Bao Dung & Đều Giả

Bao Dung & Đều Giả

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

 

 

tuongnangtien

Khoan dung không chỉ là một phẩm hạnh của cá nhân, mà còn là một tính chất của cộng đồng và trách nhiệm của một quốc gia.

Lê Nguyễn Duy Hậu

Tạp Chí Luật Khoa mời gọi độc giả tham gia chủ đề “Thế Nào Là Một Quốc Gia Đáng Sống,” và đã nhận được nhiều bài viết thú vị.

  • Lê Quang Dũng: “Nơi quốc gia có đạo đức.”
  • Châu Tiểu Lan: “Nơi mọi nghề nghiệp đều có chỗ đứng đúng đắn trong xã hội.”
  • Đức Việt: “Nơi người dân có thể tự bảo vệ mình.”
  • Hân Bụi: “… nơi mà những người dân sống ở đó không ai muốn ra đi, từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình.”
  • Lê Nguyễn Duy Hậu: “Cần có nhiều yếu tố để một quốc gia trở nên đáng sống, nhưng yếu tố quan trọng nhất có lẽ là lòng khoan dung.”

Quan niệm thượng dẫn về “lòng khoan dung” khiến tôi nhớ đến một bài viết ngắn ngủi nhưng rất cảm động của tác giả Xuân Thọ về tình nghĩa thầy trò, và đức bao dung:

Tôi có rất nhiều thầy cô giáo cũ ở CHDC Đức (đều từ 70 đến 80 tuổi), đã về hưu từ ngày nước Đức thống nhất, nhưng vẫn có cuộc sống yên lành… Năm 2006 và năm 2011 tôi có mời một số anh chị em bạn học cũ từ Việt Nam sang Đức chơi, (có thể có người đang đọc bài này). Cả hai lần chúng tôi đều kéo nhau về trường cũ, bỏ tiền ra làm một bữa liên hoan, có cả âm nhạc Việt Nam, mời toàn bộ các thầy cô đến dự. Họ rất mừng và nói:“Các học sinh Đức cũ không ai nhớ đến chúng tôi, nhưng người Việt các anh chị quả là rất ơn nghĩa, 40 năm rồi vẫn nhớ đến chúng tôi”.

Nhờ chúng tôi tổ chức họp mặt họ mới có dịp gặp nhau, vì trường cũ đã giải tán và nội bộ của họ có nhiều vấn đề: mất đoàn kết, thù hận nhau, do chính quá khứ của đảng SED để lại, nên họ không bao giờ chủ động gặp nhau.

Trong số phận của các thầy cô, tôi chỉ xin kể 2 sự việc:

1- Bà Magdalena M. vốn là một bà giáo rất đẹp gái, tóc bạch kim, cao ráo, dáng rất sang, dạy kỹ thuật truyền tin. Sau 40 năm gặp lại bà vẫn như vậy và lái xe BMW mui trần đến dự liên hoan. Trước kia tôi không quan tâm đến cuộc sống của bà, nay thấy bà nổi bật lên giữa các vị giáo già nua thanh đạm. Bà bảo: Lương hưu giáo viên của bà thì tạm đủ, nhưng ông chồng bà là đại tá không quân Quân đội Nhân dân Quốc Gia CHDC Đức. Sau khi thống nhất ông được lương hưu tương đương như ông quan năm Tây Đức nên khá lắm! Bà buồn là ông mới mất và nay bà chỉ còn sống bằng lương hưu của bà và 1 phần lương hưu bà góa của ông (Witwenrente).

Bà M. than phiền với tôi là: So với ông đại tá ở phía Tây Đức thì cái tỷ lệ lương hưu để lại cho bà góa có ít hơn.

Tôi không biết điều bà M. nói đúng hay sai, nhưng tôi an ủi bà: Ngày trước ông nhà chỉ lo mỗi việc là tiêu diệt người ta, sau này người ta trả lương hưu hậu như vậy, lúc ổng qua đời, bà còn được lương bà góa của ông nhà thì chắc là sự bất công không bằng đồng bào tôi ở Sài Gòn đã chịu, họ không những không có lương hưu mà còn phải đi cải tạo, có người chết mất cả xác.

Bà M. không phản đối điều tôi nói và trầm ngâm hẳn. Từ đó đến nay, bà vẫn hay gửi email trao đổi chuyện chính trị với tôi.

2- Ông bà Joseph và Gundela GL. là hai người tôi coi như bố mẹ nuôi. Bọn con trai, mấy thằng Erwin, Peter, Michael vẫn chơi bóng đá với đám thanh niên Việt Nam chúng tôi, con bé Martina suốt ngày quấn quít với các bạn gái Việt. Suốt mấy chục năm xa cách tôi vẫn thư từ cho bà. Đùng một cái, từ năm 1990, sau thống nhất đất nước Đức, tôi mất liên lạc với bà. Tôi dò hỏi các thầy cô cũ thì biết cả hai ông bà từng là mật vụ chìm cho STASI (An Ninh CHDC Đức) nên khi chế độ sụp đổ, mọi việc vỡ lở, ông bà xấu hổ quá, đưa cả gia đình đi xa.

Từ khi sang Đức, tôi đã cất công tìm tung tích của ông bà, vì tôi vẫn nhớ đến tình cảm của họ đối với đám thanh niên Việt chúng tôi khi xưa. Là người Việt Nam, tôi thừa hiểu cái bi kịch “cá chìm” mà hàng triệu người Đông Đức hồi đó phải gánh chịu, dù là nạn nhân hay là thủ phạm. Đối với tôi tình cảm con người là trên hết.

Nhờ có Internet và hệ thống sổ điện thoại điện tử, tôi đã tìm được gia đình ông bà GL. Ông bà có một căn nhà nhỏ trên đảo Usedom, nằm trên biển Baltic, gần Ba-lan. Ông bà rút vào cuộc sống ẩn dật để tránh mọi quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp cũ. Câu con cả Erwin làm giám đốc trung tâm điều dưỡng trên đảo và vẫn chăm nom ông bà. Ông bà cảm động lắm và nói là họ đã mất hết bạn bè người Đức, nhưng may mà tôi đã đến với họ.

Điều làm ông bà ân hận nhất là cái “sổ hưu”. Vì là nhân viên mật vụ STASI nên ông bà có quyền cao chức trọng hơn các đồng nghiệp khác trong trường, mặc dù họ có trình độ hơn ông bà. Nhờ vậy ngày nay ông bà lĩnh lương hưu cao hơn họ, những nạn nhân của ông bà.

Xuân Thọ (20.12.2012 Cologne)

Đông và Tây Đức thống nhất năm 1990. Mối liên hệ tình cảm cá nhân của dân chúng hai miền đất nước (có thể) vẫn còn năm điều/ba chuyện bất bình hay “lấn cấn” nhưng ở khía cạnh luật pháp, và trên bình diện quốc gia thì mọi người đều bình đẳng – bất kể họ thuộc bên nào.

Việt Nam thì không thế. Tuy “Nam/Bắc hoà lời ca” sớm hơn nước Đức đến mười lăm năm nhưng chính cách xuyên suốt của chính phủ hiện hành vẫn hoàn toàn nhất quán trong việc phân biệt đối xử giữa kẻ thắng và người thua.

The winner takes all. Kẻ thua thì thua trắng và mất hết, kể cả cái tên gọi như Sài Gòn hay Chính Quyền Miền Nam. Hơn bốn mươi năm sau, dư luận mới thoáng chút “râm ran” khi nghe những nhà sử học của bên thắng cuộc “thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền” cho bên thua cuộc – theo tường trình của phóng viên Lan Hương (RFA) vào hôm 21 tháng 8 năm 2017:

Chúng tôi cũng có dịp trao đổi với PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện sử học, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam này. PGS.TS Trần Đức Cường cho chúng tôi biết lý do các nhà sử học thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa:

“Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả”.

“Thứ hai, quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây.”

“Nhưng về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn.”

Liên quan đến sự kiện này, bản tin (hôm 28 tháng 8 năm 2017) của trang Tiếng Dân có đoạn như sau:

Bộ sách Lịch Sử Việt Nam: Vũ Như Cẩn!

Bài trên báo Tiền Phong: Bộ sách ‘Lịch sử Việt Nam’ có gì ồn ào? Nhà sử học Dương Trung Quốc, cho biết: “Chỉ là cuốn sách của Viện Sử thôi, có gì mà ồn ào, giời ạ!” Nhưng ông cũng nói về bộ sách mới tái bản: “Có gì mới đâu”.

Nhà nghiên cứu Dương Quốc Đông, Viện Sử học, cho biết, đây là bộ sử tái bản, không có gì mới.

GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, xác nhận:“Bộ sử được viết lâu rồi. Nhiều người chưa đọc tưởng cuốn này trình bày kỹ lắm, không có gì đâu, thoáng tí thôi. Do cách diễn đạt khi họp báo thôi…”.

 Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết, bộ sử này có tiếng vang là do thủ thuật tuyên truyền.

Trức đó hai ngày trang Dân Luận  có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngà, với tựa là “Về bộ sách lịch sử Việt Nam: Vẫn là sử đểu!” Sử đểu cũng như sự bao dung đểu cáng (hay đều giả) chả lừa gạt được ai, đã đành; nó còn đẩy xa thêm tiến trình hoà giải của cả một dân tộc mà nhân tâm vốn đã ly tán từ lâu!

Formosa với căn bệnh của thế kỷ “Ung Thư”

From facebook: Tran Dat shared Thuỳ Le‘s post.
 
 
Image may contain: sky and cloud
Image may contain: one or more people and closeup

Thuỳ Le added 2 new photos — with Huyen Browning and 82 others.

Formosa với căn bệnh của thế kỷ “Ung Thư”

Trong quá trình sản xuất thép thì 3 chất kể trên luôn hiện diện trong chất thải. Là 3 chất trong hàng trăm chất độc hại khác. Mn, Br, Cr là những kim loại nặng ( khối lượng riêng 5g/cm3 )

Nói về độ độc hại thuộc dạng hủy diệt thì Cr hơn hẳn 2 chất còn lại.

Mn : dùng để chống rỉ, chống oxy hóa cho thép, hoặc dùng làm thuốc nhuộm, độ độc không đáng kể

Br : là chất lỏng có mùi hôi thối,màu nâu đỏ,dùng tẩy rửa và giảm nhiệt trong quá trình vận hành. Đây là lí do vì sao khí thải và nước thải có màu nâu đỏ (ko phải do tảo đỏ hay thủy triều đỏ như luận điệu của truyền thông đảng đâu nhé).

Br đễ dàng thâm nhập cơ thể qua đường thở và qua da. Khi hít phải Br nếu nhẹ gây kích ứng niêm mạc,chảy nước mắt,nước mũi. Nặng hơn gây ức chế hô hấp có thể tử vong

Cr : dùng bảo vệ bề mặt kim loại sáng đẹp như inox. Xâm nhập cơ thể qua đường thở,đường tiêu hóa và qua da. Cr xâm nhập vào đường thở,tích tụ ở phổi gây ung thư phổi. Xâm nhập qua đường tiêu hóa gây ung thư dạ dày,ruột ,gan, thận. Nói chung nó gây ung thư nơi nào nó đến. Bằng cách gây đột biến gen tế bào làm cho tế bào lớn nhanh bất thường và tạo thành khối ung thư,mà hiện tại ở VN thuốc điều trị ung thư thật rất hiếm.

Những gia đình nào ở trong khu vực nhà máy Formosa trong vòng bán kính 20km có nguy cơ mắc bệnh hiểm nghèo rất cao. Về lâu dài bán kính sẽ lan rộng hơn nữa.

Vậy thì chúng ta còn chờ gì mà không tống cổ Formosa ra khỏi lãnh thổ Việt-Nam và nếu như ngày nào toàn dân đuổi được Formosa ra khỏi VN thì ngày đó Bắc Kinh sẽ trừng phạt tập đoàn lãnh đạo csvn và đây cũng là “cái tát” mà toàn dân Việt “kính tặng” cho đảng.

NĐT.

TRẠI TÙ CẢI TẠO (2)

From facebơk: Thang Chu shared Thanh Nguyen‘s post.
Côn đồ lãnh đạo Lạc Hồng 

Cháu con lãnh đạn, cha ông lãnh tù.

 
Image may contain: one or more people
Image may contain: text

Thanh Nguyen added 2 new photos.

 

TRẠI TÙ CẢI TẠO (2) 
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..

Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:
“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu”.

Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.

Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:
“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”

Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:
“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.

Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.

Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.

Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.

Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.

Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì không…. 

 

Lều báo bắt đầu ” đánh” NS hài Hồng Vân!

From facebook : Tran Dat shared Khanh Lam Nguyen‘s post.
 
 
Image may contain: 4 people, people smiling, text
Image may contain: 5 people, people smiling, text
Khanh Lam Nguyen added 2 new photos.Follow

 

Lều báo bắt đầu ” đánh” NS hài Hồng Vân!

Vì stt cô HV chia sẻ trên fb khen ngợi đất nước Nhật Bản, cô viết : … Nhật Bản quá văn minh, quá sạch sẽ, quá văn hóa. Người dân Nhật Bản được hưởng chế độ an sinh tuyệt vời nhất… Chỉ thương người dân VN mình được hưởng toàn những điều giả dối… mà khủng khiếp nhất là thuốc chữa bệnh giả…”

Chúc mừng NS Hồng Vân lại sắp sửa được dán nhãn mác ” phản động” như GS Ngô Bảo Châu. Mà đơn giản là họ chỉ nói ra sự thật!

http://canhbaovn.com/…/nghe-sy-nhan-dan-hong-van-vo-on-bac…/

Khanh Nguyen

Sự sụp đổ chưa từng có của Venezuela

 Sự sụp đổ chưa từng có của Venezuela

 

Ricardo Hausmann

Biên dịch: Trịnh Ngọc Thao | Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng

clip_image002

Trong cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vội vã hôm 16 tháng 7 dưới sự bảo hộ của phe đối lập kiểm soát Quốc hội để phản đối lời kêu gọi thành lập Hội đồng Lập hiến Quốc gia của Tổng thống Nicolás Maduro, hơn 720.000 công dân Venezuela đã bỏ phiếu ở nước ngoài. Trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2013 chỉ có 62.311 người bỏ phiếu như vậy. Bốn ngày trước cuộc trưng cầu dân ý, 2.117 thí sinh đã tham gia cuộc sát hạch giấy phép hành nghề y tế của Chile, trong đó có gần 800 người Venezuela. Và ngày 22 tháng 7, khi biên giới với Colombia được mở lại, 35.000 người Venezuela đã băng qua cây cầu hẹp giữa hai nước để mua thực phẩm và thuốc men.

Người dân Venezuela rõ ràng muốn rời đi – và không khó để biết được lý do tại sao. Truyền thông trên khắp thế giới đã đưa tin về Venezuela, miêu tả những tình cảnh thực sự khốn cùng, với những hình ảnh về sự đói kháttuyệt vọng, và giận dữ. Trang bìa của tờ The Economist số ngày 29 tháng 7 đã tóm gọn tất cả trong một câu: “Venezuela trong cơn hỗn loạn”.

Nhưng đó chỉ là một cuộc suy thoái thông thường hay còn điều gì khác nghiêm trọng hơn?

Chỉ số được sử dụng thường xuyên nhất để so sánh các cuộc suy thoái là GDP. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, GDP của Venezuela năm 2017 giảm 35% so với năm 2013, hay 40% tính theo đầu người. Đó là sự sụt giảm đáng kể, lớn hơn cả Đại Suy thoái 1929–1933 ở Mỹ, khi GDP của Mỹ ước tính giảm 28%. Nó cũng lớn hơn một chút so với sự sụt giảm tại Nga (1990–1994), Cuba (1989–1993), và Albania (1989–1993), nhưng nhỏ hơn so với các nước Xô viết cũ trong giai đoạn chuyển đổi, như Gruzia, Tajikistan, Azerbaijan, Armenia, và Ukraine, hay các nước chìm trong chiến tranh như Liberia (1993), Lybia (2011), Rwanda (1994), Iran (1981), và gần đây nhất là Nam Sudan.

Nói cách khác, thảm họa kinh tế tại Venezuela lớn hơn bất kỳ thảm họa nào trong lịch sử của Mỹ, Tây Âu, và phần còn lại của Mỹ Latinh. Thế nhưng những con số đó vẫn còn đánh giá khá dè dặt về quy mô của sự sụp đổ, như công trình mà tôi đang tiến hành cùng Miguel Angel Santos, Ricardo Villasmil, Douglas Barrios, Frank Muci, và Jose Ramón Morales tại Trung tâm Phát triển Quốc tế tại Đại học Harvard tiết lộ.

Rõ ràng, sự sụt giảm 40% GDP đầu người là sự kiện hiếm khi xảy ra. Nhưng một vài nhân tố khác đang làm cho tình trạng tại Venezuela ảm đạm hơn. Đầu tiên, dù sự sụt giảm GDP Venezuela (theo giá cố định) từ năm 2013 đến năm 2017 bao gồm sự sụt giảm 17% sản lượng dầu mỏ, nó lại không tính tới mức giảm giá dầu tới 55% trong giai đoạn đó. Xuất khẩu dầu giảm 2.200 USD trên mỗi đầu người từ năm 2012 đến năm 2016, trong đó 1.500 USD là do giảm giá dầu.

Đó là những con số khổng lồ, khi mà thu nhập bình quân đầu người của Venezuela năm 2017 chưa đến 4.000 USD. Nói cách khác, trong khi GDP đầu người giảm 40%, thu nhập quốc gia, bao gồm ảnh hưởng của giá cả, giảm tới 51%.

Các nước thường đề phòng những cú sốc giá âm như vậy bằng cách để dành một khoản tiền lúc thuận lợi và vay mượn hoặc sử dụng những khoản tiết kiệm đó khi gặp khó khăn, để nhập khẩu không cần suy giảm nhiều như xuất khẩu. Nhưng Venezuela đã không thể làm như vậy, bởi vì nước này đã dùng cuộc bùng nổ giá dầu để tăng gấp sáu lần nợ nước ngoài. Sự hoang phí trong lúc thuận lợi đã không để lại nhiều tài sản thanh toán được trong lúc khó khăn, và các thị trường đã không sẵn lòng cho một nước “nợ như chúa Chổm” vay thêm tiền.

Thị trường đã đúng: Venezuela hiện là nước vay nợ nhiều nhất thế giới. Không nước nào có khoản nợ công nước ngoài lớn hơn Venezuela tính theo tỷ lệ GDP hoặc theo tỷ lệ xuất khẩu, hay phải đối mặt khoản tiền lãi lớn hơn nước này tính theo tỷ lệ xuất khẩu.

disabled in your browser.</div></div>

Tuy nhiên, như Romania thời Nicolae Ceauşescu những năm 1980, chính phủ Venezuela đã quyết định cắt giảm nhập khẩu trong khi vẫn đang phải trả lãi nợ nước ngoài, liên tục làm bất ngờ thị trường, vốn đang mong chờ một sự tái cơ cấu. Hệ quả là nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tính theo đầu người đã giảm 75% trên thực tế (đã điều chỉnh lạm phát) trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016, và giảm sâu hơn nữa trong năm 2017.

Sự sụp đổ đó chỉ có thể so sánh được với Mông Cổ (1988–1992) và Nigeria (1982–1986) và lớn hơn mọi sự sụt giảm nhập khẩu tính trong bốn năm trên toàn thế giới kể từ năm 1960. Trên thực tế, các con số của Venezuela không hề cho thấy có sự giảm nhẹ: sự sụt giảm trong nhập khẩu gần như tương đương với sự sụt giảm trong xuất khẩu.

Hơn nữa, do việc áp đặt hạn chế nhập khẩu của chính quyền đã dẫn tới tình trạng thiếu hụt nguyên liệu thô và đầu vào trung gian, sự sụp đổ trong nông nghiệp và công nghiệp chế tạo thậm chí còn lớn hơn sự sụp đổ của tổng GDP, cắt giảm thêm gần 1.000 USD bình quân đầu người trong các mặt hàng tiêu dùng sản xuất trong nước.

Các số liệu thống kê khác cũng chứng thực cho bức tranh thảm khốc này. Doanh thu thuế ngoài dầu mỏ đã giảm tới 70% trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. Và lạm phát gia tăng đã kéo theo sự sụt giảm thực tế 79% trong ngân quỹ của hệ thống ngân hàng trong cùng kỳ. Tính theo tỷ giá thị trường chợ đen, mức giảm lên đến 92%, từ 41 tỷ USD xuống còn 3,3 tỷ USD.

Tất yếu mức sống cũng đã sụp đổ. Mức lương tối thiểu – cũng là thu nhập của người lao động trung bình tại Venezuela do tỷ lệ người có thu nhập tối thiểu lớn – đã giảm 75% (theo giá cố định) từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 5 năm 2017. Tính theo đô la Mỹ theo tỷ giá thị trường chợ đen thì mức lương đó đã giảm 88%, từ 295 đô la Mỹ một tháng xuống còn 36 đô la Mỹ.

Tính theo đơn vị calo rẻ nhất có thể, mức lương tối thiểu đã giảm từ 52.854 calo/ngày xuống còn 7.005 calo/ngày trong cùng giai đoạn, tương đương 86,7% và không đủ để nuôi sống một gia đình năm người, giả sử tất cả thu nhập đều dùng để mua thực phẩm đem lại mức calo rẻ nhất. Với mức lương tối thiểu đó, người dân Venezuela không mua được 1/5 lượng thực phẩm mà người Colombia vốn nghèo hơn trước đây có thể mua được với thu nhập tối thiểu của họ.

Tình trạng nghèo về thu nhập đã tăng từ 48% năm 2014 lên 82% năm 2016, theo một cuộc khảo sát được thực hiện bởi ba trường đại học danh giá nhất tại Venezuela. Cũng nghiên cứu này cho thấy 74% người dân Venezuela bị sút cân trung bình 8,6 kg. Cơ quan theo dõi sức khỏe Venezuela báo cáo tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân tăng 10 lần và ở trẻ sơ sinh tăng 100 lần tại các bệnh viện trong năm 2016. Thế nhưng chính quyền Tổng thống Nicolás Maduro vẫn liên tục bác bỏ các đề xuất hỗ trợ nhân đạo.

Cuộc tấn công công khai của chính quyền Maduro vào tự do và dân chủ xứng đáng nhận được sự quan tâm lớn hơn từ cộng đồng quốc tế. Tổ chức các nước châu Mỹ và Liên minh Châu Âu đã đưa ra các báo cáo phê phán gay gắt, và Hoa Kỳ gần đây đã ban hành các biện pháp trừng phạt mới.

Nhưng các vấn đề của Venezuela không chỉ là về chính trị. Việc giải quyết thảm họa kinh tế chưa từng có mà chính phủ gây ra cũng sẽ đòi hỏi sự hỗ trợ đồng bộ từ cộng đồng quốc tế.

R.H.

*

Ricardo Hausmann, cựu Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và cựu Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, là Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế tại Đại học Harvard và là Giáo sư Kinh tế học tại Trường Kennedy thuộc Đại học Harvard.

Nguồn bản gốc: Ricardo Hausmann, “Venezuela’s Unprecedented Collapse,” Project Syndicate, 31/07/2017.

Nguồn bản dịchhttp://nghiencuuquocte.org/2017/09/07/su-sup-chua-tung-co-cua-venezuela/

Bác sĩ ở Bạc Liêu thiếu chuyên môn, bệnh nhân bị cưa chân

 Bác sĩ ở Bạc Liêu thiếu chuyên môn, bệnh nhân bị cưa chân

Từ việc phỏng xe máy, ông Lý Thanh Trường phải bị cưa cụt chân trái do bác sĩ thiếu chuyên môn. (Hình: Báo Thanh Niên)

BẠC LIÊU, Việt Nam (NV) – Một ông ở xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, ban đầu chỉ bị phỏng xe máy ở bàn chân, nhưng do bác sĩ thiếu chuyên môn điều trị không đúng dẫn đến việc phải cắt bỏ 1/3 đùi.

Theo báo Thanh Niên, bà Nguyễn Thị Loan (39 tuổi, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, Bạc Liêu) cho biết: “Gia đình đã gửi đơn đến Sở Y Tế tỉnh Bạc Liêu yêu cầu xác minh, làm rõ và xử lý nghiêm việc một số y, bác sĩ bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai tắc trách, không cho bệnh nhân chuyển viện, khiến chồng tôi từ việc chỉ phỏng ở bàn chân nhưng phải cưa cụt một chân; đồng thời đề nghị bệnh viện này bồi thường thiệt hại do mất sức lao động với số tiền trên 1 tỷ đồng (khoảng $44,000).”

Bà cho hay, ông Lý Thanh Trường (44 tuổi), chồng bà, là lao động chính trong gia đình. Ông Trường hành nghề lái xe tải thuê và buôn bán nhỏ, thu nhập mỗi tháng khoảng 12 triệu đồng (khoảng $528). Nay nạn nhân bị cưa cụt chân thì hoàn toàn không thể lái xe tải được nữa.

Bà kể, ngày 25 Tháng Năm, trong lúc lái xe máy, ông Trường vô ý để bàn chân chạm vào lốc máy phỏng lòng bàn chân và được đưa đến bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai điều trị.

Trong lúc thăm khám, bà Loan cho biết, chồng mình bị mắc bệnh tiểu đường lâu năm nhưng bác sĩ không lưu ý. Sau khi thăm khám, bác sĩ ở đây nói vết thương chỉ bị phỏng nhẹ, ra toa cho thuốc uống 10 ngày rồi về nhà. Tuy nhiên, sau năm ngày uống thuốc theo toa, vết thương của ông Trường không giảm mà còn sưng phù, gia đình tiếp tục đưa đến bệnh viện tái khám và nhập viện điều trị.

Sau bảy ngày điều trị tại bệnh viện, tình trạng vết thương của ông Trường không giảm mà ngày càng sưng to hơn, đau đớn và gây sốt liên tục. Gia đình xin chuyển viện nhưng bác sĩ điều trị không cho và nói sẽ đổi thuốc.

Đến ngày thứ chín, tình trạng vết thương càng nghiêm trọng, gia đình tiếp tục xin chuyển viện và lần này bác sĩ trực lại từ chối. Khi gia đình ông Trường kiên quyết yêu cầu phải chuyển viện thì bệnh viện buộc gia đình làm cam kết “xin chuyển viện theo yêu cầu.”

Ngày 9 Tháng Sáu, ông Trường được đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu. Tại đây, bác sĩ phát giác chân trái bệnh nhân bị hoại tử nên gia đình xin chuyển lên bệnh viện Trung Ương Cần Thơ. Trong thời gian điều trị hơn một tháng, ông Trường phải qua hai lần phẫu thuật, cắt bỏ 1/3 đùi chân trái do vết thương nhiễm trùng quá nặng không thể cứu chữa.

Ông Trần Hồng Dũng, phó giám đốc bệnh viện Giá Rai, cho biết sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu của gia đình ông Trường, bệnh viện đã thành lập đoàn thanh tra và hội đồng chuyên môn phân tích bệnh án, kiểm tra quá trình tiếp nhận, điều trị chăm sóc.

“Bệnh viện mời gia đình nạn nhân đến đối thoại, thừa nhận thời gian chuyển viện có trễ, bác sĩ thiếu kinh nghiệm trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh chuyển nặng đối với bệnh nhân bị tiểu đường lâu năm. Do đó, bệnh viện chấp nhận hỗ trợ một phần chi phí tiền thuốc, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chi phí lắp đặt chân giả nhưng gia đình ông Trường không đồng ý,” ông nói.

Chiều 7 Tháng Chín, ông Nguyễn Minh Tùng, phó giám đốc Sở Y Tế tỉnh Bạc Liêu, cho biết: “Sở đã nhận được đơn yêu cầu của gia đình ông Trường và đã thành lập đoàn kiểm tra, xác minh, khi có kết luận chính thức sẽ thông tin cho báo chí.” (Tr.N)

Gia đình Nguyễn Mai Trung Tuấn không chốn nương thân sau khi ra tù


Nguyễn Mai Trung Tuấn phản đối việc bắt giữ cha mẹ

Nguyễn Mai Trung Tuấn phản đối việc bắt giữ cha mẹ

“Gia đình tôi gồm có tôi là Mai Thị Kim Hương, chồng tôi là Nguyễn Trung Can và còn con là Nguyễn Mai Trung Tuấn đã về địa phương rồi nhưng không còn nơi ăn chốn ở. Chúng tôi lang thang và chưa có được một bữa cơm gia đình. Lý do là không còn nhà cửa, không chén, không bát, tất cả mọi thứ, không tiền, không quần áo. Chỉ có một bộ đồ dính da.”

Bà Hương nói bà kịch liệt phản đối việc lao động cưỡng bức trong trại tù. Bà cho biết các tù nhân trong trại bị buộc phải làm việc đến 10 giờ mỗi ngày:

“Mai Quốc Phong, Mai Quốc Đạt, Nguyễn Trung Tài, Nguyễn Trung Can, Phùng Thị Ly, và bé Nguyễn Mai Trung Tuấn, ai cũng phải đi làm. Chị Phùng Thị Ly làm một ngày 10 tiếng. Anh Nguyễn Trung Tài sáng đi làm từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều, chiều về không có nước để tắm. Họ đan lục bình, đan giỏ tre. Bé Tuấn đi quét, khuân đá cho người ta xây nhà. Chế độ tù cộng sản là bắt đày đi làm, không bao giờ họ để yên cho mình.”

Về việc các phạm nhân được tha tù sớm nếu lao động tốt, bà Trần Ngọc Anh, người từng bị tù giam vì lên tiếng bảo vệ người dân bị cưỡng chế tịch thu đất đai, đại diện cho Phong Trào Liên đới Dân oan chia sẻ với VOA:

“Thật sự không phải chính sách đảng và nước khoan hồng đâu. Tù nhân vào đó phải lao động, làm đúng chỉ tiêu thì mới được giảm án. Buộc phạm nhân lao động như vậy là vô lương tâm.”

Vào tháng 11/2015, Nguyễn Mai Trung Tuấn, khi ấy 15 tuổi, bị một tòa án ở Long An tuyên phạt 54 tháng tù giam vì tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ Luật Hình sự. Phiên toà phúc thẩm vào tháng 2/2016 sau đó đã kết án Tuấn 30 tháng tù giam.

Vào tháng 9/2015, tòa án huyện Thạnh Hóa, Long An đã xét xử sơ thẩm về tội chống người thi hành công vụ đối với 12 bị cáo, trong đó có cha mẹ em Tuấn. Khi ấy, bà Mai Thị Kim Hương bị tuyên án 3 năm 6 tháng tù giam, và ông Nguyễn Trung Can chịu án 3 năm tù.

Vụ án của Tuấn gây nhiều chú ý vì là một thiếu niên “dân oan” lần đầu tiên bị xét xử ở Việt Nam.

Tuấn bị bắt ngày 6/8/2015 sau khi công an tỉnh Long An ra lệnh truy nã.

Ngày 31/8/2017, Nguyễn Mai Trung Tuấn đã ra tù trước thời hạn 6 tháng với tình trạng sức khoẻ giảm sút. Gia đình cho biết Tuấn luôn khó thở và bị bệnh hen suyễn.

“Họ bắt bé Nguyễn Mai Trung Tuấn. Họ còng chân, còng tay [cháu], bỏ đói bỏ khát, 2 ngày 2 đêm không cho ăn uống. Ra tù Trung Tuấn bị bệnh suyễn và tim, xỉu và đi cấp cứu, truyền nước biển.”

Bà Hương phản đối việc chính quyền cưỡng chế tịch thu nhà của bà và bắt giam nhiều thành viên trong gia đình:

“Tôi không chấp nhận bản án oai sai đó. Bản án đó là sự hèn hạ, thối nát của đảng cộng sản. Một công dân chỉ có một mảnh đất 4 mét chiều ngang, 29 mét chiều dài mà họ một lực lượng hơn 300 người đến chiếm đoạt. Chẳng những vậy, họ còn tống hết vào tù, từ vợ đến chồng, đến anh chị em, và không tha cho đứa bé tuổi vị thành niên, cướp đi quyền làm người của một đứa trẻ. Tôi không chấp nhận bản án đó.”

Vụ việc xảy ra ngày 14/4/2015 khi 3 hộ dân địa phương nổi lửa, tạt acid, và cho nổ bình hàn gió đá để phản đối hành vi mà họ cho là chính quyền tỉnh Long An ‘cướp đất’ khi họ tiến hành cưỡng chế tịch thu căn nhà tạm của gia đình ông Can và bà Hương trên mảnh đất mà họ đã sinh sống mấy chục năm trước đó.

Khi ấy truyền thông Việt Nam nói đoàn công tác của chính quyền địa phương vận động cưỡng chế giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án đê bao chống lũ trong địa bàn thị trấn Thạnh Hóa.

Báo nhà nước dẫn lời Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện, Nguyễn Văn Tạo, nói 106 trong số 109 hộ dân bị ảnh hưởng từ dự án này đã đồng ý giao mặt bằng cho nhà nước. Hai trong Ba gia đình không chấp nhận mức đền bù là anh em ông Nguyễn Trung Can và ông Nguyễn Trung Tài.

Bà Ngọc Anh nói rằng những “gia đình này là dân oan – họ đấu tranh giành quyền lợi chính đáng của họ nhưng chính quyền không đáp ứng.”

Bà Ngọc Anh cho biết những người khác bị bắt trong vụ cưỡng chế này là bà Phùng Thị Ly, ông Nguyễn Trung Tài, ông Nguyễn Trung Linh, ông Mai Văn Đạt, ông Mai Văn Phong, ông Phùng Văn Leo. Riêng ông Nguyễn Trung Linh vẫn còn bị giam tù.

THẦM LẶNG

THẦM LẶNG
 

Nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Một đời dạy học, một đời viết văn, hơn mười một năm tù tội, ông đã trở thành một trong những biểu tượng đối kháng của văn nghệ sĩ miền Nam . Nhưng ít có người biết rằng đằng sau sự tỏa sáng của một người đàn ông Việt Nam thường là cái bóng thầm lặng của một người phụ nữ. Bà Doãn Quốc Sỹ cũng là một trong những trường hợp như vậy. Có thể nói rằng, sẽ không có một ông Doãn Quốc Sỹ cống hiến cho lý tưởng trọn vẹn nếu ông không có một người vợ hiền thầm lặng hỗ trợ.

Mời quí độc giả nghe con gái của nhà văn Doãn Quốc Sỹ kể lại cuộc đời thầm lặng của mẹ mình nhân ngày Mother’s Day…

THẦM LẶNG

…thầm lặng theo ông đến những ngày cuối đời

Mời đọc một truyện cảm động về nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

Một đời thầm lặng mẹ theo bố.

Tháng 9 năm 1954 mẹ theo bố vào Nam. Trước đó bố hoạt động ngang dọc, sáng ngời lý tưởng, rồi ê chề thất vọng. Quyết định vào Nam là của bố, mẹ chỉ bế hai con và dắt cô em chồng 17 tuổi theo. Trong Nam, bố tưng bừng thi thố tài năng, tay phấn tay bút. Mẹ thầm lặng ở nhà nuôi dạy con và chăm chút em. Dân số con từ hai tăng thành tám. Tám con tám tính, có lúc hư lúc ngoan; mẹ theo từng bước, khen chê mắng mỏ. Cô em chồng tốt nghiệp đại học, chuẩn bị lên xe hoa, mẹ lo toan chuyện cưới hỏi. Bố vất vả bên ngoài, về nhà chỉ cần đảo mắt nhìn là thấy mọi sự tươm tất. Ra đường, các con được gọi là “con bố”, em là “em anh”.

Vào những năm thăng tiến trong cả hai nghề dạy và viết, bố hay mời khách về nhà đãi đằng. Mẹ tiếp khách lịch thiệp, rồi rút về hậu trường trổ tài nấu nướng. Trước khi ra về các bác bao giờ cũng chào “bà chủ” trong tiếng cười hỉ hả “Cám ơn chị cho một bữa ngon quá.” Thỉnh thoảng có những vị khách nữ, khen thức ăn và khen cả ông chủ. Tôi còn nhớ có người còn nói rất chân tình với mẹ: “Chồng em mà được một phần của anh thì em chết cũng hả.” Hình như mẹ đón nhận lời nói ấy như một sự khen tặng cho chính mình.

Rồi chính sự miền Nam nóng bỏng; ngòi bút bố cũng nóng theo. Các bạn bố đến chơi chỉ bàn chuyện cộng sản và quốc gia. Mẹ không mấy quan  tâm đến “chuyện các ông”, nhưng khi bố đi Mỹ du học, mẹ ở nhà điều hành việc bán sách thật tháo vát. Khoảng hai tuần một lần, mẹ đi xích lô đến trung tâm Saigon, rảo một vòng các tiệm sách để xem họ cần thêm sách nào. Sau đó mẹ cột sách thành từng chồng và “đáp” một chuyến xích lô khác để giao sách. Tôi hay mân mê những sợi giây được cột chắc nịch, suýt xoa: “Sao mẹ cột chặt hay thế””

Thế rồi chính sự miền Nam đến hồi kết thúc. Con người không chính trị của bố lại một lần nữa ê chề. Ngày công an đến bắt bố đi, mẹ con bàng hoàng nhìn nhau. Các con chưa đứa nào đến tuổi kiếm tiền. Mẹ xưa nay thầm lặng trong vai “nội tướng”, giờ miễn cưỡng ra quân. Tiền dành dụm của gia đình không đáng kể. Có tám miệng để nuôi, có bố nhục nhằn trong lao tù đợi tiếp tế. Mẹ vụng về tìm kế sinh nhai. Thoạt tiên mẹ nấu khoai mì trộn với dừa và vừng, rồi để vào rổ cùng với một ít lá gói. Tôi băn khoăn hỏi:

“ Mẹ nghĩ có bán được không””

“Mẹ không biết, cứ mang ra chỗ trường học xem sao.”

Nhìn dáng mẹ lom khom ôm rổ, đầu đội xụp cái nón lá, tôi thương mẹ khôn tả. Chỉ nửa tiếng sau tôi đã thấy mẹ trở về. Rổ khoai mì vẫn còn nguyên, mẹ ngượng ngập giải thích:

“Hình như hôm nay lễ gì đó, học trò nghỉ con ạ.”

Rồi mẹ lại xoay sang nghề bán thuốc lá. Mẹ mua lại của ai đó một thùng đựng thuốc lá để bầy bán. Mẹ nghe ai mách bảo, chọn một địa điểm khá xa nhà rồi lụi hụi dọn hàng vô, dọn hàng ra mỗi ngày. Nghề này kéo dài được vài tháng. Mẹ kể cũng có một số khách quen, nhưng toàn mua thuốc lá lẻ. Hôm nào có khách “xộp” mua nguyên bao thì mẹ về khoe ngay. Cũng may thuốc lá không thiu nên khi “giải nghệ” mẹ chỉ lỗ cái thùng bầy hàng.

Mẹ rút về “bản dinh” là căn nhà ở cuối hẻm, tiếp tục nhìn quanh, tìm một lối thoát. Hàng xóm chung quanh phần lớn là những người lao động. Họ như những đàn kiến chăm chỉ cần cù, 4 giờ sáng đã lục đục, người chuẩn bị hàng họ ra chợ, kẻ kéo xe ba bánh hoặc xích lô ra tìm khách. Suốt mười mấy năm qua họ nhìn gia đình chúng tôi, gia đình “ông giáo”, như  từ một thế giới khác, kính trọng nhưng xa cách. Nay “ông giáo” đi tù, “bà giáo” hay xuất hiện ngoài ngõ, có lẽ họ cảm thấy gần gủi hơn. Một hôm, chị bán sương xâm ở đối diện nhà qua hỏi thăm “ông giáo”. Thấy cái máy giặt vẫn còn chạy được, chị trầm trồ: “Giặt máy tiện quá bác há!”, rồi nảy ý “Tụi con ngày nào cũng có cả núi quần áo dơ. Bác bỏ máy giặt dùm, tụi con trả tiền. Bác chịu không””  Lời đề nghị thẳng thừng, không rào đón. Mẹ xăng xái nhận lời. Kể từ đó, mổi tuần khoảng hai lần, mẹ nhận một thau quần áo cáu bẩn, bốc đủ loại mùi khai, tanh, nồng. Mẹ đích thân xả qua một nước, rồi múc nước từ hồ chứa vào máy giặt, bỏ xà bông và bắt đầu cho chạy máy. Cái máy cổ lỗ sĩ, chạy ì ạch nhưng nhờ nó mà mẹ kí cóp được chút tiền chợ.

Ít lâu sau, cũng chị hàng xóm đó lại sáng thêm một ý nữa:

“Con bé nhà con nay biết bò rồi, con không dám thả nữa. Bác nhận không, con gửi nó mỗi ngày từ sáng tới chiều. Con trả tiền bác.”

Thế là sự nghiệp nhà trẻ của mẹ bắt đầu. Mẹ dọn căn gác gỗ cho quang, có chỗ treo võng, có cửa ngăn ở đầu cầu thang. Cả ngày mẹ loay hoay bận bịu pha sữa, đút ăn, lau chùi những bãi nước đái. Được ít lâu, chị bán trái cây ở cuối hẻm chạy qua nhà tôi, nói:

“Bác coi thêm con Đào nhà con nha. Con mang cái võng qua mắc cạnh cái võng của của con Thủy.”

Hai võng đong đưa một lúc, cháo sữa đút liền tay hơn, căn gác bừa bộn hơn. Sau đó lại thêm một thằng cu nữa. Mẹ tay năm tay mười, làm việc thoăn thoắt. Cũng công việc quen thuộc ấy, ngày xưa làm cho con, nay làm kế sinh nhai, nuôi đủ tám con với một chồng. Mẹ không còn thầm lặng nữa. Mẹ lớn tiếng điều khiển tám quân sĩ, cần roi có roi, cần lời ngọt có lời ngọt. Riêng chúng tôi vẫn nhớ ơn những người lao động đã giúp chúng tôi sinh sống những ngày khốn khó đó.

Nhưng sau những giờ ban ngày ồn ào náo động là những đêm tối trầm ngâm lo lắng. Nỗi bận tâm không rời của mẹ là chuyện thăm nuôi bố. Mỗi ngày mẹ nghĩ ra một món, làm dần vào buổi tối, nay muối vừng, mai mắm ruốc, mốt bánh mì khô. Mẹ để sẵn một giỏ lớn trong góc bếp và chất dần đồ thăm nuôi trong đó. Khi giỏ đầy là ngày thăm nuôi sắp tới. Thuở ấy bố bị giam ở núi đồi Pleiku, muốn lên đến đó phải mất hai ngày đường và nhiều giờ chầu chực xe đò. Mỗi lần thăm nuôi, hoặc mẹ, hoặc một đứa con được chỉ định đi. Con trưởng nữ hay được đi nhất vì nó tháo vát và nhanh trí, thằng thứ nam cũng đươc nhiều lần “tín nhiệm”; mẹ nói nó nhỏ tuổi nhưng đạo mạo, đỡ đần mẹ được. Con thằng trưởng nam đúng tuổi đi “bộ đội”, mẹ ra lệnh ở nhà. Có lần mẹ đi về, mặt thất thần. Các con hỏi chuyện thì mẹ chỉ buông hai chữ “biệt giam”. Biệt giam thì bị trừng phạt không được thăm nuôi. Tôi thảng thốt hỏi:

“Đồ thăm nuôi đâu hết rồi mẹ””

“Mẹ phải năn nỉ. Cuối cùng họ hứa chuyển đồ ăn cho bố.”

“Mẹ nghĩ họ sẽ chuyển không”

“Họ hẳn sẽ ăn bớt, nhưng nếu mẹ mang về thì phần bố đói còn chắc chắn hơn nữa.”

Mẹ ngày nào thầm lặng, nay thực tế và quyết đoán như thế.

Ngày bố được thả đợt 1, nhà trẻ của “bà giáo” vẫn còn hoạt động. Mẹ hướng dẫn bố đu võng khi các bé ngủ. Mẹ cũng dặn bố thường xuyên lau chùi gác và bỏ giặt tã dơ. Bố một mực nghe lời. Tưởng như cờ đã chuyền sang mẹ một cách êm thắm…

Tuy nhiên, mẹ không thể ngăn được bố lân la cầm lại cây bút. Thời gian này là lúc họ hàng ngoài Bắc vào chơi nhiều. Bên ngoại có cậu tôi làm đến chức thứ trưởng; cậu kể rằng lúc còn sống, ông ngoại (một nhà thơ cách mạng)  phiền lòng vì sự nghiệp văn chương của thằng con rể. Bên nội có chú tôi – một nhạc sĩ cách mạng- chú biết ngòi bút đang thôi thúc bố và đã từng rít lên giữa hai hàm răng:

“Trời ạ! Đã chửi vào mặt người ta, không xin lỗi thì chớ lại cón nhổ thêm một bãi nước bọt! Lần này mà vào tù nữa thì mọt gông.”  .

Mấy mẹ con chết lặng trước viễn tượng “mọt gông”. Bố không màng đến điều này, vẫn miệt mài gõ máy đánh chữ. Đêm khuya thanh vắng tiếng gõ càng vang mồn một. Vài lần mẹ can ngăn, có lần mẹ giận dữ buộc tội:

“Ông chỉ biết lý tưởng của mình, không biết thương vợ con.”

Vài tuần sau, chị hàng xóm đối diện nhà chạy sang xì xào với mẹ:

“Công an đặt người ở bên nhà con đó bác, họ theo dõi bác trai.”

Mẹ lại thử can thiệp, nhưng đã quá trễ. Bố bị bắt lần thứ hai năm 1984. Lần thứ hai bị bắt, bố bình tĩnh đợi công an lục lọi tung nhà. Trước khi bắt đi, họ chụp hình bố với nhiều tang chứng chung quanh. Trong hình  bố ngẩng cao đầu trông rất ngạo nghễ. Nhiều năm sau, bố vẫn còn được nhắc tới với hình ảnh này. Không ai biết đến người đàn bà thầm lặng bị bỏ lại đằng sau. Sau biến cố thứ hai này, mẹ phải đối phó thêm với nhiều khó khăn loại khác, điển hình là những giấy gọi gia đình ra dự phiền tòa xử bố. Gọi rồi hoãn, rồi lại gọi lại hoãn. Mỗi lần như vậy cả nhà lại bấn loại tâm trí, lo cho mạng sống của bố. Riêng mẹ thì vừa lo vừa soạn thêm một số thức ăn thăm nuôi. Mẹ thực tế là thế đó.

Sau khi bố bị gọi án 10 năm tù, cuộc sống của mẹ không còn những bất ngờ khủng khiếp, chỉ còn những đen tối và tù túng đều đặn. Tưởng là dễ chịu hơn, nhưng thực ra nó gậm nhấm tâm thức, tích lũy buồn bực chỉ đợi cơ hội bùng nổ. Hết ngày này qua tháng nọ mẹ lầm lũi chuẩn bị đồ thăm nuôi, từng món ăn thức uống, từng vật dụng hằng ngày. Các con lần lượt trưởng thành, đứa nào cũng có bạn bè và những sinh hoạt riêng.

Chuyện thăm nuôi bố và lòng thương bố quan trọng lắm, những cũng chỉ là một phần trong những cái quan trọng khác trong đời. Chỉ đối với mẹ, những thứ ấy mới là tất cả, độc tôn choán ngập tâm hồn mẹ. Mẹ hẳn có những lúc thấy tức tưởi và cô đơn mà các con nào hay biết. Có vài lần chúng tôi lỡ một lời nói hoặc cử chỉ không vừa ý mẹ, me òa khóc tu tu, lớn tiếng kể lể, tuôn trào như một giòng lũ không ngăn được. Lúc ấy chúng tôi mới choàng tỉnh.

Ngày mãn hạn tù về, bố bình an như một thiền sư, để lại sau lưng hết cả những thăng trầm của quá khứ. Rồi bố mẹ sang Mỹ ở Houston sống cùng cậu trưởng nam. Mẹ bận bịu với cháu nội, nhưng không quên nhắc ông nội đi tắm và bao giờ cũng nặn kem đánh răng vào bàn chải cho ông mỗi tối. Thỉnh thoảng giao tiếp với họ hàng và bạn bè, mẹ lại phải đỡ lời cho bố, khi bố cứ mỉm cười mà không nói năng chi. Thư viết về cho con cháu ở VIệt Nam, ai cũng nói mẹ viết hay hơn ông nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Lúc đó chắc mẹ tự nhủ thầm rằng: “bởi vì mẹ là con của ông Tú Mỡ mà!”

Như thế được mười năm thì mẹ ngã bệnh. Hôm nay, ở giai đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, mẹ nằm bất động một chỗ và không nói được nữa. Nhưng mẹ vẫn đưa mắt nhìn bố mỗi lần bố ra vào trong phòng. Hôm nào bố vắng nhà vài ngày thì mẹ nhìn con trai, mắt dò hỏi lo lắng. Khi bố về thì mẹ vẫn nhìn bố, ánh mắt yên tâm hơn. Mẹ thầm lặng hơn bao giờ hết. Dưới mắt bố con chúng tôi, sự thầm lặng ấy càng ngày càng tỏa sáng.

Kim Khánh

Nhận xét của người chuyển : Đúng là con nhà tông.

From Pho nhom U Minh 

THINH LẶNG

 THINH LẶNG

Lm. Thái Nguyên

Cần phải sống cái thinh lặng, bởi vì đó là con đường đi vào chính bản thân mình để biết mình.  “Hỡi người, hãy tự  biết mình” (Socrate), đó là giềng mối của mọi sự khôn ngoan.

Trên phương diện nhân bản, ta thấy rằng chỉ có thinh lặng mới giúp ta thực sự lắng nghe để  thấu hiểu và đón nhận người khác một cách chân thực như chính họ đang là, và giúp ta bước vào sự tương giao chân thực.  Để nghe được một tâm hồn, phải trở nên nội tại trong mầu nhiệm của tâm hồn ấy.  Vì thế, cần phải tránh tiếng ồn ào và dư luận bung xung bên ngoài, nghĩa là tất cả những gì ngăn cản ta thực sự nghe được.  “Người ta sẽ tin bạn không phải vì bạn nói nhiều, nhưng vì bạn biết thinh lặng để lắng nghe” (Paul Xardel).  Trong đời sống trí thức và làm việc cũng vậy: “Lời nói là nhất thời, im lặng là vĩnh cửu.  Trí tuệ chỉ làm việc được trong thầm lặng, công trạng chỉ đạt tới trong lặng thầm” (Carlyle).

Trên phương diện tâm linh, thinh lặng càng cần thiết hơn, bởi vì tiếng ồn bên ngoài gây biến động tinh thần thay vì dẫn đưa nó đi vào chiều sâu của tâm hồn.  Và còn hơn nữa, tiếng ồn bên trong xóa mất dấu vết của sự thật mà ta khao khát tìm kiếm.  Bởi vậy, “Những con người biết yêu sự thật là những con người của thinh lặng” (Zundel).  Bao lâu còn ở trong sự ồn ào nội giới, con người vẫn còn bị mê đắm trong cái tôi của mình và trong sự sục sôi của dục vọng.  Thinh lặng là thước đo chiều sâu của đời sống nội tâm.  Không có gì quí trọng và tinh tế cho bằng cái quân bình thinh lặng, tuy nhiên nó không ngừng bị đe dọa  bởi tiếng ồn ào mà ta tự gây nên cho chính mình.  Chỉ có thinh lặng mới mạc khải cho chúng ta những vực thẳm của cuộc sống.  Chỉ có nó mới làm cho chúng ta tiến tới tinh thần, tiến tới đời sống tâm linh cao vượt mà con người hằng khát khao mong mỏi.

  1. Lời Chúa vang lên trong thinh lặng

 Trong sách các Vua quyển 1 (19, 9… ), chúng ta gặp trình thuật kể lại cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với ngôn sứ Elia trên núi Hôrep để trốn lánh sự truy sát của Vua A- cáp và hoàng hậu Giêr-ra-ben.  Ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó.  Có lời Đức Chúa phán với ông: “Ê-li-a ngươi làm gì ở đây?”  Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài.  Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.”  Người nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.  Kìa Đức Chúa đang đi qua.”  Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão.  Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất.  Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa.  Sau lửa có tiếng (gió hiu hiu) thì thào, êm nhẹ”, và Chúa ngự trong tiếng thì thào êm nhẹ.

Thật ra, Lời Chúa vang lên trong mọi biến cố của cuộc sống: trong những lúc đau thương dập vùi âm ỉ cũng như trong những lúc êm ái nhẹ nhàng.  Nhưng bài học rút ra từ trình thuật trên là cung cách mà vị ngôn sứ tiếp nhận Lời Chúa.  Ông đã tiếp nhận Lời Chúa một cách thanh thản trong thinh lặng.  Cảnh tượng của câu chuyện xảy ra giữa đêm tối, trong sa mạc, trên núi cao và hết sức quạnh hiu.  Về khía cạnh này, ngôn sứ Elia thực sự đã hiện thân trở lại trong đời sống của Gioan Tẩy Giả, vì với Gioan Tẩy Giả, “Lời Chúa cũng đến trong sa mạc” (Lc 3, 2).  Từ ý nghĩa trên chúng ta xác định 2 điều:

  1. a)      Với một tâm trạng lo âu, bồn chồn, xao xuyến và náo động thì con người không có khả năng và cung cách tiếp nhận Lời Chúa, mà chỉ với tâm hồn tha thiết muốn lắng nghe trong thanh thản và bình lặng.
  2. b)      Khung cảnh tĩnh mịch, vắng vẻ bên ngoài là môi trường hết sức cần thiết để Lời Chúa vang lên.

Những điều đó đã được Tân Ước làm nổi bật lên khi Chúa Giêsu lên tiếng dạy “khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo (Mt, 6, 6).  Chính Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy trong đời sống hằng ngày khi “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1, 35).

Trong tiến trình tu đức, thinh lặng bên trong và bên ngoài là điều kiện thiết yếu không thể thiếu (sine qua non) để mở ra một môi trường thuận lợi cho Lời Chúa đến với ta.  Nếu Lời Chúa đến với ta rất hiếm hoi thì nguyên do chỉ vì thiếu sự tĩnh lặng.  Thánh Ignatio cho biết rằng Lời Chúa bao giờ cũng vang lên từ trong tĩnh lặng [1], vì đó là điều kiện “thanh tịnh của Lời Chúa”.  Trước khi rước Mình Thánh Chúa, ta phải giữ chay và lòng thanh tịnh như thế nào, thì ta cũng phải chay tịnh để đón nhận Lời Chúa như vậy: giữ chay tịnh cho khỏi cái nhộn nhịp của bản thân cũng như của tha nhân.  Lời Chúa quyết liệt đòi buộc chúng ta phải tránh xa sự náo nhiệt của trần gian đến độ khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu đã dặn dò các ông “đừng chào hỏi ai dọc đường”(Lc 10, 4): nghĩa là phải tránh mọi thứ xáo trộn và rườm rà phụ thuộc bên ngoài làm phân tán sự bình lặng bên trong, làm cho việc rao giảng Lời Chúa trở nên bất lợi, mất đi tính cách hữu hiệu của nó.  Ở đây không phải chỉ đơn thuần là vấn đề giữ thinh lặng, mà là sống cái thinh lặng.  Sống cái thinh lặng nghĩa là làm cho cái TÔI hoàn toàn trống rỗng, là dành riêng một cõi riêng tư cho Lời Chúa được lên tiếng trong cuộc sống và lời rao giảng của mình, như thánh Phaolo đã nói về chính Ngài (Rm 1, 1).  Khi càng tiến sâu vào sa mạc của sự tĩnh lặng, người ta càng phải vứt bỏ những thứ cồng kềnh, những hình ảnh, những ký ức trong đầu óc, những ham muốn bề ngoài, những thần tượng trần tục.  Lời Chúa đã đến với Elia ở điểm cuối cùng của con đường hoang vu, trống vắng, và khi sức lực đã mỏi mòn, khiến ông nghĩ rằng mình đã hoàn toàn thất bại đến nỗi phải than van “Đủ rồi, lạy Chúa, xin cất mạng sống con đi” (1V 19, 4).  Chiếc bình sành ấy, tâm hồn ấy phải được làm trống rỗng hoàn toàn trước đã rồi mới có thể chứa đầy kho báu Lời Chúa (2 Cor 4, 7).  Thánh Augustin nói rằng : “Giả sử Thiên Chúa muốn đổ tràn mật ngọt cho anh em, nhưng lòng anh em lại đầy giấm chua, thì anh em sẽ đựng mật ngọt vào đâu?  Anh em phải đổ hết những thứ đang chứa bên trong đó ra trước, phải chịu khó xúc sạch và lau rửa toàn bộ để xứng đáng tiếp nhận quà tặng nhiệm mầu” [2].

Như vậy, thinh lặng còn là chết đi cái tôi, là chối từ sở hữu chính bản thân để cho Lời Chúa được thay thế và cất tiếng lên từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình.  Tình yêu làm nên sự thinh lặng, và chỉ trong sự thinh lặng người ta mới nếm hưởng trọn vẹn hương vị của tình yêu nồng thắm lan tỏa từ chính người mình yêu, để từ đó ta mới có thể ngụp lặn trong mối tình nồng ấm và thẳm sâu của Thiên Chúa.

  1. Thinh lặng : môi trường gặp gỡ, thông hiệp và biến đổi.

“Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện” (P. Doncocur).  Mỗi người có thể xây dựng cho mình một cõi riêng tư của sự thinh lặng, là nơi hò hẹn hằng ngày để có thể gặp được Chúa.  Tĩnh tâm là bước vào cõi riêng tư, là đi vào cõi thinh lặng để gặp gỡ và lắng nghe tiếng Chúa.  Vì Thiên Chúa là bản nhạc thầm lặng (musica callanda) nói theo Gioan Thánh Giá, là một bản nhạc luôn mới mẻ do sự cấu tạo hòa âm lạ lùng của Ngài ở trong tâm hồn ta mà chỉ nghe được trong sự thinh lặng.  Thiên Chúa là sự hiện diện ở bên kia mọi lời nói. Chính sự thinh lặng là môi trường đưa ta vào sự thông hiệp, mang đến ánh sáng, bình an và niềm vui từ một con tim đến một con tim, là sự giao lưu tuyệt vời mà Thiên Chúa muốn thiết lập với ta.  Đó là một lời mời đi vào sự khám phá ra tình yêu bí ẩn đang ẩn náu thâm sâu trong cõi lòng của mỗi con người.  Thinh lặng không ngăn cản sự trung gian của ngôn ngữ và văn hóa, nhưng nó thiết lập khoảng không gian, trong đó những trung gian kia tan biến đi trước cõi vô biên, để một thế giới mới được mở ra cho sự gặp gỡ và thông hiệp, đó là thế giới của Thiên Chúa.  Sẽ không có tình yêu gặp gỡ và thông hiệp nếu tôi không tạo ra khoảng không gian để cho mầu nhiệm của bản thân, của tha nhân và của Thiên Chúa được diễn ra trong thinh lặng. 

Trong sự thinh lặng, con người đang trong tình trạng tiến hóa, trở thành (devenir), biến đổi, bởi vì nó chỉ còn là một cái nhìn hướng về Thiên Chúa và được hòa nhập trong sự sống của Ngài.  Và lúc này lời có thể phát sinh, bởi vì người ta chỉ có thể nói về Thiên Chúa từ trong thinh lặng, và rồi cũng dẫn đến thinh lặng.  Bởi vì Sự Thật về Thiên Chúa chỉ có thể được nói lên và chỉ có thể được nắm bắt trong ánh sáng của ngọn lửa tình yêu, ở đó mọi lời nói được thiêu đốt tiêu tan trong thinh lặng.

Ngôi Lời đã trở thành người và Ngài đang cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1, 14), đó là Đức Giê-su Ki-tô, Ngài vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay (Dt 13, 8): Đấng đang là, đang có, đang hiện diện cách trọn vẹn trong thinh lặng.  Chính trong thinh lặng tôi được gặp Ngài và thấy Ngài đang nói với tôi, đang tha thiết yêu tôi, và đang làm nên cuộc đời tôi.  Trong sự thinh lặng tôi khám phá ra Ngài đang sống trong tôi và hoàn toàn vì tôi, điều mà trước kia tôi không tài nào hiểu được, nên tôi đã tưởng tượng ra cung cách của Ngài theo tiêu chuẩn và mức độ của bản thân mình: một bản thân hẹp hòi, ích kỷ, lệch lạc, đầy những tối tăm và những sự lôi cuốn của ma lực.  Chính vì thế, bao năm qua trái tim tôi vẫn sầu héo, tình yêu của Thiên Chúa nơi tôi bị ngưng trệ, bao nỗ lực và cố gắng trong kinh nguyện để vươn lên đều vô hiệu.  Tôi vẫn là tôi, không hề xoay chuyển chút nào, không hề biến đổi chút nào, vẫn là con người cũ, với cung cách đó, với lối sống đó, với kiểu suy nghĩ đó.  Vì tôi không thấy gì khác hơn nên tôi cũng không thể thay đổi gì khác hơn, cho tới khi trong khao khát mỏi mòn của sự trống vắng thinh không, tôi mới hiểu ra rằng cuộc đời dâng hiến trước tiên không phải là công việc mà là tình yêu.  Chúa cần tôi và khao khát chính tôi chứ không phải công việc của tôi.  Ngài muốn tôi dâng hiến chính mình tôi theo như chương trình và ý  định của Ngài chứ không theo cách thức và phương hướng của tôi, mà chỉ có thể hiểu được rõ ràng những điều đó khi tôi khao khát lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình bằng một tình yêu nồng cháy trong trái tim mình.  Đó là điều âm vang mãi trong tôi qua câu Chúa nói với Matta: “Mác-ta! con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!  Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.  Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”(Lc 10, 41-42).  Thái độ thinh lặng với lòng đầy yêu mến và sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa của Maria phải làm nên một tâm thái trong cuộc sống của tôi mọi nơi và mọi lúc để có thể đón nhận Chúa một cách trọn vẹn hơn trong cuộc sống dâng hiến cho Ngài.

            Sống đức tin là một cuộc hành trình đi vào chương trình của Thiên Chúa.  Qui luật tối thượng của cuộc hành trình đó chính là thinh lặng: thinh lặng khỏi những bon chen tranh giành của cuộc sống; thinh lặng khỏi những đam mê sôi sục và những toan tính vị kỷ; thinh lặng để không ngừng lắng nghe tiếng Chúa trong từng giây phút; thinh lặng để không ngừng đi vào lẽ khôn ngoan và hành động của Thiên Chúa; thinh lặng để nhận ra từng bước Chúa đi qua trong cuộc đời mình; thinh lặng để làm một với Ngài trong tâm tư, ý nghĩ và ước muốn cũng như trong tình yêu.  Chính trong thinh lặng mà ta được sống với Chúa, được kề cận và ở lại bên Ngài trong mọi ngày của cuộc đời mình.

 Lm. Thái Nguyên

[1] Iganatio Antiokia, Epistola ad Magnesios 7. 2 .

[2] Augustin, In Epistolam Iohannis tractatus 4.6 (PL 35, 2009)

“Khuyên một lời ư?

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 23 thường niên năm A 10/9/2017

(Mt 18: 15-20)

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.

“Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

&

“Khuyên một lời ư?

Nhưng biết đâu, lời khuyên không chạm đến tim đau!”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Khuyên hay không khuyên, đâu là giải pháp của người đời, với vần thơ? Giải hay không giải, vẫn là quyết định của cộng đoàn đấng bậc khôn ngoan đầy kinh nghiệm, trong chung sống. Khuyên và giải, còn là ý tưởng chủ lực của trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật hôm nay, là của thánh Mát-thêu được Phụng vụ Hội thánh rút tiả làm nền hầu khuyên giải thành viên nào đang có vấn đề tranh chấp. Trích đoạn, lấy từ chương 18 có những lời giải khuyên hãy nên sống như Đức Chúa, Đấng từng lân la sống với cộng đoàn đồ đệ thân thương, rất quí mến.

Cộng đoàn thánh Mátthêu xưa có các thành viên người gốc Do thái sống ở Antiôkia. Trước đó, cộng đoàn vẫn sống ở vùng phụ cận thành đô Giêrusalem, chốn đào tạo thành viên chuyên nghiệp, rất đạo hạnh. Khi người La Mã tìm đến bách hại, cộng đoàn này đã phải rời thôn làng mình làm dân lưu lạc ngay trong chốn phồn hoa thị thành mang tên Antiôkia, nơi hội ngộ của nền văn hoá giao lưu Âu Á, thời xưa cũ.

Bên trong khu nhà đầy cách biệt, là chốn tách bạch khỏi người Do thái tin vào Đức Giêsu. Vì sự tách bạch này, nên thường xảy đến nhiều cãi tranh, tị nạnh giữa kẻ tin Chúa và người chẳng biết tin vào điều gì. Vào ai. Khiến đôi đàng không thể hoà hợp, chung sống. Từ đó, vì có khó khăn, nên kẻ tin vào Chúa cũng bớt đi sinh hoạt đạo hạnh như trước. Và sự thể ấy dẫn đến tình huống rắc rối với cộng đoàn.

Đó là lý do khiến có nhiều người đến với thánh sử Mát-thêu để được tư vấn về các nguyên tắc chủ chốt khả dĩ giúp họ trở thành cộng đoàn lành thánh sống trong môi trường dù đổi mới. Đây, còn là nguồn hứng khởi khiến thánh sử viết lên chương sách mang nhiều ý nghĩa để rồi tóm kết bằng hai nguyên tắc chính cho cộng đoàn lấy đó mà sống. Nguyên tắc, là: trong cộng đồng dân Chúa không thể và không nên có một ai thấy mình bị lạc lõng. Và, nguyên tắc thứ hai, là: trong cộng đoàn tình thương làm con Chúa, không thể và không nên có thành phần nào bị bỏ rơi, quên lãng. Hoặc, hư mất.

Thánh sử còn quả quyết: giả như cộng đoàn quyết tâm tuân thủ hai nguyên tắc làm nền để sống chung, thì mọi sự cũng sẽ đâu vào đó. Bằng không, chẳng có gì chứng tỏ họ là cộng đoàn Kitô-hữu, đúng ý nghĩa cả. Đó là qui định tư riêng. Qui định đòi chúng dân phải sống, không như thể chế nguội lạnh, mà là gia đình ấm cúng, rất anh em. Đó, cũng là đề nghị được thánh Mát-thêu đặt ở Tin Mừng chương 18. Rủi thay, các đấng bậc chủ quản phụ trách chọn bài đọc cho Phụng vụ Chúa nhật, lại không mấy chú tâm đến ý nghĩa trọn vẹn trong chương này từng qui định.

Ở đầu chương này, đã thấy nổi lên một tham luận, có Chúa dự. Tham luận này xoay quanh câu mà các môn đệ cứ là hỏi nhau: “Ai là người lớn nhất ở Nước Trời, đây?“(Mt 18: 1) Nếu tưởng tượng, người đọc sẽ thấy đồ đệ Chúa quây tụ thành vòng tròn ngồi ở sân làng rồi kháo láo với nhau: “Rồi, Thầy sẽ cho ta biết ai là người lớn nhất. Và, đâu là tiêu chuẩn để định ra người lớn nhất Nước Trời? Chúa chẳng nói gì. Ngài chợt thấy một bé em đang nghịch đất, Ngài bảo bé đến ở giữa vòng tròn, rồi bảo:“Nếu anh em không như trẻ bé mọn, sẽ chẳng vào Nước Trời.” (Mt 18: 3). Và, thánh Mát-thêu triển khai thêm ý nghĩa “nên như trẻ bé mọn”.

 “Trẻ bé mọn” đây, nên hiểu theo nghĩa biểu tượng. Bởi thời xưa, ”trẻ bé mọn” không khi nào mang ý nghĩa của những ngây thơ, trong trắng hoặc nét đẹp không hao mòn như ở Anh thời nữ hoàng Victoria . Với thế giới Hípri, thì “trẻ bé mọn” là biểu tượng của những kẻ không có quyền, dù quyền hành hay quyền lợi. “Trẻ bé mọn”, là những người nghèo hèn. Là, kẻ bị quên lãng, bỏ ngoài bên xã hội.

Với cộng đoàn Kitô hữu, những người ăn trên ngồi chốc, các bậc vị vọng, đạo hạnh, quyền thế, giàu có, chẳng bao giờ là “trẻ bé mọn” bị quên lãng, hoặc hư mất hết. Như Chúa nói: “Anh em chớ nên khinh thị một ai trong đám trẻ bé mọn này…Con Người đến để cứu cái gì hư mất.”(Mt 18: 10).

Thế nên, nguyên tắc làm “nền” cho cộng đoàn Nước Trời người tín hữu Đức Kitô, là: đón mừng” “trẻ bé mọn”. Nói vắn gọn, thì như thế cũng đủ. “Mừng đón” là câu nói đầu chỉ một hành xử đúng đắn. “Đón mừng”, phải là hành xử rất ban đầu và trước tiên của cộng đoàn. Chí ít, là cộng đoàn dân con của Chúa. Mừng-đón-trẻ-bé-mọn, không là đón mừng các đấng toàn năng, toàn thiện. Mà là, mừng và đón những kẻ sẽ chẳng-bao-giờ-trở-nên-toàn- thiện, tuyệt vời.

Đây, là sinh hoạt vào lúc đầu của cộng đoàn dân con Đức Kitô. Cung cách ta mừng đón “trẻ bé mọn” phải khác cung cách đón mừng, rất chung chung. Tức, ta phải mừng đón những “trẻ bé mọn” không hoàn chỉnh, khi họ lạc lõng, hư mất. Đón và mừng những con người bị đồng hoá với “trẻ bé mọn” như thế, tức là không được phép để người ấy lạc lõng, bị bỏ rơi, hư mất.

Ai trong chúng ta thực sự, và trên thực tế, từng lạc lõng? Nói nôm na, thì thế này: sống trong cõi đời nhiều bon chen/tranh chấp, ta phải định ra chỗ đứng của mình. Phải biết mình đang ở đâu. Làm sao để người khác tìm ra mình hoặc mình tìm ra người khác đang lạc lõng, hư mất? Đó là kinh nghiệm ban đầu. Đó là cung cách sống để ta luôn tìm thấy những “trẻ bé mọn” sống dưới mức hưởng được may mắn với mọi quyền lợi.

Thế nên, ta cũng hiểu được tại sao lại gọi những “trẻ bé mọn” ấy là kẻ lạc lõng, hư mất. Trong khi, họ là người lẽ ra không đáng bị ta quên lãng, coi thường. Họ phải được ta mừng đón và kiếm tìm một cách tích cực, để rồi ta đưa họ vào tận trung tâm điểm của cộng đoàn. Nếu không làm thế, thì không thể và không đáng gọi là thành viên cộng đoàn Kitô-hữu, tức cộng đoàn không có ai và không một ai bị lạc lõng, hư mất.

Đối chọi lại hành xử mừng đón trẻ bé mọn, là cản trở trẻ lạc lõng, hư mất. Cản trở, được coi như một hành động bỉ ổi. Rất tai tiếng. Cản trở tức trở thành sỏi cát lọt trong giầy của trẻ bé hèn mọn vậy. Những người là sỏi cát cản trở bước đi của bọn trẻ bé, lại chính là những người mắc lỗi nặng trong chung sống. Sống rất chung, đời cộng đoàn dân con của Chúa. Người cản trở trẻ bé mọn như thế, chỉ đáng cột cổ vào đá, quăng xuống biển, một hình phạt dành cho lỗi phạm, cũng khá nặng.

Bởi thế nên, thánh Mátthêu mới tóm tắt giới lệnh căn bản, trong 10 giới lệnh yêu thương bằng câu: “Không được nên cớ vấp phạm cho người nào trong các “trẻ bé mọn” tin vào Ta” (Mt 18: 6-8). Và cả câu 14: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không hề có ý để ai trong những trẻ bé mọn này hư mất.”

Nguyên tắc thứ hai cho cộng đoàn chung sống cũng gần giống như nguyên tắc đầu. Tức, trong cộng đoàn Kitô-hữu ta chung sống, không ai được phép có hành xử với mọi thành viên khác như người hư mất, khó thứ tha. Một trong cung cách bị coi là lạc lõng, hư mất, tức là không thể tha thứ cho người ấy. Trong cộng đoàn Hội thánh, không thể có động thái giống như thế. Đó là ý tưởng mà thánh Mát-thêu còn viết nhiều ở các chương đoạn kế tiếp.

Tựu trung, ý tưởng mà thánh nhân muốn nhấn mạnh, là: hãy ra đi mà tìm kiếm những “trẻ bé mọn” đem họ về lại với cộng đoàn. Công tác này, không thể là động thái bốc thăm, may rủi, được. Nhưng, phải là mục tiêu hành động. Là, hành xử mang tính cách xuyên suốt, rất văn hoá. Là, mục tiêu phải đạt chứ không là động thái thích thì làm không thích thì thôi.

Thời buổi hôm nay, còn rất nhiều “trẻ bé mọn” đang lạc lõng bằng cách này hay cách khác qua cách hành xử của ta và “trẻ bé mọn” dễ bị cuốn hút vào chốn “hư mất”, nếu ta không ngó ngàng gì đến họ. Và, vấn đề là hỏi: ta có bỏ công đi tìm những người như thế, mà đưa về “ràn chiên” Hội thánh không?

Tại thành đô Giêrusalem hôm nay, có khu tưởng niệm “những trẻ bé mọn” bị lạc lõng/hư mất trong lò thiêu sống. Bên trong khu này, là phòng tối có những đốm sao lấp lánh chiếu lên ảnh hình và tên tuổi của từng bé em bị lạc lõng, thân hư nát.Và, có cả tiếng giọng ở hậu trường gọi tên em bằng tiếng Aram tựa hồ tiếng của Cừu mẹ Rachel gọi cừu con đang bị lạc. Chính đó, là ý nghĩa của trích đoạn trình thuật mà thánh sử Mátthêu, nay muốn tả.

Thánh Hội của ta hôm nay có đang cuồng điên gọi tìm “trẻ bé mọn” đang đi lạc, ở đâu không? Gọi và tìm, như ý tưởng của thánh sử Mát-thêu từng ghi chép? Có hay không, cũng nên tự hỏi: cho đến nay ta đã bao lần là hạ sỏi trong giầy của trẻ bé mọn? Ngày hôm nay, ta có cảm nghiệm sống thực hiện nguyên tắc/lý tưởng này trong thể chế có tổ chức thành cộng đoàn không? Nếu chưa, thì ta có ý định bắt đầu ngay chưa? Là thành viên Hội thánh lớn/nhỏ, câu hỏi ấy đã trở thành vấn nạn gửi đến cho người. Cho mình.

Trong tâm tình tìm câu trả đáp cho thoả đáng, cũng nên tìm nguồn hứng khởi ở câu thơ, rằng:

 “Lời khuyên không chạm đến tim đau.

Tim đau sẽ vọt ngàn tia máu.

Đọng lại muôn ngày vết hận sâu…”

(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)

Nhà thơ đời vẫn hỏi, như một lời nguyện cầu. Cầu mọi người. Nguyện ở mọi nơi. Cả những nơi có con tim không “vọt ngàn tia máu” xót thương. Tia máu yêu thương những là tìm đường mà mở rộng vòng tay đó những “trẻ bé rất mọn hèn”, còn lưu lạc ở nhiều nơi.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch.

“Có người hỏi tôi tại sao”

Lẻ bóng – Anh Bằng -Thanh Thúy

httpv://www.youtube.com/watch?v=6WrnYpKSjBo

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 23 thường niên năm A 10/9/2017

 “Có người hỏi tôi tại sao”
Ưa ca bài ca sầu nhớ

Ưa ngắm trăng mờ hoàng hôn

Ưa đi lặng lẽ trong những đêm gió mưa u buồn
Mà nghe cô đơn.”

(Anh Bằng – Lẻ Bóng)

(Mt 5: 8)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nhạc bản “Lẻ Bóng” của nhạc sĩ Anh Bằng, vẫn cứ hỏi mình/hỏi người khá nhiều thứ. Có những thứ và những sự nghe xong, cũng khó mà trả lời cho ra nhẽ. Khó nhất hạng, là cứ phải đọc báo lá cải hoặc rau diếp rau dền sao đó, rồi lại hỏi chuyện đó có thật hay không, thì có ma nào biết được sự thật, mà giải-đáp.

Trước khi giải-mã câu hỏi về sự việc này, nay mời bạn và tôi, ta thử đọc một tin khá “lạ kỳ” trên tuần báo “Văn Nghệ” ở Úc hôm 03/8/2017, có những điều rất ư là kỳ khú, như sau:

“Kỳ quái ở Sàigòn, nghề ngủ thuê trong quan tài lấy may.

Có lẽ bất cứ ai khi nhìn thấy những cỗ quan tài sơn màu đỏ đều cảm thấy lạnh sống lưng, không muốn đến gần chứ đừng nói là chui vào đó…nằm ngủ. Thế nhưng, ở những trại hòm Sài gòn lại có cái nghề kỳ quái: Vào nằm trong quan tài.

 Công việc này khá đơn giản, chỉ cần nằm im trong quan tài gỗ đã đóng kín, sau một tuần nhang sẽ được các chủ trại hòm trả từ 400.000-500.000đồng. Anh Vạn (44 tuổi, quê gốc Chợ Gạo, Tiền Giang) làm nghề ngủ trong quan tài, cho biết, khoảng 4-5 năm trở lại đây, nghề này khá phát triển…

 Cũng theo anh Vạn, các chủ trại hòm cho rằng, nếu buôn bán ế ẩm, các quan tài không có “chủ nhân” chỉ cần có người chịu vào đó nằm, giả chết sau một tuần nhang thì sẽ có chủ nhân thật sự. Nói nôm na, ngủ trong quan tài để mang lại may mắn làm ăn, buôn bán cho họ. Chẳng biết thực/hư thế nào, nhưng cái nghề ngủ quan tài là có thật 100%” (X. Văn Nghệ Tuần Báo ngày 3 tháng 8 năm 2017, tr. 44)

Thế nhưng, bỏ qua một bên những chuyện tưởng-như-là dị-đoan/mê-tín thần-thoại này, nay ta cũng nên để mắt đọc thử một bài viết khác có câu hỏi, rằng: “tại sao có người lại cứ tin vào chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đây đó, có mê-tín/dị-đoan hay không, như bài viết phổ biến trên Tuần Báo Công Giáo Sydney hôm 26/3/2017, như sau:

“Hoa trái tốt tươi cũng có thể xuất từ sự-kiện Medjogorje. Thiên-Chúa sẽ tỏ-bày thân mình Ngài ở bất cứ nơi nào Ngài được đón tiếp, ngay cả khi khách hành hương cảm thấy thất vọng, vì nhiều lẽ…” (Xem thêm lập trường của tác-giả Simcha Fisher qua nhận-định này ở bài: The low-down on Medjugorje, trên tuần báo The Catholic Weekly 26/3/2017 tr. 13)

Hỏi và đáp thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta quay về nhạc bản trích-dẫn ở trên mà nghêu ngao đôi ca-từ để rồi lại sẽ bàn những chuyện đáng bàn mãi về sau. Nghêu-ngao hát, là hát những ca-từ được viết như sau:

 “Đừng chắt tình riêng tôi
Đời mấy người chẳng
Ưa nhìn tơ liểu rũ

Ưa chìm trong giấc ngủ
Ngày còn ấu thơ lòng chưa biết chi mộng mơ.

Nói nhiều để cho sầu vơi
Tôi ưa tìm lên đồi vắng
Ưa lắng chuông chùa vọng khơi

Trông chim bạt gió
Nghe tiếng tiêu thiết tha xa vời lòng thêm chơi vơi

Thường viết dòng tâm tư
Vào những chiều úa
Thương cành khô lá đổ

Thương mùa đông nức nở
Thương cung ve rền trong nắng hè gọi bơ vơ.

 Còn thương còn nhớ
Đường xa ai gian khổ phong trần
Tạm quên vui khi tuổi thanh xuân
Năm tháng giữa non ngàn

Mộng lòng ra đi là giữ yên bờ cõi
Một đời nguyền hy sinh hạnh phúc riêng người ơi
Biết bao giờ nguôi (thôi).


Nói sao cạn lời
Tình tôi mến người.

Vẫn là niềm thương đầy vơi
Khi ca bài ca sầu nhớ
Khi ngắm trăng mờ hoàng hôn

Khi đi lặng lẽ trong những đêm gió mưa u buồn
Mà nghe cô đơn

Hẹn ước về tương lai
Chờ đón ngày tới
Đôi lòng không cắt trở
Như bày chim ấm tổ

Tôi xin dâng người ca khúc trọn một niềm vui … !!!

(Anh Bằng – Lẻ Bóng)

Hát cho qua nỗi buồn hỏi han xong, nay mời bạn và mời tôi, ta quá bộ đi vào vườn hoa truyện kể có những lời bàn về “nhân sinh vô thường”, nó thế này:

Nhân sinh vốn vô thường, đời người tựa đóa hoa, sớm nở tối tàn, mấy ai có thể sống một cách nhẹ nhàng thoải mái cho được. Hãy biết trân quý, cảm thông cho bản thân và người khác, để mỗi ngày trôi qua là một ngày ý nghĩa.

 Nhân sinh khó hay không là dựa vào nỗ lực của chính mình, ngày qua ngày có khổ hay không là do tâm tình của mình, không cần đánh mất niềm tin, không cần oán hận ghen tị, con đường phía trước không phải lúc nào cũng gập ghềnh, người bên cạnh tất cả đều cố gắng nỗ lực, mệt mỏi cũng không buông bỏ bản thân, đừng tùy hứng trước mặt người khác, khiến cho người khác đối với mình có thành kiến.

 Nên hiểu biết một chút, đừng quá coi trọng bản thân, ở trên đời này không ai cần phải theo ý mình, nước mắt, khổ sở nên để trong lòng, đừng vì tính tình của mình mà làm hỏng tâm tình của người khác. Ai cũng đều sống không dễ dàng, hãy cảm thông thấu hiểu lẫn nhau mới có thể có được bạn bè, mới có thể làm cho chân tình bền vững.

 Thời gian sẽ vạch trần những lời dối trá, sẽ làm xa cách nhau, sẽ thấy được tâm của bao người. Không thể không thừa nhận rằng, thời gian là một loại thần dược nhiệm màu, đồng thời cũng là một loại độc dược.

 Quan hệ giữa người với người, không nên dùng sự thông minh để lợi dụng sự thiện lương của người khác, thời gian sẽ cho chúng ta thấy rõ, đơn giản chính là sự quen biết lâu dài nhất, bình thường là tình bạn yên tâm nhất.

 Có một ngày ta sẽ hiểu được, thiện lương so với thông minh thật khó khăn, thông minh là một loại khả năng do trời ban cho, còn thiện lương là một loại lựa chọn, cảm kích khi có được, chờ mong vào tương lai. Cái gọi là cuộc sống chính là ta cần phải quen với những thay đổi của người đời, cũng cần phải có thái độ xem nhẹ với những người dần dần xa cách.

 Khi tâm tình không tốt cần phải học cách thay đổi, khi có việc khiến ta không thoải mái, thì không cần hết sức chạy theo sau để hỏi vì sao. Con người khi còn sống thì sẽ càng gặp những việc phiền lòng, để nhìn xem đối diện với những sự việc đó bạn sẽ thay đổi ra sao.

 Xem nhẹ một chút thì tâm sẽ nhẹ một chút. Có một số việc chính là không có kết quả, nếu tính toán thì ngược lại sẽ tăng thêm phiền não, cho nên thà không tính toán. Danh – lợi, được – mất, tính toán nhiều tâm can tất sẽ mệt mỏi.

 Chúng ta vốn là khách trọ qua đường, tựa hạt bụi phiêu lạc nơi trần thế. Không oán trời oán người, cũng không oán trách mình, cứ tích cực vui vẻ, vận số có thế mới canh tân, đường đi như vậy mới thông suốt, tâm mới vui vẻ, thanh nhàn, sảng khoái.

 Giữ vững tiêu chuẩn làm người, bảo vệ cho ranh giới thiện lương. Nhân sinh có mức độ, quá mức sẽ gặp tai vạ, làm người không nên quá để ý, làm việc không cầu hoàn mỹ. Lòng người quý ở chỗ khoáng đạt, khoan dung, hòa nhã. Không giận không vội, mới đủ rộng lượng; không nóng vội, mới đủ thong dong; không lo lắng ưu sầu mới đủ kiên cường.

 Không buồn bã sầu lo mới đủ xán lạn; không ghen ghét đố kị mới đủ ưu tú, không bám víu so đo mới đủ hạnh phúc; không tính không toán mới đủ vui vẻ. Làm người ở trên đời cần một chữ “Cười”.

 Cười đối với danh dự, không tranh giành; cười đối với của cải bất nghĩa, không nhận; cười đối với đời, không cầu; cười đối với khó khăn, không buồn phiền; cười đối với quyền quý, không cúi đầu; cười đối với nhân sinh, không gò bó, cười đối với được mất, không lo buồn.

 Trên khán đài cuộc sống, chúng ta gặp được càng nhiều người thì sẽ gặp được càng nhiều sự tình. Bất luận có vui vẻ hay không, chúng ta cũng phải hiểu được có tụ họp có ly tán; bất kể có thâm tình hay không chúng ta đều phải tươi cười mà đón chào. Con người khi còn sống, ai cũng không nhất định là sẽ vững vàng, phồn hoa như gấm lụa.

 Khi đắc ý nên lưu tình với người khác, khi thất ý còn có người giúp đỡ. Làm người sống ở đời phải hiểu được khoan dung thỏa mãn, chân tình mới có thể đổi lấy chân tình. Cho dù là đắc ý hay không như ý, chúng ta đều phải cảm tạ cuộc sống. Chính cuộc sống làm cho chúng ta hiểu được rất nhiều, càng biết rõ ràng hơn nhiều.”(Đức Hạnh biên dịch)

Thắc mắc trên, từng là câu hỏi đặt ra cho nhiều người, trong đó có bầy tôi đây. Thật cũng may, là: đang trong lúc kiếm tìm câu trả lời cho thoả-đáng, thì bần đạo bầy tôi đây lại “chộp” được ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô như sau:

“Trên chuyến bay trở về từ Fatima, nước Bồ Đào Nha, phóng-viên Joshua McElwee của tờ The National Catholic Reporter có hỏi Đức Giáo Hoàng Phanxicô về tính-chất rất thực nơi sự việc Đức Maria hiện ra ở Medjugorje, nước Bosnia-Herzegovia, Đức Giáo Hoàng trả lời:

 “Bản Tường Trình, cũng đã có chút ngờ vực rồi; nhưng cá nhân tôi còn nghi-ngờ tệ hơn thế. Tôi thích chọn Đức Bà của ta như con người chứ không là Đức Bà Thủ Trưởng ngành Bưu điện chuyên gửi tin nhắn vào thời điểm nào đó, rất nhất-định.

 Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Truyện ở đây, không biểu-tỏ đó là Thân-mẫu Đức Giêsu và các sự việc gọi là “hiện ra” như thế không có giá-trị là bao nhiêu. Tôi nói, đây là ý-kiến cá nhân của tôi, nhưng ý-kiến này thật rõ nét. Những ai nghĩ rằng: Đức Bà của chúng ta vẫn bảo rằng: Con hãy đến, vào ngày mai cũng giờ này Ta sẽ gửi tin nhắn cho người nào nhìn thấy, như vậy ư? Không đâu! Không phải thế. 

Ba trong số 6 trẻ nhỏ lúc đầu bảo: đã nhìn thấy Đức Bà ở Medjugorje vào tháng 6/1981 có nói: Bà sẽ tiếp-tục hiện ra như thế cho chúng nhìn thấy mỗi ngày; còn 3 cháu kia, lại nói: Đức Bà hiện ra với chúng có một lần một, cách nay một năm…

 Một uỷ-ban thuộc giáo-phận đã nghiên-cứu học hỏi về các sự việc gọi là “hiện ra” từ năm 1982-1984; và một lần khác vào các năm từ 1984-1986 với nhiều thành-viên hơn; và lúc ấy, Hội đồng Giám mục ở Nam tư đã điều-tra các sự việc ấy từ năm 1987 đến 1990, cả 3 uỷ-ban này đều kết-luận rằng: họ không thể khẳng-định được là có sự-kiện siêu-nhiên xảy ra ở thị-trấn này, trong thời-gian ấy hay không…

 Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn thêm: Ta không thể chối bỏ các yếu-tố linh-đạo và mục-vụ ở đây, bởi dân chúng đã tới đó và đã hồi hướng trở lại, họ là những người gặp thấy Chúa là Đấng hoán-cải cuộc sống của họ. Đó, không có gì là xảo-thuật hết.” (Xem Junno Arocho Esteves, Pope Francis: I personally doubt authenticity of current alleged Medjugorje visions, Catholic Herald 14/5/2017)

Hỏi han nhiều, tìm kiếm câu trả lời cho siêu, cũng là kiếm tìm một cung-cách sống trong đời. Sống phúc hạnh, lành thánh dù đơn sơ nhưng có chủ-đích như truyện kể nhẹ về “Hạnh phúc đơn sơ” ở bên dưới:

“Có một tỷ-phú sống trong căn biệt thư xa-hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh-vọng, tiền tài, vật chất, thật ra đều hư-vô như mấy khói. Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một danh-y để xin lời khuyên nhủ. Sau khi bắt mạch, danh-ý nói với ông rằng:

 -Bệnh của ông, ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo.

 Nhà tỷ-phú đi về, trong lòng phấp-phỏng hy-vọng. Ông lấy đơn đầu tiên ra và đọc:

 

  1. Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phú, làm liên-tục như vậy trong 21 ngày.

Mặc dù thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định đi ra bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm dài trên bãi cát. Bất chợt một cảm-giác nhẹ-nhàng và khoan-khoái bao trùm cơ thể ông. Vì trước đây, công việc bận rộn nên ông không có cơ-hội nghỉ ngơi. Nay, ông có thể bình tâm lại để lắng nghe gió thổi vi vu, song biển rì-rào hoà lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim ông bỗng thổn-thức, chưa bao giờ ông có được cảm-giác thoải-mái như bây giờ.

 

Ngày thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết:

 

  1. Hãy tìm 5 con cá hoặc tôm rồi thả chúng xuống biển, liên-tục như vậy trong 21 ngày.

Lòng ông đầy rẫy những băn-khoăn, nhưng ông vẫn căm-cụi đi mua tôm cá, rồi thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng con vật bé nhỏ được trở về với biển khơi, trong lòng ông không nén nổi xúc-động. Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc thứ ba:

 

  1. Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy hài lòng lên bãi cát.

 

Nhưng khi ông vừa viết xong, thuỷ-triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, rồi lại viết, lại cuốn đi rồi lại viết và lại cuốn đi… ông bật khóc nức-nở vì chợt hiểu ra tất cả. Về nhà, ông cảm thấy toàn thân nhẹ-nhàng, tinh-thần chưa bao giờ thoải-mái và tự-tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.

 

Thì ra, con người ta chỉ cần học được 3 điều ở trên, ắt sẽ vui vẻ, hạnh-phúc: thứ nhất: Nghỉ ngơi; thứ hai: Cho đi; và thứ ba: buông xuống.” (Truyện kể trích từ trên mạng)    

 

Truyện kể rồi, nay bần đạo bầy tôi đây lại cũng đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta đi vào vùng trời Lời của Chúa, với những khẳng-định như sau:

 

Phúc thay ai có lòng ngay,

vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa.”

(Mt 5: 8)

Thế mới biết, người có lòng ngay sẽ thấy hạnh-phúc biết mấy, vì “sẽ được thấy Thiên-Chúa”. Nay, ở chốn Nước Trời Hội thánh ta đang sống, vẫn tràn đầy nhiều hạnh-phúc. Vấn-đề, còn tuỳ ta có nhận ra được nó hay không, mà thôi.

Nhắc bạn và nhắc tôi những điều như thế, nay lại mời bạn và mời tôi, ta cất tiếng hát lại những ca-từ đầy hỏi han, mà rằng:

“Nói nhiều để cho sầu vơi
Tôi ưa tìm lên đồi vắng
Ưa lắng chuông chùa vọng khơi

Trông chim bạt gió
Nghe tiếng tiêu thiết tha xa vời lòng thêm chơi vơi

Thường viết dòng tâm tư
Vào những chiều úa
Thương cành khô lá đổ

Thương mùa đông nức nở
Thương cung ve rền trong nắng hè gọi bơ vơ.

 Còn thương còn nhớ
Đường xa ai gian khổ phong trần
Tạm quên vui khi tuổi thanh xuân
Năm tháng giữa non ngàn

Mộng lòng ra đi là giữ yên bờ cõi
Một đời nguyền hy sinh hạnh phúc riêng người ơi
Biết bao giờ nguôi (thôi)
Nói sao cạn lời
Tình tôi mến người.

Vẫn là niềm thương đầy vơi…”

(Anh Bằng – bđd)

Cuối cùng thì, tất cả là “Tình tôi mến người, vẫn là niềm thương đầy vơi”, trong đời; và ở Nước Trời Hội thánh, rất thân và rất thương ở đây, hôm nay.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những lời lẽ

đầy thương yêu

rất như thế.