Cơ quan chức năng Miến điện tiến hành thu giữ lưới đánh bắt cá của người dân địa phương chỉ ít ngày trước khi siêu tàu chở 140 ngàn tấn dầu cập cảng Kyauk Pyu để rồi đưa sang Trung Quốc.
Hằng trăm ngư dân địa phương bị cấm hành nghề đánh bắt tại vùng biển gần tuyến đường ống dẫn dầu dài 770 kilomet chạy qua Myanmar đến khu vực tây nam Trung Quốc.
Tuyến đường ống này là một phần quan trọng trong dự án ‘Một Vành Đai, Một Con đường’ của Bắc Kinh nhằm thiết lập quan hệ kinh tế với Châu Á và vươn xa ra nữa.
Những ngư dân Myanmar bị tác động bất mãn vì họ bị mất sinh kế làm ăn lâu nay. Một người dân cho biết mới trang bị thêm một tàu lớn hơn cách đây 4 tháng nhưng thu nhập giảm đến hai phần ba và nay bị tịch thu lưới đánh bắt.
Vào tháng qua hơn 100 ngư dân Myanmar đã biểu tình đòi Tập đoàn vận hành đường ống dẫn dầu PetroChina bồi thường thiệt hại cho họ.
Bài viết bị bắt buộc gỡ bỏ… Chia sẻ mạnh lên các bạn, có thế thanh tra chính phủ mới vào cuộc…
Một bài Viết quá hay của Dân Việt về bà Hoàng Thị Huệ, vợ ông Phạm Sỹ Quý — Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái có chị là bà Phạm Thị Thanh Trà — Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái, các bạn chia sẻ mạnh để mọi người cùng đọc và hiểu nhé!
Sẽ thật khó khăn cho đoàn thanh tra của tỉnh Yên Bái khi tiến hành thanh tra 13.000 m2 đất lâm nghiệp được biến đổi thần kỳ thành đất ở của gia đình ông Phạm Sỹ Quý – Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái. Trong bối cảnh chị ruột của ông Phạm Sỹ Quý lại là bà Phạm Thị Thanh Trà – Bí thư Tỉnh ủy.
Và ngay cái công văn đề nghị báo chí dừng đưa tin chờ kết luận cũng là một dấu hiệu rõ nhất.
Yên Bái là một tỉnh nghèo với tỷ lệ hộ gia đình nằm trong diện nghèo và cận nghèo cao trong top đầu cả nước. Hầu như năm nào Yên Bái cũng phải đặt ra chỉ tiêu giảm bớt hộ nghèo, xóa hộ cận nghèo.
Vậy mà đùng một cái, dư luận thật sự sốc khi chứng kiến biệt phủ không kém cạnh bất cứ một khu biệt phủ nào của ông Phạm Sỹ Quý – Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường của tỉnh này.
Đặc biệt, phần diện tích này được chuyển đổi từ diện tích đất rừng sang đất ở với 6 quyết định đồng thuận cùng được ký trong một ngày.
Người sở hữu khu đất này dĩ nhiên không đứng tên ông Phạm Sỹ Quý mà đứng tên bà Hoàng Thị Huệ, bà Huệ là vợ được pháp luật thừa nhận của ông Quý. Để rồi từ đất rừng mọc lên một biệt phủ xa hoa tráng lệ.
Tất nhiên là ông Quý trả lời truyền thông rằng việc chuyển đổi đất cho vợ ông là đúng quy trình, minh bạch. Cũng tất nhiên kinh phí để xây dựng biệt phủ là của vợ ông, cũng tất nhiên vợ ông kinh doanh rất đàng hoàng. Thêm lần tất nhiên nữa là bà Bí thư Tỉnh Yên Bái Phạm Thị Thanh Trà cũng đã chỉ đạo cấp dưới thanh tra tài sản của em ruột mình một cách cứ “chí công vô tư”.
13.000m2 đất không phải là một tổ kiến, một biệt phủ sừng sững giữa một tỉnh nghèo không phải là một tổ mối, một khối tài sản khổng lồ của vợ chồng quan chức cấp Sở trong tỉnh không phải là một tổ tò vò…
Thế nhưng, đến lúc báo giới loan tin thì cả hệ thống chính trị tỉnh Yên Bái mới giật mình. Vậy mới thấy vụ nổ súng nghiêm trọng tại phòng làm việc của lãnh đạo tỉnh này hồi năm ngoái có phần giải thích được – công tác quản lý cán bộ lỏng lẻo đã dẫn đến kết cục đầy buồn bã ấy. Vậy mà cho đến giờ, lãnh đạo đương nhiệm ở Yên Bái vẫn chưa rút được bài học kinh nghiệm nào đáng kể.
Quan chức giàu cứ giàu, quan chức chưa bị phát hiện giàu thì cứ giật mình khi thấy quan chức khác bị phát hiện.
Báo cáo Chính phủ, Bộ Nội vụ nêu rõ: “Trường hợp ông Phạm Sỹ Quý (em trai bà Phạm Thị Thanh Trà – Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái) – Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Yên Bái chưa đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ ngạch chuyên viên chính, hiện đang học lớp quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính”.
Điều này có nghĩa là việc bà Phạm Thị Thanh Trà khi còn làm Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái ngày 9.9.2016 ký quyết định bổ nhiệm em trai mình làm Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường là bất hợp lý.
Trả lời báo chí về vấn đề này, bà Trà khẳng định việc bổ nhiệm ông Quý không có gì để gọi là ưu ái. Đây là quyết định của tập thể Thường trực Tỉnh uỷ và Thường vụ Tỉnh uỷ Yên Bái, theo “quy trình cực kỳ chặt chẽ”.
Đã chặt chẽ lại còn sai, thì giả mà chưa chặt chẽ thì không biết cái sai ấy còn đến đâu.
Tiền nhân luận “cái sảy nẩy cái ung”, thế nên có lẽ cơn giật mình của lãnh đạo tỉnh Yên Bái xung quanh 13.000m2 đất lâm nghiệp hóa thành đất ở của vợ ông Phạm Sỹ Quý bắt nguồn từ chính việc bổ nhiệm bất chấp chưa đáp ứng điều kiện này, chưa đáp ứng tiêu chuẩn kia của ông Phạm Sỹ Quý.
Ai cũng biết công tác đề bạt cán bộ luôn được quy định rất cẩn trọng theo pháp luật, từ sức khỏe cho đến trình độ rồi các tiêu chuẩn khác. Thế mà, cứ như một chuyển động đều, năm hôm ba ngày dư luận lại chứng kiến một thiếu sót này, một bất hợp lý kia. Điều kỳ lạ nữa chính là những trường hợp đề bạt bất hợp lý ấy toàn rơi vào người nhà, người thân hay chồng vợ của các vị lãnh đạo đương nhiệm.
Câu chuyện của ông Phạm Sỹ Quý sẽ chẳng đi đâu về đâu, cũng sẽ chẳng có kết luận cuối cùng nào khác ngoài mấy chữ “đúng quy trình, đúng pháp luật”, những từ khóa như “khối bộc phá” khiến niềm tin nhân dân nổ tung.
Muốn không hiện hữu những từ khóa quen thuộc mà đầy phẫn nộ ấy, nhất định phải có một đoàn thanh tra khác từ Trung ương về Yên Bái để thay thế cho đoàn thanh tra của tỉnh này.
Cuối cùng thì vẫn là, chờ xem quyết tâm làm trong sạch bộ máy của lãnh đạo đến đâu, lúc ấy có lẽ mới bàn sâu thêm được.
Tôi vừa nhận được thư yêu cầu luật sư bào chữa của Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh), gửi từ trại giam Công an tỉnh Khánh Hòa.
Mẹ Nấm bị truy tố về tội “Tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 3 năm đến 20 năm tù giam.
Mẹ Nấm là người phụ nữ can đảm đấu tranh cho sự tiến bộ của xã hội, được tổ chức Civil Rights Defenders của Thụy Điển trao giải thưởng “Người bảo vệ nhân quyền” năm 2015 và được phu nhân tổng thống Mỹ Melania Trump trao giải thưởng “Phụ nữ quốc tế dũng cảm năm 2017”.
Sau khi nhận được thư của Mẹ Nấm, tôi đã làm thủ tục bào chữa gửi Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa theo qui định pháp luật, nhưng không biết Tòa án tỉnh Khánh Hòa có cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho tôi hay không ?
Tòa án tỉnh Khánh Hòa nổi tiếng gây khó khăn cho luật sư tham gia bào chữa các vụ án liên quan đến dân chủ, nhân quyền.
Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.
Truyền thuyết
Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.
Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.
Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.
Nước Xích Quỷ được tô màu có diện tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay. (Ảnh: Wikipedia)
Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.
Như vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v.
Bản đồ nước Việt cổ. (Ảnh: Wikipedia)
Nếu tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.
Khi vua Kinh Dương Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.
Truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ. (Ảnh qua vietbao.vn)
Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia.
Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.
Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”
Hình ảnh Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Hán.
Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới trời”.
Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua Bà là ai.
Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”
Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.
Miếu thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:
Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi, Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu đối:
Giang thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa, Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).
Bản đồ nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng, phía Bắc đến Động Đình Hồ, phía Tây đến Bồ Lăng (Ba Thục). (Ảnh: Wikipedia)
Trải qua ngàn năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc, khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.
Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.
Truyền thuyết không cách xa sự thực
Trong bài viết có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới cổ của Việt Nam nằm ở hồ Động Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:
1 – Núi Ngũ lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.
2 – Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.
3 – Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.
Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:
Biên giới cổ của nước Việt Nam, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.
“ Thế giới xung quanh do chính thái độ bạn tạo ra.”
Có một ngôi nhà đặc biệt được thiết kế hàng ngàn chiếc gương gắn trên các bức tường, chiếc hình tròn, chiếc hình vuông, to nhỏ khắp nơi.
Có một cậu bé tung tăng dạo chơi gần đó bước vào với tâm trạng vui tươi, háo hức miệng cười, mắt bừng sáng. Ngay lập tức, cả ngôi nhà phản ảnh cả ngàn nụ cười sinh động, lấp lánh vui tươi. Cậu bé cảm nhận một cảm xúc thật tuyệt vời. Cậu thầm nhủ: “ Thật tuyệt vời. Ta sẽ ghé lại thăm nơi này khi có dịp.”
Lần sau, cậu bé ấy quay lại ngôi nhà nhỏ lạ kỳ đó. Cậu mới gặp một nỗi buồn và cảm thấy chán nản, bi quan, u sầu. Vừa bước vào nhà, cậu thấy cả ngàn khuôn mặt , ánh mắt cũng chán nản, rầu rĩ bao vây xung quanh. Cảm thấy bất lực trước ngoại cảnh ảm đạm, xám màu, cậu chợt gào lên với ánh mắt căm giận hòng thay đổi cảm xúc của mình và không gian chung quanh, và ngay lập tức bốn phía cậu là những ánh mắt căm giận, không hề thân thiện nhìn cậu cùng những tiếng gào thét vang vọng.! “ Thật kinh khủng. Ta không bao giờ trở lại đây một lần nào nữa.”
Bạn thấy đấy, thế giới sinh động xung quanh ta là những tấm gương vô hình. Chúng ta sẽ nhận lại cảm xúc từ chính thái độ, nội tâm và cách nhìn cuộc sống từng ngày mà chúng ta trao đi. Vui tươi , hy vọng tràn đầy niềm tin hay buồn chán, tuyệt vọng.- Rất đơn giản.- Tất cả đều bắt nguồn từ thái độ của chính mình.
Gia đình có một người con tận hiến đời mình cho Chúa đã là quý, đàng này … gia đình có 7 mà lại hiến dâng đến 5. Phải chăng đó là quà tặng, là ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho gia đình ông bà cố Liêm – Mẫn.
Thiên Chúa vẽ đường thẳng bằng compa để rồi mối tình giữa chàng lính nhà quan gốc Huế lại gặp cô thôn nữ hiền lành đạo đức ở mảnh đất Quảng Ngãi dấu yêu.
Sinh ra trong gia đình quan Pháp làm về ngành đường sắt cũng có vai vế trong xã hội thời bấy giờ và vì công việc nên gia đình của anh chàng Phêrô Trương Đình Mẫn (sinh năm 1920) tiến vào Quãng Ngãi. Chả hiểu sao nơi mảnh đất Quảng Ngãi lại se duyên cho chị Matta Nguyễn Thị Liêm (sinh năm 1921). Ơn Chúa đã kết nối hai anh chị và rồi hoa quả sinh ra cho gia đình hai họ Trương – Nguyễn được tất cả 7 người con.
Như đã nói, nghèo nhưng sạch, rách nhưng thơm và nhất là thụ hưởng từ truyền thống đạo đức gia đình để rồi sau khi lập gia đình, cô nàng Liêm thời bấy giờ vẫn chu toàn bổn phận của một người vợ, một người mẹ và thêm vào đó trọng trách của người nấu cơm cho cha Xứ họ Trà Câu. Lối sống đạo đức cứ ảnh hưởng và ăn dần vào đời sống của những đứa con tự khi nào không biết để rồi người con cả là nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức tận hiến đời mình trong dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn.
“Chị mình đi tu chả lẽ mình không tu sao ?” Thế là Phêrô Trương Đình Tu và Giuse Trương Đình Hiền ngày ấy là hai cậu Lễ sinh của họ đạo Trà Câu – Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã đi tu và sống thật hiền lành với 2 cái tên mà cha mẹ của 2 cậu đặt cho. Tu và Hiền đã vào Chủng Viện Quy Nhơn tu và sống thật hiền cho đến ngày nay dẫu đảm trách chức vụ chánh xứ, quản hạt và như cha Hiền hiện nay là Tổng Đại Diện giáo phận Quy Nhơn. Ai nào đó tiếp xúc với Cha Hiền sẽ nhận ra đúng là hiền với cái tên mà ông bà cố đã chọn.
Hai người anh đi tu làm cho hai người em cũng tò mò theo tới.
Người em út G.B. Trương Đình Hà năm nay cũng đã ngót nghét 57 tuổi đang làm chính xứ Thủ Lựu của giáo phận Bà Rịa thân thương. Trên cha Hà là người anh trầm tính nhưng không kém phần hài hước là Tôma Trương Đình Sơn.
Ai nào đó đã gặp Cha Sơn ắt hẳn sẽ được nghe nhiều câu chuyện tục nhưng lại thanh để góp vui cho đời. Chắc có lẽ Cha Trương Đình Sơn nhiễm máu của Cha già cố Giuse Trần Hữu Thanh (DCCT – đã về nhà Cha năm 2007 tại DCCT Thái Hà) để rồi thu thập những câu chuyện hài gửi gấm góp chút niềm vui.
Có lẽ, nếu nhắc đến Cha Toma Sơn mà không nhắc đến hành trình gần 10 năm dấn thân truyền giáo ở mảnh đất đầy gian khó Haiti.
Sinh năm 1959, học đến lớp 6 trường làng, chú Tôma khăn gói quả mướp tìm hiểu ơn gọi tại DCCT Huế những năm 1970. Mùa hè đổ lửa 1972 đã đưa chú Sơn vào DCCT Thủ Đức cho đến ngày mất nhà mất đất.
Đường tu dù dài dù khó nhưng chú Sơn vẫn tiếp tục theo học Đại Học Sư Phạm ngành Pháp văn và vẫn giữ vững đường tu. Sau những năm tháng khó khăn, chú Sơn về giúp giáo xứ Xuân Thịnh (Vườn Ngô) những 5 năm. Thời điểm này, Cha Sơn cũng đã hướng dẫn, đào tạo nhiều ơn gọi và nay có một mầm ơn gọi đã trổ hoa là Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Thuật đang phục vụ cho anh chị em thiểu số ở Hà Bầu – Gia Lai.
10 năm âm thầm sống ở Phú Dòng, sau đó lãnh sứ vụ linh mục và lên đường truyền giáo. Sau những ngày tháng bôn ba giữa những khó khăn của cuộc sống, hiện tại Cha Tôma sống đời mục tử nhỏ bé âm thầm bằng cách giúp các xóm giáo mà Nhà Dòng coi sóc ở Kỳ Đồng.
Phần ông bà cố, sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, ông bà dắt díu nhau tạm cư ở vùng Bàu Cá Trảng Bom.
5 người dấn thân vào đời sống ơn gọi, có một người con gái là chị Mađalêna Trương Thị Như lập gia đình và chị có 7 người con.
Nếu như kể về gia đình đặc biệt này ngoài người đặc biệt là ông bà cố và 5 người con đi tu và chị Như mà không kể đến chị Trương Thị Trinh quả là điều thiếu sót thật lớn. Giản đơn là chị Trinh vì chữ hiếu, vì cha mẹ và vì các chị và em nên chị sống như vậy cho đến bây giờ để thay mặt những người đi tu lo cho cha mẹ già.
Ai ai cũng biết rằng nuôi người già chả khác gì nuôi một đứa trẻ lên 5 lên 3. Cái tuổi già là cái tuổi cực chướng của cuộc đời. Có khi cho ăn rồi lại đi rêu rao rằng bị bỏ đói, có khi thuốc uống mấy cử nhưng cứ bảo “chúng nó quên tui rồi”. Và như vậy, để chăm bẵm cho những “em bé có quyền đòi hỏi” quả thật là điều nan giải.
Kinh nghiệm trong gia đình ai ai cũng biết những “em bé có quyền đòi hỏi” này khó tính như thế nào. Thà chăm trẻ con thì mình còn có quyền trên nó nhưng chăm cha mẹ già thì mình vừa chăm, vừa cực nhưng lại hoàn toàn bị tước quyền công dân trước những vị này. Chính vì thế, chị Trinh, có lẽ là người được Giáo Hội ghi công và nhắc đến vì sự hy sinh rất lớn của chị.
Trước ánh sáng lấp lánh của một chị phụ trách cộng đoàn như chị nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức hay rực rỡ trong những ngày kỷ niệm Ngân Khánh – Kim Khánh thì lại lóe lên hình ảnh của người em tên Trinh thay chị lo cho cha mẹ già.
Trước vẻ đẹp lung linh của 4 anh em làm linh mục và có cha Hiền làm Tổng Đại Diện của một giáo phận thì đàng sau đó lại lóe lên hình ảnh của người chị gái tần tảo lo cho cha mẹ già.
Chúa gọi ông Cố về với Chúa năm 1998 khi ông Cố thọ 78 tuổi. Và, bà Cố may mắn hơn ông, phần phúc hơn ông là hiện giờ Bà còn minh mẫn ở cái tuổi mà khối kẻ mong, vạn người muốn là gần 100 tuổi mà vẫn nhìn thấy con mình sống trọn vẹn trong đời tận hiến. Ta hãy cùng tạ ơn Chúa với gia đình ông bà cố Mẫn – Liêm, với 5 anh chị em của gia đình này và với nhiều gia đình khác nữa đã tận tình và hết lòng dâng hiến cho Chúa 4, 3, 2 người con. Và đặc biệt, có cả gia đình hiện ở giáo xứ Dốc Mơ dâng cho Chúa 2 người con trai trong một hội dòng và coi như chả có kẻ nối dõi tông đường. Những tấm lòng tận hiến như vậy quả là hoa quả tuyệt vời dâng lên cùng Chúa. | Báo Công Giáo
Xin Chúa gìn giữ bà Cố Liêm, quý ông bà cố, quý gia đình đã quảng đại dâng cho Chúa những người con để phục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng có thêm nhiều thợ gặt để gặt lúa về như lòng Chúa mong muốn.
TPO – Sáng 11/6, hàng triệu con cá nổi kín mặt nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè kéo dài cả cây số, cá ngoi lên đớp khí xen lẫn trong rác.
Đa số cá nổi lên đớp khí là rô phi.
Theo người dân, từ sáng sớm họ đi tập thể dục hai bên bờ kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã thấy cá nổi lên dày đặc để đớp khí. Càng về trưa, lượng cá nổi lên càng nhiều, bao phủ toàn bộ mặt nước kênh kéo dài từ cầu số 1 đến cầu số 7.
Tôi có ông bạn học hiện làm cấp tướng trong hải quân VN, trong một buổi nhậu bạn bè với nhau cách đây gần năm ở HN, tôi hỏi hắn:
– Nếu bây giờ TQ tấn công trên biển, quân của cậu chống được bao lâu?
Hắn cười: – Chắc là chưa đến 3 ngày!
Tôi ngạc nhiên: – Sao chết nhanh vậy?
Hắn lại cười: – Không phải chết, mà là chạy. Thời đại này ai dại gì chết cho ai?!
– Đấy là cậu nói về lính hay sĩ quan các cậu?
– Cả hai, nhưng sĩ quan chạy trước rồi lính mới chạy. Lính không dám chạy trước, chỉ trốn thôi. Sĩ quan mới chạy!
Tôi thắc mắc: – Tại sao thế? Sĩ quan tinh thần cao hơn và phải làm gương cho lính cơ mà?
– Ừ, nhưng sĩ quan lại biết mình toàn nói dối và thấy cấp trên cũng toàn nói dối, và ai cũng biết chết thì mình chịu, thắng thì là chiến công của sếp, tội gì chết thế!
Chúng tôi cười xòa, coi đó là câu chuyện cười nói cho vui, vì ông bạn trong Bộ tổng tư lệnh ở HN, nó đâu có phải ra trận. Nhưng nó cũng không cần phải mua vui với tôi, nó nói có phần nhiều là thật. Thế nên tôi không quên được.
Một bữa khác cách nay khoảng nửa năm, trong chuyến xe đêm từ Sài gòn đi Nha Trang, tôi nằm cạnh anh lính trẻ trả phép ra Cam Ranh. Tôi hỏi chuyện ăn ở sinh hoạt của lính nghĩa vụ ngoài đó, cậu thật thà:
– Cháu mới đi mấy tháng, nhờ có người quen chạy cho nên không phải đi vùng xa hay đảo, chỉ ra Cam Ranh thôi, được về phép đều đặn, nếu biết quà cáp cho sĩ quan còn được kéo dài phép…
– Thế sĩ quan có về phép thường xuyên không?
– Sĩ quan của bọn cháu toàn sĩ quan chuyên nghiệp, gia đình họ ở Cam Ranh và Nha Trang luôn, họ đâu cần về phép, và họ có thể về nhà bất cứ lúc nào họ muốn, họ sướng lắm!
– Thế họ có ăn chung với các cháu không?
– Không, họ có tiêu chuẩn riêng cao gấp mấy lần lính bọn cháu! Họ ăn ở riêng.
– Thế tiêu chuẩn lính bọn cháu thế nào?
– Chúng cháu được 35 ngàn đ/ngày. Thế là cao đấy chú ạ, vì chúng cháu gần Ban chỉ huy Vùng. Mấy thằng bạn cháu đóng quân ở xa kêu khổ lắm, chỉ có 28 ngàn đ/ngày thôi…
– Sao lại 28 ngàn thôi?!
Tôi xót xa nhẩm tính: lính của mình (công nhân và kỹ sư của tôi) ở công trường cảng Vân Phong này được ăn 80 nghìn đ/ngày mấy năm nay, vừa tăng lên 100 nghìn/ngày do giá cả lên, mà tôi vẫn thương chúng khổ, gầy và đen, bắt chúng cố ăn, và lo chúng bỏ về Sài gòn, thế mà chiến sĩ của ta…
Tôi lại đi lạc đề muốn nói rồi. Ý của tôi là, chỉ chuyện ăn ở thôi thì lính của ta cũng thiếu sức chiến đấu rồi, chưa nói đến tinh thần chiến đấu và niềm tin vào cấp trên. Giờ nói về chủ đề chính, đó là bảo vệ lãnh thổ.
Xin kể câu chuyện thứ ba.
Cách đây mấy tháng, chúng tôi tổ chức một đoàn “du lịch-thám hiểm” ra điểm Cực Đông trên đất liền của đất nước với mục đích: sống 1 ngày gần với Hoàng Sa Trường sa nhất (về kinh tuyến).
Trên đường ra đó rất khó khăn, chúng tôi không ngờ cả một khu bán đảo rộng lớn bờ biển dài mấy chục cây số không có dân cư (đã bị đuổi đi hết) và chỉ có một đồn biên phòng gần ra đến Cực Đông đã bị bỏ hoang do chuyển vào gần quốc lộ 1 hơn, trong khi đường lớn do các “dự án lớn” của Vinalines làm đến cũng bỏ hoang không bóng người. Hỏi ra mới biết đó là tình trạng của hàng loạt đồn biên phòng ven biển và trên các đảo khu vực bắc và nam Vân Phong (thuộc Khánh Hòa và Tuy hòa): họ đã rút hết vào sống trong dân và để quản dân, không quản bờ biển nữa.
Hàng trăm cây số ven biển không có ai canh giữ, nhưng đã có sẵn đường lớn nhập vào quốc lộ 1… Ngày xưa họ ở đó là để bắt người vượt biên thôi… Biên phòng VN không quay súng ra biển mà quay súng vào dân!
Câu chuyện thứ tư.
Đơn vị chúng tôi tham gia rất nhiều công trình lớn dọc biển miền Trung, lắp ráp các thiết bị kỹ thuật hiện đại (rất ít khi là đồ TQ). Từ Dung Quất đến Vũng Áng, Vân Phong… Nhưng ở đâu chúng tôi cũng thấy các đơn vị TQ đấu thầu và thắng thầu thi công phần các cầu cảng. Họ chỉ quan tâm và bỏ mọi giá để nhận phần việc đó dù rất nhiều đơn vị VN làm được, nhưng các nhà thầu VN phải lè lưỡi bỏ ra cho họ vì giá của họ quá thấp… Sau đó họ luôn quây kín cả một vùng biển và bờ biển lớn người khác không được vào để họ thi công trong suốt nhiều năm trời. Và họ thường là đơn vị làm kéo dài các dự án lớn nhưng không ai làm gì được. Khui họ thi công xong chúng tôi mới lên lắp thiết bị và không ai biết bên dưới và bên trong những khối bê tông cầu cảng lớn đó có những gì. Chúng tôi thường đùa nhau: ngày đầu tiên TQ đánh VN họ sẽ cho nổ tung tất cả những cầu cảng trị giá vài chục đến vài trăm triệu đôla này (có thể cặp mạn những con tàu lớn đến 150.000-300.000dwt)… hoặc họ sẽ khống chế chúng để làm điểm đổ quân tuyệt vời cho họ, ở Dung Quất, Vân Phong, Vũng Áng và nhiều nơi nữa phía Bắc và Nam, nhất là Kiên Giang cũng sẵn sàng…
Câu chuyện thứ năm.
Tôi về quê ngoại Quảng Ninh, ra Hạ Long gặp mấy thằng bạn cũ, trong đó có thằng đại gia chuyên san đất lấp biển bán nền, giầu không để đâu hết tiền, luôn khoe có đội xe máy húc ủi đào đông như quân nguyên, đã phá không biết bao đồi núi, lấp biết bao bờ vịnh san hô và sú vẹt để bán trên giấy, từ Quảng yên đến Hải Hà…
Gặp nó tôi bảo:
– Tội phá hoại môi trường Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long của mày phải đem ra bắn!
Nó cười khẩy:
– Bắn tao hơi khó! Mày phải bắn hết các bí thư và chủ tịch, phó chủ tịch tỉnh và các huyện thị Quảng Ninh này đi đã!” Rồi nó quàng vai người ngồi cạnh:
– A, cả thằng này nữa, giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường mà…
Tôi nhăn mặt nghĩ:
“Đúng thật, nếu muốn bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long mà tôi yêu quí, tôi sẽ phải bắn gần hết các bạn học cũ của mình, vì chúng nó làm quan chức kín cả cái tỉnh quê ngoại của tôi rồi…” – rồi phán tiếp:
– Mày còn một tội lớn nữa! Mày đem xe máy lên Tiên Yên, Ba Chẽ (hai huyện núi biên giới) làm đường từ biên giới xuống cho bọn Ba Tàu sau này tấn công mình lần nữa. Lần trước nó tấn công không có đường xuống, tự vệ dân quân còn cản được. Lần này chỉ mấy giờ là xe nó chạy đến Hạ Long này, lại có cầu bãi chấy rồi; công chúng mày to quá!
Thằng đại gia xẹp hẳn xuống lẩm bẩm:
– Đéo mẹ bọn Tàu! Chúng nó còn không chịu trả tiền công cho tao nữa! Đau quá!
(Đó là nó chửi mấy công ty Đài loan thuê rừng 50 năm rồi thuê nó làm đường lên “trồng rừng”. Đường làm xong lên các đỉnh núi biên giới, không trả tiền và rừng tất nhiên cũng không…).
Và câu chuyện cuối cùng.
Tôi đưa con trai lên Tây Nguyên chơi, mới đây thôi, để nó biết Tây Nguyên là thế nào. Một số đoạn đi qua đường HCM mới làm lớn mà vô cùng hoang vắng, thằng bé rất ngạc nhiên hỏi:
– Bố, sao mình làm đường lớn đẹp dài mà không có người đi thì làm gì vậy?
Tôi thở dài chua chát:
– Bố chịu!
Chả lẽ nói ra ý nghĩ thật của mình:
“Bố sợ rằng người ta làm đường để sau này TQ đánh VN sẽ dễ chiếm và khống chế Tây Nguyên và rồi cả đất nước này?
Sau chuyến đi Tây Nguyên về, tôi đùa với con trai:
– Con ơi, hãy học tiếng Anh giỏi để du học rồi ở lại đó luôn, như chị con vậy đó. Bằng không, hãy học tiếng Tàu! Nước mình sắp thay quốc ngữ rồi!**
Vâng, ý của tôi là thế đó. Người Việt nam, chính quyền Việt Nam hiện nay đã chuẩn bị sẵn sàng địa thế và mọi cửa ngõ Lãnh thổ quốc gia để TQ tràn vào dễ dàng nhất. Tinh thần quân đội và sức chiến đấu thì rất bạc nhược rồi, cảnh giác thì… chĩa súng vào dân rồi.
Các “chiến sĩ” Trung Hoa cứ yên tâm mà đến!
Đất nước này dường như đã có chỉ đạo bàn giao nhẹ nhàng để sát nhập vào TQ?
Chỉ còn một điều:
Liệu dân Việt ta có chịu thế hay không???!!!
** đúng theo ước muốn, sách lược của đa số người Việt khá giả trong nước (?!)
—————————
Lời tiên tri của Ngô Đình Nhu:
“…Nếu nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, chẳng bao lâu Miền Nam sẽ mất về tay Bắc Việt. Nếu Miền Nam mất về tay Bắc Việt, thì cả Việt Nam sớm muộn gì cũng sẽ rơi vào tay Trung Cộng…”
Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả của Cụ già trăm tuổi.
Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ cho Ngài.
Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.
Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình. Nếu không vì tình thương lớn lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau lòng đó.
Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ thần phục và mến yêu.
Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.
Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn đời:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Gioan 3, 16-17).
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người.
“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
****************************** ******
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.
Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giêsu hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?
Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giêsu đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự, dù vạn lần nhỏ bé hơn. Đó là“hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu.”
Lm Trần Ngà
****************************** ******
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
để ai tin vào Con của Người thìkhỏi phải chết,nhưng được sống muôn đời.
17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
18Aitinvào Con của Người, thìkhông bị lên án;
nhưng kẻkhông tin, thìbị lên án rồi,(Ga 3: 16,18)
Chúng tôi xin phép sắp xếp lại cho dễ hiểu
Ai tin thìkhông bị lên án, khỏi phải chết,nhưng đượcsống muôn đời.
Phần đông, chúng tôi hiểu rằngchuyện này chỉ xảy ra ở ĐỜI SAU MÀ THÔI.
Bởi vì chuyệnkhông bị lên án và khỏi phải chết
Có nghĩa là tôi phải ra trướctòa phán Chúa phán xétngay sau khi chết…..
Ủa !!! có một điều gì đó không ổn…thậm chívi phạm, đi ngược vớiKinh Thánh.
Tòa án đời tuyên án: VI HIẾN – Vi phạm Hiến pháp.
Kinh Thánh còn cao hơn Hiến Pháp quốc gia nhiều…
Vì chiếu theo câu 17 ngay trên:
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian,
Thế nhưng, bọn chúng tôivẫn cứ ngay ngáy lo sợ…khi lìa cõi đời này, một mình tôi vớitấm áo linh hồn rách bươm,loang lổ những vết đen ngòm tội lỗi… hồi hộp tới trình diện Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công.!!!
Và chắc chắn trăm phần trăm sẽ bị giam cầm nơi lửa luyện tội…
Mà nghe đâu sức nóng cũng ngang với lửa hỏa ngục…
May sao luyện ngục có thời gian, còn hỏa ngục thì đời đời chẳng cùng AMEN.
Tới đây, rất có thể một số vị bỗngbật lên một suy tư:
Một đàng tin rằng: Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian
Đàng khác tin rằng: phải ra trước tòa phán Chúa phán xét ngay sau khi chết…..
Trong một cuộc họp mặt của một trường trung học tại hải ngoại gần đây, bất ngờ tôi gặp lại một thằng bạn cũ của thời gian gần 70 năm về trước. Cả hai đứa mừng quá, ôm chầm lấy nhau, quên cả quan khách bên cạnh, và cùng rộn rã những tiếng “mày mày tao tao!” Cái sướng của tha hương ngộ cố tri mà, nhất là hai thằng bạn học cùng lớp, ngồi chung bàn của hơn nửa thế kỷ về trước, bây giờ nhìn nhau tóc đã bạc và khuôn mặt có thể đã đổi khác với những vết tàn phá của thời gian. Phải chờ khi người MC buổi lễ giới thiệu những người tham dự ở các tiểu bang xa về, nghe tên, trông mặt “nó” tôi mới nhận ra.
Có nơi gọi “mày-tao,” có chỗ gọi “mi-tau,” và cũng có vùng kêu “tớ với cậu” hay có một thời “toi với moi!” (toa-moa)
Một dịp khác, một buổi trưa ở cái vùng đất Little Saigon này, sau một buổi giới thiệu sách mới, ra xe đăng loay hoay tra chìa khóa mở máy, thì có tiếng gõ lên cửa, bên tay trái của tôi. Ngẩng đầu lên, tay xuống cửa xe, trong đầu óc vốn tối tăm, như có một tia chớp, miệng tôi bỗng thốt lên:
– Mi! Hậu. Nguyễn Hy Hậu phải không?
Một thoáng rất nhanh, tôi nhớ ra cả ngôi nhà, và tên đường và cả khuôn mặt của người bạn ngày xửa ngày xưa trong cái thành phố nhỏ thật thà, êm đềm ấy. Tôi bước ra xe, ôm lấy bạn. Đây là một người bạn thời tiểu học ở Huế, gia thế khá giả, được du học từ sau trung học, lưu lạc sang tới Pháp đã hơn nửa thế kỷ nay, học hành thành công, lấy bằng tiến sĩ hóa học, ở luôn xứ người không về nước. Trong suốt thời gian này, trong bạn bè tôi cũng chẳng bao giờ nhắc tên bạn, cũng không còn nhớ đến bạn. Thì ra thằng này, thường khi vẫn có dịp sang Mỹ chơi, biết tôi và vẫn thường “theo dõi” tôi, nhưng ở trong hội trường đông đúc, nó thấy bất tiện khi phải gặp lại một thằng bạn cũ mà không biết nó có nhớ mình hay không?
Hậu đi theo tôi ra xe, chờ khi tôi vào xe xong, sắp mở khóa chạy đi mới gõ cửa xe.
Tôi có một trí nhớ rất tồi, nhất là ở cái phần não thùy có chứa tên người, nên nhiều khi gặp người cũ mà ngớ ra, ấp úng một hồi rồi mới giả lả, quanh quẩn mà cũng không nhớ nổi cái tên. Cách đây hai năm, hồi nằm ở bệnh viện, có một bà bạn đến thăm tôi, lại mang quà cho, vậy mà mới tuần trước, trong một đám tang ở Bolsa, gặp lại chị, có lẽ thấy mặt tôi nghệch ra không vồn vã chào chị, chị vui vẻ hỏi:
– “Anh có nhớ tôi không?”
Tôi xin lỗi là hoàn toàn không nhớ, vì lấy lý do là nằm bệnh viện, thuốc mê nhiều quá, bây giờ “bộ nhớ” hư rồi.
Vậy mà trường hợp một thằng bạn thời thơ ấu, sau 70 năm, chỉ một thoáng, mà tôi nhớ ra tất cả. Nếu hôm đó, sau khi bạn cất công đi tìm tôi, mà tôi không nhớ ra, hẳn bạn buồn biết bao nhiêu! Trong khi bạn sống bình yên ở Pháp, không bao giờ nghe tiếng bom đạn, cũng như chẳng biết ánh sáng hỏa châu là gì, thì bạn bè một thời thơ ấu đều bị cuốn hút vào chiến tranh, nhiều đứa chết, đi tù, hay lưu lạc cùng khắp trái đất.
Từ nguồn ra, một dòng sông chia đi trăm ngả. Số phận không ai giống ai, mỗi người một hoàn cảnh, tâm tính đổi thay, người quên kẻ nhớ.
Tìm gặp lại được một thằng bạn cũ từ thời thơ ấu hay thiếu niên là món quà quý nhất! Cả một thời xưa hiện ra, tưởng chừng như mới hôm qua đây thôi.
Trong 30 cái “chẳng sướng ư!” của Kim Thánh Thán, có cái sướng 10 năm gặp lại bạn cũ, trong khi trước đó mấy nghìn năm, ông Khổng Tử cũng nghĩ như vậy: “Có bạn từ phương xa đến thăm, chẳng phải là điều vui mừng hay sao?” (Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ!)
Bây giờ dự những buổi tiệc tùng, cưới hỏi, lễ lạt với những khách phải bắt tay, cúi đầu, giới thiệu ông này bà nọ, với chức tước, danh xưng, làm sao vui, thoải mái bằng những cuộc gặp gỡ những đứa bạn thời xưa, ríu rít những tiếng “mày tao,” khỏi phải giữ gìn, khách sáo gì. Bạn thân thời thơ ấu, gọi là đã biết nhau, nhiều khi đấm vào ngực, vỗ vào vai hay chửi thề một câu cho đã miệng lúc mới gặp lại nhau. Nó không phải là điều bất nhã, mà là thứ ngôn ngữ cho biết hai người đã biết nhau lâu, phải có một thời gần gũi. Họ có những trò chơi chung, đã từng đi với nhau cùng một con đường, có thói quen giống nhau, có những người bạn chung và có những lỗi lầm thuở nhỏ mà chỉ riêng bạn mình biết!
Thế mà một người bạn của tôi đã gặp một trường hợp sượng sùng, khi anh cũng gặp lại một thằng bạn thời niên thiếu bất ngờ, đang “mày mày tao tao” thả giàn, thì bà vợ bạn ra chiều bất ý, lại nói thẳng:
– “Các anh bây giờ già đầu cả rồi, con đàn cháu đống, tôi không muốn anh gọi nhà tôi mày mày tao tao nữa!”
Thật ra, gặp lại một thằng bạn cũ, muốn giữ thể diện, kiểu cách với nhau cũng buồn, nhưng bỗng dưng như bị dội vào đầu một gáo nước lạnh, thôi thì cứ coi như chẳng hề quen biết nhau. Bạn bè ngày xưa còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, bây giờ đổi giọng ông ông, bà bà thấy ngượng nghịu làm sao ấy!
Chúng ta đã có cái dịp nào trong đời khi gặp một người bạn thân thiết ngày xưa, bây giờ là thượng tọa, gặp nhau trong một trai phòng, không “Bạch Thầy” mà gọi nó bằng “mày,” hay lính trơn gặp thằng bạn cũ nay là một đại tá chỉ huy trưởng ở chỗ nhà riêng mà thốt ra lời: “Không ngờ lại gặp mi ở đây!”
Cho đến lúc về già như hôm nay, vui khi còn được vài thằng bạn có thể xưng hô mấy tiếng “mày tao” để thấy mình không có tuổi, thời gian đứng lại. Những người không có bạn “mày tao” là những người không có tuổi thơ và cũng không có luôn dĩ vãng!