KỂ CHUYỆN “LÀM VIỆC” TRONG ĐỒN CÔNG AN: LỜI THOẠI NHƯ PHIM!

Hoa Kim Ngo and 2 others shared Pham Doan Trang‘s post.

Pham Doan Trang

 

KỂ CHUYỆN “LÀM VIỆC” TRONG ĐỒN CÔNG AN: LỜI THOẠI NHƯ PHIM!

Dưới đây là trích lược một vài đoạn đối thoại giữa tôi và các nhân viên an ninh điều tra của Bộ Công an Việt Nam vào ngày 16/11/2017, tại đồn công an phường Cống Vị, sau cuộc gặp gỡ giữa Phái đoàn Liên minh Châu Âu và các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam buổi sáng hôm đó.

Tôi ghi lại, bởi thấy chúng… như lời thoại trong phim vậy, và biết đâu chúng có ích cho ai đó khi rơi vào hoàn cảnh tương tự ở đồn công an.

– Chị đến tòa nhà Lotte hôm nay gặp ai, có việc gì?

– Các anh chị hỏi có động cơ gì vậy?

– Chúng tôi hỏi chị đến đó làm gì, chị được người ta mời hay chị tự đến?

– Sao tôi lại phải nói với các anh chị?

– Tại sao chị không nói?

– À, đó là bí mật công tác của tôi đấy.

– Chà, công việc của chị bí mật đến thế cơ à?

– Vâng, bí mật công tác, cũng giống như an ninh quốc gia của đảng nhà các anh chị thôi ấy mà.

– Chị đến đó gặp những ai?

– Tôi đã nói là bí mật công tác mà. Nói đúng hơn là tôi sẽ phản ánh đầy đủ các thông tin đó trong bài viết của tôi. Các anh chị có thể đón đọc, cũng như mọi độc giả khác. Ngoài tòa soạn, không một ai có quyền đọc tác phẩm báo chí trước độc giả cả. Các anh chị cũng chỉ là độc giả mà thôi, các anh chị không có quyền gì để đòi hỏi biết những thông tin đó trước các độc giả khác cả.

– Chúng tôi không phải là độc giả của chị, chị nhé. Đây là ở trong đồn. Và chúng tôi đang làm việc với chị trên tư cách chính quyền làm việc với công dân.

– À, thế là các anh chị cao hơn tôi hả?

– Tôi không nói thế. Chúng tôi nói đây là quan hệ chính quyền với công dân.

– Ý các anh chị là như vậy, các anh chị có thể thích bắt ai về đồn thì bắt, và hỏi gì thì người ta phải trả lời à? Không. Không thế được đâu. Các anh chị quen cái kiểu ấy lâu rồi, nhưng với tôi thì không được đâu. Các anh chị chẳng là cái gì để tôi phải trả lời cả. Ở đây tôi mới là người quyết định có cung cấp thông tin nào đó, cho độc giả, hay không, chứ không phải các anh chị. Các anh chị muốn biết điều gì thì cứ đón đọc bài báo, chứ các anh chị không là cái gì để đòi hỏi được biết thông tin trước các độc giả bình thường cả. Tại sao các anh chị lại có nhu cầu biết trước người khác?

– Chúng tôi chỉ cần những thông tin căn bản thôi, như là chị gặp ai. Đại sứ quán Pháp có dự không?

– Tôi không trả lời đâu.

– Thế có Bỉ không? EU à? Chắc có Đức nhỉ?

– Tôi không trả lời đâu. Đó là công việc của tôi.

– Chị Trang này, tôi không muốn so sánh đâu, nhưng nếu so sánh chị với những người hoạt động thế hệ trước chị thì… nói thế nào nhỉ, xin lỗi nhé, tôi thấy chị có cái gì đó kém hơn. Ý tôi là kém sòng phẳng, kém đàng hoàng, kém cái tinh thần dám làm dám chịu.

– Ồ, anh không phải nói khích. Tôi kém xa nhiều người mà. Nhưng ở đây không phải chuyện dám làm dám chịu, mà đây là vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Một trong những nguyên tắc của đạo đức báo chí là phải bảo vệ nguồn tin, các anh chị ạ.

– Chị nói hay nhỉ? Bảo vệ nguồn tin. Vậy đến lúc viết bài thì chị không trích dẫn ở đâu hết, chị bưng bít nguồn tin, chị tự bịa hết ra à?

– Khi viết bài thì tôi có cách xử lý của tôi chứ. Tất nhiên là phải bảo đảm trích dẫn đầy đủ, chính xác, không đạo văn, không bịa đặt. Còn đây là chuyện bảo vệ nguồn tin các anh chị ạ.

– Chúng tôi chỉ hỏi các thông tin căn bản, như chị được mời hay chị tự đến, ai mời chị, chị đến đó gặp ai…

– Những thông tin đó tôi sẽ đưa vào bài cả, tại sao các anh chị cứ đòi biết trước?

– Thôi chị Trang ạ, chúng ta biết nhau quá rõ rồi. Chị thừa biết tại sao chị về đây rồi. Tại sao bao nhiêu người khác chúng tôi không đưa về đây, mà lại đưa mỗi chị. Chị quá biết rồi còn gì.

– Không, tôi biết gì đâu. Các anh chị cho biết lý do đi.

– Chị không phải nói cái giọng ấy nhé.

– Tôi cho các anh chị 5 phút để trả lời câu hỏi của tôi. Nhắc lại câu hỏi: Vì sao đưa tôi về đây?

Đến đây thì đồng chí an ninh nhìn thẳng mặt tôi, hạ giọng nói khe khẽ:

– Những đứa khác có bằng chứng thì bóc lịch cả rồi đấy. Còn chị thì chưa đủ bằng chứng thôi chứ nếu không thì giờ này cũng không được ngồi ở đây đâu.

– Không ngồi ở đây thì ở đâu? Tù hả? (cười)

– Đúng đấy. Chị cũng không phải chờ lâu đâu, sắp rồi.

– Ừ, tóm lại là chưa có bằng chứng gì phải không? Bằng chứng đâu, đưa đây coi nào. Tôi thách đấy.

– Chưa đủ bằng chứng thôi, còn những đứa nào đủ thì đã bóc lịch cả rồi đấy. Cứ nhìn đi.

– Nhắc lại: Bằng chứng đâu? Tại sao đưa tôi về đây? Lấy điện thoại của tôi vì lý do gì?

– Chị cứ chờ đấy. Không lâu đâu.

Hai bên cùng nhìn thẳng vào mắt nhau và cùng cười rất tươi. Hệt như hai đứa trẻ con thi nhau xem đứa nào chớp mắt trước.

– Vậy hả? OK, chúng ta cùng chờ. Chắc lúc ấy các anh chị sung sướng lắm phải không, mở tiệc to ấy nhỉ?

– Được rồi. Sắp rồi. Chị cứ chờ đi.

Cuộc “làm việc” tiếp tục chuyển sang vài vấn đề khác. Câu hỏi an ninh đặt ra là tại sao chị Trang không ký xác nhận vào một tập tài liệu chị cầm theo người. Câu hỏi chị Trang đặt ngược lại là tại sao lại phải ký.

– Tại sao chị không ký?

– Vì tôi không hiểu lý do các anh chị yêu cầu tôi ký. Các anh chị cần chữ ký của tôi để làm gì?

– Đó chỉ là vấn đề thủ tục, quy trình mà thôi. Chúng tôi chỉ muốn bảo đảm quyền lợi của chị, nên mới yêu cầu chị ký.

– Tôi ghi nhận là các anh chị có nỗ lực làm việc đúng quy trình. Tôi cảm ơn. Tiếc là cái quy trình ấy của các anh chị không thỏa đáng, nên tôi không thể theo được. Tự nhiên lại bắt người đang đi đường về đồn rồi bắt ký xác nhận cái này cái nọ. Thế là có động cơ gì?

– Chị biết những tài liệu chị cầm theo là xấu, là có vấn đề gì đó, nên chị mới không ký phải không?

– Ấy đừng suy đoán thế. Bản năng con người là phải biết cảnh giác để tự vệ, các anh chị ạ. Cho dù có là tài liệu gì cũng thế thôi.

– Chị biết nội dung của tập tài liệu chị cầm theo chứ? (Đó là các báo cáo tóm lược về thảm họa biển miền Trung, đánh giá Luật Tôn giáo và tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, bằng tiếng Anh).

– Nếu tôi bảo là tôi không biết thì sao? Cứ coi như tôi không biết tiếng Anh, tôi mù chữ đi.

– Chị đừng nói chị không biết tiếng Anh, nghe nó buồn cười lắm. Tài liệu chị mang theo có nội dung gì?

– Thì các anh cứ đọc đấy.

– Chúng tôi thừa nhận chúng tôi kém tiếng Anh, được chưa? Chúng tôi muốn nhờ chị đọc và giải thích sơ lược nội dung nó là cái gì.

– Ấy chết, ai nói các anh chị kém đâu.

– Chị hiểu nội dung mà, phải không?

– Vâng, tôi hiểu, nhưng tôi không dịch đâu.

– Ký chị cũng không ký, nhờ dịch hộ vài dòng cũng không dịch. Trong khi mọi việc chúng tôi làm chỉ là để bảo đảm quyền lợi của chị. Chúng tôi không chỉ là theo quy trình đâu, mà chúng tôi làm việc theo quy định của pháp luật.

– Vâng, cảm ơn. Tiếc là cái pháp luật ấy của các anh chị cũng không thỏa đáng, nên tôi không thể theo được. Phải cảnh giác chứ tin các anh chị thế nào được?

– Vậy chúng tôi ghi vào đây là chị không ký tài liệu vì lý do gì?

– Các anh chị ghi rõ là vì tôi thấy động cơ của các anh chị không minh bạch.

– Này, chị bỏ cái từ “động cơ” ấy đi nhé. Chúng tôi là cơ quan an ninh, chúng tôi làm việc nhà nước, chứ chả có cái động cơ xấu nào ở đây cả mà bảo minh bạch với không minh bạch.

– (bật cười) Sao các anh chị dùng từ “động cơ” với “đối tượng” thì được mà hễ người ta dùng lại từ ấy với các anh chị thì các anh chị phản ứng thế?

– Này này, tôi chưa hề nói ai là đối tượng nhé. Tôi chưa hề bảo chị là đối tượng, tự chị nhận đấy nhé. Nãy giờ toàn chị nói nhé.

– À vâng vâng, tôi xin lỗi. Tôi nói chung chung thế thôi chứ có bảo là anh bảo tôi là đối tượng đâu.

– Chị đang cố tình làm mất thời gian của cả hai bên đấy chị Trang nhé. Chị không có gia đình, chứ chúng tôi còn có con nhỏ, còn phải về đón con, cho con ăn. Mà bây giờ là giờ tan tầm, chị biết rồi đấy.

– Vâng ạ. 5h30 rồi. Các anh chị có bận thì cứ về trước đi ạ.

– À, tôi nói là tôi nói đồng chí Hương đây có con nhỏ, phải về đón con. Chứ tôi thì tỷ phú thời gian luôn nhá. Tôi sẽ ngồi đây với chị đến khi nào làm rõ hết vấn đề. Mà không chỉ có tôi, còn nhiều anh em khác nữa.

– Dạ vâng ạ. Thế nếu chị Hương có con nhỏ thì về đón con đi ạ.

– Rồi, chúng ta tiếp tục.

Thật ra tất cả các cuộc đối thoại như thế với tôi đều chỉ có ý nghĩa… nghịch cho vui, chứ chẳng để làm gì. Bởi vì luôn luôn cơ quan an ninh sẽ đưa vào phòng một người nào đó làm nhân chứng, ưu tiên những người dân thường chẳng hiểu chuyện gì và hễ cứ thấy “cơ quan công quyền” là rúm ró. Nhân chứng đó dĩ nhiên do an ninh chọn, không có sự tham gia chọn của ta, không cần sự đồng ý của ta. Cho nên ta có ký hay không ký, an ninh và nhân chứng cũng có thể tự lập biên bản, tự ký với nhau.

Có đồng chí cứng tuổi hơn nêu câu hỏi:

– Em có nghĩ là bọn anh biết hết những việc em làm không?

– Dạ, việc gì hả anh?

– Anh đang hỏi em có nghĩ bọn anh biết hết những việc em đang làm không?

– Như là việc gì ạ?

– Thì đó, tất cả những việc em làm. Em có nghĩ bọn anh biết cả không, hả?

– (cười xòa) Em không để ý lắm.

* * *

Có một nhân viên an ninh trẻ hơn, rất chịu khó nói chuyện với tôi về các chủ đề ngoài “làm việc”. Cậu giải thích tỉ mỉ cho tôi về sự khác biệt giữa các loại rượu, giữa thuốc lá và thuốc lào, giữa các môn phái võ thuật “cương” và “nhu”. Tôi rất thích nghe, và cậu cũng nói “em chỉ thích chém gió cho vui, em chẳng thích chị em mình phải làm việc với nhau trong hoàn cảnh này”. Tôi cũng mong cậu ấy nói thật.

Và suy cho cùng, chẳng có ai trong số những người thuộc diện “đối tượng” như chúng tôi muốn phải là đối thủ của ai, muốn cãi cọ, đấu lý, gài bẫy, cảnh giác với ai cả. Nhưng điều đó chắc sẽ không thể nào chấm dứt, chừng nào vẫn còn có một lực lượng coi chúng tôi là kẻ thù.

Một thể chế mới – một nền dân chủ – với một thiết chế công an mới sẽ là sự giải thoát cho cả hai bên chúng ta.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ .

 
 
 
From facebook:  Mai Sương shared Mai Sương‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 1 person, text

Mai Sương added 2 new photos.

 

Cứ mỗi năm , đến ngày 1/11 – lễ các thánh nam nữ , một đại lễ của người Công giáo , thì chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu công bố HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI ( Tám mối phúc thật ).

Trong hiện tình đất nước hiện nay , tôi chú ý đến mối phúc cuối cùng : ” Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ . Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả , bách hại và vu khống đủ điều xấu xa . Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật là lớn lao ” ( Mt 5 , 10 – 12) . Vâng , mối phúc thứ 8 này khiến tôi nghĩ đến những người đấu tranh dân chủ chân chính ở Việt nam , họ đã dấn thân đấu tranh cho SỰ THẬT, CÔNG BÌNH , BÁC ÁI … và cái giá họ phải trả là bị vu khống , bắt bớ , tù đầy … tôi tự hào vì chị NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH ( mẹ Nấm ) là một trong những người Công giáo dám đánh đổi tất cả để đấu tranh cho SỰ CÔNG CHÍNH !

” QUÂN PHẢN ĐỘNG “

From facebook:  Huỳnh Phi Long shared Mai Sương‘s post.
 
Image may contain: 1 person, text and closeup
Mai Sương is with Nguyen Tuan Anh and 32 others.

 

” QUÂN PHẢN ĐỘNG “

Đảng ta nào có xấu đâu
Sao ” quân phản động ” đua nhau chửi hoài ?
Phải công nhận chúng rất tài
Chuyện gì cũng biết cũng tài phanh phui .
Nhiều chuyện đảng cố chôn vùi
Vậy mà cũng bị chúng khui ra ngoài
” Thành đô mật ước ” với Tàu
Chúng đem phân tích làu làu từng chương
Văn thơ lai láng chúng tuôn
Chửi hay hơn hát , chúng thường rêu rao
Chửi đảng từ thấp đến cao
Bịt miệng bọn chúng : làm sao bây giờ ?
Cấm “phây” , “yu tút” , “Gu gồ” *
Để ” quân phản động ” hóa ngu câm mồm
Cho toàn dân tộc ngu luôn
Dễ bề cai trị : đảng còn sống lâu !

* Cấm Facebook , Youtube , Google

Mai Sương

 

Chuyện dâm ô và chiếc thẻ đảng

courtesy tintucnamdinh.vn
Chuyện dâm ô và chiếc thẻ đảng

RFA Tiếng Việt   18-11-2017

Phiên tòa xét xử Nguyễn Khắc Thủy, 77 tuổi nguyên Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Bà Rịa – Vũng Tàu phạm tội dâm ô với nhiều em bé gái cuối cùng cũng được thực hiện. Điều này đáp ứng một phần bức xúc của dư luận bấy lâu nay về việc đã không được đưa ra xét xử nghiêm túc và khẩn trương nhằm làm gương cho những con người mà thú tính đã chiếm trọn tâm hồn họ.

Một cuộc điều tra kiểu… ngâm tôm

Đã từ rất lâu, mẹ một trong những nạn nhân đã kêu cứu khắp nơi cho con gái bé bỏng của mình, dư luận xã hội lên án nặng nề và những lời trách cứ, đòi hỏi công lý đã làm nóng mạng xã hội. Thế nhưng, cơ quan CSĐT chậm rãi làm việc và sau gần 3 năm, vụ án mới được đưa ra xét xử.

Việc điều tra khó khăn lắm chăng? Có lẽ là không phải thế.

Người ta có quyền đặt câu hỏi về sự chậm trễ  của cơ quan luật pháp. Bởi cái việc ấu dâm thì có hành động rõ ràng, có nhân chứng, vật chứng và nhiều điều có thể bắt tận tay, day tận trán, nhìn tận mắt. Nó không khó khăn như những vụ án mà hành vi phạm tội chỉ là “âm mưu”. Bởi âm mưu thì chỉ có trong đầu, trong ý nghĩ  của con người.

Nếu như người ta cho rằng đây là vụ án “âm mưu lật đổ chính quyền” – thì chỉ cần “âm mưu” thôi, đảng và nhà nước đã huy động hàng đàn, hàng lũ công an bắt như bắt giặc, đưa ra “công khai xử kín” trong một thời gian rất ngắn. Thậm chí ở các phiên tòa đó, việc tranh tụng, chứng cứ… chỉ là một trò hề không hơn không kém và kết tội thật nặng.

Điều gì đã làm cho vụ án chậm trễ đến vậy? Hẳn rằng sẽ có nguyên nhân.

Thẻ đảng: Kim bài miễn tội?

Sẽ không có gì phải thắc mắc nhiều nếu như sau khi Tòa tuyên án, Nguyễn Khắc Thủy đã không làm một việc mà qua đó, người ta giải thích được câu hỏi: Vì sao Thủy không sợ và bất chấp luật pháp, đạo đức để vẫn tiếp tục phạm tội dâm ô với nhiều bé gái khác nhau trong một thời gian dài.

Nguyễn Khắc Thủy tuyên bố tự thiêu nếu tòa tuyên án, điều này làm nhiều người ngạc nhiên và… thích thú. Thậm chí cộng đồng mạng đang hò nhau đóng góp xăng và lửa gửi đến cho Nguyễn Khắc Thủy hết sức rầm rộ.

Thế nhưng chừng như chưa đủ, tại sân Tòa, lão ta còn châm lửa đốt thẻ đảng. Bởi vì lão có đến 51 năm tuổi đảng mà vẫn kết tội lão là… không chấp nhận được.

Điều này để lại cho người dân nhiều suy nghĩ.

Hẳn là người dân sẽ không nghi ngờ rằng vụ án sẽ được điều tra nhanh hơn, tội ác sẽ được xét xử sớm hơn, minh bạch rõ ràng và thích đáng hơn cho tội phạm này nếu (vẫn là chữ nếu ) Nguyễn Khắc Thủy không phải là đảng viên, nguyên Giám đốc Ngân hàng nhà nước chi nhánh BR-VT.

Nếu Nguyễn Khắc Thủy không mang theo chữ “nguyên” mà là đảng viên đương chức, hẳn lão sẽ không phải hầu tòa hôm nay. Bởi tiền và quyền sẽ cứu lão khỏi cái án này. Hoặc cũng có thể nếu không có chữ “nguyên” thì chắc lão có đầy các nhân viên chân dài, đầy các cháu măng tơ để lão giải sầu mà không cần phải có hành động dâm ô với trẻ nhỏ.

Nhưng, cho đến khi mang chữ “nguyên” khó chịu kia, lão vẫn không sợ luật pháp, có lẽ cái thẻ đảng với 51 tuổi đảng kia đã làm lão quá tự tin?

Những vụ việc xâm hại các bé gái, tội ấu dâm, hiếp dâm… trong xã hội Việt Nam không phải là hiện tượng hiếm. Sở dĩ nó tồn tại và ngày càng phát triển chỉ vì luật pháp đã không nghiêm trong một hệ thống chính trị mục rã, đạo đức xã hội suy đồi. Và qua đó như sự dung túng cho việc xâm hại ngày càng rộng rãi mà không bị trừng trị.

Chỉ qua việc diễn viên Minh Béo bị bắt vì tội ấu dâm tại Mỹ vừa qua, đủ cho thấy một điều: Khi luật pháp nghiêm mình, tội ác nhất định bị trừng trị, thì động cơ, cơ hội và mức độ liều lĩnh sẽ giảm đi rất nhiều, đồng thời người dân được bảo vệ an toàn bởi luật pháp, tạo niềm tin vào công lý, qua đó, xã hội bình an và phát triển.

Điều người ta thấy lạ là hầu như những vụ án này đều không được chú ý của các cơ quan luật pháp. Vụ án Nguyễn Khắc Thủy phải chờ đến khi Chủ tịch nước có ý kiến, thì thủ phạm mới phải ra tòa và chịu án.

Cũng mới đây, lại cũng một cán bộ ngân hàng ở Hoàng Mai phải ra tòa vì tội xâm hại tình dục cháu bé 8 tuổi. Cao Mạnh Hùng, kẻ gây tội ác này đã phải ra tòa chịu cái án 2 năm. Điều đáng nói là dù mẹ cháu bé đã làm đơn đến cơ quan Công an Hoàng Mai, Cao Mạnh Hùng đã bị bắt, nhưng sau đó lại được thả ra nhởn nhơ thách thức dư luận. Điều này đã làm nóng mạng xã hội, bởi có thông tin rằng Cao Mạnh Hùng là cháu của Chủ tịch UBND Tỉnh Thái Bình.

Dư luận không thể không đặt nghi ngờ ở trường hợp này, bởi lẽ chính Công an Quận Hoàng Mai đã lần khân bao nhiêu thời gian gây những nghi ngờ lớn trên mạng xã hội.

Chỉ cho đến khi có Phó thủ tướng chỉ đạo thì Công an Hà Nội mới vào cuộc và khởi tố vụ án Cao Mạnh Hùng và đưa ra xét xử trước tòa án, tuyên phạt 2 năm tù.

Vậy những vụ án mà không có chủ tịch nước hoặc Phó thủ tướng chính phủ ý kiến, thúc giục thì sao? Hẳn nhiên là chìm xuồng, là lấp liếm, là bỏ qua hoặc bao che?

Chuyện cũ kể lại

Vào một ngày cuối tháng 3 năm 2000, (hình như đó là ngày 28/3/2000 nếu tôi nhớ không nhầm) nhà tôi chợt bị gõ cửa lúc gần sáng. Xuống mở cửa, một người quen trong làng dẫn theo vợ là Nguyễn Thị H. cùng với anh trai đến nhà. Họ cho biết là đi ra Hà Nội để chữa bệnh mổ sỏi thận. Tôi mở cửa mời họ vào nhà soạn chỗ ngủ xong, tôi đi ngủ. Sáng dậy, tôi liên hệ với một người bạn ở bệnh viện nhờ giúp đỡ cho họ việc mổ được thuận lợi. Xong tôi đến cơ quan.

Anh em, vợ chồng họ được hướng dẫn đến Bệnh viện Giao thông vận tải để làm thủ tục mổ sỏi thận.

Chiều hôm đó, sau khi tôi đi làm về, ông chồng đưa cho tôi một tờ giấy viết bằng nét chữ của một nông dân, lời lẽ đặc sệt địa phương ngữ, nội dung tố cáo chuyện động trời: Bác sĩ Dương Quang Phúc, trưởng khoa Ngoại, bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh đã cưỡng hiếp chị ấy vào trưa hôm trước.

Tôi bàng hoàng, thấy sự việc nghiêm trọng, tôi bảo riêng chị ta cùng với ông anh trai lên phòng riêng để hỏi sự việc. Chị trình bày lại rõ rằng:

Chị vào bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh để mổ sỏi thận. Lịch mổ của chị đã được lên vào sáng thứ 2. Trưa hôm đó, chị đang lo lắng đứng trước hành lang bệnh viện, thì bác sỹ Dương Quang Phúc đi qua và bảo chị vào phòng làm việc để nói chuyện. Nghĩ rằng bác sĩ trao đổi về việc mổ xẻ, chị đi theo vào phòng.

Vào đến cửa phòng, bác sỹ Phúc đã chốt cửa và cưỡng hiếp chị mặc dù chị van xin bằng mọi cách. Nhưng sức khỏe một bệnh nhân không thể thắng được cơn tà dâm của vị bác sĩ trưởng khoa ngoại này.

Ra khỏi phòng chị hoảng loạn và ôm quần áo chạy thẳng một mạch về nhà. Về đến nhà, chị nói với chồng, anh trai… và hôm sau hai vợ chồng đến gặp Bác sĩ Nhiêm, giám đốc bệnh viện làm đơn tố cáo gửi Giám đốc, Công an… Rồi cả nhà quyết định đưa chị ra Hà Nội để mổ.

Lá đơn của chị chẳng mấy chốc được phát tán ra khắp thị xã, cả Thị xã Hà Tĩnh xôn xao bàn tán.

Tôi bần thần cả người, chỉ biết rằng qua lời kể của chị, một nông dân buôn bán cá ở chợ Thị Xã thì tôi đọc thấy sự thành thật.

Nhưng, cho đến ông anh trai chị ta hỏi:

– Sự việc đã thế, sao mày không im đi lại nói ra để xấu hổ và tiếng tăm cả xóm làng.

Chị khóc và nói:

– Im làm sao được, cả đời tôi theo đạo mà không nói ra chuyện này, nghĩa là tôi đồng lõa. Ngày mai tôi lên bàn mổ, dưới con dao của thằng bác sĩ Phúc. Nếu tôi có mệnh hệ nào thì ai chịu tội này cho tôi.

Thì ra, lương tâm của một người Công giáo đã buộc chị phải nói lên sự thật đau đớn đó, dù phải chấp nhận nhiều hậu quả.

Đến lúc đó thì tôi tin chị đã nói thật.

Ngay tối hôm đó, tôi gọi điện cho hai nhà báo Lao Động, hai phóng viên được cử đến là Phạm Hiếu và Phạm Văn Hiệu, họ ghi âm, điều tra cụ thể và sau đó bài viết được đăng trên tờ Lao Động đã nói lên vụ việc với những nghi vấn, hồi đó chưa có báo điện tử hay mạng xã hội như ngày nay. Nhiều báo chí khác như Đại Đoàn Kết cũng vào cuộc điều tra.

Dư luận cả nước xôn xao, Bộ trưởng Bộ Y tế triệu tập bác sĩ Giám đốc Bệnh viện ra Hà Nội để báo cáo sự việc. Công an được đưa vào điều tra.

Bác sĩ Dương Quang Phúc tìm mọi cách chạy chọt, thậm chí còn đến cả giáo xứ Văn Hạnh nhờ cán bộ và cha xứ để xoa dịu gia đình. Qua một số trung gian thông tin lại, con số 50 triệu đồng được đưa ra xin đền bù nhưng gia đình không thèm chuyện tiền bạc.

Cha xứ Đậu Đình Triều đã thẳng thắn bảo rằng: Vụ việc phải được điều tra cụ thể, đây là tội ác.

Ngay cả điện thoại nhà tôi cũng được bác sĩ Phúc gọi đến vài lần và xin được gặp gia đình để thương lượng. (Cho đến nay, tôi vẫn còn giữ những băng ghi âm đó) hoặc nhờ cán bộ trong xóm nhắn qua gia đình tôi xin được yên chuyện.

Không chỉ có thế, báo chí được huy động vào cuộc viết bài để tố ngược nạn nhân, có  hai tờ là Tiền Phong, Sức khỏe và đời sống.

Ngay từ khi bài báo trên Tiền phong đăng bài, tôi đã đến trực tiếp tòa soạn, khiếu nại về những điều bịa đặt trong đó, thậm chí tôi đã cùng người bạn đến tận nhà Dương Xuân Nam là TBT tờ báo để khiếu nại. Nhưng, tờ báo lúc đó do Lương Ngọc Bộ làm phó TBT làm là chính, còn Dương Xuân Nam chỉ lo chuyện gái gú, người đẹp và chân dài.

Tờ Tiền Phong đã dai dẳng cử một cộng tác viên là Nguyễn Đình Hòe (Bút danh Lỗ Đạt, làm ở Công ty phát hành sách Nghệ An) vào tận Hà Tĩnh, theo đuổi sự việc bào chữa cho anh ta, còn ở Hà Nội có Quốc Dũng.

Dư luận bất ngờ và lời đổn thổi ở Hà Tĩnh rằng giá của mỗi bài báo là số tiền 20 triệu. Hèn chi tờ báo này hăng máu đến thế nhằm bao che tội ác.

Khi đó, tôi hết sức ngạc nhiên về thái độ báo chí đổi trắng thay đen và thắc mắc về lương tâm của họ. Tôi còn nhớ rõ một phóng viên bảo tôi rằng: Anh nên nhớ, báo chí nhà nước là diễn đàn của một số người chứ không phải là của mọi người. Do vậy anh không nên ngạc nhiên với tờ Tiền Phong.

Kể từ đó, tôi bắt đầu chú ý đến phương diện báo chí và truyền thông.

Tiếp câu chuyện chị H.

Sau khi mổ xong, chị về quê tiếp tục tố cáo, Công an Thị xã Hà Tĩnh vào cuộc. Việc điều tra đó không hề khó khăn. Nhưng thời gian cứ kéo dài hết tháng này đến ngày khác… và dư luận đồn thổi là cái nhà Bs Phúc cũng cứ vậy mà đi  dần từng tầng một.

Cho đến khi có văn bản kết luận điều tra: Chưa đủ cơ sở kết luận Bs Phúc đã cưỡng hiếp chị H. thì người dân chỉ có mỗi phản ứng là câu chửi tục.

Sau này, nghe một người nói lại thì trong cuộc họp báo cáo sự việc này Công an nói rằng: Sự việc là có thật, nhưng nếu kết luận đúng, sẽ ảnh hưởng vì một đảng viên lại đi cưỡng hiếp giáo dân, sẽ bất lợi cho uy tín của đảng.

Và Bs Phúc thoát nạn vụ án này nhờ là đảng viên và nạn nhân là giáo dân.

Tuy nhiên, tội ác có bị che đậy thì kẻ gây tội ác cũng chẳng sung sướng gì. Khi tôi về Hà Tĩnh, một người dân cho biết: Ông ta đưa cộng tác viên về nhà giao luôn cho cả xe máy đi viết bài, còn ông ta lo đi kiếm tiền để chi cho việc chạy chọt. Ở nhà, tay phóng viên kia học theo thói của bạn, đã xơi luôn cô vợ, kết quả là cô vợ đã buộc phải chia tay.

Sau đó, một thời gian bác sĩ này lại gây một vụ động trời là bắt một thương binh quỳ lạy xin ở lại điều trị vì bị đuổi ra viện sớm, lý do được cho rằng ông đã không lót tay tiền bồi dưỡng(?)

Và ông ta phải bán xới khỏi đất Hà Tĩnh vào Sài Gòn kiếm sống.

Tạm kết

Chiếc thẻ đảng đã là một “Kim bài” cho nhiều tội phạm, điều này đã thấy trong thực tế xã hội Việt Nam. Có thẻ đảng, có chức vụ trong đảng càng cao, thì chiếc “Kim bài” này càng có tác dụng.

Một tội danh tày trời, tham nhũng, phá hoại của đất nước hàng chục ngàn tỷ đồng, hàng tỷ dola, nhưng là Ủy viên Bộ chính trị thì sẽ được điều về là Phó ban Kinh tế như Đinh La Thăng. Nếu chức trong đảng nhỏ hơn như Võ Kim Cự thì sang làm Chủ tịch Liên minh HTXVN sau khi rước giặc và chất độc vào đầu độc miền Trung. Nếu nhỏ hơn nữa, thì tùy theo nó là ai, thái tử đảng hay đảng viên… Nghĩa là có thứ tự, lớp lang đầy đủ để cho hệ thống đảng đứng trên luật pháp, trên cả những quy định xã hội tối thiểu và cơ bản nhất.

Ngay cả chỉ là đảng viên, nếu phạm tội, cũng phải được Đảng đồng ý cho điều tra thì công an mới được điều tra, còn nếu đảng lắc đầu thì có giết người cũng phải chấp nhận nhìn chúng nhởn nhơ ngoài vòng luật pháp. Điều này, chính Phó GĐ Công an Sài Gòn đã tiết lộ về cái Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị quy định Công an phải bó tay nếu không được đảng cho điều tra đảng viên.

Tóm lại, đảng dành tất cả mọi quyền lợi, luật pháp, quyền lực… của nhân dân, của đất nước cho riêng cái đám đảng viên của mình.

Điều này khá chính xác với cương lĩnh, điều lệ đảng CSVN rằng: “Đảng CSVN không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân”. Chính vì vậy, đảng cố thu gọn tất cả mọi lợi ích, quyền lợi của dân vào tay mình. Chỉ khổ thằng dân nhịn đói và cái gọi là Tổ Quốc ngày càng xơ xác, tiêu điều và có nguy cơ bị xóa tên dưới bàn tay của đảng.

Và cứ thế, Chủ tịch nước và thủ tướng đến lúc phải kiêm luôn chức thúc giục các vụ án hiếp dâm, ấu dâm thì may ra mới có tác dụng cho hệ thống luật pháp hiện nay.

Và cứ thế, xã hội luôn luôn bất an với “đảng quang vinh lãnh đạo tuyệt đối”.

Chỉ đến khi nào chiếc thẻ đảng không còn là “kim lệnh bài” cho đảng viên bòn xương, hút máu, gây tội ác với nhân dân, thì đất nước, xã hội mới có cơ may yên ổn và trường tồn.

Vay nợ của Trung Quốc rồi kiện đòi lãnh thổ được không?

Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.
Vay nợ của Trung Quốc rồi kiện đòi lãnh thổ được không?

Trung Quốc đang tranh chấp, thậm chí là chiếm lãnh thổ của Việt Nam và đe dọa tiếp tục chiếm nhiều hơn.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa chất vấn:
Nếu nhận viện trợ ODA và vay của Trung Quốc thì liệu sau này kiện đòi lãnh thổ được không ?

No automatic alt text available.

CHUYỆN BỊ BẮT CÓC

From facebook:    Trần Bang‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, motorcycle and outdoor
Trần Bang

CHUYỆN BỊ BẮT CÓC

Trương Dũng

Phần 2: Hỏi cung buổi chiều.
1h30 chiều cuộc hỏi cung lại tiếp tục, 3 an ninh (2 trung tá và 1 đại uý) được tăng cường thêm, trong đó có tên trung tá Lương Văn Công từng có mặt các buổi biểu tình. Tôi và hắn không lạ gì nhau, lần đầu tiên thấy hắn mặc sắc phục.

Trước khi vào làm việc, tôi hỏi họ:
– Tưởng buổi sáng làm việc xong rồi?
– Xong là xong thế nào, tiếp tục cho đến khi nào anh thành khẩn mới thôi nhé.
Họ đưa cho tôi giấy triệu tập lần thứ 4 và bảo tôi ký nhận. 
– Tôi không ký nhận gì hết
– Lý do?
– Nếu tôi mà ký nhận thì các anh bảo tôi tự nguyện đến làm việc. Các anh sẽ chối bỏ việc bắt cóc tôi, kiểu như vụ Trịnh Xuân Thanh ấy.
– Anh không ký nhận thì thôi, tôi không ép.
Sau đó cả 5 tên lần lượt thẩm vấn tôi. Tôi cảm tưởng như bị “đánh hội đồng”. Khoảng hơn một tiếng sau tên AN nữ ra khỏi phòng.
Lúc này đầu óc tôi khá căng thẳng, phải đối đáp với 5 tên. Để
giảm bớt căng thẳng, tôi hỏi:
– Em Lưu Ly về trước rồi hả? 
– Đồng chí ấy đi công việc anh ạ.
– Tôi thích làm việc với Lưu Ly hơn với các anh.
– Vì sao?
– Trẻ đẹp duyên dáng và quyến rũ.
Tất cả cười ồ.

Ngay sau đó họ rút ra 1 tập ảnh, đưa cho tôi 1 tấm có biểu ngữ “Thuý Nga Vô Tội” tôi chụp giữa đường phố, hỏi:
– Đây có phải anh không? Nếu phải thì anh bảo phải, không thì bảo không. Trả lời tất cả các bức ảnh và ký biên bản, sau đó mời anh về.
– Tôi không trả lời và không ký gì hết.
– Anh có nhận ra người cầm biểu ngữ “Thuý Nga Vô Tội ” đứng tại ngã 5 ô chợ dừa này không?
– Tôi không chối, tôi không nhận, tôi im lặng, đấy là quyền của tôi.
– Có gan làm, phải có gan phải nhận chứ!
– Tôi sợ chết, sợ đi tù, tôi nhát lắm!
– Không hiểu sao họ phong anh là “trương tráng sĩ”, chúng tôi thấy buồn cười.
– Khổ tôi có tự xưng đâu, tự họ phong đấy chứ, cũng giống như Thủ Tướng Phúc dân họ gọi là “Phúc Ngẹo” đấy, ông ấy có tự xưng đâu.
Họ nhìn tôi mỉm cười
– Chúng tôi thấy anh tham gia các cuộc biểu tình, tinh thần anh hăng lắm, mà khi làm việc với chúng tôi bản lĩnh anh quá kém!
– Chính bản thân tôi thấy đấy là điều bất thường, thế mới thú vị, chứ khai báo thành khẩn với các anh lại là điều bình thường.
– Thôi bây giờ chúng tôi không hỏi anh về các tấm ảnh nữa, chỉ hỏi anh 3 điều:
1. Anh có tham gia HAEDC không?
2. Có quen biết Trang Huỳnh đảng Việt Tân không.
3. Có tham gia hội nhóm nào không?
Kể cả anh trả lời không biết cũng được, ký biên bản rồi về. 
– Tôi đã nói với các anh, quan điểm của tôi trước sau như một, không thay đổi. Tôi có ý này với các anh: Các anh tự lập biên bản, tự ký với nhau, sau đó gửi lên toà. Khi xử toà sẽ tuyên: “Đã có đầy đủ tài liệu của CQĐT chứng minh tên Dũng phạm tội, vì vậy toà xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, được nhân dân đồng tình ủng hộ”. Đơn giản thế thôi có gì phức tạp đâu.
Nét mặt cau có, họ nói với tôi:
– Anh phải hiểu rằng mục đích CQĐT làm việc phải có lời khai và chữ ký của anh. Làm như anh nói thì hoá ra chúng tôi làm việc công cốc à?
– Rõ khổ, sao lại công cốc. Từ 
sáng đến giờ tôi làm việc với các anh có nhiều thú vị đấy chứ, hiểu 
nhau và vui vẻ với nhau, có to tiếng với nhau đâu. Tôi nghĩ các anh làm việc với tôi cũng chỉ mang tính thủ tục, còn việc làm của tôi các anh biết hết cả rồi.
– Sao anh lại nói thế ?
– AN việt nam giỏi nhất thế giới mà. Tôi đi đâu, làm gì, ăn uống gì các anh đều biết. Có những cái các anh làm ngơ. Qua bộ phim ván bài lật ngửa”, trình độ bắn súng của các anh quá siêu, bắn vào lưỡi dao, chẻ đôi viên đạn, vỡ 2 quả bóng, thán phục, thán phục. Ko những thế các anh còn biết tư tưởng của tôi yêu CS hay ghét CS nữa. Nói tóm lại cái gì các anh cũng siêu.
Hắn cau có: 
– Anh nói cứ như chúng tôi là Thánh ấy.
– Còn hơn cả Thánh nhé! Mà anh có biết không, chữ ký của tôi quan trọng lắm.
– Quan trọng như thế nào?
– Ai gửi tiền cho tôi, tôi ký hết, kể cả các anh gửi tôi cũng ký, đấy là điều tôi thích nhất. Chứ ký vào biên bản của các anh lợi chẳng thấy đâu chỉ thấy hại, ký làm gì.
– Sao anh khôn thế?
– Con người sinh ra phải biết cái lợi và cái hại.
– Bây giờ cho anh về và đề nghị anh không được đăng thông tin cuộc làm việc ngày hôm nay. 
– Tôi sẽ đăng, kể cả các anh bỏ tù tôi!
– Biết đâu anh đăng sai sự thật thì sao?
– Có camera ở đây chứng giám rồi.
Họ đưa tôi lên xe 7 chỗ chở về nhà lúc 4h30p ngày 15/11

* Nhận xét một ngày làm việc với CQANĐT: 
– Tại phòng làm việc: Không bức cung, không đánh đập. Có 1 lần đại uý Lưu Ly hơi gay gắt với tôi nhưng tôi đã nhắc nhở, và ngay sau đó ả đã điều chỉnh hành vi, và vui vẻ với tôi. Họ làm việc rất mẫn cán, tôi đánh giá rất cao về trình độ nghiệp vụ của họ. Có những lúc thấy họ căng thẳng, tôi nói một số câu khôi hài cho không khí trở lại vui vẻ. 
Buổi thẩm vấn này đã cho tôi nhiều kinh nghiệm, và cũng hiểu họ hơn.

FB Dung Truong

Văn Bút Quốc tế ( PEN) chọn Mẹ Nấm là một trong năm người tiêu biểu cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày “ 2017

From facebook:   Trần Bang‘s post.

 

Image may contain: 3 people, text

Trần Bang

Văn Bút Quốc tế ( PEN) chọn Mẹ Nấm là một trong năm người tiêu biểu cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày “ 2017

Bản tin ra ngày hôm qua 15.11.2017 với hàng tít “Văn bút Quốc tế (PEN) tưởng nhớ những người cầm bút trong tù” được đăng trên trang web của đài 3sat, một trong những đài truyền hình lớn của Đức, cho biết Mẹ Nấm là một trong năm trường hợp tiêu biểu được Văn bút quốc tế lựa chọn cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày” năm 2017.

Bản tin đã trích thông cáo báo chí của Trung tâm Văn bút Đức ở Darmstadt – CHLB Đức: Nhân “Ngày của người cầm bút bị tù đày” -ngày 15 tháng 11- tổ chức Văn bút quốc tế P.E.N. vinh danh những người cầm bút mà bị tước đoạt tư do. Năm người được PEN lựa chọn là những trường hợp đại diện tiêu biểu cho các đồng nghiệp của họ đang hàng ngày bị đàn áp hoặc thậm chí bị giết chết.

Cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày” năm nay 2017 năm tác giả được chọn là Ramón Esono Ebalé (Equatorial Guinea), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Vietnam), Cesario Alejandro Félix Padilla Figueroa (Honduras), Razan Zaitouneh (Syrien) và Zehra Doğan (Thỗ Nhĩ Kỳ).

Phần giới thiệu về Mẹ Nấm bản tin đã viết như sau: Nữ Blogger người Việt Nam Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nổi tiếng với bút hiệu “Mẹ Nấm” bị kết án 10 năm tù hồi tháng 6 năm 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống lại nhà nước XHCN Việt Nam” theo điều 88 Bộ luật hình sự. Phiên tòa phúc thẩm dự trù xét xử vào ngày 27.09.2017 đã bị dời lại vô hạn định mà không nêu lý do tại sao (chú thích của người dịch: tin mới nhất cho biết phiên tòa phúc thẩm sẽ diễn ra vào ngày 30.11.2017).

Văn bút quốc tế tin tưởng rằng, Mẹ Nấm bị bắt giam chỉ vì thực hiện ôn hòa quyền của bà được tự do phát biểu và diễn đạt quan điểm. Cho nên, Văn bút quốc tế yêu cầu trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho Mẹ Nấm.

Thông cáo báo chí (phần giới thiệu Mẹ Nấm) của Trung tâm Văn bút Đức
Kể từ năm 1980, Văn Bút Quốc Tế PEN đã quyết định chọn ngày 15.11. làm “Ngày của người cầm bút bị tù đày” (Day of imprisoned writers/ Tag des inhaftierten Schriftstellers). Đây là một ngày quốc tế được tổ chức hàng năm để nhắc nhở đến số phận của các nhà văn, nhà báo, họa sỹ hí họa, nhà xuất bản và blogger bị giam cầm và ngược đãi một cách vô lý trên khắp thế giới và tưởng niệm những người đã bị giết vì họ thực thi quyền tự do ngôn luận.

Mỗi năm PEN quốc tế lựa chọn 5 trường hợp đại diện tiêu biểu cho các đồng nghiệp của họ, nạn nhân của các chế độ độc tài, áp bức, thiếu dân chủ.

Theo Trung tâm văn bút Đức, mạng Internet đóng một vai trò lớn ở các nước mà quyền tự do bày tỏ ý kiến bị trấn áp, vì vậy những Blogger ngày càng bị rơi vào tầm ngắm của nhà chức trách. Những nước độc tài đang tăng cường biện pháp ngăn cấm phổ biến tác phẩm trên mạng Internet để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích phê bình. “Đặc biệt gắt gao là Trung Quốc và Việt Nam”, ông Josef Haslinger Chủ tịch Trung tâm văn bút Đức phát biểu nhân Ngày của người cầm bút bị tù đày.

Hiếu Bá Linh – Thoibao.de

Lời tự thuật của Thi sĩ HỮU LOAN,

From facebook:   Nguyen Dang Hung‘s post.
 
Image may contain: 1 person, outdoor and closeup
Image may contain: 1 person, cloud, sky, outdoor and nature
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: one or more people and text
No automatic alt text available.
+2
Nguyen Dang Hung added 6 new photos — with Hoa Kim Ngo and 88 others.

 

XIN ĐĂNG LẠI MỘT BÀI, TÔI ĐÃ ĐỌC BAO LẦN MÀ LẦN NÀO TÔI CŨNG KHÔNG CẦM ĐƯỢC NƯỚC MẮT…
__________________________________________________
Lời tự thuật của Thi sĩ HỮU LOAN,
tác giả “MÀU TÍM HOA SIM”

Hữu Loan 
++++++++

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ …

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi.Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:-Ngọt quá.Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …

Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.

Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

Màu tím hoa sim
(Nguyên văn của tác giả)

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệrớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Hữu Loan

© Hữu Loan
Nguồn: Huỳnh Ngọc Chênh blog.

Lời Chúa tuần này

Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25, câu 29,30)

Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,

Suy Tư Tin Mừng tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 Tin Mừng (Mt 25: 14-30)

Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn, và gây lời được năm yến khác.

 Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

 “Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,”

“Bởi mùi hương ngự trị, cánh hoa tàn.”

(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

            Mất tình/mất tiền, nào mấy sợ. Bởi, tình/tiền xưa nay còn đó vẫn rất hiền. Cái dễ mất nhất, là niềm tin Chúa gửi nơi lòng dạ con người từ xưa đến nay. Lòng dạ ấy nay đà thấy ở trình thuật, ngày Chúa nhật.     Trình thuật Chúa nhật về niềm tin để luột mất, là ý tứ và ý từ được thánh Mat-thêu đềcập đến qua dụ ngôn kể lại hôm nay. Dụ ngôn, nay kể về “yến bạc” giao cho các người đầy tớ để sinh lời. Dụ ngôn, nay mang nặng tình tiết nối tiếp truyện kể đọc tuần trước, cũng đề cập việc sử dụng và đầu tư của cải vào mọi chuyện.

Thời xưa,“yến bạc” là đơn vị đo lường trọng lượng. Đó, là đồng cân nặng nhất trong hệ thống cần lường. Yến bạc, được dùng để cân đo vàng/bạc, kim loại, và đồ đồng. Mãi về sau, con người mới dùng nó làm đơn vị tiền tệ. Với người Do thái, một yến bạc tương đương với 3,000 shekels, tương tự định mức cân lượng mà người thường mang vác được.

Lịch sử sau thời của Chúa và vào thời thánh Mát-thêu, thì một yến bạc tương đương với 6,000 quan tiền người La Mã. 6,000 quan tiền, tương đương với lợi tức mà công nhân bình thường ở huyện có khả năng kiếm được trong vòng 15 đến 20 năm. Đó, cũng là lối nói thông thường về “một tấn tiền quan” người La Mã.

            Người chủ được nói đến ở dụ ngôn, là người bận rộn, phải đi xa một thời gian không biết trước được hạn định. Ông trao cho 3 người tớ của ông 3 lượng tiền khác nhau. Một người, những 5 yến bạc. Kẻ kia chỉ hai yến. Còn người chót, chỉ mỗi yến một. Tất cả đều tuỳ khả năng của mỗi người.

Nhưng, ông lại không cho họ biết phải làm gì với số bạc ấy. Ông coi mọi người như kẻ chín chắn. Chững chạc. Ông rất tôn trọng tự do và sức sáng tạo, của mỗi người. Và, ông cũng chẳng hề nghĩ là ông đã trao phần ít ỏi cho người đầy tớ thứ nhì và thứ ba. Bởi, mỗi yến bạc khi ấy nặng cả tấn tiền.

            Về cốt truyện thì ai cũng đều đã tỏ. Hai người tớ đầu, đều biết mình phải làm gì với số lượng yến bào do chủ ủy thác. Tức, sử dụng nó một cách mẫn cán, hiệu quả. Cả hai người này đều làm lợi cho chủ nhiều điều thấy rất rõ. Trong khi đó, người đầy tớ cuối lại không hành xử hệt như thế. Y đào đất chôn tiền quan xuống đó, tưởng rằng làm thế tức tạo sự an toàn, đúng đắn như bỏ vào két sắt/quỹ tiết kiệm, mà chẳng biết đầu tư cũng chẳng sinh lời sinh lãi.

            Đó là biện pháp an toàn tối thiểu mà người khờ-khạo nhất cũng nghĩ ra. Tức, không sinh lợi nhưng cũng chẳng làm hại, chẳng thua lỗ điều gì. Tức, không tạo tăng trưởng, nhưng cũng chẳng làm ai thiệt thòi hoặc mất mát. Y ta đem về cho chủ đúng số lượng buổi ban đầu do chủ giao, chẳng dùng vào việc chi hết. Cất như thế, có bỏ công tìm kỹ cũng chẳng thấy được dấu tay, hoặc vết tích.Thật ra, y ta chẳng làm điều gì sai trái cả vì có làm gì đâu mà có sai sót.

            Dụ ngôn cũng cho thấy: hai người đầy tớ đầu được chủ tặng thưởng rất hậu hỹ. Lại được chủ gọi đích danh “tôi tớ lương hảo và trung trực”. Tức, nhận nhiều trách nhiệm sẽgặt hái được nhiều niềm vui. Trong khi đó, người tớ chót bị chủ cho là thành phần bất hảo/lười biếng, đáng trách. Nói đúng ra, phải gọi anh ta là kẻ vô tích sự, chẳng làm được gì nên chuyện, loại người ăn không ngồi rỗi, rất đáng buồn. Thế nên, họ mới bị lên án, dù chẳng lỡ lầm hoặc sai trái.

            Có lẽ khi viết lên dụ ngôn này, thánh sử Matthêu đã mang trong đầu ý tưởng về hai nhóm người Do thái khá quan trọng, vào thời ấy, nếu đem so với nhóm thứ ba. Hai nhóm đầu, là những người đại diện cho cộng đoàn Qumran. Nhóm thứ ba tượng trưng cho đám Biệt Phái, rất Pharisêu.

            Qumran là nơi ta tìm ra Cảo Bản Biển Chết. Ở nơi đó, thấy có cộng đoàn sống chia cách/tách rời xã hội mình đang sống. Tách và rời, khỏi đền Giêrusalem để rồi đi vào chốn sa mạc lặng lẽ, trong hang động. Hang động họ sống, quanh Qumran, bị người La Mã phá huỷ vào thời chinh chiến suốt từ năm 68 đến 70 sau Công nguyên. Nên, cũng chẳng tồn tại khi thánh Matthêu viết lên Tin Mừng của thánh nhân vào niên biểu thứ 85. Và, thánh nhân cũng thừa biết là nhóm người này từng chôn giấu yến bạc đạo đức ở đâu đó, trong hầm tối của chính mình.

            Pharisêu là nhóm người có mặt nhiều hồi thánh Mat-thêu còn sống. Họ là những đối tác chuyên kình chống lại thánh nhân. Vào dạo trước, Đức Giêsu cũng có cảm tình với những người này. Và ngược lại, họ cũng biết điều với Ngài trong nhiều chuyện.

Nhưng 40, 50 năm về sau, thế giới của họ đã biến đổi một cách khác hẳn. Sau ngày đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ, đám Pharisêu lại trổi lên thành nhóm lãnh đạo dân Do Thái quyết tập hợp lại với cuộc sống ở ngoài đời. Trước thời thánh Matthêu sống, đám Pharisêu đã củng cố chỗ đứng của họ và phô trương cho mọi người thấy cung cách chỉ biết sống theo luật và luật.    

            Và từ đó, họ tìm cách rút khỏi tầm ảnh hưởng của người La Mã để còn áp đặt mọi chuyện lên dân con của chính mình. Nói theo ngôn từ đạo đức, thì thời đó, đám Pharisêu là nhóm hướng dẫn việc đạo hạnh quyết đưa mọi người rời thế giới thực tại thời bấy giờ. Họ chính là những người cột chặt tinh thần câu nệ lề luật sau hàng rào bảo vệ của Torah.

            Thánh Matthêu chẳng ưa gì nhóm người này. Thánh nhân chỉ muốn sống theo tinh thần của Đức Giêsu chủ trương bằng vào tương quan cởi mở, gọn gàng và nhẹ nhàng hơn. Thánh nhân chủ trương tinh thần biết sử dụng các “nén bạc” do Đức Giêsu và Thần Khí Ngài tặng ban. “Nén bạc” nói ở dụ ngôn hôm nay, không chỉ mang nghĩa kim tiền/của cải thôi; nhưng, còn biểu trưng quà tặng về năng khiếu như khi ta đề cập đến kỹ năng âm nhạc, ngôn ngữ, toán học hoặc những thứ khác.

            Thông điệp thánh Mátthêu gửi mọi người bằng dụ ngôn hôm nay, luôn mang tính giản đơn, thẳng thắn, trực tiếp. Ý thánh sử muốn nói, là: ân huệ Chúa ban cho mọi người vẫn thừa thãi, tràn đầy, không cạn tiệt. Nếu ta lại đem chôn ân huệ Ngài ban xuống đất, khác nào người đầy tớ vô tích sự, kể ở trên.

                                                     Truyện dụ ngôn hôm nay còn làm người đọc liên tưởng đến chuyện “Trân Châu Cảng”. Ở cảng này, tầu thuyền neo đậu đâu nào có nghĩa mình sẽ an toàn thoải mái mãi suốt đời? Chỉ hiện diện sống ở đó thôi, đâu có nghĩa mình sẽ được an toàn cả phần linh thánh lẫn mặt đời.

            Tình tự chuyên lo sống an toàn, được ghi rõ ở nhiều thông điệp được Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI tỏ cho giới trẻ biết trên báo đài lẫn Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne, Sydney lẫn Madrid. Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đạo Chúa như tình yêu cao cả, và mặc khải quý hiếm.

Đối với ngài, làm tín hữu Đức Kitô là nhận lãnh ân huệ cao cả và quý hiếm Chúa vẫn ban. Ân huệ Ngài ban cho mọi người, sẽ là đôi cánh tiên để ta bay cao vút, lên cõi tiên. Ân huệ Chúa ban, còn là sứ mạng gửi đến mọi tín hữu. Sứ mạng ấy, là dự án để ta thực hiện vào mai ngày. Là, đem chân, thiện, mỹ vào cuộc sống rất thực để rồi ta tập trung đời mình vào những gì quan yếu, thiết thực thôi.

             Đức Giáo Hoàng từng bảo: giả như Hội thánh mình biết sống thực như thế, ắt hẳn cuộc sống của mình sẽ mãi mãi trẻ trung, suốt mọi thời. Có sống như thế, thánh hội của Chúa sẽ không bao giờ trở nên chai lì, cằn cỗi. Bởi, Hội thánh là hội của các thánh biết kết hiệp với Chúa, tức cội nguồn tuổi trẻ, rất sống động. 

            Nay, điều cần là mỗi người và mọi người nên để cho qua đi tâm tư mỏi mệt và tâm tình nhiều huỷhoại. Để rồi, sẽ hướng nhìn về phía về nơi có sự cao cả đích thực là di sản của Đạo Chúa. Đó, còn là “nén bạc” mà Chủ Tể vũ trụ đã trao cho mỗi một người, trong cuộc đời. Đó, là sứ mệnh khiến ta chọn lựa. Chấp nhận. Sứ mệnh, là: sử-dụng nén bạc Ngài trao hầu xây dựng tương lai mai ngày cho thế giới mình chung sống. Thế nên, hãy dấn bước thâm trầm mà tiến tới. Tiến về phía trước mặt, dù đời người muôn mặt, để còn sinh lợi “nén bạc’ hiếm quý Chúa trao ban, cho ta và cho mỗi người.

            Trong tâm tình cảm kích chấp nhận nén bạc Ngài ban, ta lại sẽ ngâm nga lời ca, còn đậm nét:

 “Xa tít tắp từ rừng xưa cổ tích,

Cỏ xanh mềm ảo hoá giấc phù vân.

Mùa thu ấy đôi mắt buồn man mác,  

Ngong ngóng chờ hoài niệm hoá rêu xanh.”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

           Nguyệt Quỳnh đây, có thể không là “nén bạc” quý hiếm Chúa gửi gắm. Nhưng, vẫn là huệ ân/ân huệ mọi người trông ngóng biến thành những gì có lợi cho mình, cho mọi người, ở đời.

            Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Anh không chết đâu em,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 “Anh không chết đâu em,”

anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang,

trong lòng muôn người biết thương đời lính.”

(Trần Thiện Thanh – Anh Không Chết Đâu Anh) 

(Rôma 12: 10-13)                  

Ấy chết! Đang sống đành rành như người thường là những người sẽ chết bất cứ lúc nào, mà sao anh cứ hát những lời thế? Hát thế, thật như “trù ẻo” tôi và bạn, vẫn từng muốn sống hết đời mình, cho trọn vẹn.

Thôi thì, anh muốn hát thế nào thì hát, nhưng cứ hát chữ “chết chóc” hoặc “chết bất đắc kỳ tử” là tôi đây thấy rợn xương với xương sườn rồi đấy anh ạ, hỡi Trần Thiện Thanh, rất lành của tôi và của bạn.

Thôi thì, anh đã hát rồi, thì tôi nay nghe tiếp những lời lẽ khác, như sau:

“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương,
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu.
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau.
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi.

Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính.
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh.
(Trần Thiện Thanh – bđd)

Về nỗi chết, hôm nay bạn và tôi, lại có những giòng chảy ý-tưởng cứ chảy mãi không ngừng, một thần học. Thần học đây, là môn học về thần linh, thánh ái có những điều rất cần để ý. Hệt như tác-giả ở bên dưới từng biện luận. Thế nhưng, trước khi đi vào luận-giải những tư-tưởng và/hoặc tâm-tư rất tưởng-tượng, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm những lời sau đây:

“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh

Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Và thêm vào đó, là những giòng kể lể rất chuyện đời của con người, mà rằng:

“Sáu giờ sáng. Bà lão bảy mươi tuổi , loắt choắt như chim sẻ ngồi ở bậc thềm ngắm bình minh. Có đôi chim nào dậy sớm đang ríu rít trên ngọn cây gần đó. Nhưng bà còn dậy sớm hơn chúng dù luôn thức tới khuya lơ để săn sóc cho chồng. Nhiều năm rồi, kể từ khi chồng bà bị tai biến. Cũng nhiều năm rồi, sử dụng đồ vật hay máy móc trong các phòng, xê dịch từ góc này sang góc khác lúc làm việc nhà, tất cả bà đều thao tác thành thục và chính xác bằng quán tính chứ không cần nhìn rõ qua cặp kính dày cộm.

Bẩy giờ bà trở vào phòng ngủ, Ông đang thở đều, lồng ngực nhẹ nhàng nhấp nhô lên xuống, đôi mắt nhắm kín. Nhưng một giọng nói thốt ra rõ ràng: “Anh thức rồi, mình à”. Bà mỉm cười: “Để em lấy khăn và thuốc nhỏ mắt cho mình.”

Ông dùng tay phải lau kỹ mặt với chiếc khăn ướt âm ấm. Cách nay nhiều năm cánh tay trái bị hỏng vì tai nạn lao động, thế rồi sáu tháng trước, chân phải bị tổn thương, ông đành để bác sĩ tháo khớp. Ông chỉ còn sử dụng được một cánh tay. Có lần ông bảo bà: “Anh chẳng còn gì cả,mình nhỉ?” Bà vỗ vỗ lên ngực ông: “Còn nhiều chứ và phần tốt nhất ở đây này”.

Khi ông đã sẵn sàng, bà nhấn nút điều khiển nâng chiếc giường dựng lên để ông dễ ngồi dậy, rồi giúp ông ngồi vào xe lăn. Trong phòng tắm bà giúp ông cạo mặt, làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, thay áo quần…Đã lâu rồi, mọi việc lớn nhỏ hàng ngày ông đều phải nhờ đến bà. Có lần ông hỏi: “Mình chưa bỏ anh chứ?” Và bà lắc đầu, cười: “Đời nào! Đã ngần ấy năm mà…”

Hai người vào bếp ăn sáng. Trên bàn, các món đã bày biện sẵn sàng, hai ông bà ngồi đối diện nhau, hai bàn tay phải vói qua mặt bàn và mười ngón tay lồng vào nhau, nắm chặt. Họ cùng nhau cầu nguyện… Trong lúc cầu nguyện, nước mắt ông lặng lẽ lăn dài xuống đôi má nhăn nheo. Uống xong tách cà phê, ông bảo bà: “Giá mà biết có ngày sẽ như thế này, mình chẳng đời nào chịu ra nhà thờ với anh, mình nhĩ?”

Bà nhìn thẳng vào mắt ông, nhỏ nhẹ: “Mình biết không, chỉ cần thấy mình cười, thấy ánh mắt mình nhìn em, thế là quá đủ rồi. Em chẳng còn mongmuốn thay đổi gì hết, ngoại trừ một điều. Đó là, nếu như mỗi năm, giá như em có thể thế chỗ mình một nửa thời gian, để mình lại được chăm sóc em”. (Truyện kể trích từ điện thư trên mạng)

Truyện kể ở trên, bạn và tôi có trích-dẫn từ điện-thư hoặc thư tay gửi từ đâu, dù là bưu điện hay vi-tính cũng không thành vấn-đề. Chỉ thành như thế, khi tôi và bạn, ta cứ đinh ninh rằng: truyện ở đây không phải để kể qua loa cho xong chuyện rồi thôi; nhưng còn là bài học để đời giúp ta sống vui, quên chết, mỗi thế thôi.

Truyện, có kể ra đây lại cũng chỉ để làm bàn đạp ngon trớn giúp bạn và tôi ta cứ thế tiếp tục bàn về những chuyện “không vui” cứ xảy đến mỗi ngày ở huyện dân gian hay trong khuôn viên nhà Đạo, cho mọi người lưu tâm, mà nhận xét. Những câu chuyện không vui, nhưng vẫn thành chuyện, hệt như chuyện an-tử lại khiến tôi và khiến bạn lưu-tâm thêm lần nữa, qua mục hỏi đáp, rất như sau:

“Thưa cha,

Con đây muốn viết cho vị dân biểu đại diện cử tri trong vùng về dự luật “an-tử” sẽ được thông qua ở Quốc hội tiểu bang New South Wales những ngày gần đây. Nhưng trước khi làm thế, con muốn hội ý với cha đôi ba sự việc để có được một số ý-kiến mà biện luận. Vậy bằng thư này, xin cha phúc-đáp cho vài ý-tưởng để khỏi trông ngóng. Cảm ơn cha rất nhiều. Xin cho được giữ kín tên tuổi.”

 Giữ kín tên tuổi, vẫn là việc của “chàng”, những chàng trai hay con gái ở huyện nhà rất quan tâm đến chuyện nhà Đạo đang diễn ra ở đây và ở đó, cũng rất nhiều. Chính vì thế, nên cha/cố đã săn sang giấy bút để trả lời/trả vốn cho đàn con nhỏ như sau:

“Việc cần-thiết, là tất cả mọi người chúng ta quyết phải làm để tránh “an-tử” tức: hành động giúp người khác tự sát đang được chính quyền hợp thức hoá, tại nước này. Những điều ẩn-hàm trong đó xem ra rất lớn. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có bàn đến an-tử trong tông-thư mang tựa đề “Đời sống Phúc Âm” có bảo rằng: “Nay, ta đang giáp mặt một trong các triệu-chứng rất báo-động của “văn-hoá sự chết” đang tiến mạnh trong các xã-hội trù phú, được đánh dấu bằng thái-độ đối với mối bận tâm về hiệu-năng và thấy con số người già và người khuyết tật đang gia tăng đến mức độ khó lòng chịu đựng được là gánh nặng đối với nhiều người.” (X. Đời sống Phúc Âm đoạn 64)

Ở đây, tôi sẽ đưa ra sáu luận cứ để trả lời cho câu hỏi của anh/chị. Trước nhất, dự-luật đưa ra với quốc hội tiểu-bang New South Wales cho phép bất cứ ai trên 25 tuổi đang chịu đau đớn đến cùng cực được giúp đỡ để kết thúc sự sống của họ nều như có hai bác-sĩ chứng-thực rằng người ấy đang bị bệnh nặng hoặc ở trong tình trang sẽ phải chết trong không đầy một năm.

 Tất cả chúng ta thừa biết là mọi người khi trước đều nói rằng: bệnh nhân này chỉ sống được vài tháng nữa là cùng, thì nay người này lại hoàn toàn mạnh khoẻ trở lại, thế mới lạ. Giả như những người chọn kết liễu đời mình khi cảm thấy đau đớn quá sức mình, thì đó là mất mát lớn đối với chính họ, với bạn bè người thân trong gia đình! Người ta cũng phạm phải sai lầm khi nghĩ đến tuổi thọ. Hợp-thức-hoá an-tử chỉ tổ gia tăng vấn đề ấy mà thôi.

 Thứ hai là, cho phép được an-tử là dựng ra tiêu-chuẩn kép về tình-trạng xã-hội đặt giá-trị lên sự sống như thế nào. Một đằng, ta có lý để ân-hận chuyện chấm dứt sự sống bằng việc tự sát, chí ít là khi việc ấy do người trẻ tuổi nào đó thực-hiện và ta đang cố gắng ngăn chặn mọi người chớ có tự sát.

 Thế nhưng, đằng khác, ta lại hợp-thức-hoá an-tử đến độ có thể giúp đỡ người chấm dứt sự sống của họ nữa. Vậy thì, ta gửi cho những người muốn tự sát thứ thông-điệp nào đây? Ta có còn đặt giá-trị lên cuộc sống và xót xa/ân-hận khi có người tự sát hay không?          

 Thứ ba là, việc hợp-thức-hoá việc giúp đỡ người khác tự sát có lẽ sẽ làm gia-tăng tỷ-lệ tự sát, nói chung. Một khi việc giúp đỡ người khác tự sát được xã-hội chấp-thuận theo luật pháp có thể dẫn mọi người đến tình-trạng không còn đau đớn vì các bệnh nan-y bằng cách chấm dứt sự sống của họ.

 Chuyện này đầu tiên xảy ra ở bên Mỹ, tiểu bang Oregon là tiểu bang đầu tiên hợp-thức-hoá an-tử, thì tại đây việc tự sát nói chung lên đến 40% nhiều hơn con số bình quân trên toàn nước Mỹ. Vậy, ta có muốn tình-trạng ấy xảy ra ở nước mình không? 

Thứ tư là, tiếp theo chuyện đang bàn, thì: giả như ta mở rộng cửa cho việc hợp-thức-hoá việc giết chóc thì việc đẩy mạnh nói đây còn mở rộng hơn nữa. Lấy ví dụ, tại sao người trẻ 25 tuổi kia đang đau đớn vì bệnh ung-thư lại có thể kiếm được bác-sĩ giúp anh đi đến chỗ chết; trong khi đó, một thanh-niên 25 tuổi khác đau đớn vị bệnh trầm thống khập khễnh vì bệnh xốp xương lại không thể làm thế được?

 Nói cho cùng, thì cái đau của người bị ung-thư sẽ chấm dứt trong vòng một năm vì căn bệnh ở vào giai đoạn cuối, trong khi cơn đau của người bị trầm-thống hoặc xốp xương lại cứ tiếp diễn trong nhiều năm tới. Xem thế thì, luật-pháp quả là có kỳ-thị bệnh tật. Bởi thế nên, ta không thể mở rộng cửa cho việc này được. 

Thứ năm nữa, trợ tử hoặc giúp người khác chết cho xong không có nghĩa là công việc đầy lòng thương xót chút nào hết. Như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị từng viết trong tông-thư Đời sống Phúc Âm có bảo rằng: Cả vào khi không do động cơ ích-kỷ thúc đẩy vì phải chịu gánh nặng sự sống của người khác đang đau đớn đi nữa, phải gọi an-tử là lòng xót thương tầm bậy và đích thực là lòng thương người một cách méo mó gây bất an.

 Sự “khoan-dung” đích-thực đưa ta đến việc sẻ san cơn đau của người khác; nó không giết chết người đang đau mà ta không thể chịu nổi. Hơn nữa, hành-động trợ-tử hay an-tử hiện rõ bên ngoài càng quái ác hơn nếu nó lại do những người như thế thực-hiện, chí ít là bà con, thân thuộc là những người đáng lẽ phải cư xử với người trong gia đình bằng sự kiên-nhẫn và tình thương yêu, hoặc từ những người như bác sĩ/y tá là những người theo định nghĩa phải là những người chăm sóc người bệnh cả vào giai-đoạn đau đớn đi đến chỗ chết.(X. Tông thư Đời sống Phúc Âm đoạn 66)

Thứ sáu là, các chuyên gia y-tế được huấn luyện để chữa lành và cứu sống người bệnh, chứ không phải giúp họ mau đi đến chỗ chết. Lời thể Hippôcrát ở thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm trước Công nguyên, mà các y- sĩ/bác sĩ buộc phải tuyên hứa có ghi như sau: “Tôi nguyện sẽ sử-dụng việc chữa-trị để giúp đỡ người bệnh thể theo khả năng và suy-xét của tôi, nhưng tôi không bao giờ có lập trường làm thương-tổn và hành-xử sai trái bao giờ hết.”

 Và lời cuối cùng thường là lời khuyên ngắn gọn bảo rằng: “Trước tiên, không bao giờ được làm hại ai hết.” An-tử gây tại hại lớn lao đến chết người. Nó dẫn đưa y sĩ và bác sĩ đi ngược lại những gì đi ngược lại mục tiêu mà họ nhắm đến.

 Ta không nên trông chờ các bác sĩ sử-dụng kỹ năng của họ để chấm dứt sự sống của bệnh nhân mà họ đang chữ trị. Nói chung, ta phải làm bất cứ thứ gì để chống-cự lại việc hợp-thức-hoá hành động tự sát có trợ giúp.” (X. Lm John Flader, Euthanasia is atrocious: let me count the ways, The Catholic Weekly 29/10/2017, Question Tỉme tr. 29)

Nói cho cùng, là người đi Đạo chỉ quan-tâm đến việc thương yêu giúp đỡ hết mọi người, dù họ đang trong tình trạng đau yếu, bệnh tật hoặc mạnh khoẻ. Bằng không đi Đạo, chỉ là đi đứng mà không theo Đạo làm người biết yêu thương, giùm giúp một ai hết.

Nói cho cùng, an-tử hay trợ-tử phải là vấn đề đặt ra cho ta và cho người suốt mọi thời, ở mọi nơi, mới được. Để có được một quyết tâm sống chính-đáng cho phải phép, với mọi người, có lẽ cũng nên quay về với lời khuyên từ bậc thánh-hiền trong Đạo, khi xưa vẫn bảo:

“Anh em hãy gớm ghét điều dữ,

tha thiết với điều lành;

thương mến nhau với tình huynh đệ,

coi người khác trọng hơn mình;

nhiệt thành, không trễ nải;

lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.

Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rôma 12: 10-13)                    

 Xem thế thì, nay đề nghị với bạn và với tôi, ta cùng nhau thực hiện ý-hướng ở trên qua lời lẽ gặp được trong ca-từ đầy “chết chóc” mà người xưa từng hát:

 “Không, anh không, anh không chết đâu em,

anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua!
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ.
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân.
Giọt nước mắt nóng bây giờ

và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Nước mắt nóng, hay nến vàng hắt hiu niềm nhớ, không là “nỗi chết: của ai đó, nhưng sẽ là lời cảnh tỉnh từ ca, nhạc sĩ vẫn gửi đến với tôi và với bạn, để sống hùng sống mạnh, sống đẹp đẽ trong đời người đầy chết chóc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những tự nhủ như thế

suốt chuỗi ngày còn lại

trong đời mình. 

Lại xuất hiện biệt thự lộng lẫy của quan chức tại TP.HCM

Lại xuất hiện biệt thự lộng lẫy của quan chức tại TP.HCM

 

Nhiều năm trở lại đây, câu chuyện quan chức hoặc các cán bộ công chức nhà nước có lối sống xa hoa, ở biệt thự to, đi xe sang, đeo đồng hồ đắt tiền… luôn được dư luận đặt ra nhiều nghi vấn về nguồn gốc của những khối tài sản lớn đó. Việc cán bộ công chức giàu có, thành đạt về mặt kinh tế, tài chính sẽ là điều đáng vui cho đất nước, nếu như nguồn gốc của những tài sản đó là minh bạch và xuất phát từ tài năng, nỗ lực của chính họ trong cuộc sống.

Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước còn nhiều thách thức phần lớn đời sống nhân dân còn khó khăn thì sự tương phản trong lối sống xa hoa của một số bộ phận quan chức nhà nước, không chỉ tạo nên sự phản cảm lớn mà còn là nguồn cơn của những bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân.

Và biệt thự lộng lẫy được cho là của gia đình ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý kinh doanh nhà TPHCM, là trường hợp điển hình cho lối sống xa hoa này.

Đây là một trong những những căn biệt thự to đẹp nhất, tại khu vực trung tâm hành chính mới thành lập của quận 2 TP.HCM. Theo tìm hiểu căn biệt thư này tọa lạc tại số 30, đường Bát Nàn – Phường Thạnh Mỹ Lợi – Quận 2 – TP Hồ Chí Minh, sát cạnh ngay khu đô thị mới đảo Kim Cương – một trong những lô đất vàng hấp dẫn nhất trong thế giới bất động sản TP.

Biệt thự nằm sát cạnh ngay khu đô thị mới đảo Kim Cương – một trong những lô đất vàng hấp dẫn nhất trong thế giới bất động sản TP.

Có thể thấy căn biệt thự này được chủ nhân rất chăm chút, toàn bộ nguyên vật liệu xây dựng đều toàn là những vật liệu có giá trị đắt đỏ trên thị trường. Đặc biệt ngay sát cạnh căn biệt thự này là khu vườn rau sạch được ông chủ căn biệt thự làm riêng để phục vụ cho gia đình.

Theo nhận định của nhiều chuyên gia bất động sản, hiện trị giá của căn biệt thự to lớn và miếng đất đang được dùng để trồng rau ngay bên cạnh này phải lên đến hàng trăm tỷ đồng.

Đều đặn mỗi sáng ông chủ căn biệt thự này đến cơ quan làm việc trên chiếc xe sang trọng và có tài xế riêng đưa đón. Ngay cả những người thạo tin cũng không biết nhiều về hoạt động của ông, khi tra cứu thông tin trên các trang tin của Sở Nội vụ thành phố cũng như Thành Ủy, UBDN TP thông tin về nhân vật này rất hạn chế.

Dân nghèo vì nuôi cán bộ.

Có chăng chỉ là những quyết định thông tin bổ nhiệm, điều động công. Ngày 11/03/2016 Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong đã ký quyết định số 42/QĐ/UBNDTC về tiếp nhận và bổ nhiệm ông  Nguyễn Quốc Hùng giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý kinh doanh nhà TPHCM, thời gian giữa chức vụ cho đến khi nghỉ hưu.