Báo cáo tự do internet 2017 của Freedom House về Việt Nam
Courtesy Freedom House
Có thêm nhiều chính phủ theo Nga và Trung Quốc trong việc thao túng truyền thông mạng xã hội cũng như đàn áp các nhà bất đồng chính kiến trực tuyến như là một động thái đe dọa dân chủ nghiêm trọng.
Tổ chức Nhân quyền Freedom House đưa ra nhận định vừa nêu khi cho công bố bản phúc trình thường niên về “Tự do Internet năm 2017”, vào ngày 14 tháng 11.
Báo cáo nêu rõ các chiến thuật tung tin giả trực tuyến đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc bầu cử ở ít nhất 18 quốc gia trong năm 2016, bao gồm cả Hoa Kỳ.
Chủ tịch của Freedom House, Michael Abramowitz nói rằng Nga và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong việc sử dụng các nhà bình luận được trả lương và các chương trình chính trị để tuyên truyền cho chính phủ, nhưng giờ đây cách thức này đã lan rộng ra toàn cầu. Ông Michael Abramowitz còn nhấn mạnh sự lan rộng nhanh chóng như thế có thể gây ảnh hưởng đến dân chủ và các hoạt động dân sự.
Giám đốc dự án “Tự do Internet”, Sanja Kelly, giải thích hành động thao túng của các chính phủ thường khó phát hiện và khó khăn hơn nhiều để chống lại các hình thức kiểm duyệt khác, chẳng hạn như chặn trang web.
Tổ chức Nhân quyền Freedom House thực hiện báo cáo “Tự do Internet” năm 2017 ở 65 quốc gia và phát hiện có 30 chính phủ sử dụng các hình thức thao túng tạo sai lệch những thông tin trực tuyến. Các nhà bình luận được trả tiền để làm công việc này. Và bản phúc trình năm nay đánh dấu 17 năm liên tục suy giảm chung về tự do internet toàn cầu, được cho là hậu quả của việc chính phủ thao túng cũng như có nhiều nỗ lực để lọc và chặn thông tin trực tuyến.
Bản báo cáo còn cho thấy các chính phủ của ít nhất 14 quốc gia đã hạn chế quyền tự do internet trong nỗ lực giải quyết thao túng nội dung. Ví dụ như Ukraine chặn các dịch vụ có xuất xứ từ Nga trong nỗ lực ngăn chặn tuyên truyền ủng hộ Nga.
Theo báo cáo thì trong 10 chủ điểm được đưa ra, chính quyền Việt Nam kiểm duyệt 8 chủ điểm. Hà Nội có điểm số 76 trên thang điểm 100.
Bản quyền hình ảnh EPACác bác sĩ gắp được 5 viên đạn trên cơ thể người đào tẩu và nghi rằng vẫn còn hai viên chưa lấy ra được
Một người lính Bắc Hàn đào tẩu bằng cách vượt qua Khu Phi Quân sự (DMZ) đã bị trúng ít nhất 5 phát đạn và đang trong tình trạng nguy kịch, Nam Hàn cho hay.
Người lính này băng qua biên giới phía Nam Hàn của Khu vực An ninh chung (JSA) ở Bàn Môn Điếm hôm 13/11.
Ông lái xe đến gần JSA, nhưng sau đó buộc phải nhảy xuống và chạy về phía Nam vì xe gặp sự cố, một bánh long ra.
Các đồng đội của người này đã bắn chừng 40 phát đạn về phía ông ta, kể cả khi người đào tẩu đã sang phía miền Nam.
Bị trúng đạn vào vai, tay và bụng, người này gục ngã nhưng cố bò về phía Nam.
Đây là nơi đã ở trong lãnh thổ miền Nam chừng 50 mét, ở phía sau căn nhà do Quân đội Hàn Quốc kiểm soát.
Câu chuyện về một người trốn khỏi Bắc Hàn thành sĩ quan Nam Hàn
Vì sợ bị trúng đạn, các quân nhân Mỹ và Hàn Quốc đã bò vào điểm này để kéo người lính Bắc Hàn về phía mình.
Theo những gì các bác sỹ phẫu thuật cho người này nói với báo chí thì người bộ đội miền Bắc này mặc quân phục cấp thấp.
Các bác sỹ nói họ lấy ra 5 viên đạn từ cơ thể người lính miền Bắc nhưng nghi rằng có thể còn hai viên nữa bên trong.
Buổi sáng ngày thứ Ba, người bộ đội này bị ngất đi nhưng bác sỹ Lee Cook Jong, trưởng nhóm phẫu thuật, nói bệnh nhân sẽ sống.
Mỗi năm có khoảng 1.000 người từ miền Bắc chạy trốn sang miền Nam nhưng rất ít người vượt qua được khu DMZ, một trong những nơi được được canh phòng cẩn mật nhất thế giới.
Bản quyền hình ảnh EPABinh lính Bắc Hàn được cho là bắn người đào tẩu 40 phát
Điều lạ thường hơn nữa là có những người Bắc Hàn cố tìm cách vượt biên ở khu vực JSA, nơi thu hút nhiều khách du lịch và là nơi duy nhất thuộc về DMZ có binh lính hai bên đối mặt nhau.
Bộ trưởng Quốc phòng Nam Hàn Song Young-moo nói với các nhà lập pháp rằng đây là lần đầu tiên binh lính Bắc Hàn nổ súng vào phần JSA thuộc miền Nam.
Một số dân biểu hiện đang đặt câu hỏi về việc liệu như vậy có phải là Bắc Hàn đã vi phạm các điều khoản của thỏa thuận đình chiến giữa hai bên, hãng tin Yonhap của Nam Hàn tường thuật.
‘Bị thương nặng’
Một ủy ban của Liên Hiệp Quốc đã được thành lập để điều tra về việc liệu các điều khoản đình chiến có bị phá vỡ hay không, phóng viên BBC Mark Lowen ở Seoul nói.
Otto Warmbier: Chuyến du lịch sinh mạng ở Bắc Hàn
Nếu họ phát hiện rằng phía Bắc Hàn vẫn tiếp tục nổ súng khi quân nhân đào ngũ đã ở lãnh thổ miền Nam, thì đây là hành vi vi phạm điều khoản đình chiến.
Các bác sĩ cho hay người lính bị thương nặng trong lúc chạy khỏi miền Bắc và vẫn đang được chữa trị tại bệnh viện ở miền Nam.
Trên lý thuyết, bán đảo Triều Tiên vẫn còn trong tình trạng chiến tranh dù cuộc xung đột giữa hai miền chấm dứt vào năm 1953 với thỏa thuận đình chiến.
Ông Suh Uk, một quan chức trong quân đội Nam Hàn nói với các nhà lập pháp: “Đến sáng 14/11, chúng tôi được biết người đào ngũ vẫn chưa tỉnh và phải thở máy, nhưng có thể giữ được mạng sống.”
Các bác sĩ gắp được 5 viên đạn trên cơ thể ông ta và nghi rằng vẫn còn hai viên chưa lấy ra được.
Seoul nói có hơn 30.000 người Bắc Hàn đã chạy sang Nam Hàn kể từ khi kết thúc Cuộc chiến Triều Tiên hồi 1953 cho tới nay.
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về
Bài hát “Một cõi đi về” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất quen thuộc đối với nhiều người trong chúng ta. Dù tác giả không cùng quan điểm tín ngưỡng với Kitô giáo, nhưng lời bài hát gợi nhớ chúng ta về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp con người. Chính tác giả đã giải thích ý nghĩa của bài hát này: “Chúng ta từ hư vô mà đến, khi kết thúc cuộc đời lại trở về với hư vô.” Những câu đầu của bài hát vừa như một trải nghiệm về tính hữu hạn của cuộc đời, vừa như một khám phá và kết luận rằng những năm tháng sống trên trần gian, dù có miệt mài biết mấy, có thể chỉ là những “loanh quanh” vô định.
Truyền thống Do Thái giáo rồi Kitô giáo cũng khẳng định: con người từ bụi đất mà ra, rồi trở về bụi đất. Vậy, có điều gì khác biệt giữa “hư vô” của tác giả (cũng như quan niệm của những người vô thần) và “đất” của Kitô giáo? Nếu “hư vô” là không có gì, thì “đất” lại là một chất liệu, tuy thấp hèn mà hiện hữu. Tác giả sách Sáng thế kể lại với chúng ta, từ một chút đất sét, Chúa làm nên con người. Đất chẳng có là gì, nhưng sau khi Chúa nặn thành hình hài con người, thở sinh khí vào lỗ mũi thì trở thành con người có sự sống. Cách diễn tả bình dân của tác giả sách Sáng thế cho thấy Thiên Chúa tạo dựng con người giống như người thợ gốm nắn thành hình chiếc bình. Giáo huấn Kitô giáo khẳng định, sau khi nhắm mắt xuôi tay, thân xác con người sẽ trở về với bụi đất vì họ từ bụi đất mà ra. Tuy vậy, sau những năm tháng sống trên trần gian, trải qua vui buồn sướng khổ của kiếp người nhân thế, con người không mãi mãi mang thân cát bụi, cũng không ngủ yên vĩnh viễn nơi vực sâu. Sẽ có ngày Thiên Chúa can thiệp và cho họ sống lại từ bụi đất thấp hèn ấy (x. G 19,25-27). Người công chính sẽ sống lại để ca tụng Thiên Chúa mãi mãi; người bất lương cũng sẽ sống lại, nhưng để đau khổ trầm luân muôn đời.
Tác giả của bài hát “Một cõi đi về” đã ngộ ra rằng, những loanh quanh vất vả của cuộc sống này, kết cục trở nên vô nghĩa. Con người sống trong đời mải bon chen tính toán, thậm chí còn mưu mô lường gạt, rồi một lúc nào đó giật mình nhận ra những tính toán ngược xuôi ấy chỉ giống như một cuộc chơi, có thắng đi nữa cũng chỉ là mua vui trong chốc lát. Vì vậy mà “trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.” Ông nghĩ tới “một cõi đi về” như đích điểm cuối cùng của kiếp người, dù đích điểm ấy là hư vô. Một cõi đi về, đó là chuyến đi cuộc đời. Đức tin Kitô giáo cũng coi cuộc sống trần gian như một cuộc lữ hành. Dù hành trình cuộc đời ngắn hay dài, ai cũng đang về tới cội nguồn. Điểm khác biệt ở đây, cội nguồn không còn là một khái niệm mơ hồ, mà là nhà Cha trên trời. “Nhà Cha” là một cõi đi về đối với người Kitô hữu.
Nói tới “đi về” là nói đến quê hương. Nói đến “đi về” cũng muốn khẳng định mình đang ở xa nhà. Con người sống trên trần gian giống như người tha hương, luôn đau đáu một niềm muốn trở về nhà với cha mẹ và những người thân. Quê hương dù xa biết mấy cũng là nơi ta nhung nhớ; cha mẹ dù nghèo đến đâu cũng là chốn ta hướng về. Quê hương vĩnh cửu đối với người tín hữu là nhà Cha trên trời, hay hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, họ sống ở đời này, nhưng luôn hướng về đời sau, và cố gắng làm tất cả để đạt tới quê hương hạnh phúc ấy. Có những người đã chấp nhận hy sinh tất cả: cha mẹ, anh em, nhà cửa, ruộng nương và gia tài của cải để đạt được Nước Trời, vì họ thấm nhuần lời Chúa dạy: “Nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?” (Lc 9,25).
Người tín hữu sống trong cuộc đời này mà không coi đó là quê hương vĩnh cửu. Quê hương đích thực của họ ở trên trời, nơi có Đức Giêsu ngự trị, có Thiên Chúa là Cha, có các thánh nam nữ là anh chị em với nhau. Nước Trời là “cõi đi về” đối với người tín hữu. “Cõi đi về” không phải là một thứ thuốc phiện mê dân để họ quên đi nỗi đau của cuộc đời nhân thế. Đó cũng không phải là một thứ bánh vẽ để nhử mồi những kẻ khờ dại. Chúa Giêsu đã quả quyết với chúng ta: “Trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ ở… Thày đi để dọn chỗ cho anh em” (Ga 14,2). Ai cũng có chỗ trong nhà Cha, miễn là họ sống công chính và thực thi lời dạy của Người. Trong ngôn ngữ của Kitô giáo, ít khi dùng chữ chết để diễn tả lúc kết thúc đời người. Những khái niệm đuợc dùng thường là: qua đời, tạ thế, an nghỉ, về nhà Cha… Những khái niệm này diễn tả quan niệm Kitô giáo về thân phận con người: chết không phải là hết, nhưng chỉ là sự đổi thay.
Trong cõi đời tạm này, khi ý thức mình có một cõi đi về, chúng ta sẽ được đỡ nâng giữa những khó khăn thử thách. “Cõi đi về” chính là niềm hy vọng cậy trông của chúng ta. Đó cũng là niềm xác tín vào Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót và Đấng quyền năng mạnh mẽ. Ngài luôn tha thứ lỗi lầm cho chúng ta mỗi khi chúng ta thành tâm sám hối ăn năn. Ngài cũng luôn che chở chúng ta trước phong ba bão táp của cuộc đời, và soi sáng hướng dẫn để chúng ta khỏi mắc cạm bẫy nguy hiểm của thế gian.
Trong tháng Mười Một dương lịch, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đã đi hết hành trình dương thế. Họ đang được thanh tẩy để xứng đáng ra trình diện trước nhan Thiên Chúa, là Đấng phán xét công bằng và cũng là Cha rất mực bao dung. Khi tưởng niệm những người đã khuất, chúng ta đừng quên thân phận lữ hành của mình. Đây cũng là một thời điểm hồi tâm, một “điểm dừng” giúp chúng ta xác định lại phương hướng đang đi để tránh lạc đường. Lộ trình dù có mấy gian truân, cũng đừng ngã lòng thối chí, vì có Chúa đang đồng hành với chúng ta.
Đôi khi trong những giây phút trầm tư hơn, tôi buộc phải tự hỏi: Có phải tôi thật sự mong muốn Chúa không, hay chỉ quan tâm đến những chuyện thuộc về Chúa?Có phải tôi muốn giảng dạy, diễn thuyết và viết về Chúa nhiều hơn là tiếp xúc đích thực với Chúa – chỉ Chúa và tôi, trong cầu nguyện và thinh lặng? Có phải tôi thích làm những chuyện về Chúa và tôn giáo hơn là ẩn mình và thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa?
Những câu trả lời cho các câu hỏi này cần phải dễ dàng và rõ ràng. Nhìn bề mặt, rõ ràng có vẻ tôi mong muốn Chúa: Tôi cố gắng cầu nguyện huyện này, không nhất thiết Chúa phải là trọng tâm chú ý thật sự của những hoạt động này. Trọn trọng tâm chú ý có thể dễ dàng ở chỗ khác.
Có thể tất cả chúng ta đều nên tự hỏi câu này: Trong những hoạt động rõ ràng là tôn giáo của chúng ta, có phải chúng ta thật sự muốn có mối quan hệ với Thiên Chúa và với Giê-su không, hay, nếu trung thực nhìn nhận, có phải chúng ta quan tâm làm sao để có nghi thức phụng vụ tốt, thần học tốt, linh hướng hay, trải nghiệm tôn giáo hay, kiếm tìm cầu nguyện giỏi, hoạt động mục vụ, các dự án thành công ở nhà thờ, bảo vệ luân lý tốt, có hướng giải quyết tốt cho các vấn đề công chính, làm dễ dàng việc giữ đạo, hay không? Không phải những điều đó không tốt, những điều đó thật sự tốt, nhưng nghịch lý thay, chúng có thể chính là cách để chúng ta tránh khỏi phải đối diện với tiếng gọi sâu thẳm, đòi hỏi chúng ta có mối quan hệ mật thiết với Chúa.
C.S. Lewis thích mô tả cuộc vật lộn của chúng ta trong vấn đề này và ông gọi nó bằng chính bản chất thường gặp của nó:tôn thờ ngẫu tượng, hiến dâng cả bản thân mình cho một điều gì đó chỉ là như Chúa, trái với việc hiến dâng bản thân mình cho chính Chúa. Ông mô tả như sau:
Trong quyển sách Cuộc ly dị vĩ đại (The great divorce), Lewis tưởng tượng mười cảnh trong đó người chết được một “thiên thần” gặp ở thế giới bên kia, thiên thần này cố gắng dỗ dành người mới qua đời đồng ý để thiên thần nắm tay dẫn vào thiên đường. Để vào được thiên đường, trong mọi trường hợp, chỉ có một điều kiện duy nhất và đơn giản: Bạn chỉ việc tin tưởng vị thiên thần và để bản thân mình được đưa đi!
Một trong những cảnh này, Lewis hình dung cuộc đối thoại giữa một trong các vị thiên thần này với một họa sĩ danh tiếng vừa mới qua đời. Vị thiên thần cố gắng thuyết phục ông vào thiên đường, bằng cách tả các cảnh đẹp tuyệt vời của thiên đường. Ban đầu ông họa sĩ phấn khích và háo hức lắm, nghĩ tới mình sẽ vẽ được các kiệt tác,nhưng ông đâm ra kháng cự và nổi giận khi biết một khi lên thiên đường, chẳng còn ai cần đến ông để vẽ vời và ông cũng chẳng có nhu cầu vẽ vời gì nữa. Thay vào đó, ông chỉ việc đơn giản ở trong lòng thiên đường và tận hưởng thiên đường. Vì thế ông từ chối không vào thiên đường, thà chọn ở lại nơi ông có thể vẽ thiên đường hơn là ở trong thiên đường. Ông phản đối vị thiên thần, lý lẽ là, với tư cách nghệ sĩ, hội họa tự nó là cứu cánh, “vẽ là để vẽ.”
Vị thiên thần đáp: Mực, dây cat-gút và màu ở dưới thế là cần thiết, nhưng chúng cũng chính là chất kích thích nguy hiểm. Trừ phi có ân huệ của Thiên Chúa, mỗi nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ đều bị kéo ra xa khỏi tình yêu của những điều mà quý vị đó sáng tác, mà chỉ yêu thích cái việc kể, cho đến khi, chìm sâu trong Địa Ngục sâu thẳm, họ không thể quan tâm mong muốn Chúa mà chỉ để ý đến những gì họ nói về Người. Và…, như ông biết đó, họ không dừng lại ở việc quan tâm đến màu vẽ. Họ chìm sâu hơn – trở nên quan tâm tới cá tính của mình, và rồi chẳng quan tâm tới cái gì khác ngoài tiếng tăm của mình.
Điều mà vị thiên thần này nói về các nghệ sĩ thì cũng cần nên nói với các nhà thần học, tác giả linh đạo, linh mục, giám mục, mục sư, trợ tế, thầy sáu, nhân viên mục vụ, người cổ xúy công bằng xã hội, tất cả mọi dạng người chống đối về luân lý, những vị chủ trì các khóa tu, những vị hướng dẫn linh thao, những nhà lãnh đạo nhóm cầu nguyện, và kể cả những ai đang tích cực và sẵn lòng kiếm tìm chiều sâu trải nghiệm trong cầu nguyện. Mối nguy hiểm luôn luôn là, giống như ông họa sĩ kia thích và cần vẽ cái đẹp hơn là đơn thuần thể nhập với cái đẹp, chúng ta cũng sẽ biến hoạt động tôn giáo mà chúng ta đang làm trở thành cứu cánh trong chính nó hơn là giữ mối quan tâm thật sự và trọng tâm chú ý của chúng ta vào Chúa.
Và điều trớ trêu là các hoạt động tôn giáo, giống như nghệ thuật, có thể là một trong những mối nguy hiểm còn lớn hơn thuộc loại tôn thờ ngẫu tượng này.Chính những vị đi giảng tài năng, nhà thần học vĩ đại, vị tư tế xuất sắc, vị mục sư được công chúng cực kỳ yêu mến, vị giám mục hoặc người quản lý có năng lực tuyệt vời mới là những người sẽ phải gắng gỏi khó khăn nhất để tránh mối nguy hiểm này. Như Lewis nói: Anh biến thành quỷ dữ không phải từ chuột bọ hay chí rận dơ bẩn, mà từ những vị tổng lãnh thiên thần xấu xa.Ngụy tôn giáo của thèm khát thì đê tiện hơn là ngụy tôn giáo đối với tình mẫu tử, lòng ái quốc hay yêu nghệ thuật; nhưng thèm khát thì khó trở thành một tôn giáo.
Mỗi khi chúng ta cầu nguyện, làm mục vụ, hay làm bất cứ điều gì mang tính cách tôn giáo, chúng ta nên tự hỏi: Việc này thật sự là về ai và về điều gì?
Vào ngày này năm 1982, Lech Walesa, lãnh đạo phong trào Đoàn kết bất hợp pháp của Ba Lan, đã trở lại căn hộ của ông ở Gdansk sau 11 tháng bị giam tại một nhà nghỉ săn bắn nằm gần biên giới với Liên Xô. Hai ngày trước đó, hàng trăm người ủng hộ đã bắt đầu một buổi canh thức ở bên ngoài nhà ông khi biết rằng người sáng lập phong trào công đoàn Ba Lan sắp được thả. Khi Walesa trở về nhà vào ngày 14/11, ông được một đám đông vui vẻ nâng lên và đưa đến tận cửa căn hộ, nơi ông chào vợ mình và sau đó có một bài phát biểu trước những người ủng hộ từ cửa sổ tầng hai.
Walesa, sinh năm 1943, đang là một thợ điện tại Nhà máy Đóng tàu Lenin ở Gdansk khi ông bị đuổi việc vì kích động công đoàn vào năm 1976. Khi biểu tình nổ ra tại nhà máy đóng tàu Gdansk vì giá lương thực tăng cao vào tháng 8/1980, Walesa đã trèo qua hàng rào đóng tàu và tham gia cùng với hàng ngàn công nhân bên trong nhà máy. Ông được bầu làm lãnh đạo của cuộc đình công, và ba ngày sau, các yêu cầu của cuộc đình công đã được đáp ứng. Walesa tiếp đó đã phối hợp các cuộc đình công khác ở Gdansk và yêu cầu chính phủ Ba Lan cho phép tự do thành lập các công đoàn và trao quyền được đình công. Vào ngày 30/08, chính phủ đã chấp nhận những đòi hỏi của các nhà lãnh đạo, hợp pháp hóa công đoàn và trao quyền tự do ngôn luận và tôn giáo.
Hàng triệu công nhân và nông dân Ba Lan đã tụ tập để thành lập các công đoàn, và phong trào Đoàn kết được hình thành như một liên hiệp các công đoàn quốc gia, với Walesa làm chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo đầy sức lôi cuốn của Walesa, tổ chức này ngày một phát triển về quy mô và ảnh hưởng chính trị, sớm trở thành mối đe dọa lớn đối với chính quyền Ba Lan. Ngày 13/12/1981, Ba Lan tuyên bố thiết quân luật, phong trào Đoàn kết bị cấm, và Walesa cùng các nhà lãnh đạo khác bị bắt.
Tháng 11/1982, áp lực dư luận quá lớn đã khiến chính phủ phải thả Walesa, nhưng Đoàn kết vẫn là một phong trào bất hợp pháp. Năm 1983, Walesa được trao Giải Nobel Hòa bình. Lo sợ cảnh lưu vong trái ý nguyện, ông đã từ chối đi đến Na Uy để nhận giải thưởng. Walesa sau đó tiếp tục lãnh đạo phong trào Đoàn Kết mà nay phải hoạt động ngầm; ông thường xuyên bị các nhà cầm quyền cộng sản kiểm soát và quấy rối.
Năm 1988, tình hình kinh tế xấu đi đã dẫn tới một đợt đình công lao động mới ở Ba Lan, và chính phủ buộc phải đàm phán với Walesa. Tháng 04/1989, phong trào Đoàn kết được hợp pháp hóa, và các thành viên của tổ chức này được phép đề cử một số lượng nhất định ứng viên trong các cuộc bầu cử sắp tới. Vào tháng 09, một chính phủ liên minh dẫn đầu bởi Đoàn kết đã được thành lập, với đồng nghiệp của Walesa, Tadeusz Mazowiecki, giữ chức Thủ tướng. Năm 1990, cuộc bầu cử Tổng thống trực tiếp đầu tiên của Ba Lan đã được tổ chức, và Walesa đã giành chiến thắng áp đảo.
Tổng thống Walesa đã thực hiện thành công cải cách thị trường tự do, nhưng đáng tiếc, ông lại là một nhà lãnh đạo công đoàn hiệu quả hơn là Tổng thống. Năm 1995, ông đã bị đánh bại trong lần tái tranh cử với đối thủ là nhà cựu cộng sản Aleksander Kwasniewski, người đứng đầu Liên minh Các Đảng Dân chủ Cánh tả (Democratic Left Alliance).
Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam tại California đã chọn trao giải Nhân Quyền Việt Nam 2017 cho 4 cá nhân, tổ chức có những đóng góp tích cực cho phong trào nhân quyền của Việt Nam. Đó là Ông Nguyễn Hữu Vinh (biệt danh Anh Ba Sàm), Hội Anh Em Dân Chủ, blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (biệt danh Mẹ Nấm), và Mục Sư Y Yích.
Buổi lễ trao giải Nhân Quyền Việt Nam năm nay sẽ được tổ chức tại hội trường thành phố Westminster, California, Hoa Kỳ vào ngày Chủ Nhật, 10 Tháng 12, 2017, đúng Ngày Quốc Tế Nhân Quyền lần thứ 69, và cũng đánh dấu 20 năm hoạt động của Mạng Lưới Nhân Quyền.
Thông cáo báo chí từ Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam cho biết 4 cá nhân và tổ chức được trao giải năm nay được bình chọn từ danh sách 14 đơn đề cử từ Việt Nam và hải ngoại.
Ông Nguyễn Kim Bình, Trưởng Ban Phối Hợp Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam nói với RFA rằng năm nay việc chọn người trao giải diễn ra trong bối cảnh chính quyền Việt Nam gia tăng đàn áp với các nhà hoạt động nhân quyền, trong đó đối tượng bị đàn áp mạnh nhất là Hội Anh Em Dân Chủ:
Cho dù không có sự đàn áp đó thì lâu nay chúng tôi cũng luôn ghi nhận sự đóng góp của Hội Anh Em Dân Chủ trong nhiều năm vừa qua, không những trong việc vận động cho dân chủ ở Việt Nam, mà còn bảo vệ cho các quyền lợi căn bản của người dân Việt Nam.
Hai trong 3 cá nhân còn lại là nhà báo và blogger nổi tiếng là anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh thì có lẽ quý thính giả trong và ngoài nước đều biết đến sự ảnh hưởng của họ. Đây là hai người tiên phong thực hiện quyền tự do ngôn luận của họ và giúp người dân quyền tự do thông tin, tự do được biết những gì họ cần biết và vai trò của họ trong việc phát triển ngành truyền thông độc lập của Việt Nam.
Sự vinh danh đối với riêng 4 cá nhân tổ chức cũng là sự vinh danh chung cho mọi tổ chức, cá nhân đang hoạt động vì nhân quyền ở Việt Nam. – Ông Nguyễn Kim Bình Một điều đặc biệt khác ông Bình chia sẻ với chúng tôi đó là giải thưởng năm nay được trao cho Mục sư Y Yích, một người thiểu số ở Tây Nguyên. Mục sư đang phải chịu án tù hơn 10 năm chỉ vì muốn bảo vệ cho các tín đồ của hội thánh. Năm nay là năm đầu tiên Mạng lưới trao giải cho một nhà tranh đấu người dân tộc thiểu số.
Bà Lê Thị Minh Hà, vợ của ông Nguyễn Hữu Vinh, bày tỏ niềm hạnh phúc khi biết chồng bà được chọn trao giải Nhân quyền 2017:
Dù rằng về hình thức có thể có chút gì đó “màu xanh, đỏ hay vàng” nhưng đối với mình quan trọng nhất là cùng một mục tiêu là muốn cho đất nước thay đổi. Do vậy, moi cử chỉ, hành động hướng tới việc đó ví dụ như công nhận, là điều rất hạnh phúc đối với bản thân mình và gia đình và là một niềm động viên khá lớn.
Ông Nguyễn Hữu Vinh bị bắt vào tháng 5/2014 và bị kết án 5 năm tù giam vào tháng 3/2016 với cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ luật hình sự “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích quốc gia”. Trước khi bị bắt, ông Vinh lập trang blog Anh Ba Sàm vào năm 2007, tự gọi là cơ quan ngôn luận của “Thông Tấn Xã Vỉa Hè”. Mục đích của trang Anh Ba Sàm được nêu rõ là khai dân trí, đồng thời tận dụng tối đa các tiện ích của Internet để mang tri thức đến cho mọi người. Ngoài ra ông còn lập các trang Dân quyền và Việt sử ký nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân Việt Nam.
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ cũng bày tỏ sự vui mừng, hãnh diện khi Hội được trao giải. Ông nói rằng giải thưởng này hoàn toàn xứng đáng, là vì:
Hội đã tham gia vào hầu hết tất cả các hoạt động dân sự để bảo vệ quyền lợi của những người dân bị chế độ đàn áp, như bảo vệ môi trường, chống Formosa, kết hợp cùng bà con giáo dân tham gia những cuộc biểu tình đòi Formosa phải đi khỏi Việt Nam để bảo vệ môi trường. Cũng như tham gia những cuộc biểu tình chống Tập Cận Bình, biểu thị tinh thần độc lập, thúc giục nhà nước cộng sản Việt Nam phải tự lực tự cường. Ngoài ra, hội còn tưởng niệm các chiến sĩ của cả hai bên Việt Nam Cộng Hòa và Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hi sinh để bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa.
Hội Anh Em Dân Chủ là một trong những tổ chức bị chính phủ Hà Nội đàn áp mạnh tay nhất trong thời gian gần đây. Từ cuối tháng 7 vừa qua đến nay, 5 thành viên của Hội đã bị bắt và nhiều cá nhân khác bị công an triệu tập liên quan đến hoạt động của hội trong đó có Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.
Hội được thành lập vào tháng 4 năm 2013 bởi luật sư Nguyễn Văn Đài và hơn 40 tù nhân lương tâm. Tính đến hiện nay, hội có tổng cộng 12 thành viên bị bắt giữ hay truy tố theo điều 79 hoặc 88 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, nhiều thành viên khác của hội đang phải lẩn trốn trước sự tăng cường đàn áp của chính phủ Việt Nam.
Anh Hoàng Cường, thành viên của hội NO-U, một tổ chức xã hội dân sự ở Hà Nội và Sài Gòn nói với RFA rằng anh ủng hộ sự quan tâm của đồng bào hải ngoại đến những nhà tranh đấu trong nước, thể hiện qua việc trao giải Nhân quyền:
Cũng phải có sự khích lệ để mỗi con người đều phấn đấu vì một xã hội tốt đẹp hơn. Mình chỉ mong trao giải cho chính xác và có tính khích lệ lớn.
Ngoài ra, mình nghĩ ở hải ngoại quan tâm sao cho hiệu quả, khôn khéo để nhà cầm quyền không dựa vào đó để trả thù cá nhân hoặc cho các tổ chức dư luận viên bôi nhọ.
Họ quan tâm đến anh Vinh như vậy thì bản thân mình cũng rất vui, và mình nghĩ rằng anh Vinh cũng sẽ rất vui. – Bà Lê Thị Minh Hà Một trong số 4 nhân vật được vinh danh là Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Cô là người có nhiều bài viết trên mạng xã hội nhằm lên án tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam và tham gia biểu tình chống ô nhiễm môi trường. Cô bị bắt hồi tháng 10 năm ngoái và đến tháng 6 vừa qua bị tuyên 10 năm tù giam theo điều 88 Bộ luật Hình sự. Cô được Đệ nhất Phu nhân Hoa Kỳ Melania Trump trao giải “người phụ nữ quả cảm”.
Người còn lại là Mục sư Y Yích, tỉnh Gia Lai. Ông bị bắt vào năm 2007 và bị kết án 6 năm tù giam vì cùng người Thượng biểu tình đòi đất và tự do tôn giáo. Sau khi mãn án tù, ông tiếp tục tham gia tích cực vào các hoạt động vì nhân quyền, đất đai và tôn giáo cho những người dân tộc thiểu số. Ông bị bắt lần hai vào năm 2013 và bị kết án 12 năm tù giam.
Ông Nguyễn Kim Bình cho biết qua giải thưởng Nhân quyền năm nay, Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam muốn gửi thông điệp tới tất cả các nhà hoạt động nhân quyền rằng họ không bao giờ bị lãng quên và những đóng góp của họ luôn được dõi theo và trân trọng.
Được thành lập từ năm 2002, Giải Nhân quyền Việt Nam đến nay đã được trao cho 39 cá nhân và 3 tổ chức nhân quyền tại Việt Nam.
HÃY TỈNH THỨC, VÌ CÁC CON KHÔNG BIẾT NGÀY NÀO, GIỜ NÀO
#TNCG – Hôm nay, người người trong giáo xứ Đông Trang, giáo phận Vinh, ngậm ngùi đưa tiễn em Maria Lê Ngọc Xoan về nơi an nghỉ cuối cùng, một cuộc đưa tiễn đầy nước mắt, đầy thương tiếc của những người ở lại. Em ra đi một cách đột ngột làm cho ai cũng phải đắng cay trong lệ nhòa. Tất cả mọi người đều bàng hoàng bở ngỡ không thể tin được sự thật đang diễn ra.
Được gia đình và mọi người chia sẽ là em đã bị điện giật do cái sạc điện thoại bị hư, làm cho mạch nắn dòng chập và dòng điện 220v chạy thẳng vào chân xạc mà em đang cầm trên tay.
Em ra đi đúng vào ngày của Chúa nhật, ngày mà Chúa nhắc nhở mỗi người qua bài tin mừng về dụ ngôn mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rễ. “Con người sẽ ra đi vào lúc không ngờ, vào giờ không biết.” Bây giờ em ra đi với sự chuẩn bị đèn là đức tin và dầu là lòng mến để đến với Thiên Chúa.
Em ra đi vào lúc chỉ mới 14 tuổi, một cái tuổi đang đầy mơ ước, một cái tuổi bắt đầu sang xuân. Ai cũng nghĩ rằng cả một bầu trời tương lại tươi đẹp đang đón chờ em phía trước, bởi em là một cô bé đầy năng động, vui vẻ hòa đồng, lại giỏi giang.
Trên trang facebook: Paul Loc chia sẻ: “Tháng trước mới gặp em Lê Ngọc Xoan, một huynh trưởng năng nỗ, mỗi ngày em đi lễ, đọc sách, hát đáp ca, nhưng hôm nay em đã ra đi. Xin Chúa thương đưa em về với Ngài.”
Em là một cô gái huynh trưởng, một người chị để dẫn dắt và chỉ bảo các em đoàn sinh, em là một người nhảy múa rất đẹp, hát rất hay, là một ca viên của giáo xứ, biết diễn tả như thế nào khi nói về em? Chỉ biết nói rằng, em đang là một người đầy triển vọng, thế nhưng, hôm nay em đã ra đi, bỏ lại tất cả trong sự thương tiếc cho những người ở lại.
Qua đây, xin nhắc nhở đến những người đang trên lữ thứ trần gian, hãy luôn biết tĩnh thức, sống đúng lương tâm của mình, hãy biết sống cho người khác, sống với người khác và sống vì người khác, từ bỏ mọi cái tôi cá nhân, từ bỏ lối sống hưởng thụ và ích kỷ, để cuộc đời mình có một cái kết là đạt được cùng đích của cuộc đời mình chính là Chân – Thiện – Mỹ.
Chúng ta hãy chia sẽ cho mọi người biết để tránh xa các đồ điện tử hàng Trung Cộng, cũng như những cái xạc điện thoại có dấu hiệu bị lỗi, bị hư…
TT – Quốc hội Liên bang Nga ngày 25-11 đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết thừa nhận vụ cảnh sát Nga sát hại 22.000 sĩ quan và công dân Ba Lan ở rừng Katyn, phía tây nước Nga, năm 1940 do nhà lãnh đạo Josef Stalin ra lệnh.
Báo The Moscow News dẫn nguồn từ trang web duma.gov.ru cho biết với tỉ lệ ủng hộ 342/450, Hạ viện Nga đã thông qua nghị quyết dựa trên tài liệu mật thu được từ đầu thập niên 1990.
“Tội ác Katyn đã được thực hiện theo lệnh trực tiếp của Stalin và các lãnh đạo Liên Xô khác” – tuyên bố của Quốc hội Nga cho biết.
Itar-Tass dẫn lời Chủ tịch Duma Nga Konstantin Kosachev khẳng định nghị quyết “lịch sử” này không chỉ quan trọng đối với quan hệ Nga – Ba Lan mà còn với chính người Nga.
Theo Reuters, phía Ba Lan đánh giá rất cao quyết định khó khăn của Quốc hội Nga.
Báo chí Nga và Ba Lan cho rằng nghị quyết trên được đưa ra như một thiện chí của Nga trước cuộc viếng thăm của Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đến Ba Lan vào ngày 6-12.
Tuy nhiên, chính quyền Ba Lan khẳng định muốn Nga phải có trách nhiệm hơn nữa về vụ việc trên và tuyên bố đó là tội diệt chủng.
Phe đối lập ở Ba Lan yêu cầu Nga chính thức xin lỗi và bồi thường cho gia đình các nạn nhân.
Trước đây, Nga đổ cho phát xít Đức thực hiện vụ thảm sát.
Bức hình chụp hôm 14/12/2012 cho thấy một đám đông đứng xem các công nhân kéo đổ bức tượng Vladimir Lenin bằng đồng ở Ulan Bator, Mông Cổ sau khi Thị trưởng thành phố gọi Lenin là kẻ giết người.
AFP
Kỷ niệm lần thứ 100 cuộc Cách mạng tháng 10 Nga đã qua đi mấy ngày. Quan sát những hoạt động xảy ra trên thế giới về sự kiện này, người ta có nhiều suy nghĩ. Trước hết, đó là suy nghĩ về một thứ tư tưởng – tư tưởng Cộng sản – mà hầu hết các nơi trên thế giới đã vứt bỏ vào sọt rác nhưng tại sao ở Việt Nam, ĐCS cố bám giữ lấy nó như một thứ bảo bối cho riêng mình.
Ở cái nôi Cách mạng tháng 10
“Những người bị thảm sát, khủng bố nằm trong số những con người ưu tú và can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó”
Tổng thống Nga – Putin
Cần phải ghi nhận rằng đó là một sự kiện “trọng đại” đã làm rung chuyển thế giới. Sự rung chuyển đó như thế nào, theo chiều hướng tốt lên, hay xấu đi lại là chuyện khác. Kể cả việc hai quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima và Nagadaki giết chết hàng trăm ngàn người, hay sự kiện Thiên An môn hàng ngàn sinh viên, thanh niên bị sát hại dã man… cũng đều làm thế giới rung chuyển tương tự.
Với những sự kiện kỷ niệm như vậy, nếu cách đây chừng ba chục năm hẳn rằng cả thể giới đã chấn động bởi những hoạt động hoành tráng và tốn kém vô cùng từ các nước “trong phe Xã hội chủ nghĩa”. Sẽ là những cuộc diễu binh khổng lồ phô trương sức mạnh bạo lực, sẽ là những điện thư, chúc mừng, là hội họp, mít tinh rầm rộ, sẽ là những cuộc diễu hành đông đúc từ các nước Cộng sản.
Thế nhưng oái oăm thay, những ngày kỷ niệm sự kiện “trọng đại” này, ngay tại nước Nga, luôn được gọi là “quê hương của Cách mạng Tháng 10 vĩ đại”, những hoạt động kỷ niệm đã diễn ra âm thầm, èo uột và thậm chí là những lời tố cáo đanh thép nhất từ Tổng thống Liên bang Nga – Vladimir Putin về một sự kiện mở đầu cho một giai đoạn lấy bạo lực làm phương châm cho mọi hành động xã hội. Xây dựng một xã hội bạo tàn, độc tài và bất chấp quy luật xã hội, đạo đức và văn minh loài người.
Tại nước Nga, thay vì những cuộc duyệt binh, diễu hành được tổ chức ở cấp nhà nước, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã lảng tránh những sự kiện kỷ niệm, ca ngợi Cách mạng Tháng 10/1917.
Trái lại, ông đã tham dự những sự kiện có ý nghĩa khác hơn.
Đó là việc ông dự khai trương một giáo đường mới ở Matxcơva, mà theo ông là “mang nặng ý nghĩa biểu tượng” vì phe Cộng Sản khi lên nắm quyền năm 1917 đã đàn áp Giáo hội.
Việc Tổng thống đến dự khai trương một Thánh đường để đánh dấu biểu tượng đàn áp tôn giáo thời kỳ nước Nga dưới chế độ Cộng sản vô thần cầm quyền nhằm nói lên điều gì nếu không phải là một sự lên án mạnh mẽ một chế độ, một tư tưởng, chủ nghĩa bất nhân.
Ngày 30/10/2017, ông Putin cũng tham dự buổi lễ khánh thành một đài tưởng niệm các nạn nhân bị đàn áp chính trị. Tại đây, ông Putin đã có những lời mạnh mẽ như sau: “Đối với tất cả chúng ta, đối với các thế hệ tương lai, điều rất quan trọng là phải biết và ghi nhớ thời kỳ bi thảm này trong lịch sử nước ta, khi toàn bộ các tầng lớp, toàn bộ các dân tộc: công nhân và nông dân, kỹ sư và thuyền trưởng, linh mục, quan chức chính phủ, nhà khoa học và nhà văn hóa bị bức hại nghiêm trọng.” Và “Quá khứ khủng khiếp này không thể bị xoá nhòa khỏi ký ức quốc gia, không có bất cứ điều gì, không có lợi ích cao cả nào cho nhân dân có thể biện minh cho chuyện đó.”
Có lẽ, những lời nói trên đã đủ để người ta hiểu rõ vì sao nước Nga cũng như trên toàn thế giới đã không hồ hởi, tưng bừng kỷ niệm một “sự kiện trọng đại” như vậy trong lịch sử chính dân tộc họ.
Theo một nhà sử học, đa số người Nga đã không thèm nhớ đến có một ngày gọi là Cách mạng Tháng 10, họ như cố quên đi một sự kiện mở đầu một thời kỳ bi thảm, gieo biết bao tai họa cho người dân Nga và các nước theo mô hình Cộng sản trên toàn thế giới. Nếu như trước đây, người Nga kỷ niệm cả ngày Stalin chết, thì ngày hôm nay, người Nga thấy Tổng thống Nga Vladimir Putin, tham dự một buổi lễ theo nghi thức Giáo hội Chính thống giáo Nga ở Butovo, tưởng niệm các nạn nhân của Stalin.
Nếu như trước đây, Stalin được tôn sùng như một lãnh tụ vĩ đại không chỉ của người Nga, mà của toàn thế giới cộng sản – Đến mức Tố Hữu từ Việt Nam đã có những câu thơ về cái chết của ông ta đến nay đang được lưu truyền như những câu chuyện cười về thói xu nịnh ở tầm vĩ mô – thì ngày nay, Nga tuyên bố Stalin là một tội đồ, một kẻ khát máu đã từng ra lệnh thảm sát hàng vạn người, điển hình là hàng chục ngàn sỹ quan Ba Lan đã bị ông ta ra lệnh giết tại rừng Katyn.
Những nước khác, những kỷ niệm nếu có, chỉ là những cuộc tập trung, truyền thông để nhắc nhở nhân loại về một thời kỳ kinh hoàng, đau thương đẫm máu, nước mắt và con người bị biến dạng dưới thời kỳ Cộng sản cai trị.
Thậm chí, đúng ngày đó, Tổng thống Mỹ Donal Trumph đã quyết định lấy ngày 7/11 hàng năm là ngày tưởng niệm các nạn nhân Cộng sản mà con số được thống kê ít nhất là là hàng trăm triệu người bị giết hại.
Vẻ vang thế, cao đẹp thế, sáng ngời vậy sao không kỷ niệm?
Khéo dư nước mắt?
Thế nhưng, hẳn là ngay cả Tổng thống Nga Vladimir Putin cho đến người dân thường của Nga sẽ hết sức sửng sốt, giật mình khi biết tin rằng tại một góc trời Đông Nam Á xa xôi, vẫn có một nhóm người đang cầm quyền quyết theo đuổi đường lối bạo lực và cướp bóc, theo đuổi chủ nghĩa vô thần, khủng bố và sát hại chính người dân mình theo mô hình xô viết, đã tưng bừng kỷ niệm “sự kiện” mà không ai có lương tri trên thế giới muốn nhớ lại.
Cả hệ thống chính trị Việt Nam đã có những phát ngôn mà người dân nghe đến chỉ thấy một cảm giác… buồn cười. Hãy nghe những lời mà người dân gọi là “Ngáo đá” từ miệng quan chức Cộng sản Việt Nam về sự kiện này:
Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị – một sản phẩm đặc trưng của thời kỳ Cộng sản xô viết – nói về Cách mạng tháng 100 Nga như sau: “Sau 100 năm lý tưởng cao đẹp và những giá trị to lớn của cách mạng Tháng Mười Nga là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội vẫn luôn tỏa sáng, vẫn luôn là nguồn động lực thôi thúc và khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam”.
Vâng, nó cao đẹp, nó giá trị, nó ưu việt, nó tỏa sáng như thế nào, thì cả thế giới đã biết và họ đã trả lời bằng hành động cụ thể.
Nguyễn Phú Trọng, TBT Đảng CSVN: “Sau 100 năm lý tưởng cao đẹp và những giá trị to lớn của cách mạng Tháng Mười Nga là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội vẫn luôn tỏa sáng, vẫn luôn là nguồn động lực thôi thúc và khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam”.
Vâng, nó giá trị, nó to lớn, cái hành vi thành lập bè đảng vì “Không có gì để mất mà được thì được tất cả” thì chỉ có lũ cướp ngày mới đưa lên thành lý tưởng mà thôi.
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường
Lẽ nào đám quan lại cộng sản Việt Nam như Nguyễn Phú Trọng, Võ Văn Thưởng không có mắt để mà nhìn, không có não để mà suy? Hay là cả thế giới đều ngu, chỉ có mỗi bộ sậu đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ thông minh để nhìn thấy điều đó?
Người ta buồn cười, người ta thắc mắc chỉ vì có phải cái tư duy cổ hủ, cái suy nghĩ cứng nhắc đã đóng đinh trong những bộ não xơ cứng này nên không thể tiếp nhận thêm thông tin?
Hay chỉ vì miếng cơm, manh áo hoặc những đống tiền của, xương máu người dân bị hút sạch bằng quyền lực được tạo ra từ những chiếc ghế ngồi mà chân ghế là đầu, là cổ người dân Việt Nam do chính cái Chủ nghĩa vô thần, vô nhân bản, vô đạo đức, vô luân vô pháp mang tên Chủ nghĩa Cộng sản đã đem lại cho họ?
Có lẽ, hầu hết đều nghiêng về yếu tố thứ hai này.
Thực ra, trong thời đại ngày nay, khi mà thông tin đã đến mọi ngõ ngách, tận rừng sâu thì những lời lừa bịp trên không còn bịp được ai.
Nhưng họ không thể thay đổi mà nói khác đi. Chỉ đơn giản là lấy gì để mà lừa bịp tiếp?
Kể từ sau khi hệ thống Cộng sản thế giới sụp đổ, đảng CSVN như người bị ném ra khỏi cộng đồng và bơ vơ giữa rừng. Họ không biết bấu víu vào đâu để có thể tồn tại theo bản năng lệ thuộc và được che chở bởi đàn anh. Trong cơn khủng hoảng toàn diện về mọi mặt từ lý luận, thực tiễn, nhân sự và tổ chức, đảng Cộng sản VN đã hết sức lúng túng trong hướng đi và hoảng hốt lo lắng cho sự tồn tại của mình.
Để tiếp tục bám víu lấy một thể chế vốn đem lại cho họ chỉ có lợi ích mà chẳng mất mát gì, họ đã tìm mọi cách chèo kéo, gắng gượng để giữ lấy cái mà họ đã cướp được: Chính quyền.
Sau khi cái gọi là Lý tưởng Cộng sản đã bị chính họ bôi đen và xé nát bằng những hành động của mình, thần tượng Lenin, Stalin đã hiện nguyên hình là những tội đồ khát máu, họ vội vàng dựng lên cái gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tuy nhiên, cái gọi là tư tưởng này đã nhanh chóng bị những học giả, những nhà nghiên cứu vạch rõ rằng chỉ là món “lẩu thập cẩm” được cóp nhặt, suy diễn và bịa đặt nhằm tạo ra một bóng ma, một biểu tượng, một hình nộm nhằm dẫn đàn cừu dân Việt cúi mặt đi theo.
Cũng chính trong sự hoảng loạn ấy, mà Đảng CSVN đã bí mật tìm kiếm cái phao cứu hộ cho sự tồn tại của mình ở người anh cả là ĐCS Trung Cộng, bất chấp đó cũng là một ổ Mafia công khai vốn vẫn mang nặng tư tưởng bành trướng từ ngàn đời như chính ĐCSVN đã xác nhận trước đó. Cũng vì thế mà cái gọi là “Mật ước Thành Đô” đang bị người dân nghi ngờ là một mật ước bán nước thì đảng vẫn giấu hơn cả mèo giấu… phân.
Chính vì thế mà lãnh thổ đất nước, quyền con người của người dân, truyền thống của cha ông ngàn năm dựng nước và đánh giặc giữ nước bị xé bỏ. Cho đến khi họ tổ chức đàn áp người dân yêu nước, rước giặc vào nhà ngang nhiên, thì Đảng CSVN hiện nguyên hình là một nhóm tay chân của ngoại bang trong cái gọi là Phong trào Cộng sản Quốc tế.
Và cứ thế, như cha ông đã nói:
Ma đưa lối quỷ dẫn đường
Cứ lần theo bước đoạn trường mà đi (Kiều)
Vì thế, không có gì lạ khi người Cộng sản Việt Nam cứ “dư nước mắt” để khóc cho tổ mối đã bị sụp đổ từ lâu.
Có một sự thật thú vị là đa phần người Việt Nam đều yêu mến văn hóa và đất nước Mỹ mặc dù hai quốc gia đã từng ở hai đầu chiến tuyến. Theo điều tra xã hội của Trung tâm Nghiên cứu Pew (Pew Research Center – PRC) công bố vào tháng 6 năm 2017, 84% số người Việt Nam được hỏi có thiện cảm với nước Mỹ, tăng 6 điểm phần trăm so với năm 2015.
Con số này ở các nước châu Á như Philippine, Hàn Quốc hay cả Nhật Bản cũng đều rất cao, nhưng Việt Nam thể hiện mức độ thiện cảm cao nhất lại là một điều khá bất ngờ.
Tôi quen biết nhiều người đang sinh sống và học tập ở Mỹ, tôi đã từng không thể hiểu nổi vì sao họ cứ sang Mỹ là lại muốn ở lại hoặc tìm kiếm công việc để có thêm nhiều thời gian trải nghiệm cuộc sống nơi đây hơn là trở về nước ngay sau khi kết thúc việc học. Cho đến khi được nghe nhiều chuyện về nước Mỹ từ những người em đang sinh sống ở đó và đích thân trải nghiệm trong một chuyến đi không quá dài, tôi mới dần cảm nhận được tinh thần Mỹ và giấc mơ Mỹ đã hấp dẫn bao người.
Chấp hành luật pháp là một phản xạ vô điều kiện
Người duy nhất không phải là tổng thống được in hình trên đồng đô-la khi được hỏi: “Ngài đã để lại cho chúng tôi những gì?”, Benjamin Franklin – một trong bảy “người cha lập quốc” đã trả lời: “Một nền Cộng hòa, thưa bà, nếu bà và con cháu bà có thể bảo vệ được nó”. Cộng hòa tiếng Latinh là Respulica bao gồm Res (điều, thứ) và Pulica (của chung, công cộng). Hai từ gộp lại có nghĩa là điều của chung, trong nền Cộng hòa, điều của chung này chính là luật pháp. Những nhà lập quốc của nước Mỹ có một cơ hội kiến tạo hình thức chính phủ tùy ý, nhưng những bài học từ lịch sử đã khiến họ lựa chọn cho người dân Mỹ một quốc gia cai trị bằng pháp luật trong một nền Cộng hòa, chứ không phải cai trị bằng số đông trong một nền Dân chủ.
Benjamin Franklin (17 tháng 01 1706 – 17 tháng 4 1790) là một trong những người thành lập đất nước nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Ông là một chính trị gia, một nhà khoa học, một tác giả, một thợ in, một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu.
Chính vì thế khi tới Mỹ, dù không cần quá lâu, bạn sẽ bị ấn tượng rằng người dân ở đây có tinh thần tuân thủ pháp luật rất cao, thậm chí theo nhiều người Việt thì còn là hơi máy móc và “kỳ quặc”. Trong tự sự về “Trải nghiệm của một người Việt ‘khùng điên’ ở Mỹ”, anh Misha Doan đã kể về câu chuyện tưới cây đầy “gian truân” của mình. Chả là chủ công ty của ông là Việt Kiều đã lớn tuổi, sống ở Mỹ 10 năm , thi thoảng nhắc anh tưới cho các cây xanh trong khuôn viên văn phòng. Nhưng vị quản lý trẻ tuổi gốc Việt sinh ra ở Mỹ lại không đồng ý vì California đang vào mùa hạn hán, chính quyền kêu gọi người dân tiết kiệm nước sinh hoạt, mỗi ngày chỉ được tưới cây từ khoảng thời gian từ 5 giờ chiều đến 8 giờ sáng.
Ông chủ thì nói cứ tưới đi, ai biết đâu, trong khi vị quản lý nhất quyết là không cho vi phạm luật. Nhưng nếu đợi sau 5 giờ chiều mới tưới thì quá giờ làm việc và anh Doan không thể ở lại làm thêm giờ chỉ để tưới cây. Cuối cùng công ty đã tìm ra một sự thỏa hiệp bằng cách cho anh Doan đi làm trễ 1 tiếng, về trễ 1 tiếng để kịp tưới cây cho đúng Luật. Như vậy họ đã không vi phạm Luật Lao động cũng như Luật tiết kiệm nước của tiểu bang.
Những tình huống quá mới mẻ với người Việt lần đầu sang Mỹ như vậy không phải là hiếm. Các tay lái người Việt vượt đèn đỏ, rẽ không bật đèn xi nhan thường sẽ được gắn mác “chắc là mới sang” ngay trong cộng đồng những người Việt ở đây. Tôi đã từng sống trong cộng đồng người Việt ở các nước châu Âu, họ dù sang đó sinh sống đã hai chục năm, đã có quốc tịch nước sở tại nhưng tính cách “đại khái”, coi thường luật pháp còn khá nhiều, biểu hiện qua cách buôn bán lách luật và lối sống “khác biệt” so với dân bản địa. Nhưng ở Mỹ, chính cộng đồng những người sinh sống lâu năm sẽ nhắc nhở và chỉ cho những người mới đến rằng, họ phải tuân thủ luật pháp và điều đầu tiên khi trở thành công dân Mỹ là phải tuân thủ luật pháp.
Theo anh Doan, nước Mỹ không phải xứ sở thần tiên nhiệm màu, nhưng hầu như ai qua Mỹ cũng được thay đổi theo chiều hướng hoàn thiện hơn. Và một trong những điểm tích cực đó là tính tự giác và tôn trọng Luật pháp. Do luật pháp Mỹ rất khắt khe và công bằng nên bạn sẽ có ý thức phải tuân thủ, dần dà hình thành thói quen. Và khi đã trở thành thói quen tốt, một phản xạ vô điều kiện thì hành vi của bạn một cách vô thức cũng sẽ trở nên có lợi cho cộng đồng hơn.
“Bản thân tôi bây giờ không thể vứt rác bừa bãi, không phải vì sợ bị phạt hay bị chỉ trích, mà bởi thành một thói quen không thể thay đổi”, anh Doan chia sẻ. Chính tôi khi quay trở về Việt Nam cũng khiến nhiều người thân đi cùng mình cảm thấy khó chịu khi tôi cứ nhất quyết phải qua đường ở vạch sang đường. Mặc dù ở Việt Nam tỷ lệ bạn bị phạt khi sang đường không đúng nơi quy định là rất thấp, vì thế tôi không phải là sợ bị phạt, mà đơn giản vì nó đã trở thành thói quen.
Dù bạn ở bất cứ quốc gia nào nếu muốn nhập cư ở Mỹ thì điều đầu tiên khi trở thành công dân Mỹ là phải tuân thủ luật pháp. Ảnh dẫn theo tintucmy.net
“Chúa phù hộ nước Mỹ!” và “Năng lực vĩ đại đi kèm với trách nhiệm vĩ đại”
Người Mỹ có một niềm tin mãnh liệt vào Chúa và nó mãnh liệt hơn bất kỳ quốc gia phương Tây nào khác. Bạn sẽ hiếm khi nào nghe các lãnh đạo ở các quốc gia có tỷ lệ dân theo đạo Thiên Chúa cao nào nói “Chúa phù hộ bạn”, nhưng đó là một câu nói được nghe thường xuyên ở Mỹ từ người dân cho tới lãnh đạo.
Năm 1954, bản tuyên thệ dưới cờ được bổ sung thêm cụm từ “One Nation, Under God” (tạm dịch: Một quốc gia dưới Chúa). Năm 1956, “In God, We Trust” (tạm dịch: Chúng ta tin vào Chúa) trở thành tiêu ngữ quốc gia của Mỹ mà bạn sẽ dễ dàng đọc thấy trên mỗi tờ tiền đô-la.
Chẳng có một chính phủ nào trên thế giới lại có “Bữa sáng cầu nguyện toàn quốc”, một sự kiện thường niên được tổ chức vào ngày thứ Năm đầu tiên của tháng Hai tại Washington, D.C. Hàng năm, có khoảng 3.500 khách mời từ hơn 100 quốc gia tới tham gia sự kiện. Các vị khách mời bao gồm giới chính khách, giới doanh nhân, và những người có tầm ảnh hưởng rộng lớn trong xã hội. Kể từ thời Tổng thống Eisenhower tới nay, tất cả các tổng thống Mỹ đều tham dự sự kiện thường niên này.
Trong mắt người Mỹ, họ là con dân của Chúa. Nước Mỹ được thành lập dựa trên cơ sở: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nhân dân không thuộc về chính phủ mà thuộc về Chúa. Chính phủ không phải là khái niệm cao cả và quyền lực nhất, Chúa mới là người quyền lực nhất. Tổng thống Donald Trump trong bài phát biểu nhân ngày Độc lập đã nhấn mạnh: “Ở Mỹ, chúng ta không tôn kính chính phủ, chúng ta tôn kính Chúa”.
Vì chính phủ cũng là bên dưới Chúa nên họ chẳng có quyền lợi gì cao cả hơn nhân dân. Thậm chí với trí tuệ và khả năng vượt trội hơn mọi người, lãnh đạo và nhà nước phải có trách nhiệm cao hơn trước Chúa, đó là trách nhiệm bảo hộ và làm quốc gia thịnh vượng, vững mạnh hơn.
Và triết lý này còn thể hiện ở ngay cả trong những bộ phim anh hùng bom tấn của Hollywood. Anh hùng khi có được sức mạnh và năng lực siêu nhiên, thì họ phải có trách nhiệm với năng lực đã được ban cho đó. “A great power comes with great responsibilities” (tạm dịch: Năng lực vĩ đại đi kèm với trách nhiệm vĩ đại) là câu nói được lấy làm tư tưởng chủ đạo của bộ phim Người Nhện. Ở Mỹ, trẻ em được dạy ngay từ khi còn nhỏ rằng, Chúa ban cho ai đó sức mạnh thì đó không chỉ đơn giản là một món quà miễn phí mà đi kèm theo là sứ mạng cải tạo và giúp đỡ xã hội, cộng đồng.
Một trong những gia tộc Mỹ giàu có nhất trong hơn một thế kỷ – Rockefeller đã trải qua hơn ba đời giàu có, hưng thịnh. Họ nổi tiếng bởi sự hào phóng và có trách nhiệm với xã hội cũng bởi một tâm niệm rằng: Người giàu chỉ là người được Chúa ủy thác quản lý tài sản mà thôi, họ được trao cho món quà là để quay lại giúp đỡ xã hội.
Triết lý năng lực đi kèm với trách nhiệm này không những chi phối nhân sinh quan của người Mỹ mà thể hiện rõ ràng trong chính sách đối ngoại của quốc gia này. Người Mỹ tin rằng đất nước họ được trao cho vị thế là cường quốc trên thế giới là vinh diệu mà Chúa ban cho họ, vì thế người Mỹ phải hành động để cải tạo thế giới.
Nhiều người không hiểu vì sao nước Mỹ cứ đem quân can thiệp khắp nơi, đánh giá nhân quyền các nước và “nhúng tay” vào mọi vấn đề của thế giới. Tại sao Mỹ luôn đứng đầu danh sách cứu trợ người nghèo Châu Phi và những nơi có thảm họa, thiên tai. Tại sao Mỹ phải viện trợ lương thực cho dân Bắc Triều Tiên, nơi mà lãnh đạo của họ luôn đe dọa bắn tên lửa vào Nhà Trắng… Bởi Mỹ luôn cố gắng để xứng đáng với vai trò số một thế giới, vị thế đã được Thượng Đế ban cho.
Vì thế, không phải chỉ là một lời nói theo thói quen, những câu cuối cùng trong bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Donald Trump là: “Chúa phù hộ các bạn! Và Chúa phù hộ nước Mỹ!”.
Tổng thống Donald Trump trong lễ tuyên thệ nhậm chức.Bài phát biểu nhân ngày độc lập Tổng thống đã nhấn mạnh: “Ở Mỹ, chúng ta không tôn kính chính phủ, chúng ta tôn kính Chúa”. Ảnh dẫn theo todayonline.com
Nền văn hóa có sức dung nạp cao
Hầu như mọi người dân nhập cư khi đến Mỹ đều vì một “Giấc mơ Mỹ”. Một khái niệm nổi tiếng của riêng nước Mỹ, đó là niềm tin về một miền đất tự do, nơi ai cũng có thể theo đuổi những mục tiêu của mình bằng sự nỗ lực và lựa chọn tùy ý.
Nhà văn kiêm sử gia James Truslow Adams đã lần đầu tiên mô tả “Giấc mơ Mỹ” trong cuốn Epic of America (tạm dịch: Thiên Anh Hùng Ca Hoa Kỳ): “…Nó không phải là một giấc mơ về chiếc xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, mà là một giấc mơ về trật tự xã hội trong đó mọi người đàn ông và đàn bà đều có thể đạt được tầm vóc đầy đủ tùy theo khả năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận vì những gì của chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên của họ”.
Arnold Schwarzenegger từ một người nhập cư vô danh nói tiếng Anh không sõi đã trở thành diễn viên phim hành động nổi tiếng và thống đốc bang California. Ông nội của Tổng thống Trump từ Đức tới Mỹ với một chiếc vali duy nhất năm 16 tuổi, không một xu dính túi và phải bắt đầu bằng công việc thợ cắt tóc. Mười bốn năm sau, ông trở thành ông trùm bất động sản và từ đó là lịch sử sáng lạng của gia đình Trump. Chỉ có ở trên đất Mỹ, những người không có bằng cấp, tiểu sử ấn tượng mới có thể thành công một cách không tưởng. Một anh chàng bán băng đĩa vì có đam mê và am hiểu phim võ thuật nảy ra ý tưởng về một bộ phim pha trộn tất cả các thể loại võ thuật và viết kịch bản. Anh ta đi bán ý tưởng và bộ phim dựa trên kịch bản đó – Kill Bill đã trở nên nổi tiếng không ngờ. Ở một nơi khác, ngoài nước Mỹ, có lẽ anh ta sẽ vẫn mãi là một người bán băng đĩa.
Xã hội Mỹ rộng mở và công bằng, ai cũng có thể tìm được chỗ đứng cho mình, thoải mái theo đuổi đam mê mà không có bất cứ ai cản trở. Chỉ cần làm đúng theo luật pháp, bạn không cần phải chạy chọt, đi cửa sau cho bất kỳ quan chức nào nếu muốn làm kinh doanh chính đáng. Chỉ cần một bản kế hoạch đủ thuyết phục và đến ngân hàng trình bày, bạn có thể được đầu tư để khởi nghiệp dù là dự án nhỏ hay to.
Người Mỹ không quan tâm tôn giáo của bạn là gì hay bạn đến từ đâu. Nếu bạn có khả năng, họ sẽ rót vốn đầu tư cho bạn. Nếu bạn có ý tưởng để thay đổi xã hội, họ sẽ góp tiền cho bạn. Bạn có công trình nghiên cứu hàn lâm khả thi, dù thời gian có lâu, họ cũng sẽ cấp tiền cho bạn. Chính vì tinh thần trọng dụng này nên Mỹ trở thành một cục nam châm thu hút nhân tài. Hàng năm, dòng nhân lực chất lượng cao vẫn ùn ùn đổ về Mỹ và rất nhiều những thương hiệu lớn trên thế giới đều được khai sinh từ đây.
Người Mỹ rất cởi mở với những ý tưởng và họ sẵn sàng chia sẻ. Khi họ thất bại, họ cũng sẽ chia sẻ điều đó mà không ngại ngần, giữ thể diện. Vì tinh thần chấp nhận sự thất bại đó nên các doanh nhân Mỹ không hề cảm thấy nhục nhã khi thất bại. Và chính bởi không ngại nên họ sẽ làm lại cho tới khi thành công. Người Mỹ rất ngưỡng mộ những người thành công, họ coi những tỷ phú là những cảm hứng để họ phấn đấu chứ không so bì, ghen tức với người giàu và nổi tiếng. Thành công là một thứ được khuyến khích và chấp nhận, cốt là bạn làm ngay chính.
Nước Mỹ không phải là thiên đường, cũng không phải là địa ngục. Nước Mỹ là một nơi dành cho những trái tim can đảm. – (Phim ‘Người Bắc Kinh ở New York’)
Mỹ không phải là một xã hội kim tiền
Là một đất nước khuyến khích công dân làm giàu, phát triển sự nghiệp cá nhân nhưng nước Mỹ không phải là một xã hội kim tiền. Phần lớn người Mỹ cho rằng, những người giàu có có nghĩa vụ giúp đỡ xã hội, bởi vì họ sở hữu và nắm giữ lượng lớn tài sản của quốc gia. Bởi sự giàu có, thành đạt đều là do Chúa ban cho, nên năng lực lớn luôn đi kèm với trách nhiệm lớn. Từ nhỏ, trẻ em Mỹ đã được dạy về tầm quan trọng của công việc tình nguyện và thiện nguyện. Rất nhiều người Mỹ lựa chọn tham gia công tác từ thiện, dạy học, y tá, cứu viện khẩn cấp và công tác xã hội trong các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu. Cũng có rất nhiều gia đình Mỹ nhận nuôi những đứa trẻ bất hạnh từ các quốc gia khác.
“Ở nơi công cộng nếu gặp được một vị tỷ phú nào đó, bạn thậm chí có thể trực tiếp đến bắt chuyện, nói với họ rằng mình đang gặp phải khó khăn về học phí, rất mong nhận được sự giúp đỡ”, cô Pauline Kelly – nữ nhà văn, giáo sư ngôn ngữ học cho biết. “Thông thường, họ sẽ không từ chối yêu cầu của bạn. Họ sẽ chỉ cho bạn cách liên lạc với trợ lý hoặc quỹ từ thiện, mong bạn hãy tiếp tục giữ liên lạc với họ”. Đây là lối hành xử khiến nhiều người nước ngoài đến Mỹ cảm thấy không thể giải thích nổi.
Tại các thành phố Mỹ cũng có những người dân lang thang ăn xin, không phải là không có trại xã hội cho họ sống mà là họ thích sống ngoài đường. Có một Việt kiều kể rằng, cách đây hơn 10 năm có một trận tuyết rơi rất dày ở New York và nhiệt độ hạ thấp vào đêm Giáng sinh. Thị trưởng thành phố ra lệnh mở tòa thị chính và tất cả bệnh viện đón người lang thang vào trú rét. Các bác sĩ cũng được điều động tới khám cho dân lang thang và thậm chí sau đó còn bưng cà phê nóng tới cho họ. Qua mùa rét năm đó, dân vô cư ở New York tụ tập tổ chức một buổi mít-ting lớn. Họ cử đại diện ăn mặc lịch sự ra phát biểu trước công chúng cảm ơn chính quyền thành phố đã cứu họ khỏi chết cóng. Một câu chuyện mang đậm tính cách hóm hỉnh mà hiện thực kiểu Mỹ, những tưởng chỉ có thể thấy trên phim Hollywood.
Một đất nước văn minh luôn có những con người có trái tim chân thành. Ảnh dẫn theo nypost.com
Nói tới phim ảnh, ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới đất Mỹ là người dân ở đây có cách nói chuyện, phản ứng hệt như trên các bộ phim Hollywood mà tôi vẫn thường xem. Động tác hình thể, ánh mắt, phản ứng trên khuôn mặt, cách nói tiếng Mỹ đầy màu sắc, và đặc biệt là nụ cười Mỹ. Anh chàng lái xe đón tôi từ sân bay là người Mỹ đen, trông như dân Hip hop. Suốt cả chặng đường anh ta nói chuyện và chỉ cho tôi những điều đặc biệt ở New York, anh cười rất nhiều và muốn tôi có ấn tượng tốt trong lần đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ mặc dù bản thân đang bị ốm. Có thể nói, anh ấy đã thành công, bởi cho tới bây giờ tôi vẫn nhớ nụ cười ấy, rất tươi sáng và chân thành.
Những chuyện người Mỹ giúp đỡ bạn dù không hề quen biết thì không có gì mới mẻ. Xách hộ đồ nặng lên tầng nhà không có thang máy, cho bạn đi nhờ xe một đoạn dài mà thậm chí họ không thuận đường… Tôi còn nhớ câu chuyện đọc đâu đó về hai vợ chồng già người Việt được một người Mỹ sửa chiếc lốp xe giữa trời nắng nóng, trên cung đường vắng vẻ, mồ hôi nhễ nhại mà không hề nề hà. Lúc sửa lốp xong bà nói “Lời cảm ơn của tôi có lẽ không đủ để đáp lại lòng tốt của ông. Tôi biết làm gì cho xứng đây?”. Người đàn ông Mỹ cười và nói: “Chị hãy giúp đỡ những người khác như tôi đã giúp chị hôm nay. Đó là cách cảm ơn tôi tốt nhất”. Những lời nói của người đàn ông này in đậm trong tâm trí của bà và đã thôi thúc bà không ngừng làm việc thiện.
Sau khi ở Mỹ một thời gian, một ni sư người Việt ở California chứng kiến quá nhiều việc tốt khiến bà suy nghĩ. Bà chia sẻ với một Việt kiều khác rằng: “Hóa ra ở đây có rất nhiều người tâm Phật con à, mặc dù phần lớn họ không theo đạo Phật”. Và có vẻ đúng như anh Misha Doan chia sẻ, ai ở Mỹ về cũng đều hoàn thiện hơn theo hướng tích cực. Khổng Tử đã từng nói rằng: “Ở chung với người thiện như vào nhà có cỏ chi lan, lâu mà mà chẳng thấy mùi thơm, tức là mình cũng đã hóa ra thơm vậy”.
Người Mỹ hay bị mang tiếng là thực dụng, nhưng sống với họ bạn sẽ phải học cách sống “thực dụng” của họ, hoặc là bạn sẽ phải thay đổi khái niệm này, từ thực dụng sang thực tế.
Như một người dùng Facebook có tên Vien Huynh đã chia sẻ về sự thực tế của người Mỹ: “Sống thực tế là hiểu rõ thực trạng cuộc sống, không mơ mộng hão huyền hay tìm cách trốn tránh thực tại. Sống thực tế là hiểu rõ năng lực và giá trị thực của bản thân để có thể phát huy tốt nhất khả năng của mình.
Còn sống thực dụng là bất chấp thực tế, bất chấp năng lực thực sự của mình ra sao mà chỉ chăm chăm giành được cái lợi nhỏ trước mắt, ngoài ra mặc kệ hậu quả sau này nghiêm trọng thế nào”.
Tại Hội nghị toàn quốc về “Phát triển thủy điện vừa và nhỏ, năng lượng tái tạo”, ngày 28/7/2017, Bộ Công thương cho biết sẽ tiếp tục “ưu tiên phát triển thủy điện, nhất là các dự án đa mục tiêu. Đưa tổng công suất các nguồn thủy điện từ 17.000 MW hiện nay lên 21.600 MW năm 2020; 24.600 MW năm 2025”. Nhưng có một thực tế là việc phát triển tràn lan các thủy điện nhỏ trong thời gian qua đã trở thành nỗi lo lớn cho cộng đồng.
Đập tràn thủy điện Sông Tranh 2. (Ảnh: nangluongvietnam.vn)
Theo số liệu tháng 7/2017 của Tổng cục Năng lượng, trong tổng số 824 dự án thủy điện ở Việt Nam thì có tới 714 nằm trong quy hoạch là các dự án thủy điện nhỏ có công suất lắp máy từ 1-30 MW, trong đó đã vận hành khai thác 270 dự án; đang thi công xây dựng 141; đang nghiên cứu để đầu tư xây dựng 250 dự án; còn lại 53 dự án chưa có chủ trương đầu tư.
Các dự án thủy điện nhỏ chiếm 86,6% tổng số các dự án và sản xuất ra 29,2% tổng công suất thủy điện ở Việt Nam. Tuy nhiên dường như các dự án thủy điện nhỏ đang trở thành con dao hai lưỡi đối với nhiều địa phương.
Chạy dự án thủy điện để… khai thác gỗ?
Người ta sử dụng cụm từ mỹ miều “chuyển đổi diện tích rừng tự nhiên” thay cho việc phá rừng để làm các công trình thủy điện. Theo các chuyên gia sinh quyển, để tạo ra 1 MW điện, phải “đổi” ít nhất 10-30 ha rừng, và để có 1.000 ha hồ chứa nước cũng cần san phẳng, giải phóng từ 1.000 – 2.000 ha đất rừng ở phía thượng nguồn.
Như vậy với 411 dự án thủy điện nhỏ có tổng công suất 4.515,7 MW đã và đang xây dựng, đã có không dưới 135.471 ha rừng bị đốn hạ.
Nhưng không chỉ vậy, các dự án không thống kê được diện tích đất rừng mới nơi mà người dân nhường đất cho thủy điện sẽ di dời tới để sinh sống, như vậy có thể diện tích rừng bị phá thực tế còn lớn hơn nhiều.
“Chưa thể thống kê chi tiết diện tích rừng bị mất vì thủy điện”
Trong quá trình xin đầu tư dự án thủy điện, các nhà đầu tư luôn trình bày phương án trồng bù diện tích rừng bị phá, nhưng báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2012 cho thấy chỉ có 3,7% diện tích rừng đã bị mất được các nhà đầu tư trồng bù. Các chuyên gia cũng cho rằng diện tích trồng bù thực tế còn thấp hơn con số này rất nhiều.
Nhiều người cho rằng, việc khai thác gỗ từ diện tích rừng làm thủy điện là nguồn lợi kếch xù và nhanh nhất mà các nhà đầu tư thủy điện nhỏ hướng đến. Và lợi nhuận từ việc “chuyển đổi” mỗi ha rừng là bao nhiêu, nhà nước có thu được phần nào hay không vẫn là câu hỏi không có người trả lời.
Tuy vậy, hẳn là nguồn lợi từ việc khai thác rừng là rất hấp dẫn nên mặc dù Chính phủ đã có chủ trương thắt chặt các dự án thủy điện nhỏ nhưng nhiều tỉnh vẫn liên tục gửi công văn cho Bộ công thương đề xuất bổ sung một số dự án thủy điện nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ vào quy hoạch thủy điện trên địa bàn.
Rừng bị cắt trọc, thẳng hướng cây cầu trên đập dâng thủy điện Văn Phong (Tây Sơn, Bình Định), năm 2017. (Ảnh: Lưu Tâm)
Thủy điện nhỏ – những “thủy quái” hung dữ
Tác dụng của thủy điện còn phải kể đến nhiệm vụ quan trọng là cắt, chống lũ cho hạ lưu mùa mưa bão kiêm cung cấp nước phục vụ sản xuất và nhu cầu dân sinh mùa khô.
Tuy vậy, những năm qua, các công trình thủy điện nhỏ đã được ví như những “thủy quái” đe dọa cuộc sống người dân ở khắp các địa phương. Tương ứng với số lượng dày đặc các công trình thủy điện tại các con sông, có một lượng lớn các hệ sinh thái bao gồm thảm thực vật và động vật xung quanh các thủy điện và phía hạ lưu bị hủy diệt hoàn toàn.
Không chỉ là động vật, ngay cả con người cũng không còn chỗ dung thân. Các khu dân cư ở gần khu vực hạ lưu bấy lâu vẫn sống yên ổn với núi rừng, sông suối thì nay phải dọn đi nơi khác nhường chỗ cho các công trình thủy điện.
Cả rừng đầu nguồn và sông Krông Nô đều đang phải chịu nhiều thương tổn vì những công trình thủy điện. (Ảnh: Phan Doan Dang/panoramio.com)
Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở đó, những đợt xả lũ của nhà máy thủy điện luôn là nỗi ám ảnh của người dân hạ lưu. Do thiết kế và thi công không đảm bảo kỹ thuật, nhiều công trình thủy điện nhỏ rất mong manh trước những cơn mưa lớn tại đầu nguồn. Nhiều công trình không có khả năng ngăn chặn và điều tiết lũ, thậm chí những đợt xả lũ bất ngờ của các thủy điện nhỏ đã gây nên các đợt lũ lớn làm hư hại nhà cửa, cây trồng và cướp đi cả tính mạng con người.
Cuối tháng 9/2009, thủy điện A Vương (huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam) xả lũ sau bão số 9 gây ngập úng diện rộng.
Tháng 9/2016, ống thủy điện Sông Bung 2 (huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam) vỡ làm 2 người mất tích.
Thủy điện Ia Krêl 2 (xã Ia Dom, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai), công trình mà nhiều hộ dân từng chịu ảnh hưởng nặng nề sau cú vỡ đập vào tháng 6/2013, tiếp tục vỡ vào ngày 1/8/2014 tạo ra một trận lũ quét lớn.
Tháng 10/2016, thủy điện Hố Hô xả lũ ngay mùa mưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho Hà Tĩnh và Quảng Bình không kém trận lũ lịch sử năm 1999…
Cả chục vụ tệ hại liên tiếp diễn ra chỉ trong chưa đầy một thập kỷ khiến người dân phải gọi thủy điện nhỏ là “thủy quái”, giới truyền thông đặt cho chúng biệt danh “quả bom nước”.
Thuyền là phương tiện duy nhất có thể di chuyển trong xã Phương Mỹ ngay sau khi thủy điện Hố Hô xả lũ. (Ảnh: Hoàng Triều/ nld.com.vn)
“Hàng ngày, những ‘quả bom nước’ vẫn tiếp tục đe dọa cuộc sống của hàng triệu người phía hạ lưu”
Chúng ta để lại gì cho con cháu khi vẫn tiếp tục phát triển thủy điện?
Tại Hội nghị toàn quốc về “Phát triển thủy điện vừa và nhỏ, năng lượng tái tạo”, ngày 28/7/2017, Vụ Năng lượng Tái tạo – Tổng cục Năng lượng, cho biết sẽ tiếp tục “ưu tiên phát triển thủy điện, nhất là các dự án đa mục tiêu. Đưa tổng công suất các nguồn thủy điện từ 17.000 MW hiện nay lên 21.600 MW năm 2020, 24.600 MW năm 2025”.
Như vậy, rừng sẽ tiếp tục bị phá để làm thủy điện, môi sinh tiếp tục bị hủy hoại, cuộc sống người dân ở những khu vực triển khai dự án sẽ tiếp tục long đong để đổi lại cho thứ gọi là phát triển kinh tế. Liệu ai có thể chắc chắn rằng hiệu quả về phát triển kinh tế của những thủy điện mới có thể bù đắp được những thiệt hại về môi sinh và con người?
Tiến sĩ Đào Trọng Tứ, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy hội sông Mekông, người nhiều năm gắn bó với thủy điện đã phải thốt lên rằng:
“Cách phát triển thủy điện ào ạt, tàn phá rừng và găm dày đặc trên các con sông như hiện nay là “tận diệt” tài nguyên. Chỉ nghĩ đến lợi ích của một bộ phận là không công bằng, không để gì cho con cháu cả”
Một phụ nữ Bến Tre nhìn ruộng dưa hấu của gia đình bị hỏng trong đợt hạn hán tồi tệ nhất trong vòng 90 năm qua tại ĐBSCL do tác động của El Nino và do các đập thủy điện đầu nguồn sông Mê Kong, ngày 5/5/2016. (Ảnh: Getty Images/Christian Berg)
Cho dù đã có quá nhiều bài học đắt giá từ thủy điện mang lại, nhưng liệu ai có thể đảm bảo rằng những công trình thủy điện mới sẽ không là những con “thủy quái” và những “quả bom nước” mới sẽ không tiếp tục “dội” xuống người dân các địa phương? Hiện chúng ta vẫn tiếp tục chơi con dao hai lưỡi khi tiếp tục phát triển thủy điện…