Dân bức xúc về BOT đã lâu, Đại biểu Quốc hội đã làm gì?

From:  Trần Bang
 

Dân bức xúc về BOT đã lâu, Đại biểu Quốc hội đã làm gì?

Trao đổi với BBC Tiếng Việt hôm 06/12/2017 về câu chuyện liên quan tới các dự án BOT đang gây ra tranh luận và bức xúc trong công luận, PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách, Luật pháp và Phát triển (PLD) từ Hà Nội nói:

“Về vai trò giám sát của Quốc hội hay các đoàn đại biểu của Quốc hội ở các tỉnh, một lôgíc thông thường thôi là Quốc hội thực hiện các giám sát và giám sát chuyên đề rất nhiều năm nay, nhưng có một tình trạng, nếu chúng ta đọc các báo cáo giám sát, thì chúng ta thấy những kết luận trong báo cáo giám sát rất là chung chung, rất né tránh, sợ đụng chạm.”

Và ông Hoàng Ngọc Giao đưa ra giải thích:
“Điều đó rất dễ hiểu vì mấy lý do. Lý do thứ nhất, Đại biểu Quốc hội không phải là đại biểu chuyên trách; tính chuyên môn, tính chuyên gia của Đại biểu Quốc hội trong các lĩnh vực cụ thể cũng không có.

“Thứ ba, bản thân rất nhiều Đại biểu Quốc hội hiện nay là ở một vị thế xin phép dùng từ là ‘vừa đá bóng, vừa thổi còi’, tức là anh vừa làm bên hành pháp, vừa làm bên ủy ban và đồng thời anh lại nằm trong đoàn đại biểu Quốc hội.

“Do đó cho nên tiếng nói của các vị đại biểu vừa làm bên hành pháp, vừa làm bên Quốc hội, rất khoát là nó yếu ớt, nếu như không nói là ngại va chạm, sợ đụng độ và do đó chất lượng giám sát của Quốc hội chưa đáp ứng được yêu cầu.

“Như vậy, dù có nhiều đoàn giám sát chăng nữa, thì nhiều hiện tượng bất cập về kinh tế, xã hội cho đến nay không được phát hiện kịp thời, mà nếu có phát hiện kịp thời thì những kết luận giám sát đó cũng chưa có tác dụng gì nhiều trong việc giải quyết những bất cập về kinh tế, xã hội phát sinh trong xã hội chúng ta [Việt Nam],” PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao nói với BBC hôm thứ Tư.

Image may contain: 1 person

Tài xế lại dùng tiền lẻ trả phí ở BOT Biên Hòa

Tài xế lại dùng tiền lẻ trả phí ở BOT Biên Hòa

RFA
2017-12-07
 
Các tài xế trả tiền xu khi qua BOT Biên Hoà

Các tài xế trả tiền xu khi qua BOT Biên Hoà

 Courtesy vietnammoi.vn
 

Tại trạm thu phí BOT Biên Hoà vào sáng ngày 7 tháng 12 xảy ra tình trạng các tài xế tiếp tục dùng tiền lẻ mệnh giá 200 đồng và 500 đồng để trả 40.100 đồng phí qua trạm. Tuy nhiên tình trạng ùn tắt giao thông đã không xảy ra và trạm này không phải xả trạm như BOT Cai Lậy.

Lý do được báo chí cho biết là nhân viên BOT Biên Hoà đã chuẩn bị sẵn tiền 100 đồng để thối lại.

Đây là dự án BOT tuyến tránh Biên Hoà còn gọi là đường Võ Nguyên Giáp và nâng cấp cải tạo quốc lộ 1. Nhưng trạm thu phí lại đặt ở quốc lộ 1A.  Vào tháng 9 và tháng 10 năm nay, các tài xế đã từng dùng tiền lẻ để mua vé qua trạm để phản đối BOT đặt sai vị trí,  khiến cho giao thông bị ùn tắc trên quốc lộ 1.

Một sự việc khác liên quan đến điểm nóng BOT Cai Lậy vừa qua là việc người phụ nữ mang nước với khăn lạnh để tiếp sức cho các tài xế và người dân trong 4 ngày căng thẳng tại trạm thu phí này nhận giấy mời làm việc với Công an huyện Cai Lậy vào chiều 7 tháng 12.

Đó là bà Nguyễn Thị Mỹ Tỉnh, 49 tuổi, ngụ tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, chủ quán có tên Bà Tám BOT Cai Lậy. Quán của bà Mỹ Tỉnh là nơi các tài xế ghé uống nước, nghỉ ngơi trong thời điểm BOT Cai Lậy phải xả – đóng trạm nhiều lần do mọi người phản đối trạm này đặt sai vị trí.

Trong lần trả lời RFA, bà Mỹ Tỉnh có nói rằng bà và người dân xung quanh trạm ủng hộ các tài xế yêu cầu di dời BOT về đúng tuyến tránh để tránh tình trạng ùn tắt giao thông. Theo bà, đường này là đường huyết mạch của ông cha ta từ xưa để lại. BOT Cai Lậy chỉ mượn mặt bằng rồi tráng nhựa lên để thu gom tiền. Những người không qua tuyến đường tránh vẫn phải trả phí.

Khi chúng tôi liên lạc với  bà Mỹ Tỉnh vào chiều ngày 7 tháng 12 thì được biết bà vẫn chưa về.

Hình ảnh Hồ Chí Minh và những biểu ngữ tuyên truyền cộng sản trong những cuộc biểu tình dân sinh

Kính Hòa RFA
2017-12-06
Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2014, với hình ảnh ông Hồ Chí Minh.

Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2014, với hình ảnh ông Hồ Chí Minh.

 AFP
 

Sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh dừng việc thu phí tại Cai Lậy trong vòng 1 đến 2 tháng, nhiều người dân đã ăn mừng với những hình ảnh ông Hồ Chí Minh và những bài hát ca ngợi ông cũng như ca ngợi Đảng Cộng sản.

Sự việc tương tự cũng hay được nhận thấy trong các đoàn biểu tình đòi đất của nông dân, hay của những người dân đô thị chống Trung Quốc.

Thói quen và tuyên truyền

Việc đem ảnh ông Hồ Chí Minh ra trưng bày, kèm theo quốc kỳ Việt Nam, có khi cả cờ Đảng cộng sản nữa, được một số ý kiến cho là một thói quen của nước Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản cai trị cho đến nay. Một trong những ý kiến đó là của Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội sống ở Hà Nội.

Họ đã quen với cái cách ăn mừng như thế rồi, 40 chục năm qua họ được dạy dỗ rằng khi vui thì làm như vậy, và nó gần như là một chuyện nghi thức, không có nhiều ý nghĩa lắm. Câu hát ấy nó có nghĩa gì không? Nó thuần túy là chuyện thói quen.”

Những hình ảnh này người ta cũng dễ dàng nhìn thấy ở các đám đông ăn mừng trên các đường phố Sài Gòn hay Hà Nội, mỗi khi đội tuyển bóng đá Việt Nam thắng một trận nào đó.

Người ta hiểu, và đó là một cách để người ta bảo vệ chính người ta, trong một cuộc thực sự là sống mái.
-Tiến sĩ Nguyễn Quang A.

Bà Bùi Thị Minh Hằng, một cựu tù nhân chính trị, từng tham gia vào nhiều cuộc biểu tình đòi đất của nông dân, lại cho rằng những hình ảnh đó được nhiều người dân Việt Nam coi trọng thực sự chứ không phải hoàn toàn là hình thức:

“Con người, nhất là người Việt Nam mình có tư duy bị ăn vào quá sâu, thì rất là khó trong một ngày một giờ. Trong cái đất nước Việt Nam này, dưới chế độ cộng sản thì toàn bộ lịch sử bị bưng bít, những sự thật bị xuyên tạc. Từ chổ đó hình ảnh ông Hồ được phong thánh trong lòng người dân rồi. Không phải chỉ có những chổ ấy đâu, mình lên đền lên chùa thấy họ để ảnh họ thờ. Sự thật là như vậy.”

Theo thống kê dân số mới nhất hiện nay thì tổng số dân Việt Nam hơn gấp đôi tổng số dân Việt Nam cả hai miền Nam Bắc vào năm 1975 khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, tức là có hơn phân nửa người Việt Nam sinh ra sau năm 1975 trên cả nước, cộng với số người ở miền Bắc sinh ra sau năm 1954 khi đảng cộng sản lên cầm quyền, thì có thể nói rằng số người Việt Nam sinh ra và lớn lên dưới chế độ hiện nay rất lớn. Những người này được học hành và tuyên truyền hoàn toàn bởi bộ máy của nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Cái vỏ bảo vệ

Tuy nhiên Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng cho rằng trong những cuộc đấu tranh cho dân sinh, như là đòi đất, chống trạm thu phí lạm thu, bảo vệ môi trường, nhiều người cũng hiểu là những hình ảnh và biểu ngữ theo kiểu tuyên truyền của chế độ không có liên quan gì đến việc họ đang làm:

Họ hiểu những nội dung đó chứ không phải không. Họ trương cái nội dung đảng thế này đảng thế nọ, người ta hiểu, và đó là một cách để người ta bảo vệ chính người ta, trong một cuộc thực sự là sống mái, bởi vì nếu người ta dùng những lời lẽ nặng nề khác chẳng hạn, thì có thể bị đàn áp, hoặc qui là thế này thế kia.”

Một nhà quan sát từ nước ngoài là ông Nguyễn Đình Hùng, Chủ tịch phong trào Lao động Việt cũng đồng ý với Tiến sĩ Nguyễn Quang A. Ông trả lời chúng tôi từ Úc, sau khi xem những hình ảnh ăn mừng của giới lái xe trong sự kiện BOT Cai Lậy:

Những người dân của mình đang vẫn còn ở trong cái vòng gọi là đàn áp. Họ không có điểm tựa nào khác hết. Thay vì dựa vào nhau, đoàn kết nhau, thì họ dùng đó như một tấm chắn để bảo vệ cho họ thôi. Những tấm chắn này không bảo vệ được họ lâu dài bằng lòng người, bởi sự đoàn kết của con người với nhau.

Họ không hiểu, họ vẫn nghĩ rằng Đảng tốt đẹp, Đảng quang vinh, Đảng không tham nhũng, cấp trên không tham nhũng mà chỉ có cấp dưới thôi.
-Anh Trịnh Bá Phương.

Cũng có ý kiến cho là khi những người nông dân đòi đất kèm với những biểu ngữ, hình ảnh ca ngợi những lãnh tụ cộng sản, cờ đảng, là có suy nghĩ rằng với những hình ảnh đó họ sẽ dễ dàng được hồi đáp từ các cấp chính quyền hơn. Anh Trịnh Bá Phương, một nông dân hay tham gia vào những cuộc biểu tình đòi đất cho biết:

“Họ không hiểu, họ vẫn nghĩ rằng Đảng tốt đẹp, Đảng quang vinh, Đảng không tham nhũng, cấp trên không tham nhũng mà chỉ có cấp dưới thôi, có những người cũng hiểu được nguyên nhân sâu xa, họ sử dụng những hình ảnh đó để tránh bị đàn áp, nhưng mà thời gian qua đã có quá nhiều người bị đàn áp rồi. Có đeo đầy huy chương, mặc áo lính, áo quân đội thì cũng bị bắt về đồn công an, vẫn bị cướp đoạt tài sản đất đai.”

Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, trong một đám đông ở Việt Nam đang biểu tình, có thể bao gồm đến ba nhóm người. Nhóm thứ nhất là tung hô những biểu ngữ, hát những bài hát tuyên truyền của đảng theo thói quen. Nhóm thứ hai là những người hiểu rõ họ đang làm gì và dùng các biểu ngữ đó để bảo vệ mình. Nhóm thứ ba là những người vẫn tin tưởng ở đảng cộng sản.

Theo ông tỉ lệ những nhóm người này trong một cuộc biểu tình có thể thay đổi theo sự việc cụ thể mà họ đang biểu tình, ông lấy ví dụ là trong những người biểu tình đòi đất ở Đồng Tâm, ngoại thành Hà Nội, đã từng bắt giữ hàng chục nhân viên công an làm con tin, thì những người ở nhóm thứ ba rất ít.

Trở lại với cuộc khủng hoảng Cai Lậy, anh Trịnh Bá Phương cho rằng có thể những biểu ngữ ca ngợi đảng, hình ảnh ông Hồ Chí Minh là được những nhóm người của nhà nước đưa ra:

Có giả thiết cho rằng là một số người thuộc lực lượng dư luận viên, an ninh chìm nổi cài cắm trong những người có mặt ở Cai Lậy, họ muốn sử dung luôn cái cơ hội đó, hát cái bài đó, họ muốn tuyên truyền nhồi sọ người dân. Bởi vì hiện nay Đảng đang mất lòng dân quá rồi, lực lượng phản tuyên truyền họ đang cài cắm khắp nơi để tiếp tục lòe bịp nhân dân.

Dư luận viên là tên gọi chỉ những người thường xuyên lên tiếng ủng hộ những chính sách hay hành động của đảng cộng sản. Có ý kiến cho rằng những người này lĩnh lương của Đảng Cộng sản để làm việc tuyên truyền, nhưng một số người được cho là Dư luận viên phủ nhận điều này.

Một lái xe có tham gia vào việc phản kháng ở Cai Lậy là anh Đỗ Coca cho biết nhận xét của anh về những hình ảnh vui mừng với các biểu ngữ của đảng:

“Các bạn làm cái ngày hôm đó ý nghĩa ra sao mình cũng không hiểu. Cái việc đem ảnh Bác Hồ ra trong “trận chiến” BOT Cai Lậy nó không thực tế. Có cái gì ghê gớm đâu mà như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng.”

Khi được hỏi là có phải những người biểu tình đưa hình ảnh ông Hồ Chí Minh, hay những khẩu hiệu ca ngợi đảng ra để tránh bị đàn áp, thì anh trả lời rằng anh biểu tình một cách ôn hòa, không vi phạm pháp luật thì không có việc gì phải sợ đàn áp.

Nói về những người hay trưng hình ảnh ông Hồ Chí Minh, hay những biểu ngữ ủng hộ Đảng Cộng sản trong những cuộc biểu tình đòi dân sinh, Bà Bùi Thị Minh Hằng cho biết:

Mình không nên lên án. Cá nhân mình phản đối những ai lên án cái việc đó. Hãy nhìn vào việc làm. Những tài xế và những người dân đã khá thành công trong việc đòi hỏi quyền lợi sát sườn của họ.”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A thì nói rằng nếu nhìn từ bên ngoài Việt Nam có thể sẽ có nhận định rằng người dân Việt Nam chịu ảnh hưởng quá lâu của sự tuyên truyền cộng sản, nhưng theo ông “phải sống trong nước Việt Nam thì mới hiểu rõ những khó khăn của những cuộc biểu tình đòi dân sinh đó như thế nào.”

SỬA ĐƯỜNG NỘI TÂM

SỬA ĐƯỜNG NỘI TÂM

Thư HĐGMVN 2006 đã khẳng định: “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em”.

Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt Gioan Tiền hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa, rất gần gũi với con người.  Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ông công bố.  Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.  Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước.  Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô.  Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19).  Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.  Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú.  Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống.  Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5).  Gioan mời dân chúng sám hối.  Không thể tiếp tục sống như xưa nữa.  Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.  Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.  Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.  Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc.  Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn.  Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa.  Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng.  Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả.  Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.  Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh.  Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời.  Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành U-rơ để sang đất hứa.  Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài.  Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường.  Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa.  Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem.  Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa.  Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.

Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng.  Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ.  Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu.  Sửa đường theo Gioan là sám hối.  Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có.  Những gì cong queo san cho thẳng.  Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa.  Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp.  Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng.  Con đường nội tâm của mọi người.  Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế.  Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý.  Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến.  Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách.  Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất.  Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người.  Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng.  Như con đường cho Chúa đi qua.  Như căn nhà cho Chúa ngự tới.  Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào.  Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có sự đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu.  Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì.  Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác.  Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.  Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về.  Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn.  Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ.  Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh.  Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát…  Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn.  Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông.  Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý.  Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn.  Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú.  Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân.  Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân.  Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức.  Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan.  Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người.  Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

Điểm mặt phái đoàn XHDS quốc doanh tại Hội Nghị XHDS/Diễn Đàn Người Dân ASEAN

Điểm mặt phái đoàn XHDS quốc doanh tại Hội Nghị XHDS/Diễn Đàn Người Dân ASEAN

Xem kết quả: / 1 
Bình thườngTuyệt vời 

Mỹ Hạnh Nguyễn

Ngày 06 tháng 12, 2017

Trong nhiều năm trước đây, phái đoàn xã hội dân sự (XHDS) quốc doanh (GONGO, hay Government-Organized Non-Governmental Organization) đã hoàn toàn lũng đoạn các hội nghị quốc tế và trong khu vực bằng cách loại bỏ các tổ chức XHDS độc lập ra khỏi cái gọi là “quy trình quốc gia” (national process) và cử đi thành viên một số tổ chức quốc doanh hoặc chịu sự chi phối và chỉ đạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam với nhiệm vụ “chào hàng” với thế giới bên ngoài bằng một bộ mặt “Việt Nam không hề có vấn đề về nhân quyền; các tổ chức XHDS vẫn hoạt động tự do công khai và nhận được sự hỗ trợ giúp đỡ của nhà nước, …”. Dẫn lời chính những “người trong cuộc” này tuyên bố với chúng tôi, “Chúng em sang đây chỉ là để kết nối và xin cấp khoản thôi. Chuyện nhân quyền gì đó chúng em không biết đâu.” Các “đại diện” của XHDS do nhà nước Việt nam gửi đi hình như đã đi lộn diễn đàn khi họ tuyên bố “Chúng em sang đây chỉ là để kết nối và xin cấp khoản thôi. Chuyện nhân quyền gì đó chúng em không biết đâu.” Trong khi chủ đề lớn của hội nghị là nhân quyền và đi đến đâu cũng nhìn thấy các biểu ngữ, hình ảnh về nhân quyền.

 

Tại hội nghị đi đến đâu cũng nhìn thấy các biểu ngữ, hình ảnh về nhân quyền (ảnh BPSOS)

Các thành viên của những tổ chức này luôn được đi kèm bằng một lực lượng an ninh và một số nhân vật lãnh đạo thuần túy “hồng hơn chuyên”, trình độ ngoại ngữ chỉ vỏ vẽ nhưng thường hay được chính thức đại diện cho Việt Nam ngồi vào vị trí của ban tổ chức. Do đó họ đã có thể làm chủ tình hình, lũng đoạn nghị trình các cuộc hội nghị và loại bỏ những thành phần tham dự hoặc chủ đề mà họ cho là gây hại đến uy tín của chính phủ Việt nam cũng như tính chính danh của các tổ chức XHDS “cuội”.

Trong vòng 3 năm trở lại đây họ đã tức tối vì bị lâm vào tình thế khó xử khi bất ngờ có sự hiện diện của một vài tổ chức XHDS độc lập và các cộng đồng tôn giáo tại Hội Nghị XHDS/Diễn Đàn Người Dân ASEAN. Sự có mặt của những anh chị em này đã góp phần vạch trần nỗ lực cố tô son trét phấn cho chế độ độc tài và lột bỏ mặt nạ của những kẻ mạo danh XHDS nhưng lại chỉ lo cho quyền lợi cũng như làm lộ diện lực lượng bảo vệ đảng luôn điên cuồng bằng mọi giá, bằng mọi thủ đoạn cố che đậy, bào chữa cho nhà cầm quyền ngay tại một hội nghị được tổ chức nhằm mục tiêu tạo một diễn đàn để các tổ chức XHDS và người dân có cơ hội lên tiếng về các vấn đề xã hội nhằm cân bằng cán cân quyền lực giữa chính quyền và công dân.

 

Phái đoàn XHDS quốc doanh đã cương quyết phản đối đưa điều này vào bản tuyên bố chung của Hội Nghị (ảnh BPSOS)

Càng dở ra nhiều chiêu trò thì họ lại càng “vạch áo cho người xem lưng”. Càng lớn giọng biện bạch cho chế độ, càng tìm thủ đoạn hèn hạ để ngăn chặn tiếng nói của những người công chính thì thế giới bên ngoài lại càng hiểu thêm về thảm trạng nhân quyền và sự đàn áp khốc liệt đối với các tổ chức XHDS thực sự.

Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, họ giận dữ căm tức cũng phải thôi vì tiếng nói của những người công chính đã làm ảnh hưởng đến miếng ăn của họ. Cho dù là an ninh được gửi đi làm nhiệm vụ giám sát hay thành viên của các tổ chức GONGOs thì mục tiêu tối thượng của họ chỉ là miếng cơm manh áo đi xin được từ những hội nghị quốc tế và khu vực. Khi họ đang cố tô điểm cho chế độ, cố vẽ ra bức tranh xã hội ổn định để tìm các mối quan hệ ngoại giao với những tổ chức phi chính phủ nước ngoài có ngân quỹ hỗ trợ có thể giúp duy trì chế độ độc tài đang cạn kiệt nguồn tài chính và nuôi sống chính họ và gia đình thì vạch mặt chỉ tên những kẻ vi phạm, nêu ra những vấn nạn hơn 80 triệu người dân trong nước đang ngày đêm phải gánh chịu thì chẳng khác nào đá đổ nồi cơm của họ. “Đồng tiền liền khúc ruột”, ông bà ta bảo vậy.

Hãy điểm mặt hai gương mặt tiêu biểu của phái đoàn XHDS quốc doanh. Chuyên môn công tác của họ là đi tìm các nguồn viện trợ từ nước ngoài.

1) Phan Anh Sơn: người đại diện cho Việt Nam trong ủy ban tổ chức Hội Nghị XHDS/Diễn Đàn Người Dân ASEAN. Theo thông tin từ trang mạng của “ỦY BAN CÔNG TÁC VỀ CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ NƯỚC NGOÀI” thì ông Phan Anh Sơn là Ủy viên Ban Thường vụ Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Trưởng ban Ban Điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM), Viện trưởng Viện nghiên cứu quốc tế và Đối ngoại nhân dân thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và đã từng được nhận bằng khen của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh.

Ông Phan Anh Sơn, đứng bên phải trong hình, đang nhận bằng khen của bộ trưởng Bộ Ngoại Giao

 

Thông tin của ông Phan Anh Sơn trên trang mạng của Liên Hiệp Các Tổ Chức Hữu Nghị Việt Nam: http://vufo.org.vn

2) Bùi Bá Bình: người có tên trong ủy ban soạn thảo tuyên bố chung (Drafting Committee) của hội nghị. Ông Bình là Phó Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Hỗ Trợ Chương Trình, Dự Án An Sinh Xã Hội Việt Nam (AFV).

Theo thông tin được đăng tải trên trang mạng này thì “Quỹ hỗ trợ chương trình dự án, an sinh xã hội Việt Nam (AFV) là Quỹ xã hội hoạt động phi lợi nhuận nhằm thực hiện hỗ trợ các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cộng đồng và tài trợ, hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn theo quy định của pháp luật.
Quỹ được hình thành từ nguồn vốn đóng góp ban đầu của các thành viên sáng lập, góp tài sản thành lập và tự tạo vốn trên cơ sở vận động tài trợ, ủng hộ tự nguyện của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều lệ Quỹ.” (hết trích)

 

Thông tin về ông Bùi Bá Bình trên trang mạng AFV

Chắc là nguồn tài trợ nhận được rất phong phú nên trong một Youtube video thấy quỹ báo cáo đã ủng hộ tủ lạnh cho các em học sinh đồng bào thiểu số ở miền núi tỉnh Cao Bằng. Không nghe nói chính quyền tỉnh có ưu tiên dẫn điện về cho các em dùng tủ lạnh hoặc là quỹ có sẵn đó tài trợ luôn máy phát điện hay không. Cũng không rõ bên các nhà tài trợ (chắc là nước ngoài) có nêu thắc mắc về tính thực tế của việc tặng tủ lạnh cho các trẻ em người sắc tộc ở vùng sâu vùng xa hay không.

Hai nhân vật này đã dùng ảnh hưởng của mình để kiên quyết phản đối việc nêu đích danh chính phủ Việt nam và các vi phạm về nhân quyền tại hội nghị nhưng trớ trêu thay trong vai trò đại diện chính thức của Việt Nam, ông Sơn đã không thể từ chối đứng dưới các biểu ngữ cổ súy cho quyền con người. Thật mỉa mai, trong khi ông Sơn cùng đồng bọn luôn cố gạt bỏ các tổ chức XHDS độc lập ở Việt Nam ra khỏi hội nghị này thì chính ông lại bị ban tổ chức giao cho cầm tấm biểu ngữ: “ASEAN: hãy liên hiệp với người dân trước”.

 

Ông Phan Anh Sơn, mặc áo trắng đứng thứ ba từ bên phải trong hình, với tấm biểu ngữ “Hãy liên hiệp với người dân trước”

Chính ông Phan Anh Sơn đã phải trân mình ngồi vào vị trí đại diện Việt Nam cùng với đại biểu của các quốc gia ASEAN trong cuộc họp báo công bố chính thức các khuyến nghị do hội nghị đưa ra cho chính phủ các nước ASEAN. Trong đó có các điều như: “Tôn trọng nhân quyền và pháp quyền”, “Thực thi các luật và chính sách quốc tế tuân thủ những tiêu chuẩn về nhân quyền, luật lao động, và luật tị nạn, “Mở rộng không gian cho sự tham gia của người dân”, ….

 

Ông Phan Anh Sơn, mặc áo trắng ngồi thứ ba từ bên phải trong hình (ảnh trên trang FB của ACSC/APF)

Thiết nghĩ cho dù các kẻ thừa sai có cố gắng che đậy, có dùng mánh khóe chiêu trò gì để mong bảo vệ cho chế độ độc tài toàn trị thì cũng không thể nào cưỡng lại trào lưu của thế kỷ khi mà “nhân quyền” đang dần trở thành tiếng nói chung của nhân loại tiến bộ. Tự bọn họ đang phải đón nhận những ánh nhìn khinh bỉ, những lời phản bác mạnh mẽ của thành viên các tổ chức XHDS thực sự ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Thật là đáng tội nghiệp cho họ.

Chiến thắng của bên thứ ba?!

From:   Trần Bang
Chiến thắng của bên thứ ba?!

Hàng loạt dự án BOT giao thông sẽ bị kiểm toán vào năm 2018, theo kế hoạch vừa được Kiểm toán Nhà nước công bố hôm 5/12, một ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh tạm ngừng thu phí ở trạm BOT Cai Lậy vì cuộc “biểu tình” bằng tiền lẻ của các tài xế.

Bên thứ ba đang cầm lái?

Những ngày qua, cuộc chiến ở BOT Cai Lậy có vẻ như đã trở thành cuộc chiến chung khi những tin tức về vụ này được cập nhật và chia sẻ chóng mặt trên cả truyền thông chính thống lẫn mạng xã hội. Đọc bình luận của người dân, ai cũng có thể hiểu họ đang ủng hộ và đứng về phía nào.

Luật sư Phạm Công Út, Đoàn Luật sư TPHCM, cho rằng cuộc chiến này nhận được sự ủng hộ của công chúng một phần còn là vì cách đấu tranh rất “dí dỏm” và “sáng tạo” của các anh tài xế “lầy”.

“Người dân miền Tây Nam Bộ thứ nhất là người khí khái, thứ hai họ cũng có những cái láu cá của họ. Khi gặp những sự cố này, họ cũng có cách để họ tồn tại được. Ở đây, người ta dùng từ mới gọi họ là những tài xế ‘lầy’, nhưng ‘lầy’ dễ thương vì cách cư xử không gay gắt nhưng lại khiến phía bên kia lúng túng. Với cách xử lý rất linh hoạt, dí dỏm, hiệu quả của mấy anh nông dân Hai Lúa này thì không một thế lực cường quyền, thế lực tài phiệt nào có thể bóp chết được họ”.

Người dân là một bên thứ ba trong hợp đồng của bất kỳ dự án BOT nào vì họ là người chi trả trực tiếp khoản phí đấy, nhưng họ lại bị loại ra ngoài.
TS. Nguyễn Quang A
…. Trích nguồn https://www.voatiengviet.com/a/viet-nam-kiem-t…/4150128.html

“Tâm sự của một dư luận viên” nhé !

Nguồn:   Trần Bang

06.12.2017
Một bạn dư luận viên vừa mới inbox gửi đường link này cho Hồng Ly và nhờ chia sẻ. Mời cả nhà cùng đọc “Tâm sự của một dư luận viên” nhé !
————–
Trước tiên, tôi xin khẳng định với các bạn, tôi là một con người. Một con người bình thường về đầu óc, có học thức và tương đối thành đạt trong cuộc sống. Vậy tại sao tôi lại tự xỉ vả mình là “con vật”? Xin các bạn đọc tiếp để biết căn nguyên.

Tôi viết những dòng này chia sẻ với đọc giả sau một đêm trằn trọc suy tư về nhân tình thế thái. Số là sáng nay tôi có việc phải đến nhà riêng của cấp trên-Bí thư tỉnh X. Tỉnh tôi là một tỉnh nghèo nhưng tư gia của sếp không hề thua kém những tư gia của các đại gia hay siêu sao mà báo chí vẫn thường đưa tin. Nếu so với tư gia của vị đồng nghiệp ở Hà Giang vừa bị bãi chức, nó có thể không thua mặc dù nó nằm ở thành phố tất đất tất vàng chứ không phải nơi hẻo lánh.

Tôi xin giới thiệu về mình. Tôi là một thanh niên trẻ vào đảng tầm 10 năm, tốt nghiệp học viện báo chí tuyên truyền, công việc là tuyên giáo. Một nghề mà chỉ có ở những nước XHCN mới có. Tuy là công việc đặc thù nhưng hiện nay, chúng tôi là những đứa con cưng của đảng. Các bạn đọc bài báo “Xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn 2020″, để thấy công tác tuyên giáo được đảng trọng dụng thế nào. Một tỉnh nghèo và thưa dân như Lào Cai mà cần đến 3.000 người làm công tác tuyên giáo chuyên nghiệp-chưa kể số lượng cộng tác viên-ở cấp xã đã có từ 8-13 tuyên giáo. Tôi tính trung bình mỗi tuyên giáo nhận lương 5 triệu/tháng thì cái tỉnh nghèo này mỗi tháng mất 15 tỷ, mỗi năm tốn 180 tỷ (nếu nhân ra cả nước sẽ có con số khủng khiếp-11.520 tỷ-đây chỉ là con số nhỏ nhất vì cơ số lấy từ tỉnh nghèo nhất). Tôi nghĩ chắc có lẽ tiền thuế thu mỗi năm ở tỉnh này đủ dùng để nuôi đội quân tuyên giáo là cùng.

Hiện nay lương của tôi gấp đôi số lương bình quân trên (tầm 10tr/tháng), công việc thường ngày của tôi là đọc các bài viết trên các blog lề trái để tìm ra xu hướng dư luận, tổng hợp tin tức báo cáo lãnh đạo. Nghiên cứu các bài viết thật kỹ để tìm ra sơ hở rồi nhằm vào đó mà đánh phá, gây nghi kỵ, bôi nhọ uy tín tác giả. Thỉnh thoảng tôi đi gặp một số nhân vật được cho là hoạt động dân chủ trên địa bàn mình đảm trách để nắm được gia cảnh cũng như tâm tư của họ. Công việc nhàn hạ, lương cao và nhiều cơ hội kiếm thêm nhờ biết thông tin các dự án sắp được chính quyền thực hiện. Nếu tôi bằng lòng với cuộc sống, lương tâm không cắn rứt thì tôi không viết những dòng này.

Hôm nay, tôi thấy mình không còn là con người, mà là một con chó không hơn không kém. Ngay khi bước chân vào tòa nhà uy nghi của sếp, hai con chó Becgie to giống Đức hung dữ nhào ra như muốn xé xác tôi, may mà có sợi xích quanh cổ nó níu lại. Sếp tôi người trắng núc, la lớn “bi, ngoan nào” và hai con chó ngoan ngoãn quay về chỗ cũ. Tôi hoàn hồn, còn sếp thì như đắc ý điều gì. Ông nói “giống chó dữ tợn vậy nhưng luôn phải nghe lời chủ, người cho nó ăn. Con nào khó trị tao bỏ đói cho biết điều”. Nói rồi hắn ta có vẻ mãn nguyện với uy quyền của mình trong nụ cười đầy thâm ý.

Trao đổi của chúng tôi cũng xoay quanh vấn đề không khí chính trị hiện tại: Chuyện hiến pháp, chuyện Đoàn Văn Vươn, chuyện khủng hoảng kinh tế, chuyện xu hướng của các nhà hoạt động dân chủ,… Phải nói rằng những người cộng sản như sếp tôi rất thực tế và khôn ngoan. Nói cho dân thì khác: yêu nước, ổn định, hy sinh, đảng chỉ có quyền lợi với dân tộc,… nhưng khi nói với nội bộ thì đơn giản là quyền lợi mình và đối phương. Họ biết ai có cùng quyền lợi, ai đang đi cùng thuyền, ai không thể bỏ thuyền được. Quyền lợi luôn là con bài mang ra mặc cả và đánh giá tình hình.

Sau buổi nói chuyện, tôi ra về mà lòng nặng trĩu. Trên đường về hình ảnh những người dân khốn khổ đang cùng nhau đẩy xe gạch, từng tốp công nhân nam nữ đi làm phu hồ đang trên đường về, hàng quán thúng, mẹt của các bà các mẹ buôn bán lấn chiếm lề đường, vỉa vè bẩn thỉu,… đập vào mắt tôi. Tôi thấy mình như một con chó không hơn không kém, con chó được ông chủ nó cho ăn uống tốt để sủa. Sủa để nó vinh thân, sếp nó phì gia trong cảnh dân tình đói rách. Cái đám người khốn khổ kia họ đâu nghe được những lời thực dụng từ người lãnh đạo cao nhất của họ. Hàng ngày họ phải vất vả sớm hôm, nắng cháy cũng như mưa phùn để làm và làm. Họ chỉ có được miếng cơm qua ngày, phần thặng dư thì chảy đều từ chủ công ty đến sếp và một phần là nuôi tôi. Tôi thấy mình khốn nạn quá. Tôi đang nói láo, tôi phải nối dối người dân để có miếng ăn.

Tôi khâm phục những người như nhà báo Đắc Kiên, nhưng tôi không thể làm như anh. Sau lưng tôi còn có gia đình với hai con dại, bố mẹ,… Tôi biết nếu có lên tiếng thì cũng chỉ là người hùng trong giây lát, không giải quyết được vấn đề gì. Anh Kiên là một trong 7.000 nhà báo còn tôi là 1 trong vài trăm ngàn người. Luôn luôn không thiếu người làm công việc tôi làm.

Đảng hiện nay luôn biết nuôi hậu hĩnh những ai và bỏ đói những ai. Những người như chúng tôi luôn có mức lương cao kèm những ưu đãi như mua chung cư (mua có thể ở hoặc cho thuê), rồi đến công an, quân đội. Tôi giật mình xót xa khi biết lương giáo viên, bác sĩ hiện nay thâm niên gần 10 năm chỉ tầm 3,5 triệu, trong khi lương chúng tôi ít nhất là gấp hai lần số đó.

Lãnh đạo đảng luôn thực dụng: Bên ngoài thì nói đạo lý còn bên trong luôn đánh vào quyền lợi, dùng quyền lợi để buộc sự trung thành. Tôi thật sự phát tởm trong các cuộc họp kín nội bộ, lãnh đạo không cần che dấu mà nói toạc ra là chúng tôi phải làm hết mình để giữ vững chế độ vì chỉ có chế độ này mới trọng dụng người như chúng tôi. Nếu chế độ sụp đổ thì nghề tuyên giáo cũng mất, từ sống trong nhung lụa chúng tôi có thể phải đi ăn mày. Còn gì thâm hiểm hơn tình thế này?

Tôi thấy cuộc chiến cho dân chủ không cân sức, một bên nhỏ bé với vài cá nhân dùng tiền túi mình hoặc nếu có được hải ngoại giúp đỡ thì cũng không bao nhiêu vì an ninh luôn chú ý đến chuyện tiền bạc. Họ theo dõi và đánh phá ngay đường dây chuyển tiền. Người cộng sản luôn thực dụng về tiền. Một bên là nắm quyền lực nhà nước, dùng tiền thuế nuôi bộ máy tuyên giáo khổng lồ với ngân sách hàng chục ngàn tỷ như con số tạm tính trên.

Tôi viết ra đây để mọi người hiểu được tình thế mà anh em tuyên giáo chúng tôi mắc phải. Không có sự chọn lựa khác, chúng tôi buộc phải ra sức chống đỡ cật lực con thuyền XHCN vì nếu nó chìm thì chúng tôi cũng chết. Những người như chúng tôi đã nằm vào thế buộc phải im, không thể không nói được.

Những nhà đấu tranh dân chủ ngoài việc tuyên dương lý tưởng cao đẹp: Tự do, dân chủ,… hãy bắt tay tìm kiếm giải pháp nào để dung hòa quyền lợi những người như chúng tôi với sự thay đổi. Con người thấy một cái bè mới tốt hơn thì không ai ngu dại ra sức chống đỡ một chiếc bè sắp chìm.
————
Nguồn :

HOISINHVIENNHANQUYEN.ORG   

Chấm dứt ngay việc tra tấn, đánh đập nghi can và tù nhân!

Nguồn:  Trần Bang added 2 new videos.
 

Chấm dứt ngay việc tra tấn, đánh đập nghi can và tù nhân!

Nguyễn Trung Linh (con ông Nguyễn Trung Tài cũng bị tù cùng vụ) bị án 3 năm 6 tháng tù vì “ chống người thi hành công vụ” trong vụ 13 người chống cưỡng chế nhà đất của họ ở Thạnh Hoá, Long An tháng 4/2015

Linh là người ra tù muộn nhất ( trong 9 người bị tù giam, 4 người tù treo), anh cho biết anh bị cán bộ trại đánh, chích điện… như trong clip trả lời phỏng vấn!

Ông Tài cho biết “ họ đền bù một mét vuông đất nhà ở (đối diện trung tâm thương mại Thạnh Hoá) có 300 ngàn, chưa bằng 1 ngày lương của Trung tá công an (400 ngàn ₫), trong khi đất gần đó giá hơn 20 triệu ₫/m2… chả lẽ nhịn không chống lại, khi họ đến cướp nhà đất của mình?…

Hai bố con ông Tài sau khi ra tù đã không có nhà ở, họ phải đi ở đậu.”

“Việt Nam tham gia công ước chống tra tấn của LHQ
Ngày 7/11/2013 tại trụ sở chính của LHQ ở New York (Mỹ), ông Lê Hoài Trung, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực nước ta tại LHQ, đã thay mặt Chính phủ ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá khác (gọi tắt là Công ước chống tra tấn).

Phó Thủ tướng: Ép cung là trái pháp luật

Đây là văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người, nhằm ngăn ngừa các hành vi tra tấn, đồng thời tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, thúc đẩy xây dựng các cơ chế bảo vệ nạn nhân và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

Phát biểu sau lễ ký, Đại sứ Lê Hoài Trung nhấn mạnh việc ký Công ước thể hiện cam kết mạnh mẽ của Nhà nước Việt Nam chống lại mọi hành vi tra tấn và đối xử tàn bạo, bảo đảm ngày càng tốt hơn tất cả các quyền cơ bản của con người.

Việc ký Công ước cũng là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Đại sứ cho rằng việc tham gia Công ước chống tra tấn sẽ tạo thêm điều kiện để các cơ quan chức năng của nước ta tiếp tục nâng cao nhận thức, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người tại Việt Nam.

Công ước chống tra tấn được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 10/12/1984 và có hiệu lực từ ngày 26/6/1987.

Công ước quy định các quốc gia thành viên thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác nhằm ngăn chặn mọi hành vi tra tấn, thông qua các biện pháp phổ biến thông tin, đào tạo các lực lượng thực thi pháp luật, thường xuyên rà soát các quy định về thẩm vấn và giam giữ.

Các quốc gia tham gia Công ước có nghĩa vụ trừng trị những hành vi tra tấn bằng các hình phạt thích đáng, đồng thời có các biện pháp hỗ trợ nạn nhân. Công ước cũng khuyến khích các quốc gia thành viên hỗ trợ lẫn nhau về thủ tục tố tụng hình sự đối với những hành vi phạm tội nói trên, kể cả việc cung cấp các bằng chứng cần thiết nếu có.

Đến nay đã có 154 quốc gia phê chuẩn Công ước này.
(Theo TTXVN )    

50 Câu Nói Trí Tuệ Và Sâu Sắc Giúp Bạn Hiểu Vì Sao Người Do Thái Lại Thông Minh Và Giàu Có

50 Câu Nói Trí Tuệ Và Sâu Sắc Giúp Bạn Hiểu Vì Sao Người Do Thái Lại Thông Minh Và Giàu Có

 

 

 

 

 

 

Biết những câu nói nổi tiếng dưới đây của người Do Thái bạn sẽ hiểu được vì sao họ lại thông minh và giàu có như vậy. 

  1. Tài sản có thể trở về số 0 nhưng kiến thức phải càng ngày càng mở rộng.

 

  1. Thời gian tốt nhất để trồng cây là vào 20 năm trước. Thời gian tốt thứ hai là ngay bây giờ.

 

  1. Điếc, nhưng không phải là không biết gì bởi còn có thể đọc được sách báo.

 

  1. Nếu không học tập, cho dù đi vạn dặm đường xa thì mãi vẫn chỉ là người đưa thư mà thôi.

 

  1. Ai cũng than vãn thiếu tiền nhưng chả ai than thở thiếu trí khôn cả.

 

  1. Trên đời có 3 thứ không thể bị ai cướp mất: Đầu tiên là thức ăn đã vào trong dạ dày, hai là ước mơ đã ở trong lòng, ba là những kiến thức đã học trong đầu.

 

  1. Người lớn dạy trẻ con học nói, còn trẻ con dạy người lớn im lặng.

 

  1. Một người chỉ ra sai sót của bạn chưa chắc đã là kẻ thù của bạn; một người luôn luôn ca ngợi bạn chưa hẳn đã là bạn của bạn.

 

  1. Hãy sợ con dê húc phía trước, con ngựa đá phía sau, còn kẻ ngu thì phải đề phòng tứ phía.

 

  1. Kinh nghiệm là cái từ mà mọi người dùng để gọi các sai lầm của mình.

 

  1. Khi bạn khóc vì không có giày để đi, hãy nhìn những người không có chân.

 

  1. Khi già đi người ta thị lực kém đi nhưng nhìn thấy nhiều hơn.

 

  1. Đừng sợ đi chậm. Chỉ sợ đứng yên.

 

  1. Ta không cầu xin cho gánh nặng sẽ nhẹ hơn. Nhưng cho đôi vai hãy vững vàng hơn.

 

  1. Bông lúa càng nhiều hạt, đầu nó càng rủ xuống. Người giỏi thường hay khiêm tốn.

 

  1. Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin là mất tất cả.

 

  1. Phần lớn người ta thất bại không phải do họ không có khả năng, mà là vì ý chí không kiên định.

 

  1. Đừng nói gì trừ khi bạn đã học được cách im lặng.

 

  1. Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản, ki bo chỉ làm nghèo đi.

 

  1. Một hành trình ngàn dặm cũng chỉ khởi đầu từ bước đi đầu tiên.

 

  1. Nếu vấn đề nào giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề mà là chi phí.

 

  1. Nếu bạn bị vấp ngã, điều đó chưa chắc có nghĩa bạn đang đi sai đường.

 

  1. Có tiền cũng không tốt lắm, cũng như thiếu tiền cũng chẳng tồi lắm.

 

  1. Không có tình huống vô vọng, chỉ có giải pháp không chính xác.

 

  1. Chúa trời cho con người hai tai và một miệng để nghe nhiều nói ít.

 

  1. Luôn luôn nhìn vào mặt tươi sáng của sự vật. Nếu không thấy, hãy đánh bóng cho đến khi nó tỏa sáng.

 

  1. Nếu cuộc sống không dần dần tốt lên thì nó sẽ kém đi.

 

  1. Đừng sợ rằng bạn không biết một cái gì đó. Hãy sợ rằng bạn không chịu tìm hiểu về nó.

 

  1. Con người phải sống tối thiểu là vì sự tò mò.

 

  1. Một khi bạn mắc một sai lầm, điều tốt nhất bạn có thể làm là cười vào nó.

 

  1. Nếu mà làm từ thiện chẳng tốn kém gì thì ai cũng làm từ thiện cả.

 

  1. Hầu như những loại hoa có màu trắng đều rất thơm, hoa có màu sắc đẹp đẽ thường không thơm. Người cũng vậy, càng mộc mạc giản dị, càng tỏa hương thơm từ bên trong.

 

  1. Chết vì cười còn hơn là chết vì hoảng sợ.

 

  1. Một người đàn ông có thể chuyển núi bắt đầu từ việc mang đi những viên đá nhỏ.

 

  1. Khi chúng ta đem hoa tặng cho người khác thì người ngửi được mùi hương đầu tiên là chính chúng ta. Khi chúng ta nắm bùn ném vào người khác, thì người bị làm bẩn đầu tiên là bàn tay chúng ta.

 

  1. Ngủ trên gối êm không có nghĩa có giấc mơ đẹp.

 

  1. Nếu bạn không thể xử lý những việc nhỏ thì những việc lớn của bạn sẽ trở nên vô nghĩa.

 

  1. Khi bồ câu kết bạn với quạ, mặc dù cánh của nó vẫn còn màu trắng nhưng trái tim thì dần dần chuyển sang màu đen.

 

  1. Lúc nào vô công rỗi nghề thì người ta sẽ làm những việc long trời lở đất.

 

  1. Khi còn trẻ phải làm những việc bạn nên làm, thì khi về già mới có thể làm những việc bạn muốn làm.

 

  1. Cái khuy áo đầu tiên sai, cái sau cùng khó mà chữa được.

 

  1. Hạnh phúc chỉ đến khi cánh cửa đã được mở.

 

  1. Một ngôi nhà nhỏ đầy ắp tiếng cười có giá trị hơn một cung điện đầy nước mắt.

 

  1. Cười là loại mỹ phẩm rẻ nhất, vận động là loại y dược rẻ nhất, chào hỏi là loại chi phí giao tiếp rẻ nhất.

 

  1. Kinh nghiệm giống như một chiếc lược mà cuộc đời chỉ ban tặng sau khi chúng ta đã mất hết cả tóc.

 

  1. Nếu bạn thực sự có tài năng thì bạn sẽ không sợ mình kém may mắn.

 

  1. Tình yêu có ngọt ngào đến đâu cũng chẳng lấy ra nấu chè được.

 

  1. Chúa trời bảo vệ kẻ nghèo ít nhất là không sa vào những thói hư tật xấu xa hoa.

 

  1. Chúa không thể có mặt đồng thời khắp nơi nên Người đã tạo ra các bà mẹ.

 

  1. Adam quả là tay gặp may đầu tiên vì chẳng có mẹ vợ.

 

Mộc Trà (tổng hợp)

Hoa Tím Bằng Lăng

Nguon:   Kimtrong Lam‘s post.
 
Image may contain: flower, plant, nature and outdoor

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

Hoa Tím Bằng Lăng

Tác Giả: Nguyễn Duy-An

Vì chiều cao “rất khiêm tốn” của mình, tôi cứ phải loay hoay điều chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam “vinh quy bái tổ”. Tuân là đứa con “rất đặc biệt” của chúng tôi. Vợ chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22 tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội. Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.

Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con; thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu yếm nhìn tôi thỏ thẻ: “Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân… Tuy nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn…” Đó là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng tuổi, và Tuân trở thành “con trai” của tôi từ hơn hai mươi năm về trước tại Bình Giả, Việt Nam.

° ° ° ° °

Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ… Tôi trở về Bình Giả năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề “gõ đầu trẻ” tại một trường tiểu học ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám gia đình sống qua ngày. Sau mấy năm vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã “cắt hộ khẩu” ở trường cũ, nhưng không xin “nhập hộ khẩu” tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết tôi đi dạy học ở vùng “Kinh Tế Mới”, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp… nên không ai thắc mắc hay hỏi han giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc “cây cổ thụ”, tôi đã “hồn vía lên mây” khi nghe tiếng gọi tên mình vọng xuống từ ngọn cây:

– Toàn. Toàn phải không?

Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên đầu… Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột xuống vừa lên tiếng:

– Mình đây. Thành đây.

Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người “đàn anh” nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập ngừng:

– Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?

– Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà vì sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho mình gặp được Toàn ở đây. Đúng là số mình chưa chết.

– Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?

– Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình…

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang, vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang, vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi “học tập”. Năm đó Trang mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay. Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường, mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa, nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.

Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:

– Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành…

Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:

– Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng “đi làm thuê” cho tôi để vào rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi tôi đón anh ấy ra Long Hương “ở nhờ” nhà một người bạn thân của tôi để chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người đi buôn chuyến.

Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm… lo việc riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc dầu tin tôi, nhưng “lời ong tiếng ve” đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi như một đứa em ruột, “một vị cứu tinh” đã dám liều mình cưu mang và giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự tính vì công việc “bến bãi” bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên. Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng. Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho Trang, nhưng rồi mọi người lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng, nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã “ngồi xổm trên dư luận” để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi làm thế để tránh tiếng vì bà đã biết chắc chắn bào thai trong bụng Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành nên đã lỡ một “chuyến đò”. Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu… Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác sĩ và y tá đã ghi tên tôi là “chồng” của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ “khóa”! Tôi ngang tàng chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi.

Tôi có thể “đạp dư luận xuống bùn đen” để sống, nhưng Trang phải âm thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén “nỗi oan Thị Kính” từng giờ từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi người trong xứ khi biết tin “người ta” không muốn cho tôi chôn Trang ở nghĩa trang giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và “trừng phạt” thân xác một người đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh “Thương Người Có 14 Mối, Thương Xác 7 Mối”, trong đó có ghi rõ việc “chôn xác kẻ chết!”

Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã “gieo họa” cho gia đình tôi! Đâu có ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để “kết án” nàng đã “liều mình tự tử”!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương xót của Chúa thay đổi trái tim “thù hận” của tôi, và tôi cũng xin Ngài thương tha cho những người đã kết tội “oan” cho chúng tôi! Tôi chỉ thật sự trở về với Chúa như “một con chiên lạc” mấy tuần trước ngày vượt biên…

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê.

Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc “cha con” tôi từ bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một lần nữa thành trẻ “mồ côi”!

Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng “cha con tôi” đã trồng trước ngày “biệt xứ”.

° ° ° ° °

Oanh đứng nép sát vào người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói:

– Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.

Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định nó và tôi không phải “cha con”!

GIÁ NHÀ VIỆT NAM SO VỚI THẾ GIỚI.

Nguồn:   Huyen Browning shared Nguyen Huong‘s post.
Cái đám DLV 3 củ thì không biết sủa đến kiếp nào mới có thể mua nhà nhỉ 🙂
 
Image may contain: text
Nguyen HuongFollow

 

GIÁ NHÀ VIỆT NAM SO VỚI THẾ GIỚI.

Để hiểu giá nhà ở Việt Nam cao vô lý đến mức nào thì phải so sánh. 
Dùng 2 thông số sẽ thấy rõ giá nhà,

A. Thu nhập bình quân trên năm
B. Tỷ lệ giá nhà chia cho thu nhập.

Dựa trên nguyên lý trên thì kết quả như sau:

1. Mỹ. Giá nhà $189,000. Lương$44,000. Giá nhà/lương: 4.2 năm.

2. Anh. Giá nhà $365,000. Lương/năm: $40,000. Giá nhà/lương: 9.1 năm.

3. Úc. Giá nhà $682,000. Lương/năm: $53,000. Giá nhà/lương: 12.8 năm.

4. Thái. Giá nhà $120,000. Lương/năm: $6,000. Giá nhà/lương: 20 năm.

5. Việt Nam. Giá nhà $150,000. Lương/năm: $2,800. Giá nhà/lương: 53 năm.

Một người Việt Nam bình quân với thu nhập $2,800 USD/năm (61tr/năm hoặc 5 triệu/tháng) phải đi làm đến 53 năm mới đủ tiền mua một căn nhà. Mặc dù là một những nước có thu nhập thấp nhất nhưng giá nhà lại trên trời.