NHÂN DÂN ĐỒNG TÂM TUYÊN CHIẾN VÀ SẴN SÀNG ĐỔ MÁU ĐỂ GIỮ ĐẤT.

From facebook:  Hoa Kim Ngo and 2 others shared Chú Tễu‘s post.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: drawing
Chú Tễu added 3 new photos — with Huynh Ngoc Chenh and 14 others.

NHÂN DÂN ĐỒNG TÂM TUYÊN CHIẾN VÀ SẴN SÀNG ĐỔ MÁU ĐỂ GIỮ ĐẤT.

Vào hồi 15h00 ngày 3 tháng 9 năm 2017, Toàn dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội đã Hội nghị để xác định cuộc đấu tranh Chống Tham Nhũng của người dân đang đi vào giai đoạn quyết liệt nhất, thách thức nhất. Hội nghị đã thống nhất lập Biên bản để thông báo rộng rãi đến nhân dân cả nước và nhân dân thế giới biết.

“Hội nghị thống nhất cao độ:

Từ ngày 3 – 9 – 2017 nhân dân xã Đồng Tâm tuyên chiến với bọn tham nhũng, giặc nội xâm.

Nhân dân xã Đồng Tâm sẵn sàng đổ máu để giữ bằng được đất của nhân dân ta.

Kẻ nào từ chính quyền, công an đến quân đội vào cướp đất sẽ bị tan xác.

Thà mất tất cả xã Đồng Tâm, còn một người cũng quyết chiến đến cùng”

Dưới đây là toàn văn Biên bản cuộc họp có chữ ký của các thủ lĩnh Đồng Tâm.

Từ cướp 1945 đến chiếm 1975

 Từ cướp 1945 đến chiếm 1975

Cứ mỗi dịp có kỷ niệm ngày 19 tháng Tám, người Cộng sản Việt Nam (CSVN) lại thi đua nói phét và nói dối với lịch sử để che đậy hành động “cướp” chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945.

“Con đường tiến lên Xã hội Chủ Nghĩa của cộng sản VN”. Ảnh: Internet.

Cũng như thế, họ đã chiếm miền Nam tử tế và văn minh của Việt Nam Cộng hoà ngày 30/04/1975 mà cứ nói bừa rằng “giải phóng” để chối tội xâm lăng.

Hãy đọc những lời họ tự diễn: “Cách đây tròn 72 năm, với khí thế sục sôi cách mạng, nắm bắt thời cơ “nghìn năm có một”, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân nhất tề đứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám “long trời lở đất”, đập tan xiềng xích nô lệ, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền trong cả nước; dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.” (báo Quân đội Nhân dân, ngày 19/08/2017).

Chả làm gì có cái gọi là “Cách mạng Tháng Tám “long trời lở đất” đã diễn ra trong ngày 19 tháng 8 năm 1945.

Trong lịch sử đảng CSVN, từ ngày thành lập 03/02/1930, người Cộng sản đã nổi tiếng nói thật thì ít mà nói dối thì nhiều cho nên họ cần phải học từ các trí thức đứng đắn ngay trong hàng ngũ mình để ăn ngay nói thật, nếu không sợ có ngày bị Thánh Thần cắt lưỡi.

Một trong những trí thức đàng hoàng này là Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đình Cống, nhà giáo tại Đại học Xây dựng đã nghỉ hưu.

Ông viết: “Đêm 9 tháng 3-1945 Nhật đảo chính Pháp. Trên đất VN không còn người Pháp cai trị. Ngày 11-3 vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập, xóa bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp. Tháng 4-1945 giải tán triều đình phong kiến với các Thượng thư, lập Chính phủ do Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu và các Bộ trưởng. Ngày 15-8 Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 17-8 Chính quyền Hà nội tổ chức mit tinh, treo cờ Quẻ Ly để chào mừng nước Việt Nam độc lập. Cuộc mit tinh này đã bị người của VM  (Việt Minh)“cướp” đoạt, hạ cờ Quẻ Ly xuống, giương cờ đỏ sao vàng lên và kêu gọi đi theo VM. Từ trước ngày 17-8 thủ tướngTrần Trọng Kim, Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn đã 5 lần tiếp xúc, hội đàm với đại diện của VM tại Hà nội (Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Khang) với đề nghị mời người của VM tham gia Chính phủ hoặc hợp tác lập Chính phủ liên hiệp để chuẩn bị đón tiếp quân Đồng minh, nhường quyền kiểm soát phần lớn đất nước cho VM một cách hòa bình. Nhưng cả 5 lần đều bị đại diện VM từ chối với tuyên bố là VM đủ lực lượng để “cướp” toàn bộ chính quyền mà không cần sự hợp tác nào hết, chỉ có đấu tranh một mất một còn. Để tỏ rõ thiện chí không dùng bạo lực, chính phủ ông Kim và Bảo Đại không thành lập quân đội, không có Bộ Quốc phòng.

Ngày 19-8 VM “cướp” chính quyền ở Hà nội. Sau đó việc “cướp”chính quyền lan rộng ra toàn quốc. Việc “cướp” này diễn ra dễ dàng, nhanh chóng vì không gặp phải sự chống đối. Ngày 25-8 vua Bảo Đại thoái vị.”

(Trích Bauxite Việt Nam, ngày 18/08/2016).

Giáo sư Cống, 80 tuổi, quê Quảng Bình (sinh ngày 12/12/1937) tuy là người đã công tác nhiều năm trong hệ thống giáo dục nhà nước CSVN, nhưng sau khi về hưu, ông đã viết nhiều bài chỉ trích chính sách cai trị của đảng và lên án những sai lầm của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Ông còn công khai ủng hộ đa nguyên đa đảng.

Vì vậy, Giáo sư, Tiến sỹ Sử học Phạm Cao Dương của Việt Nam Cộng hòa đã viết: “Trong năm lần gặp gỡ kể trên, ngoại trừ cuộc gặp gỡ lần thứ năm, bốn lần đầu lần nào phía chính phủ cũng đưa ra những đề nghị mời Việt Minh vào chính phủ làm việc để cứu nước nhưng tất cả đều bị từ chối. Lý do là Việt Minh với Đảng Cộng Sản đứng đằng sau đã chủ trương cướp chính quyền từ đó một mình lãnh đạo đất để thực hiện cuộc cách mạng riêng của mình bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra cho dân tộc, phản ảnh qua những câu trả lời của người đại diện Việt Minh cho những câu hỏi do chính Thủ Tướng Trần Trọng Kim đặt ra và kể lại. Biến cố 19 tháng 8 do đó đã xảy ra.”

(Trích “Trước khi bão lụt tràn tới -BẢO ĐẠI – TRẦN TRỌNG KIM và ĐẾ QUỐC VIỆT NAM  (9/3/1945 – 30/8/1945)” (Phạm Cao Dương-Nhà xuất bản Truyền Thống Việt 2017)”.

Theo sách Phạm Cao Dương thì trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, Tác gỉa Trần Trọng Kim viết: “Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia, lính Bảo An ở các nơi, phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Nhân dân bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng vì thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt gì cả, công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh nói họ đã có các nước đồng minh giúp đỡ cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói như thế, ai nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do Bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ý ngả về Việt Minh.”

Cụ Kim viết tiếp: “Tôi thấy tình thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc Bộ) đi tìm một vài người Việt Minh đến nói chuyện, vì lúc ấy tôi còn tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến (Lê Trọng Nghĩa), tôi nói ‘chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng của các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng cùng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài để cứu nước được không?

“Người ấy (Lê Trọng Nghĩa) nói: – Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.

– (Cụ Kim): “Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn, nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.”

–  (Lê Trọng Nghĩa): “Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng để đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.”

– (Cụ Kim): “Theo như ý của các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.”

– (Lê Trọng Nghĩa): “Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù trong nước mười phần chết chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại còn hơn với chín phần kia.”

– (Cụ Kim): “Rồi người ấy đọc một bài hình như đã học thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được.”

“Tôi nói: – Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?”.

– (Lê Trọng Nghĩa): “Chúng tôi sẽ “cướp quyền” để tỏ cho cả nước đồng minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu cho ai nhường.”

–(Cụ Kim): “Các ông chắc là các nước đồng minh tin ở sức mạnh của các ông không?”.

– (Lê Trọng Nghĩa): “Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.”

– (Cụ Kim): “Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử”.

Như vậy, rõ ràng người CSVN, qua tên gọi Việt Minh đã chủ trương “cướp” chính quyền Trần Trọng Kim để dành độc quyền cai trị theo lề lối Cộng sản độc tài. Sau này, đảng CSVN cũng đã dùng mọi mánh khoé, kể cả khủng bố và ám sát để lọai các thành viên không Cộng sản, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh hội, ra khỏi Chính phủ liên hiệp Kháng chiến. Từ đó, đất nước lại lâm vào cuộc nội chiến kéo dài 30 năm (1945-1975) do đảng CSVN chủ động đã gây tang thương cho dân tộc cho đến bây giờ (2017).

NHẠC SỸ TÔ HẢI

Nhân chứng của ngày 19/8/1945 tại Hà Nội, Nhạc sỹ Tô Hải cũng viết: “Cuộc cướp chính quyền từ trong tay Nhật + Pháp không hề có! Mà đơn giản chỉ là một cuộc lật đổ một chính quyền còn non trẻ: Chính phủ Trần trọng Kim với những nhân vật nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước. 126 ngày nắm giữ một chính quyền của một đất nước hoang tàn, chết đói đầy đường, không một đồng trong ngân quỹ, 95% người dân không biết chữ…, được thế giới công nhận và sau này, đa số vẫn được mời vào “Chính phủ liên hiệp”?… Vậy vì sao mà phải “lờ tịt” cái Sự Thật đó đi?” (Theo Dân Luận, ngày 21/08/2010).

Ai lờ đi? Đảng CSVN và những người gọi là “viết Sử” Cộng sản Việt Nam vì họ không dám nói và viết sự thật khi không có lợi cho họ.

Nhạc sỹ Tô Hải, người đã tuyên bố bỏ đảng ngày 25 tháng 5 năm 2014, năm nay (2017) đã 90 tuổi mà phải viết Tập “Hồi ký của một thằng hèn” (Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ở Virginia, Hoa Kỳ in ra năm 2009) để ăn năn về những việc làm của ông thì nỗi cay đắng phải sâu thẳm lắm.

Vì vậy, ông đã cắn răng viết về ngày 19/08/1945 rằng: “Tóm lại, theo tớ, 19 tháng 8 năm 45 nếu tớ là nhà viết sử có lương tâm tớ sẽ viết hẳn một chương; CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM VÀ CUỘC ĐẢO CHÍNH 19 THÁNG 8 NĂM 45. Tiếp theo đó là những trang bi tráng nhất về lịch sử dân tộc Việt Nam sau cuộc Đảo Chính này… Vì:

Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã bắt đầu bị đổi mầu từ đây.

– máu đổ xương rơi cũng bắt đầu từ đây!

– hầu hết những ai không chịu đổi mầu đã, hoặc bị thủ tiêu hoặc “tìm đường cứu nước” bằng một hướng đi khác để trở thành “kẻ thù của Nhân Dân” hoặc đơn giản hơn chỉ để sống và làm việc bằng trái tim và khối óc của chính mình. Một vài người đã mang theo nỗi oan ức xuống tuyền đài thậm chí có người phải tự sát với lời trăn trối để đời “Lịch sử sẽ phán xét cho tôi” (Nguyễn Tường Tam).

– những ai còn lại đành cam chịu kiếp sống Sợ, sống Hèn chờ đợi, hy vọng vào một ngày được thực sự Tự do, Độc lập….

Trong cùng thời diểm đó, có biết bao nước thuộc địa khác trên khắp thế giới đã chẳng phải “thề phanh thây, uống máu quân thù…” cũng độc lập tự do… mà có một thời gian dài người ta “tuyên giáo” chúng ta là “Độc Lập… giả hiệu”! Cho đến hôm nay, cho đến bao giờ? bao giờ? nước ta mới đuổi kịp các “nước độc lập giả hiệu” như Ấn Độ, Indonexia, Singapore, Thailan…. nhỉ?”

Tóm lại, là một nhân chứng đã sống và “hoạt động cách mạng quáng gà” rồi “cách mạng câm-điếc” suốt 65 năm, qua 3 chế độ “Quân chủ lập hiến” Trần Trọng Kim, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam, bây giờ sắp giã từ cõi đời này, tớ thấy có nhiệm vụ phải nói lên những gì mà lớp trẻ, kể cả các Nhà lãnh đạo trẻ, những trí thức trẻ (đối với tớ cứ từ 60 trở xuống đều coi là Trẻ cả) và đặc biệt các nhà viết sử trẻ nên đào sâu, tìm hiểu về cái thời gian lịch sử bị xuyên tạc cố ý này… Chỉ tiếc rằng: Những điều tớ kể lại chỉ nằm ở trên cái blog cỏn con của tớ, chẳng có ai hưởng ứng vì: Đa số nhân chứng sống như tớ, kẻ đã qua đời, kẻ còn sống thì đã lẫn cẫn, kẻ thì… vừa Ngu vừa Hèn cho nên, có cho ăn “cháo gan cóc tía” cũng chẳng dám nói lên cái thời tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát “Này thanh niên ơi…” dưới bàn tay bắt nhịp của chính Khâm Sai Đai Thần Phan Kế Toại!”.

TIẾP TỤC NHẬN HÃO

Ấy thế mà báo chí CSVN cứ tiếp tục nhận hão những thứ không phải của mình để tự công kênh nhau vào chỗ trơ trẽn như bài Xã Luận của báo Nhân Dân ngày19/08/2017.

Với đầu đề “Cách mạng Tháng Tám và hành trình đổi mới”, Nhân Dân tự ca thế này: “Cách đây tròn 72 năm, trong mùa thu lịch sử, ngày 19-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cả dân tộc triệu người như một, với khí thế như sấm rung chớp giật, nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, lật đổ chế độ phong kiến, đập tan xiềng xích áp bức của chế độ thực dân, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Với thành công vang dội đó, chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới cũng có thể tự hào rằng: Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi với hơn năm nghìn đảng viên đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc, khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Ðông – Nam Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Bài Xã Luận viết tiếp: “Cách mạng Tháng Tám thành công là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước nồng nàn, bản lĩnh, trí tuệ và ý chí quật cường của dân tộc ta được kế thừa, phát huy lên tầm cao mới trong cuộc đấu tranh do Ðảng ta tổ chức và lãnh đạo; là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt, tầm nhìn chiến lược, sự nhạy bén tạo thời cơ và chớp thời cơ nghìn năm có một, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ ngày Ðảng ta ra đời (3-2-1930), dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đất nước ta, dân tộc ta đã giành được những thắng lợi vẻ vang, lập nên những kỳ tích trong suốt chiều dài lịch sử: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền nam thống nhất đất nước, non sông về một dải; công cuộc Ðổi mới đã đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước vượt qua đói nghèo, vững bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.”

Ô hay, tại sao lại “giải phóng miền nam”? Miền Nam của Việt Nam Cộng hòa từ 1954 đến 1975 có bị nước nào độ hộ đâu mà “giải phóng”? Trên 20 triệu người miền Nam đang sống hiền hòa, văn minh và sung túc đã tự nhiên bị quân miền Bắc tràn xuống xâm lăng phá làng phá xóm gây ra máu đổ thịt rơi trong suốt 20 năm mà gọi là “giải phóng” à?

Bây giờ trên 40 năm sau ngày được gọi là “thống nhất đất nước” năm 1976, người Cộng sản mới sáng mắt ra để nuối tiếc những lỗi lầm đạp đổ hệ thống kinh tế thị trường và nền giáo dục nhân bản tân tiến của miền Nam.

Bởi vì những chủ trương gọi là “Đổi mới” từ 1986 cho đến “Tái cơ cấu kinh tế” đợt 1, đợt 2 để làm cho đúng “kinh tế thị trường” mà ngóc đầu lên của đảng Cộng sản lại chính là sách lược  kinh tế rất thành công của VNCH mà người Cộng sản đã quáng gà đạp đổ khi chiếm được miền Nam năm 1975!

Bây giờ 72 năm sau ngày 19/8/1945 mà nhân dân vẫn chưa có “tự do, hạnh phúc”, hay “công bằng, dân chủ, văn minh” như “mục tiêu cao cả của Cách mạng Tháng Tám” và chủ trương “Đổi mới” đề ra thì cuộc Cách mạng này có ý nghĩa gì ngoài chiếc bánh vẽ?  -/-

Phạm Trần

(08/017)

Viết cho các cha mới: Duyên Trời

Viết cho các cha mới: Duyên Trời

Tinmungchonguoingheo 

 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

GNsP (24.07.2017) – Đồng Nai – Có nhiều bạn trẻ ngày nay nói với tôi rằng: cha ơi con muốn đi tu, khi tôi hỏi lí do tại sao thì có bạn nói rằng “vì con thấy ở đời ngao ngán quá!”, có bạn nói: tu cho nó sướng . . . và các bạn có hàng vạn cái nhìn khác nhau về đời tu.

Cách riêng ai cũng nghĩ tu là cõi phúc, nhưng có điều “cái phúc” này lại chẳng ai muốn đi. Bằng chứng là số người đi tu ít hơn nhiều so với người lấy vợ. Số người đi tìm hiểu bạn gái nhiều hơn gấp vạn lần so với số người tìm hiểu đời tu. Nhưng có một điều chắc chắn là người đi tu nhìn vẫn thảnh thơi, đỡ vương bụi trần hơn người lập gia đình.

Thực vậy, nhìn từ bên ngoài, người ta luôn thấy đời tu rất đẹp, hệt như một Thiên Đường tại thế. Suốt ngày ăn diện đẹp đẽ, chân tay trắng trẻo, bước đi khoan thai… dường như chẳng phải lo lắng gì bụi trần. Có Chúa lo hết rồi . .. Và nơi các linh mục tu sĩ chúng ta còn thấy nhiều tấm gương tận tụy hy sinh phục vụ người nghèo, người cơ nhỡ, người khuyết tật . . . chúng ta thấy: ôi cuộc đời họ đẹp làm sao!

Thế nhưng, chỉ có những ai sống trong đời tu mới có thể hiểu rõ được sống đời tu thật không dễ tí nào. Đời tu tuy đẹp đấy, nhưng để có thể sống trọn vẹn lý tưởng này, chẳng con người nào có thể tự sức mình mà sống được. Ấy là bởi vì sống đời tu là sống giữa nghịch lý vô cùng căng thẳng của kiếp người. 

Người đi tu là người sống giữa thế gian nhưng không được để mình bị thế gian đụng đến. Họ có đôi chân chạm đất nhưng đầu thì hướng thẳng về trời cao. Họ chọn đời hiến dâng không phải để trốn đời, hận đời, nhưng là để vào đời và yêu mến đời nhiều hơn. Người đi tu cũng vẫn còn đó những ham muốn danh lợi thú nhưng vì Nước Trời họ sẵn sàng dâng hiến tất cả. Họ phải trải rộng tình thương của mình cho người khác, nhưng lại không được để con tim dành riêng cho một người. Họ phải yêu người nhưng không được giữ lại riêng cho mình một ai. Họ yêu nhưng không được nắm giữ. 

Thời gian qua trên mạng Facebook lan truyền bài hát Duyên Phận được linh mục An Bình chế lời, nghe qua sao thấy đời tu hình như đi ngược lại với lẽ thường tình.

Phận làm con trai chưa một lần yêu ai

Giờ lại đi tu thiên hạ nói sao mà khờ dại

Đường đời thênh thang bầu cua tôm cá tối lai rai tới vũ trường.

Chính vì lối sống hưởng thụ này nên người đi tu rất khó toàn tâm tu. Thế nên, anh mới than.

Tội gì đi tu rồi ngày ngày lu bu

Lần hạt đọc kinh mà thấy đâu nghe lời Chúa gọi

Những khi trời mưa một mình ôm gối

Lòng thầm tự hỏi chắc đi tu có được không?

Chưa tu lần nào biết ra làm sao

Tu đã khó phải hy sinh, mà đôi khi còn không biết bề trên có đón chào mình hay không?

Biết trong đường tu có đón chào

Câu kinh nỉ non nguyện xin thẳm sâu

Nguyện đời con xin theo Chúa dài lâu.

Dẫu cho đời con, lắm phiên lầm than

Khấn xin bình an ơn Chúa ban

Cho con thủy chung để con được mong

Nhờ ơn Chúa chắc con sẽ thành công.

Nhưng đã tu là phải tu cho trọn, đã đi là phải đến dầu có nhiều khó khăn.

Rồi ngày khấn hứa con giật mình kêu lên

Một niềm tin yêu giờ bước lên cung điện tuyệt vời.

Một đời xin vâng giờ xin thánh hiến trái tim con cho Vua Trời.

Bỏ lại sau lưng lời ngọt mật khen chê

Địa vị công danh quyền thế cao nay xin bỏ lại

Bước theo đường tu một đời dâng hiến

Làm thành men muối ướp nhân gian cho đời vui.

Quả thực, đời tu là đi ngược vào trào lưu xã hội. Người đi tu thật khác người, và không bình thường. Người bình thường phải yêu, phải chơi thâu đêm suốt sáng nhưng người đi tu lại từ chối yêu một người để tìm tình yêu cho mọi người và còn phải lần hạt đọc kinh đang khi bạn bè vui hát nhảy nhót nơi vũ trường.

Như vậy, người đi tu là từ bỏ, là hi sinh, là chiến đấu với bản thân để dành trọn vẹn linh hồn và thân xác cho Thiên Chúa. Người đi tu là tìm niềm vui trong cái phúc có Thiên Chúa ngay từ đời này. Ngay từ đời này họ đã cảm nghiệm được Thiên Chúa là gia nghiệp, nên họ chọn Chúa và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sống cho Thiên Chúa nên họ không tìm niềm vui cho riêng mình mà họ tìm niềm vui nơi Thiên Chúa, họ phục vụ vì Thiên Chúa, và sống vì Thiên Chúa mà phục vụ tha nhân.

Nhân loại ngày nay đang cần những con người như vậy để cân bằng thế giới chủ nghĩa cá nhân thực dụng. Họ phải sống làm sao giữa một thế giới đang hô hào chuyện hưởng thụ vật chất, sống trụy lạc và tự do cá nhân, người đi tu lại chủ trương chọn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục người khác? Họ phải sống làm chứng nhân cho Chúa dù có mất mát, thua thiệt nhưng phần thưởng rất lớn trên quê trời.

Đây là điều mà Chúa và nhân loại đang cần nơi các linh mục hôm nay. Họ phải sống khác với người thời đại để nói cho nhân loại biết rằng còn một thế giới khác hạnh phúc hơn trần thế này. Người thời nay không cần các linh mục vào vũ trường hay đi tới các nơi chốn ăn chơi xa hoa mà họ cần các linh mục thánh thiện để cầu nguyện cho thế giới bớt đi những tội lỗi trụy lạc. Họ cần các linh mục dám sống từ bỏ công danh để làm chứng cho một xã hội đang tranh giành danh lợi thú dẫn đến thù hận, loại trừ lẫn nhau.

Hôm nay chúng ta mừng ba tân chức đã dám từ bỏ chốn xa hoa để dâng mình cho Chúa. Họ đã dâng hiến tuổi xuân để đọc kinh cầu nguyện, dấn thân phục vụ thay vì như các bạn cùng trang lứa tìm niềm vui cho riêng mình. Các cha mới đã:      

Bỏ lại sau lưng lời ngọt mật khen chê

Địa vị công danh quyền thế cao nay xin bỏ lại

Bước theo đường tu một đời dâng hiến

Làm thành men muối ướp nhân gian cho đời vui.

Cầu chúc cho quý cha luôn hạnh phúc trong đời tu để mang niềm vui và bình an đến cho nhân thế. Xin Chúa chúc lành cho những chọn lựa theo Chúa đầy can đảm của quý cha để từ nay quý cha mãi mãi mang ơn Chúa đến cho mọi người, cách riêng nhờ đời sống thánh thiện và hy sinh phục vụ, quý cha sẽ mãi là chứng nhân cho lòng thương xót Chúa giữa thế giới hưởng thụ hôm nay. Amen.

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Ngôi nhà ba tầng bất ngờ đổ sập trong đêm ở Sài Gòn

Ngôi nhà ba tầng bất ngờ đổ sập trong đêm ở Sài Gòn

Hiện trường vụ sập nhà. (Hình: Báo Thanh Niên)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Khoảng 9 giờ tối 2 Tháng Chín, nhiều người dân sống ở đường Tân Sơn Hòa (phường 2, quận Tân Bình) nghe tiếng răng rắc phát ra từ căn nhà ba tầng, rồi bất ngờ đổ sập, đè lên một căn nhà khác.

Theo báo điện tử VietNamNet, người dân xung quanh phát giác căn nhà ba tầng, số 41 đường Tân Sơn Hòa, có dấu hiệu bị nghiêng nghiêm trọng. Nguyên nhân bị nghiêng là do bị ảnh hưởng của việc thi công đào móng, xây dựng một căn nhà tại hai địa chỉ, số 43 và 45.

Ngay sau đó, vết nứt ở nhà số 41 ngày càng lớn nên người dân hô hoán cho chủ nhà và nhiều người khác chạy ra ngoài. Chỉ một lúc, căn nhà ba tầng bất ngờ đổ sập.

Nhiều nhân chứng cho biết, có một cụ ông khoảng 70 tuổi, người Nam Hàn, trong căn nhà số 47 may mắn thoát chết.

Căn nhà 41 (phải) trước khi bị sập. (Hình: Báo điện tử VietNamNet)

Cũng theo nhân chứng, cụ ông trên bị tật ở chân nên di chuyển chậm. Khi căn nhà nghiêng, ông này được người dân phát giác cõng ra ngoài, ít lâu sau căn nhà đổ sập hoàn toàn.

Theo báo Thanh Niên, tại hiện trường căn nhà ba tầng bị vỡ nát hoàn toàn, nhiều đồ đạc bị chôn vùi trong đổ nát.

Do nhà có độ cao nên khi nghiêng và sập đã đè hoàn toàn lên công trình xây dựng nhà số 43 và 45 và vùi lấp căn nhà số 47.

Đến 11 giờ tối, cơ quan chức năng vẫn đang phong tỏa hiện trường vụ sập nhà trên đường Tân Sơn Hòa. Hiện chưa rõ có người bị mắc kẹt bên trong hay không, nên lực lượng cứu hộ – cứu nạn của sở Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy Sài Gòn, nhân viên y tế vẫn đang túc trực tại hiện trường. (Q.D.)

Khai thác Bauxite: Vấn đề Bảo tồn Văn hóa và Sắc tộc người thiểu số – Ảnh hưởng Văn hóa và Xã hội

Khai thác Bauxite: Vấn đề Bảo tồn Văn hóa và Sắc tộc người thiểu số – Ảnh hưởng Văn hóa và Xã hội

 
Mai Thanh Truyết (Danlambao) – Người thiểu số miền Cao nguyên rất nhạy cảm và có mặc cảm đối với người Việt. Với diện tích Cao nguyên ngày càng thu hẹp vì di dân, từ 1,4 triệu trước năm 1975 cho đến 4 triệu năm 2009, người Thượng có khuynh hướng ngày càng rút sâu vào hướng Tây, đôi khi vượt qua biên giới Lào và Cambodia.
 
Mật độ người Thượng trước năm 1975 chiếm khoảng 90%. Ngày nay, chỉ còn ước tính khoảng 400 ngàn người sinh sống ở vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Điều nầy nói lên việc khai thác quặng bauxite tại vùng nầy càng làm cho sự việc càng nghiêm trọng hơn đối với họ. Theo thống kê của World Bank năm 2008, tỷ lệ người Thượng hiện đang sống dưới mức nghèo đói là 72%.
 
Đối với những người ở lại bám đất, vì đất canh tác càng bị thu hẹp, gia đình có nguy cơ làm không đủ ăn. Do đó, các lao động chính của gia đình cần phải tha phương cầu thực. Vô hình chung, gia đình sẽ bị xáo trộn và có thể đưa đến ly tan. Con cái của họ, vì thiếu vắng cột trụ của gia đình có thể đi vào vòng sa đọa. Đây có thể là viễn ảnh của xã hội trong một tương lai không xa nếu, TC “thực sự” khai thác hay “chiếm đóng” Cao nguyên Trung phần Việt Nam.
 
Đứng về phượng diện địa lý, tỉnh Đắk Nông được bao bọc bởi tỉnh Đắk Lắc về phía Bắc, Lâm Đồng về hướng Đông Nam, tỉnh Bình Phước và giáp với biên giới Cambodia về hướng Tây. Gia Nghĩa là trị trấn của Đắk Nông, cách Sài Gòn 245 km, Phan Thiết 180 km. Còn Lâm Đồng được bao bọc bởi các tỉnh Đắk Lắc, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, và Sông Bé.
 
Tỉnh Đắk Nông chiếm diện tích 6.510 km2, có độ cao trung bình từ 600 đến 700m, nhưng cũng có nhiều nơi chiếm cao độ trên 1.900m. Về dân số, có 417 người năm 2007 gồm đa số 80% người Kinh (Việt Nam) và 31 sắc tộc thiểu số trong đó người M’nong, Tay, Ede chiếm đa số. Mật độ trung bình là 64 người/km2 và có 15% dân sống trong các thành phố. Thu nhập đầu người cho năm 2006 là 7,7 triệu/năm (~US$350).
 
Đắk Nông được bao phủ bởi rừng rậm chiếm 64%, trong đó gồm 87% là rừng thiên nhiên, 2% rừng trồng cây công nghiệp, và 11% đất hoang.
 
Nói về ảnh hưởng của xã hội và xáo trộn văn hóa một khi CSVN cho TC khai thác bauxite vùng nầy, chúng ta, trước hết có thể nêu một thí dụ điển hình ở tỉnh Pleiku ảnh hưởng lên người dân Jarai chỉ sau một thời Việt Nam phát triển vùng từ sau 1975.
 
1- Tỉnh Pleiku
 
Tiến sĩ Matthieu Guérin, Giáo sư Trưởng khoa Sử Hiện đại của Viện Đại Học Caen và chuyên viên nghiên cứu nền Văn hóa dân tộc Jarai tại Pleiku nhấn mạnh “Chỉ cần có 30 năm là đủ để hủy hoại toàn bộ khu “Rừng Muôn Thánh” (la forêt des mille génies). “Cuộc tàn phá bắt đầu ngay vào những ngày đầu những ngày “Thống Nhất” đất nước Việt Nam năm 1975″ đã gây sự chú ý của các thính giả trong buổi nói chuyện ở Đại học Sorbonne vào tháng 2/2009 về cuộc tàn phá rừng già và cướp đất ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam.
 
Hiện tượng một nền nông nghiệp lương thực (của người dân tộc Jarai) được biến thành một nền nông nghiệp công nghệ và thương mãi dài hạn ngày nay đã lên đến một mức độ trầm trọng có nguy cơ đến tương lai của người Jarai. “Trước hoàn cảnh bị cướp đất có kế hoạch, người dân Jarai trước chỉ biết lùi sâu vào vùng rừng già. Nhưng ngày nay, gần như không còn rừng già nữa, và họ đang bị đưa vào bẩy sập. Không biết làm sao hơn, hoặc là chấp nhận số phận, hoặc bị đồng hóa vào dân tộc Kinh, hoặc là kêu gọi mở ra một cuộc đấu tranh đầy tuyệt vọng”.
 
Thật vậy, đây là một nền Văn hóa đang bị hủy hoại. Cách đây không bao lâu, người dân tộc Jarai di săn cọp trong những khu rừng già (của họ), câu cá trên những dòng nước chảy xiết, hái hoa, hái trái, đốt rừng làm rẩy… và dân tộc Jarai, những đứa con của rừng lớn lên, sanh hoạt trong rừng, và sống với rừng. Và còn hơn thế nữa, dân tộc Jarai có một mối tương quan đặc biệt và mật thiết với rừng, họ với rừng mà một, như những tài liệu nghiên cứu của nhà truyền giáo – nhân chủng học Jacques Dournes đã chứng minh. Nhưng ngày nay “Hãy tưởng tượng rằng trong vòng chỉ 30 năm ngắn ngủi, quý bạn đang nhìn thấy gia tài văn hóa của quý bạn đang bị tiêu hủy và trên đường sụp đổ” – Tiến sĩ Matthieu Guérin nói tiếp. “Đó là những gì hiện đang xảy ra với dân tộc Jarai. Nếu họ không hòa đồng, nếu họ không chấp nhận lối sống của người Kinh, và nếu họ không chấp nhận lối sống định cư, họ sẽ không còn nơi cư ngụ. Và để kết luận chúng tôi gọi đây là một loại diệt nhân chủng (ethnocide)”.
 
Ngày nay tại thành phố Pleiku, thủ phủ Tỉnh Gia Rai, có 200 ngàn người Việt gốc Kinh và 40 ngàn người dân tộc Jarai. Để so sánh, trước Đệ nhị thế chiến, tỷ số dân Thượng ở Tây nguyên Trung Phần Việt Nam là 93%.
 
Ngày nay nếu ta đến viếng Pleiku, từng một thời được nhắc đến như là một thành “phố núi cao” thơ mộng, của các “em Pleiku má đỏ môi hồng”, thì nay, không còn cảnh thiên nhiên nên thơ gần gũi để chỉ “đi năm phút đã về chốn cũ” nữa, mà sẽ chỉ thấy một thị xã tân thời, đầy những cao ốc, với những nạn kẹt xe, bụi bặm, ồn ào bởi những tiếng xe gắn máy, chúng ta chỉ tìm thấy bóng người Thượng, người dân tộc Jarai ở tụ tập (bị vất) bên ven bờ thành phố, trong những nhà tôn, vách ván trên nền đất nện tạo thành những khu nhà bình dân (ghetto) điêu tàn, dơ dáy…
 
Đừng nghĩ rằng tình trạng kinh tế của dân tộc Jarai khá hơn lúc trước vì nhờ nền kinh tế vùng Cao nguyên đã phát triển. Rất ít gia đình người dân tộc có điện vào nhà, và rất hiếm nhà người dân tộc có TV, ta có thể kết luận nhà người dân tộc Jarai sống cũng giống như giấc mơ của họ: tí ti, tạm sống qua ngày.
 
2- Giấc mơ thực sự của họ ư? 
 
Họ mong Nhà nước CSVN trả đất lại cho họ. Trả đất của tổ tiên họ cho họ. Và có thể cho phép họ được tự do thờ phượng, như Hiến Pháp nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” đã quy định. Họ có xin quyền Tự chủ không? Thật sự mà nói cũng có vài người có nghĩ đến, nhưng đó là một chuyện khác. Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm họ, chắc chắn là họ xót xa vì mảnh đất quê hương họ bị giày xéo. Ước mơ giản dị nhất của người Jarai không gì khác hơn là được sống yên ổn làm ăn. Nhưng nào có được?
 
Trước những tình trạng đói khổ và những đòi hỏi nhân quyền này, rất dễ đưa đến những sự xung đột; và quả thật điều này đã xảy ra: Cuộc cưỡng chiếm đất của Nhà nước để quy hoạch cho công nghệ, một chuyện ép giá của một chủ xí nghiệp tư để mua đất,… và còn nhiều chuyện không được các cơ quan cầm quyền địa phương xử lý công bằng đã đem lại một cuộc nổi dậy và cuộc đàn áp dữ dội đổ máu vào năm 2001.
 
Trở qua vấn đề khai thác quặng bauxite tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam, hay đúng hơn tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông), người Thượng là tiếng gọi chung để gọi toàn thể các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên Trung phần Việt nam: Jarai, Bahnar, Rhadé, Sédang, Koho, Bru, Pacoh, Katu, Sré. Có tất cả là 31 dân tộc khác nhau gọi chung theo một từ chung (cấm) là Degar, có nghĩa là “những người con của rừng núi”.
 
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trước khi xảy ra “chiến dịch rêu rao” “khai thác quặng Bauxite” này của nhà nước CSVN, họ cũng đã từng bị chèn ép lấn đất, lấn rừng, cấm đạo rồi… Nhưng vì thấp cổ bé miệng họ đành nhẫn nhục chịu đựng, sau khi đã chống đối không xong. Cuối cùng, rất nhiều người đã phải bỏ rừng bỏ rẫy tìm đường ra đi. Ra đi trong uất ức và đau xót vì có lắm người đã phải để vợ, con ở lại. Hiện nay Canada là nơi đang đón nhận người tị nạn Jarai từ mấy năm nay. Cho đến bây giờ thì tình trạng cưỡng bức đã trở nên toàn diện, lộ liễu và có kế hoạch.
 
Vậy thì xin hỏi: Đằng sau tất cả mọi sự cưỡng chiếm đất đai của đồng bào thiểu số, và vụ “khai thác quặng bauxit” ở Cao nguyên Nam Trung phần là do thế lực nào thúc đẩy, và với mục đích gì?
 
Bài học ở Pleiku kể trên, cho thấy sự việc lại tái diễn ở hai vùng đất nêu trên (Tân Rai và Nhân Cơ) nhưng dưới một hình thức khác. Nói theo kiểu quân sự thì việc CSVN bề ngoài thì hô hào việc khai thác Bauxite (gọi là “DIỆN”) mà kỳ thực bên trong là nhà nước CSVN đã giao khoán cho TC toàn quyền khai thác hai vùng nầy (tức là “ĐIỂM”). Do đó, nhiều vấn đề không thuận lợi cho người địa phương tức người Thượng có thể nảy sinh trước sự hiện diện của một dân tộc ngoại quốc chiếm đóng và khai thác.
 
3- Tập quán người thiểu số ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam
 
Người Thượng là tên gọi chung của hơn 20 sắc tộc thiểu số sống ở cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ngày hôm nay, căn cứ vào Hiến chương LHQ vào năm 1986, họ còn có được tên gọi là “dân tộc bản địa” (indigenous people). Họ sống theo từng bản làng, canh tác và chăn nuôi vẫn còn mang tính cách du mục nghĩa là canh tác theo mùa. Sau mỗi mùa thu hoạch, họ di chuyển và canh tác ở một nơi khác. Thông thường, một chu kỳ đất của họ là ba năm, nghĩa là họ để cho đất nghị ban mùa rổi trở lại khai thác nghề trồng trọt.
 
Sau năm 1975, CSVN cho di dân từ miền Bắc vào. Khi thấy một mãnh đất trống nào do người Thượng vừa rời khỏi để đi canh tác ở một nơi khác, những người di dân mới tới chiếm đất, và họ giữ luôn để làm tài sản cho riêng họ. Chính vì vậy mà sau chu kỳ ba năm, người Thượng không còn nơi canh tác nữa.
 
Chu kỳ bị tắt nghẻn. Và đây chính là một trong những lý do khiến người Thượng phải “di chuyển” vào tận rừng sâu.
 
Ngay cả từ thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, chính phủ cũng đã thiết lập những khu “Sinh sống chính” cho đồng bào Thượng. Nhưng cũng có những lạm dụng của một số nhà cầm quyền địa phương và tướng lãnh, lợi dụng uy thế, chiếm một số không nhỏ đất đai dành cho người Thượng. Điều nầy cũng là nguyên nhân đẩy họ phải vào rừng sâu.
 
Và nguyên nhân sau cùng và tệ hại hơn cả là các dự án khai thác Bauxite ở Lâm Đồng và Đắk Nông… khiến cho người Thượng hầu như không còn đất sống. Rất nhiều bản làng “phải” trốn chạy qua Lào, hoặc Cao Miên và xin tỵ nạn tai Hoa Ky.. Tình trạng nầy vẫn còn tiếp tục cho đến tận hôm nay.
 
Người Thượng ở Việt Nam có nhiều phong tục, tập quán, cung cách sống và sinh hoạt đặc biệt khác xa với người Kinh (người Việt Nam). Nhiều chương trình phát triển miền Cao nguyên dưới thời Việt Nam Cộng Hòa cũng không đem lại sự ổn định hay làm tăng mức sống của người Thượng cũng vì không nghiên cứu tường tận nhu cầu thực sự của họ.
 
Hai địa điểm hiện đang được khai thác là Nhân Cơ, Đắk Nông nằm về phía Tây của thị xã Đà Lạt và cách trung tâm này khoảng 40 Km. Còn địa điểm Tân Rai ở xã Lộc Thắng nằm về phía Bắc của thị xã Bảo Lộc và cách 15 Km.
 
Ngày nay, CSVN lại áp dụng một chính sách áp đặt và cung cách cư xử với họ càng khắc nghiệt hơn hoàn toàn không ứng hợp với nguyện vọng của họ. Từ đó nảy sinh ra nhiều hệ lụy có thể gây ra sự đổ vỡ mối liên hệ Kinh-Thượng vốn đã không thể hiện một cách công bằng và bình đẳng.
 
Sau đây là những sự kiện và hệ lụy đang và tiếp tục xảy ra khi sự xâm nhập của TC vào công cuộc khai thác bauxite ở vùng cao nguyên.
 
– Việc chiếm đất để làm công trường khai thác hay xây dựng cơ xưởng của TC và Việt Nam, cũng như việc áp đặt và chuyển dời người thiểu số là một vần đề hệ trọng chứ không đơn thuần là một bài toán cần phải giải quyết như tịch thu đất đai và đền bù cũng như di dời người thiểu số.
 
– Việc chọn chỗ mới cho việc di dời theo quan điểm của CSVN chỉ là một việc đơn giản, nghĩa là tìm cho họ một vùng đất nào đó để họ ở, sinh sống, và “tìm miếng ăn”. Nhưng thực sự, người Thượng chú trọng nhiều đến phong tục, thổ nhưỡng, và nhất là truyền thống sinh hoạt thôn xóm ngay cả việc đào giếng hay làm cổng vào làng cũng là một việc hết sức tế nhị cần nghiên cứu. Nếu không, họ, sau khi bị tập trung lại, sẽ chỉ ở một thời gian ngắn rồi bỏ đi…
 
– Đối với việc di dời, ai là người chịu trách nhiệm trực tiếp? Đất đã khoán cho TC, mà sao trách nhiệm di dời lại để cho nhà cầm quyền địa phương, một cơ quan không có phương tiện tài chánh để thực hiện việc di dời cũng như đền bù thiệt hại. Địa phương chỉ có khả năng cung cấp “đất hoang” mà thôi, hoàn toàn không đủ nghiên cứu để cứu xét tính cách khả thi của đất cho nông nghiệp hay không, một việc cốt lỏi của sự sinh tồn của người Thượng. Do đó, sự di dời đã xảy ra từ 2006 đến nay vẫn còn tồn đọng và hiện tại vẫn còn hơn 500 gia đình người Thượng vẫn chưa được sắp xếp và đang còn trong vòng tranh chấp.
 
– So với phong tục đặc biệt của người Thượng, việc thay đổi nếp sống “văn minh” chưa hẳn làm cho họ có thêm nguồn phúc lợi và hạnh phúc; nhưng trái lại, có thể làm cho việc di dời trở nên phức tạp hơn. Kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa trong việc làm nhà mái tole, dẫn nước sinh hoạt vào nhà, làm nhà vệ sinh bên trong nhà hoàn toàn không ứng hợp với tập quán của họ. Việc rời bỏ các khu định cư để đi sâu vào rừng trước năm 1975 là một kinh nghiệm quý báu cho nhà cầm quyền hiện tại trong chính sách đối với người Thượng.
 
– Thêm một hệ lụy có nhiều xác suất xảy ra là tiền đền bù. Theo như tin tức Việt Nam thì số tiền đền bù không xứng đáng với tài sản, đất đai, nhà cửa và hoa màu của người Thượng bị di dời. Nhiều vụ kiện đang còn kéo dài ở Tân Rai vì đất mới được cung cấp và số tiền bồi thường không đủ để cất nhà giống như ngôi nhà cũ lấy chi để tạo dựng lại cuộc sống mới. Cũng như cần phải tính thêm những sự ăn chận, tham những, ép buộc của địa phương trong việc áp dụng chính sách di dời.
 
– Từ những yếu tố vừa kể trên chúng ta thấy không thể khoán cho địa phương mà cần phải có chính sách chung và thống nhất từ trung ương cũng như việc thực hiện cần phải có sự giám sát chặt chẽ, nghiên cứu địa chất tường tận, và nhất là cần nghiên cứu yếu tố tôn giáo… để từ đó giải thích rõ ràng cho người dân lý do vì sao họ phải dời đi nơi khác. Làm được như thế thì sự dời đổi sẽ bớt đi nhiều khó khăn và cuộc sống người dân sẽ bớt phiền toái ngõ hầu có thể sớm được ổn định trong cuộc sống mới.)
 
– Sau cùng, đối với sự tín ngưỡng và phong tục của người Thượng, vai trò của ông “Già Làng” rất quan trọng, vì là một ngôi vị tối cao của một làng. Mọi người già trẻ lớn bé đều phải thực hiện, làm đúng những mệnh lệnh, khuyến cáo của “Già Làng”, hoàn toàn không có một ngoại lệ nào. Do đó, nhà cầm quyền cần phải giải thích, thuyết phục chính sách di dân, đừng để Già Làng còn nhiều nghi ngờ ảnh hưởng không tốt đến việc di chuyển, dời đổi người dân. Điều quan trọng nhứt là đừng dối gạt niềm tin của người Thượng qua sự chơn chất của họ. Nếu sai phạm, mọi chính sách di dời sẽ bị đổ vỡ và họ sẽ rút vào rừng sâu…
 
Qua những yếu tố phân tích trên đây, chúng ta thấy quả thật người Thượng rất nhạy cảm trong cung cách đối xử hiện tại của CSVN. Ngày nay, với sự hiện diện của ngoại bang, người Hán, chắc chắn trong tương lai sự mâu thuẫn giữa hai sắc dân kể trên sẽ làm cho vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam biến thái theo chiều hướng bất thuận lợi cho người Thượng.
 
4- Chính sách Hoa Kỳ và Việt Nam đối với người thiểu số
 
Đặc biệt có hai điểm cần lưu ý về chính sách đối với người Thượng từ sau 1975 về phía Hoa Kỳ và CSVN.
 
– Do chính sách muốn tạo ảnh hưởng, ngay từ sau khi Việt Nam hoàn toàn nằm trong tay CS, Hoa Kỳ bằng mọi phương tiện đã đẩy mạnh mức độ xâm nhập vào miền Cao nguyên Trung phần qua sự phát triển phong trào gia nhập vào đạo Tin lành của dân tộc thiểu số. Có thể nói, sau hơn 40 năm, Hoa Kỳ đã đạt được thành quả là lực lượng tín đồ Thượng hiện nay là một lực lượng đáng kể ở vùng này nhất là ở những thị xã hoặc thành phố.
 
– Trong lúc đó, CSVN cũng cố gắng ngay từ đầu đào tạo một tầng lớp cán bộ người Thượng đề làm nồng cốt cho công cuộc “quản lý” người thiểu số.
 
Cà hai chính sách nầy đã đào tạo một số nhân sự có trình độ, tuy ở hai chiều hướng và mục đích khác nhau, nhưng rốt ráo lại, tuyệt đại đa số người Thượng vẫn không gia nhập vào hai khuynh hướng trên và tiếp tục theo sự hướng dẫn của Già Làng mà rút sâu vào nội địa.
 
Kết quả tiên liệu cho tương lai qua những hiện tượng đã xảy ra ngay từ sau khi chiếm toàn cõi Việt Nam, sĩ số người Thượng sống trong vùng nầy bị giảm đi hằn. Họ đã trốn chạy vào rừng sâu, qua Cambodia và Lào. Và cuối cùng, nhiều người đã phải xin tị nạn chính trị tại nước thứ ba, như đã nói trên.
 
Trong một tương lai không xa nữa, viễn ảnh không còn sự hiện diện của nhiều sắc dân thiểu số sống trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam qua việc khai thác bauxite của TC không phải là điều không tưởng. Và nóc nhà của Việt Nam, thảm thực vật che chở cho sức sống của người Việt sẽ bị hủy diệt cả về hệ sinh thái lẫn tính đa dạng xã hội của vùng này…
 
5- Kết luận
 
Để kết luận, việc “giúp đỡ” người Thượng là giúp đỡ kinh tế cho họ cải thiện đời sống, là giúp họ hiểu và khai triển khái niệm về sự tiến bộ của con người. Nhưng tuyệt đối, phải biết tôn trọng dị biệt văn hóa của người Thượng, không được áp đặt những gì đi ngược lại truyền thống của họ. Hơn nữa, nếu những người cầm quyền hiện tại, nếu còn một chút nhứt điểm lương tâm để thấy rằng không nên đặt họ, những đồng bào thiểu số, những người con của đất trời thiên nhiên vào hoàn cảnh hay tâm trạng của những kẻ “mất” quê hương để phải “sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn, với cái “cảnh sơn lâm bóng cả cây già”, với “tiếng gió gào ngàn”, với “giọng nguồn thét núi” như Hổ Nhớ Rừng của Thế Lữ. Tội nghiệp cho những đồng bào thiểu số bơ vơ nầy đã bị chèn ép, đàn áp đến “ba tầng áp bức” và đã bị dồn đến chân tường!
 
Và rốt ráo hơn nữa là đừng để Vùng Cao nguyên Nam Trung phần việt Nam biến thành những khu “biệt lập người Da đỏ” (Indian reserve) kiểu Mỹ, chuyên biểu diễn Múa Vũ Văn Hóa cho các đoàn du khách ngoại quốc đến thăm viếng.
 
Thiết nghĩ, hình ảnh của Người Thượng hiện tại như đã mô tả ở phần trên sẽ là hình ảnh trong tương lai của họ ở Việt Nam, nếu còn sự cai trị của Cộng sản Việt Nam.
 
03/09/2017
 
Hội Khoa học & Kỹ Thuật Việt Nam (VAST)
 

Khi nào thì một dân tộc xem như đã mất nước?

Song Chi
2017-09-01
 

Công nhân đô thị đang sắp xếp các chậu hoa trang trí nhân 72 năm quốc khánh hôm 31/8/2017 ở một công viên tại Hà Nội

Công nhân đô thị đang sắp xếp các chậu hoa trang trí nhân 72 năm quốc khánh hôm 31/8/2017 ở một công viên tại Hà Nội

 AFP
 
 Khi nào thì một dân tộc xem như đã mất nước?

Khi độc lập về chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải bị xâm phạm thường xuyên mà nhà cầm quyền của nước đó chả dám phản ứng gì.

Khi những người lãnh đạo cao nhất quỵ lụy, coi kẻ thù là thầy, là bạn, còn nhân dân lả kẻ thù.

Khi các quan chức từ trên xuống dưới bắt tay hợp tác với giặc, mở toang cửa cho giặc vào thuê đất dài hạn khắp nơi từ Nam ra Bắc, rước giặc vào nhà làm ăn, xả rác, gây ô nhiễm môi trường và gây ra đủ mọi tác hại lâu dài cho đất nước, dân tộc.

Khi các quan chức từ trên xuống dưới chỉ biết chạy theo chức tước và tiền, chỉ biết vơ vét, chụp giựt cho đầy túi tham, bất chấp hậu quả gây ra cho đất nước, nhân dân.

Khi người dân chỉ biết chịu đựng, và chỉ biết lo làm ăn để vun vén cho bản thân và gia đình, chuyện chính trị, chuyện lớn đã có nhà nước lo, chính phủ lo.

Khi những người có tài có tâm thật sự với nước với dân thì không được sử dụng hoặc tệ hơn, bị xách nhiễu, tống giam vào tù với những bản án bất công, man rợ chỉ vì dám lên tiếng nói sự thật, còn những kẻ bất tài, cơ hội, bán nước buôn dân thì lại chiếm lấy những chỗ ngồi cao nhất để tiếp tục vơ vét và phá hoại.

Khi trí thức, nghệ sĩ cũng chỉ lo kèn cựa nhau cái danh hão, cái bổng lộc, hoặc khúm núm xum xoe dùng ngòi bút, tiếng hát, nét vẽ…để phục vụ nhà cầm quyền, còn giới trẻ thì mãi ăn chơi, hưởng thụ, khóc cười với những “thần tượng” showbiz, bóng đá hay chuyện đời tư của giới biểu diễn…

Khi nỗi đau về mọi chuyện bất công, phi lý, trái tai gai mắt xảy ra hàng ngày chỉ còn đủ sức làm cho người ta xúc động trong giây lát rồi quên; khi nỗi nhục đất nước bị tụt hậu, thua kém xa các nước khác, hình ảnh đất nước cho tới người dân trong mắt thế giới chỉ toàn là tiêu cực, xấu xa, nhưng cũng chỉ đủ làm cho người ta phẫn nộ, tủi hổ trong giây lát rồi quên…

Khi đối với tất cả, Tổ Quốc không còn là giang sơn phải gìn giữ nâng niu, quê hương không còn là ngôi nhà chung phải vun đắp cho một tương lai chung. Trái lại, quê hương chỉ là cái quán trọ, là nơi ở tạm, còn tương lai lâu dài lại nằm ở một đất nước khác.

Thì quốc gia ấy xem như đã mất, chỉ còn lại cái “vỏ” bên ngoài. Dân tộc ấy xem như đã lưu vong ngay trên chính quê hương mình.

Và đó chính là thành quả của đảng và nhà nước cộng sản sau 72 năm ngày 2.9 (2.9.1945-2.9.2017), ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Quyền được đi học xem ra quá khó khăn đối với trẻ em dân nghèo !!!

From facebook:Ngua O Chu shared Diệp Tú Cường‘s post.
Quyền được đi học xem ra quá khó khăn đối với trẻ em dân nghèo !!!
No automatic alt text available.
Diệp Tú Cường

11 hrs ·

Con em mình đi học là vì đi học thêm kiến thức để nên người.

Đi học để lớn lên trở thành những người có ích cho xã hội và đất nước.

Cho con em đi học là nghĩa vụ của toàn dân và toàn đất nước.

Vậy mà con đường đi học lắm gian nan.

Học phí chỉ chiếm khoảng hơn 10 % tổng số chi phí Phải đóng để cho con em mình được đi học, cuối cùng con em chúng ta đi học vì cái gì? Nhà Trường thu tiền học vì cái gì?
Phải chăng đi học và thu tiền học là một hình thức cho ai đó kiếm thêm thu nhập?
Đối với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn hoặc có từ hai con trở lên đi học phải chăng họ nên lựa chọn con đường chịu thất học vì không thể nào đáp ứng nổi lòng tham của một số bộ phận trong ngành giáo dục?

Hôm nay là tròn 64 năm, ngày cụ bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) bị xử tử.

From facebook:  Thuong Phan shared Dang Tuong‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, hat and closeup
Dang Tuong

 

Hôm nay là tròn 64 năm, ngày cụ bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) bị xử tử. Làm cách nào một người yêu nước, góp cho cách mạng 800 lạng vàng như cụ bà lại bị cách mạng xử tử? Đó là những câu chuyện rất lạ của một thời lịch sử.

Bà Cát Hanh Long (tên hiệu trong buôn bán giao dịch của bà Năm) sinh năm 1906, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội, vốn là một người đàn bà giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, từ nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán tơ, sắt vụn, bà đã sớm thành đạt trên thương trường, xây nhà tậu ruộng…

Nhà giàu, được giác ngộ nên bà Năm trở thành nguồn cung cấp tài chính cho cách mạng thời từ trước tháng 9 năm 1945 mà bây giờ gia đình tập hợp lại thành một hồ sơ dày đặc từ việc góp 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương bẩy trăm lạng vàng đến thóc gạo, vải vóc, nhà cửa …

Dù đã đứng tuổi theo quan niệm đương thời, nhưng người phụ nữ 40 tuổi của thành phố cảng ấy đã phóng xe nhà treo cờ đỏ sao vàng từ Hải Phòng lên thẳng chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền.

Sau năm 1945, bà Năm tản cư theo cách mạng lên chiến khu, và mua lại hai đồn điền lớn của “một ông Tây què” tại Thái Nguyên. Hai con trai bà đều đi theo kháng chiến. Khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức “Tuần lễ vàng”, bà đóng góp hơn 100 lạng vàng. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc, trong đó có 3 năm làm Chủ tịch hội Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên. Khi thực hiện lệnh “tiêu thổ kháng chiến”, bà đã cho san bằng khu biệt thự Đồng Bẩm tại Thái Nguyên..

Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà. Bà Nguyễn Thị Năm cũng từng nuôi ăn, giúp đỡ nhiều cán bộ Việt Minh sau này giữ những cương vị quan trọng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị…

Khi Cuộc cải cách ruộng đất triển khai vào năm 1953, những hành động yêu nước của Nguyễn Thị Năm bị cho là “giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại.” và bà trở thành địa chủ đầu tiên bị đem ra “xử lý”. Bà bị lên án với tội danh “tư sản địa chủ cường hào gian ác”.

Trong bài viết “Địa chủ ác ghê” của C.B trên báo Nhân dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 có kể tội bà là “Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người…Giết chết 14 nông dân, Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân…”. Cũng theo đó, Nguyễn Thị Năm đã “thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến” và cũng theo đó thì Nguyễn Thị Năm “không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác”.

Sau những cuộc đấu tố với đủ các thứ tội ác được gán ghép bà đã bị đem ra xử bắn ở Đồng Bẩm, tỉnh Thái Nguyên lúc 8 giờ tối ngày 29 tháng Năm Âm lịch năm 1953. Khi bà vừa tuổi 47.

“Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy có gì nên cứ lạy van “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh.” Du kích quát: “đưa đi chỗ giam khác thôi, im!.” Bà ta vừa quay người thì mấy loạt tiểu liên nổ ngay sát lưng. Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất. Và không được lộ là mua chôn địa chủ. Sợ như thế sẽ đề cao uy thế uy lực địa chủ mà. Khổ tớ, đi mua cứ bị nhà hàng thắc mắc chưa thấy ai đi mua áo cho người nhà mà cứ đòi cái rẻ tiền nhất. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?” Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy…” – Hồi ký Đèn Cù của Trần Đĩnh.

Ông Nguyễn Hanh, con trai bà Năm kể rằng khi mẹ ông bị xử bắn, ông đang cùng đơn vị ở Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Người ta giấu ông mọi tin tức từ trong nước. Hai tháng sau, cuối tháng 6/1953 ông được đưa về nước, bị tống ngay vào trại giam ở Tuyên Quang vì là con của địa chủ gian ác. Năm 1954 ông mới được nghe bà vợ ông đến trại để thăm nuôi kể rõ về sự kiện bi thảm này. Em ruột ông Hanh là Nguyễn Cát, bí danh là Hoàng Công, cả 2 anh em đều hoạt động từ thời kỳ tiền khởi nghĩa 1944 ở vùng Đình Cả, Vũ Nhai. Hoàng Công từng là trung đoàn trưởng của sư đoàn Quân Tiên Phong 308, cũng bị đưa vào trại cải tạo năm 1953, năm 1956 mới được tự do, đau ốm, đến năm 1989 chết thảm trong một tai nạn xe máy.

Năm 1993, sau 40 năm tìm kiếm rất kiên trì, gia đình ông Hanh mới tìm thấy di hài bà Năm cạnh một ao sen, ở bên gốc cây phượng hoa đỏ nhờ chiếc vòng ngọc bám chặt cổ tay và chiếc răng vàng cũng như 2 đầu đạn, bà Cúc vợ ông Hanh cho hay sở dĩ chiếc vòng ấy còn vì bà Năm đeo từ hồi trẻ nó thít chặt vào cườm tay, khi đấu tố có người đã cố rút ra nhưng không được. Di hài bà Năm được đưa về nằm bên mộ chồng là làng Đại Kim, Thanh Trì, Hà Nội.

Cụ ông Nguyễn Hanh, người đảng viên Cộng sản khi mới 21 tuổi, người sỹ quan QĐND cấp trung đoàn khi mới 24 tuổi đã mất sạch mọi thứ, từ bà mẹ nhân hậu đảm đang bị 2 phát đạn oan khiên, đến nhà cửa, tiền bạc, công danh, nay thổ lộ rằng từ 1993 ông đã gửi hàng vài chục lá thư đề nghị các đời Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng… xét cho 2 điều: công nhận mẹ ông, bà Nguyễn Thị Năm là người có thành tích, có công đóng góp cho cách mạng, truy thưởng cho bà Huân chương Kháng chiến, và công nhận Bà là Liệt sỹ, nhưng không một ai trả lời.

Điều duy nhất ông nhận được đến nay là công văn tháng 6 năm 1987 của ban tổ chức tỉnh ủy Thái Nguyên, quy định lại thành phần giai cấp của bà mẹ là “Tư sản – địa chủ kháng chiến”. 

Ông than thở: “Mẹ tôi từng nuôi dưỡng, che chở cho cả sư đoàn bộ đội, cán bộ, nhiều người biết chuyện nhưng đã cao tuổi, nên sau khi họ mất đi thì mọi chuyện sẽ rơi vào quên lãng”.

Ảnh Bà Nguyễn Thị Năm (1906-1953) lúc khoảng ngoài 40 tuổi.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/…/Chuyen-ve-nguoi-phu-nu-tung-bi-x…/

HỮNG ANH HÙNG “PHẢN ĐỘNG” NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT.

Image may contain: text
Dang Tuong

 

NHỮNG ANH HÙNG “PHẢN ĐỘNG” NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT.

5. Ngô Quyền: Không chấp nhận “hợp tác toàn diện” với Trung Quốc, dám cùng với “các thế lực thù địch” đứng lên đòi độc lập.

4. Nguyễn Trãi: Kích động nhân dân bằng bài “Bình Ngô Đại Cáo”. Không chấp nhận định hướng “ổn định lâu dài”.

3. Trần Quốc Tuấn: Kích động quân đội bằng bài “Hịch Tướng Sĩ”. Phá hoại “lý tưởng tương thông” giữa hai quốc gia.

2. Lý Thường Kiệt: Kích động nhân dân bằng bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”. Tổ chức xâm lăng Trung Quốc. Phá hoại tình “láng giềng hữu nghị”.

1. Trưng Trắc và tòng phạm Trưng Nhị: Không chấp nhận phương châm “văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan” do lãnh đạo Trung Quốc đưa ra. Phá hoại an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

Cô nhét 2500 trẻ em vào quan tài, sau khi bị bắt, đánh gãy chân nhưng không nói sự thật, cuối cùng ai cũng rơi lệ

Cô nhét 2500 trẻ em vào quan tài, sau khi bị bắt, đánh gãy chân nhưng không nói sự thật, cuối cùng ai cũng rơi lệ

Daikynguyenvn.com

Trên thế giới có rất nhiều người dám quên mình vì người khác, âm thầm giúp đỡ mà không cần được đền đáp. Họ chỉ là những con người với thân phận rất đỗi bình thường nhưng việc họ làm quả thật vô cùng vĩ đại. Nữ y tá Irena Sendler người Ba Lan là một ví dụ, những việc cô đã làm trong cuộc đời thật xứng để con người trên thế giới truyền tụng và ngợi ca.

Irena Sendler sinh năm 1910 tại Warsaw, Ba Lan. Cha là bác sĩ duy nhất trong một thị trấn nhỏ, cả cuộc đời ông đều đi cứu giúp người nghèo. Ông bị lây bệnh khi đang điều trị thương hàn và qua đời vì chứng bệnh sốt phát ban khi Irena mới 7 tuổi. Sự hy sinh quên mình của cha đã trở thành tấm gương vĩ đại cho cuộc đời cô sau này. Một lý tưởng mà cha truyền lại khiến Irena nhớ mãi: “Hãy cứu giúp người cần giúp đỡ.

Trước khi cha qua đời, ông còn nhắn nhủ Irena rằng: “Nếu thấy người sắp chết đuối thì dù không biết bơi con cũng phải nghĩ cách cứu họ.

▼ Lớn lên, Irena đã đi theo bước chân của cha mình. Cô trở thành một y tá thuộc Bộ phúc lợi xã hội tại Warsaw với công việc phụ trách cung cấp đồ ăn và quần áo cho các gia đình. Thời điểm đó, làn sóng bài xích người Do Thái đã lan rộng khắp châu Âu, nhưng Irena không chấp nhận thành kiến phân biệt này. Cô luôn chủ động giúp đỡ những gia đình người Do Thái.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, rất nhiều gia đình người Do Thái sống tại Warsaw bị quân chính phủ lúc đó do Đức quốc xã cầm đầu giam giữ. Thời điểm đó, Irena đã bí mật lấy đồ ăn cùng nhu yếu phẩm sinh hoạt để trợ giúp những người Do Thái này. Nhưng đến năm 1942, Warsaw có đến 50 ngàn người Do Thái bị xử quyết. Chứng kiến tình huống đau xót như vậy, Irena dứt khoát quyết định gia nhập Ủy ban viện trợ người Do Thái (Zegota), nhất tâm cứu tính mạng họ đến hơi thở cuối cùng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Irena đã mạo hiểm cả tính mạng mình, âm thầm thành lập mạng lưới cứu giúp em nhỏ người Do Thái chạy trốn. Cô dùng danh nghĩa nhân viên công tác xã hội tiến vào trại tập trung và bí mật mang theo các em nhỏ thoát ra ngoài, đồng thời cô còn tìm các gia đình nơi khác để gửi nuôi những đứa trẻ đáng thương này. Lúc đó cũng không có nhiều gia đình nguyện ý nuôi dưỡng những đứa trẻ xa lạ đó. Bởi lẽ, họ đều không biết tương lai xã hội sẽ như thế nào, ngay bản thân họ cũng còn khó bảo toàn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

▼ Trong hoàn cảnh đó, Irena đã làm như thế nào để đưa những đứa trẻ ra khỏi trại tập trung của quân Đức quốc xã với chế độ canh phòng nghiêm mật?

Cô đã dùng thân phận y tá, giả làm cho các em xuất hiện hiện tượng bệnh lây nhiễm và dùng xe cứu thương đưa các em ra khỏi trại, nhưng theo sau cô lúc nào cũng một có bộ phận giám sát rất nghiêm. Cô đã phải để những đứa trẻ vào trong túi tử thi, túi rác, thậm chí trong quan tài và vụng trộm vận chuyển ra ngoài vùng kiểm soát.

Irena còn dạy cho những đứa trẻ này biết ứng xử với tư cách thân phận mới, địa vị và cầu nguyện Chúa. Cô còn yêu cầu các em đọc mặc niệm lời cầu nguyện một ngàn lần để tránh sai phạm khi bị kiểm tra. Cho dù những đứa trẻ đã được đưa ra khỏi trại tập trung, cô cũng mong rằng chúng còn có cơ hội đoàn tụ với người thân và biết về nguồn gốc của mình. Do đó, cô chỉ gửi nhờ nuôi các em tại các gia đình đó và lập nên một danh sách ghi tên thật, tên giả của các em và cất giấu rất kỹ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong 18 tháng liên tục, Irena đã cứu được 2500 đứa trẻ người Do Thái thoát khỏi cái chết. Nhưng rồi sau đó, thật không may mắn cho Irena, cô cũng bị quân lính Đức quốc xã phát hiện và bao vây nhà cửa. Cô đã bí mật đưa chiếc chai đựng danh sách thân phận của các em cho đồng sự. Sau đó, cô bị đưa vào ngục giam và phải chịu đựng những trận tra tấn kịch liệt.

Dù phải chịu sự tra tấn tàn bạo, hai chân bị đánh đến gãy, nhưng cô cũng không tiết lộ danh tính của một đứa trẻ nào. Irena bị tuyên án tử hình. May mắn thay, một tổ chức bí mật của Ba Lan đã mua chuộc đao phủ, họ mới cứu được mạng cô. Cô bắt đầu cuộc sống với một thân phận mới nhưng chưa khi nào cô dừng việc cứu giúp người khác.

Irena luôn ghi nhớ những lời dạy của cha mình cho đến khi cô qua đời, đó là không bao giờ dừng giúp đỡ người khác. Bà đã nói: “Lúc đó sự tức giận quân Đức quốc xã còn mãnh liệt hơn nỗi sợ hãi trong tôi. Hơn nữa, cha tôi đã từng nhắn nhủ rằng, nếu thấy người sắp chết đuối thì dù không biết bơi con cũng phải nghĩ cách cứu họ. Hoàn cảnh của Ba Lan lúc đó thực sự thảm khốc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau khi chiến tranh kết thúc, Irena đã lấy ra danh sách những em nhỏ được cứu sống năm đó và gửi cho Ủy ban cứu viện người Do Thái, để những đứa trẻ này đoàn tụ cùng người thân.

Khi được hỏi vì sao cô không nói gì về việc làm năm đó, Irena trả lời rằng: “Bởi vì theo lời dạy của cha, tôi cứu về những đứa nhỏ này. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã mang trong mình tư tưởng như thế, mỗi người đều cần được giúp đỡ, không phân biệt tôn giáo sắc tộc. Những đứa trẻ lúc được cứu ra, chúng hãy còn quá nhỏ, việc làm đó đã cho thấy giá trị tồn tại của tôi ở thế giới này. Nhưng việc này cũng không đáng được khen thưởng như thế, bởi tôi thường bị lương tâm khiển trách vì đã không cứu thêm được nhiều người hơn nữa.

Tinh thần Irena đã chạm vào trái tim của rất nhiều người trên thế giới. Cuối cùng, bà đã mỉm cười tạm biệt kiếp nhân sinh ở tuổi 98 tại Ba Lan.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

▼ Năm 2007, Irena đã được nhận Huân chương danh dự tại Munich. Trong buổi lễ đã có sự hiện diện của rất nhiều đứa trẻ được bà cứu sống. Cũng cùng năm đó, bà được đề cử cho giải thưởng Nobel Hòa Bình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong cuộc sống nhân sinh đời người, Irena luôn lấy việc cứu giúp người là trách nhiệm của mình. Những việc vô cùng ý nghĩa mà bà đã làm, bà cũng cho đó là việc bình thường. Hơn nữa, bà còn tự trách rằng mình không có biện pháp để cứu thêm nhiều người hơn. Irena quả là người có trái tim vĩ đại, là người có hành động mang giá trị của chữ Thiện và lòng từ bi đáng quý biết nhường nào, thật đáng được người người trên thế giới ca ngợi.

San San

Chuyện chạy lụt của một gia đình gốc Việt ở Houston

 Chuyện chạy lụt của một gia đình gốc Việt ở Houston

Đằng-Giao/Người Việt (tường thuật từ Houston, Texas)

Từ phải, ông Đoàn Tấn Nhiều, bà Thanh, và anh Khánh. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)

HOUSTON, Texas (NV) – Sau khi trải qua những ngày cuống cuồng sợ hãi, thấp thỏm lo âu vì trận bão Harvey, cư dân Houston phải đối phó với những khăn trong thảm cảnh quay về đời sống thường nhật. Đây là lúc họ bắt đầu trực diện những di hại, những hậu quả nặng nề của trận lụt.

Làng Fatima là một khu mobile home khiêm tốn nằm trên đường Gulf Bank.

Ngay từ đầu làng, một xóm đạo nho nhỏ, nơi gia đình ông Đoàn Tấn Nhiều vừa quay về sinh sống sau cuộc di tản, một núi rác gồm nệm giường và những đồ gia dụng bị cơn lụt tàn phá, xộc ra một mùi hôi thối rữa nát, nồng nặc cao độ.

Đây chỉ là một góc của những gì bị phế thải. Người ta chưa đem ra vứt kịp vì bận đi làm hoặc vì nhà chỉ toàn đàn bà, con nít, chưa nhờ ai khuân ra ấy thôi.

Đến chiều thì cái núi rác này sẽ cao và to hơn nhiều và cái mùi khó chịu sẽ đâm xộc vào mũi người qua đường một cách trâng tráo hơn nhiều.

Nước dâng bao nhiêu, nỗi lo tăng bấy nhiêu

Gia đình ba người, ông Nhiều, cùng vợ là bà Thanh, và con trai tên Khánh, phải rời khỏi nhà, cùng cả làng tìm nơi trú ẩn hôm Chủ Nhật.

Ngồi hồi tưởng lại những gì xảy ra, cả gia đình ông vẫn còn phảng phất nỗi kinh hoàng trên gương mặt, trong giọng nói dù cả ba cùng muốn bỏ những hãi hùng của mấy ngày qua sau lưng.

Harvey đến với gia đình ông từ tuần trước, khi truyền hình loan báo cơn bão đang tiến về Houston và khu vực ông đang ở.

Ông kể với giọng chưa khỏe hẳn: “Thứ Năm, ngày 24 Tháng Tám tuần rồi, chúng tôi đã chuẩn bị xong xuôi, sẵn sàng chạy bão nhưng tới Thứ Bảy, vẫn chưa thấy gì đáng ngại. Mưa không lớn lắm mà bầu trời rất yên lặng.”

Sau cơn bão là rác đầy làng. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)

Những trận bão trước đây ồn ào và gió thét gào gầm rú rất dữ dội. Có lần, bão cách đây cả trăm dặm mà chỉ cần nghe tiếng gió rít như xé toạc bầu trời, người ta cũng đủ thất kinh hồn vía rồi.

Lần này, gần như không có gió, trời yên lặng như rất hiền hòa làm nhiều người coi thường sự kinh hoàng khốc liệt của Harvey.

Chính vì vậy mà nhiều cư dân địa phương không gọi đây là trận bão mà lại gọi là trận lụt.

Ông hồi tưởng: “Không nghe tiếng gió gì hết mà nước cứ từ từ dâng lên. Đến khi nước bắt đầu dâng thì dâng rất nhanh. Nước ngoài đường, mới tới mắt cá mà quay qua, quay lại đã lên tới đầu gối tôi rồi.”

Vốn coi thường những trận bão nhiều lần trước, ông Nhiều chợt thấy lo sợ. Lo sợ là phải, ông bị thấp khớp nặng, chân trái đã mổ rồi mà vẫn còn đau, trong lúc chân phải đang chờ mổ cũng đang đau đớn dù đã bó lại thật chặt rồi.

Mấy năm nay, chỉ đi khập khễnh thật chậm ông cũng cảm thấy đau đớn nhiều thì làm sao mà chạy cho kịp với người ta.

“Từ Thứ Năm tuần rồi, tôi đã phụ vợ con cột cái tủ lạnh phía trước cho thật chắc rồi bỏ tất cả áo quần vào túi xách xong xuôi. Hai chân tôi đau lắm nhưng vẫn phải cắn răng mà làm việc,” ông khẽ nói. “Ngâm chân trong nước, tôi thấy đau lắm.”

Ở tuổi 65, cái tuổi mà bao nhiêu sức lực sung mãn tuổi niên thiếu dần dần trôi đi, ông Nhiều cảm thấy sự nguy hiểm như gần kề ông và vợ con.

Sáng Thứ Bảy, mưa rơi tầm tã từ sớm. Gia đình ông và cả làng càng cuống quít hơn khi theo dõi tin tức báo động tình hình khẩn cấp trên truyền hình.

Từ hội trường, nơi cao nhất trong làng, ông quyết định rằng cả làng phải cùng nhau di tản vì chậm trễ hơn sẽ ảnh hưởng đến tính mạng.

Nước đã ùa vào nhà bếp ông rồi. Mà nhà ông có bậc tam cấp, cao hơn mặt đường nhiều.

“Lúc ấy, một phụ nữ đang mang thai cảm thấy đau đau,” ông kể.

Không thể chần chừ nữa, cả làng cùng nắm tay nhau rướn đi trong nước lũ. Số phận của bao nhiêu người, lúc này, nhập vào làm một.

“Vì một người bị nước cuốn là cả làng 44 người kia sẽ bị kéo theo,” ông nói. “Tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên rồi phó mặc tất cả.”

Bà Thanh góp chuyện: “Nước cao đến hông, mọi người cầm chặt tay nhau, vừa đi, vừa cầu nguyện.”

Nước xoáy rất mạnh bên dưới. Không cẩn thận là bị cuốn phăng đi ngay.

“Mọi người hò hét nhắc nhau đừng để bị lọt xuống đường mương hai bên đường là chết ngay,” bà tiếp. “Tôi cố lắm mà cứ bị nước lôi hẳn qua một bên, bao lần xuýt lọt xuống mương.”

Chung quanh là biển nước đục ngầu, không thể thấy mặt đường nữa.

“Lúc ấy khoảng 3 giờ chiều. Trời còn sáng nhưng không ai biết mình có sắp bị lọt xuống hố hay không,” ông Nhiều kể một cách căng thẳng.

Hai chân thấp khớp gặp nước lạnh, ông lê bước không nổi nữa rồi.

“May quá, gặp một anh người Mễ ở đâu vô làng cho tôi lên ngồi trên cái phao rồi lôi tôi ra,” ông nở nụ cười nhỏ. “Vợ con tôi thì phải lội nước.”

Cả đoàn người, kể cả phụ nữ có thai đang đau bụng, tay nắm chặt tay nhau, bước đi từng bước, từng bước nặng nề trong cơn xoáy ngầm dữ dội, khi mực nước dâng lên gần ngực.

Cái chết thật gần gũi, thật dễ dàng.

May quá, vừa ra đến đến ngoài thì cả làng được lên xe xúc cát rồi đưa ra trường tiểu học Keeble gần đấy.

Trời vẫn tầm tã trút mưa xuống.

Nước vẫn lầm lì dâng lên.

Lúc này không còn phao nữa, ông Nhiều được hai người hai bên kè thật sát.

Bà Thanh: “Nước lên đến đây khi chúng tôi di tản.” (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)

Ông thú thật: “Chân tôi bước không nổi nữa. Họ phải kéo tôi đi.”

“Chưa bao giờ tôi sợ như vậy. Cái chết ngay bên cạnh mình. Nhà tôi cũng sợ lắm,” ông thở hắt ra.

Anh Khánh ra vẻ can đảm nói: “Cháu có sợ nhưng chỉ chút chút thôi.”

Những lần bão trước chỉ là cơn mưa lớn đối với ông Nhiều. Đây là lần đầu tiên gia đình ông phải di cư tập thể nên ông vừa sợ vừa ngỡ ngàng.

Ông chợt rùng mình trong cơn gió.

Bất ngờ ấm áp tình người

Từ trường tiểu học, xe lớn đưa cả làng ông đến Gallery Furniture Store, một tiệm bán giường tủ bàn ghế lớn gần đó.

“Họ có xe giao bàn ghế rất lớn đến đón chúng tôi. Ông Mack, chủ tiệm người Mỹ này, tốt quá,” ông khen.

Làng ông có 45 người mà chỉ một lúc, Gallery Furniture Store đã có đến hàng trăm người.

Ông Mack, tên thật là Jim McIngvale, chào đón mọi người rồi cho phân phát quần áo khô, thức ăn, rồi còn nói ai thích giường nào thì toàn quyền nằm giường đó.

“Giường mới tinh đang bày bán mà ông ấy không tiếc gì cả, mời chúng tôi cứ tự nhiên,” bà Thanh kể.

Ông Mack từng mở cửa chào đón nhiều nạn nhân bão Katrina năm 2005. Nhiều cư dân New Orlean định cư tại Houston cả 12 năm nay.

Có được nơi tá túc qua đêm nhưng ông Nhiều vẫn canh cánh âu lo không biết có còn nhà để trở về hay không.

Cả sự nghiệp chỉ là căn nhà, nếu mất nhà thì ông còn gì cho vợ con. Ra đường mà ở hay sao?

Tìm về đất Chúa

Ông Nhiều tiếp: “Hôm sau, là Thứ Hai. Lúc 2 giờ, Cha Trần Thiên Ân (linh mục chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang) gọi tôi. Cha hỏi chúng tôi có muốn đến nhà thờ không. Nếu muốn, cha cho người đến đón.”

Ông hỏi ý cả làng. Mọi người cùng đồng lòng đi La Vang.

Ngay đúng lúc ấy, người phụ nữ mang thai đau bụng từ nãy, bị băng huyết. Có người gọi xe thành phố đưa hai vợ chồng đến trại tạm cư GRB (George R. Brown Convention Center) ở trung tâm Houston, nơi hôm sau chứa đến 10,000 người di tản.

“Khổ thân, đang có bầu mà gặp cảnh xô đẩy và trèo lên xe, nhảy xuống xe, chị ấy bị như vậy,” bà Thanh bày tỏ lòng thương cho người làng.

Ông Nhiều kể tiếp chuyện Linh Mục Thiên Ân ở La Vang: “Cha cử một người là anh Tài lo cho chúng tôi. Anh Tài gọi cho chính quyền thành phố cho xe lớn đến đón chúng tôi. Nhưng lúc ấy họ bận đi chở người cấp cứu. Thấy lâu quá, anh Tài nhờ mấy người quen đem xe riêng đến vì anh ấy nóng ruột cho chúng tôi.”

Bà Thanh thêm: “Có một cái xe van 15 chỗ và một xe truck nhỏ thôi mà cả làng 45 người nhét vào đủ mới lạ.”

Khoảng 5 giờ chiều Thứ Hai, vừa đến La Vang, linh mục chánh xứ cho chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Giường chiếu sẵn sàng, áo quần sẵn sàng và thức ăn sẵn sàng.

“Cha lo lắng cho chúng tôi rất kỹ lưỡng. Hai đêm chúng tôi ở đó, cha thức trắng cả hai đêm, ngồi cùng cảnh sát canh cho chúng tôi ngủ,” ông rưng rưng cảm động.

Nước rút, mọi người nóng ruột muốn về nhà.

Khi không giữ họ ở lại được nữa, Linh Mục Thiên Ân đành nhắc nhở họ nên về cùng một lượt.

“Cha sợ nếu kẻ gian đột nhập vào nhà hôi của thấy chúng tôi về lẻ tẻ, có thể làm hại,” ông kể.

Trong nhà ông Nhiều. Bao giờ ở được? (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)

Quay về mái ấm

Về làng, ông thấy trước hết là những cái tủ lạnh trôi lều bều từ xa.

Ông nói: “May mà cái tủ lạnh nhà tôi đã được cột rất kỹ, không trôi đi đâu cả.”

Tủ lạnh ông cột ở hông nhà, tuy không trôi đi đâu, nhưng bị lật úp và nổi bập bềnh ở đó.

Vào nhà, sàn nhà phủ đầy bùn. Từ trên xuống dưới, căn nhà ảm đạm một sự tan hoang, hỗn loạn.

Và mùi xú uế nồng nặc bao trùm cả khu xóm. Một cái mùi rất khó mà tả chính xác. Cái mùi có thể gây ung thư phổi, khiến người không nghiện phải thèm thuốc lá.

Tất cả gối chăn, giường nệm đều ướt sũng và sặc mùi.

Phải mất hai hôm cả nhà mới lau chùi trên dưới được. Nhưng đây chỉ mới là tạm thời thôi vì còn nhiều chỗ khó khăn, chưa ai có thời giờ lau tới được, theo lời bà Thanh.

Nhớ lại những ngày qua, ông Nhiều nói: “Trận lụt này là tai họa cho nhiều người. Nhưng qua đó, chúng tôi mới thấy được tình người. Gia đình tôi cảm ơn cha Thiên Ân, đã cho chúng tôi tá túc mà còn hy sinh không biết bao nhiêu thời giờ và nhân lực.”

Ông vô cùng cảm kích những chia sẻ của mọi người trong giáo xứ La Vang.

“Sau khi ăn uống xong, trong Thánh Lễ 5 giờ chiều, cha Thiên Ân khuyên mọi người giúp đỡ cộng đoàn Fatima. Thế là mọi người đem không biết bao nhiêu là áo quần, giày dép, và thức ăn đến cho chúng tôi.”

Ông nói thật khẽ: “Không bao giờ chúng tôi quên chuyện này.”

Bà Thanh thì vẫn lo cho phụ nữ láng giềng có thai.

“Cho đến ngày hôm nay, Thứ Sáu, 1 Tháng Chín, chị ấy vẫn chưa được cứu chữa vì bệnh viện chỉ nhận cấp cứu thôi. Hiện chị về nhà nhưng vẫn đang đau bụng và nằm đấy chờ bệnh viện có chỗ,” bà Thanh cho biết.

Ngày mai vẫn bấp bênh

Được trở về căn nhà mobile home của mình nhưng cả ba người cùng biết rằng trước mắt họ còn cả trăm ngàn việc quanh nhà thì mới trở về đời sống bình thường như trước đấy vài hôm.

Cả Houston cùng đang thở dài ngao ngán trước công việc lau chùi, vứt đồ hư và sửa chữa căn nhà mình.

Ấy là chưa nói đến hơn 500,000 chiếc xe hư hại, không thể nào sửa được.

Không biết số tiền hàng tỷ đô la trợ cấp của liên bang sẽ giúp được gì được cho họ.


Liên lạc tác giả: ngo.giao@nguoi-viet.com