết là vào tháng 2 năm ngoái, một một phái đoàn Ân xá Quốc tế đã đến thăm Việt Nam để mở các cuộc họp chính thức. Trong chuyến viếng thăm vào tháng 7, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về quyền tự do tôn giáo đã tìm thấy bằng chứng về những vụ vi phạm nghiêm trọng, trong đó các vụ công an bố ráp, ngăn cản nghi lễ tôn giáo, đánh đập, tấn công các thành viên những tổ chức tôn giáo độc lập.

Thế giới nào là ảo?

Thế giới nào là ảo?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chuacuuthe.com


VRNs (25.02.2015) – Đồng Nai – Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.

Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.

Royalty-Free Stock Photography by Rubberball.com

Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.

Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.

Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.

Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Việt Nam đối diện với “tảng băng chìm”

Việt Nam đối diện với “tảng băng chìm”

Chuacuuthe.com

150225001


VRNs (25.02.2015) – Sài Gòn – Năm Ất Mùi được đánh giá là năm có nhiều biến động ở bề nổi, nhưng thực ra nguy cơ vỡ ra của phầm chìm cũng thật lớn.

Sống chết ở Việt Nam

Thông tấn xã Việt Nam cho biết: Trong 9 ngày nghỉ Tết Ất Mùi 2015, toàn quốc đã xảy ra 536 vụ tai nạn giao thông, làm chết 317 người và làm bị thương 509 người.

Theo thông tin từ Uỷ ban an toàn giao thông Quốc gia, thống kê trong 2 tháng đầu năm (từ 16/12 đến 15/2), toàn quốc có 1.567 người chết vì tai nạn giao thông trên tổng số 4.115 vụ tai nạn. Ngoài ra, tai nạn giao thông còn khiến cho 3.771 người bị thương. Trong đó, các vụ tai nạn giao thông đường bộ đã cướp đi sinh mạng của 1.527 người, làm bị thương 1.094 người.

Vậy là bao nhiêu người xa quê trở về quê ăn Tết để góp vui với gia đình thì lại làm cho cả gia tộc và láng giềng đau xót.

Trên thế giới chỉ một hai người bị IS giết, hoặc một tai nạn giao thông chết vài người đã gây ra hoảng loạn, nhưng ở Việt Nam với con số người chết trong hai tháng là hơn 2 ngàn 5 trăm người và chỉ mới chín ngày có 317 người chết vẫn chưa làm cho người dân thấy có vấn đề gì, nhất là ông Bộ trưởng, phó Ban an toàn giao thông quốc gia còn tỏ ra mừng, vì số trường hợp tử vong có giảm.

Người Việt Nam đang bị sát hại ngay tại trong nước bởi chính sách sai lầm về giao thong.

Giàu nghèo

Vietnamnet cho hay: Bản điều tra tỷ phú USD “Billionaire Census 2014″ của Wealth-X và UBS (ngân hàng Thụy Sĩ) vừa công bố cho biết, năm 2014, Việt Nam tiếp tục có mặt trong danh sách 14 nước châu Á có tỷ phú đô-la. Trong năm 2014, số lượng tỷ phú Việt Nam đã tăng từ 1 lên 2 người và tổng giá trị tài sản tăng từ 1 lên 3 tỷ USD.

Cũng theo Wealth-X và UBS, trong năm 2014, Việt Nam góp mặt 210 đại diện siêu giàu với tiêu chí đầu tiê là có tài sản trên 30 triệu USD/người (tổng tài sản hơn 6,3 tỉ USD).

Báo Người lao động cho hay, dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2014 tính theo giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD. Dựa trên quy mô dân số 90,73 triệu người của năm 2014, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028 USD, tương đương 169 USD/tháng.

Báo Tuổi trẻ cho biết thêm, thu nhập bình quân đầu người sống ở Sài Gòn năm 2014 con số này tăng lên 5.131 USD.

Các nhà xã hội đã cảnh báo nguy cơ 80% tài sản quốc gia thuộc về 20% người giàu, còn 80% ngời nghèo chỉ gữ lại được 20% tài sản. Với các số liệu này ở Việt Nam, thì số người chiếm 80% tài sản chỉ chiếm chưa tới 1% dân số.

Một chính sách sai lầm về kinh tế đã đẩy người trung lưu trở nên nghèo, và người nghèo trở nên nghèo hơn. Những cố gắng tăng lương từ đầu năm 2015 cũng chỉ là cách mị dân, vì với quy định lương tối thiếu, người làm công ở đất nước XHCN này vẫn không thể sống nổi.

Đến năn 2015 này, mức lương tối thiểu được xác định là: Vùng (1): 3.100.000 đồng/tháng; Vùng (2): 2.750.000 đồng/tháng; Vùng (3): 2.400.000 đồng/tháng;Vùng (4): 2.150.000 đồng/tháng.

Vùng (1) cao nhất, thì mức lương tối thiểu cũng không thể đạt được 200 USD/tháng, còn vùng (4) thấp nhất còn tệ hơn nữa là chỉ được 100 USD/tháng. Trong khi đó, mức lương tối thiểu của đế quốc Mỹ của ngời lao động phổ thong (không có nghề chuyên môn) là 80 USD/ngày.

Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đang làm cho một vài thiểu số trở nên “vua”, còn đại đa số con dân nước Việt ra “tôi mọi”.

Chế độ tồn tại nhờ tiền ở đâu

Mỗi năm, cần hơn 6 tỉ đô la chi phí cho bộ máy hành chánh và hệ thống chính trị quốc gia Việt Nam. Nguồn tài chính nội tại của Việt Nam dựa vào xuất khẩu dầu hỏa thô, và sức lao động, nhưng các nguồn này đang thất thu vì nhiều lý do. Do vậy, nguồn tu từ bên ngoài vẫn là ước mong của chế độ.

Nguồn tài chính đổ về Việt Nam hiện nay từ ba nguồn: FDI (năm 2014 là hơn 20 tỉ USD, nhưng đây chỉ là hứa đầu tư và được cấp phép của doanh nghiệp nước ngoài tại VN, chứ trong thực tế con số này không cao đến như vậy), kiều hối (năm 2014 là 12 tỉ USD. Đây là số tiền đã về Việt Nam và đang được lưu thông trong thị trường Việt Nam dưới nhiều hình thức), ODA (đây là tiền viện trợ và vay nợ quốc tế. Năm 2014 là 5 tỉ USD, trong đó chỉ có 60 triệu USD là được viện trợ không hoàn lại, còn tất cả là vay nợ).

Theo báo Giáo dục VN, trong giai đoạn 1991-2013, lượng kiều hối chính thức vào Việt Nam hàng năm đã tăng trưởng trung bình 38,6%/năm, với tổng giá trị kiều hối là 80,4 tỉ đô la Mỹ, chưa tính lượng kiều hối năm nay 2014, dự kiến vào khoảng 11-12 tỉ đô la Mỹ. Báo này còn cho biết thêm Viện nghiên cứu quản lý trung ương VN nói: riêng trong giai đoạn 2007-2013, tổng kiều hối là nguồn vốn lớn thứ 2 tại Việt Nam (sau vốn FDI – vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào VN) và lớn hơn cả vốn ODA (viện trợ / vay nợ quốc tế) đã giải ngân.

Tuy cả bà nguồn tiền này hiện vẫn đang tồn tại, nhưng các nguồn FDI và ODA tuy đã có con số, nhưng vẫn bếp bênh, vì các doanh nghiệp nước ngoài ký kết sẽ đầu tư (FDI), nhưng do tình hình làm ăn không thuận lợi, bởi chính sách lấy quốc doanh làm trọng tâm khiến họ chỉ mới đầu tư cho có, mà không thực sự thúc đẩy hoạt động đúng tầm của dự án. Còn ODA để được giải ngân cần phải có nhiều thủ tục, nhất là càng ngày chỉ số tham nhũng ở VN càng cao, khiến ODA khó được giải ngân hơn. Như vậy chỉ có nguồn kiều hối là chắc chắn.

Giả sử một ngày nào đó, các nguồn thu nội địa “đột tử”, còn nguồn vốn FDI và ODA bị đ1ng băng hoàn toàn, thì chế độ hiện hành của VN vẫn sống, vì chỉ cần 1 năm thu kiều hối đủ cho chi phí duy trì chế độ được 2 năm.

Chuyện mị dân trong năm nay và vài năm tới

Một cựu đảng viên CSVN cho biết Bộ chính trị VN đang xem xét cho phép phục hoạt các đảng Dân Chủa và Xã Hội nhằm mị dân, và cũng để chính thức hóa giải quyết những căng thẳng quyền lợi trong một đảng quá lớn, có nguy cơ làm nổ tung chính nó.

Như vậy việc đa đảng này không có lợi gì cho dân, vì chỉ giúp đảng CSVN tiếp tục mị dân, và khẳng định đảng CSVN có quyền trên các đảng khác. Cách làm này của đảng CSVN trái với Hiến pháp.

Nổ lực đa đảng không hề nhằm đáp ứng nhu cầu của dân chúng, vì cho đến nay, các phong trào dân chủ trong nước không đủ sức gây áp lực, mà chỉ mới ở tầm “tấm bảng trang trí” cho chế độ có vẻ dân chủ mà thôi.

Nhưng dù sao, nó vẫn là cơ hội cho những ai muốn đất nước thay đổi, và đất nước chỉ thật sự thay đổi khi những người đó dám nổ lực gấp 100 lần năm ngoái. Không nổ lực được thì đừng mơ nữa, vì trời đã sáng rồi.

K.Thuyên

Nhật cảnh báo sau vụ tu nghiệp sinh Việt Nam ‘trộm dê’ làm thịt

Nhật cảnh báo sau vụ tu nghiệp sinh Việt Nam ‘trộm dê’ làm thịt

Nguoi-viet.com

NHẬT BẢN (NV) – Cảnh báo vừa kể được đưa ra sau khi sau khi có hai người Việt bị cảnh sát Nhật bắt giữ rồi công tố Nhật đề nghị tòa án phạt tù họ vì “trộm cắp.”

Hồi tháng 12 năm ngoái, ông Lê Thế Lộc, 30 tuổi và cựu sinh viên Bùi Văn Vỹ, 22 tuổi, bị bắt sau khi bắt trộm hai con dê trong một đàn dê 16 con được nuôi ở công viên Minokamo, tỉnh Gifu, để làm thịt cho một nhóm khoảng 20 người cùng ăn.



Hai người Việt bị đề nghị phạt tù vì trộm hai con dê trong đàn dê được nuôi ở công viên Minokamo, tỉnh Gifu, Nhật. (Hình: Asahi Shimbun)

Vụ bắt trộm dê được xem là nghiêm trọng vì 16 con dê vừa kể đang được Ðại Học Gifu phối hợp với thành phố Minokamo nuôi để thử nghiệm phương thức dùng động vật diệt cỏ.

Theo Asahi Shimbun, một tờ báo tại Nhật, thì Bùi Văn Vỹ đến Nhật để du học và bỏ dở việc học vì không có khả năng trả học phí.

Cựu sinh viên Bùi Văn Vỹ thuê chỗ trọ ở cùng với ông Lê Thế Lộc và trường hợp phạm tội của ông Lộc được Asahi Shimbun khắc họa rất chi tiết.

Ông Lộc, người đã có vợ và một bé gái từng là tài xế taxi tại Việt Nam. Do thu nhập thấp, không đủ sống, lại được một công ty chuyên xuất cảng lao động mời mọc, ông Lộc bàn bạc với gia đình, rồi đem thế chấp cả nhà lẫn đất, vay ngân hàng khoảng 270 triệu (tương đương 1.5 triệu Yen), để sang Nhật làm thuê dưới danh nghĩa tu nghiệp sinh trong Chương Trình Ðào Tạo Thực Tập Sinh Kỹ Thuật (TITP).

TITP là một chương trình do chính phủ Nhật mở ra để giúp công dân một số quốc gia mà chính phủ Nhật lựa chọn có cơ hội làm việc tại Nhật để phát triển kỹ năng nghề nghiệp rồi đem những kỹ năng đó về ứng dụng tại quê nhà. Mỗi tu nghiệp sinh có thể cư trú và làm việc tại Nhật trong ba năm.

Cho đến nay, có khoảng 150,000 tu nghiệp sinh ngoại quốc đang cư trú và làm việc trong 69 lĩnh vực nghề nghiệp tại Nhật theo chương trình TITP.

Qua trường hợp của ông Lộc, Asahi Shimbun cảnh báo chương trình TITP đang bị lạm dụng và đẩy nhiều người vào nghịch cảnh.

Lý do ông Lộc được gia đình ủng hộ trong việc thế chấp nhà đất – vay tiền ngân hàng để nộp cho công ty xuất cảng lao động sang Nhật làm tu nghiệp sinh vì công ty này khẳng định, tại Nhật, nếu làm việc 8 tiếng/ngày, 5 ngày/tuần, mỗi tháng, ông Lộc có thể kiếm được từ 200,000 Yen đến 300,000 Yen. Ngoài ra nơi ông Lộc làm việc sẽ cung cấp chỗ ở miễn phí.

Tuy nhiên trên thực tế, tháng 3 năm 2013, khi đến trồng cà chua cho một công ty ở tỉnh Nagano, ông Lộc phải làm việc 20 tiếng/ngày và 7 ngày/tuần. Còn lương chỉ có 80,000 Yen/tháng. Chưa kể mỗi tháng ông phải trả 20,000 yên cho việc thuê “chỗ ở,” trong khi “chỗ ở” là dưới gầm thùng cầu dao điện của một nhà kho chứa nông cụ, có một vòi nước để tắm nhưng không có nhà vệ sinh.

Tính ra mỗi tháng, ông Lộc chỉ còn 60,000 Yen và mỗi tháng chỉ có thể gửi về nhà từ 30,000 đến 40,000 Yen để gia đình trả nợ ngân hàng.

Sau bảy tháng làm việc và ăn ở theo kiểu như thế, ông Lộc kiệt sức và quyết định bỏ việc. Dựa vào những thông tin tuyển dụng được đăng trên Internet, ông Lộc tìm đến xin làm việc cho một công ty cơ khí ở tỉnh Aichi. Tuy nhiên, ông Lộc chỉ có thể làm việc tại đó cho đến tháng 3 năm 2014 thì phải nghỉ làm việc vì giấy phép cư trú tại Nhật hết hạn.

Ông Lộc kể với Asahi Shimbun rằng, ông hoàn toàn bế tắc bởi không có việc làm thì không có tiền gửi về cho gia đình trả nợ ngân hàng và sẽ mất sạch nhà cửa, đất đai. Ở lại Nhật thì thành người cư trú bất hợp pháp còn quay về Việt Nam thì cũng chẳng còn đường sống. Cuối cùng, ông Lộc quyết định ở lại Nhật và giấu tình cảnh của mình không cho người thân ở Việt Nam biết.

Sau khi thất nghiệp, ông Lộc trộm cắp thực phẩm tại các siêu thị ở Nhật để ăn trước khi bị bắt…

Trong vài năm gần đây, nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế liên tục cảnh báo về thảm trạng của những người Việt được các công ty xuất cảng lao động của Việt Nam đưa ra ngoại quốc làm thuê.

Hồi tháng 9 năm ngoái, Verité – một tổ chức quốc tế công bố kết quả một cuộc khảo sát kéo dài trong hai năm, theo đó, 40% người Việt đến Mã Lai làm thuê bị cưỡng bức lao động.

Chẳng riêng Verité cảnh báo về tình trạng người Việt bị các công ty môi giới lao động bóc lột từ trong nước và bị chủ ngoại quốc bóc lột tiếp khi ra ngoại quốc làm thuê.

Trước nữa, vào tháng 5 năm 2013, American Thinker đăng một bài viết của Michael Benge, lên án chính quyền Việt Nam chủ trương buôn người.

Ông Benge đã đưa ra nhiều dẫn chứng về việc chính quyền Việt Nam chuyên buôn người, qua hoạt động của các công ty xuất cảng lao động. Các công ty này thường có nguồn gốc phức tạp, thường xuyên lừa gạt người nghèo bằng những hợp đồng hấp dẫn (lương cao, điều kiện làm việc lý tưởng). Có những người nghèo phải trả tới 10,000 Mỹ kim cho cái gọi là phí nộp đơn. Vì nghèo, họ được khuyến khích thế chấp tài sản để vay tiền ngân hàng thanh toán các loại chi phí.

Khi ra đến ngoại quốc, họ bị thu hộ chiếu, bị ép ký những hợp đồng khác hẳn những gì đã được hứa hẹn, phải làm việc nhiều hơn, điều kiện làm việc tồi tệ hơn, chưa kể hàng tháng còn phải nộp môt khoản nhất định cho công ty xuất cảng lao động…

Kết quả, người nghèo đi làm thuê ở nước ngoài ngập trong nợ, lệ thuộc vì nợ, gia đình của họ tại Việt Nam thì mất hết tài sản. Ông Benge khẳng định, có nhiều dấu hiệu rõ ràng để kết luận, các công ty xuất cảng lao động đã liên kết với các ngân hàng và các viên chức chính quyền. (G.Ð

Tình yêu sai trái

Tình yêu sai trái

1388159723-anhmatemthatroi_tinhyeugioitinh_eva1.jpg2

Em biết rằng yêu anh là sai trái
Nhưng mà em chẳng giữ nỗi tim mình
Khi yêu rồi, lý trí chẳng phân minh
Yêu người này hay là yêu người khác

Em, cô gái quê, tuổi tròn mười tám
Lên thị thành để sống đời sinh viên
Xa làng quê, xa bến nước con thuyền
Sống cô đơn một mình nơi viễn xứ.

Rồi bỗng dưng, bằng nụ cười quyến rũ
Giọng nói mềm chất chứa cả trời thơ
Anh làm em biết thao thức mong chờ
Xua tan đi những muộn phiền trống trãi.

Ai bảo anh nâng phím đàn êm ái
Biết làm thơ, biết hát thật là hay
Rồi những khi em nước mắt đong đầy
Anh quan tâm, và tận tình chia sẻ.

Ai bảo anh luôn bình an vui vẻ
Trên môi anh luôn có những nụ cười
Anh âm thầm phục vụ chẳng nghỉ ngơi
Tim trắng trong, còn lòng thì thành ý

Em cố ngăn, không cho mình suy nghĩ
Không mơ mộng hay tưởng nhớ đến anh
Với sinh viên, anh là thầy đồng hành
Trọn cuộc đời anh đã dâng cho Chúa.

Em băn khoăn chẳng biết làm sao nữa
Càng cố quên, lại càng nhớ thêm nhiều
Em biết mình đã vướng vào lưới yêu
Cố vẫy vùng nhưng em không thể thoát

Con tim mình, em không sao kiểm soát
Bao đêm rồi nước mắt cứ tuôn rơi
Dù lòng em gượng bảo hãy cố cười
Có gì đâu mà u buồn đến thế?

Hãy để em cứ yêu thầy, thầy nhé!
Chỉ yêu thôi, chẳng giữ thầy lại đâu.
Vì với em, thầy là mối tình đầu,
Mối tình câm, mối tình đầy dấu ái.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ