Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.
RFA photo
‘Vượt Tù, Vượt Biển’ cùng Huỳnh Công Ánh
11:24/12:02
Cuốn hồi ký “Vượt tù Vượt biển” của tác giả Huỳnh Công Ánh được giới thiệu đến với mọi người sau 42 năm kể từ tháng 4 năm 1975.
Trong đó, những sự kiện, hình ảnh của miền Nam kể từ buổi sáng 30 tháng 4-75, cuộc sống của người lính Việt Nam Cộng hoà trong trại cải tạo, hay những chuyến vượt biển kinh hoàng được tác giả kể lại trong cuốn hồi ký với vai trò là một nhân chứng lịch sử.
Nhân vật Tôi
Nhân vật “tôi” xuyên suốt trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển” là Đại uý Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, người tù vượt ngục trại Long Giao, người lái tàu vượt biển hai lần, chủ tịch Hội Cựu Quân nhân tại đảo Pulau Bidong năm 1981; người sáng lập Phong trào Hưng ca Việt Nam: nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh.
Tất cả những vai trò từng tồn tại trong 70 năm cuộc đời được ông gói ghém trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển”, cuốn hồi ký ông ấp ủ 38 năm. Khi thực hiện được, thì đã bước sang năm thứ 42 kể từ buổi sáng 30 tháng 4 năm 1975.
“Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. Mặc dù tuổi đã lớn nhưng những hình ảnh không bao giờ quên. Vì tuổi lớn, có những sự kiện có thể mất đi nhưng không có gì thêm bớt. Và những nhân vật vẫn còn nằm yên đó..”
Thật sự là như thế. Sài Gòn buổi sáng 30 tháng 4 năm 75 hiển hiện ra dưới ngòi bút của ông với đầy đủ âm thanh, sắc thái, mùi vị. Ông gọi những chương đó là “Tan hàng, Bỏ súng”.
Tan hàng; Bỏ súng
“30.4. Hình như suốt đêm qua Sài Gòn chập chờn không ai tròn giấc ngủ. Tôi không thể nằm yên ở nhà chịu trận mà không biết những gì đang xảy ra bên ngoài đường phố. Tôi rời nhà với đôi mắt cay xè. Sài Gòn vẫn nắng chói chang…
Sáng sớm hôm nay một chiếc trực thăng HU.1D bên kia đường, đỗ trên nóc nhà đón thân nhân, đã vướng dây điện, nằm chúi đầu như sắp rơi xuống đất. Ngoài đường cả một cảnh tượng hỗn loạn đang xảy ra, xe cộ xuôi ngược, và chưa lúc nào đường phố thấy người đi bộ nhiều như sáng nay, nhiều người chạy trên đường với thái độ hốt hoảng…”
Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. – Huỳnh Công Ánh
“Cảm giác trưa ngày 30 tháng 4 là cảm giác không biết mình sẽ đi về đâu sau cái ngày Việt Cộng chiếm miền Nam, sau ngày buông súng. Lúc đó cứ nghĩ là bây giờ họ thắng rồi, họ lấy hết đất nước rồi, cảm giác như đờ đẫn, không biết đứng ở đâu, không biết làm gì. Cho tới khi có thông cáo đi tù cải tạo 10 ngày thì cũng vui mừng, giỡn đùa…ôi 10 ngày nhằm nhò gì, 3 tháng cũng nhằm nhò gì. Ở tù 10 ngày, 3 tháng hay 1 năm rồi ra có cơ hội đi làm ăn hoặc đi học lại, vì tôi tổng động viên năm 68, hai mươi mấy tuổi thôi, tôi cũng ước mơ đi học lại.”
Qua những tình tiết tác giả kể lại trong “Bỏ súng”, người đọc sẽ thấy và hiểu những lớp xi măng đầu tiên xây dựng nên một thành trì xã hội chủ nghĩa ngày nay.
“…Thời gian của tháng 5-75 là thời gian của xôn xao họp hành, thành lập khu phố, kê khai giấy tờ và học tập cái gọi là “chính sách của cách mạng”. Chị giúp việc nhà hàng xóm kế cận căn nhà tôi ở, nghe đâu cũng là Việt Cộng nằm vùng, bây giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân phường.”
Về Long Giao
Những tháng ngày sau đó của Huỳnh Công Ánh và đồng đội của ông được lột tả thật đến từng tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng máy xe nổ ầm ì trong đêm khuya. Cách ông tường thuật đoạn đường về Long Giao mà bần bật lên đó là niềm tin, niềm hy vọng, rồi tiếp nối là sự hoang mang, để rồi cuối cùng là thất vọng.
“Giờ này trong bóng tối, chen chúc trong chiếc xe, tôi mới thấy ân hận. Vợ con tôi chắc đã ngủ rồi mà không biết cảnh chồng và cha đang ngồi trên chiếc xe bít bùng này và đi về đâu? Hoàn cảnh này không thể có chuyện đi “học tập 10 ngày” được rồi. Cũng có thể chúng chở ra biển, rồi nhận chìm tàu, hay đem lên núi xử bắn rồi lấp xuống hố.”
7 năm trong trại tù Long Giao trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh không thiếu những câu chuyện bi hài. Những mẫu chuyện ngắn, được kể lại gọn gàng qua những lời đối thoại không văn vẻ, nhưng rất “trịnh trọng” bởi cách xưng hô “thưa gửi các bộ”, đủ để người đọc phải vỡ oà cái cảm xúc vừa buồn cười, vừa cay đắng.
Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt. AFP photo
“…Những tuần lễ đầu ở Long Giao, khi đi ngang qua các vọng gác của các bộ đội, thấy nhiều viên đá cục chất đống dưới chân vọng gác. Sau mới biết, bộ đội sau khi đi đại tiện, họ dùng đá để lau chùi. Bộ đội mà thế thì huống gì là tù, lấy giấy ở đâu? chỉ dùng lá, cục đá hoặc chà dưới cỏ. Man rợ như thế đấy.
Cũng có những câu chuyện nực cười khác
Khi mới vào Long Giao, có anh tên là Lê Thông, mang kính cận dày cộm. Một hôm đi ngược chiều với bộ đội, tên bộ đội gọi giật lại:
– Anh kia, ai cho phép anh đeo kiếng?
– Báo cáo cán bộ, tôi bị cận thị. Anh Thông trả lời
– Cận thị là cái gì? Lấy xuống, lấy xuống mau!
– Báo cáo cán bộ lấy kiếng xuống thì tôi quờ quạng lắm, làm sao thấy đường đi?
– Tôi không đùa với anh đâu nhé. Lấy xuống mau!”
Vượt tù, vượt biển
Từ những chương này trở về sau, là những mốc thời gian tác giả gọi là tàn khốc nhất. Chính vì vậy mà trong suốt 38 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, ông vẫn không quên một chi tiết nào. Từ cuộc vượt ngục lịch sử thoát khỏi những ngày học tập cải tạo trong trang phục của bộ đội Bắc Việt cho đến hai lần lái tàu vượt biển.
“Khi ở tù, phải có 1 thời gian suy nghĩ rất là lâu, bao nhiêu năm liền về ý định trốn tù. Vượt biển thì khốc liệt lắm, trong vòng có mấy ngày thôi. Tôi đã từng bị mảnh đạn bị thương, rồi bỗng nhiên trở thành người chỉ huy cứu 29 người trên tàu sống sót trong 17 ngày trôi trên biển. Chính mình cũng bị hải tặc Thái Lan khoét lưỡi lê trong hậu môn chảy máu đi không được, bị kẹp tay tra khảo. Nó khốc liệt sợ hãi hơn đường trốn tù. Cái hãi hùng của chuyến vượt biên thứ hai nếu xảy ra giống như chuyến thứ nhất thì liệu vợ, con và cháu và em của mình sẽ ra sao? vì mình mà họ chết. Nếu mình chết 1 mình không sao. Nhưng liên luỵ đến con nhỏ, cháu mình thì cảm giác nó sợ sệt, không ăn không ngủ được nhiều hơn là trong tù.
Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. – Huỳnh Công Ánh
Vượt biên là mình phải làm sao cho tàu đi không chìm dưới biển, làm sao để tránh hải tặc vô cướp, hiếp dâm…Khi đi rồi không biết sẽ đi về đâu? Tấp vô bến nào hay được tàu vớt hay bị chìm tàu?”
Những ký ức tưởng như sẽ dần nguôi ngoai, nhưng không phải thế. Ông nhớ lại cuộc đời của một người tỵ nạn đến Mỹ ba mươi mấy năm, và thấy rằng nó cay đắng thâm trầm nghiệt ngã hơn thời gian 7 năm học tập cải tạo rất nhiều.
“Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. Nhiều khi trong giấc chiêm bao mình thấy họ bắt mình, kéo mình, mình vẫy vùng, đá vào người vợ nằm kế mình. Nhiều lần như thế, nghĩa là nó ám ảnh mình suốt đời.
Thành ra cái chuyện ám ảnh, lo âu, dĩ vãng trong tù là nhớ vanh vách, chỉ có đọc ra, ghi ra, chứ không thêm thắt, hư cấu, văn chương gì cả.”
Nhân chứng lịch sử
Khó mà tìm được một mỹ từ hay một chi tiết bắt người đọc phải suy nghĩ trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh. Thay vào đó, từng câu từng chữ hiện ra gãy gọn, thật thà, có cả cái tiếng chửi thề không lẫn vào đâu được của người miền Nam, đưa người đọc của nhiều thế hệ quay về sống với từng giây phút của năm tháng đó, chứng kiến những câu chuyện đó.
Ông nói rằng để thoát được những chuyến đi ấy, ông đã chịu ơn tình của nhiều người. Những ân tình đó là nguyên nhân đến 38 năm sau cuốn hồi ký mới ra đời. Niềm vui của ông được diễn tả bởi hai chữ “bàng hoàng” vì ông cho rằng ông đã thực hiện được sứ mệnh của cuộc đời mình.
Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. – Huỳnh Công Ánh
“Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. Và mình đứng cửa giữa, tức là lòng mình đã chùng xuống rồi. Ba mươi mấy năm tôi mới viết, thì sự hận thù ra ngòi bút, ra trong tư tưởng không còn nữa. Nó đã bình tâm rồi. Mình muốn mình là người Việt Nam yêu nước, mình muốn mình là nhân chứng thật sự giữa hai chế độ miền Bắc và miền Nam. Và nhân chứng đó chỉ đưa ra hình ảnh thôi, không phê phán, không chửi rủa, không đả đảo, không hận thù.”
Điều ông mong muốn, với vai trò là một nhân chứng kể lại một khúc quanh của lịch sử, người đọc, và thế hệ sau sẽ tự biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào cần thiết cho giống nòi Việt Nam.
Khi chương cuối cùng của hồi ký “Vượt tù, vượt biển” khép lại, người đọc vẫn còn thấy đâu đó buổi sáng hỗn loạn của ngày 30 tháng 4 lịch sử. Với nhiều người khác, biến cố ấy không chỉ dẫn đến một cuộc vượt tù cải tạo và hai chuyến vượt biển của Huỳnh Công Ánh, mà còn dẫn đến một câu chuyện dài chưa có hồi kết của đất nước, dù đã bước sang năm thứ 42.
Ngày 25/4 cách đây 18 năm, hơn 10.000 người đã tập trung tại Trung Nam Hải để thỉnh nguyện chính quyền Trung Quốc cho phép họ tự do tập luyện Pháp Luân Công và không cấm đoán môn tu luyện này. Những con người này không biết rằng, họ đang từng bước tiến vào một cái bẫy lớn được giương ra chờ sẵn, và những điều khủng khiếp sắp ập lên đầu họ, thay đổi toàn bộ số phận và cuộc đời của họ. Nhưng chính những người đóng vai phản diện trong sự kiện bức hại người tập Pháp Luân Công này, rất nhiều trong số họ cũng có những kết cục bi thảm không kém người bị hại…
Gài bẫy người tập Pháp Luân Công
Pháp Luân Công hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp, là một môn tập luyện tinh thần cổ xưa của Trung Quốc được ông Lý Hồng Chí truyền ra rộng rãi trong công chúng từ năm 1992. Đặc điểm của môn tập luyện này bao gồm phần luyện thân thể với 5 bài tập nhẹ nhàng và phần tu tâm tính theo nguyên lý “Chân – Thiện – Nhẫn”. Vì trong một thời gian ngắn mà số lượng người theo tập quá đông (theo thống kê của chính quyền Trung Quốc là hơn 70 triệu người vào thời điểm năm 1999), nhiều hơn số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), nên lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ là ông Giang Trạch Dân lo sợ và quyết định “tiêu diệt” Pháp Luân Công. Tuy nhiên, vì không tìm được lý do gì để tiến hành cuộc đàn áp, một cái bẫy được giương ra sẵn và tấm thảm kịch bắt đầu từ ngày 25/4/1999, cách đây 18 năm…
Sáng ngày 25/4, hơn 10.000 người tập Pháp Luân Công từ khắp nơi đổ về trung tâm thành phố Bắc Kinh, hoàn toàn không có tổ chức, khẩu hiệu hay biểu ngữ. (Ảnh: Minh Huệ)
Cựu Ủy viên Bộ Chính trị La Cán vì muốn lập công với ông Giang Trạch Dân, nên trở thành người tiên phong trong việc tiến hành gài bẫy người tập Pháp Luân Công, từ đó lấy lý do để triển khai cuộc đàn áp. Ông này và thân thuộc Hà Tộ Hưu tiến hành một vài hành động để kích động người tập Pháp Luân Công như: viết bài bôi nhọ đăng trên tạp chí của Học viện Giáo dục Thiên Tân, bắt 45 người đi phản ánh sự việc và đánh trọng thương nhiều người khác. Khi người dân yêu cầu thả người thì công an Thiên Tân đã gợi ý cho họ đến Bắc Kinh thỉnh nguyện và nhấn mạnh chỉ có Bắc Kinh mới giải quyết được việc này.
Sáng ngày 25/4, hơn 10.000 người tập Pháp Luân Công từ khắp nơi đổ về trung tâm thành phố Bắc Kinh. Lúc đầu lực lượng cảnh sát kéo về Thiên An Môn dự tính ngăn cản, nhưng sau đó cảnh sát lại dẫn đường cho họ tiến vào Trung Nam Hải, cuối cùng hình thành nên điều mà chính quyền mô tả là “cuộc tổng tấn công Trung Nam Hải”.
Tuy nhiên, theo các tư liệu và nhân chứng có mặt tại hiện trường vào ngày hôm đó, thì những người tham gia kháng nghị là tự phát đến Bắc Kinh, hoàn toàn không có tổ chức, khẩu hiệu hay biểu ngữ. Họ theo hướng dẫn của cảnh sát đứng yên, trật tự vòng quanh hai bên cổng chính của Trung Nam Hải.
Khoảng 8h sáng, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã dẫn 3 người đi kháng nghị vào trong nói chuyện, từ đó phát hiện ra rằng vấn đề ở Thiên Tân đã có chỉ thị xử lý nhưng ông La Cán đã ém đi. Thủ tướng Chu Dung Cơ sau khi hiểu rõ tình hình đã để cho Cục Xử lý Khiếu nại nói chuyện với họ. Hơn 8h tối, hội đàm kết thúc, sau khi biết những người tập Pháp Luân Công ở Thiên Tân đã được thả, đám đông cũng nhanh chóng giải tán và hiện trường rất sạch sẽ.
Tuy nhiên, sự kiện ngày 25/4/1999 đã trở thành cái cớ cho ông Giang Trạch Dân và phe cánh tiến hành cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Ông Giang đã đề ra chiến lược “bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính và hủy hoại thân thể” nhằm “tiêu diệt” môn tu luyện này trong vòng 3 tháng. Rất nhiều sách của Pháp Luân Công đã bị tiêu hủy, thông tin về Pháp Luân Công cũng bị phong tỏa, các kênh truyền thông của nhà nước liên tục phát các chương trình bôi nhọ và vu khống Pháp Luân Công, những người theo tập luyện môn tu luyện này bị tịch thu tài sản, đuổi việc và sách nhiễu. Nếu không chịu từ bỏ đức tin của mình, họ thậm chí bị bắt, tra tấn và giết hại…
Sau sự kiện ngày 25/4, dưới sự ủng hộ của ông Giang Trạch Dân, ông La Cán đã trở thành Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Trung Quốc.
Pháp Luân Công vẫn kiên định sau 18 năm
Một bản báo cáo dài 22 trang của tổ chức Freedom House nhận định: Trong khi ĐCSTQ đổ ra hàng trăm triệu đô la Mỹ mỗi năm để tiêu diệt Pháp Luân Công, những người tập Pháp Luân Công chỉ sử dụng các biện pháp ôn hòa và bất bạo động để đối đãi với cuộc đàn áp này. Họ chủ yếu tập trung vào việc nỗ lực nói rõ sự thật về cuộc bức hại nhân quyền với cảnh sát, công chúng và các quan chức ĐCSTQ.
Cảnh sát bắt giữ những người tập Pháp Luân Công nói rõ sự thật tại quảng trường Thiên An Môn. (Ảnh: Minh Huệ)
Tổ chức nhân quyền này nhận định Pháp Luân Công vẫn còn là một chủ đề cấm kỵ ở Trung Quốc Đại Lục, và nhiều người Trung Quốc vẫn tin vào sự tuyên truyền phỉ báng người tập luyện Pháp Luân Công của ĐCSTQ. Tuy nhiên, môn tập luyện này đã được phổ biến rộng rãi đến hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Một luật sư người Trung Quốc của tổ chức Freedom House cho biết “Lệnh bắt người vẫn còn tiếp tục được đưa xuống từ những quan chức cấp cao, nhưng trong một số trường hợp, Văn phòng Công an sẽ nói ‘Không, họ chỉ là những người tập luyện để có sức khỏe thôi’”.
Freedom House kết luận: Vào năm 1999, cả trong ngoài nước Trung Quốc, rất ít người dám tin rằng vẫn còn hàng triệu người đang tập luyện Pháp Luân Công bất chấp bị đàn áp trên quy mô lớn.
Ngoài ra, tổ chức này còn cho biết: “Các bằng chứng hiện hữu cho thấy việc mổ cướp nội tạng từ tù nhân Pháp Luân Công để kinh doanh cấy ghép đã diễn ra trên một diện rộng và có thể vẫn đang tiếp diễn.”
Trong khi vẫn chưa rõ chính xác có bao nhiêu người tập Pháp Luân Công bị giết để lấy nội tạng, nhưng báo cáo ước lượng rằng có từ 60.000 đến 100.000 ca cấy ghép được thực hiện mỗi năm. Vì sự kém hiệu quả của hệ thống cấy ghép tạng tại Trung Quốc, các nhà điều tra tin rằng trong hầu hết trường hợp, một nội tạng được cấy ghép đồng nghĩa với một nạn nhân đã bị giết.
Kết cục bi thảm của những người tham gia bức hại Pháp Luân Công
Theo trang Minh Huệ (minghui.org) của Pháp Luân Công thu thập và thống kê 18 năm qua một danh sách bao gồm nhiều người bức hại Pháp Luân Công với thân phận và chức vụ không giống nhau, từ Thường uỷ viên Bộ Chính trị ĐCSTQ, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân sự, Chủ nhiệm Phòng 610 (cơ quan chuyên trách đàn áp Pháp Luân Công), Phó viện trưởng toà án tối cao, cựu Trưởng đặc khu Hồng Kông, cho đến bình luận viên truyền hình, phóng viên báo chí, nhân viên đồn cảnh sát và cả những chính khách Tây phương gốc Hoa di dân ra nước ngoài, v.v… Trong số họ có những người do tham ô hủ bại mà bị kết án, có người vì đau khổ thành bệnh mà tử vong, có người bị tai nạn xe, có người đột tử, lại cũng có trường hợp cả người thân cũng qua đời, vợ con ly tán, còn có một số gia đình tham nhũng cũng bị bắt giữ…
1. Hệ thống công an kiểm sát và tư pháp
Trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công, hệ thống công an, viện kiểm sát và tòa án góp phần tiến hành các thủ đoạn bắt và giam giữ trái phép, xét xử, kết án, tra tấn và ngược đãi khiến nhiều người bị thương tật, thậm chí tử vong.
Thẩm phán xét xử trái phép người tập Pháp Luân Công bị chết vì ung thư phổi
Ngày 12/11/1999, phiên tòa xét xử “Pháp Luân Công” lần đầu tiên mở tại Hải Khẩu, Thẩm phán trưởng Trần Viên Triêu phán quyết bốn người tập Pháp Luân Công bị giam giữ từ 2 đến 12 năm tù giam. Do nhận được sự ủng hộ từ phía Ủy ban Chính trị và Pháp luật Trung ương và Tòa án tối cao mà Tòa án trung cấp Hải Khẩu được xếp hạng khen thưởng tập thể hạng hai, Trần Viên Triêu được xếp hạng khen thưởng cá nhân hạng hai.
Hai năm sau, Trần Viên Triêu đi xét nghiệm và ngày 18/3/2002 được xác nhận bị mắc bệnh ung thư phổi.
Trong lúc Trần Viên Triêu bị bệnh nằm liệt giường, La Cán chỉ thị cần đẩy mạnh tuyên dương thẩm phán Trần về “thành tích” xét xử “Pháp Luân Công” lần đầu, tại Hải Khẩu còn cử hành báo cáo về Trần Viên Triêu. Trần Viên Triêu được trao giải “Thẩm phán gương mẫu toàn quốc”, danh hiệu “Đảng viên Đảng Cộng sản gương mẫu”, còn được khen thưởng xếp hạng cá nhân “thứ hạng nhất”. Ngày 2/9/2003, Trần Viên Triêu qua đời khi mới 52 tuổi.
Ba thẩm phán ở Thẩm Dương bị mắc bệnh não mà chết
Trương Văn, Phó Viện trưởng kiêm Ủy viên Ủy ban Tư pháp Tòa án khu Thẩm Bắc, Thẩm Dương, Liêu Ninh, giữa tháng 2/2009 đột nhiên mắc bệnh lạ về não, tử vong trên đường tới Bắc Kinh chữa trị. Trước đó, Trương Văn vừa mới tham gia phán xét phi pháp 4 người tập Pháp Luân Công (bao gồm: Vương Tố Mai bị kết án 10 năm tù, Hề Thường Hải 11 năm tù, Tôn Ngọc Thư 8 năm tù, Hoắc Đức Phúc 6 năm tù).
Ngạc An Phúc, Thẩm phán tòa án tân khu Thẩm Bắc, thành phố Thẩm Dương, năm 2001 đã bí mật kết án oan 5 người tập Pháp Luân Công từ 3 đến 8 năm tù giam. Ngày 18/2/2011, Ngạc An Phúc đột nhiên bị xuất huyết não, 2 ngày sau thì tử vong khi mới được 45 tuổi. Theo Minh Huệ, trước lúc lâm chung, Ngạc An Phúc không ngừng nói với các thành viên trong gia đình muốn sám hối: “Hãy mau tìm cho tôi người nào luyện Pháp Luân Công! Mau đi tìm người luyện Pháp Luân Công đi!”
Liễu Diệp, nguyên là Phó viện trưởng Tòa án tân khu Thẩm Bắc, tỉnh Liêu Ninh. Ngày 10/7/2014, khi Liễu Diệp ra ngoài xử lý công việc với các đồng nghiệp thì bỗng nhiên cảm thấy không ổn, xuất huyết não và tử vong khi mới 56 tuổi.
Vị thẩm phán “gắn bó đến cùng với đảng” đi câu cá bị chết đuối
Uông Cánh Nghiệp là Thẩm phán trưởng Tòa án Hạc Thành, thành phố Hoài Hóa, tỉnh Hồ Nam. Ngày 21/7/2013, ông này đi câu cá ở một làng ven sông ở Hoài Hóa, khi cá cắn câu, ông ta ra sức kéo mạnh cần câu, nhưng ngược lại đã bị con “cá cắn câu” lôi ngã xuống dòng sông chỉ sâu 2 mét rồi chết đuối, khi đó Uông Cánh Nghiệp mới 48 tuổi. Trước đây, Uông Cánh Nghiệp từng kết án oan ít nhất là 17 người tập Pháp Luân Công, trong đó có ông Phan Kiến Quân bị kết án oan 7 năm tù giam, đến ngày 23/1/2004 thì ông Phan đã bị tra tấn nhục hình đến chết trong tù. Uông Cánh Nghiệp từng phát biểu: “Tôi muốn cùng đảng cộng sản đấu tranh đến cùng.”
“Vệ sỹ nhân dân” gặp tai nạn xe tử vong ly kỳ
Ngày 14/4/2004, bà Nhâm Trường Hà, Cục trưởng Cục công an thị xã Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, trên đường cao tốc từ Trịnh Châu về Đăng Phong đã bị tai nạn chết. Nguyên nhân là chiếc xe hơi chở bà Nhâm Trường Hà đã bị một chiếc xe ô tô tải đi cùng chiều đâm vào đuôi xe. Nhưng, điều kỳ lạ là toàn bộ những người ngồi trong xe đều “bình an vô sự”, duy chỉ có bà Nhâm Trường Hà, ngồi ở vị trí an toàn nhất thì bị chết tại chỗ. Năm đó, bà Hà 40 tuổi.
Theo thông tin đăng tải trên trang Minh Huệ, từ sau khi bà Nhâm Trường Hà nhậm chức Cục trưởng Cục Công an thị xã Đăng Phong vào tháng 4/2001 đã tích cực tham gia bắt giữ, chèn ép dân chúng có khiếu nại kêu oan và bắt giữ rất nhiều người tập Pháp Luân Công. Từng có 4 người tập Pháp Luân Công bởi vì đứng trước trụ sở thị xã Đăng Phong phân phát tài liệu nói rõ sự thật về cuộc bức hại mà bị bắt giữ. Bà Nhâm Trường Hà sau khi biết sự việc đã nói: “Pháp Luân Công thật quá to gan, dám đến cả trụ sở chính quyền phát truyền đơn. Không trị không được.” Kết quả là 4 người tập Pháp Luân Công này đã bị bắt giữ và bị tống giam phi pháp vào nhà tù nữ Tân Hương.
Sau khi bà Nhâm Trường Hà chết, có không ít cảnh sát thị trấn Đăng Phong bàn luận rằng, bà Nhâm Trường Hà là bởi vì ra sức bức hại Pháp Luân Công mà gặp phải báo ứng. Em gái của bà Nhâm Trường Hà cũng nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin câu ‘Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ mà Pháp Luân Công nói. Nhưng bây giờ tôi tin đó là thật!”
Ngày 29/10/2008, sau khi bà Nhâm Trường Hà chết bốn năm thì chồng của bà là ông Vệ Xuân Hiểu cũng đột nhiên chết vì chảy máu não. Lúc đó, ông Vệ Xuân Hiểu 45 tuổi, để lại một người con.
2. Hệ thống văn hoá tuyên truyền
Các kênh truyền thông tâm điểm của ĐCSTQ đã phát đi một lượng lớn nội dung dối trá, vu khống người sáng lập Pháp Luân Công, bôi nhọ Pháp Luân Công, kích động thù hận gây ảnh hưởng rất xấu tại Đại Lục và hải ngoại, khiến đông đảo quần chúng nhân dân hiểu lầm Pháp Luân Công, thù hận người tu Pháp Luân Công, tăng thêm sự tàn khốc của cuộc bức hại.
La Kinh, phát thanh viên đài truyền hình
La Kinh là người dẫn chương trình Phát sóng tin tức của Đài truyền hình Trung ương, đã phát sóng rất nhiều nội dung vu khống, công kích Pháp Luân Công. Năm 2008, La Kinh bị phát hiện ung thư tuyến bạch huyết, lưỡi thối rữa, không thể nói được, ngay cả uống nước cũng đau đớn khó chịu đựng. Cuối cùng mỗi lần trước khi ăn cơm, uống thuốc đều phải dùng thuốc tê súc miệng trước. Ngày 5/6/2009, La Kinh chết tại bệnh viện Ung bướu Bắc Kinh, thọ 48 tuổi.
Trần Manh, đạo diễn chuyên mục “Phỏng vấn tiêu điểm”
Chuyên mục “Phỏng vấn tiêu điểm” của Đài truyền hình Trung ương đã chế tác một lượng lớn những tiết mục chuyên đề nhằm hãm hại và vu khống Pháp Luân Công, trong đó có “Vụ tự thiêu tại Thiên An Môn”. Bộ phim này đã bôi nhọ hãm hại Pháp Luân Công, lừa gạt và khiến đông đảo dân chúng trong và ngoài nước hiểu lầm. Trần Manh, đạo diễn chính của bộ phim này đã phát hiện bị ung thư phổi vào tháng 3/008, bị bệnh tật dày vò tới mức đau đớn sống không bằng chết và đã yêu cầu từ bỏ trị liệu. Ngày 23/12 năm đó Trần Manh tử vong, thọ 47 tuổi.
Bốn đời Cục trưởng Cục Phát thanh Truyền hình huyện Từ Lợi Hồ Nam liên tiếp tử vong
Bắt đầu từ ngày 20/7/1999, Cục trưởng Cục Phát thanh Truyền hình huyện Từ Lợi thành phố Trương Gia Giới, tỉnh Hồ nam theo chân ĐCSTQ dẫn đầu cuộc bức hại Pháp Luân Công, trong chương trình phát thanh của họ đã bôi nhọ, vu khống và dựng những tấm áp phích bôi nhọ, treo biểu ngữ tại nhiều nơi, vu khống Pháp Luân Công, lừa gạt quần chúng trên truyền hình. Bốn vị cục trưởng của cục này lần lượt mắc bệnh ung thư tử vong, trong đó người trẻ nhất mới hơn 40 tuổi, chết vào tháng 9/2010.
Giám đốc kiêm chủ biên tờ “Nhật báo Hà Nam” bị neo sắt đoạt mệnh
Dương Vĩnh Đức, cựu Giám đốc kiêm Chủ biên tờ “Nhật báo Hà Nam” đã cho đăng tải một lượng lớn những nội dung nhục mạ Pháp Luân Công trên rất nhiều tờ báo mà ông nắm giữ. Dương Vĩnh Tường còn chỉ thị cấp dưới của mình phối hợp với “Phòng 610” của thành phố Trịnh Châu bức hại người tập Pháp Luân Công tại đơn vị của mình. Ngày 9/2/2007, Dương Vĩnh Đức đang nghe điện thoại khi đi du thuyền du lịch tại Việt Nam thì đột nhiên đâm vào một tàu chở than, Dương Vĩnh Đức rơi xuống biển. Chiếc du thuyền vội vã quăng neo dừng thuyền, không ngờ chiếc neo sắt đó lại rơi đúng vào đầu Dương Vĩnh Đức, vì vậy đã khiến ông này mất mạng.
Tổng biên tập “Nhật báo Lai Tây”
Trương Thụ Kiến trong thời gian đảm nhiệm tổng biên tập của tòa báo “Nhật báo Lai Tây” của Thanh Đảo năm 2002 đã viết và đăng tải những bài viết phỉ báng Pháp Luân Công, đồng thời tham gia chuyển hoá, bức hại người tập Pháp Luân Công. Năm 2003, khi Trương Thụ Kiến cùng vợ trên đường đi xe tới Uy Hải thăm con gái thì gặp tai nạn, vợ của Trương bị ngã hôn mê bất tỉnh, bản thân Trương bị gãy xương, còn lái xe thì không hề gì. Sau này khi con gái tốt nghiệp đại học, Trương phát hiện bị ung thư gan, chưa đầy một năm sau thì qua đời.
Biên tập tờ “Vãn báo Đại Khánh” bị đột tử
Triệu Xuân Thu biên tập thời báo hoàn cầu “Vãn báo Đại Khánh”, trên trang do cô chủ biên đã đăng tải bài viết vu khống Pháp Luân Công, vì vậy rất nhiều người tập Pháp Luân Công đã nhiều lần tìm cô để nói sự thật, gửi tài liệu sự thật vào hòm thư của cô, nhưng càng khiến cô này thù hận Pháp Luân Công. Từ chiều tối đến đêm ngày 22/2/2006, trên đường về nhà sau khi hết ca đêm, Triệu Xuân Thu bị hai nhân viên làm thuê bên ngoài uy hiếp, sau khi bị đâm liên tiếp 17 nhát thì tử vong, năm đó Triệu Xuân Thu mới 27 tuổi.
Hạ Vũ Điền, Phó chủ tịch Hiệp hội Nhà hát kịch Trung Quốc ốm chết
Hạ Vũ Điền là Phó chủ tịch Hiệp Hội Nhà hát kịch Trung Quốc, Chủ tịch Hiệp hội nhà hát kịch tỉnh Hồ Bắc. Hạ Vũ Điền là thành viên Hiệp hội Phản tà giáo tỉnh Hồ Bắc, được liệt kê vào danh sách đối tượng điều tra của “Tổ chức quốc tế điều tra cuộc bức hại Pháp Luân Công”. Sau này Hạ Vũ Điền đã viết một vở kịch tên là “Khanh Nhân Ký” (Nhật ký lừa người) và hai tiết mục khác phỉ báng Pháp Luân Công. Vào đêm giao thừa năm 2002 của Trung Quốc, Hạ Vũ Điền đột nhiên bị xơ gan cổ chướng cấp tính. Sau đó ông này mắc rất nhiều chứng bệnh như hội chứng tổng hợp sơ cứng gan, bệnh thận, viêm màng bụng tự phát. Ngày 30/7/2004, Hạ Vũ Điền ốm chết năm 66 tuổi.
3. Phòng 610, chức vụ tử thần
“Phòng 610” là tổ chức phi pháp do ông Giang Trạch Dân lập ra chuyên để bức hại Pháp Luân Công, được thành lập vào ngày 10/6/1999. Theo ghi chép của Minh Huệ, quan chức hệ thống “Phòng 610” tại các nơi bị báo ứng vì bức hại Pháp Luân Công đã vượt quá 10.000 vụ.
Lưu Kinh là chủ nhiệm thứ hai của “Phòng 610” của ĐCSTQ, năm đó ông này liên tiếp đích thân tới các nơi, chỉ huy cuộc bức hại Pháp Luân Công. Mỗi nơi Lưu Kinh tới, thì cuộc bức hại tại nơi đó lại tăng cấp, những vụ án tử vong của người tập Pháp Luân Công cũng theo đó mà tăng lên. Lưu Kinh hiện nay mắc bệnh ung thư vòm họng. Lý Đông Sinh là người kế nhiệm của Lưu Kinh thì mất chức ngày 12/12/2013, bị kết án 5 năm tù. Ngoài hai trùm sỏ này, rất nhiều Chủ nhiệm “Phòng 610” tại các địa phương và những người thân thuộc đều liên tục gặp vận hạn. Một vài trường hợp có thể liệt kê như sau:
Kim Đạo Minh, Phó bí thư Ủy ban Nhân dân, Bí thư Ủy ban Hành chính Pháp Luật tỉnh Sơn Tây, Tổ trưởng “Tổ lãnh đạo Duy trì Trật tự Trị an” của tỉnh, trùm sỏ hệ thống “610” đã mất chức vào ngày 27/2/2014, ngày 14/10/2016 bị xử án tù chung thân.
Đỗ Thiện Học, Ủy viên thường vụ Ủy ban Nhân dân, Phó chủ tịch tỉnh Sơn Tây, Tổ phó “Tổ lãnh đạo Duy trì Trật tự Trị an”, Phó lãnh đạo hệ thống “Phòng 610”, ngày 19/6/2014 mất chức, ngày 20/12/2016 bị xử án tù chung thân.
Dương Xuân Duyệt, Chủ nhiệm “Phòng 610” thành phố Xích Phong, Nội Mông Cổ, chết vào tháng 3/2014 vì bệnh ung thư. Vào năm 2005, Dương Trí Huệ, con trai của Dương Xuân Duyệt lái xe đâm vào gầm xe tải, hộp sọ bị tách mở, chết thảm ngay tại chỗ, lúc đó mới chỉ 28 tuổi.
Ngô Kiến Tinh, cựu Chủ nhiệm “Phòng 610” thành phố Kim Hóa tỉnh Chiết Giang, đột nhiên nhiễm bệnh chết vào ngày 18/3/2014. Trong thời gian Ngô Kiến Tinh phụ trách “Phòng 610” đã phỉ báng Pháp Luân Đại Pháp, bức hại người tập Pháp Luân Công tại địa phương. Trước khi lâm bạo bệnh, Ngô đã rút về tuyến 2, Ngô vốn định sống những ngày tháng thanh nhàn cuối đời.
Lô Hạc Minh, Phó Bí thư Văn phòng Ủy ban thành phố Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây, Chủ nhiệm “Phòng 610” thành phố Hán Trung, ngày 23/3/2013 khi cùng gia đình đi xe ra ngoài, chiếc xe của Lô đã bị hai chiếc xe tải lớn kẹp vào giữa đâm biến dạng, bản thân Lô, con gái, thư ký và lái xe chết ngay tại hiện trường.
Lý Gia Minh, Chủ nhiệm “Phòng 610” thành phố Tề Tề Cáp Nhĩ tỉnh Hắc Long Giang, ngày 07/7/2012 trên đường đi siêu thị cùng với vợ thì đột nhiên bị tắc nghẽn mạch máu cơ tim và tử vong, thọ 49 tuổi.
Vương Quảng Bình, Đội phó Chi đội Bảo an Cục Công an thành phố Quảng Châu, từ năm 2001 đến năm 2006, đảm nhận chức vụ Phó chủ nhiệm “Phòng 610” thành phố Quảng Châu. Số người tập Pháp Luân Công do đích thân Vương Quảng Bình bức hại phi pháp gồm 395 người, 16 người bị xét xử phi pháp, đưa 3.310 lượt người vào lớp tẩy não. Ngày 10/6/2010, Vương Quảng Bình đột tử chết ngay tại văn phòng, thọ 54 tuổi.
4. Ba trường hợp có kết cục ly kỳ
Hà Tuyết Kiện, cảnh sát đồn công an phường Đông Thành, thành phố Trác Châu, tỉnh Hà Bắc, tháng 11/2005 đã cưỡng hiếp 2 nữ học viên Pháp Luân Công. Hà Tuyết Kiện bị xét xử 8 năm, sau đó ông ta mắc bệnh ung thư dương vật, dương vật và tinh hoàn đều bị cắt bỏ toàn bộ. Hà Tuyết Kiện 3 lần tự sát không thành, sống không bằng chết.
Quách Tòng Quý là người đường Bắc Quan, thành phố Vũ An, tỉnh Hà Bắc, cựu nhân viên văn phòng đường Bắc Quan. Quách Tòng Mẫn từng cố ý nhục mạ người sáng lập Pháp Luân Công, cười nhạo người tập Pháp Luân Công. Ngay trong tháng đó, Quách đột nhiên bị tràn máu não phải đưa tới bệnh viện Bắc Kinh điều trị. Năm 2005, khi Quách đang trả lại nông cụ thì bị một con chó Tây Tạng lớn của nhà hàng xóm xô ngã, miệng ông ta bị cắt nát. Năm 2011 Quách Tòng Quý tử vong vì bị mắc ung thư, thọ 63 tuổi.
Trương Đồng Hưng, giáo sư mỹ thuật Trường Trung học 68 tại thôn Quan Lập, khu Gia Đồn, thành phố Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh, đã từng tổ chức cho học sinh ký tên vào tài liệu phỉ báng Pháp Luân Công, đồng thời đích thân ông đã vẽ tranh châm biếm, đả kích người sáng lập Pháp Luân Công. Ngày 11/8/2003, khi Trương Đồng Hưng đang câu cá tại đầm cá thôn Quan Lập thì trời đổ mưa như trút nước, ông ta đang tránh mưa dưới gốc cây, thì đột nhiên một tiếng sấm sét rền vang, cùng lúc đó Trương ngã sụp xuống đất chết ngay tại chỗ. Trên đầu ông ta thủng một lỗ lớn, trước ngực, tóc cháy xém, chết rất thê thảm.
Nhìn bản đồ 1943 và bản đồ 1997 về rừng cây Việt Nam thì không cần bình luận một chữ nào về thành tích phá hoại của lũ thất học. Đánh Việt Cộng thì cần gì Dioxin hay Chất độc da cam da quýt gì.
Cứ cho nó thấy một nạm tiền, hay một chức danh có thể làm ra tiền cho dù bất nghĩa thì sai nó giết cha mẹ nó, nó cũng làm.
Vì tiền, tụi nó “cờ lờ vờ, cờ lờ mờ vờ” cạo sạch không còn một nhúm cây để gọi là sinh thái.
Hút cát bán cho Trung Cộng xây bồi đấp đảo, nhà cửa hỏng chân trụt xuống sông.
Sắp đến mùa mưa là lũ quét sẽ triệt hạ nhóm nhà trung du.
Một người mẹ dũng cảm đến từ Bồ Đào Nha quyết định giữ lại đứa trẻ trong bụng dù biết gặp nguy hiểm. Khi cô qua đời 107 ngày, đứa trẻ được sinh ra ở trạng thái khỏe mạnh.
Sandra Pedro – một phụ nữ đã sống với con trai mình ở Bragadas (Bồ Đào Nha) trong 8 năm. Khi nhận ra đang mang thai lần 2, Sandra đã đến bác sĩ để nhận lời khuyên. Tại đây, các bác sĩ đã cảnh báo cô về nguy cơ rất lớn phải đối mặt trong thời kỳ mang thai. Sandra trước đây đã từng chiến đấu với bệnh viêm phổi, bị các vấn đề về tim thậm chí là hôn mê sâu. Cô cũng từng trải qua phẫu thuật thận. Tuy vậy, tình yêu thương con và khát khao trở thành mẹ lần nữa, người phụ nữ 37 tuổi quyết định chấp nhận rủi ro và giữ lại đứa trẻ.
Dù biết trước gặp nguy hiểm nhưng Sandra Pedro quyết định không phá thai mà giữ lại đứa trẻ trong bụng mình.
Vào tháng 2/2016, một cơn chảy máu não đã khiến Sandra trên bờ vực cái chết ở trong phòng chăm sóc đặc biệt Vào thời điểm đó Sandra đã biết giới tính con mình là nam nhưng không thể tiếp tục xem bụng mình phát triển như thế nào. Ngày 20/2, Sandra qua đời. Nhưng cái chết này mở ra những điều chưa bao giờ xảy đến ở Bồ Đào Nha và có lẽ là rất hiếm trên thế giới. Khi người phụ nữ 37 tuổi qua đời, các bác sĩ đã siêu âm và phát hiện dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt. Trái tim của đứa bé mạnh mẽ và đập bình thường.
Người mẹ đã qua đời nhưng dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt.
Quá ngạc nhiên trước hiện tượng này, các bác sĩ đã gửi kết quả xét nghiệm tới Ủy ban đạo đức Bệnh viện St. Joseph ở Lisbon. Ủy ban này cùng với gia đình Sandra và gia đình Michael Angelo Faria (cha của đứa trẻ) đồng ý tiếp tục để cô mang thai nhằm đảm bảo khả năng sống sót của thai nhi.
Đứa trẻ được đặt tên là Lourenço Salvado.
Cơ thể Sandra từ đó được hoạt động bằng máy móc. Đó là khoảng thời gian đáng buồn cho mọi người trong gia đình cô nhưng họ phải mạnh mẽ. Mặc dù Sandra không còn chức năng não và được tuyên bố lâm sàng là đã chết nhưng vẫn còn sự sống phát triển trong cô. Sandra trở thành một vườn ươm sống. Một đội ngũ hơn 80 người đã làm việc ngày đêm để giữ cho cơ thể mẹ hoạt động và duy trì tuần hoàn tử cung.
Em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ.
107 ngày sau đó, phép màu đã xảy ra: em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ. Đây là tình huống mà không bác sĩ nào tại đó từng gặp phải và rất nhiều người dã khóc. Sau đó, các máy móc được tắt đi, cơ thể mẹ được giao cho gia đình còn em bé thì có sức khỏe hoàn hảo.
Điều thần kỳ xảy ra khi 107 ngày sau cái chết, Sandra vẫn sinh được con.
Sandra là một người mẹ can đảm, từ cái chết của cô, một cuộc sống mới được sinh ra. Lourenço Salvado chính là tên được mọi người đặt cho em bé mà Sandra sinh ra 107 ngày sau khi chết.
Ngay lời nói đầu của Hiến pháp 2013 có đoạn: “Thể chế hoá cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kế thừa Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1990… “. Tất cả các Hiến pháp đã nêu do ĐCSVN biên soạn và Hiến pháp 2013 không công nhận Tam quyền phân lập, nên không có Tư pháp độc lập, không có độc lập thì làm gì có Quyền lực của Tư pháp?
Có thẩm phán, kiểm sát viên nào không phải là đảng viên đảng cộng sản VN?
Đảng CS nắm cả ba quyền, gọi là “đảng thống nhất lãnh đạo”.
Ông Chung là 1/200 ủy viên BCH trung ương đảng, cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN giữa hai kỳ Đại hội đảng.
Ông Chung được BCH phân công là Chủ tịch TPHN, và vụ này ông được phân công giải quyết, thương lượng với Dân Đồng Tâm. Nên Toà án, VKS, Công an điều tra HN thực tế đều là cấp dưới (về mặt đảng) của ông Chung, nên họ đều phải chấp hành ông Chung.
Điều 4, Hiến pháp 2013: ” ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và XH”.
Đảng cộng sản đẻ ra pháp luật, luôn đứng trên pháp luật. Pháp luật chỉ là công cụ của đảng, nên nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.
Tết đến vẫn có khẩu hiệu ” Mừng đảng mừng xuân”,
Không có ” Mừng nhà nước, mừng nhân dân VN” đâu?
Nên nói “Đồng Tâm Vô Pháp” không sai, nhưng chưa đủ!
Vì VN vô pháp từ khi đảng cướp chính quyền năm 1945!
Đồng bào Đồng Tâm, Mỹ Đức, HN đọc để cảnh giác… bởi nông dân Thái Bình đấu tranh chống tiêu cực cuối thế kỷ 20 đã bị đàn áp rất thâm hiểm, độc ác, dã man theo kiểu Mao- Đặng của TQ ( hơn thời trung cổ)…
“…Gia đình nộp đơn kiện thì công an chỉ những trại tù rất khác nhau; thí dụ họ giam con người ta Quảng Ninh thì họ chỉ cho thân nhân vào Nghệ An tìm; họ giam con người ta ở Thanh Hóa thì họ chỉ thân nhân lên Vĩnh Phú tìm; họ giam con người ta ở Vĩnh Phú thì họ nói là giam ở tận Ðắc Lắc v.v.
Như thế có nghĩa là để cho những nông dân nghèo khó, ngu ngơ không biết đường biết xá, đi tìm thân nhân vài lần là hết tiền nên đành phải bỏ cuộc.
Trong các nhà tù, thì chúng nó ra lệnh cho những thằng tù muốn lập công với công an, là bọn tù hình sự, những thằng tàn ác nhất, tìm cách gây sự với những nông dân và cựu chiến binh cầm đầu cuộc nổi dậy; rồi bọn hình sự này thủ tiêu những nạn nhân bằng cách dùng đũa nhọn đóng vào tai lúc người ta đang ngủ. Nạn nhân chết ngay tức khắc, không thể kêu một tiếng nào cả. Chính thân nhân những người chết kể lại cho tôi nghe chuyện đó.
Ðó là cuộc tàn sát trong bóng tối một cách hèn hạ, cực kỳ khôn khéo, cực kỳ hèn hạ, cực kỳ đểu cáng và chúng nó là những đao phủ số một nên mới nghĩ ra hình thức thủ tiêu dã man như thế…”
Nhờ các Linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Nguyễn Duy Tân cùng hàng ngàn bà con Giáo dân xứ Song Ngọc, Phú Yên đi phản đối kẻ đánh người, cướp điện thoại và 200 áo (nghi là ca QL cướp mang về huyện ) ở công an huyện Quỳnh Lưu
Cuối cùng, những chiếc áo ” Formosa get out” này công an huyện Quỳnh Lưu đã phải trả lại cho dân, họ hứa sẽ điều tra về sự việc trên.
Công nghiệp giấy được xếp vào loại gây ô nhiễm hơn cả công nghiệp khai khoáng, bởi phải khai thác các nguồn xen-lu-lô tự nhiên, sử dụng nhiều chất tẩy trong quá trình sản xuất và đặc biệt việc tái chế giấy như Lee & Man càng thải ra nhiều chất độc hại và nguy hiểm. ‘Đừng để Lee & Man bức tử sông Hậu’ là lời kêu gọi thống thiết của người miền Tây lúc này.”
Ngay sau biến động Đồng Tâm, vài trang mạng (Đàn Chim Việt, Vấn Đề…) đã đăng lại “Báo Cáo Về Vụ Nổi Dậy Ở Thái Bình” của G.S. Tương Lai – khi ông còn đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Viện Xã Hội Học Việt Nam. Đây là một tập tài liệu khả tín, khách quan – dài 53 trang – với phần kết luận hơi (bị) lạc quan:
“Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.”
Hai mươi năm sau, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Khánh An (VOA) vào hôm 17 tháng 4 năm 2017, G.S. Tương Lai – tiếc thay – đã còn giữ được sự lạc quan và niềm hy vọng (“có những chủ trương đúng sách lược đúng“) như hai thập niên trước nữa. Ông buông thõng: “Sẽ còn nhiều ‘lươn lẹo,’ ‘mưu mẹo’ ở Đồng Tâm.”
Mọi sự “lươn lẹo, cũng như “mưu mẹo” sắp tới – tất nhiên – không đến từ phía những người nông dân Việt Nam chân chất. Nỗi bi quan của G.S. Tương Lai khiến tôi chợt nhớ đến lời tuyên bố của ông, đúng hai năm trước – vào hôm 29/04/2015 – khi trả lời Thụy Mi ( RFI ) về một câu hỏi có liên quan đến vấn đề thời cuộc:
“Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết. Từ sự chuyển biến đó, dần dần từng bước thay đổi thể chế chính trị, thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu làm được như thế, họ sẽ lấy lại uy tín.”
Làm thế nào để người dân Việt có thể đặt lại niềm tin vào “giới cầm quyền mưu mẹo” và “lươn lẹo” (rõ ràng) là một nan đề, nhất là riêng với nông dân – giới người vừa lên tiếng kêu than rằng “chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi.”
Giữa tình cảnh hoang mang, căng thẳng, và lo sợ của hàng vạn con dân chân lấm tay bùn này – tuyệt nhiên – không thấy một vị “lãnh đạo cấp cao” nào “vào cuộc” cả. Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Quốc Hội, Thủ Tướng… đều câm như hến!
Kẻ lên tiếng, mỉa mai thay, chỉ là một thường dân – theo tường thuật của Viễn Đông (VOA) nghe được vào hôm 19 tháng 4 năm 2017:
“Người nông dân nổi dậy” ở Hải Phòng, từng đứng lên chống lực lượng thu hồi đất, cho biết rằng ông “sẵn sàng đứng ra làm trung gian” giữa người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, với chính quyền nhằm giúp làm hạ nhiệt căng thẳng hiện nay…
Người nông dân, từng được hàng xóm láng giềng và người thân ở Hải Phòng đón chào như người hùng sau khi được đặc xá trở về, nhận định tiếp:
“Theo ý kiến cá nhân tôi, chính phủ phải vào cuộc, phải thành lập đoàn thanh tra để làm rõ. Chính phủ phải có kết luận rõ ràng, công bố công khai và xử lý tất cả các quan chức từ xã, huyện, thậm chí cả thành phố Hà Nội. Nếu có dấu hiệu sai phạm phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Sau đó, phải thả khẩn cấp những người mà chính quyền bắt. Cái sai về chính quyền phải xử lý trước”.
Tôi vô cùng trân trọng thiện ý, cũng như thiện chí, của kỹ sư Đoàn Văn Vươn; tuy thế, vẫn không khỏi cảm thấy ái ngại khi đọc lại những sự kiện đã xảy ra tại quê hương ông – theo tường trình của Gia Minh (RFA) vào hôm 2 tháng 10 năm 2012:
“Tin cho biết cuộc làm việc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hải Phòng bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều, và đến 5 giờ Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam có cuộc họp báo thông tin về kết luận của Thủ tướng tại Trung tâm hội nghị quốc tế.
Theo ông Vũ Đức Đam thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận hai quyết định giao đất QĐ447 và QĐ220 của huyện Tiên Lãng đều không đúng pháp luật.
Đến hai quyết định thu hồi 460 và 461 cũng trái pháp luật. Vì quyết định thu hồi không đúng nên việc cưỡng chế cũng không đúng.
Còn về việc hủy hoại tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, thủ tướng yêu cầu xử lý theo đúng qui định của pháp luật.”
Dù Thủ Tướng “kết luận rõ ràng” như trên nhưng rồi anh em ông Đoàn Văn Vươn vẫn cứ phải đi tù, còn người chỉ huy vụ “trận đánh đẹp” (phá hủy nhà cửa của nạn nhân) Đại Tá Đỗ Hữu Ca – Giám Đốc Công An Hải Phòng thì được thăng cấp!
Ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc CA TP HP được thăng hàm Thiếu tướng. Ảnh & thú thích: báo Pháp Luật
Dù vậy, xét cho cùng, qúi ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Qúi vẫn còn được coi là những người may mắn vì đã được công luận biết đến tên tuổi nên không thể tự nhiên mà “mất hút” trong hệ thống lao tù được.
Rất nhiều người dân Việt đã không có được sự “may mắn” tương tự:
“Cách đây chừng một thập kỷ đã xảy ra vụ nổi loạn của nông dân Thái Bình. Những người dân cày đói ăn biểu tình yêu cầu bọn quan chức địa phương hoàn lại những món tiền bị cưỡng đoạt trái phép. Cuộc khởi loạn thoạt tiên xảy ra trên bảy huyện trong tỉnh, trước hết là Quỳnh Phụ, sau đó lan ra các tỉnh lân cận như Hải Hưng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh…
Phóng viên nước ngoài rầm rộ đổ đến Hà Nội… Họ đón tiếp niềm nở, nụ cười thường trực gắn trên môi: trà ngon, gà vườn, quà tặng rẻ tiền nhưng lạ mắt… Kèm theo đó là sự hứa hẹn mềm mỏng: ‘chúng tôi sẽ để các ông các bà xuống tỉnh Thái Bình trong thời gian ngắn nhất, với điều kiện đảm bảo được sự an toàn của quý vị’.
Sự trì hoãn đó có hiệu lực. Một tuần, hai tuần, ba tuần trôi qua. Các ông tây bà đầm không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Quỹ thời gian có hạn. Hà Nội chỉ là một quán trọ xoàng. Hành tinh mênh mông còn có biết bao nơi chốn mời gọi… Họ lần lượt ra đi.
Khi phóng viên nước ngoài cuối cùng lên máy bay và các ống kính đã chĩa về hướng khác là lúc cuộc đàn áp bắt đầu. Trong một đêm, hàng nghìn cựu chiến binh đã bị bắt…
Cuộc vây bắt diễn ra êm nhẹ. Hoàn toàn trong bóng đêm. Sót lại là tiếng kêu khóc của đám dân quê đói khổ, thất học, thân nhân của những người bị cùm trói và tống vào xe thùng sắt.
Các cựu chiến binh Thái Bình, những người đã hiến dâng toàn bộ tuổi thanh xuân trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, những thương bệnh binh nạn nhân của chất độc da cam, những người thường được ca ngợi véo von là anh hùng cứu nước. Họ sẽ được đảng Cộng sản thân yêu đối xử ra sao?
Họ bị phân tán vào khắp các trại tù, sống trà trộn giữa đám tội phạm thật sự. Ở đó, họ sẽ chết trong một thời gian rất ngắn bởi chính các bạn tù này. Bọn tội phạm được lệnh thủ tiêu họ. Đương nhiên, ‘lệnh mồm’ và ban bố một cách thì thầm đến tận từng cá nhân.
Đây chính là ‘phương thức châu Á’, nhóm danh từ tôi tạm mượn ông Karl Marx tôn kính ở phương Tây. Bọn tội phạm được hứa hẹn giảm án theo thành tích: giết một người án 20 năm giảm xuống 18 năm. Giết hai người, 18 năm còn lại 16… Cứ thế mà thực thi.
Khởi sự là các cuộc khiêu khích, gây hấn. Sau đấy là cuộc tàn sát bằng các hình thức khác biệt, trong đó một hình thức đặc biệt hiệu nghiệm và rất ấn tượng: giết người bằng đũa ăn. Người châu Á ăn cơm bằng đũa. Dụng cụ ẩm thực biến thành vũ khí sát nhân là sự ứng biến tuyệt vời.
Người ta vót những chiếc đũa bằng gốc tre đực, thứ tre cứng như sắt, một đầu đũa được chuốt nhọn như kim đan. Khi các cựu chiến binh Thái Bình đang ngủ, bọn tội phạm bất thình lình đóng chiếc đũa này vào lỗ tai của họ. Với độ dài 25cm, đũa xuyên suốt từ tai nọ sang tai kia. Nạn nhân chết tức khắc không kịp bật một tiếng kêu.
Như thế, trong bóng đêm và trong sự im lặng, những người cầm đầu cuộc biểu tình của dân cày Thái Bình đã chết theo kiểu ấy.” (Dương Thu Hương – “Bóng Đêm Rắn Rết & Nước Mắt.” Paris, tháng 4/2007).
Mai hậu, liệu có cách nào để tránh cho những người dân cầy ở Đồng Tâm khỏi phải “chết theo kiểu ấy,” trong “bóng đêm” đang bao phủ Việt Nam không?
Diễn tập bắn tên lửa của Quân đội nhân dân Triều Tiên. Ảnh được KCNA phát hành hôm 21/7/2016
AFP photo
Chính phủ Bình Nhưỡng hôm nay lên tiếng đe dọa nước Úc, cảnh báo sẽ có phản ứng đối phó nếu Úc “tiếp tục theo đuổi các hành động do Mỹ đề xướng để cô lập và kiềm chế” Bắc Hàn.
Đe dọa này được phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Bắc Hàn đưa ra với hãng thông tấn nhà nước KCNA, nói rằng mọi hành động nhắm cô lập và kiềm chế Bình Nhưỡng “là những hành động tự sát”, sẽ bị Bắc Hàn đáp trả “bằng những cuộc tấn công chiến lược”.
Cảnh báo được Bắc Hàn đưa ra sau khi Ngoại Trưởng Úc Julie Bishop cho biết Bắc Hàn đang trên đương sở hữu võ khí hạt nhân, gọi đó là điều “không thể chấp nhận được” vì gây bất ổn cho khu vực. Bà Ngoại Trưởng Úc còn kêu gọi “cộng đồng quốc tế phải ngăn chận, không để cho Bình Nhưỡng có thêm những hành động gây rối”.
Trong bản tin của KNCA, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Bắc Hàn gọi tuyên bố của Bà Ngoại Trưởng Úc là “những lời phát biểu rác rưởi”, bảo thêm “không thể tha thứ cho những điều bà ta nêu ra vì đó là hành động chống lại hòa bình, bảo vệ chính sách thù địch” mà Hoa Kỳ đang áp dụng với Bắc Hàn.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Bắc Hàn cũng cho rằng Úc “đang mù quáng đi theo đướng lối của Mỹ”, cảnh báo bà Ngoại Trưởng Úc “phải cân nhắc hậu quả trước khi đưa ra lời tuyên bố tâng bốc Hoa Kỳ”.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Bắc Hàn cũng nhắc lại nguyên nhân khiến căng thẳng xảy ra ở bán đảo Triều Tiên “chính vì lời de dọa sẽ tấn công Bình Nhưỡng mà Hoa Kỳ đưa ra”, gọi đó là “hành động quân sự liều lĩnh” của Mỹ.
Bản tin cơ quan thông tấn nhà nước Bắc Hàn phổ biến trong lúc Phó Tổng Thống Hoan Kỳ Mike Pence đang có mặt tại Sydney, Úc, để thảo luận với chính phủ đồng minh về tình hình khu vực và những điêu cần làm đối với Bắc Hàn.
Hôm qua trong cuộc họp báo ở Sydney chung với Thủ Tướng Úc Malcolm Turnbull, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ tiếp tục lên án chương trình võ khí của Bắc Hàn, nhưng cũng nói rằng ông tin tưởng cuối cùng sẽ đạt được mục tiêu bán đảo Triểu Tiên là vùng phi nguyên tử “nhờ sự hỗ trợ của Trung Quốc” và quyết tâm của các nước đồng minh.
Hàng ngàn người tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trong đó có nhiều giáo dân Công giáo hôm 24 tháng tư biểu tình bao vây trụ sở công an huyện Quỳnh lưu.
Lý do của cuộc biểu tình là một số nhân viên an ninh và công an, vào sáng cùng ngày chận đường người dân, tịch thu áo thun có in hình đòi công ty Formosa rút khỏi Việt Nam.
Hai vị linh mục quản xứ gồm linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục đại diện cho người dân nói chuyện với cơ quan công an huyện.
Vào lúc khoảng 6 giờ chiều tại cổng trụ sở công an huyện Quỳnh Lưu, linh mục Đặng Hữu Nam cho biết:
“Hiện tại tôi đang ở hiện trường, cho người dân về. Chúng tôi và chính quyền cũng như công an huyện Quỳnh Lưu đồng ý nhau cách giải quyết. Những gì mà anh em an ninh làm sai thì họ phải xin lỗi, họ phải đưa xuống giáo xứ Song Ngọc để trả đồ lại cho dân. Chúng tôi đang cho người dân ra về, và công an cũng như chính quyền huyện Quỳnh Lưu hứa trả lời chúng tôi bằng văn bản. Tôi nói với chính quyền cũng như công an trước mặt bà con giáo dân rằng nếu nhà cầm quyền giải quyết không hợp tình hợp lý, thì tôi tiếp tục tổ chức cho bà con đi biểu tình đòi quyền lợi.”
Cuộc biểu tình được cho biết kết thúc trong ôn hòa vào khoảng 6 giờ chiều, không có xô xát hay đụng chạm giữa người biểu tình và lực lượng công an.
Từ khi thảm họa môi trường Fomosa Vũng Áng do nhà máy gang thép Formosa của Đài Loan gây ra làm cá chết hàng loạt dọc theo bờ biển 4 tỉnh bắc miền trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đến Thừa Thiên- Huế. Người dân bốn tỉnh và Nghệ An liên tục biểu tình đòi bồi thường và đòi Forrmosa rút khỏi Việt Nam.
Cơ quan chức năng cho rằng Nghệ An không nằm trong vùng chịu tác động bởi thảm họa môi trường Formosa; thế nhưng dân chúng lại nói họ bị ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế.