Con sông tuổi thơ tôi – Dậu Nguyễn
httpv://www.youtube.com/watch?v=QHNJHPHq0VM&list=PLYNu2WsZ1JUhQ7J1GGZCKRwWY41IaYbRS&index=1
httpv://www.youtube.com/watch?v=QHNJHPHq0VM&list=PLYNu2WsZ1JUhQ7J1GGZCKRwWY41IaYbRS&index=1
Đứa con của biển Đông.
Đây là câu chuyện có thật được cha Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời năm 2002.
Giao Chỉ, San Jose đặt lại tựa đề và chuyển tiếp từ internet. Bài này phổ biến cách đây hơn 10 năm. Lịch sử Thuyền Nhân Việt Nam trên biển Đông suốt 20 năm từ 1975 đến 1995 với 1 triệu người đến bến tự do và một phần tư là thảm kịch. Sóng gió tầu chìm chết ngay lại là những cái chết hạnh phúc. Năm mười lần hải tặc là bi kịch hãi hùng. Bị bắt giữ trên hoang đảo là những ngày dài thảm khốc. Đau thương hơn cả là những em bé gái bất hạnh bị bắt có thể vẫn còn sống trong các nhà chứa bên Thái Lan. Nhưng câu chuyện này là một phép lạ viết về đứa con của biển Đông 3 tuổi. Câu chuyện liên quan đến 3 bà mẹ. Bà mẹ Việt Nam, bà mẹ Tàu và đức mẹ Teresa. Cha của đứa bé là ông Việt Nam ngồi lặng thinh tráng bánh trong trại chuyển tiếp trên đất Phi, ba tháng góp được 20 Mỹ kim gửi cho vợ con bên trại Hồng Kông. Giấc mơ vô vọng của ông là tìm lại đứa con trai 3 tuổi bị bắt đi đang lưu lạc trong số hàng tỷ dân Tàu. Chúng ta có 40 năm trôi nổi trên thế giới và hiện đã an cư lạc nghiệp. Xin ngồi xuống đây nghe cha Tầm Thường kể chuyện về đứa con của biển Đông. Xin linh mục tác giả vui lòng liên lạc với chúng tôi, Viện bảo tàng Thuyền Nhân tại San Jose. Ai biết gia đình này hiện ở đâu, xin cho chúng tôi biết. ([email protected]) Sau đây là nguyên văn câu chuyện.
(Linh mục Nguyễn Tầm Thường) Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu…
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ta ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiềnPhilippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông này lại phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, phần ông lo tráng bánh. Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ. Cha già Crawford người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào,. Phần ông Việt Nam rời cửa biển Cam Ranh ngày 2/9/1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót.
Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này. Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn đường sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không hy sinh đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ?
Vợ chồng mỗi người một ngả. Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi. Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha M ỹ gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào tìm cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già Mỹ nghe chuyện mất con. Phần tôi, tác giả bài này kể tiếp….Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện.
Câu chuyện bắt đầu về chuyến đi sau của vợ con.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển nhưng hơn ba tháng sau nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.
Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Tiếp theo là câu chuyện mất đứa con trai. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông.. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ. Không nghe ông oán trách sao vợ lại bỏ con của ông. Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán. Bao giờ ông mới được định cư ? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước ? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm ? Bao nhiêu khó khăn tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.
– Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong ?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha Mỹ già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu bốn phương…
Những lá thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Tỵ Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand.
Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh. Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và vẳng nghe có tiếng chuông mỗi chiều.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ đi từ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến.. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé. Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam. Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền sinh hoạt trong gia đình Tàu Hải Nam. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Ðể thỏa mãn điều kiện, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui đến như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng, không tin chuyện có thể xảy ra như thế. Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không nhận mình. Tất cả ai cũng khóc. Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm của con người với con người.
Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết hết để bịt miệng. Ðối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm ?
Ðây là lý do:
Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế..
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa.
Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:
– Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. ….
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia.
Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất.
Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác. Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.
Khi tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.
Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết , còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ ?
Người nghèo phải chết
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
Đây là tiêu đề của một người dân, bạn Lê Phương đăng trên báo Người Lao Động ngày 5 tháng Một, 2015 vừa qua. Bài này phát xuất do một số quy định có hiệu lực từ đầu năm nay. Trong đó quy định về cắt giảm việc trả chi phí cho các loại thuốc có chi phí cao với những bệnh nhân có bảo hiểm y tế làm dấy lên một luồng dư luận vô cùng hoang mang lo ngại cho hầu hết những gia đình nghèo.
Quy định này của Bộ Y Tế VN có nhiều chi tiết nhưng có thể tóm tắt vài điểm chính:
Từ ngày 1/1/2015, một số thuốc ung thư mới, chi phí cao sẽ chỉ được quỹ bảo hiểm chi trả 50% thay vì 100% như trước đây, hoặc không được chi trả.
Bộ Y Tế vừa ban hành danh mục thuốc tân dược được Quỹ Bảo Hiểm Y Tế (BHYT) chi trả, gồm 845 hoạt chất, 1,064 thuốc tân dược; giảm cả về số lượng hoạt chất và thuốc được chi trả so với danh mục hiện nay. Danh mục thuốc được BHYT chi trả hiện hành có 900 hoạt chất với 1,143 thuốc.
Ông Phạm Lương Sơn, trưởng ban thực hiện chính sách BHYT, Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam cho biết, danh mục thuốc BHYT lần này có tổng số lượng thuốc ít hơn vì bỏ bớt một số loại.
Số thuốc bị giảm chi từ quỹ gồm 4 loại, giảm từ chi trả 100% chi phí xuống còn 30-50%. Đây đều là các thuốc giá rất cao mà hiệu quả điều trị chưa được chứng minh rõ ràng. Trong số này có thuốc điều trị viêm gan siêu vi C phải giảm chi từ 100% xuống còn 30%. Ước tính nếu dùng thuốc này phải mất 90,000 tỷ đồng mỗi năm để chi cho đủ nhu cầu điều trị của bệnh nhân, trong khi thu quỹ cả năm 2014 mới được khoảng 53,000 tỷ đồng. Sắp tới Bộ Y tế sẽ ban hành tiếp danh mục thuốc Đông y được quỹ bảo hiểm thanh toán.
Tại sao người nghèo phải chết?
Không phải tất cả bệnh nhân đang dùng thuốc mới, giá cao đều có thể đổi sang dùng thuốc thông thường. Vì thế, với không ít người mắc bệnh hiểm nghèo, sự thay đổi này thực sự là một gánh nặng. Bởi nếu không được chữa trị với những loại thuốc thường dùng họ sẽ phải chết. Mời bạn đọc bài “tâm sự” của người dân.
– Bạn Lê Phương viết: “Tôi nhớ một bác già nằm vắt tay lên trán, chép miệng: “Mấy ổng ban hành chính sách như vậy chẳng khác nào ép người nghèo phải chết”.
Ba tôi nghỉ hưu đã 6 năm. Chưa kịp an hưởng tuổi già bên con cháu thì ông mắc phải căn bệnh quái ác: ung thư gan. Sau 2 lần phẫu thuật rồi hóa trị, xạ trị bệnh tình vẫn không thuyên giảm.
May mắn thay, gần đây bệnh viện thay đổi phác đồ điều trị và hiệu quả thấy rõ. Ba tôi đã ăn được, ngủ được, da dẻ hồng hào, khối u gom lại còn bằng 1/2 lúc trước.
Nếu không có bảo hiểm y tế chi trả các khoản chi phí điều trị căn bệnh hiểm nghèo này, ba tôi chắc đã theo ông, theo bà.
Tổng Cục Hải quan vừa bắt 1 lô hàng thiết bị y tế quá đát nhập vào Việt Nam. (Báo Tiền Phong)
Ấy vậy mà ngay trong Đêm Giáng sinh an lành, ba tôi nhận được tin sét đánh: Từ ngày 1-1-2015, loại thuốc đang điều trị cho ba tôi nằm trong danh sách 28 loại thuốc mới, đắt tiền sẽ thay đổi phương thức chi trả từ bảo hiểm y tế. Thay vì được thanh toán 100% như trước thì nay chỉ được chi trả tối đa 50%.
Hay tin này, ngay tối đó ba tôi đã không ăn uống rồi không ngủ được. Hôm sau ông bảo mẹ tôi về lấy quyển sổ tiết kiệm đem vào bệnh viện cho ông kiểm tra. Sau gần 40 năm làm việc, cống hiến, ba tôi dành dụm được 500 triệu đồng. Đây là khoản tiền “dưỡng già” như cách ba tôi hay nói vui.
Ông bảo: “Tao với mẹ mày có lương hưu, có bảo hiểm y tế; tụi bây khỏi lo. Tiền tiết kiệm này thì để dành đi du lịch và lo hậu sự”. Đó là nói chuyện trước kia, còn từ khi phát hiện bệnh hiểm nghèo, ba tôi không còn lạc quan như trước. Ông luôn miệng nói: “May mà có bảo hiểm y tế, nếu không chắc chỉ còn biết nằm chờ chết chứ tiền đâu mà chữa trị? Bởi vậy người ta mới gọi là bệnh nan y…”.
Ấy vậy mà mấy hôm nay niềm hi vọng sống vốn đã mong manh của ba tôi lại càng lay lắt như ngọn đèn trước gió. Ông nói quả quyết: “Nằm bệnh viện tới 31-12 thì về. Trước sau gì cũng chết, tốn kém làm gì?”. Ông không chỉ quyết định như vậy mà còn “rủ rê” mấy người bạn chung phòng “về nhà chờ chết”. Tôi nhìn hoàn cảnh của những người kia mà không khỏi áy náy trong lòng.
Họ đều là người hưởng lương hưu, là dân nghèo hoặc cận nghèo. Tiền mua thẻ bảo hiểm y tế phải trông chờ nhà nước hỗ trợ, vậy thì lấy đâu để “đồng chi trả” một khoản chi phí cao ngất ngưởng như vậy?
Chợt nhớ mục đích của chính sách bảo hiểm y tế là “người khỏe san sẻ cho người bệnh”. Những năm qua, hẳn là số người khỏe lớn hơn người bệnh gấp nhiều lần nên mới có khoản kết dư bảo hiểm y tế 20.000 tỉ. Ấy vậy mà các quan chức bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế lại lo vỡ quỹ nên không dám chi và còn đổ thừa qua lại.
Biết làm sao được. Chỉ còn mong cho toàn dân khỏe mạnh để những người rủi ro bệnh tật sẽ được cứu sống từ sự chung sức của cộng đồng. Nếu không thì chắc chắn những người nghèo mắc bệnh nan y sẽ phải chết dù y học có phát triển đến đâu!”
Lá thư này đã cho bạn biết rõ tại sao người nghèo phải chết.
Chuyện ở Mỹ và ở VN
Tất nhiên tôi không dại gì đi so sánh nền văn minh nhân loại hay nói gọn hơn là sự chăm sóc người dân giữa Mỹ và VN. Đây chỉ là câu chuyện nhỏ.
Tôi nhớ có lần nói chuyện qua điện thoại với ông bạn ở Virginia, ông hỏi tôi hồi này cuộc sống thế nào. Tôi thành thật trả lời ngay, “Bây giờ tôi già rồi, từ ngày tôi bị CA sờ gáy, chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày đã có ông chủ báo ở Úc cũng là bạn cùng làm báo và là đồng đội từ những ngày xa xưa lo cho từ A đến Z đến khi tôi chết hoặc ông ấy ra đi. Tôi chỉ còn lo mỗi chuyện khi phải vào bệnh viện (BV). Bắt buộc phải có một khoản tiền để sẵn, ở đây vào BV không có tiền chỉ có nước nằm đầu hè chờ chết.”
Ông bạn tôi kể chuyện ở Mỹ, vào BV là “nó” lo cho rất kỹ, có khi còn lo hơn cả điều mình mong muốn. Bởi “nó” tính tiền cho nhà nước Mẽo trả chứ tụi tôi đâu có mất xu nào.
Tôi kể tiếp rằng tôi không mua bảo hiểm, và cũng căn dặn người nhà rất kỹ dù gần chết cũng không đưa tôi vào BV công. Vì có mua bảo hiểm cũng như không, còn gặp nhiều phiền toái. Cụ thể như bà Thụy Vũ, có thẻ bảo hiểm nhưng đến khi về Sài Gòn chữa bệnh không dám đưa thẻ bảo hiểm ra vì thứ nhất phải chờ dài người mới được khám, thứ hai là uống loại thuốc rẻ tiền, còn lâu mới hết bệnh. Đấy là chưa nói đến những chuyện khác như máy móc thuộc loại hàng giả, hàng “đểu”, tay nghề kém nên có nhiều bệnh nhân khám không ra bệnh hoặc đi hai ba bệnh viện đều cho kết quả khác nhau.
Một vấn đề nhức nhối hơn đó là y đức của một số không nhỏ bác sĩ (BS) tại VN. Tôi không nói là tất cả các BS VN đều kém y đức, vẫn còn có những “lương y như từ mẫu” như tôi đã tường thuật trong bài “Buồn Vui Ở Bệnh Viện” ngày 11 tháng 5, 2012, nhưng một số không ít những BS và y tá đã “nhiễm” cái thói quen có phong bì thì săn sóc đến nơi đến chốn, còn không phong bì thì à ơi ví dầu cho xong chuyện. Mời bạn đọc vài “chuyện vặt” sau đây để hiểu rõ những gì đã và đang xảy ra với các BV ở VN.
Tôi chỉ nêu 3 vấn đề chính:
Máy xịn của Mỹ, Nhật trùm mền, xài máy TQ trôi nổi
Sở Y Tế tỉnh Đồng Nai vừa có kết luận các sai phạm trong việc quản lý, sử dụng trang thiết bị y tế (TBYT) và công tác dược đối với BV huyện Xuân Lộc (Đồng Nai). Theo đó có hàng loạt sai phạm tại bệnh viện (BV) này như không dùng máy được Nhà nước trang bị mà sử dụng máy trôi nổi, đã qua sử dụng của Trung Quốc; giao cho người không đủ điều kiện bán thuốc gây nghiện, thả nổi việc quản lý dược…
Theo kết luận, tháng 5-2012, BV Đa khoa Xuân Lộc được trang bị, đưa vào sử dụng máy xét nghiệm 2000i do Nhật sản xuất. Hai tháng trước khi đưa máy vào sử dụng, công ty Nguyễn Tùng (đơn vị cung cấp máy) trúng thầu cung cấp hóa chất xét nghiệm dùng cho máy này. Tuy nhiên, BV chỉ sử dụng máy ba tháng rồi ngưng với lý do đưa ra là BV không có hóa chất.
Với lý do “không có hóa chất” nên không xài máy “nhà nước”, Sở Y tế chỉ rõ: Trước khi máy hoạt động, đơn vị cung cấp máy đã trúng thầu hóa chất sử dụng cho máy. Năm 2013, Công ty Kỹ thuật thiết bị y tế Tân Hồng Bảo trúng thầu hóa chất xét nghiệm, cũng có hóa chất sử dụng cho máy trên. Cuối năm 2013, khoa Dược của BV xuất hóa chất xét nghiệm cho chiếc máy (trị giá gần 52 triệu đồng). Vì vậy BV cho rằng không có hóa chất nên không sử dụng máy là không hợp lý.
Cũng năm 2012, BV được trang bị một máy xét nghiệm tự động XL 640 do Nhật sản xuất và máy hoạt động bình thường. Tuy nhiên, từ khi đưa vào sử dụng đến tháng 10-2014, BV không sử dụng cũng với lý do… không có hóa chất. Trong khi loại hóa chất sử dụng cho máy thì BV vẫn mua!
Tương tự, năm 2007 phòng sinh hóa của BV được cấp một máy xét nghiệm do Mỹ sản xuất nhưng đến năm 2012 thì cho đắp chiếu với lý do chuyển sang sử dụng máy tự động.
Đối với thiết bị hệ thống tán sỏi ngoài cơ thể bị “trùm mền” từ tháng 11-2012 đến nay, máy do Sở Y tế làm chủ dự án cung cấp cho bệnh viện trong khi bệnh viện chưa có phòng bảo đảm đủ điều kiện về an toàn bức xạ nên phải để tạm ở chân cầu thang.
Ngoài ra, bộ phẫu thuật nội soi mũi xoang được bệnh viện mua về từ năm 2007 nhưng sử dụng không hiệu quả vì trước khi mua sắm, bệnh viện chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật cho viên chức bệnh viện, chưa thực hiện đúng công năng của thiết bị nên hiệu quả phục vụ điều trị chưa cao. Nói thẳng ra là các viên chức này chưa biết cách sử dụng máy nên… nhắm mắt làm liều để kiếm tiền của người bệnh.
Công ty Bio-Rad của Mỹ hối lộ $2.2 triệu USD cho các quan chức chính phủ Việt Nam
Theo hồ sơ của Ủy ban Chứng khoán Mỹ và Bộ Tư pháp nước này, Bio-Rad là nhà cung cấp các thiết bị xét nghiệm và chẩn đoán y tế nổi tiếng tại Mỹ, đã thừa nhận đã hối lộ $7.5 triệu USD cho quan chức y tế các nước Nga, Thái Lan và cả Việt Nam. Số tiền để bôi trơn tại VN được cho là $2.3 triệu USD và đổi lại họ có được doanh số đạt hơn $23 triệu USD.
Hồ sơ điều tra từ năm 2005- 2009, Bio-Rad Văn phòng tại Việt Nam có hàng loạt hợp đồng bán thiết bị với giá mỗi hợp đồng từ $100,000 USD- $200,000 USD và mỗi hợp đồng có được họ phải chi “hoa hồng” khoảng $20,000 USD.
Sự việc bị phát lộ khi giám đốc Bio-Rad Singapore nhận thấy đại diện Văn phòng tại Việt Nam đã đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức kinh doanh bị cấm của Bio-Rad nhưng theo tờ BBC, đại diện của Bio-Rad tại Việt Nam cho rằng “nếu không bôi trơn họ sẽ mất trên 80% doanh số”.
Được biết văn phòng Bio-Rad tại Việt Nam đưa số tiền $2.2 triệu USD thông qua một đơn vị trung gian để hối lộ lại cho các quan chức bệnh viện. Vụ việc sẽ làm sáng tỏ khi Bộ Công An vào cuộc.
Nhiều hình thức hối lộ tinh vi trong lĩnh vực y tế
Tài trợ tiền, mời bác sĩ dự hội thảo quốc tế, hoa hồng qua hóa đơn… những cách hối lộ trong lĩnh vực y tế được Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội Nguyễn Văn Tiên nêu ra trong cuộc phỏng vấn sáng 6/11.
Ông Tiên nói: Năm ngoái, Trung Quốc đã xử phạt một công ty của Mỹ mấy trăm triệu USD vì tội hối lộ mà họ chấp nhận chịu phạt. Còn trường hợp này ở ta (VN), hiện nay phải xác định là họ hoạt động trong lĩnh vực nào: thuốc, hóa chất hay thiết bị y tế… Tôi nghĩ là trong 5 năm hối lộ $2.2 triệu USD, có lẽ còn quá nhỏ.
Thực tế nhiều năm nay, chi hoa hồng cho bác sĩ kê đơn thuốc là chuyện phổ biến. Đây là một vấn đề rất lớn. Ở các nước như Mỹ thì họ kiểm soát ngay từ các công ty, xem danh sách chi hoa hồng, chi cho những ai do đó mới phát hiện được. Ta cũng muốn kiểm soát nhưng rất khó. Tôi mong là qua đợt này, chúng ta sẽ phát hiện được xem ở lĩnh vực nào, dược hay thiết bị y tế.
Họ có thể tài trợ dưới hình thức mời đi nước ngoài tham dự hội thảo, cộng vào là có thể thành mấy triệu đôla. Ví dụ, hãng tài trợ cho mấy trăm bác sĩ đi dự hội thảo, mỗi người vài nghìn đôla cộng lại đã thành một khoản lớn. Hình thức hối lộ rất khó, vấn đề phát hiện ra như thế nào. Nhiều nơi có tình trạng chủ yếu trả hoa hồng qua đơn thuốc rất tinh vi.
Tôi nghĩ là những công bố của cơ quan điều tra ở nước ngoài như vậy sẽ khó với chúng ta. Nhưng đây cũng là một dịp tốt cho Việt Nam tìm cách đưa giá thuốc, giá trang thiết bị y tế về giá thực mà không bị chi phối bởi những khoản hoa hồng rất khó kiểm soát.
Tôi rất muốn Quốc hội ban hành luật Đấu thầu, trong đó có mục riêng cho đấu thầu cung ứng thuốc và thiết bị y tế để kiểm soát. Nhưng cũng rất vất vả vì thực tế này tồn tại ở nhiều nước.
Có hàng mấy chục công ty nước ngoài đầu tư trang thiết bị y tế và bán thuốc ở Việt Nam. Chỗ nào cũng có hoa hồng, vấn đề là làm thế nào để phát hiện được, rất khó.
Ở đây là vấn đề y đức, sự tự giác, quản lý của cơ quan cán bộ, bác sĩ đó.
Ví dụ mời đi hội thảo, ta không phát hiện được. Họ có cơ chế trả hoa hồng rất tinh vi, không qua tài khoản, ngân hàng…
Ngoài ra, Cục Điều tra chống buôn lậu – Tổng Cục Hải quan đã phá đường dây chuyên nhập khẩu thiết bị y tế quá đát của Công ty Kĩ thuật Thiết bị Y tế Bảo Trân (Công ty Bảo Trân, ở số 19, 180/2, đường Trần Duy Hưng, Hà Nội). Theo kết quả giám định ban đầu, toàn bộ số thiết bị y tế nhập khẩu gồm máy soi dạ dày, máy scan phim X Quang và các phụ kiện đi kèm của có xuất xứ từ Nhật Bản, Trung Quốc, Mexico đã bị thải ra do không còn giá trị sử dụng. Hiện cơ quan chức năng tiếp tục điều tra làm rõ vụ việc.
Tốn hàng tỉ USD đi nước ngoài chữa bệnh
Chỉ cần nhìn qua vài sự kiện trên bạn còn thể tin tưởng gì vào những thiết bị y tế để khám chữa bệnh của BV tại VN được không? Vì thế bạn đọc hiểu rõ hơn tại sao tôi căn dặn người nhà có chết cũng không đưa tôi vào BV công. Còn một số lớn các “đại gia, đại quan” cứ mắc bệnh là đi Singapore, đi Mỹ chữa bệnh. Mỗi năm chảy ra nước ngoài hàng tỉ đồng chứ không ít.
Theo thống kê, hiện cả nước VN có khoảng 170 bệnh viện tư nhân với vốn đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng (chưa kể hệ thống bệnh viện công xuống tới cấp huyện). Tuy nhiên, theo Bộ Y tế, hằng năm người Việt vẫn đem hơn 2 tỷ USD ra nước ngoài chữa bệnh
Có những câu chuyện khiến ngay cả người vai vế trong xã hội cũng phát khóc khi phải chịu đựng lối ứng xử hống hách của một số bác sĩ tại bệnh viện của giới nhà giàu. Không ít bệnh viện gắn sao được xây to, trang bị hiện đại, nhưng cung cách ứng xử vẫn hống hách, coi thường bệnh nhân.
Dài cổ chờ mua thuốc ở bệnh viện
Gần xế chiều, các nhà thuốc tại các bệnh viện ở TP Sài Gòn vẫn đông nghịt bệnh nhân chờ đợi. Nhiều người ở tỉnh xa trót hẹn xe đến đón buộc phải dời lại giờ, số khác ngại mất thời gian đã chấp nhận ra ngoài mua.
Nguyên nhân gây quá tải nhà thuốc là do quá tải tải bệnh viện dẫn đến người mua thuốc nhiều. Trong khi đó mỗi bệnh viện chỉ có một nhà thuốc.
Nhà thuốc Bệnh viện Nhân dân Gia Định, dù không phải là ngày đầu tuần, số bệnh nhân đến khám không quá đông, nhưng đến gần 11 giờ vẫn ngập người ngồi đợi.
Khu vực cấp thuốc bảo hiểm y tế, có khoảng 100 người ngồi chờ đến lượt. Khu bán thuốc cạnh đó cũng đông người chờ. Cảnh chờ đợi mua thuốc kéo dài gần đến xế chiều mới vơi dần.
Chờ mệt mỏi, nhiều bệnh nhân bỏ bảo hiểm khám dịch vụ
Người dân xếp hàng dài đợi chờ, mệt mỏi với các thủ tục hành chính rườm rà, nhiều người đành bỏ bảo hiểm sang khám dịch vụ khiến khu dịch vụ của các bệnh viện đông lại càng đông. Gần nửa tháng áp dụng Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), tình hình quá tải tại các bệnh viện tuyến trên không những vấn tiếp diễn, mà phía người bệnh còn chật vật hơn khi đi khám chữa bệnh
Đông nhất là Bệnh viện Bạch Mai, người đến khám bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) chen nhau chật kín quầy tiếp đón. Bác Trịnh Văn Quân, trú tại quận Hoàng Mai than thở: “Đi bệnh viện thời nay mà như đi xếp hàng thời bao cấp vậy, chờ đợi sốt ruột vẫn chưa đến lượt mình. Càng ngày tôi càng phải chờ đợi lâu hơn”.
Sự đông đúc này khiến nhiều người đành phải bỏ BHYT để khám dịch vụ. Do đó, tại khu khám dịch vụ của các bệnh viện, số bệnh nhân rất đông.
Còn ở TP. Sài Gòn, tại Bệnh viện Thống Nhất và Bệnh viện Chợ Rẫy, 2 đơn vị thí điểm được Bộ Y tế chọn để thục hiện việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cũng vẫn có nhiều bệnh nhân phải than phiền vì chờ đợi.
Đến đây bạn đọc lại có thể thông cảm với người dân Việt về nỗi khổ của cái bảo hiểm y tế và nỗi sợ hãi thế nào khi phải vào bệnh viện công ở VN.
Đề tài này còn khá dài, tôi sẽ có dịp tường thuật với bạn đọc vào một kỳ báo sau.
Văn Quang
(9 tháng Một, 2015)
“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”,
Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya.
(Trịnh Công Sơn – Biển Nhớ)
(Thư Do thái 4: 7-13)
Trần Ngọc Mười Hai
Ngày em đi, phải chăng là đi ra biển để đến nỗi biển vẫn nhớ? Nhớ đến độ, người viết nhạc họ Trịnh, lại cứ đong đưa những điệu nhạc phải nghe tiếp kẻo quên sót, như sau:
“Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ, nghe buồn nhịp chân bơ vơ
Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn, bàn tay chắn gió mưa sang
Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đêm mờ
Hồn lẽ nghiêng vai gọi buồn, nghe ngoài biển động buồn hơn.
Hôm nào em về, bàn tay buông lối ngõ
Đàn lên cung phím chờ sầu lên dây hoang vu”.
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Người viết nhạc đầy hồn thơ, thì viết thế. Chứ, người làm thơ đầy hồn nhạc, lại sẽ diễn-tả như sau:
“Mai tôi đi… chẳng có gì quan trọng,
Lẽ thường tình, như lá rụng công viên,
Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,
Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn…
Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng,
Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,
Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,
Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.
Khoảnh khắc cuối… Đâu còn gì tha thiết…
Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian.
Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn,
Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…
Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,
Để đi vào ranh giới của âm dương,
Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương,
Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…
Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,
Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,
Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,
Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…
Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,
Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu,
Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.
Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống…
Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng,
Đến trần truồng và đi vẫn tay không.
Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,
Nay rũ sạch… lên bờ, thuyền đến bến…
Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện,
Nên xem như giải thoát một kiếp người,
Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,
Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…
Thơ và nhạc, mà lại nói về “cõi hết” cũng rất buồn. Dù bạn dù người “ra đi” có khyên bảo “xin đừng khóc”. Có khóc hay không, đời mình vẫn thế. Cũng vì vẫn như thế, nên có người viết lại đã vội vang đề nghị những lời như sau:
“Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong sân trường khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !
Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nữa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xảy ra trong đời sống.
Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…
Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.
Ta vẫn biết khi ta ra đời ,ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo. Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình. Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.
Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .
Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.
Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt. Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rỗi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già
Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẻ. Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…
Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gỡ bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nữa.
Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghĩ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.
Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.
Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghĩ đến đồng tiền, đừng nghĩ đến giàu hay nghèo nữa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền. Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta.
Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.
Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.
Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già. (Dodom ST sư tầm và chuyển cho mọi người đọc trên mạng)
Đọc trên mạng, hay đọc trong cuộc đời, vẫn có những điều mình chưa được biết trọn gói hay trọn vẹn. Đọc trên mạng hoặc đọc trên thư từ bạn bè gửi, lại cũng có những điều chỉ nói một nhưng hiểu nhiều. Cũng tựa hồ như chuyện nhà Đạo có những Tin vui mừng lâu nay tưởng chừng như đã quen quen, dù được “chia sẻ” mỗi Chúa nhật, suốt một đời, thế mà cứ tưởng như rất mới. Mới như câu chuyện được đề cập ở bên dưới:
“Cô bé và cậu bé là hàng xóm từ thuở nhỏ. Trò chơi thuở bé của hai đứa trẻ là chạy ra bờ sông nghịch, lấy đất nặn thành hình búp bê. Khi khuôn mặt cậu bé nhem nhuốc đầy buồn đất, cô bé sẽ khẽ dùng tay áo quẹt đi những vết bẩn trên mặt cậu. Và cậu bé sẽ nhoẻn miệng cười cảm ơn cô bé. Lúc đó, khuôn mặt của hai đứa trẻ trông còn đáng yêu hơn cả những con búp bê mà chúng nặn ra.
Cô bé vốn hay khóc nhè. Một con sâu nhỏ cũng có thể làm cô bé khóc thét vì sợ hãi. Những lúc đó, cậu bé sẽ dẫm chết con sâu, rồi làm ra vẻ người lớn dỗ dành cô bạn nhỏ.
Cô bé vẫn thút thít không ngừng. Cậu bé không biết nên làm thế nào, rút từ trong túi quần ra một đồng xu nhỏ mà khi đứng đợi cô bé đã nhặt được trên đường. Cậu bé đặt đồng xu nằm trong lòng bàn tay để trước mặt cô bé.
“Em xem này, đây là đồng xu anh nhặt được trên đường lúc nãy. Hai mặt của nó không giống nhau đâu. Bây giờ anh tung nó lên, nếu lúc rơi xuống nó vẫn là mặt này, thì em không được khóc nữa. Còn nếu là mặt kia thì anh sẽ khóc cùng với em có được không?”.
Cô bé dụi mắt, nhìn đồng bạc sáng loáng trước mặt lạ lẫm hiếu kỳ, rồi ngước lên nhìn cậu bé gật đầu mếu máo. Cậu bé khẽ tung đồng xu vào không trung. Đồng xu lật mấy lần, rồi trở lại lòng bàn tay cậu bé. Cô bé tò mò vội gỡ những ngón tay bụ bẫm của cậu bé. Vẫn là mặt lúc nãy của đồng xu. Hai đứa trẻ nhoẻn miệng cười thật to. Cô bé không khóc nữa. Chúng chạy ra bờ sông nặn búp bê bằng đất.
Tuổi thơ của hai đứa trẻ trôi qua trên những cánh đồng bát ngát, những buổi đi bắt chuồn chuồn bên bờ ao và thả thuyền giấy trên con kênh nhỏ. Cả hai cùng bước vào tiểu học. Những lúc không có người bạn thời thơ ấu bên cạnh, cô bé vẫn thường bị những đứa bé trai cùng lớp trêu đùa bắt nạt. Cô bé khóc nhè cả quãng đường về nhà. Đợi đến khi cậu bé về, đồng tiền xu ngày trước lại xoay vòng trên không trung để quyết định tất cả. Hai đứa trẻ lại nhoẻn miệng cười rồi đi tìm trò chơi thuở bé.
Thời gian lại trôi nhanh qua những bài hát đồng dao thuở học trò. Hai đứa trẻ học lên trung học. Cậu bé cho dù ham chơi đến đâu cũng vẫn có thể tính ra những đáp số chính xác nhờ công thức được học. Thầy giáo luôn khen cậu là một học sinh thông minh.
Còn cô bé, cho dù có cố gắng đến đâu cũng không thể hiểu được rằng, khi X và Y có quan hệ, Y và Z có quan hệ, thì X và Z nhất thiết phải có mối quan hệ nào đó. Sau mỗi lần trả bài kiểm tra, cô bé lại nằm bò ra bàn và khóc, nước mắt rơi ướt nhòe cả khung điểm kém. Cậu bé lại rút đồng xu từ trong túi ra và tung vào không trung. Vẫn quy định cũ. Cô bé không khóc nữa, ngoan ngoãn ngồi nghe cậu bé giảng giải những chỗ không hiểu, những công thức toán học, những định luật vật lý mà cô không nắm vững. Điểm số của cô không còn thấp dưới 5.
Thời gian lại trôi theo những tháng ngày bận rộn, những kỳ thi cuối cấp. Khoảng trời đại học mở ra trước mắt hai người bạn. Cuộc sống thời đại học an nhàn tự tại. Tuổi thanh xuân với những tình cảm lứa đôi ngây thơ trong sáng in dấu từng góc sân trường. Chàng trai và cô gái kết thành một đôi kim đồng ngọc nữ trong sự ngưỡng mộ của biết bao nhiêu người. Tình yêu chân thành và bình lặng trong từng khoảnh khắc. Cô gái vẫn hay mau nước mắt. Và chàng trai vẫn luôn giữ đồng xu thuở bé bên mình.
Trong một trận đấu bóng chuyền của trường, chàng trai tham gia cùng vài người bạn. Cô gái đứng trên hàng ghế khán giả, cầm áo khoác cho anh và không quên reo hò cổ vũ. Cuối trận đấu, chàng trai cảm thấy khá mệt, mồ hôi vã ra trên trán. Anh lảo đảo bước về phía khán đài. Mọi thứ trước mắt bất chợt trở nên mơ hồ như qua một làn khói ảo.
Khi còn chưa bước được tới trước mặt người yêu dấu, anh cảm thấy một luồng khí nóng trào qua lồng ngực. Rồi máu từ mũi chảy xuống. Chàng trai ngã xuống trước ánh mắt hốt hoảng của cô gái cùng sự ngạc nhiên của bao người đứng đó.
Bác sĩ cho biết chàng trai bị ung thư máu. Trái tim cô gái vốn nhỏ bé mềm yếu lại như vỡ ra từng mảnh. Khi lần đầu tiên đến thăm anh trong bệnh viện, khi lần đầu tiên nhìn khuôn mặt thân thương của anh nhợt nhạt mệt mỏi, cô không nén nổi xúc động, ôm lấy anh và òa khóc. Những giọt nước mắt rớt vội trên bờ môi anh, ấm áp và mặn chát.
Anh cố gắng với tay lấy từ dưới gối đồng xu mà năn nỉ mãi bác sĩ mới cho giữ lại.
-Em nhìn này, đây là cái gì?”.
Cô gái lấy tay quệt nước mắt, nhìn đồng xu thân thương. “Vẫn quy tắc cũ nhé. Nếu là mặt này, em không được khóc nữa. Còn nếu là mặt kia, anh sẽ khóc cùng em có được không?”
Cô nhìn người con trai thân yêu đang nằm đó. Anh đang cố gắng dỗ dành cô. Bao năm rồi vẫn vậy, anh chưa từng dửng dưng trước giọt nước mắt của cô. Và cô cũng chưa từng lắc đầu mỗi khi anh lấy đồng xu nhỏ ra.
Chàng trai run rẩy tung đồng xu lên không trung. Đồng xu lại xoay vòng lóe sáng rồi rơi xuống lòng bàn tay anh. Vẫn là mặt “không được khóc nữa”. Chàng trai cố gắng mỉm cười kéo cô gái vào lòng dỗ dành như thời thơ ấu. Nước mắt anh chảy xuôi theo nụ cười.
Đám tang anh, mọi người đến dự trong bao đau buồn và tiếc nuối. Cô tiễn anh không một giọt nước mắt. Mọi người nghĩ cô thật cứng rắn. Nhưng họ không biết, trái tim cô đang vỡ vụn. Và nước mắt cô không thể rơi cho anh được nữa.
Ba mẹ anh gửi cho cô một chiếc hộp nhỏ nói là món quà cuối cùng của anh muốn dành tặng cô. Cô run rẩy mở chiếc hộp của anh. Bên trong là một tờ giấy nhỏ với dòng chữ: “Đừng khóc nữa người mà anh yêu suốt đời”, và một đồng tiền xu sáng bóng.
Đồng tiền xu quen thuộc đã theo hai người từ thời thơ ấu. Cô cầm đồng tiền lên, lần đầu tiên mới nhìn kỹ nó. Nước mắt cô chợt trào ra. Đồng tiền xu rơi xuống đất xoay vòng lóe sáng. Hai mặt của nó vốn dĩ không hề khác nhau…” (Lính thủy sưu tầm)
Sưu tầm chuyện ngắn, đâu cứ chỉ mỗi anh lính thủy còn làm việc ấy. Sưu tầm chuyện nhà Đạo, hẳn bạn và tôi, ta vẫn cứ sưu và cứ tầm, rồi ra sẽ nhận được quà tặng như lời dặn sau đây:
“Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng.
Thật vậy, nếu ông Giôsuê đã cho họ được yên nghỉ,
thì sau đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa.
Như thế, Dân Thiên Chúa còn có thể được nghỉ
như Thiên Chúa nghỉ ngày thứ bảy,
vì ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa,
thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công việc của mình,
như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người.
Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này,
kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã.
Lời Thiên Chúa là lời sống động,
hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi:
xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ;
lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.
Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa,
nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.”
(Thư Do thái 4: 7-13)
Hiểu thế rồi, bạn và tôi, ta cứ hiên ngang hát lời buồn nhưng không bực, có ca-từ như sau:
“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về,
Chiều sương ướt đẫm cơn mê,
Trời cao níu bước sơn khê.
Ngày mai em đi, cồn đá rêu phong rũ buồn,
Đèn phố nghe mưa tủi hồn, nghe ngoài trời giăng mây luôn.
Ngày mai em đi, biển có bâng khuâng gọi thầm,
Ngày mưa tháng nắng còn buồn, bàn tay nghe ngóng tin sang.
Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đèn vang,
Nửa bóng xuân qua ngập ngừng, nghe trời gió lộng mà thương”.
(Trịnh Công Sơn – bđd)
“Nghe trời lộng gió mà thương”. Vâng. Đúng thế. Hôm nay và mai ngày dù trời có lộng gió hay không, ta cứ thương. Thương, như lời người kể truyện ở bên dưới làm đoạn kết cho buổi phiếm luận, rất hôm nay.
“Truyện rằng:
Ngày lễ hội hôm ấy, hai người bạn thân gặp nhau sau một thời-gian xa cách, ít có dịp tâm sự đôi điều về nhân-sinh cuộc đời, vui buồn lẫn lộn. Trò chuyện một hồi lâu, chợ ngu72i này hỏi:
-À này, mối tình của cậu với “con nai vang ngơ ngác” khi xưa bây giờ ra sao?
-Hết rồi cậu ạ! Lâu lắm rồi, chẳng thấy “nai vang” nào còn ngơ ngác hết, mà chỉ là…
-Chỉ là làm sao?
-Chỉ là “muông thú quen gầm, ở Hà Đông thôi!
-Ấy chết! Sao lại là sư tử Hà Đông được?
-Chữ đó là do cậu nói đấy, chứ không phải của tớ đâu nhé. Liều mồm mà ăn nói, kẻo chết không kịp ngáp cho mà coi.
-Tớ chết từ lâu rồi, cậu ạ. Nưng, chỉ là chết trong lòng một chút ít, thôi…”
Chết trong lòng một ít hay rất nhiều, vẫn là sống như đang chết. Là, thứ chết rồi nhưng vẫn còn ngáp. Ngá ngáp, chứ chẳng chơi. Đó là cuộc đời, của bạn và của tôi, rất hôm nay.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn luôn chết trong lòng một ít
Suốt nhiều ngày
Trong đời.
” Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.”
“Màu như ru, sóng âm thanh xô đẩy .
Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,
Lên bốc lên và ân huệ dường bay .
Ôi! khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng.
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Yn 1: 35-42
Mai Tá lược dịch.
Sóng âm thanh – nguồn hương thơm, như màu ru xô đẩy, nơi lời nguyện. Lời nguyện hôm nay, là nguyện và cầu theo ý Chúa, có lời mời. Ngài mời dân con nhà Đạo mỗi người mỗi cách, như đã ghi giữ trong trình thuật.
Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an ghi giữ lời gọi mời Chúa gửi đến, với mọi người. Chúa gọi mời mọi người làm dân con đồ đệ, nay uỷ thác. Ngài uỷ thác, lối sống thân thương giùm giúp, bằng quà tặng rất trân quý.
Bài đọc 1, Chúa đã gọi mời người trẻ, tên Samuel, những ba lần. Còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm về gọi mời, nên Samuel cứ ngỡ tiếng Ngài gọi là tiếng từ thày mình, rất Êlya. Thế nên, Chúa gọi hai lần đầu Samuel đều đi ngủ. Cả hai lần đến với Elya, cứ hỏi han. Mãi lần ba, người thanh niên trẻ Samuel mới dám nghe lời thày mách bảo: “lần sau, hễ có ai gọi thì con nhớ thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”
Rồi từ đó, “Samuel đã lớn lên. Và, Đức Chúa ở với ông. Người không để rơi xuống đất một lời nào Người đã phán với ông” (1S 3: 19). Như thế là, anh vẫn tiếp tục lắng tai nghe rất cẩn trọng. Nghe những gì Đức Chúa nói với ông. Lắng nghe tiếng Người gọi mời. Và đổi lại, ông đã chuyển đến với mọi người, những gì mình đã nghe. Bởi, Lời Chúa không là Lời để ta giữ lại, cho riêng mình. Cũng giống như người tôi tớ lĩnh nhận đồng tiền vàng, rồi đem chôn.
Và vì thế, mỗi lần Lời Chúa nói, mọi người cần lắng nghe. Lắng nghe, là: để tai ra mà nghe. Là, thông hiểu. Là, chấp nhận và đồng hoá như của mình. Để rồi, san sẻ với người khác bằng lời lẽ và hành vi. Thành thử, ví thử Chúa gọi ta hôm nay, Ngài sẽ nói gì? Ta có sẵn sàng để lắng tai, không?
Trình thuật nay cũng nói về một gọi mời. Gọi mời, là lời gọi đến hai lần. Lời gọi hôm nay, là về hai người đã trở thành đồ đệ của Gio-an Tẩy Giả. Thánh nhân chỉ cho họ thấy Đức Giê-su rồi bảo: “Này, là Chiên Thiên Chúa!” Thánh Gio-an biết: vai trò thủ lĩnh của ông chỉ ngắn hạn, và tạm thời. Và, ông tập trung nhấn mạnh đến vai trò chỉ đạo của Đức Chúa. ”Chiên Thiên Chúa”, là danh xưng mà thánh Gio-an thánh sử tặng cho Đức Giê-su, ngay chương đầu. Chương này, thánh nhân nối kết Chúa vào với lịch sử cứu độ, dân Do Thái. Và thánh nhân nói: Chúa hy sinh cả cuộc sống vì Ngài thương yêu chúng ta.
Đồ đệ Chúa, thoạt nghe lời gọi mời, chẳng tỏ bày một ngạc nhiên, nhưng đã bước theo Chúa. Thấy thế, Chúa quay lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Câu hỏi này, Chúa cũng đang gửi đến mỗi người, ngày hôm nay. Thông thường, ta cứ nghĩ mình là người hỏi Chúa:“Ngài tìm ai thế?” Không phải vậy. Ở đây, Chúa chỉ muốn hỏi: ta muốn điều gì? Trả lời câu Chúa hỏi, không phải để trả lời Ngài, mà cốt ý làm lợi cho ta. Câu trả lời, sẽ cho ta biết: đâu là ưu tiên một, ta có thực sự dành cho Chúa. Cho mọi người chung quanh?
Hỏi, là để biết xem ta thực sự muốn cho cuộc sống mình ra như thế nào? Muốn Chúa làm gì cho ta? Và đây chính là câu hỏi không dễ gì có câu trả lời, ngay tức khắc. Trả lời Ngài, có thể cũng chỉ lớt phớt, rất thoáng qua. Nhưng câu trả lời sẽ cho thấy, ta ra như thế nào. Và, đây là câu hỏi buộc ta phải phản hồi, theo từng giai đoạn, trong cuộc sống. Tuỳ hoàn cảnh.
Và, trả lời của đồ đệ cho câu hỏi “anh tìm gì?” là thế nào? Chưa có trả lời, nhưng đồ đệ Chúa, lại cứ hỏi: Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Hỏi như thế, có nghĩa: “Thưa Thầy, Thầy ở nơi nào để con tìm đến? Chúng con đi đâu mới tìm ra được Thầy? Trong cuộc sống, chúng con làm thế nào để giáp mặt cùng Thầy?” Thật phúc thay, nếu ngày nay mọi người chúng ta cũng có câu trả lời như thế,.
Và câu đáp trả của Chúa, vẫn là: “Hãy đến mà xem.” Đến mà xem, trước tiên không phải là một hiểu biết về Đức Kitô và biết được nơi Ngài lưu lại. Cũng không là vấn đề truyền thông tin tức. Cũng chẳng phải là chuyện có liên quan đến mọi ý nghĩa thần học, tín lý hoặc tu đức. Cũng chẳng phải là vấn đề phải có chuyên môn về giáo huấn và luật lệ của Hội thánh: nhóm Pharisêu thuộc mọi thời đại đều rất giỏi chuyện này.
Hiểu biết Chúa, là vấn đề của kinh nghiệm. Người người đều có thể hiểu và biết Giáo lý mới của Hội thánh, dầy những 700 trang. Và, có khi còn thuộc lòng nhiều đoạn. Nhưng vẫn chưa biết Chúa. Biết Chúa, theo nghĩa của trình thuật hôm nay, là biết đi tìm, gặp gỡ và đáp trả sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài, trong cuộc sống.
Biết đến Chúa, là dám lao mình tìm hiểu giáo huấn của Ngài. Tìm và hiểu, cả vào khi xem ra mình cứ phải đối đầu với những người khác nghĩ. Là, yêu thương không điều kiện. Là, thứ tha, đưa má kia cho người tát. Là, vác thập giá nặng theo sau Đức Chúa. Là, chịu đựng mọi sỉ vả, chê bai và hành hình. Hãy đến mà xem, chính là theo chân bước vào con đường Chúa đã đi. Không có cách nào khác.
Hai đồ đệ được nói đến trong trình thuật, đều đã chấp nhận lời gọi mời. Các ngài đã thực sự ra đi và lưu lại nơi Chúa từng, dừng chân vào cuối ngày. Và, kết quả của quyết tâm lưu lại với Chúa, sẽ ra sao? Một trong hai đồ đệ ấy, là thánh Anrê, không chỉ quyết tâm theo Chúa mà thôi, nhưng còn là người rao giảng Tin Mừng, không xa Chúa. Chính thánh nhân là người đã đến kể với anh em mình : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia!” Cũng từ đó, Simôn đã trở thành Phêrô, một đồ đệ rất gần gủi. Một lĩnh tụ của cộng đoàn mới.
Cũng nên nhớ, thánh Phêrô, dù đảm trách vai trò quan trọng trong tương lai, lúc đầu vẫn không là người được Chúa đích danh, trực tiếp gọi mời. Mà, qua người em của thánh nhân. Và, chuyện như thế vẫn xảy đến rất nhiều lần ngày hôm nay. Mọi người chúng ta, kể cả các thánh, đều do người khác, những người yếu kém hơn mình, dẫn đưa đến Chúa. Như ta, hôm nay, cũng đều do người nào khác đem đến với Chúa.
Bởi thế nên, cũng hãy hỏi:
*Chúa đang gọi ta hôm nay, bây giờ để làm gì? Và, ta có thực sự để tai mà lắng nghe những điều Ngài muốn nói với tôi, không?
*Có ai đang chờ người như ta để nhờ dẫn dắt, đến cùng Chúa, không?
Và, ai là người đang đợi chờ lời gọi mời rất vang vọng: “Hãy đến mà xem”?
Hỏi, tức đã trả lời. Và, câu trả lời của ta, có là câu đáp trả rất tích cực?
Trong tự vấn, ta cứ hiên ngang cất tiếng hát lên để khẳng định một quyết tâm, hát rằng:
“Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù
Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu
Lửa âm u ai đốt từ lâu
Miền quê tôi khan tiếng kêu gào
Lời tôi ca như nước nhiệm mầu
Thành mưa rơi cho dứt niềm đau”
(Phạm Duy – Tiếng hát to)
Cứ hát to. Hát, cho thêm ý. “Thêm nguồn hương thơm”của cuộc đời. Cuộc đời, nay đã thấy “Lên bốc lên và ân huệ dường bay.” Thấy “khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng” . Ánh sáng nhiệm mầu, nơi gọi mời, của Đức Chúa.
Lm Frank Doyle sj
Mai Tá lược dịch.
Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài
Từ Thức (Paris)
(VNTB) – André Gide nói ‘’ C’est avec des beaux sentiments qu’on fait de mauvaise littérature ‘’ ( Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở ).
Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người. Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghĩa quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần lại gần những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghĩa quá héng. Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghĩa đồng bào vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống. Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực.
Miệt Vườn
Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’ . Ông kể chuyện ; không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách, ông viết với tấm lòng.
Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng. Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa chỉ rất ‘’miệt vườn ‘’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương , lạ tai , ngồ ngộ. Âm thanh như một câu vọng cổ.
Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseilles, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’. Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái.
Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi . ( Sự thực Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’. Còn báo Nhân Dân không ? Đéo còn, chỉ còn Người Hà Lội )
Những giọt nước mắt
Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng. Tất cả đều la những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con , thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút, nói : cho con cái ni (ông là người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén , nghèo đói quá, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ ăn cháo.
‘’ Chiếc khăn mùi xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghĩa, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.
Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ , trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’ Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng‘’.
Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà , Cầu cỏ , tìm người bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc.Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.
Không Điên Cũng Khùng
Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính : những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đưà nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ , những mói tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư , kể cả vùng quê, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc , gian sảo, cướp đoạt, dối trá.
Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đùa, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư , như bà Hai , như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác. Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’
Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng. Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ‘’ cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đáng tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng
***
Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Sàigòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản vào miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lừa gạt, suốt ngày đay nghiến trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết ; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm , không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm lầm lũi lội chết dưới biển.
Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đứa con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘ khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.
Thầy Năm Chén ( trong truyện cùng tên ) phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi kiếm ăn . ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghĩa trang. Sợ người ta để ý, Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý, Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.
Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’
Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui bán chánh thức ‘’, nghĩa là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bẩy suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.
Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh . Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi… quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật. ‘’. Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghĩa ). Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt.
Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn dễ dãi, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý, trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái , khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt . Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười trong những ngày bình an và ngay cả trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm , một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử Việt.
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Hội nghị trung ương 10 vừa qua vẫn được giữ kín.
Các nhà quan sát trong nước mà BBC liên lạc đều nói về tình hình “kín như bưng, không thể bình luận”.
Hội nghị Trung ương 10 đã kết thúc sau tám ngày làm việc với diễn văn bế mạc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Diễn văn này của ông Trọng đã đề cập rất ít về việc lấy phiếu tín nhiệm và giới thiệu nhân sự cho Bộ Chính trị so với các nội dung khác mặc dù đây là những vấn đề quan trọng được bàn thảo tại Hội nghị 10 và được người dân quan tâm.
Trao đổi với BBC về các chủ đề được các ủy viên Trung ương Đảng đem ra bàn luận tại Hội nghị 10, ông Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, nói rằng ‘nhân sự là vấn đề hàng đầu’.
“Các vấn đề về văn kiện chính trị, quản lý báo chí, tinh giảm biên chế là những việc mà họ (Đảng Cộng sản) đã tiến hành dài dài nhiều thời gian rồi. Họ có ban bệ chuẩn bị rất kỹ và cũng đã thảo luận ở nơi này nơi kia nhiều lần rồi,” ông A nói.
“Giống như tất cả hội nghị trung ương chuẩn bị cho một sự kiện lớn của Đảng Cộng sản thì vấn đề nhân sự là vấn đề hàng đầu mà người ta (các ủy viên trung ương) quan tâm nhất.”
Về việc Đảng không công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm sau khi kết thúc Hội nghị 10, ông A nhận định rằng việc ‘Đảng càng thiếu minh bạch thì càng mất niềm tin trong chính nội bộ của họ’.
“Đằng nào thì những chuyện như thế cũng tiết lộ ra,” ông A cho biết, “Hôm qua tôi đi xe buýt tôi nghe người ta kháo nhau ầm ầm kể cả con số phiếu, những ông nào nhất ông nào nhì.”
Khi được hỏi về nhân sự lãnh đạo cho khóa mới của Đảng có nhân tố nào có thể tin tưởng được, ông A nói ông ‘chưa nhìn thấy một nhân tố nào cả’. Về việc Trung ương Đảng cũng đã bỏ phiếu giới thiệu nhân sự cho Bộ Chính trị khóa sau, ông A nói việc các phe phái trong Đảng đấu đá nhau để đưa người của mình lên là ‘chuyện bình thường’.
“Chuyện cạnh tranh trong bất kỳ đảng nào cũng là chuyện bình thường,” ông giải thích, “Đáng ra Đảng Cộng sản Việt Nam phải coi đó là việc bình thường cũng như bất kỳ đảng nào khác trên thế giới có phái này phái kia, người này người nọ cạnh tranh với nhau giành quyền lãnh đạo.”
“Rất đáng tiếc Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ lúc thành lập đến giờ luôn giấu sự cạnh tranh sợ mọi người nói là đấu đá nội bộ, gây mất lòng tin,” ông nói thêm.
“Giấu cái đó thì chẳng được lợi gì cho họ cả.”
Khi đường hỏi về đường lối phát triển đất nước trong nhiệm kỳ tới mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phác họa trong diễn văn bế mạc Hội nghị 10, ông A nói ‘chẳng có gì mới mẻ cả’.
“Tôi hy vọng những mong muốn của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ không thành sự thật và sẽ có chuyển biến gì đấy từ lúc này cho đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra,” ông nói.
Theo diễn văn bế mạc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì ngoài các vấn đề nhân sự và lấy phiếu tín nhiệm, Hội nghị 10 đã bàn bạc rất nhiều vấn đề để chuẩn bị cho Đại hội 12 bao gồm Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội sau 5 năm, Báo cáo Tổng kết 30 năm ‘đổi mới’, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng, đề án tinh giản biên chế và đề án quy hoạch và quản lý báo chí.
Xin xem thêm:
Lãnh đạo Đảng CSVN không dám công bố sự tín nhiệm(Nguoi-viet.com)
Ba tàu cá Việt bị tàu TQ tấn công
Tàu cá từ huyện đảo Lý Sơn đã nhiều lần bị tàu Trung Quốc tấn công trong năm ngoái
Ba tàu cá Việt Nam từ huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, bị tàu hải giám Trung Quốc tấn công khi đang đánh bắt gần quần đảo Hoàng Sa, nhà chức trách cho biết.
Thông tin trên được ông Trần Bút, Chủ tịch UBND Lý Sơn cung cấp cho BBC trong cuộc phỏng vấn ngày 13/1.
“Ba tàu cá từ xã An Hải, huyện Lý Sơn đã bị các tàu Trung Quốc tấn công hôm 7/1 khi đang đánh bắt gần quần đảo Hoàng Sa,” ông Bút cho biết.
Các tàu này do các thuyền trưởng Lê Tân, Nguyễn Chí Thạnh và Bùi Văn Đông điều khiển, ông nói thêm.
“Không có thiệt hại nào về nhân mạng, nhưng các tàu đều bị đập phá, lấy tài sản”.
“Tổng thiệt hại vào khoảng 300 triệu đồng”.
Trước đó, báo Tuổi Trẻ dẫn lời bà Phạm Thị Hương, Phó Chủ tịch UBND Lý Sơn nói một trong các vụ va chạm xảy ra gần đảo Tây, quần đảo Hoàng Sa.
“Chúng tôi sẽ có các biện pháp hỗ trợ cho ngư dân,” ông Bút nói.
“Bên cạnh đó, chính quyền cấp tỉnh cũng sẽ có các biện pháp hỗ trợ riêng”.
Nhiều vụ tấn công nhằm vào tàu cá Việt Nam đang đánh bắt tại quần đảo Hoàng Sa cũng đã xảy ra hồi năm ngoái.
Hồi tháng Chín, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã triệu đại diện từ đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để phản đối “hành vi đập phá, tịch thu trái phép tài sản và đánh đập ngư dân Việt Nam đang hoạt động nghề cá bình thường tại khu vực quần đảo Hoàng Sa” của lực lượng chức năng Trung Quốc.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khi đó được dẫn lời nói hành động của phía Trung Quốc đã “xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, trái với luật pháp quốc tế …”
Chân dung Quyền lực
13.01.2015
Trong mấy tuần vừa qua, sự kiện thu hút sự chú ý của các cư dân mạng và những người quan tâm đến sinh hoạt chính trị Việt Nam nói chung nhiều nhất có lẽ là sự xuất hiện của trang blog mang tên “Chân Dung Quyền Lực”. Trên mạng lưới internet, từ facebook đến blog, ở đâu người ta cũng xôn xao bàn tán về Chân Dung Quyền Lực (CDQL). Ảnh hưởng của CDQL lớn đến độ nhà cầm quyền Việt Nam, hết người này đến người khác, phải lên tiếng cảnh cáo mọi người không được nói xấu giới lãnh đạo, gây chia rẽ trong nội bộ đảng và làm suy yếu chế độ.
Giống trang Quan Làm Báo trước đây, nội dung chính của trang CDQL là nhằm vạch trần tệ nạn tham nhũng của giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, trang CDQL khác trang Quan Làm Báo ở nhiều điểm.
Thứ nhất, nó chuyên nghiệp hơn. Trang Quan Làm Báo được trình bày một cách khá nhếch nhác, cách hành văn cũng khá luộm thuộm. CDQL, ngược lại, có hình thức khá đẹp và đặc biệt, được viết với một văn phong rõ ràng mạch lạc, không khác một cán bộ tuyên huấn có tay nghề cao.
Thứ hai, về nội dung, Quan Làm Báo tập trung vào mâu thuẫn giữa chính quyền và nhóm “tài phiệt” tại Việt Nam; CDQL tập trung vào nạn tham nhũng của các thành viên trong Bộ chính trị, tức những người có quyền lực cao nhất nước.
Thứ ba, về sức thuyết phục, Quan Làm Báo rất ít có bằng chứng để hỗ trợ sự lên án của mình, CDQL, ngược lại, nói đến đâu trưng bằng chứng ra đến đó. Các bằng chứng ấy bao gồm: giấy kê khai tài sản, nhà cửa với địa chỉ và hình ảnh rõ ràng, hình ảnh chụp với thân nhân hoặc bạn bè. Khó biết những bằng chứng ấy chính xác đến độ nào. Nhưng nó gợi lên ấn tượng là chúng có thật.
Thứ tư, về nguồn tin, cả Quan Làm Báo lẫn CDQL đều gợi ấn tượng là nó đến từ bên trong: Quan Làm Báo biết trước Bầu Kiên bị bắt; CDQL loan báo chính xác ngày giờ ông Nguyễn Bá Thanh được chở về Việt Nam, trong khi hầu hết giới chức tại Việt Nam, kể cả những người trong uỷ ban bảo vệ sức khoẻ của Trung ương cũng như giới lãnh đạo tại Đà Nẵng đều mù tịt. Sự chính xác này khiến dư luận nói chung càng tin những gì được viết trên CDQL là những lời tố cáo từ trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, phần lớn các bài viết trên CDQL đều có hình ảnh cụ thể và rõ ràng của những người được đề cập. Ngoài gia đình hoặc những giới chức có thẩm quyền lớn, ai có thể có những bức ảnh ấy?
Tất cả những đặc điểm vừa nêu đều dẫn đến một kết luận: Trang CDQL là nơi giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay dùng để tố giác và hạ uy tín của nhau trong cuộc chạy đua vào Bộ chính trị cũng như các chức vụ cáo nhất trong hệ thống đảng (Tổng bí thư) và nhà nước (Chủ tịch nước và Thủ tướng).
Nhưng kết luận ấy lại dẫn đến một nghi vấn khác: Ai là người đứng sau trang CDQL?
Để trả lời câu hỏi ấy, có thể phân tích nội dung trên trang CDQL.
Về đối tượng được đề cập, tính đến Chủ nhật 11 tháng 1 năm 2015, trên trang CDQL có khá nhiều người được mang ra mổ xẻ. Nhiều nhất là Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc 27 bài; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang 20 bài, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng 18 bài, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng 8 bài, Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh 7 bài (tất cả đều liên hệ đến tình trạng bệnh hoạn của ông), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 5 bài, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị 4 bài, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh và Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, mỗi người 2 bài , Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng, Thường trực Bí thư Trung ương đảng Lê Hồng Anh và Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng Tô Huy Rứa mỗi người một bài.
Về sự đánh giá, có thể chia thành hai nhóm. Một, nhóm bị đả kích kịch liệt, chủ yếu vì tội tham nhũng hoặc bất tài, vô đức; và hai, nhóm được khen ngợi. Thật ra, cái gọi là được khen ngợi ấy không thể gọi được là nhóm bởi ở đó chỉ có một người duy nhất: Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Tấn Dũng được khen là một “hình ảnh độc tôn” trên sân khấu chính trị Việt Nam, người đầy tài năng và quyền lực, hơn nữa, có triển vọng trở thành vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam thời hậu cộng sản.
Nhìn vào nội dung như trên, người ta dễ có ấn tượng chính Nguyễn Tấn Dũng hoặc đàn em của Nguyễn Tấn Dũng đứng đằng sau trang CDQL. Thú thực, tôi không tin lắm. Thứ nhất, Nguyễn Tấn Dũng không vụng về đến độ ra tay một cách lộ liễu để ai cũng có thể thấy được như vậy. Ở cương vị của ông, ai cũng thấy, đó là điều cực kỳ nguy hiểm. Thứ hai, nếu là Nguyễn Tấn Dũng, đối tượng bị ông đả kích kịch liệt nhất sẽ là ba đối thủ nặng ký nhất trong guồng máy đảng và nhà nước: Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Sinh Hùng, những người ngang tầm và có khả năng giành giựt chiếc ghế Tổng bí thư mà dư luận đồn đoán là ông sẽ nhắm tới sau khi làm Thủ tướng hết hai nhiệm kỳ. Trên trang CDQL, cả ba người này đều bị phê phán gay gắt, nhưng đối tượng bị kết án nặng nề nhất lại là một người khác, hiện đang giữ chức phó Thủ tướng: Nguyễn Xuân Phúc. Cho dù Nguyễn Tấn Dũng đang có tham vọng gì trong kỳ đại hội đảng sang năm, Nguyễn Xuân Phúc cũng không phải là đối thủ của ông. Ông không cần phải ra tay như vậy. Cái giá phải trả quá lớn trong khi kết quả lại không được gì. Thứ ba, vấn đề được phanh phui nhiều nhất trong các bài viết đả kích từ Trương Tấn Sang đến Nguyễn Sinh Hùng, Phùng Quang Thanh và Nguyễn Xuân Phúc đều là vấn đề kinh tế với những khối tài sản kếch xù của họ cũng như của anh chị em hay con cháu họ. Tôi nghĩ đây là một đề tài mà Nguyễn Tấn Dũng không dại gì xới lên bởi nó sẽ gây tác dụng ngược: về phương diện này, có lẽ không ai trong guồng máy chính quyền Việt Nam có mức giàu có như ông và con cái của ông cả.
Vậy thì là ai?
Tôi lóe ra ý nghĩ: Nguyễn Bá Thanh (hoặc đàn em của ông) chăng? Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh mới biết rõ tình trạng bệnh hoạn của ông đến vậy. Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh mới biết rõ các chi tiết liên quan đến lịch trình chuyến về Việt Nam từ bệnh viện Mỹ của ông đến vậy. Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương với chức năng tìm kiếm dấu vết tham nhũng, mới nắm rõ hồ sơ về gia sản của các cán bộ đến như vậy. Chỉ có Nguyễn Bá Thanh hoặc người của Nguyễn Bá Thanh mới căm ghét Nguyễn Xuân Phúc, hai người vốn là đồng hương nhưng lại là đối thủ với nhau trong một thời gian dài, đến như vậy. Và chỉ có Nguyễn Bá Thanh mới ra tay một cách khốc liệt như vậy vì, thật ra, ông không có gì để mất cả: Với tình trạng bệnh hoạn như vậy, nếu còn sống sót, sự nghiệp chính trị của ông coi như đã kết thúc, ông không hy vọng gì giữ được chiếc ghế trong Trung ương đảng, đừng nói gì là Bộ chính trị.
Dĩ nhiên, xin nhấn mạnh, đây là phỏng đoán. Chỉ là phỏng đoán.
Điều quan trọng hơn, bất kể người nào đứng sau trang CDQL và họ nhắm đến bất cứ một mục tiêu gì, những sự phanh phui về tệ nạn tham nhũng của những cán bộ lãnh đạo cao nhất trong hệ thống đảng và nhà nước như vậy cũng là những tài liệu cực quý, lần đầu tiên dân chúng mới được biết một cách cụ thể. Trong trận đấu đá này, có người thắng kẻ bại, nhưng kẻ bại cuối cùng chắc chắn vẫn là đảng Cộng sản: Dưới mắt dân chúng, họ hiện nguyên hình là những tên tham nhũng vơ vét tài sản của đất nước để làm giàu cho bản thân và họ hàng.
Đó mới là điều đáng để chúng ta quan tâm.
Người Việt nghĩ nhỏ, khó làm việc lớn?
Nguyễn Lễ
Cầu Nhật Tân là niềm tư hào của người dân Hà Nội
Hà Nội có cây cầu mới. Phải nói là đẹp và hoành tráng nhất từ trước đến nay. Năm trụ cầu vươn lên sừng sững giữa trời tượng trưng cho năm cửa ô hay năm cánh hoa đào của làng đào Nhật Tân ngay dưới chân cầu.
Đừng nói chi người dân gốc Hà thành, nếu tôi có mặt ở Hà Nội lúc này tôi cũng muốn đứng giữa cầu để ghi lại khoảnh khắc mình được chứng kiến một lần thủ đô thay da đổi thịt.
Thế nhưng, cầu đã thông, xe đã chạy, đi bộ thì cấm thì chụp làm sao đây? Chỉ có nước chạy xe lên cầu rồi dừng lại mà chụp.
Y như rằng, chỉ một hai ngày sau báo chí đã la ầm lên về ‘những hình ảnh xấu trên cây cầu đẹp’.
Họ tường thuật những chiếc xe dựng chình ình giữa cầu, nam thanh nữ tú làm dáng giữa dòng xe đang chạy hay dải lan can phân cách cheo leo là thế cũng bị trèo lên để lấy góc ảnh ‘độc’.
Trước đó mấy ngày, báo chí còn đưa tin cầu Phú Mỹ trên sông Sài Gòn người dân dàn hàng xem pháo hoa mừng năm mới mặc kệ dòng xe bị chặn ngang giữa đường.
Cũng may chưa có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Có lẽ cánh tài xế ở Việt Nam đã không còn lạ gì tập quán của dân mình.
Người Việt ‘tùy tiện’
Những câu chuyện người Việt ‘tùy tiện’, ‘vô kỷ luật’ hay ‘thiếu ý thức’ như thế nhan nhản trên báo chí mà chúng ta chắc cũng không còn lạ gì.
Ở Việt Nam kẹt xe rất thường xảy ra
Ở Việt Nam kẹt xe thì ai mà không chen? Ai cũng chen mình có muốn không chen cũng không được.
Dĩ nhiên đã kẹt thì càng chen lại càng kẹt. Nguyên tắc phải nhường mới đi được. Nhưng người Việt chỉ muốn đi chứ không muốn nhường. Ai cũng tìm khoảng trống mà lách thì không những không thoát được mà còn làm cho mình và mọi người chùm nhum cả nút.
Nhiều người đi bộ cầu vượt trước mắt đó nhưng không leo sợ cực chẳng thà phang ngang bất chấp tính mạng.
Chợ búa hàng rong thì phải ra lòng đường mới được. Người đi làm về tiện là tấp vào mua giữa đường giữa sá có kẹt xe tắc đường gì cũng kệ.
Rác rến ngoài đường tiện đâu vứt đó. Cực thân đi tìm thùng rác. Chẳng thà để nhếch nhác và mất công người khác quét dọn.
Nhà trên kênh rạch thì cứ thẳng tay ném hết xuống sông cho khỏe để rồi chính môi trường sống của mình bị hủy hoại.
Xem phim nghe nhạc thì mua băng chép đĩa lậu. Đỡ tiền thiệt nhưng giết chết luôn người vắt tim óc sáng tạo để rồi lần sau không còn cái mà coi.
Trộm chó hoành hoành gây náo loạn từ thôn quê đến thành thị thậm chí mất mạng người chỉ vì có nhiều người thích ăn thịt thú cưng của người khác nhưng không muốn mất người bạn trung thành của mình.
Người Việt rất tùy tiện trên đường phố?
Đánh bắt thì tận diệt từ tôm cá, chim chóc thậm chí cho đến côn trùng rắn rít cũng không tha. Ngay miền Tây ‘chim trời cá nước’ mà giờ đây trong tự nhiên nhiều thứ đã cạn kiệt. Ăn một lúc rồi treo miệng cả đời.
Làm ăn buôn bán thì chụp giựt. Hám một chút lợi không đáng mà mất chữ Tín với khách hàng. Đã không giữ khách lâu dài thì chớ mà còn đuổi khách một đi không trở lại. Rốt cuộc tự mình đoản hậu giống như các nhà hàng chặt chém ở Vũng Tàu phải ‘canh me’ chộp từng ‘con mồi’.
Còn những người bỏ hóa chất vào hàng hóa thực phẩm ăn được đồng một đồng hai mà không biết là mình đã làm thiệt hại không biết bao nhiêu đồng cho người khác và xã hội khiến người ta mang bệnh mang tật cả đời.
Tâm lý đố kị
Những trường hợp kể trên người ta đã ham nhỏ bỏ lớn, được một mà mất hai, thấy cái trước mắt mà không nghĩ đến cái lâu dài. Nói cách khác họ có cái nhìn hạn hẹp.
‘Nghĩ nhỏ’ như thế không những gây hại cho mình, cho người, cho đời mà còn dễ bị kẻ khác lợi dụng. Mọi thua thiệt mình lãnh đủ.
Cho nên thương lái Trung Quốc đi thu mua đỉa, móng trâu hay lá trà các thứ có trách họ thì cũng buồn cho dân Việt quá dễ dụ.
Nguyễn Hà Đông có bị người khác ghen ghét với thành công ‘Flappy Bird’?
Và cũng chính vì nghĩ nhỏ nên nhiều người Việt thấy cái tôi quá lớn lấn át cái lớn thành ra nhỏ.
Người Việt rất thấm thía thói ‘dìm hàng’ nhau của dân mình. Thậm chí, có người còn ví xã hội Việt Nam như một rổ cua đồng – con nào leo lên sẽ bị con khác kéo xuống.
Cái tôi thì ai mà không có? Mỗi con người từ khi sinh ra đã là một thế giới và ai cũng muốn mình là trung tâm hơn tất cả mọi người. Lẽ thường ai cũng bị tổn thương khi thấy người khác hơn mình và sẽ có cảm giác dễ chịu khi chỉ trích để dìm người khác xuống và nâng mình lên.
Thế nhưng, người dân ở các nước phát triển biết quý trọng nhân tài thì ngoài cái tôi của bản thân người ta còn nghĩ đến lợi ích chung của xã hội mà người tài đem lại. Cho nên, sự ganh tỵ, đố kỵ nếu có cũng không thành cố tật như người Việt.
Nghĩ nhỏ thì nước nào cũng có nhưng để trở thành vết hằn trong tính cách dân tộc thì ắt hẳn nó bắt nguồn từ nếp sống và văn hóa của dân tộc đó.
Trong khi các người Hoa ở hải ngoại tạo thành một khối kết dính bền chặt bên trong không bung ra bên ngoài không phá vào được thì người Việt lại có tiếng là rời rạc, bất hợp tác, phân rã và triệt hạ lẫn nhau.
Đồng ý ganh tỵ là một cảm giác rất con người nhưng nếu nghĩ lớn hơn thì sẽ thấy ai thành tựu đều là nhờ khả năng và công sức của họ. Ghen ghét với họ tức là đã cho là mình không bằng họ và năng lượng để ghen ghét đó nên dành để phấn đấu được như họ. Suy cho cùng họ làm được cũng là đóng góp cho xã hội mà mình cũng có lợi ích trong đó.
Nghĩ nhỏ thì nước nào cũng có nhưng để trở thành vết hằn trong tính cách dân tộc thì ắt hẳn nó bắt nguồn từ nếp sống và văn hóa của dân tộc đó.
Người Việt gốc là nông nghiệp. Cuộc sống gắn chặt với ruộng vườn, thôn xóm, bờ đê, lũy tre không như phương Tây xuất thân du mục hoặc gắn bó với sóng biển, theo vó ngựa đi khắp nơi, hay theo cánh buồm vươn ra đại dương khám phá thế giới.
Không gian sinh tồn cố định đã đóng đinh tư duy người Việt. Họ có khuynh hướng ổn định, yên bình, không xáo trộn và tư duy lợi ích chỉ cần vụ mùa bội thu dư cơm đủ gạo. Người Hoa có truyền thống thương buôn nên tư duy lợi ích của họ không giới hạn – có một muốn được hai còn lòng tham không đáy.
Họ muốn có lớn, được nhiều thì cái lợi nhỏ không thể che khuất tầm nhìn của họ. Lã Bất Vi từ 2.300 năm trước đã biết buôn vua bán chúa đoạt thiên hạ. Nói đâu xa, người Hoa trong Chợ Lớn làm ăn rất coi trọng chữ tín nên nắm trong tay kinh tế thương mại cả một vùng.
Vai trò lãnh đạo
Cá nhân nghĩ nhỏ thì gây hại cho bản thân và người xung quanh còn lãnh đạo nghĩ nhỏ thì tác hại khôn lường đến tương lai đất nước, vận mệnh dân tộc.
Chủ tịch Sang nói ‘lợi ích đất nước, dân tộc là trên hết’
Người Việt nghĩ nhỏ nên tư duy cục bộ, địa phương, bè phái – lo vun vén cho bản thân, gia đình, dòng họ và quê hương mình. Vấn đề là ở chế độ một đảng cầm quyền thì Đảng có vì mình trước hết hay không?
Trong nền chính trị mà một điều cũng Đảng, hai điều cũng Đảng thì bài viết đầu năm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nghe lạ tai với câu ‘lợi ích đất nước, dân tộc trên hết’.
Không biết khi nói như thế ông Sang có đại diện cho Đảng không chứ người đại diện Đảng là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì nói rất khác.
Tổng bí thư nói phải ‘bảo vệ chủ quyền nhưng cũng phải giữ bằng được cho Đảng lãnh đạo’. Tuy nhiên ông không nói rõ giữa hai cái đó thì cái nào quan trọng hơn và nếu không thể đảm bảo hai cái cùng một lúc thì giữ cái nào? Trước đó ông cũng có nói là Đảng quyết ‘không chia sẻ quân đội với bất cứ ai’ cho nên không rõ Đảng quyết nắm quân đội như vậy là để bảo vệ chủ quyền đất nước hay bảo vệ Đảng?
Mới đây, Tổng bí thư cũng nói tại Đại hội Thanh niên rằng con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng đang dẫn dắt đất nước là ‘con đường chưa có tiền lệ’ nên còn nhiều thách thức.
Ở đây tôi không hiểu tại sao đa phần các nước đã có con đường phát triển mà thực tế đã chứng minh làm cho dân giàu nước mạnh thì tại sao Việt Nam không đi mà đâm đầu vào con đường chông gai, tương lai mờ mịt mà trăm năm nữa cũng chưa tới?
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lên tiếng phải bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng
Nói đó là ý nguyện của người dân thì cũng không đúng vì bản thân Đảng còn chưa hình dung được chủ nghĩa xã hội hình hài thế nào thì người dân biết gì mà lựa với chọn?
Cần xác định giữa chủ nghĩa xã hội và lợi ích quốc gia cái nào lớn cái nào nhỏ. Nếu đi lên chủ nghĩa xã hội mà dân tộc thịnh vượng, đất nước hùng cường thì không nói làm gì. Còn nếu con đường đó gây chia rẽ dân tộc và kìm hãm đất nước thì tại sao nhất quyết phải đi theo?
Đơn cử thì mô hình kinh tế quốc doanh tàn phá bao nhiêu nguồn lực của đất nước nếu là nước khác thì người ta đã bỏ từ đời nào rồi chứ không như Việt Nam không bỏ được vì nếu bỏ thì còn gì là kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cũng vậy, trong quá khứ nếu Đảng không đặt nặng đấu tranh giai cấp thì đã không bị che mờ mắt không còn thấy lợi ích của đất nước đâu nữa.
Chẳng hạn Đảng sẽ cân nhắc hơn khi quyết định đẩy dân tộc vào lò lửa chiến tranh, hy sinh xương máu hàng triệu đồng bào cả hai miền, làm hao tổn bao nhiêu nguyên khí, làm đất nước thụt lùi bao nhiêu năm để chiến đấu cho hai phe ý thức hệ còn người ta đứng sau cấp vũ khí tiền bạc cho dân mình đánh nhau.
Chẳng hạn Đảng sẽ tỉnh táo thấy chủ quyền lãnh thổ quan trọng hơn là ý thức hệ, không vì ‘tình hữu nghị’ mà sập bẫy Trung Quốc trong vụ công thư năm 1958 để bây giờ phải xử lý hết sức khó khăn.
Chẳng hạn sau chiến thắng năm 1975 Đảng sẽ nghĩ đến tương lai dân tộc không vì cái kiêu hãnh giai cấp mà đẩy hàng triệu người dân miền Nam vào các trại cải tạo, các khu kinh tế mới thậm chí mất mạng trên biển khơi để hận thù hằn sâu trong lòng dân tộc đến tận bây giờ.
Ông Đặng Tiểu Bình có đường lối ngoại giao thực dụng
Rõ ràng cùng là Đảng Cộng sản nhưng người Trung Quốc họ nghĩ lớn hơn. Họ đặt lợi ích quốc gia là tối thượng còn ý thức hệ chỉ là con bài để lợi dụng Việt Nam mà thôi.
Chính vì vậy họ mới gài bẫy Việt Nam hồi năm 1958 để hỗ trợ cho tham vọng Biển Đông của họ về sau. Và kể từ chủ trương ‘mèo trắng mèo đen’ thì họ đã từ bỏ con đường kinh tế xã hội chủ nghĩa. Giờ đây với ‘Trung Hoa mộng’ họ đang mơ trở lại thời kỳ mà Trung Quốc đúng nghĩa là quốc gia trung tâm thế giới. ‘Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc’ chỉ còn là cái vỏ cho Đảng của họ cầm quyền mà thôi.
Trong hoàn cảnh như vậy nếu Đảng ở Việt Nam vẫn đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích dân tộc, vẫn còn mơ hồ con đường chủ nghĩa xã hội, tức là vẫn chỉ thấy cái nhỏ mà không nghĩ được cái lớn, thì Việt Nam sẽ mãi là một dân tộc nhược tiểu, đất nước không bứt phá được và sẽ luôn bị người ta hiếp đáp.
Tấm gương lịch sử
Tấm gương người xưa vẫn còn chói rạng. Thái hậu Dương Vân Nga hy sinh ngai vàng của con trao quyền lực cho người có tài cứu nước. Đức Vua Trần Nhân Tông sau khi thắng giặc Nguyên-Mông bỏ qua chuyện cũ lấy lượng bao dung mà hòa giải dân tộc.
Và tổ tiên người Việt cũng không ít những người nghĩ lớn. Đức Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long là nghĩ ‘đến muôn đời’. Danh thần Nguyễn Trãi đã dạy ‘trồng cây Đức để con ăn’.
Quan chức thời nay chỉ thấy tiền tài vật chất. Nhiều người chỉ vơ vét thật nhiều chứ biết đâu ‘trồng cây Đức’ mới là đại kế cho con cháu về sau.
Của cải tích trữ như núi ngồi ăn cũng lở, tiền tài gom góp chết có mang theo được không? Quan trọng là có khả năng thì phấn đấu làm lợi cho dân cho nước để lập công đức cho đời. Chứ còn vì lòng tham của bản thân mà đục khoét phá hoại thì hưởng thụ được bao nhiêu để bị muôn người chửi rủa.
Vấn đề là nếu con người ta thấy hại thì ai mà làm. Nhưng vì họ không nhìn ra hại để tránh mà chỉ thấy lợi nên ham.
Và nếu nghĩ nhỏ đã thấm vào máu của người Việt rồi thì khó sửa lắm. Có điều nếu dân trí người dân nâng cao thì tầm nhìn của họ cũng mở rộng hơn. Cho nên mong chờ các thế hệ sau trong điều kiện giáo dục tốt hơn sẽ nghĩ lớn hơn người đi trước.
Điều tối quan trọng là người lãnh đạo phải nghĩ lớn hơn, phải thoát ra khỏi sự ràng buộc về tư tưởng để lấy lợi ích của dân của nước làm trọng. Từ đó mới thấy được cái gì có lợi cho dân thì làm và cái gì có hại thì quyết phải tránh.
Bộ trưởng Thăng bị báo Trung Quốc chỉ trích
Vụ tai nạn sập giàn giáo xảy ra hôm 28/12/2014
Hoàn cầu Thời báo chỉ trích Bộ trưởng Giao thông-Vận tải Việt Nam Đinh La Thăng vì cảnh cáo nhà thầu Trung Quốc, nói ông ‘khơi gợi tư tưởng bài Trung’.
Tờ báo theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc hôm 10/1 có bài nói hành động của ông Thăng đã gây bất bình ở Trung Quốc.
Chiều 4/1, Bộ GTVT đã có cuộc họp với Tổng thầu Trung Quốc EPC của dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông (Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc) về sự cố sập giàn giáo tại dự án này hôm 28/12.
Tạ̣i đó, ông Đinh La Thăng đã gay gắt chỉ trích Tổng thầu EPC là thực hiện dự án không tốt và khẳng định sẽ trình Chính phủ để có thể thay thế tổng thầu EPC trong dự án đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông.
Đoạn tin truyền hình phát trên kênh VTC cho thấy ông Thăng chỉ mặt nhà thầu Trung Quốc và nói những câu khá mạnh mẽ.
Bài trên Hoàn cầu Thời báo nói hành động của ông Đinh La Thăng là “tìm cách khơi gợi lại tư tưởng chống Trung Quốc ở trong nước”.
Ông Tề Kiến Quốc, cựu đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam, người trực tiếp vận động cho sự tham gia của nhà thầu Trung Quốc, được dẫn lời nói ông Đinh La Thăng không nên làm như vậy.
“Sự cố công trình xây dựng có thể xảy ra ở bất cứ đâu và không nên thổi phồng quá mức.”
Hoàn cầu Thời báo cũng dẫn ý kiến một số chuyên gia, nói rằng lỗi để xảy ra tai nạn là thuộc công ty Trung Quốc, nhưng phía Việt Nam cũng có lỗi vì “không theo dõi sát”.
Sự chậm trễ trong dự án đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông được giải thích một phần là do giải tỏa mặt bằng muộn.
Chỉ mặt mắng
Hình ảnh video thu được từ cuộc họp 4/1 cho thấy ông Đinh La Thăng chỉ vào mặt đại diện nhà thầu Trung Quốc.
Ông nói: “Cứ mỗi lần xảy ra tai nạn các ông lại nhận khuyết điểm, cứ trơ ra như vậy thôi!”
“Phải thay Tổng chỉ huy công trường, đuổi tư vấn giám sát, tư vấn giám sát để chúng tôi chỉ định… Đuổi toàn bộ thầu phụ, lấy toàn bộ thầu phụ của các nhà thầu lớn tại Việt Nam.”
“Còn các ông không chấp nhận như vậy thì chúng tôi báo cáo chính phủ, thay tổng thầu EPC vì không đủ năng lực…”
Ông bộ trưởng khẳng định ngay cả khi câu chuyện liên quan tới vốn vay “thì chúng tôi báo cáo chính phủ dừng vay vốn này”.
“…không thể đánh đổi quyền lợi của người Việt Nam, không thể đánh đổi tính mạnh của người dân Việt Nam.”
Hoàn cầu Thời báo nhắc lại thời điểm giữa năm 2014, khi tinh thần bài Trung Quốc dâng cao trong nước Việt Nam sau sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào vùng biển mà Việt Nam nói là của mình.
Lúc đó, nhiều doanh nghiệp đã bị đập phá và Trung Quốc phải điều tàu tới sơ tán công dân của họ vì lý do an toàn.
tuankhanh
Những ngày của đầu năm 2015, tin tức về cái chết của Fidel Castro, nhà lãnh đạo cộng sản khét tiếng của Châu Mỹ Latin đang được lan truyền khắp nơi. Có thể đó chỉ là tin đồn. Có thể ông ta đã chết nhưng đảng cộng sản Cuba đang chọn tìm một thời điểm thích hợp để công bố, như số phận của nhiều nhà lãnh đạo cộng sản khác. Cũng có thể tin đồn đó chỉ là cách phản ánh một tâm thức chán ghét của của đám đông về nhân vật này. Nhưng điều quan trọng hơn, với những gì đang diễn ra ở Cuba, thì ý nghĩa tồn tại thể chất của nhà độc tài cộng sản 88 tuổi không còn quan trọng: Trong mắt loài người văn minh, Fidel Castro kể như đã chết.
Cũng giống như nhiều lãnh tụ cộng sản háo danh khác, Fidel Castro cũng thích nhảy múa cùng những huyền thoại của mình, để ông được “sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Một trong những huyền thoại hay được sách vở Cuba tuyên truyền rầm rộ là ông đã phá vỡ được đến 638 vụ ám sát của CIA Mỹ tổ chức nhằm vào ông. Những vụ ám sát được công bố qua các phương thức như bỏ thuốc độc, nổ xì-gà… rất ư là 007. Với theo nhiều tài liệu phân tích của các sử gia, thì đa số là do các tổ chức Cuba phản kháng lưu vong tìm cách thực hiện. Nhưng điều đáng nói nhất, thì người dân Cuba ít được phép nhắc đến, đó là Fidel Castro đã cai trị dân tộc mình bằng máu và nước mắt hơn nửa thế kỷ.
Không chỉ riêng ở Cuba, mà ngay ở Việt Nam, các giáo viên dạy sử cũng được nhận lệnh gia công cho các huyền thoại này. Trong một giờ dạy về lịch sử quốc tế, tôi còn nhớ mình phải học thuộc lòng rằng Cuba như chỉ sinh ra từ Fidel Castro và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy dạy sử, mà tôi tin chắc rằng ông ta chưa bao giờ được một lần đặt chân đến Cuba, đã say mê thuyết phục những đứa học trò trung học chúng tôi rằng nơi đó là thiên đường, và Fidel là một kỳ nhân của thế gian khi cải tạo đất nước này sang hình thái xã hội chủ nghĩa.
Ở thiên đường đó, mà tôi cũng từng mơ màng trong suốt nhiều năm, có những điều thật trớ trêu. Hơn một triệu người dân Cuba không chấp nhận cộng sản, chọn cách ra đi đã hàng năm gửi về cho thân nhân của họ hơn 1 tỷ USD kiều hối, tương đương với 35% ngoại tệ thu về hàng năm của cả nước, giúp nền kinh tế này thoi thóp sống. Nơi quốc gia này, nhân viên nhà nước làm việc cho chính phủ, chỉ có được mức lương trung bình khoảng 15 USD/tháng nhưng phí điện thoại di động là 40 USD/ tháng. Tôi không có dịp gặp lại người thầy của mình để hỏi lại cảm giác của ông về những tin tức như năm 2014, người dân Cuba mới bắt đầu được đi du lịch nước ngoài mà không còn cần phải làm bản trả lời thẩm vấn nộp cho công an địa phương. Hoặc chỉ để nhìn lại ông, khi chìa cho ông bản tin chính báo chí Việt Nam đăng tải, rằng các phát minh của thế kỷ 20 như tivi màu, internet… người dân Cuba chỉ được chạm đến trong thế kỷ 21.
Năm 1961, sau một thời gian làm cách mạng lật đổ chế độ thân Mỹ của tổng thống Fulgencio Batista, Fidel Castro tuyên bố mình đi theo chủ nghĩa cộng sản, đưa đất nước này vào bóng đêm tăm tối của chế độ độc tài toàn trị. Dù được ca ngợi là thành tựu ở một vài lãnh vực như y khoa, kiểm soát tội phạm… nhưng đất nước Cuba cũng được nhắc đến về cuộc sống rên siết trong vòng vây của chế độ cộng sản. Một chế độ mà chính chủ tịch mới, ông Raul Castro đã phải thú nhận trước quốc hội vào tháng 4/2011, rằng « Hoặc là chúng ta sửa đổi, hoặc như thế là hết. Chúng ta không còn có thể đi men theo bờ vực thẳm, chúng ta sẽ chìm đắm, và cùng chìm theo ta là nỗ lực của bao nhiêu thế hệ ».
Triều đại bàn tay sắt của Fidel Castro vẫn còn được được mô tả trong bản báo cáo về nhân quyền năm 2009, qua lời của Rodolfo Bartelemí Coba, một nhà tranh đấu cho quyền con người, rằng “Chúng ta sống 24 giờ một ngày, mà vốn đã được chuẩn bị sẵn sàng để bị giam giữ”. 10 ngày sau lời phát biểu này, ông Rodolfo cũng đã bị bắt đi mất tích.
Sự tàn bạo của chính quyền cộng sản Cuba, thông qua Lực Lượng Vũ Trang Cách Mạng (FAR) là đề tài kinh hoàng của những người vượt thoát khỏi Cuba. Theo hồ sơ của Hiệp hội Đồng hương Mỹ-Cuba (Cuban American National Foundation) thì từ sau khi Fidel Castro cầm quyền, đã có khoảng 12.000 đối lập chính trị bị bắn, chôn sống hoặc tra tấn đến chết. Nhưng các tài liệu ngoài tiếng Tây Ban Nha thì cho biết số lượng những nạn nhân này có thể lên đến 17.000 người, chỉ tính riêng từ năm 1959 đến 1990.
Một bản tin về chuyện ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận với Cuba vào 17/12/2014 vừa rồi, cũng như tin tức chủ tịch Raul Castro ký trả tự do cho 35 nhà đối lập trong danh sách 100 người được quốc tế đề nghị (8/1/2015), số người đào thoát khỏi Cuba vẫn tăng đến 117%. Dù tự do và thay đổi đang ở ngay trước mặt nhưng người dân Cuba đã không còn kiên nhẫn để chờ đợi nữa. Họ làm mọi cách để chạm vào tự do ngay khi hàng rào kẽm gai vừa lỏng lẻo chứ không còn kiên nhẫn và cam chịu để chờ đến khi hàng rào đó sụp đổ. Không thể đợi Fidel chết và chế độ cộng sản Cuba sụp đổ trên bản đồ chính trị, người dân muốn tiễn đưa ngay cơn ác mộng của đời mình bằng hành động cụ thể nhất.
Khác với các nhân vật như đại tá Gaddafi hay tổng thống Mubarak, các nhà lãnh đạo cộng sản vẫn hay lên tiếng tố cáo sự tư hữu xa hoa của chế độ phương Tây, bày tỏ cuộc sống khiêm tốn của mình. Nhưng khi mọi thứ được phơi bày, người dân mới té ngửa khi biết rằng mọi thứ đều là dối trá. Chính các nhà lãnh đạo cộng sản là kẻ tham nhũng ghê sợ nhất, xa hoa nhất trên tấm lưng còng của tổ quốc mình. Theo tiết lộ từ cuốn La Vie Cachée de Fidel Castro (tạm dịch: Cuộc đời bí ẩn của Fidel), một nhân viên cận vệ của Fidel Castro kể rằng nhà lãnh tụ này chưa bao giờ từ bỏ lối sống tiện nghi tư bản mà ông ta vẫn hay lên truyền hình nguyền rủa nó. Juan Reinaldo Sánchez, người đã làm cận vệ riêng cho Fidel trong suốt 17 năm, sau đó đào thoát qua Mỹ, tiết lộ rằng dân cả nước Cuba không thể nào hình dung nổi cuộc sống sang trọng phung phí của Fidel. Thậm chí Fidel Castro còn quy hoạch một hòn đảo nhỏ thành của riêng cho mình, đảo Cato Piedra, nằm ở phía nam của Vịnh con Heo. Juan nói rằng nơi đó được Fidel Castro xây dựng như một vườn địa đàng, đầy những trại nuôi rùa biển và cá heo.
Thế kỷ 20 và 21 đã chứng kiến nhiều cuộc kết liễu độc tài. Từ Stalin đến Mao Trạch Đông… rồi Kim Chính Nhật đến Gaddafi… giờ thì đã rất gần với Fidel Castro, nhân vật bạo chúa được khoác áo người hùng trong vai diễn của lịch sử cộng sản thế giới. Như một quy luật không thể thay đổi: bất cứ chế độc tài nào rồi cũng phải ra đi, dù đi nhanh hay đi chậm. Thế kỷ như đang kết liễu những nhà độc tài, những nhà nước độc tài núp bóng vì nhân dân, vì tổ quốc. Những người như tôi cũng có dịp để kết liễu những bài học lịch sử nhồi sọ của mình, để ghi vào đó, một trang sử mới bằng tên của những người yêu nước Cuba đã chết cho quê hương của họ được tự do.