Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

2017-09-22
 

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

 Ảnh chụp màn hình.
 

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành. Đây được cho là tác phẩm văn học đầu tiên viết về người dân bị lấy đất một cách phi pháp tại Việt Nam lâu nay.

Công văn do ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục xuất bản in và phát hành, thuộc Bộ Thông tin và truyền thông, ký vào trung tuần tháng 9  gửi đến Nhà xuất bản Hội nhà văn yêu cầu đình chỉ việc phát hành quyển sách vừa nêu.

Theo trình bày của ông Chu Văn Hòa thì tác phẩm Mối Chúa đã mô tả xã hội và hệ thống cầm quyền từ thấp đến cao như là một hệ thống đen tối, tham lam và tàn nhẫn, trong đó nêu lên chuyện cưỡng chế đất đai của nông dân như là một lực lượng thù địch.

Theo trang Facebook của Luật sư Trần Vũ Hải, quyển sách Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh, với bút danh Đãng Khấu đã được Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam phối hợp với Công ty văn hóa Nhã Nam xuất bản, nhưng nay bị dừng phát hành.

Một số cư dân mạng cho rằng họ đang tìm cách để đọc được tác phẩm bị cấm phát hành như vừa nêu.

Chiến tranh Việt Nam. Đại lộ kinh hoàng.

From facebook:  Hung Tran

Chiến tranh Việt Nam.

Đại lộ kinh hoàng.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh: nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.

Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng một đứa cháu, dẫn vợ có bầu với ba đứa con nhỏ, năm một, 6, 7, và 8 tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước một đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo một chiếc xe gỗ hai bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy, chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng một ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được một lúc. Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.

Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ.

Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại một cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị.

Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ mang bầu đã dẫn ba đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt một ngày một đêm về đến Mỹ Chánh, rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm ba ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và đã có gia đình, hiện cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Giao Chỉ

Phim Vietnam War.

Phim Vietnam War.

  Trong công việc sưu tầm tài liệu cho Việt Museum, chúng tôi phải xem và đọc biết bao nhiêu tài liệu, đặc biệt phim về chiến tranh Việt Nam. Hết sức đau lòng. Xem bộ phim Vietnam War mới đây lại thêm đau lòng. Vẫn hiểu rằng đây là phim của người Mỹ làm cho khán giả Mỹ. Không phải dành cho người Mỹ gốc Việt. Tôi viết bài nhận xét sau đây, đã phổ biến nhưng phần lớn không đến tay các bạn. Xin gửi lại thêm một lần nữa. Nếu nhận được xin vui lòng cho biết. Cảm ơn.

Phim tài liVietnam War  

Cuc thm bi tái din

Giao Ch, San Jose

  

blank

Tin tức thời sự chính trị nước Mỹ vẫn tràn ngập trên diễn đàn truyền thông. Thiên tai vừa trải qua với cuồng phong và mưa bão tại miền Đông Nam Hoa Kỳ rồi tiếp đến động đất Mễ Tây Cơ. Bộ phim 10 tập 18 giờ do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏra mười năm với 30 triệu mỹ kim mới hoàn tất vẫn làm xôn xao dưluận. Phần lớn các nhà bình luận, các chính khách và nhân vật cộng đồng Hoa Kỳ đều hết lòng khen ngợi. Riêng phần chúng tôi có nhận định khác biệt. Là quân nhân của phe bại trận với niềm đau thương gặm nhấm suốt cuộc đời. Mất nước là mất tất cả. Một lần bại trận và phải đào thoát ngay trên quê hương. Từ đó thấy lại biết bao lần thảm bại tái diễn trên phim ảnh, làm sao mà vui mừng khi nhìn lại vết thương. Sau 42 năm phe tự do thua trận, với bộ phim công phu phổ biến năm nay, cuộc thảm bại trên chiến trường Việt Nam lại một lần nữa tái diễn. Xin có đôi lời đóng góp ý kiến như sau.         
                                            

 1) Vẫn hình ảnh đau thương cũ:  
Các nhà làm phim mới đã soạn lại tài liệu cũ. Thêm tài liệu sưu tầm trong thập niên qua. Cắt ráp và bình luận công phu, nhạc đệm xuất sắc. Phỏng vấn khoảng 100 người trong đó có chừng 30 nhân vật từ cả hai phía quốc cộng Nam Bắc Việt Nam. Đặc biệt có những hình ảnh và lời bình luận khen chê cả hai bên. Lần đầu tiên có đề cập đến vai trò của chiến binh Việt Nam Cộng Hòa cũng như vụ Việt cộng thảm sát Mậu Thân. Nhưng sau cùng khán giả của thế hệ hôm nay thuộc thế kỷ21 đều thấy rằng những nhà làm phim đã gián tiếp xác định sựchiến thắng của Cộng sản Việt Nam là hữu lý và tất yếu. Hình ảnh sau cùng vẫn là một dân tộc chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Dù hy sinh bao nhiêu họ cũng vẫn khoác danh hiệu chống Pháp xâm lược, chiến thắng trận Điện Biên thần thánh. Dủ chết thêm bao nhiêu cũng giữ được hào quang đánh Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bốn mươi năm sau chiến tranh, Hoa Kỳ vẫn còn vẳng nghe tiếng hô vang của hàng triệu thành viên phản chiến. Thế hệ Hoa Kỳ ngày nay làm sao hiểu được những khúc mắc phức tạp của cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Trong lãnh vực truyền thông, hình ảnh sống động vẫn có khả năng thuyết phục hơn cảngàn lời nói. Một bên là chiến binh đồng minh dù là lính Pháp, lính Mỹ hay chiến binh miền Nam mặc quân phục, trang bị đầy đủ được yểm trợ bằng phi pháo hùng mạnh. Phía bên địch toàn là hình ảnh nữ dân quân, vũ khí thô sơ, chân dép áo nâu quyết tâm chiến đấu. Phe ta thua trên từng thước phim. Hình ảnh hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc. Ốm yếu khắc khổ, cuộc sống thanh đạm và ý chí chiến đấu mãnh liệt. Tất cả đều đã vào tù ra khám. Trong khi đó phe ta là hình ánh quan lại, xiêm áo lịch sự, xa cách quần chúng, không chứng tỏ được tinh thần hy sinh cho dân và quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình ảnh vị tướng VNCH đích thân lạnh lùng xử bắn tù binh trước ống kính của báo chí quốc tế, hình em bé trần truồng chạy bom. Những bức hình đã mang danh hiệu biểu tượng đau thương của cả thế kỷ. Và rất nhiều hình ảnh sẵn có phô diễn những sai lầm dã man của phe ta mà không có chứng tích tội ác của đối phương. Không thể nào có đủ lời lẽđể giải thích nguồn cơn. Dù 40 năm trước hay bốn mươi năm sau, một lần nữa chúng ta thua trận trên từng thước phim.

 2) Không th tranh lun được vi s thành công.  
Chúng ta phải chấp nhận rằng phe cộng sản đã chiến thắng phe tự do trong cuộc chiến Việt Nam. Hoa Kỳ từ tổng thống Johnson thực sự đã từng quyết tâm chiến thắng. Sau vụ hỏa mù trên Vịnh Bắc Việt, quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết đồng thuận cho tổng thống toàn quyền. Nhưng sau cùng ý chí của chính phủ Mỹ thua ý chí của phe cộng sản. Nga, Tàu và Việt cộng không hề nao núng. Phong trào phản chiến đánh gục ý chí của chính phủ Hoa Kỳ. Mỹ thua trận ngay từ trong lòng dân chúng quốc nội.. Tiếp theo chính thức thua trận trên giấy tờ ký hiệp định Paris 1973. Sau cũng là cuộc bỏ chạy cùng Việt Nam Cộng Hòa trên nóc tòa đại sứ. Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã thua hết sức cay đắng, nhưng vẫn còn vượt qua được vì đây chỉ là một chiến dịch trong chiều dài của lịch sử Hoa kỳ. Đối với Mỹ, Việt Nam chỉ là một mặt trận. Một cuộc chiến. Thế giới Tự do thua trong một cuộc chiến nhưng 20 năm sau đã toàn thắng khi liên bang Sô viết xụp đổ tại Nga. Với Nam Việt Nam năm 1972 thắng trận Bình Long, Kon Tum và lấy lại được Quảng Trị. Nhưng thua trận 75 là mất tất cả. Dù sau này một lần hay là 10 lần cờ đỏ phải hạ xuống ở điện Cẩm Linh thì Việt Nam Cộng Hoà cũng đã mất tất cả. Bao nhiêu sự hy sinh trong 21 năm chiến đấu và xây dựng 2 nền cộng hòa của miền Nam đều đổ ra sông ra biển.
 

3) Vì đâu nên nỗi: 
Phía Hoa Kỳ sai lầm hẳn đã học được bài học chiến tranh Việt Nam. Dù trở thành cơn ác mộng nhưng người Mỹvẫn còn sống. Nam Việt Nam thì hoàn toàn đã chết qua sự sai lầm trong chiến tranh. Đối với miền Nam Việt Nam thì việc thất trận là một thảm kịch vô cùng đau thương, không có điều gì có thể bào chữa ngoài lý do duy nhất là lỗi ở chính chúng ta. Kết quả mất nước là mất tất cả. Lỗi lầm không phải tại đồng minh không quyết tâm, cũng không phải bởi kẻ thù quá mạnh. Lỗi lầm là lãnh đạo ta không đủ sức vượt qua những khó khăn lớn lao và toàn dân không được vận động để quyết tâm tham chiến. Trong cuộc chiến 2 thập niên, trong khi miền Bắc vận dụng toàn dân tấn công thì miền Nam chỉ xử dụng được một phần rất nhỏ để tự vệ. Lãnh đạo lè phè và dân chúng thờ ơ.  Tất cả tùy thuộc vào Hoa Kỳ. Mỹ trực tiếp tham chiến đã cứu Việt Nam nhưng đồng thời cũng làm mất Việt Nam.Việt Nam mất khả năng tự chủ. Không dùng hết khả năng vào công việc phòng thủ. Không vận động được dư luận thế giới và đồng minh. Bị đồng minh Hoa Kỳ và thế giới bỏ rơi và chính nhân dân miền Nam cũng bỏ rơi cuộc chiến. Cho đến khi cả chính quyền và nhân dân miền Nam mất nước mới biết là mất tất cả. 
 

4) Nhng cuc chiến sau chiến tranh.  
Khi miền Bắc chiếm được miền Nam, hàng trăm ngàn chiến binh bị tù đầy, hàng triệu người miền Nam trở thành dân “Ngụy.” Lúc đó mới bừng tỉnh và tham dự vào hai cuộc chiến sau chiến tranh.  Cuộc chiến trong tủ đầy chiến đấu để tồn tại, và không bị khuất phục. Cuộc chiến của người dân bên ngoài tiếp tục chịu đựng phấn đấu đểnuôi tù và toàn dân tìm đường vượt thoát. Trong chiến tranh, hàng trăm ngàn chiến binh cộng sản đã được miền Nam Chiêu Hồi. Sau cuộc chiến, hàng trăm ngàn chiến binh VNCH bị tù đầy. Dù bịtuyên truyền và bỏ mặc đói rét. Dù bị hành hạ lao động khổ sai. Dù tuyệt đường tương lai, vô hy vọng có ngày tự do, nhưng tuyệt nhiên không hề đầu hàng cộng sản. Không một ai trở thành cộng sản. Đó là chiến thắng sau chiến tranh.Trong chiến tranh, đa sốdân miền Nam vẫn sống trong thanh bình tại các đô thị. Sau chiến tranh bắt đầu cuộc sống phải chiếu đấu khi được kẻ thù “Giải phóng” Đây là lúc toàn dân miền Nam tham gia chiến dịch chiến đấu để đào thoát. Cuộc chiến dành cho tất cả mọi người tham dự. Người già, em bé. Nam phụ lão ấu cùng tìm đường vượt biên. Đàn bà có bầu và trẻ sơ sinh. Tu sĩ và thầy chùa. Các nông dân và các giáo sư, bác sĩ. Trên đường tìm tự do đã hy sinh hàng trăm ngàn người. Tù đầy, sóng gió và hải tặc. Mọi người dù thất bại năm mười lần vẫn tiếp tục lên đường. Đó là cuộc chiến sau chiến tranh.
 

5) Ý nghĩa ca chiến thng:      
Kết quả ngày nay phe chiến thắng trở thành lũ độc tài đảng trị trăm lần tham nhũng, bất công. Kết quả ngày nay sau khi cả ngàn ngôi mộ hoang nằm lại trên các trại tù cải tạo và hàng trăm ngàn người vượt biên nằm dưới đáy biển. Đây mới là lúc luận bàn thắng bại trong chiến tranh Việt Nam. Nếu ngày nay, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam trởthành quốc gia dân chủ tự do không cộng sản. Việt Nam trở thành một con rồng châu Á như Nam Hàn, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan..Dân Việt Nam từ Bắc vào Nam đều sống trong tự đó hạnh phúc. Dân trí mở mang, các tệ trạng xã hội được giải quyết. Không kỳ thị về chính trị và tôn giáo. Không quá cách biệt giầu nghèo. Người dân Việt được kính trọng trên 5 châu 4 bể.  Được như vậy thì sự thất bại của Nam Việt Nam cũng là chuyện đáng cam chịu. Được như vậy thì cuộc chiến thắng của miền Bắc mới là điều cho Hoa Kỳ và chúng ta cần học hỏi. Nhưng Việt Nam ngày nay là nước độc tài đảng trị, tham nhũng và bị cả thế giới coi thường. Cuộc chiến thắng do đó trở thành vô nghĩa. Mọi hy sinh của người miền Bắc đều trởnên vô nghĩa. Và những tổn thất của miền Nam cũng như sự hy sinh của Hoa Kỳ vẫn muôn đời là những ghi dấu vô cùng cay đắng. Không, chúng ta không thể kết luận là Hoa Kỳ đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ có thể nhận định rằng Miền Bắc đã chiến thắng trong một cuộc chiến nhưng không đem lại hạnh phúc cho toàn dân.

Riêng tại Hoa Kỳ, không có ai làm phim chiến thắng cho những người bại trận. Không bao giờ có vòng hoa cho người chiến bại. Sau chiến tranh Đông Dương, đại diện Khmer Đỏ với bàn tay diệt chủng giết cả triệu dân bước vào diễn đàn Liên Hiệp Quốc với những tiếng vỗ tay vang dội. Tiếp theo, tiếng vỗ tay lại vang dội nhiều hơn khi đại diện Hà Nội trở thành hội viên chính thức với thành tích đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ. Sau gần nửa thế kỷ, dù thiên đàng Sô Viết đã tan rã, Việt Nam thống nhất đã biến hình ảnh những người nữ dân quân anh hùng trở thành nạn nhân nô lệ tình dục khắp Đông Nam Á. Trong chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia, chỉ những người chết mới là người thua cuộc. Nhân chứng không phải là sự thực. Lời bình luận không phài là sự thực và ngay cả những thước phim cũng không phải là sự thực. Dù là phim tài liệu Vietnam War trị giá 30 triệu mỹ kim, 10 năm sưu tầm kéo dài 18 giờ qua 10 phim tập. Sự thực đã chôn vùi cùng những người lính trẻ ở cả hai bên chiến tuyến.

—   

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

CHA ĐẺ CỦA “ĐẠI LỘ KINH HOÀNG”

CHA ĐẺ CỦA “ĐẠI LỘ KINH HOÀNG”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đài tưởng niệm 1.841 nạn nhân chết trên ĐLKH do báo Sóng Thần xây dựng năm 1972

Khoảng thời gian sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực (ngày 27/01/1973) đến ngày thành phố Huế thất thủ (26/03/1975), hành khách từ Huế đi ra Bắc, khi vừa qua khỏi cầu Bến Đá ở vị trí cách Hà Nội 784 km, bên tay trái Quốc Lộ 1 thấy tấm bảng lớn độ 2 mét x 5 mét, sơn màu vàng, kẻ bốn chữ “Đại Lộ Kinh Hoàng” đỏ tươi màu máu.

Bên dưới góc phải có thêm 5 chữ nhỏ hơn, màu đen: “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”. Chắc chắn lúc bấy giờ, ngồi tại dinh Độc Lập trên cao ngất trời xanh – trong tình hình vi phạm ngưng bắn xảy ra khắp nơi, với việc Mỹ cuốn cờ, với các mặt trận ở Thường Đức (Quảng Nam), ở Phước Long, quân viện bị cắt, xăng không đủ cho máy bay yểm trợ phi pháo, đạn không có cho binh sĩ hành quân có hiệu quả – tổng thống Thiệu chẳng còn lòng dạ nào để đặt tên cho một đoạn quốc lộ 1, không quá 10 cây số, nằm lọt giữa con sông Bến Đá và sông Nhung bé tí trên bản đồ như thế, mà chỉ là tác phẩm của công chức phục vụ ở Ty Thông tin & Chiêu hồi tỉnh Quảng Trị, cố lấy chữ nhét vào miệng tổng thống. Dứt khoát, Nguyễn Văn Thiệu không là kẻ nặn từ đầu ra cái tên không mấy an lành và thanh tao ấy.

Sau khi đánh được thành, phá được địch và chiếm được đất, mặc dù chưa thắng được lòng dân, nhưng vào năm 1999, Bộ Quốc phòng cộng sản đã xuất bản cuốn “55 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam” trong đó, ở phần đề cập đến chiến dịch tiến công Trị Thiên vào thời điểm Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị từ 30/03 đến 27/06/1972, Viện Lịch sử Quân sự chỉ viết ngắn gọn ở trang 324, với 219 chữ:

Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo. Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (366, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.

Từ 30/03 đến 5/04, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9. Từ 10/04 đến 2/05, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.Từ 3/05 đến 27/06, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.

Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên dịch, phá hủy 636 xe tăng thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền (Thừa Thiên).”

Cầu sắt Bến Đá, nơi NgyThanh bò qua sáng 1-7-1972 và phát hiện gần 2 ngàn xác người

Quay lại khúc phim hãi hùng

Tác phẩm mới nhất có đề cập tới 4 từ “Đại Lộ Kinh Hoàng”, là cuốn “Phóng viên Chiến trường” của hai tác giả Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương vừa trình làng lần đầu hôm 15/05/2016 tại Houston. Là một phóng viên chiến trường vào sinh ra tử, kinh nghiệm trận mạc, Dương Phục là một trong ba sĩ quan Quân lực VNCH (cùng với thiếu tá Đinh Công Chất và thiếu tá Phạm Huấn), được vinh dự đại diện cho chính phủ và nhân dân miền Nam bay trên chiếc C-130 ra Hà Nội vào đầu năm 1973, trong tư cách là Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên [Four-Party Joint Military Commission; ghi chú của NgyThanh], để giám sát thủ tục trao trả tù binh Hoa Kỳ từ phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong hồi ký của mình, ở phần nhắc lại “Đại lộ Kinh hoàng”, ký giả Dương Phục viết:

Cuộc di tản hàng chục ngàn người tạo nên một đoàn rồng rắn suốt đoạn đường dài trên Quốc Lộ 1, và không ngờ đã biến họ thành mục tiêu dễ nhắm của bom đạn Việt Cộng.

Không điều gì gây phản tác dụng cho một chiến thắng hơn là cảnh dân chúng lũ lượt quang gánh, bồng bế nhau liều chết chạy trốn đoàn quân chiến thắng. Cộng sản điên cuồng trước chuyện dân chúng bỏ đi nên không ngần ngại làm bất cứ gì để ngăn cản. Với thói quen chỉ biết dùng bạo lực như phương cách duy nhất để áp chế người dân, họ đã dùng đạn pháo như mưa sa để đe dọa, hy vọng níu kéo người dân Quảng Trị ở lại…

… Hành động bỏ phiếu bằng chân đó đã như cái tát vào mặt đoàn quân Cộng sản ở bất cứ cửa ngõ thành phố nào họ đặt chân tới. Cộng quân do đó đã không ngần ngại xả đạn pháo kích thẳng vào đoàn người di tản, từ đoạn Cầu Dài, Diên Sanh, kéo dài đến tận gần cầu Mỹ Chánh. Quân nhân chỉ là thiếu số hướng dẫn đoàn di tản, còn lại đa số là người dân thường, ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ em và thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện.

… Khi Thủy và tôi đến được khu vực này, xác người đã nằm phơi sương dải nắng gần hai tháng trời. Mùi tử khí vẫn nồng nặc trong cơn gió nóng hổi của vùng đất khô cằn như sa mạc. Chúng tôi ngỡ ngàng không hiểu tại sao quá đông người có thể chết gục cùng một lúc khắp nơi như thế. Quan sát kỹ, tôi nhận ra đa số thi thể nạn nhân đều bị hàng ngàn mảnh vụn li ti như đinh vụn từ đầu đạn pháo của Cộng quân. Một viên đạn pháo kích bắn ra, những mẩu đinh vụn sắt lẻm nầy tung bay mọi phía với tốc độ tàn khốc và xuyên thủng cả những thành xe bằng sắt của đoàn quân xa miền Nam. Loại vũ khí nầy đã hạ gục ngay lập tức mọi người, chết sững trong cùng động tác mà họ đang hành xử đúng lúc đạn pháo bay tới.

Chưa bao giờ trong đời chúng tôi thấy nhiều người cùng chết một nơi như vậy… Trái tim tôi quặn thắt trong lòng và Thủy vội làm dấu thánh giá rồi quay mặt sang một bên nôn ọe. Gần chỗ tôi đứng là thi thể một người mẹ tay ôm chặt đứa con trong lòng, đứa nhỏ vẫn đang ngậm bầu vú mẹ. Cả hai mẹ con nằm bất động bên bờ đường quốc lộ như hai hình nộm xám đen của một sân khấu quái đản.

Nếu không tận mắt chứng kiến, khó ai có thể tưởng tượng được quang cảnh kinh khủng như thế nào. Xác người nằm vất vưởng khắp nơi. Đồ đạc và quần áo tung tóe phủ kín mặt đường. Xe hơi, gắn máy, xe đạp, kể cả xe đò, nằm ngổn ngang, lăn lóc. Gồng gánh, bao túi, tan nát tung tóe phơi bày hết mọi thứ bên trong. Tất cả mọi xe cộ, từ quân xa, xe jeep, xe hồng thập tự, đến xe đò, xe tư nhân, đều lởm chởm vết đạn xuyên lủng khắp trên các thành xe.

Có những đoạn không còn một chỗ nào trống cho nhóm báo chí chúng tôi đặt chân bước qua. Thủy, vừa gạt nước mắt ứa ra trên má, vừa thận trọng lò mò dò từng bước chân trên mỗi khúc đường. Chúng tôi phải tìm những cành cây làm gậy chống và nhẹ gạt các mảnh quần áo còng queo sang một bên, để biết chắc là mình đã không dẵm lên các xác người khô khốc sau cả tháng phơi bày sương gió.

Đa số xác người đã rữa nát thịt vì nắng mưa, chỉ còn da bọc lấy xương khô lép kẹp đen sậm như những hình nộm ma quái trong các loại phim kinh dị. Sâu bọ và côn trùng bay túa ra khi gậy của chúng tôi lia trúng những xác người ngổn ngang trên đường đi. Có cả một chiếc xe buýt bị pháo bắn nát đầy lỗ đạn li ti khắp thành xe. Mọi hành khách dường như đều tử thương tức khắc vì mọi người vẫn ngồi gục trong từng vị trí trên băng ghế.

Đại Lộ Kinh Hoàng, do NgyThanh chụp và đặt tên ngày 1-07-1972

 Trách nhiệm của các tướng quân VNCH về cuộc thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng

Trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975, do sự tan rã của Sư đoàn 3 Bộ Binh, dẫn đến biến cố mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị vào ngày đầu tháng 5/1972, dư luận và báo chí Sàigòn có khuynh hướng về hùa nhau, chê trách tài lãnh đạo của tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn xấu số nầy, và trút hết trách nhiệm, kể cả về nhiều ngàn thường dân bị giết trên đường tản cư, cho ông ấy.

Những ngày sau khi mất Quảng Trị, toàn dân rúng động, dân chúng Huế cũng nhanh chân ùa vào Đà Nẵng, Sàigòn, kéo theo tâm lý sa sút, và tinh thần chiến đấu bị khủng hoảng nơi thân nhân họ. Vào thời điểm ấy, việc cứu vãn các tỉnh miền trung không thể tựa vào các sư đoàn trừ bị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC hay các liên đoàn Biệt Động Quân – vì thực sự các quân số nầy đang vướng tay ở các chiến trường khác trên khắp nước. Tổng tư lệnh quân đội VNCH chỉ còn một thế cờ chót trước khi đầu hàng: một tên tuổi đủ tài thao lược và sạch sẽ để dùng làm liều thuốc cuối cùng. Thật may, ông đã tìm ra, và đã quyết định kịp thời. Ngày 4/05/1972, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh Quân đoàn 4 ở miền đồng bằng sông Cửu Long nhận lệnh bay ra Đà Nẵng nhận chức tư lệnh Quân đoàn 1, thay tướng Hoàng Xuân Lãm.

Tướng Trưởng là người thanh liêm, ít nói, dám làm. Bằng chứng là ông đã cứu nguy được tình hình, và còn chỉ huy tái chiếm được cổ thành Đinh Công Tráng, và tất cả lãnh thổ tỉnh Quảng Trị nằm ở phía Nam sông Thạch Hãn, rồi lầm lì im lặng. Mãi đến sau khi di tản sang Mỹ, vào thời gian được ban quân sử Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mời, năm 1980 ông mới viết quyển “The Easter Offensive of 1972”, sau đó được Kiều Công Cự chuyển ngữ thành “Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972” ấn hành vào năm 2007, sau khi ông Trưởng đã qua đời.

Chính tướng Trưởng lên tiếng bạch hóa vai trò của tướng Giai trong các diễn tiến mất Quảng Trị, dẫn đến dân chết thảm trên Đại lộ Kinh Hoàng (ĐLKH). Trong cuốn sách kể trên, tác giả viết:

“… Tướng Lãm đã không quan tâm đến những khó khăn mà tướng Giai gặp phải. Thái độ của ông hoàn toàn lạc quan… Thái độ lạc quan của tướng Lãm lại được thể hiện rõ nét qua biến cố ngày 9/04… Ở thời điểm nầy, trách nhiệm và quyền hạn của tướng Giai đã vượt xa hơn vị trí của một vị tư lệnh sư đoàn. Ông đã chỉ huy 2 trung đoàn BB Cơ hữu (TrĐ 2 và 57), điều động hành quân 2 LĐ/TQLC, 3 LĐ/BĐQ, 1 LĐ/Kỵ binh và những lực lượng diện địa của tỉnh Q. Trị. Như vậy ông ta có đủ quyền hạn trên 9 LĐ bao gồm khoảng 23 tiểu đoàn và những lực lượng diện địa… Nhưng có một điều cần lưu ý ở đây là tướng Lãm không tự cảm thấy vội vàng đến thăm viếng những vị chỉ huy dưới quyền của ông ở tại mặt trận hay những đơn vị tuyến đầu của QĐ1. Ông chỉ nghe thuyết trình về những diễn biến của trận đánh qua các bản báo cáo và ban hành những chỉ thị, những huấn lịnh cho ban tham mưu của ông. Tự bản thân ông không bao giờ đi thị sát tuyến phòng thủ của SĐ3 để hiểu rõ những trở ngại mà các đơn vị trưởng phải đối mặt…

… Căn cứ Ái Tử, phía bắc sông Thạch Hãn, là một chọn lựa không thích hợp về mặt chiến thuật. Trong suốt tháng Tư, đây là điểm mà pháo địch gửi đến hàng ngày đêm với một mức độ dữ dội. Cho nên Tư lệnh SĐ3 đã quyết định dời bộ tham mưu về phía nam của con sông Thạch Hãn, trong cổ thành Quảng Trị. Ông ta chỉ hỏi ý kiến của vị cố vấn sư đoàn. Tướng Giai sợ rằng những cấp chỉ huy dưới quyền của ông biết được kế hoạch nầy, họ sẽ tìm cách phá hỏng bằng những hành động vội vàng nào đó. Ông ta cũng không thông báo kế hoạch nầy cho vị tư lệnh QĐ1. Đơn giản là ông ta muốn cẩn thận, muốn đặt mọi việc trước một sự đã rồi. Nhưng đó là một hành động gây tức giận cho tướng Lãm và sự bất tin cậy bắt đầu lớn dần giữa họ, khoảng cách càng lúc càng lớn cho đến những biến cố dồn dập xảy ra dẫn đến sự thất thủ của thành phố Quảng Trị…

… Trong vòng 4 giờ sau đó [ngày 1/05/1972, ghi chú của NgyThanh] những phòng tuyến của quân đội miền Nam đã đổ vỡ hoàn toàn… Sau cùng khi biết được những gì đã xảy ra, tướng Giai đã cùng ban tham mưu lên 3 chiếc M113 trong cố gắng bắt kịp đoàn người phía trước. Lúc đó những chiếc trực thăng Mỹ đã đến để di tản những toán cố vấn và những nhân viên người VN của họ. Tư lệnh SĐ3 muốn nhập vào đoàn người phía trước nhưng thất bại. Quốc Lộ 1 đầy cứng những người dân chạy loạn và những toán quân ô hợp và mọi loại xe cộ, quân đội và dân sự. Tất cả hốt hoảng tìm đường về Huế dưới những bức tường lửa dã man hung bạo của các loại pháo địch. Tướng Giai bị bắt buộc phải quay lại cổ thành và sau đó ông ta và ban tham mưu được trực thăng Mỹ bốc đi…

Trên QL1, cả một dòng thác người chạy loạn, dân sự và binh lính tiếp tục xuôi nam. Con đường đã diễn ra một cảnh tượng tàn sát không thể nào tưởng tượng nổi. Những chiếc xe đủ các loại bốc cháy dữ dội. Những chiếc thiết giáp, GMC, xe nhỏ của quân đội và dân sự đầy cứng cả con đường không tài nào lưu thông được. Trong khi đó pháo binh địch mở ra một cuộc tàn sát đẫm máu không nương tay. Cho đến xế trưa hôm sau, cuộc thảm sát mới chấm dứt. Hàng nhiều ngàn người vô tội đã được tìm thấy trên đoạn đường dài của QL1 và sau đó báo chí đã đặt cho cái tên là “đại lộ kinh hoàng”. Sự khích động và sự thảm thương của cảnh nầy, cũng giống như cuộc tàn sát tập thể tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 đã ám ảnh người dân phía bắc của Vùng 1 Chiến thuật một khoảng thời gian lâu dài.”

Đại Lộ Kinh Hoàng, do thiếu tá cố vấn Robert Sheridan chụp tháng 7-1972

 Người Mỹ có biết về cuộc thảm sát trên ĐLKH?

Đào bới núi sách báo viết về chiến tranh Việt Nam để tìm hiểu thêm về số người từ Quảng Trị chạy về Huế vào ngày 1/05/1972, chúng tôi đã may mắn bắt gặp được tấm ảnh duy nhất do thiếu tá Robert Sheridan, TQLC Mỹ chứng kiến và thu vào ống kính. Trong ảnh đăng kèm bài nầy, độc giả thấy máy ảnh được đặt ở góc tây bắc của cầu Bến Đá, ống kính hướng ra phía quận lỵ Hải Lăng, nơi đặt bản doanh Lữ đoàn 369TQLC trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị vào tháng 7 và tháng 8/1972. Ảnh nầy lấy từ trang 195 trong cuốn “The Easter Offensive” (Trận Công kích Mùa Phục Sinh) của tác giả Gerald Turley được nhà xuất bản Presidio in vào năm 1985. Ở chương 18, ông đại tá nhân chứng trong tư cách cố vấn trưởng của SĐ3BB đã tường thuật:

Lúc 12 giờ trưa [ngày 1/05, ghi chú của NgyThanh] tướng Giai tuyên bố tình hình kể như tuyệt vọng; thành phố không thể cầm cự dù bất cứ tình huống nào. Ngay sau đó, hai chiếc thiết vận xa chạy vào thành cổ. Tức khắc, Giai cùng khoảng 25 sĩ quan cao cấp của ông trèo vào, hoặc ngổi bên trên các xe ấy để mở màn nỗ lực tẩu thoát về phía sông Mỹ Chánh. Hành động nầy bỗng dưng làm khoảng 18 quân nhân Mỹ bị bỏ rơi, phải trông chờ trực thăng đến di tản một cách vô vọng. Dave Brookbank và Glen Golden đã phải dùng kỹ năng của mình để lên kế hoạch chia nhau tử thủ cổ thành. Đến 2g00, hai chiếc thiết vận xa chở Giai và đoàn tùy tùng quay lại cổ thành. Hóa ra khi vừa ra khỏi thành phố mới chỉ được lối 1.5 km, xe của họ bị đối phương phác giác và tấn công. Đường thoát bị khóa, họ chỉ còn nước quay ngược về thành. Về tới, Giai tức thì gọi xin trực thăng để di tản ban tham mưu của mình… Bên trong cổ thành, việc chuẩn bị di tản tiếp tục với tốc độ chớp nhoáng trong khi các cố vấn Mỹ đốt bỏ tài liệu mật càng nhiều càng tốt song song với phá hủy tối đa các đồ quân cụ. Lúc 3g20, máy phát điện nổ. Vẫn chưa biết liệu có được di tản kịp không, nhưng các cố vấn đã bắt đầu nghe thấy tiếng súng nhỏ ngay phía ngoài tường thành, mỗi lúc mỗi nhiều, và khu vực cũ ngoài phố bắt đầu bốc cháy. Đến 4g30, chuyến trực thăng đầu tiên sà xuống. Ông Giai và các sĩ quan thân cận nhảy vội lên. 4g32, máy bay rướn lên, chở theo 37 hành khách. Chiếc thứ nhì nhào xuống, trong vòng hai hoặc ba phút, đã mang đi 47 người. Chiếc thứ ba xuống, bốc 45 người còn lại, với đại tá Murdock và thiếu tá Golden, là hai người sau cùng. Đến lượt chiếc thứ tư xuống, nhưng chỉ sau 30 giây, đã cất tàu trống lên khi các phi công biết là tất cả mọi người đã được cứu thoát. Cuộc di tản 129 quân nhân về Đà Nẵng đã kết thúc thành công. Thành phố bị cô lập và bỏ ngỏ…

Trước đó, giữa sáng 29/04, hai đại úy George Philips và Bob Redlin lái xe Jeep tới bộ chỉ huy Lữ đoàn 369TQLC để bốc thiếu tá Sheridan. Philips nói, ‘Chúa Mẹ ơi, ông có thấy gì ngoài quốc lộ không? Cả mấy ngàn người dân đang chạy, bỏ Quảng Trị lại sau lưng. Ngoài đó, nhìn vào phía nam hay ngược ra bắc đều thấy dầy kín dân tỵ nạn.

Đoàn người cứ thế tiếp tục trong nhiều tiếng đồng hồ. Khoảng giữa trưa 29/04, pháo binh Bắc quân lại bắt đầu ào ào nhả đạn vào đoàn người ấy. Khi đêm xuống, người tỵ nạn băng qua các vị trí bố phòng của TQLC. Đột nhiên, lúc 9g đúng, trừ những người chậm chân bị tụt hậu lại đàng sau, đoàn ngươi bỗng dưng đứt đoạn. Đại tá Mũ xanh Phạm văn Chung không lâu sau đó đã nhận được tin nguyên nhân sự đứt đoạn là bởi Bắc quân đã thành công trong việc cắt đứt Quốc Lộ 1 ở phía nam thành phố. Vậy rõ ràng là họ đã chiếm được cây cầu qua sông Nhung [cầu Dài, hoặc cầu Trường Phước, ghi chú của NgyThanh] do một cánh quân Biệt Động trấn giữ. Và như thế, nhiều bộ phận của Sư đoàn 3BB đã bị nhốt cứng cách phòng tuyến Mỹ Chánh độ 8 km về phía bắc.”

Đại Lộ Kinh Hoàng sau khi được Công binh bắt cầu Bến Đá và dọn quang lòng đường cho viện binh, chụp sau ngày 1/07/1972

Phóng viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun có dịp đi qua ĐLKH , đã tông thấy tấn thảm kịch và ghi lại trong cuốn “Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia” (Chẳng danh giá gì: Chiến bại ở Việt Nam và Cambodia):

Ở phần mở màn của trận phản công, binh sĩ Nhảy dù VNCH đã chứng kiến một trong những cảnh tượng khủng khiếp nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh: những tàn dư của một đoàn công voa gồm vừa lính tráng vừa thường dân bị đốt cháy và bị xé banh xác do bị kẹt lại ở phía bên kia của cây cầu đã bị giật sập [cầu Bến Đá, ghi chú của NgyThanh] để rồi bị tiêu diệt trên hành trình trốn chạy khỏi tỉnh. Trên chiều dài của nhiều dặm đường, xe cộ bị xé toạc thành từng miếng nằm nối đuôi nhau thành một hàng dài hầu như không đứt lìa dọc cả hai bên lề đường. Trên chuyến xe Jeep nhồi nhét đầy ắp nhà báo chạy về hương bắc một vài ngày sau khi lính Nhảy Dù qua sông, tôi đếm được hơn 400 xác xe trong 3 cây số đầu tiên, và tôi thôi không đếm nữa trước khi tới hết cái đuôi của sự tàn phá. Quân xa thì bạt che mui bị đốt cháy hay đã bay mất, chỉ còn trơ các thanh đỡ mui trông giống các que xương sườn của một bầy khủng long. Xen kẽ giữa chúng là các xác xe tư nhân nằm lộn xuôi lộn ngược: xe đò thì bên hông lăm dăm các lỗ thủng do mảnh lựu đạn hay đạn súng trường, xe đạp xe gắn máy bị vặn cong hoặc gảy gọng từng khúc, xe lam thì chiếc cháy chiếc bị xé từng mảnh, xe hơi cháy đen, đèn pha bị hất tung ra ngoài chỉ còn các lỗ trống như các hố mắt trên đầu lâu con người.”

Phần riêng thiếu tá Sheridan, ông ghi nhận những gì mà ông quan sát cảnh tượng vô bờ bến của tấn thảm kịch và sự tàn phá: “Đoàn người chạy giặc kéo dài hàng giờ và tôi nghĩ không đời nào còn có thể chứng kiến một hình ảnh tệ hại hơn khi mà vào sau giờ Ngọ, các pháo thủ của miền Bắc, vì lý do gì thì tôi sẽ không bao giờ hiểu thấu, đã khai hỏa các họng đại pháo trút đạn xuống đầu đoàn người. Hàng trăm người bị giết và bị thương, nhưng cái khối lúc nhúc người ấy tiếp tục ùn về phía nam. Chúng tôi không thể bắn trả vì tầm bắn của pháo binh địch xa hơn pháo của chúng tôi. Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy. Các tiền sát viên của họ, những người chấm tọa độ và chỉnh bắn trận mưa pháo đã đến đủ gần để khẳng định rằng đa phần là dân thường và không thể là một lực lượng quân sự.”

Ba trong nhiều hình ảnh do NgyThanh chụp trên ĐLKH đăng trên nhật báo Sóng Thần, hiện đang được bảo lưu tại viện đại học Cornell ở tiểu bang New York.

Vòng tròn khép kín

44 năm trước, trong tuần lễ nầy, quốc lộ tử thần giữa cầu Bến Đá và cầu Trường Phước bốc mùi tử khí. Thật là một trùng hợp lịch sử: trong tháng 7 năm nay, cuốn nhật ký chiến tranh Mùa Hè Cháy của tác giả Quý Hải, nguyên là một đại tá của Quân đội Nhân Dân, đã được tái bản.

Sáng 1/07/1972, khi tôi từ Huế theo chân phóng viên chiến trường Đoàn Kế Tường đến cầu Bến Đá nằm ở phía bắc phòng tuyến Mỹ Chánh, thì cầu xe đã bị giật sập như các nhân chứng khác đã tường thuật. Thấy khu vực hai đầu cầu vắng lặng, không có lính Nhảy Dù phòng ngự trong các hố cá nhân và giao thông hào, chúng tôi phán đoán là phía VNCH đã đẩy được đối phương lùi lại một khoảng, nên rủ nhau bò qua chiếc cầu sắt xe lửa cũng đã gãy gục thành hình chữ V xuống nước, nhưng vẫn có thể bò qua được, nếu may mắn trên thành cầu không bị cài mìn hay lựu đạn. Với một chút liều lĩnh và hiếu thắng của tuổi trẻ, chúng tôi đã bò qua dễ dàng. Ngay đầu cầu phía bên kia của quốc lộ, là một bãi mìn dày đặc, do công binh VNCH cài một cách công khai, ngụ ý đe dọa để ngăn chặn đối phương hơn là nhằm sát thương. Bắt đầu từ bãi mìn hướng ra phía bắc, là dãy xe nhà binh, xe dân sự, xe đạp, xe gắn máy và la liệt xác người như trong tấm hình duy nhất mà tôi còn giữ lại được cho những sử gia nghiên cứu về sau. Sau nhiều năm tìm tòi, tôi thấy cần bảo lưu tấm hình không đạt yêu cầu nghệ thuật của mình, vì ngoài một tấm thứ nhì do thiếu tá cố vấn Robert Sheridan thuộc TQLC Mỹ chụp, tất cả các hình ảnh “đại lộ kinh hoàng” còn lại đều được chụp sau khi Công binh Chiến đấu của Trung tá Trần Đức Vạn đã bắt xong cầu dã chiến qua sông Bến Đá, để mang xe ủi qua sông, cào một dải khá rộng giữa lòng đường làm tuyến tiếp viện binh sĩ, súng đạn và thực phẩm cho tiền quân. Nhờ có cầu dã chiến, các phóng viên khác đến sau chúng tôi không phải bò qua cầu sắt, nhưng họ lỡ dịp may ghi vào ống kính tình trạng nguyên vẹn của cảnh tượng mà tôi đặt tên là “đại lộ kinh hoàng” trong cú điện thoại gọi về tòa soạn Sóng Thần từ bưu điện Huế trong đêm 1/07/1972.

Nhưng Tường và tôi vẫn là những kẻ đến muộn những 2 tháng sau khi đã xẩy ra cảnh tượng kinh hoàng. Người biết về cảnh tượng rùng rợn nầy trước chúng tôi chính là viên sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 38 Pháo binh Bông Lau của miền Bắc, người ra lệnh từ đài quan sát ở cao điểm 132, và chịu trách nhiệm trên từng viên đạn pháo tầm xa, trong cuộc chiến nhằm “giải phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp của Mỹ Ngụy”.

************

Trong cuốn Mùa Hè Cháy, tác giả Quý Hải, bây giờ mang quân hàm đại tá, đã chỉ viết đúng một câu ngắn: “Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”

Là một trong hai nhà báo đầu tiên đặt chân đến và đặt cho địa ngục trần gian ấy cái tên “đại lộ kinh hoàng”, tôi thấy cái vòng tròn bao quanh cánh đồng chết giữa hai cây cầu Bến Đá và Trường Phước nay đã có thể khép kín, nếu người đặt tên là tôi, và cha đẻ của tác phẩm vấy máu đó chấp nhận ngồi đối diện nhau, cũng như đối diện với các oan hồn đã bị thảm sát.

Khi ngồi trước mặt nhau, tôi, một quân nhân mang cấp bậc Binh Nhất của miền Nam, chỉ xin phép thưa với thiếu tá pháo binh Nguyễn Quý Hải vài điều thật giản dị. Thứ nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau. Nhưng kiến thức của một Binh Nhất miền Nam có thể rất hạn hẹp, hay lầm lẫn; đề nghị thiếu tá hỏi lại thủ trưởng của mình, trung đoàn trưởng Cao Sơn. Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau [dám tấn phong liệt sĩ cho khẩu đội trưởng Nhúng, Trọng và đồng đội đã hy sinh tại trận địa ngày 22/04/1972 mà không cần chờ chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP, ngày 1/06/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng] – rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ nhất. Thứ nhì, cây kim trong đống rơm còn có lúc phải thò ra ánh sáng, nữa là đoạn từ lộ dài trên 5km, xác xe đan vào nhau từ vệ đường bên nầy sang bên kia, bề ngang còn lớn hơn cả đoạn Bát Đạt Lĩnh của Vạn Lý Trường Thành, hà tất từ quỹ đạo địa cầu cũng có thể thấy đại lộ kinh hoàng. Hay là ông đại tá Bắc Việt chưa có đủ thông tin, hoặc giả thông tin chưa chuẩn xác về những nạn nhân của Bông Lau, chủ yếu là dân thường?

Tôi xin kể một mẩu tin ngắn để mua vui cho người hùng Bông Lau: mới đây thôi ngày 31/05/2016, tại giao lộ Briardale và Brook Canyon trong thành phố Charlotte, bang Bắc Carolina, một chị tài xế, để tránh khỏi cán một con mèo trên đường, đã làm chiếc xe buýt chở học sinh của chị lạc tay lái, húc văng một xe hơi đang đổ bên đường, rồi lao vào một căn nhà, gây thương tích cho 14 học sinh và bản thân chị. Chuyện nầy nhỏ như chuyện xe cán chó chó cán xe bên mình, chẳng ai buồn nhớ lại sau khi đọc cái tin, vì tránh không sát hại thú vật đã trở thánh nếp sống văn minh của con người. Thành thử, đoạn văn mà nhà văn đại tá dùng để kết án Mỹ ngụy thâm độc dùng máy bay thả bom vào những đoàn xe để phi tang, tôi không nghĩ là có cơ sở, sẽ có ai tin, mà tự nó vạch trần cho người đọc thấy được một nỗ lực lấp liếm, tráo trở kém trình độ. Muốn có người tin, e rằng trước tiến cần thu hồi toàn bộ sách Mùa Hè Cháy đã in, để hiệu đính vô số lỗi văn phạm, lỗi cú pháp và cách hành văn tối nghĩa như mõm chó, cũng như phải sửa lại đoạn vừa trích dẫn, vì chỉ vỏn vẹn có 40 từ, mà nhà văn lớn đã vấp phải lỗi điệp ngữ vĩ đại.

Thưa Đại tá Quý Hải:

Chiến tranh lùi lại sau lưng chúng ta đã 41 năm. Chuyện chết chóc và đau thương đã trở thành quá khứ. Nay người dân đang cần những tác phẩm mang tính chính sử, chứ không là ngụy sử. Nếu những trách nhiệm mà tướng Thân Trọng Một gây cho người dân Huế có thân nhân bị chôn sống hồi Mậu Thân đến nay vẫn trong diện ưu tiên cần né tránh, thì chắc chắn việc đại tá ra lệnh và điều chỉnh đường bắn, làm chết ít ra 1.841 người mà chính tay chúng tôi lượm được xác ba tháng sau đó – cũng chưa cần phải đưa đại tá ra trước vành móng ngựa của Tòa án Hình sự Quốc tế ở Hà Lan, để trả lời về tội ác chiến tranh, hay tội ác chống lại loài người. Mặc dù thiếu tá Robert Sheridan viết “Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy”, nhưng là người Việt Nam với nhau, tôi sẽ sẵn sàng bày tỏ lòng kính trọng của mình dành cho tập thể Quân đội Nhân dân, trong đó có đại tá – với điều kiện đại tá nhận lời mời gọi kính cẩn của tôi, để mang vòng hoa trắng, đến thăm đài tưởng niệm các nạn nhân đã bị giết oan, và cầu cho oan hồn họ tiêu diêu cõi vĩnh hằng. Nếu dám đến, với sự hối tiếc chân thành, và với tư cách là người gây ra biến cố “Đại Lộ Kinh Hoàng”, tôi cho rằng đại tá Nguyễn Quý Hải xứng đáng được tha bổng.

NgyThanh

1/07/2016

Anh Thành Nguyễn gởi

Phút lâm chung con người nhìn thấy gì !?

From facebook:  Phan Thị Hồng added 4 new photos — with Hoang Le Thanhand Đào Nguyên.
Phút lâm chung con người nhìn thấy gì !?

Mỗi người sinh ra đã sẵn nằm trong vòng quay của sinh lão bệnh tử. Đối với nhiều người thì cái chết là một bi kịch song đối với những người có niềm tin vào cõi vĩnh hằng và vòng tay của Đức Chúa Trời thì cái chết ấy đã không còn quá đỗi sợ hãi, …

Ảnh: Sơ Cecilia sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi đã nở nụ cười rạng rỡ trên môi trước khi trút hơi thở cuối cùng.Sơ Cecilia từ lâu đã vật lộn với căn bệnh ung thư phổi, không thể nói chuyện và chỉ có thể ra hiệu bằng cử động yếu ớt. Vào giây phút cuối cùng trước khi ra đi, sơ đã nở nụ cười mãn nguyện, khiến những người xung quanh không khỏi xúc động.

Xin giới thiệu cùng các bạn bài tóm tắc cô đọng cuốn sách “Hồi ức về cái chết” của Tiến sĩ Raymond Moody, ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.

Cầu mong một sự nhẹ nhàng, an lành và mãn nguyện khi chúng ta rời khỏi cuộc đời để về thế giới bên kia !
*

Giây Phút Trước Khi Chết Con Người Sẽ Nhìn Thấy gì? ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.
10 Thể Nghiệm Thần Kỳ Nhất

Người tóm lược: Thôi Chân Tri 
Dịch giả: Việt Nguyên

Tiến sĩ Raymond Moody, nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ đã nghiên cứu 150 trường hợp trải qua trạng thái “chết lâm sàng” sau đó hồi sinh trở lại. Sau khi tập hợp những nghiên cứu trong vài thập kỷ ông đã xuất bản cuốn “Hồi ức về cái chết” nhằm giúp con người vạch ra chân tướng của cái chết.

Có một sự tương đồng không thể xem nhẹ trong lời kể của những người đã “trải nghiệm cận kề cái chết” này, đại khái có thể quy về mười điểm sau:

1. Biết rõ về tin mình sẽ chết – Họ tự mình nghe thấy bác sĩ hoặc người khác có mặt tại nơi đó tuyên bố rõ ràng về cái chết của mình. Anh ấy sẽ cảm thấy cơ thể trở nên yếu ớt đến cùng cực.

2. Trải nghiệm niềm vui – “Trải nghiệm cận kề cái chết ” ban đầu sẽ có cảm giác yên bình và thanh thản, khiến con người thấy vui sướng. Đầu tiên sẽ cảm thấy đau, nhưng nỗi đau này chỉ lóe lên rồi qua đi, sau đó sẽ thấy mình lơ lửng trong một không gian tăm tối, một cảm giác dễ chịu mà chưa từng được trải nghiệm bao bọc lấy anh.

3, Âm thanh kỳ lạ – Khi “sắp chết”, hoặc lúc “chết đi” khi có một âm thanh kỳ lạ bay tới. Một phụ nữ trẻ cho biết cô nghe đã thấy một giai điệu giống như một khúc nhạc và đó là một khúc nhạc tuyệt vời.

4, Tiến nhập vào lỗ đen – Có người phản ánh rằng họ cảm giác bất ngờ bị kéo vào một không gian tối. Họ bắt đầu có cảm giác, giống như một khối hình trụ không có không khí, cảm giác như một vùng quá độ, vừa là đời này, vừa là một nơi xa lạ nào khác.

5, Linh hồn thoát xác – Chợt thấy mình đang đứng ở một nơi nào đó ngoài cơ thể mình, quan sát cái vỏ thân người của mình. Một người đàn ông chết đuối nhớ lại anh đã tự mình rời khỏi cơ thể, đơn độc trong một không gian, thấy mình tựa giống một chiếc lông.

6. Ngôn ngữ bị hạn chế – Họ dùng hết sức mình để nói cho người khác biết hoàn cảnh khó khăn của mình nhưng không ai nghe thấy lời họ nói. Một người phụ nữ nói rằng: Tôi đã cố gắng nói chuyện với họ, nhưng không ai có thể nghe thấy.

7, Thời gian như biến mất – Trong trạng thái thoát xác, cảm giác về thời gian như biến mất. Có người hồi tưởng lại rằng trong khoảng thời gian đó anh đã từng ra vào cơ thể mình rất nhiều lần.

8. Các giác quan vô cùng nhạy cảm – Thị giác và thính giác nhạy cảm hơn trước. Một người đàn ông nói rằng ông chưa bao giờ nhìn rõ đến như vậy. Trình độ thị lực đã được nâng cao đáng kinh ngạc.

9. “Người” khác đến đón – Lúc đó xung quanh xuất hiện một người “Người” khác. “Người” này hoặc là tới giúp họ quá độ tới đất nước của người chết một cách bình yên, hoặc là tới nói với họ rằng hồi chuông báo tử vẫn chưa vang lên, cần quay về trước đợi thêm một thời gian nữa.

10. Nhìn lại kiếp nhân sinh – Lúc này người trong cuộc sẽ nhìn lại toàn cảnh bức tranh cuộc sống đời mình. Khi bản thân họ mô tả lại thời gian ngắn ngủi giống như “cảnh nọ nối tiếp cảnh kia, chuyển động theo trật tự thời gian các sự việc xảy ra, thậm chí các bức ảnh nối tiếp nhau, một vài cảm giác và cảm xúc đều như được thể nghiệm lại một lần nữa.

Tiến sĩ Raymond Moody là một học giả và khoa học gia nổi tiếng thế giới, ông lần lượt giành được hai học vị tiến sĩ về triết học và y học. Ông nghiên cứu sâu về lý luận học, logic học và ngôn ngữ học, sau đó ông lại chuyển hướng đam mê sang nghiên cứu y học, và quyết tâm trở thành một học giả về bệnh tâm thần. Trong khoảng thời gian này ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.

Từ khi cuốn sách “Hồi ức về cái chết” ra mắt từ năm 1975, nó đã đạt mức doanh thu kỷ lục toàn cầu với hơn 100 triệu bản, chỉ riêng tại Đài Loan đã tiêu thụ 13 triệu bản và được biết đến như một siêu phẩm bán chạy nhất. Cuốn sách đã thay đổi khái niệm về sự sống và cái chết của những người bình thường, đưa nghiên cứu “Trải nghiệm cận kề cái chết” vào một bước ngoặc mới, chính thức xâm nhập vào tầm nhìn giới y học phương Tây chủ lưu.

Nhằm khích lệ thành quả nghiên cứu khoa học nhiều năm qua và nỗ lực không mệt mỏi cho việc phổ cập công việc, năm 1988 ông đã được trao “Giải thưởng Chủ nghĩa Nhân đạo Thế giới” tại Đan Mạch.

Image may contain: 1 person, smiling
Image may contain: one or more people and people sitting
Image may contain: 2 people, people sleeping and indoor
Image may contain: one or more people and people sitting
 
Hoang Le Thanh
Hoang Le Thanh Cảm ơn bài đăng tóm tắc cuốn sách “Hồi ức về cái chết” và lời cầu mong:
“Cầu mong một sự nhẹ nhàng, an lành và mãn nguyện khi chúng ta rời khỏi cuộc đời để về thế giới bên kia !” của bạn Phan Thị Hồng.
Thiết nghĩ, chỉ có những con người hiểu sâu về chân giá trị cuộc sống và một cuộc đời nhân bản mới có thể ra đi một cách nhẹ nhàng, êm ái!
*
Lời cầu mong mọi người thanh thản đón nhận cái chết như một sự đương nhiên mà ai cũng một lần trãi nghiệm, đồng thời cũng nhắc nhở cho những con người độc ác, đen tối hãy biết ăn năn, hối cải để cuộc đời đáng sống và có giá trị hơn !!!
Cảm ơn bạn!

 
V Phung Phung
V Phung Phung     Sáng nay có tham dự lớp Tân tòng, xin ghi lại một câu rất ý nghĩa trong bài đầu tiên của lớp Tân tòng, nói về Đức tin: Đức tin là bảo đảm phu’c lộc mà mình hy vọng, là chứng minh những thực tại mà mình không xem thấy (Do thái 11,1)

Một ông ở Sài Gòn và những chuyến xe cuối đời miễn phí

Một ông ở Sài Gòn và những chuyến xe cuối đời miễn phí

Ông Nguyễn Ru Bi (phải) bên chiếc xe cấp cứu giúp chở thi thể người nghèo về các tỉnh miễn phí. (Hình: Báo SGGP)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Gần một năm nay, một ông ở quận Tân Phú đã thực hiện gần 20 chuyến xe đưa thi thể các bệnh nhân nghèo từ bệnh viện về nhà ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, An Giang, Sóc Trăng, Phú Yên, Khánh Hòa… miễn phí.

“Có bệnh nhi ba tháng tuổi bị bệnh tim bẩm sinh vừa qua đời. Bé này nhà nghèo lắm, mấy giường bệnh xung quanh góp lại người mấy chục, người trăm ngàn để gia đình có tiền đưa bé về quê an táng. Anh xem thử, nếu được thì giúp nhé.”

 

Cuộc gọi bất ngờ vào một ngày cuối năm 2016 ấy đã khởi đầu duyên thiện nguyện của ông Nguyễn Ru Bi, quận Tân Phú, Sài Gòn, với những bệnh nhân nghèo, theo báo SGGP.

Thời điểm đó, ông Ru Bi đang có hai xe cấp cứu làm dịch vụ chuyên chở các bệnh nhân. Nghe vậy, ông liền vào bệnh viện tìm gia đình cháu bé. Thương hoàn cảnh gia đình này, ông quyết định chở thi thể cùng mẹ và bà ngoại của cháu bé về quê ở tận huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, hoàn toàn miễn phí thay vì lấy 4.5 triệu đồng (khoảng $192).

Đến nơi, nhìn căn nhà lá nhỏ xiêu vẹo, nằm hiu quạnh giữa đồng trống, cảm động trước hoàn cảnh quá cơ cực của gia đình này, ông Ru Bi hỗ trợ thêm 2.5 triệu đồng (khoảng $110).

Cảm nhận cuộc sống này có những mảnh đời cơ cực, khi nằm xuống còn phải dựa vào lòng hảo tâm của người khác mới có thể có được chuyến xe cuối đời về nhà, từ đó đến nay ông Ru Bi đã thực hiện gần 20 chuyến xe đưa thi thể bệnh nhân nghèo từ bệnh viện về nhà ở khắp các tỉnh, thành phố.

“Đọc trên báo thấy một số câu chuyện vì gia đình quá nghèo không có tiền thuê xe, phải dùng chiếu cuốn thi thể người nhà, chở bằng xe gắn máy từ bệnh viện về nhà mai táng, tôi càng muốn góp phần nhỏ bé của mình để bớt đi những câu chuyện đau lòng đó,” ông Ru Bi nói.

Hiện nay, khi biết thông tin những trường hợp cần giúp đỡ qua bạn bè hay trên mạng xã hội, ông trực tiếp liên lạc để tìm hiểu gia cảnh nhằm hỗ trợ. Tùy theo từng trường hợp, ông sẵn sàng chở miễn phí hoặc lấy 50% chi phí cho mỗi chuyến xe.

“Chi phí này không ít, thêm vào đó là sự mệt mỏi sau chặng đường dài, nhưng chỉ cần một câu cảm ơn của gia đình người qua đời là tôi và các nhân viên đã ấm lòng, cảm thấy việc làm của mình có ý nghĩa,” ông Ru Bi cho biết.

Điều ông còn tâm tư là có những trường hợp gia đình quá khó khăn, không lo nổi áo quan cho thân nhân qua đời. Song trước mắt, khả năng của ông chỉ mới giúp được chi phí chuyến xe đưa cuối đường đời, nên ông mong có thêm sự tham gia của các mạnh thường quân chung tay để những người nghèo không may được lo chu toàn khi nhắm mắt xuôi tay.

Hiện công ty Vận Chuyển Cấp Cứu 24h, ở phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Sài Gòn, của ông đã có bốn xe cấp cứu chuyên dụng, nên ông càng có điều kiện mở rộng những chuyến xe nhân ái. (Tr.N)

Với Tứ Sa, Trung Quốc đang tiến tới đòi chủ quyền toàn bộ Biển Đông

Với Tứ Sa, Trung Quốc đang tiến tới đòi chủ quyền toàn bộ Biển Đông

RFA
2017-09-22
 

Bản đồ cho thấy những tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông

Bản đồ cho thấy những tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông

 AFP
 

Chính phủ Trung Quốc mới đây đã đưa ra một chiến thuật mới về pháp lý để đẩy mạnh đòi hỏi chủ quyền của mình ở khu vực biển Đông.

Theo trang tin Washington Free Beacon của Mỹ, chiến thuật này được ông Mã Tân Dân, Phó Tổng Giám đốc Cục Hiệp định và Pháp luật, Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đưa ra trong một cuộc họp kín với các giới chức Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 28 và 29 tháng 8 ở Boston, Mỹ.

Chiến thuật được nói đến gọi là ‘chiến tranh pháp lý’ bao gồm một sự dịch chuyển từ cái goi là đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra ở biển Đông, vốn chiếm đến 90% diện tích vùng biển này.

Chiến tranh pháp lý sẽ áp dụng đối với 4 vùng đảo và thực thể trên biển Đông hiện đang có tranh chấp giữa các nước bao gồm Nam Sa (Trung Quốc gọi là Nansha) tức Trường Sa, Tây Sa (Xisha) là Hoàng Sa, Đông Sa (Dongsha) và Trung Sa (Zhongsha). Trung Quốc gọi các khu vực này chung là Tứ Sa.

Ông Mã nói rằng Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với Tứ Sa qua nhiều các đòi hỏi về pháp lý. Ông cũng tuyên bố đây là vùng nước lịch sử của Trung Quốc và là một phần trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này. Bắc Kinh cũng đòi chủ quyền đối với Tứ Sa như một phần của thềm lục địa mở rộng của mình.

Giải thích về đòi hỏi chủ quyền đối với Tứ Sa của Trung Quốc, Đại tá về hưu thuộc Hải Quân Mỹ Jim Fanell, người đã từng đứng đầu đơn vị tình báo của Hạm đội Thái Bình Dương cho rằng đây là một bước tiếp theo trong chiến lược ‘lát cắt salami’ được Trung Quốc áp dụng từ trước đến nay ở biển Đông, dần dần lấn tới và cuối cùng là đòi chủ quyền toàn bộ biển Đông.

Theo Washington Free Beacon, các giới chức  Bộ Ngoại giao Mỹ đã tỏ ra ngạc nhiên về kế hoạch mới của Trung Quốc. Tuy nhiên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Justin Higgins sau đó đã không đưa ra một bình luận nào với báo chí về cuộc họp này. Ông chỉ khẳng định lập trường của Mỹ từ trước đến này là không đứng về bất cứ bên nào trong đòi hỏi về chủ quyền ở khu vực biển Đông.

Chính sách ba chiến tranh là gì?

Chiến tranh pháp lý thực ra là một trong 3 chiến thuật trong chính sách ‘3 chiến tranh’ của Trung Quốc bao gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin và chiến tranh pháp lý đã được Quân Ủy Trung ương Trung Quốc đưa ra từ hồi năm 2003.

Trên thực tế, đây là chính sách đã được Trung Quốc áp dụng rất rõ ràng để đối phó với phán quyết của Tòa Trọng tại Quốc tế trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc được bắt đầu hồi năm 2013. Theo Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, Trung Quốc sử dụng các chiến thuật này nhằm làm phân tán sự chú ý của quốc tế vào quyết định mang tính ràng buộc về mặt pháp lý, vốn yêu cầu các bên tham gia Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) phải tuân thủ. Trung Quốc là một thành viên của Công ước này.

Hồi tháng 7 năm 2016, tòa Trọng tài Quốc tế đã ra phán quyết bác bỏ tính pháp lý của đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên biển Đông. Trung Quốc sau đó cũng đã lên tiếng bác bỏ phán quyết của tòa.

Mỹ cần phải có hành động đối phó

Tờ Washington Free Beacon trích lời của chuyên gia cao cấp Michael Pillsbury thuộc Viện Hudson ở Mỹ nhận định rằng chính phủ Mỹ hiện đang thiếu cả hai khả năng về chiến tranh pháp lý và đối phó với chiến tranh pháp lý của Trung Quốc. Ông nói “Trung Quốc dường như được tổ chức tốt hơn để thiết kế và thực hiện các chiến thuật pháp lý khôn ngoan để thách thức các quy tắc quốc tế mà không bị chế tài trừng phạt’. Ông Pillsbury cũng nói rõ hơn là có thể việc Trung Quốc áp dụng chiến thuật chiến tranh pháp lý ở biển Đông sẽ khiến Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chính phủ xây dựng một khả năng tốt hơn để đối phó với Trung Quốc và khi Mỹ có được một đơn vị như vậy thì sẽ dễ dàng hơn để đối phó với chiến tranh pháp lý của Trung Quốc, nhất là khi có sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc.

Quốc hội Mỹ hiện vẫn chưa phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển 1982 (UNCLOS) vì cho rằng Công ước sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Mỹ trên biển. Trung QUốc từ trước đến nay trên các diễn đàn quốc tế và kênh báo chí vẫn tuyên truyền rằng Mỹ là đạo đức giả khi không phê chuẩn Công ước.

Chuyên gia Pillsbury cũng cho rằng Mỹ nên triển khai một hàng không mẫu hạm hoặc một nhóm tàu viễn chinh vĩnh viễn ở biển Đông để cho Bắc Kinh thấy là những lời nói của Mỹ được củng cố bằng hành động chứ không chỉ là lời nói đơn thuần.

Một ngày không vội vã…

Một ngày không vội vã…

. ” Nếu chỉ còn một ngày để sống
Chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp
Phải chăng ta sống quá vội vàng
Nên ra đi chưa được bình an … ” 

Mỗi năm một lần , tôi về thăm Mẹ và các em hiện đang sống ở Montréal, Canada. Năm nay cũng như thuờng lệ, tôi về thăm nhà 2 tuần cuối tháng 6. Nói sao cho hết niềm vui gặp lại gia đình. Montréal vào mùa hè thật nóng bức, có ngày lên đến hơn 100 độ F, nên cả nhà thường rủ nhau đi ra ngoài chơi cho mát mẻ. 
  
Tôi còn nhớ sáng hôm đó, cả nhà định dẫn mấy đứa cháu ra công viên cho tụi nhỏ hưởng chút khí trời. Tôi thì đã thay quần áo từ lâu, cứ chờ mãi mà mọi người cứ “xàng qua xàng lại”, gần 9 giờ vẫn chưa xong, nhất là mấy đứa nhóc thì cứ lăng xăng chơi game, không ai chịu thay quần áo. 
  
Thế là tôi bắt đầu nổi quạu: “Nhà mình sao làm gì cũng như rùa bò vậy? Có đi hay không thì bảo …? 
  
Cô em tôi nhỏ nhẹ: “Thì từ từ, vacation mà lị, chị sống ở Mỹ riết rồi quen thói “stress out” hà … “. 
  
Cậu em trai thì nói: “Chị làm gì mà dữ vậy, chị có biết hôm nay là “ngày không vội vã” hôn ? 
  
Tôi ngạc nhiên, tưởng tai mình nghe lầm, nên hỏi lạiL “Ngày gì? Không vội vã là sao?”. 
  
Thế là Má tôi bật tivi lên. Trên màn ảnh, đài nào cũng đang nói về cái ngày đặc biệt này. Ồ, thì ra là từ vài năm nay, mỗi năm chính phủ Canada chọn ra một ngày, thường là vào mùa hè,  một ngày cuối tuần, và năm nay rơi vào ngày 26 tháng 6, gọi là “một ngày không vội vã”. 
  
Khoảng chừng vài tuần truớc đó, là báo chí, các cơ quan truyền thông đều loan báo và nhắc nhở để mọi người chuẩn bị. “Ngày không vội vã” bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến 9 giờ tối. Mọi người được khuyên là  “Bạn hãy ngủ cho thẳng giấc, thức dậy khi nào mình muốn. Hãy nhâm nhi tách cà phê, và ngồi ngắm khu vườn của bạn, nghe tiếng chim hót líu lo. Hãy đi ra ngoài nếu bạn thích, vào ăn trưa ở một restaurant nào mà bỗng dưng bạn muốn. Còn nếu không, bạn có thể mời bè bạn đến nhà làm BBQ. Bạn cũng có thể chạy xe đạp một vòng thành phố, hay nằm dài trên bãi cỏ của một công viên gần nhà, vân vân và .. vân vân ” . 
  
Tóm lại, chính phủ khuyến khích người dân: “Hãy enjoy từng phút giây hạnh phúc, bình an của … một ngày không vội vã. Hãy biết sống và tận hưởng Hạnh phúc ở quanh ta”, như lời của một người phóng viên trên đài tivi đang nói. 
  
 Rồi còn có các màn phỏng vấn vài người dân, hỏi xem họ dự định sẽ làm gì trong cái ngày đặc biệt này trong năm, thì đa số câu trả lời đều là “spend time với gia đình, người thân”. 
  
Có một cảnh trên màn hình làm tôi nhớ mãi. Hình ảnh một cụ già tóc bạc phơ, lụm cụm trả lời phỏng vấn với nụ cười móm mém: “Tôi luôn mong đợi và yêu nhất cái ngày này trong năm, vì đó là ngày duy nhất mà tất cả con cháu tôi không … bận rộn, chúng nó tề tựu đông đủ để họp mặt với tôi. Cám ơn chính phủ, cám ơn ân nhân nào đã “đặt ra” cái ngày ý nghĩa này …”. 
  
Thế là bỗng dưng tôi đổi ý. Tôi bảo gia đình :”Hôm nay là ngày đặc biệt, vậy thôi mình làm chương trình gì special đi nhé ..”. 
  
 Thế là cả nhà nhao nhao hưởng ứng, người thì bảo “khỏi nấu cơm, đi ăn tiệm cho khỏe”, kẻ thì nói ” nhà hàng đông lắm, đi xuống downtown chơi “. 
  
 Em trai tôi thì muốn đi xe đạp (ở Montréal có rất nhiều bãi cho mướn xe đạp, bạn chỉ cần “quẹt” cái credit card vô là có thể lấy xe đạp đi ngay) . 
  
Mấy cháu nhỏ lại muốn đi tàu Bateau Mouche. Rồi lại có ý kiến đi câu cá, hay đi xe ngựa một vòng thành phố. Và thế là giơ tay biểu quyết. Cuối cùng thì đa số thắng thiểu số : đi xuống Vieux-port (khu phố cổ) chơi và sẽ đi tàu Bateau Mouche. Thế là chúng tôi lên đường, thảnh thơi, không vội vã … 
  
Đường xuống phố đông nghẹt, và kẹt xe, thế mà không một xe nào bóp kèn. Thiên hạ ngồi trong xe, an nhiên chờ đợi, còn mở cửa kiếng xuống nhìn nhau cười, và vẫy tay “No hurry! Be happy!”. Tôi thật sự “thấm” được thế nào là ý nghĩa của 3 chữ “không vội vã !”.

 
 

 Đến chừng xếp hàng mua vé đi tàu, thì lại là một hàng thật dài, trong cái nắng gắt của mùa hè. Vậy mà ai ai cũng cười, cũng nói, cũng bắt tay, với cả những người … không quen biết. Dường như con người ở đây, ngày hôm nay, không ai bị stress cả. Cả một thế giới hoà bình, thanh thản quanh tôi … 
  
Lúc bước xuống tàu, David, thằng cháu nhỏ 5 tuổi hối hả muốn chạy đến dành chỗ, thì bị Christina – cô cháu 4 tuổi , “chỉnh” ngay: “David ! Bữa nay là “No hurry day” mà, sao David cứ hurry hoài vậy?”, làm cả nhà cùng cười. Tôi cũng bật cười theo vì sự nhận thức dễ thương của cô bé này . 
  
Trưa đến, đói bụng, chúng tôi ghé vô một nhà hàng Tàu. Lại đông nghẹt khách, nhưng ai ai cũng vui vẻ xếp hàng đợi đến lượt mình. Đang đứng chờ thì người bên cạnh tôi, một phụ nữ Quebécois bắt chuyện hỏi tôi đã làm gì ngày hôm nay. Tôi kể lại một ngày vui chơi với gia đình cùng các cháu. Bà cười, chỉ hai người con “Chồng tôi mất lâu rồi, năm nào vào ngày này, tôi cũng để tụi nó quyết định muốn đi đâu, làm gì… Cuộc sống mà, có gì mà phải vội vã …”. Rồi bà tiếp: “Như trưa nay nè, bỗng dưng con gái tôi thèm ăn món lẩu Tàu, thế là chúng tôi vô đây, xếp hàng, nghe nói nhà hàng này món nào cũng ngon lắm ..”. Tôi gật đầu đồng ý và cảm thấy vui vui trong lòng…… 
  
Ăn no xong, thì đến chiều. Không ai muốn về nhà, thế là kéo nhau ra park chơi. Nhìn quanh, thiên hạ đông như kiến, tự dưng tôi thấy lòng mình vui chi lạ. Trải tấm chiếu trên bãi cỏ, tôi nằm xoải người, vươn vai một cái thật đã  Dường như hơn 10 năm sống trên đất Mỹ, tôi chưa hề có được cái “đã” nào như thế này. Cứ để mặc tụi nhỏ tha hồ chơi xích đu, cầu tuột, chạy chơi, la hét …  tôi nằm đeo cặp mắt kính mát, tận hưởng từng làn gió thoảng qua một cách khoái chí, do … nothing , lim dim … ngẫm nghĩ sự đời. Kể cũng lạ, nhờ có cái ngày này, mà tôi mới nhận ra là hình như trong đời, tôi chưa hề bao giờ có được một ngày không …vội vã … 

… Sinh ra và lớn lên ở Saigòn, trong một gia đình nghèo, nên tôi biết rất rõ là chỉ có ráng học thì mới có thể giúp tôi thoát khỏi cái kiếp nghèo muôn thuở đó. Ngay từ nhỏ tôi đã rất hiếu học. Từ lớp tiểu học, đến phổ thông, rồi đại học, cả đời tôi chỉ biết có sách vở, và suốt ngày chỉ cắm đầu cắm cổ mà học. Tuổi thơ tôi chưa hề có một ngày không vội vã. Hôm nào cô giáo bệnh, được nghỉ và về sớm, trong khi các bạn bè cùng trang lứa lăng xăng tìm chỗ đi chơi, hay la cà các hàng quán, thì tôi lại vui mừng vì .. có thêm giờ để học bài. Tôi hối hả đạp xe về nhà, rửa mặt vội vàng và ngồi vào ngay bàn học. Bài thi nào cũng vậy, được 9 điểm là tôi buồn, vì phải điểm 10 cơ thì tôi mới chịu. Mọi người luôn bảo là tôi thích sự tuyệt đối, và như vậy thì đời tôi sẽ khổ… 

  Vào đại học, 5 năm, tôi lại chưa hề có được một ngày không vội vã. Lúc nào tôi cũng bận rộn, với bài vở và với những cuộc thi. Tôi luôn tham lam, mong muốn mình phải đạt điểm 10 trong mọi bài thi. Tôi sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, miễn sao đạt được điểm tối đa là tôi vui. Có lần nhỏ bạn thân bảo tôi một câu chí lý: “Học mà  không chơi giết mòn tuổi trẻ, Chơi mà không học giết cả tương lai ..”. Tôi nói ngay: “thì bởi vậy, tao học nè, chỉ có cái học mới giúp mình thoát ra khỏi nghèo khó”, nhỏ bạn cười: “Tao thì chọn … cả hai, vừa học vừa chơi, miễn sao không thi lại là “đủ xài” rồi, rồi mai này mày sẽ hối tiếc khi tuổi trẻ trôi qua uổng phí … “. Tôi chỉ cười, nhưng bây giờ mới nhận ra là nó có lý … 
  
Ra trường ở Canada, đi làm, tôi lại lao vào công việc, làm thật nhiều, để mong kiếm thật nhiều tiền trong thời gian ngắn nhất. Tôi tình nguyện làm 7 ngày 1 tuần, mỗi ngày 13 tiếng. Ròng rã 3 năm thì tôi đuối sức, nên đành giảm bớt chỉ làm 5 ngày. Mười năm trời, tôi dành dụm đựơc một số tiền, và nỗi ao ước, làm giàu, thật nhanh, đẩy tôi vào thị trường chứng khoán. Tôi say mê chơi stock, nên ngày nào tôi cũng luôn bận rộn với Wallstreet, với giá cả và những con số lên xuống của từng công ty. Trúng stock, chỉ qua một đêm, tôi bỗng nhiên thành triệu phú. Ấy thế mà tôi vẫn chưa có được một ngày không bận rộn. Ngay hôm đó, đầu tôi lại tính toán cách đầu tư nào để nhân đôi, nhân ba số tiền tôi đang có. Thế là lại mạo hiểm, lại chơi những ván bài to hơn.  Ông bà ta đã có câu: “Có gan làm giàu kia mà”. Tôi đã có gan, và tôi đã giàu, thì bây giờ nếu muốn giàu hơn, tôi cần phải có gan hơn …
Thị trường chúng khoán sụp đổ, tôi  trở tay không kịp, thế là mất trắng. Tôi không nản “không sao, còn sức khoẻ, còn quyết tâm, ta có thể làm lại từ đầu, thì sẽ có tất cả”. “Có chí thì nên”, nên tôi quyết định qua Mỹ, vì Hoa kỳ là đất nước của cơ hội. Tôi lại lao vào công việc, cần cù, ký cóp … để dành tiền. 
  
 Vào những năm sau 2000, ngành dược và computer đang lên cơn sốt thiếu người. Thế là thiên hạ ùn ùn đổ sang Mỹ, vì làm việc nhiều tiền hơn. Tôi lại đi làm full time, 5 ngày một tuần, và luôn sẵn sàng làm overtime bất cứ khi nào công ty cần. Tôi đi làm từ sáng đến tối, ăn thì “cơm chỉ”, food to go, không xài gì cả, cắc ca cắt củm để dành từng đồng xu, hy vọng sẽ có cơ hội đổi đời … Và rồi thì cơ hội đến thật, khi cơn sốt bất động sản bùng nổ. Giá nhà cửa tăng vùn vụt  từng ngày. Hễ ai chậm tay là … sorry, ráng mà chịu khó ngồi nhìn “căn nhà mơ ước” vuột khỏi tầm tay, bạn nhé. Và tôi lại bị cuốn xoáy vào cơn lốc này, như hàng triệu người ở xứ Mỹ . 
  
Mỗi tuần chỉ có được hai ngày nghĩ làm, tôi rời nhà từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối, lái xe khắp mọi ngõ ngách, để tìm xem có căn nhà nào “For sale by owner” không, hay có căn nào trông lụp xụp mà mình có thể tân trang chút đỉnh lại rồi “flip”, kiếm vài chục ngàn bỏ túi. Có những bữa tôi không có cả thời giờ để ăn cơm, mua vội vàng chút food to go bỏ bụng. “Thảy” 1 căn nhà, wow, ngon ăn quá, tôi làm căn thứ nhì, rồi thứ ba. Lòng tham con người là không đáy kia mà. Thì đùng một cái, cái “bong bóng” nhà đất nổ tung. Bao nhiêu kẻ mất nhà, tay trắng, và có tôi trong số đó. Từ một triệu phú (lần thứ hai), tôi trở thành người mang nợ ngập đầu. Và thế là tôi phải đi làm bù đầu bù cổ để ráng cầm cự mấy căn nhà. Đến chừng thật sự đuối, thì tôi đành phải buông – trong cay đắng,  vì không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi shortsale mấy căn nhà, trước khi để nhà bank kéo. Rồi giờ thì tôi phải tiếp tục đi cày, cả đời, để mà trả nợ. Một bài học .. suốt đời không thể nào quên. Cho đáng kiếp mày, một kẻ tham lam …
  
Hôm nay nằm dài trên bải cỏ, hít thở bầu không khí trong lành của một ngày nắng ấm, chẳng có việc gì phải làm, thế mà tôi thấy lòng mình, tâm mình sao mà thảnh thơi chi lạ. Giờ phút này, tôi không giàu, nhưng sao tôi lại có được sự bình an, điều mà đã hai lần là triệu phú, tôi hoàn toàn chưa bao giờ có được. Thật sự tôi phải cám ơn chính phủ Canada, hay cám ơn người ân nhân “trí tuệ” nào đó, đã nghĩ ra cái ngày đặc biệt này trong năm, để giúp người dân biết trân quý sự thanh thản mà cuộc sống ban cho chúng ta. … 
  
Bỗng dưng tôi chợt nhớ mới cách đây vài tuần, tôi tình cờ gặp lại cô bạn củ hồi trung học, khi vô tiệm food to go ở Cali mua đồ ăn. Hai đứa chỉ kịp chào hỏi vài câu, thì cô bạn vội vã về đón con, còn tôi thì lật đật đi ra xe sợ trễ giờ làm. Cô bạn than “Sao cuộc sống tụi mình lúc nào cũng tất bật quá há, chỉ khi nào hết thở  thì mới hết … bận rộn …”. 
  
Tôi chỉ cười “Xứ Mỹ mà lị …” . 
  
Cô bạn tự dưng hỏi xin địa chỉ email của tôi, rồi bảo rằng “sẽ email gửi cho bồ một bài ý nghĩa lắm”, rồi cô cười nói thêm “nhưng đọc thì hay, mà làm có được hay không lại là chuyện khác . ..”. 
  
Tối đó check mail, tôi nhận được ngay, với vài dòng nhắn nhủ “Bồ ráng cố gắng thực hành theo lời khuyên trong bài này nhé, còn mình thì … đời vẫn lăng xăng .. “. 
  
Tôi bật cười , và click vô đọc bài viết ngắn của cô bạn: 
  
BẬN RỘN làm cho ta không có bình an và hạnh phúc 

BẬN RỘN làm cho sự hành xả của ta vụng dại 

BẬN RỘN làm cho cÁi hiểu biết của ta khô cằn 

BẬN RỘN làn cho sự sống của ta ngắn lại 

BẬN RỘN khiến ta không thấy được cái đẹp của người ta thương yêu 

BẬN RỘN khiến ta đi trên đường như ma rượt … 
  
Đời sống bận rộn là đời sống … bất hạnh nhất trên đời … ! 
  
Thế đấy, nhưng con người ai ai cũng luôn tìm đủ mọi lý do để mà … BẬN RỘN. 
  
Và rồi một ngày kia, thử hỏi có ai mang theo được cái “BẬN RỘN” về bên kia thế giới? 
  
Hãy biết dừng lại 

Hãy biết ngơi nghĩ 

Hãy tập thanh thản 

và buông xả,  thảnh thơi … 
  
thì khi cái ngày ấy đến, chúng ta mới có thể ra đi với cái tâm … KHÔNG … BẬN RỘN …. !!! 
  
Đúng vậy, dường như chúng ta, ai ai cũng luôn tự tìm cho mình một “lý do” để mà bận rộn, mà chưa hề bao giờ biết cách “nếm” được hương vị cuộc sống của mỗi ngày. Tôi chợt nhớ đến cô Kim Anh, cô cũng đã bảo tôi câu này khi bác sĩ cho biết là cô chỉ còn vài tháng để sống, và cô đã nói với tôi “Mỗi người đều có số phần, cô cũng  mừng là cô còn “vài tháng”, thì ít nhất cô cũng sẽ có được vài tháng sống trong bình an, không vội vã..”. 

 Chiều xuống, trời bắt đầu ngã tối. Thiên hạ lần lượt rời công viên. Cả nhà tôi cũng lục đục thu xếp đồ lại. 
  
Bé Tina có vẻ nuối tiếc, bé hỏi bà chị tôi “Mommy, ngày mai có còn là  “No hurry day” hôn?”. 
  
Chị tôi cười “Hết rồi con, mỗi năm ở Canada có một ngày hà .. “. 
  
Na phụng phịu “Na muốn every day đều là  “No hurry day” cơ…”. 
  
 Chị tôi nói ngay “Dễ thôi con, nếu mỗi ngày mà con biết enjoy, thư thả, con đừng làm việc gì gấp gáp hết, thì mỗi ngày sẽ là “No hurry day”  rồi.. .”. 
  
Tôi đứng đó, nuốt từng lời bà chị nói, và cảm thấy  “ganh tỵ” với đứa cháu của mình, vì chỉ mới 4 tuổi, mà cháu đã được học một bài học quý giá nhất trên đời, còn tôi, gần nữa đời người mới được học bài học đó … 

Lên xe, cậu em trai mở nhạc, vặn thật lớn bài hát mà tôi rất thích: 
  
… ” Nếu chỉ còn một ngày để sống
Chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp
Phải chăng ta sống quá vội vàng
Nên ra đi chưa được bình an … ”
  

Đúng thật , cả một đời tôi luôn sống quá vội vàng, thì làm sao có thể ra đi bình an? Một lần nữa, xin cám ơn cái ngày đặc biệt này, đã giúp tôi có một cái nhìn mới, khác hơn về cuộc sống … 
  
Tự dưng tôi nhớ đến hai cô bạn thân. Cô bạn đạo Chúa thì chủ nhật nào cũng đi nhà thờ, hễ rảnh là đọc cuốn Thánh kinh nhỏ lúc nào cũng kè kè trong bóp. Cô hay nói với tôi “Chúng ta nên làm theo lời dạy của Ngài, thì lúc ra đi, mình sẽ được lên Thiên đàng với Chúa ..”. 
  
 Nhỏ bạn đạo Phật thì hễ rảnh là đến Chùa, niệm Phật, nó nói tôi “Ở lành, giữ ngũ giới, làm từ thiện, thì chắc chắn sẽ được về với Phật ..”. Còn giờ phút này, tôi hiểu ra một điều “Nếu như chúng ta biết tự làm cho mỗi ngày của mình thành “MỘT NGÀY KHÔNG VỘI  VÔ , thì chúng ta sẽ có được 365 ngày một năm đang sống ở Thiên đàng, hay Niết bàn … rồi đó … 
  
Chúc mỗi người trong cuộc đời, luôn có được những ngày … không vội vã …

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Sống một cuộc đời ít phiền muộn

Sống một cuộc đời ít phiền muộn


Tôi vừa đọc một cuốn sách cũ, tôi đã học được nhiều bài học sâu sắc. Tôi cảm thấy nó là cách rất tốt để mọi người có thể sống một cuộc đời ít phiền muộn. Chính vì vậy, tôi muốn chia sẻ đôi điều mà tôi đã học được từ cuốn sách ấy với mọi người..!

  1. Sự thanh tịnh nằm ở trong tâm

    Cả đời làm việc, đến cuối cùng chỉ muốn bản thân được an nhàn để hưởng thụ cuộc sống. Bạn luôn muốn tìm kiếm sự thanh tịnh ở bên ngoài trong khi bạn không phát hiện rằng nó là cái mà ai cũng có thể đạt được mà chỉ cần lấy ra từ trong tâm. Nếu tâm của bạn bớt tham sân si, bớt ganh đua, ghen ghét… thì tự khắc bản thân sẽ thấy thật thanh thản và thấy đời bỗng nhẹ nhàng làm sao.

    2. Tức giận chỉ là một cục than hồng có thể làm đau người khác, nhưng người bị bỏng đầu tiên chính là bản thân bạn

    Sẽ có lúc bạn cáu gắt với mọi người nhưng bạn đâu ngờ điều đó lại làm hại chính bản thân mình. Đừng bao giờ nói bất kì câu gì khi bạn tức giận. Người ta thường nói : “Giận quá mất khôn”. Tôi nghĩ điều đó rất đúng, bởi tôi đã từng đánh mất một người bạn của mình chỉ vì nói ra những lời nặng nề kinh khủng khi bạn đó không làm tôi vừa ý. Lúc đó, tôi làm tổn thương người ấy để bây giờ tôi đánh mất một người bạn thân.

    Tha thứ cho người khác, hóa ra là đang “cởi trói” cho chính mình.”  Sự tha thứ không phải là những điều mà chúng ta làm cho người khác, mà chúng ta làm cho chính chúng ta đấy thôi”.

    3. Suy nghĩ sẽ định hình con người bạn

    Chúng ta nghĩ thế nào thì con người chúng ta như thế ấy. Bạn nghĩ bạn vô dụng, chắc chắn bạn sẽ không bao giờ làm nên trò trống gì vì bạn chẳng thèm hành động. Bạn nghĩ bạn thông minh, dĩ nhiên bạn sẽ thông mình vì tự bản thân sẽ biết cách tạo nên điều đó. Chỉ cần suy nghĩ tích cực thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi! Do đó, cuộc sống cũng sẽ ít buồn phiền, vì lúc nào bạn cũng cố biến mọi thứ bạn gặp phải trong cuộc sống thành niềm vui riêng cho mình.

    4. Biết người là thông minh, biết mình là sự giác ngộ

    Chiến thắng bản thân còn hơn là chiến thắng cả ngàn trận đánh. Đó là một bài học sâu sắc mà ai cũng cần biết. Tự chinh phục tâm chính mình chính là ải lớn nhất mà con người phải trải qua. Do đó, chúng ta phải tập thiền định để hiểu về chính bản thân mình. Biết được bản thân thích gì, làm gì để thỏa mãn nó chính là cách để bạn sống vui hơn mỗi ngày. 

    Đừng tưởng đây là điều dễ thực hiện vì có người đã mất cả đời chỉ để làm điều này thôi đấy! Chính tôi cũng là người sẽ phải rèn luyện nhiều trong thời gian tới.

    5. Thay thế đố kị bằng ngưỡng mộ

    Còn đố kị thì tâm bạn sẽ còn buồn phiền. Thay vào đó, chúng ta nên đón nhận sự thành công của người khác bằng sự ngưỡng mộ. Tâm bình thản, không so đo sự thành công của người với sự chưa thành công của mình, rồi lấy cái tốt của người khác để làm gương sẽ khiến bạn dễ dàng phấn đấu mà không có sự căm phẫn. Đố kị chỉ làm lòng người thêm nặng nề, nhơ bẩn, thậm chí vì đố kị con người có thể biến chất, tâm không thể tự kềm chế khiến mình làm những hành động xấu xa mà đôi khi chính bản thân mình cũng không ngờ tới.

    6. Nhân từ với tất thảy mọi người

    Luôn luôn nhẹ nhàng với trẻ con, yêu thương người già, đồng cảm với người cùng khổ, nhân từ với kẻ yếu thế và người lầm lỗi. Một lúc nào đó trong đời, bạn sẽ rơi vào những hoàn cảnh đó. Động lòng trắc ẩn với mọi người, kẻ giàu cũng như người nghèo; AI CŨNG CÓ NỖI KHỔ. Có người chịu khổ nhiều, có người chịu khổ ít.
    Nhân từ để yêu thương và đồng cảm với họ. Vì mỗi người có một nỗi khổ riêng chỉ có họ mới thấu. Bởi vì bạn luôn nhìn người bằng con mắt nhân từ nên đời bạn sẽ luôn đẹp. Mọi thứ đều hoàn hảo. Tâm can được thanh lọc bởi những hành động mà bạn dành cho người khác.

    7. Tùy duyên

    “Bàn tay ta vun đắp, thành bại thuộc vào duyên, Vinh nhục ai không gặp, có chi phải ưu phiền”
    Bài học sâu sắc cuối cùng mà tôi đã học được chính là hãy cố hết sức mình, đến kết quả thì hãy để mọi thứ tùy duyên. Như nhà sư đã nói, cái gì của mình thì nó sẽ thuộc về mình, còn cái gì không phải thì nó mãi mãi sẽ không thuộc về mình. Vì vậy, nếu muốn nắm bắt gì đó, đặc biệt là tình yêu thì hãy để tùy duyên.

    Bạn có thể cố gắng theo đuổi nhưng đôi lúc bạn cũng phải biết buông bỏ nếu mọi chuyện đã quá giới hạn và không còn khả năng cố gắng. Cứ nắm giữ chỉ làm bạn đau khổ rồi vấn vương muộn phiền sẽ là điều không thể né tránh. Tâm sẽ nhẹ nhàng nếu bạn để mọi thứ tùy duyên. Đó là cách để bạn có thể chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn.

    Sưu tầm

KimBằngNguyễn gởi

NỖI LÒNG KHI NGHE BA CHỮ “HÃY THEO TA”

NỖI LÒNG KHI NGHE BA CHỮ “HÃY THEO TA”

Phó tế Giuse Nguyễn Văn

“Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu.”  (Mt 9:9)

Hôm nay là ngày lễ kính thánh Mát-thêu, Tông Đồ và Thánh Sử, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại bài Phúc Âm của chính thánh nhân viết diễn tả lại giây phút Chúa Giêsu gọi thánh nhân theo Ngài.  (Mt 9:9-13).  Khi đọc hoặc nghe đoạn Phúc Âm này có bao giờ bạn tự hỏi không biết cảm xúc của Thánh Mát-thêu ra sao và như thế nào lúc đó?  Tôi tin chắc có lẽ thánh Mát-thêu đã có rất nhiều điều chạy lung tung trong đầu của mình khi Chúa Giêsu đi qua nơi ông đang làm công việc thu thuế.  Cầu nguyện theo cách hình dung tưởng tượng (imagination prayer) là cách hay nhất có thể giúp tìm ra câu trả lời này.  Vậy mời bạn và tôi mỗi người chúng ta hãy tưởng tượng mình là nhân vật “Mát-thêu” trong giây phút gặp Chúa Giêsu, một nhân vật nổi tiếng ngày xa xưa ấy nhé.

*****************************

Thôi chết rồi, ông Giêsu đang nhìn thẳng vào tôi.  Dạo  gần đây tôi đã nghe nhiều tiếng đồn về con người này.  Người ta đồn đại là có một người xuất thân từ cái làng nhỏ xíu hẻo lánh Na-za-rét có tên là Giêsu đã rao giảng về Thiên Chúa và làm nhiều điều mà từ trước đến giờ chưa có một tiên tri nào làm được…  Thiên hạ nói tùm lum đầu đường góc phố rằng ông Giêsu đã chữa lành mọi thứ bệnh tật như: người què và nằm liệt đi lại được, người cùi được khỏi, người mù được thấy, người điếc nghe được, và ngay cả người đã chết cũng được sống lại.  Đặc biệt là ông Giêsu còn đuổi được cả những thần dữ ra khỏi những người bị ma quỷ nhập vào người nữa.  Khi nghe những lời đồn đại này, trong lòng tôi cũng nổi lên một niềm ao ước được gặp con người này một lần cho biết thật hư ra sao.  Nhưng rồi mặc cảm người thu thuế, một tên “Do Thái gian” làm cho đế quốc La Mã đã dập tắt cái ao ước này ngay từ trong trứng nước.  Nhưng một vài ngày gần đây một người lính La Mã đã nói với tôi là ông Giêsu không kỳ thị bất cứ ai; cả những người lãnh đạo của tôn giáo và quân đội La Mã.  Thậm chí người này còn cho tôi biết là ông Giêsu còn chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng La Mã.  Điều này đã làm cho tôi vui trở lại và hy vọng trong lòng.

Các bạn có biết không, cái nghề thu thuế của tôi cũng có nhiều cái khổ lắm chứ không như nhiều người lầm tưởng đâu.  Tôi cảm thấy như mình đang bị mắc kẹt ở chính giữa cái kìm và cái búa.  Tôi phải làm đủ mọi cách để làm sao thu cho đủ số thuế đã ấn định cho nhà cầm quyền La Mã.  Nếu không thu đủ số thuế thì họ sẽ giao việc làm của tôi cho người khác.  Tôi phải ráng thu thập sao để lo cho bản thân mình và gia đình có một đời sống thải mái một chút chứ, phải không?  Nếu tôi không đủ mạnh mẽ chen lẫn dữ dằn, và một chút nhẫn tâm thì những người đồng nghiệp và dân chúng có thể sẽ hủy hoại cuộc sống của tôi và luôn cả gia đình tôi nữa.

Đương nhiên không một ai thích đóng thuế.  Nhưng đó là lỗi của người La-Mã chứ có phải tại tôi đâu.   Đồng hương của tôi không hiểu và không cảm thông cho tôi, nên họ đã giận dữ và khinh bỉ tôi.  Các nhà lãnh đạo tôn giáo Pha-ri-sêu thì cho tôi là loại người dơ bẩn, loại người đáng tránh xa vì lấy tiền của họ và của đồng hương dâng cho chính quyền La-Mã.  Đây thật là một nỗi khổ tâm mà tôi phải chịu đựng mỗi ngày khi bắt gặp những ánh mắt thù hận, khinh bỉ, và những lời nói chửi rủa thậm tệ rất đau lòng.

Vâng, tôi công nhận là tôi đã rất tò mò về ông Giêsu, và mong rằng sẽ có dịp được đứng từ đằng xa để có thể nhìn và nghe ông ta.  Nhưng khổ nỗi là những bận rộn của việc làm đã không cho phép tôi thực hiện điều này.  Ngày hôm ấy thật là một ngày may mắn cho tôi, vì ông Giêsu đã đến với tôi thay vì tôi đến với ông ta.  Tôi đã bủn rủn cả tay chân ra và không còn tâm trí đâu để có thể tính toán cộng trừ với những số tiền thuế khi bắt gặp ánh mắt ông Giêsu.  Từ rất lâu rồi, tôi đã từng thèm khát một ánh mắt nhìn tôi như thế này.  Một ánh mắt dịu hiền chuyển tải một tình thương và lòng cảm thông thay vì là những hận thù và khinh bỉ mà tôi gặp như cơm bữa mỗi ngày từ sáng cho đến tối.  Tôi cảm thấy hình như ông Giêsu đã thấy rất rõ những gì đang xáo trộn, ngổn ngang trong tâm trí và trong trái tim của tôi.  Ánh mắt của ông Giêsu như đang nói với tôi là ông ta đã biết tôi quá mệt mỏi và chán nản tất cả rồi, nhưng tôi lại quá yếu không đủ sức mạnh để có thể đi theo một hướng khác.  Rồi ông Giêsu nói với tôi “hãy theo ta.”  Giọng nói của ông ấy không lớn lắm, nhưng đột nhiên tôi cảm thấy ba chữ “hãy theo ta” vang vọng trong trái tim tôi rất mạnh.  Đây là câu trả lời cho một lối thoát mà tôi hằng tìm kiếm ngày đêm bấy lâu nay.  Tôi đã không ngần ngại bỏ lại tất cả ổ sách, tiền bạc thu thuế và đi theo ông Giêsu ngay lập tức.

Ông Giêsu đưa tay quàng vai tôi.  Lập tức nước mắt  của sự vui sướng đã tuôn trào trong đôi mắt của tôi theo từng bước chân đi của hai chúng tôi.  Các bạn ơi, ngày hôm đó là ngày vui mừng nhất trong lịch sử của cuộc đời tôi.

*****************************

Đó là nỗi lòng với những uẩn khúc, buồn vui mà Thánh Mát-thêu có thể đã cưu mang ngày xa xưa ấy; mà tôi đã cảm nhận được trong lúc cầu nguyện với phương cách tưởng tượng hình dung.  Tôi tin chắc rằng đời sống của người Kitô Hữu của tôi và của bạn cũng có những giây phút gần giống như của thánh Mát-Thêu.  Trong ngày lễ kính thánh nhân hôm nay, thiết tưởng rằng chúng ta nên làm phút hồi tâm, xét lại xem mỗi người chúng ta đã làm gì với những lúc buồn và vui trong cuộc sống.  Hãy dành một vài phút hồi tưởng lại xem tôi ở đâu và Chúa ở đâu trong những giây phút đó?  Những phút giây đó đã đưa tôi  đi đâu?  Nó đưa tôi tới gần Chúa và gần anh em hơn hay nó đưa tôi xa anh em và xa Chúa hơn?  Cho dù chúng ta đang làm gì đi chăng nữa: đi làm hay về hưu, làm thợ hay làm chủ, nhân viên hay làm xếp, học sinh, sinh viên, tu sĩ, giáo dân v.v… thì hãy mở lòng và ngẩng đầu lên để Chúa Giêsu có thể nhìn vào những mệt mỏi và bối rối trong tâm trí và trong tim của mỗi người chúng ta.  Chúa Giêsu cũng muốn nói “Hãy theo ta” như Ngài đã nói với thánh Mát-thêu ngày xưa, và mời gọi chúng ta đóng một vai trò nào đó qua ơn gọi của mỗi cá nhân cho việc xây dựng nước Thiên Chúa ngay ngày hôm nay ở đời sống hiện tại của mỗi người chúng ta ở trong gia đình, hàng xóm, giáo xứ, tu viện, công sở, trường học, v.v…

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa
ít là một lần trong đời.

Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,
xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi
và mời gọi con đứng lên theo Chúa,
bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.
Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,
xin hãy quay lại nhìn con
bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,
để con oà khóc như trẻ thơ.
Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,
xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương
như Chúa đã trìu mến
nhìn người thanh niên giàu có.
Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,
xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,
như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu
và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.

Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay
bằng ánh mắt của Chúa.

Chúa động lòng thương
khi thấy bao người yếu đau,
thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.
Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.
Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,
nhưng Chúa cũng vui
khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.
Ðôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ
trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,
và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.

 Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa.  

(Trích trong Rabbouni – Lm Nguyễn Cao Siêu, dòng Tên)

Lạy Thánh Mát-thêu xin cầu bầu cho chúng con.  Amen!

Phó tế Giuse Nguyễn Văn

Lễ Kính Thánh Mát-thêu 19 tháng 9, năm 2017

From Langthangchieutim

Đoàn làm phim The Vietnam War, trong đó 3 Việt cộng, 2 Mỹ phản chiến.

From facebook: Thuong Phan shared Lm. Lê Ngọc Thanh‘s post.
 
Image may contain: 8 people, people smiling, people standing and indoor
Lm. Lê Ngọc Thanh is with Manh Dang.

Đoàn làm phim The Vietnam War, trong đó 3 Việt cộng, 2 Mỹ phản chiến.
Vấn đề là người Mỹ gốc Việt phản ứng gì với đài truyền hình PBS này, vì The Vietnam War không phải là lần đầu tiên bản đài này nhục mạ cộng đồng người Việt, trước đó họ đã làm phim “Khủng bố ở Sài Gòn Nhỏ”. Hiện nay, VTV mua bản quyền chương trình truyền hình của PBS phát lại.

Như vậy đã đủ bằng chứng PBS và Việt cộng đi đêm với nhau chưa?