PHÉP LẠ CỦA TIẾNG CƯỜI

PHÉP LẠ CỦA TIẾNG CƯỜI

    Mục đích cuộc đời này là đi tìm hạnh phúc và hưởng hạnh phúc. 

Biểu hiệu của hạnh phúc là tiếng cười. Tiếng cười đây là tiếng cười chân thực, hồn nhiên, thoải mái và tự phát, tiếng cười ròn rã, cười ngặt nghẽo, bò lăn bò càng, cười tít mắt, chứ không phải tiếng  cười gượng hay xã giao.

    Xưa nay đã có bao nhiêu bài nghiên cứu và đề cao gíá trị của tiếng cười. Nụ cười là phương tiện mở đầu cuộc giao tiếp mà ta không cần phải phiên dịch hay dùng ngôn ngữ để diễn tả. Nụ cười mang ‎ý nghĩa ta muốn nói với mọi người rằng ta hạnh phúc. Nó hoàn toàn  tự phát chứ không phải do cố gắng. Nụ cười tự nhiên và thành thực được biểu lộ qua miệng và khóe mắt. Nụ cười không chỉ biểu lộ cái hạnh phúc của ta mà còn có khả năng tạo cảm giác hạnh phúc cho người. Những người có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc thì thường  có nụ cười rạng rỡ hơn những người ly thân ly dị. Nụ cười vui tươi có tác động đến vùng bắp thịt quanh miệng và khu vực cơ vòng quanh khóe mắt, nó làm cho mắt sáng lên và long lanh. Ta thấy vui hơn không những khi cười mà cả sau khi cười.

    Cha ông Việt Nam chúng ta đã nói từ ngàn xưa: Một tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ. Nguyệt san lâu đời và uy tín quốc tế Reader’s Digest đã gọi tiếng cười là thần dược, là thuốc tiên, Laughter is the best medicine.

    Triết gia Bertrand Russel đã nói nhiều lời chí lý về tiếng cười, như ‘Tiếng cười là thần dược miễn phí nhưng vô cùng hiệu nghiệm’, hay ‘Tiếng cười không mất tiền mua mà nó mua được tất cả, nó mua được sức khoẻ cả thể xác cả tinh thần, nó mua được tình yêu,  hoà khí, nó tạo được sự đoàn kết’.

    Nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ, nhưng ông Trời đã cho ta thuốc thánh để cứu khổ đó là tiếng cười. Mẹ Teresa Calcutta đã ý thức được việc này nên trước khi về cõi ngàn thu Mẹ đã dặn các môn sinh: Các con hãy cười nhiều hơn nữa.

    Nói đến đây thì tôi nhớ tới một ông linh mục nổi tiếng ở Los Angeles hồi xưa, thập niên 2000. Đó là Cha Maurice Chase. Báo chí cho biết rằng trong nhiều năm, cứ mỗi sáng Chúa Nhật, dù mưa hay nắng, ông đều đến khu vực đông người vô gia cư. Mỗi người ông tặng  một đô la và một cái vỗ vai, vừa cười ông vừa nói lời thăm hỏi. Có người bảo ông: Muốn cho tiền tại sao Cha cần phải tới trao tận tay cho họ ? Ông cha vừa cười vừa trả lời: Tôi không những cho họ 1 đồng mà tôi còn cho họ một nụ cười và một câu chúc lành. Tôi  đã làm y như lời Mẹ Thánh Teresa Calcutta: Muốn an ủi người nghèo, cho tiền là một chuyện, nhưng chuyện quan trọng hơn là cười với họ và nói lời yêu thương. Bạn để ‎ý‎ quan sát mà coi, đa số chúng ta chỉ bỏ đồng bạc vào nón người homeless rồi vội vã đi ngay.

    Trong Phật Giáo tôi thích nhất tượng Đức Phật Di Lặc. Miệng mở rộng thật lớn của Ngài đẹp vô cùng. Một lần tôi nghe giảng pháp trên TV, tôi thấy vị hòa thượng lập đi lập lại câu kệ này mà tôi rất thích, tôi đã thuộc lòng:

    Nụ cười và hơi thở

  Hai tác phẩm tuyệt vời

  Nuôi dưỡng mầm hạnh phúc

  Cho ta và cho người

    Họa sĩ Picasso tuy nổi tiếng về ngành họa nhưng đã nói một câu rất hay về kinh nghiệm cuộc đời: Bạn đừng để ý tới chiều cao, sức nặng hay số tuổi vì đây là việc của y sĩ.. Việc của bạn là hãy lo sao cho cuộc sống được hạnh phúc, được đầy tiếng cười.

  Về mặt vật lý, cái gì xảy ra khi ta tức giận?

  Thưa, khi ta tức giận thì các bắp thịt ở đầu, ở mặt, ở cổ căng lên; máu từ tim chạy nhiều lên mặt nên mặt ta đỏ bừng, miệng ta ngậm lại, răng cắn vào nhau, ta thấy nghẹn ở cổ, nghẹt thở, tim ta đập thình thình.

   Còn khi ta cười, nhất là khi ta cười ha hả, cười giòn, thì tất cả các bắp thịt trên đây đang căng cứng đều giãn nở, miệng mở rộng, khí độc bay ra, dưỡng khí ùa vào, máu lưu thông dễ dàng, người như tỉnh lại.

  Tôi cũng vừa đọc một bài nghiên cứu về tiếng cười, trong đó tôi thích nhất đoạn viết rằng tiếng cười làm đẹp da mặt, các bà các cô nhớ kỹ việc này nha. Rằng khi cười, các cơ mặt co giãn nhịp nhàng nên cười sẽ giúp làm mờ đi các vết nhăn. Khi cười, các cơ mặt  vận động tăng cường lưu thông khí huyết góp phần làm tươi tắn làn da. Người có tính tình vui vẻ luôn tươi cười sẽ giữ được nét mặt trẻ lâu. Tại sao ta không chăm sóc da mặt bằng loại ‘mỹ phẩm’ thiên nhiên, miễn phí và hiệu nghiệm này?

    BS William Fry của Đại Học Stanford cho biết khi cười thì các bắp thịt ở cổ, ở mặt ở đầu ở ngực ở bụng đều hoạt động đồng loạt, và nhờ vậy mà tình trạng đau nhức của cơ thể bớt đi. Riêng những người bị phong thấp,  đau khớp xương, đau đầu nên cười lớn tiếng.

    Trong hội nghị quốc tế về y khoa tại Montréal, Canada, tháng 6, 1997, phái đoàn Y Khoa Oakhurst ở Los Angeles đã trình bày một bài rất giá trị về hiệu quả của tiếng cười. Theo kết quả nghiên cứu của Viện thì những ai đã bị bệnh tim, đã bị đột qụy, mỗi ngày  chỉ cần cười 15 phút thì bệnh tim không bao giờ tái phát nữa.

    Chuyện xưa chép rằng nhà bác học và triết gia Henri Bergson vì làm việc tinh thần nhiều qúa nên hay bị choáng váng nhức đầu và ngộp thở. Ông đã đi gặp nhiều bác sĩ nhưng căn bệnh này không hề hết. Cuối cùng, may thay, ông gặp được một bác sĩ chuyên ngành, ông  này đã chữa cho ông Bergson lành bệnh bằng thuốc tiên. Ông bảo ông Bergson không cần uống thuốc gì cả, ông chỉ cần tối nào cũng đến hý viện để xem các chú hề làm trò. Ông đã đi xem, đã cười rất nhiều và quả nhiên ông hết bệnh.

    Đây cũng là cách chữa bệnh của ông Francois Rabelais người Pháp ở thế kỷ 15. Rabelais là một thày tu, một văn sĩ, một chuyên viên giải phẫu. Ông chủ trương dùng tiếng cười để chữa bệnh, nên trong tiếng Pháp gọi phuơng pháp chữa bệnh này là ‘ le rire rabelais.  Theo Rabelais, chỉ có loài người mới biết cười, le rire est le propre de l’homme. Cười là một đặc ân Tạo Hoá tặng cho con người, chúng ta hãy xử dụng nó.

    Có 2 loại cười. Loại cười chữa bệnh và mang lại hạnh phúc như trên tôi gọi là loại A, là loại kích động tự nhiên cả tâm cả xác ta. Trong tiếng VN có rất nhiều từ để chỉ loại cười hạnh phúc này, như: cười ha hả, cười bò lăn bò càng, cười chảy nước mắt, cười  đau cả bụng. cười vãi đái, cười tít mắt, cười tới tận mang tai, cười đấm nhau thùm thụp, cười đập bàn đập ghế… Và loại B tức là loại cười không phát ra từ cái tâm vui vẻ, không tự nhiên, như cười gượng, cười giã lả, cười mỉa mai, cười nhạt, cười khinh bỉ…  Đây là loại cười tôi không có ‎‎ý nói ở đây. Tôi ghét loại B này.

    Môn thể thao phổ thông nhất hiện nay là chạy bộ. Buổi sáng thường gặp nhiều người chạy bộ trên đường phố hay trong các công viên. Việc chạy bộ này được gọi là external jogging, ta tập thể thao cho các cơ thể bên ngoài. Còn việc thể thao cho các cơ thể bên  trong thì sao? Các nhà khoa học bảo tiếng cười chính là một loại chạy bộ bên trong, internal jogging. Khi ta cười ngặt ngẽo, ta thử để tay lên bụng mà coi, toàn bộ dạ dày, ruột non ruột già của ta như long lên sòng sọc. Đó là chúng ta đang chạy bộ bên trong,  đang tập thể thao cho nội tạng. Ta có thể tập môn thể thao này bất cứ lúc nào.

    Ngày xưa còn bé tôi được nhiều thày giáo dạy câu ‘ Un saint triste est un triste saint’ mà chả hiểu gì cả. Sao lại ‘một ông thánh buồn là một ông buồn thánh? Câu này khó hiểu quá. Mãi gần đây thì tôi mới hiễu trọn vẹn. Câu ấy phải dịch thế này: Một ông thánh  mà mặt mũi buồn bã là một ông thánh vất đi, chả ra cái gì cả.

Người Trung Hoa có 2 câu mà tôi cho là chí lý:

  – Nhất tiếu thiên địa không: Òa lên được tiếng cười thì sẽ coi trời đất như không

  – Ai không biết cười thì người đó không nên mở tiệm buôn bán

 Trên đây là chúng ta mới nói về những ích lợi cho xác cho hồn của mỗi cá nhân. Tiếng cười còn mang sự vui vẻ và đoàn kết đến cho tha nhân và xã hội. Hai người đang giận nhau mà tự nhiên cùng cười lên một tiếng thì coi như sự thù hằn đã hết, hai bên có thể bắt  tay nhau làm hòa ngay. Cộng đồng gặp nhau rồi nhờ nghe mấy chuyện vui mà cùng phá ra cười thì sự đoàn kết tự nhiên đến, bao nhiêu sai biệt được san bằng, buổi họp đương nhiên sẽ thâu được những thành quả tích cực.

  Có một câu danh tiếng mà tôi rất thích nhưng quên tên tác giả: Tiếng cười là một ngôn ngữ quốc tế, không cần phải phiên dịch. Đúng qúa chứ, phải không cơ?

 Trà Lũ 

Two Attractive Multi-ethnic Young Women Laughing at Cell Phone

BẠN CŨ

BẠN CŨ

Thăm hỏi Bạn, biết rằng người còn đó

Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng

Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn

Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!

Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế

Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm

Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến

Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

Thuy Pham* Gia Long 68

Tha Thứ mới là người Quân Tử và được CHÚA thứ tha

Tha Thứ mới là người Quân Tử và được CHÚA thứ tha

Chúa Giêsu dạy chúng ta không sống theo “luật rừng”, không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống theo giới luật Chúa truyền, đó là luật “yêu thương”, một tình yêu bao là rộng lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo, “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44)…..

*******

1.  Thật là một người quân tử

Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.

Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách: Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.

Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: “Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!”

Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: “Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?

Hàn Tín ôn tồn bảo: “Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban”. Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì ban thưởng, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật là một người quân tử.

Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian… Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau.
—————-

2.  “Ngươi đã trả nợ rồi…!”

Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy. Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái. Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.

Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài”. Vị Samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận”. Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi”. Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Đừng hành động khi đang giận dữ”. Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”. Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng”.

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá phấn khởi nói: “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”. Vị Samurai trả lời: “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi đã trả nợ rồi”.

————————-

3.  “Một sự nhịn chín sự lành”

Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy.

Truyện cổ Trung Hoa kể câu truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.

Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: “Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?” Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”. Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ.

Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.

Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: “Một sự nhịn chín sự lành”. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan”. Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta:Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26)…

——————

4.  LÒNG THÙ OÁN LÀ CĂN BỆNH TAI ÁC

Phim ảnh thường kể những chuyện báo thù, coi việc báo thù là bổn phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau nhưng gần đây ngay cả những phim mang nội dung báo thù ấy cũng dẫn đến một ý tưởng kết thúc là bạo thù không giải quyết được vấn đề, càng báo thù thì hận thù càng gia tăng chồng chất. Nghĩa là lương tri con người đã ý thức được rằng báo thù không phải là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.

Truyện Liễu Thị Xuân Thu có kể lại một câu chuyện như sau: Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: từ thủa nhỏ tới giờ, tôi vốn là người trí dũng. Đến nay 80 tuổi tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đên qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bức rức và cố tìm gặp được người đó, bằng không tôi phải chết mất.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. Năm ngày trôi qua, nhưng ông vẫn chưa tìn được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hâm hực vì không tìm được kẻ thù, ông về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả La Mã nói: “con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo ra cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích Món Quà Giáng Sinh)

———————–

5.  CÒN PHẦN CỦA CÁC EM MỒ CÔI ĐÂU…?

Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
–  Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố một cách khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:
–  Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng như thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
–  Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.

Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta chẳng bao ngờ tới trên cõi đời nham nhở này mà lại có được một người khích phách như vậy. Anh lòm còm ngồi dậy và lắp bắp nói:
–  Tôi… tôi sẽ gởi tặng các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân một số tiền lớn để tạ lỗi.

Hãy tha thứ để rồi bản thân sẽ được Chúa thứ tha.

From: hnkimnga & Anh chị Thụ & Mai gởi

THÁNH THỂ TRONG CUỘC SỐNG TÍN HỮU

Tình CHÚA Cứu Độ không ngơi

Quay lại bên CHÚA …đời đời trường sinh

…………………………………… 

THÁNH THỂ TRONG CUỘC SỐNG TÍN HỮU

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Vâng, đúng thế! ”THIÊN CHÚA yêu thương thế gian đến độ gởi Con Duy Nhất xuống trần, để bất cứ ai tin vào Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời”, Gioan 3,16.

Ngay từ thiếu nữ tôi đã quay lưng với THIÊN CHÚA và sống cuộc đời buông thả, tự chọn mình làm trung tâm cuộc sống. Tôi phải xấu hổ thú nhận:

– Tình trạng sống tội lỗi của thế gian lôi cuốn quyến dũ tôi hơn sự thanh khiết thánh thiện của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Cứ thế dòng đời trôi qua hết ngày này sang ngày khác.

Thỉnh thoảng có vài cơ hội xuất hiện và nhóm bạn bè kéo tôi trở lại nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Tôi có mặt lấy lệ và hoàn toàn dửng dưng của kẻ ngoài cuộc. Thế nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn không bỏ quên tất cả nền giáo dục tôn giáo hấp thụ từ thơ bé trong một gia đình Công Giáo đạo đức.

Thế rồi mọi sự đảo lộn hết vào tháng 6 năm 1982. Mẹ chồng tôi bị ung thư sắp chết. Vào cùng thời điểm này Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) viếng thăm mục vụ Scotland. Mẹ chồng sống như kẻ vô thần, nghĩa là không tin tưởng gì ráo trọi. Nhưng bà lại là người rất tốt. Vì thế tôi rất thương mến quí trọng mẹ chồng. Vì quí mến mẹ, nên với tư cách tín hữu Công Giáo, tôi cảm thấy xôn xao dằn vặt với ý nghĩ:
Chả lẽ mẹ ra đi về thế giới bên kia mà không hề biết có Đấng Cứu Thế từng hiến dâng mạng sống để cứu chuộc loài người sao?

Thương mẹ chồng, tôi muốn cứu linh hồn mẹ bằng mọi giá.

Rồi bác sĩ trịnh trọng loan báo hung tin: bà chỉ còn vỏn vẹn một tuần để sống! Toàn thể gia đình chúng tôi cùng tha thiết kêu xin THIÊN CHÚA cứu sống mẹ. Riêng tôi, tôi tức tốc đến nhà thờ cầu nguyện cho mẹ chồng.

Trong vòng một tiếng đồng hồ, tôi quì gối trước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể cầu xin cho mẹ chồng thoát chết và ăn năn trở lại cùng THIÊN CHÚA. Tôi cầu nguyện với trọn tâm lòng và làm một cuộc giao kèo với Chúa. Trong giây phút nồng nhiệt tột độ tôi sẵn sàng đánh đổi mạng sống để xin cho mẹ chồng được sống.

Tôi đâu ngờ chỉ một giờ quì cầu nguyện trước Thánh Thể ấy đã tuôn đổ bao ơn lành xuống trên cả 2 mẹ con tôi.

THIÊN CHÚA thật khôi hài! Ngài không cất mạng sống tôi đi để trao cho mẹ chồng. Nhưng Ngài biến đổi mạng sống tôi, cùng lúc, Ngài giải thoát và lay động cuộc sống mẹ chồng. Mẹ chồng khỏi hẳn bệnh ung thư và xuất viện. Các bác sĩ ngỡ ngàng trước cuộc khỏi bệnh lạ lùng của mẹ chồng tôi.

Khỏi bệnh, mẹ chồng tôi thay đổi hẳn cuộc sống. Mẹ sống tình vợ chồng mặn mà thắm thiết, lợi dụng thời gian sống bên nhau để làm đẹp lòng nhau. Mẹ sống thêm một năm tràn đầy tình thương. Sau đó mẹ qua đời trong ân nghĩa cùng Chúa nơi nhà thương Thánh Columbus ở Edinburgh.

Về phần tôi, cuộc sống cũng đổi khác. Nhờ kinh nghiệm tỏ tường Tình Yêu THIÊN CHÚA, tôi gia tăng tình thương đối với chồng con. Rồi tôi nhận ơn an bình sâu thẳm, niềm an bình tôi chưa bao giờ hưởng nếm trước đó.

Tôi cũng được ơn yêu thích cầu nguyện và ơn ăn năn tội. Tôi nhớ lại thời gian sống buông thả chìm đắm trong tội lỗi. Tôi thật lòng thống hối và xin THIÊN CHÚA tha thứ mọi tội lỗi. Ơn Chúa không dừng lại nơi riêng tôi nhưng còn đổ tràn trên toàn thể gia đình. Chúng tôi tiếp tục sống trong ơn nghĩa Chúa cho đến hôm nay.

Giờ đây khi hồi tưởng quá khứ, tôi thâm tín sâu xa:

–         Chỉ duy nhất THIÊN CHÚA mới thực hiện những điều Ngài làm cho cuộc đời chúng tôi. Chỉ lòng nhân lành THIÊN CHÚA mới có thể biến đổi tâm lòng chúng tôi và tiếp tục biến đổi mãi. Ước chi cuộc sống mỗi người là lời tôn vinh THIÊN CHÚA và là chứng tá cho Tình Yêu cứu độ của THIÊN CHÚA đối với loài người.

–         Chứng từ của bà Maria Bartlett sống tại Kinross miền Tayside bên nước Scotland.

     … ”Khốn thay kẻ nào đào sâu giấu kỹ, không để cho THIÊN CHÚA thấy ý định của mình. Khốn thay ai hành động trong bóng tối và tự nhủ: ”Ai thấy được, ai biết được ta?” .. Vì thế, THIÊN CHÚA phán thế này: “Từ nay Giacóp sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Giacóp nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Giacóp là Thánh, và sẽ kính úy THIÊN CHÚA của Israel. Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời răn dạy”(Sách Isaia 29,15+22-24).
(Sister Patricia Proctor, OSC, ”201 Inspirational Stories of The Eucharist”, Franciscan Monastery of Saint Clare, Spokane, Washington, 2004, trang 62-63)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn Đài Vatican

(http://www.oecumene.radiovaticana.org)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Tuổi già và chuyện lái xe

Tuổi già và chuyện lái xe

By Huy Phương 

Ðối với người Việt Nam, đến tuổi 70 cũng chưa phải là già, kể cả những người lên 80, cũng không ai dám gọi là cụ ông, cụ bà, vẫn còn khả năng lái xe, nhưng đối với cảnh sát Mỹ thì chúng ta nên coi chừng, tuổi senior (từ 62 trở lên) là lớp tuổi dễ bị thu bằng lái nhất.

Các bạn già của tôi, hãy tưởng tượng đến lúc chúng ta không còn được phép lái xe, thì cuộc sống này trở nên bất tiện, buồn bã biết bao nhiêu. Ở Mỹ này không lái xe được xem như người què nằm một chỗ, nhất là ở những thành phố ít phương tiện giao thông công cộng. Chúng ta cũng không có được đời sống như ở Việt Nam, một bước lên xe xích lô, xe ôm hay gọi taxi đến tận nhà. Ở Mỹ đời sống tất bật, ngày thường bận đi làm, cuối tuần còn bao nhiêu việc nhà, con cái đâu có thời giờ để chúng ta đi nhờ xe, đến nơi này hay đi nơi nọ.

Tôi có một cô em họ, độc thân, 76 tuổi. Tuần rồi cô gây một tai nạn xe hơi. Thật ra không phải lỗi của cô. Cô đang lái xe trong lane sát lề bên tay mặt, thì một chiếc xe từ lane bên trái, xấn vào đầu xe của cô khá mạnh. Mất bình tĩnh, cô lái xe sang phải và đụng vào một chiếc xe khác đang đậu bên lề đường. Cô và người ngồi trên xe chỉ bị hoảng hốt, trầy trụa nhẹ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hư hại nặng (total loss.) Cảnh sát đến lập biên bản, lấy bằng lái của cô để ghi chi tiết, nhưng cô không ngờ, đây là ngày cuối cùng cô được lái xe. Cô không có con cái, có nghĩa là từ đây, việc di chuyển của cô sẽ gặp nhiều khó khăn, và đời sống của cô bước sang một khúc ngoặt mới.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cụ George Weller, 86 tuổi, và hiện trường tai nạn. Nguồn CBS los angeles

Chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh của câu chuyện ở trên, để thấy giờ này mà chúng ta còn lái xe được, rong ruổi trên xa lộ, đi đây đó, hạnh phúc biết chừng nào!

Chiều ngày 16 tháng 7 năm 2003, cụ George Weller, 86 tuổi, đã lái chiếc xe Buick LeSabre năm 1992 của mình xuống đại lộ Arizona ở Santa Monica, California để đi tới khu mua sắm Third Street Promenade nổi tiếng ở đây. Cuối con đường, hôm đó người ta đã ngăn lại để dành cho một phiên chợ nông sản cuối tuần. Chiếc xe của cụ Weller đã chạy thẳng đâm xuyên những bảng chận đường, lao vào khu chợ đang đông người với tốc độ 60 miles/giờ, đã tông chết tại chỗ 10 người và đã làm 63 người khác bị thương. Weller nói ông đã đạp nhầm chân ga thay vì đạp thắng.

Ngày 8/11, năm 2011, tại một thị trấn Palm Coast, miền Bắc Florida, ông cụ Louis Nirenstein, một người “handicap” thường dùng xe lăn, lái xe hơi và lạc tay lái, chạy vào, cũng một chợ nông sản, làm bị thương 3 người. Cụ cho cảnh sát biết chân ga của cụ bị kẹt.

Cuối năm 2014, bà cụ Beryl Hughes, 84 tuổi đã bị giam giữ 24 tuần, đồng thời bị cấm lái xe 5 năm vì tội gây ra tai nạn chết người. Cụ lái chiếc Audi A3 đâm trực diện vào chiếc Honda Civic do ông Brian Bockmaster, 80 tuổi lái, khiến ông Brian phải nhập viện và qua đời một ngày sau đó. Trước khi gây ra vụ tai nạn, bà Hughes từng bị phạt vì lái quá tốc độ hạn định. Bản thân bà Hughes cũng thừa nhận nhiều năm trở lại đây, khả năng lái xe đã suy giảm.

Các vụ tai nạn đã thúc đẩy những cuộc tranh luận toàn quốc ở Hoa Kỳ về những tai nạn giao thông do những người lái xe cao tuổi gây ra.

Theo Cục Quản lý An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration) những người lái xe lớn tuổi từ 65 tuổi trở lên đã gây ra 12.5% tai nạn giao thông trên đường phố.

Vấn đề được đặt ra là những người lái xe lớn tuổi có còn giữ được “an toàn trên xa lộ” không? Từ lâu, Anh quốc có quy định bắt buộc bằng lái xe  của những người từ 70 tuổi trở lên đều bị thu hồi. Ðể có thể tiếp tục lái xe, họ cần phải kiểm tra sức khỏe và thi lại bằng lái trước ngày sinh nhật lần thứ 70 và liên tục phải đổi bằng lái mỗi ba năm. Ở Mỹ, người lái xe trên 70 tuổi vẫn được cấp bằng lái có hiệu lực 5 năm, đến kỳ hạn 5 năm, họ chỉ việc thi lại bằng viết và kiểm tra lại thị lực, nhưng trong thời gian này, nếu gây ra tai nạn, chắc chắn bằng lái sẽ bị thu hồi.

Tuy nhiên, việc có nên cấm hẳn người già lái xe hay không luôn là chủ đề được bàn tán sôi nổi. Năm 2010, tỉ lệ người trên 70 tuổi lái xe trên toàn quốc tăng gấp 4 lần so với năm 1975. Ở California có hơn 5.5 triệu người trên 55 tuổi đang lái xe, và hơn 2.5 triệu người trên 70 tuổi.

Tại Anh Quốc, phụ nữ cao tuổi nhất đang lái xe đã 107 tuổi. Nước này có 191 người có bằng lái xe trên tuổi 100. Bộ Giao thông Anh (DfT) cho biết, tuy chưa có bằng chứng cho thấy người cao tuổi lái xe có nguy cơ gây tai nạn cao hơn nhóm tuổi trẻ, nhưng thực tế, báo chí tốn không ít giấy mực với các vụ người lớn tuổi lái xe vi phạm luật lệ hoặc gây tai nạn.

Người ta đưa ra những yếu tố giải thích người già gây ra nhiều tai nạn vì:

  1. Không còn minh mẫn, nhanh lẹ, nên phản ứng chậm chạp trước các tình huống.
  2. Bị ảnh hưởng các loại thuốc mà người già thường dùng.
  3. Phản ứng sai lệch do việc đau các khớp chân tay, hay cổ.
  4. Tai không nghe rõ, mắt đã mờ.

Ở các nước khác, để giảm tội ác và các tai nạn do súng đạn, chính phủ kêu gọi người dân đem súng đổi lấy tiền thưởng, trong khi ở Nhật người ta kêu gọi quý cụ đem bằng lái xe nộp cho cảnh sát để được giảm giá khi ăn mì ramen tại 176 địa điểm thuộc chuỗi nhà hàng Sugakiya, nghe thật tội nghiệp! Bằng lái của người già cũng nguy hiểm như súng đạn hay sao?

 

 

 

 

 

 

 

Hai cụ già selfie bên chiếc xe bị tai nạn – nguồn you tube

Một chiến dịch của cảnh sát Tokyo cũng khuyến khích người già từ bỏ việc lái xe bằng cách giảm giá xe buýt và taxi cho họ. Nhiều trường hợp người già gây tai nạn đã xảy ra, khi một người phụ nữ 83 tuổi mất kiểm soát khi đang lái xe, gây ra cái chết cho hai bộ hành. Một cụ ông khác, 87 tuổi lái xe tải đâm vào một nhóm học sinh, khiến một em 6 tuổi tử vong.

Người già lái xe xin đọc những lời của Thẩm phán Stephen Holt (Hoa Kỳ) sau đây “Bản thân người cao tuổi và gia đình, bạn bè cần có trách nhiệm theo dõi khả năng lái xe của mình và người thân, đối mặt với sự thật rằng – qua thời gian, khả năng lái xe của họ không còn an toàn. Việc người cao tuổi cần và muốn lái xe, ít để ý tới vấn đề an toàn, đặc biệt ở những khu vực xa đô thị, không có các phương tiện giao thông công cộng là điều dễ hiểu”.

Một nghiên cứu do Khoa Y học Cộng đồng Maliman thuộc Ðại học Columbia thực hiện và công bố đầu năm 2016 cho thấy, sức khỏe của người cao tuổi sẽ bị suy giảm khi họ không còn được lái xe. Không chỉ vậy, việc này sẽ đem lại cho người già triệu chứng trầm cảm, buồn phiền.

Các bạn già của chúng tôi, những người đang còn lái xe như hôm nay cảm thấy thế nào nếu một ngày nọ, không còn ngồi được vào chiếc xe, sau tay lái để tự ý đi đây, đi đó mà phải nhờ đến con cái, họ hàng. Ðiều đó có nghĩa là đời sống đã mất đi nhiều ý nghĩa.

Nhưng một ngày nọ, nếu các bạn nghe tin có người lái một cái xe đâm vào một đám đông gây chết người, thì đừng vội kết luận đó là một chuyện khủng bố của ISIS, mà nên xem lại có phải người lái xe là một trong mấy ông bạn già lạng quạng của chúng ta không?

Giới có tiền rời bỏ Việt Nam

Giới có tiền rời bỏ Việt Nam

Thanh Trúc, RFA
2017-07-27

Khách hàng rời chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ở Hà Nội hôm 10/5/2013

Khách hàng rời chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ở Hà Nội hôm 10/5/2013

 AFP

Việt Nam thường nêu những thông tin tích cực về nguồn vốn FDI đổ vào trong nước nhưng một tình trạng đối nghịch không được nêu ra là nhiều người thành đạt, có tiền muốn ra nước ngoài mua bất động sản và định cư tại đó.

Môi trường kinh doanh chưa tốt

Rick Nguyễn, một doanh nhân trẻ từng về nước làm việc trong nhiều năm trước khi quyết định về lại Mỹ và trở thành người đồng sáng lập công ty quảng cáo Spot Trender ở Silicon Valley Bắc California trình bày lại trường hợp của anh:

Tại sao tôi chưa muốn đầu tư vào Việt Nam là vấn đề chi phí và cơ hội. Tôi chưa muốn đầu tư vào Việt Nam tại vì cơ hội ở thung lũng Silicon quá tốt, cần gì cũng có, cần gì có đó, tiền đầu tư, nhân tài, cơ sở hạ tầng cực kỳ đầy đủ, tôi muốn xây dựng một nền tảng bền vững ở đây trước khi mở rộng ra các nước như Việt Nam.

Giải thích vì sao có nhiều người trong nước muốn ra ngoài để kinh doanh, anh Rick Nguyễn nói:

Tôi quen rất nhiều người ở Việt Nam qua đây, qua thung lũng Silicon Valley để đầu tư. Tôi nghĩ vì 3 lý do chính, thứ nhất là doanh nhân Việt Nam muốn đa dạng hóa vốn của họ. Ông bà mình có câu “An cư lạc nghiệp”, “ Đất lành chim đậu”, doanh nhân Việt Nam muốn có một nguồn vốn ở nước ngoài để bảo đảm sự an toàn và tương lai của gia đình. Thứ hai là họ muốn con cháu ra nước ngoài để học hỏi, mở rộng kiến thức và tìm được cơ hội kinh doanh mà Việt Nam không có. Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam muốn cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài  nói chung là tương đối khó, họ muốn mở doanh nghiệp ở Mỹ để có cơ sở hạ tầng và điều kiện như tôi đang làm ở thung lũng Silicon.

Linh Trần là một du học sinh từ Sài Gòn sang Hoa Kỳ,sau khi tốt nghiệp đã về nước cùng kinh doanh với gia đình. Năm 2011, nhận thấy môi trường và điều kiện kinh doanh ở Sài gòn không thích hợp, Linh Trần trở qua Mỹ, lập công ty Umba Lux với dịch vụ cho thuê các loại siêu xe như Bentley, Lamborghini chẳng hạn:

Ông bà mình có câu “An cư lạc nghiệp”, “ Đất lành chim đậu”, doanh nhân Việt Nam muốn có một nguồn vốn ở nước ngoài để bảo đảm sự an toàn và tương lai của gia đình. – Rick Nguyễn

Thực ra tôi có về Việt Nam làm cho ngân hàng quốc tế một thời gian, sau đó quyết định quay lại Mỹ làm một cái gì đó cho riêng tôi thay vì về nước làm những cái đã có sẵn. Tôi quyết định qua đây để thử, nhất là khi chuyển từ San Francisco qua Los Angeles và Silicon Valley thì mọi thứ  phát triển rất là nhanh, càng làm thì càng có nhiều cơ  hội và nhiều mối giao dịch. Làm ở Việt Nam thì các mối giao dịch đôi khi không bền, đôi khi chính sách thay đổi một cái là mất trắng. Đó cũng là một phần là tại sao tôi lại đầu tư ở bên này, mọi thừ  nó đều rõ ràng hơn. Ở Việt Nam thì thực sự rất khó,cũng rất muốn về nhưng ngại cái chính sách thôi.

Theo IOM tức Tổ Chức Di Dân Quốc Tế, Việt Nam nằm trong Top 10  các quốc gia vùng Châu Á Thái Bình Dương có người di cư nhiều nhất. Từ năm 1990 đến năm 2015, hơn 2 triệu rưỡi người Việt Nam đã ra khỏi nước.

Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, giảng viên cao cấp Đại Học New Soyth Wales, Australia, nói rằng ông nhận được rất nhiều chia sẻ từ giới trí thức và giới trung lưu tại Việt Nam, rằng họ muốn ra nước ngoài định cư để bảo đảm một tương lai tươi sáng hơn cho bản thân cũng như cho con cháu trong một xã hội văn minh, dân chủ và pháp quyền:

Hầu như những người mà tôi tiếp xúc ai cũng rất quan tâm về sự tụt hậu của đất nước. So sánh với Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore họ nói là từ 75 mình có khác gì hơn họ đâu thế mà giờ mình tụt hậu quá xa. Họ cảm thấy bất lực, cảm thấy không có cách gì đóng góp để làm cho đất nước này vươn  lên.

Việt Nam cần làm gì để giữ chân doanh nhân

Các chuyên gia kinh tế và xã hội học cho rằng Việt Nam cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định và an toàn cho doanh nhân hay người giỏi, làm sao để người dân an tâm rằng tài sản, cơ nghiệp họ tạo ra được bảo đảm chắc chắn.  Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, hơn lúc nào hết Việt Nam cần cải tổ hệ thống tư pháp và đứng tìm cách hình sự hóa các giao dịch kinh tế, giao dịch dân sự:

Khu vực  tư nhân là khu bực có thể thu hút nhân tài thật sự, chứ còn bản thân khu vực nhà nước với một chính quyền tham nhũng, bổng lộc là chính như  thế này thì không thể thu hút được nhân tài.

Vẫn theo lời ông Nguyễn Quang A, muốn đất nước là nơi chốn bình yên cho công dân thì môi trường sạch, giáo dục tốt, y tế đảm bảo là những điều kiện tiên quyết.

Khu vực  tư nhân là khu bực có thể thu hút nhân tài thật sự, chứ còn bản thân khu vực nhà nước với một chính quyền tham nhũng, bổng lộc là chính như  thế này thì không thể thu hút được nhân tài. – TS. Nguyễn Quang A

Tiến sĩ  Lê Đăng Doanh thì hy vọng:

Tôi nghĩ rằng trong thời gian tới đây, yêu cầu phát triển kinh tế một cách bền vững, nâng cao hiệu quả và nâng cao năng suất lao động sẽ đòi hỏi nhà nước lẫn doanh nghiệp phải vận dụng khoa học công nghệ nhiều hơn, vận dụng chất xám của các chuyên gia và các nhà trí thức nhiều hơn, do đó sẽ có thể có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.

Dưới mắt một Việt kiều  Mỹ, giáo sư Hà Tôn Vinh, giám đốc Tổ Hợp Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Lực Stellar Management ở thành phố Hồ Chí Minh, đi hay ở đều có khía cạnh tốt của nó, ở đây chỉ nên nói đến điều tích cực:

Việt Nam cũng như các nước đang ở trong thế giới gọi là toàn cầu hóa, những vấn đề giao thương, đầu tư, thương mại đều có thể chuyển sang các nước khác nhau. Cũng nên cho các doanh nghiệp Việt Nam đi ra đầu tư nước ngoài để mua công nghệ để học hỏi kinh nghiệm và để phát triển thị trường mới.Dưới mắt một Việt kiều  Mỹ, giáo sư Hà Tôn Vinh, giám đốc Tổ Hợp Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Lực Stellar Management ở thành phố Hồ Chí Minh, đi hay ở đều có khía cạnh tốt của nó, ở đây chỉ nên nói đến điều tích cực:

Vấn đề mà chính phủ cần lưu ý, giáo sư Hà Tôn Vinh nói tiếp, là khi người có tiền cũng như doanh nhân có tiềm năng bỏ đi thì trước mắt là sẽ làm cạn kiệt  hoặc làm mất đi nguồn nhân lực cũng như nguồn năng lực tài chính của đất nước.

Venezuela – khi nhà giàu sa cơ

 

Người Venezuela đang cạn kiệt đồ ăn, bệnh viện chật ních trẻ em ốm mà không đủ thuốc men, còn điện nước cũng chẳng được bảo đảm.

Venezuela từng là cường quốc giàu nhất khu vực Mỹ Latin và cũng là nước có dự trữ dầu thô lớn nhất thế giới. Khi ấy, dầu mỏ được xem là “giếng tiền” vô tận của quốc gia này. Thậm chí, cựu Tổng thống Mỹ – Bill Clinton còn chọn Venezuela là điểm dừng đầu tiên trong chuyến thăm khu vực này năm 1997.

Nhưng sau đó, bất bình đẳng tại Venezuela ngày càng gia tăng. Tầng lớp giàu có kiểm soát mọi thứ, trong khi phần đông dân số ngày càng nghèo đói. Hiện tại, chính phủ Venezuela đã cạn kiệt tiền, giá cả tăng chóng mặt. Mọi thứ tại đây đều bị đảo lộn.

Chính phủ nước này không cung cấp được bất kỳ số liệu thống kê đáng tin cậy nào, bao gồm cả tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Các quan chức nhận hàng triệu USD hối lộ trong các dự án xây dựng, trong lúc Chính phủ phải vật lộn với nhiều khoản nợ cần trả. Trong khi đó, giá dầu thô – mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của quốc gia này lại đang lao dốc.

*Cuộc chiến bánh mỳ ở Venezuela

xem đầy đủ:

Những gì tuổi thơ tin tưởng hóa ra đều là dối trá, đâu mới là sự thật? – Trí thức VN

From facebok:  Trần Bang

 

Tôi đã từng tin rằng Mao Trạch Đông chỉ huy Bát Lộ Quân đánh bại quân Nhật xâm lược, sau đó phát hiện rằng, hóa ra là quân đội Quốc dân Đảng xả thân chiến đấu, cùng với sự trợ giúp của Mỹ cuối cùng đã đánh bại quân Nhật.

Tôi đã từng tin rằng năm 1949 Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập nước “Trung Quốc mới”, sau này phát hiện từ năm 1945 Quốc dân đảng đã thành lập nên “Trung Quốc mới” rồi, sau đó thời kỳ nội chiến đã bị đánh tan.

Tôi đã từng tin rằng Hồng quân “trường chinh” đi đến miền Thiểm Bắc để đánh Nhật, sau này mới phát hiện ra vốn dĩ miền Thiểm Bắc không có quân Nhật, Hồng quân đến đó chỉ vì để chạy trốn trong nội chiến Quốc – Cộng, và để chi viện cho Liên Xô.

Tôi đã từng tin rằng việc Mao Trạch Đông đánh đổ địa chủ phân chia ruộng đất là vì dân trừ hại, sau này phát hiện tuyệt đại đa số tài sản của địa chủ đều là do họ đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm được, vậy mà họ lại phải chịu cảnh cướp bóc và ngược đãi khủng khiếp.

Tôi đã từng tin rằng 40 triệu người chết trong nạn đói lịch sử từ năm 1950 đến năm 1962 là kết quả của thiên tai và Liên Xô bức ép, sau này phát hiện những năm này mưa thuận gió hòa, mà chính “Đại Nhảy Vọt” của Mao muốn vượt qua Anh, Mỹ, chi viện cho cách mạng thế giới tạo thành.

Tôi đã từng tin rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc phản kích tự vệ, sau này mới phát hiện ra là do Việt Nam lật đổ chế độ Pol Pot ở Campuchia, sát hại đến một phần ba dân số (trong đó có khoảng 200.000 người Hoa) của tập đoàn Khmer đỏ tà ác.

Tôi đã từng tin rằng những dư luận viên trong “Đảng 5 hào”(*) căm hận nước Mỹ, sau này mới biết rằng thủ phạm công kích nước Mỹ chính là chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc, những anh hùng mà dư luận viên của “Đảng 5 hào” tâng bốc đều đến xin tị nạn tại Đại sứ quán Mỹ.

Tôi đã từng tin rằng người dân Mỹ sống trong bể khổ đau thương, sau đó phát hiện ra những người Trung Quốc có tiền, có quyền đều di dân đến Mỹ.
….

Dương Quang Vệ, một người từng đặt niềm tin vào Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vô cùng chấn…
TRITHUCVN.NET
 

“Khóc là ủy mị, chết là điên”

 Tin Mừng (Mt 13: 44-52)

Hôm ấy, Đức Giêsu kể cho dân chúng nghe dụ ngôn sau đây: Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. 

“Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy. 

“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. 

“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.” Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”

  •     *      *      *

 “Khóc là ủy mị, chết là điên”
“Gây cho hoàn cảnh thêm tươi đẹp”
“Lọc mãi cho hồn trong sáng lên”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 Mai Tá lược dịch.

Khóc đâu chỉ là uỷ mị. Nhưng còn là, tâm trạng nhà thơ viết về người tình, mình cay đắng. Chết đâu chỉ là khùng điên. Mà còn là, quyết tâm chết cho người tình, mình vẫn yêu. Uỷ mị hay điên khùng, phải chăng là đặc trưng của người nhà Đạo, vào lúc này?

Trình thuật thánh Mátthêu, nay kể về dụ ngôn, là để nói lên những điều từa tựa như thế. Từa tựa, về ý nghĩa và đích điểm của Nước Trời, ở trần gian. Nuớc Trời trần gian, như thánh Mátthêu từng khám phá, là: tình huống có Đức Giêsu và dân con Ngài, cùng sống. Sống giống Chúa. Và với Chúa. Như thánh nhân đây, cũng từng học hỏi sống khác thường, theo đúng nghĩa sống. Và, thánh nhân thấy mình như người quản gia, cho qua đi những gì thuộc về quá khứ, chỉ giữ lại những gì mới mẻ, vừa khám phá.

Khám phá/tìm ra, như tác giả vừa tìm thấy châu báu nơi ngọc quý, bèn bán đi mọi sự để mua lấy, dù cao giá. Châu báu đây, là những đồ xưa cổ làm nền cho mọi sự việc rất mới. Và, châu báu ở viên ngọc mà thánh nhân nói đến, chính là sự mới mẻ ở mọi sự. Rất quí. Và, càng có giá hơn, khi đó lại là khám phá mới về chính con người, của mình.

Thánh nhân đây, tuy không còn trẻ, vẫn là người Do thái rất tốt lành. Biết dấn thân theo chân Chúa đến cùng, như mọi người lành thánh, tốt đẹp. Như, đồ đệ đáng tuyên dương của Chúa, mà mọi người vẫn đợi trông.

Thánh nhân đây, đã trở thành tín hữu của Đức Chúa, nhưng vẫn không ngừng là người Do thái chính cống. Rất minh bạch. Bởi thế nên, thánh nhân nghĩ mình cũng là ngôi nhà có giá trị. Để rồi từ đó, thực hiện được cả những điều cũ/mới, vẫn đổi thay. Đổi thay và tháp ghép vào những điều đã cũ ngõ hầu để tạo sự mới mẻ cho những gì mình viết ra. Mỗi lần gặp người mới, thánh nhân đều thấy thế. Và khi gặp người khác nữa, ông cũng trở nên chính mình hơn. Tức, tìm lại được chính mình.

Phần đông trong chúng ta, mỗi khi nhìn vào cuộc sống của chính mình trong quá khứ, đều thấy có những chuyện tương tự. Trong suốt chuỗi ngày dài cuộc sống, ta cũng từng đổi thay. Đổi và thay, để trở thành người tín hữu không như cũ. Vẫn cố thay đổi trong Hội thánh. Thay đổi, thái độ sống. Thay đổi, ý nghĩa của con người mình. Có lẽ ta thay đổi nhiều hơn nhiều người trong quá trình năm trăm năm qua.

Về đổi thay, có người cho rằng như thế cũng là đủ. Và, ta đâu còn sức để đối đầu với thay đổi nữa. Có vị lại thấy mình chưa thay hoặc đổi gì nhiều cho lắm. Cần làm nhiều hơn nữa. Bởi, quá khứ của mình dầu sao cũng chưa khá. Chính vì thế, thánh Mátthêu nay yêu cầu ta ngồi lại với nhau, theo cách ít khi thấy, để suy nghĩ về một đổi thay thật rất mới. Và đó có là một đòi hỏi khá to tát, đối với ta không?

Nhìn vào Giáo hội quanh ta có thể là Hội thánh của ngày mai, hoặc rất chóng, ta cũng thực sự thấy đã có khác. Ít ra là mặt ngoài. Đây, không nói về đường lối ta phải theo. Mà, chỉ muốn nói đến dấu hiệu cho ta thấy những gì có thể sẽ diễn ra, mai ngày.

Đó là, cảnh thiếu hụt dần số lượng linh mục hoặc tu sĩ, ở nhiều nơi. Hoặc, cũng ít đi, xuất lễ vào những ngày cuối tuần. Hoặc, thường nhật. Sẽ ít đi, số giờ linh mục ngồi toà cáo giải, vì dân con của Chúa nay ít có nhu cầu. Ít đi dần, trường hợp người từ nhà gọi cha đến thực hiện phép bí tích. Càng ít dần, cảnh tượng từng cặp và từng cặp thừa tác viên đến gõ cửa mỗi nhà, mà giảng đạo. Ít có chuyện thăm kẻ liệt, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Hoặc, nhà quàn tự tổ chức tang lễ không có linh mục. Hoặc, vị phó tế vĩnh viễn đứng ra lo việc rửa tội, dù họ không có chức năng.

Và theo thiển nghĩ, cũng sẽ có nhiều đổi và thay khác, như: đám cưới tổ chức ở nhà thờ được sắp xếp, cách khác hẳn. Khác, giờ giấc. Khác, phụng vụ! Việc dạy giáo lý cũng sẽ khác. Và, vấn đề là: ta làm thế nào để dung hoà và ăn ý với những đổi thay, như thế này? Lâu nay, ta vẫn quen với thánh lễ bằng tiếng Anh (hoặc một số người từng như thế); và, quen với cung cách của vị chủ tế quay mặt về phía bổn đạo. Quen, với chuyện không để các tu sĩ hoặc nữ tu đến trường công lập mà dạy học. Quen, với chuyện trường Công giáo không chỉ dạy về những chuyện có liên quan đến Đạo, mà thôi. Và rồi, ta có quen dần với đổi thay này khác không? Và, có thích thế không?

Không phải ai cũng thích. Có số người chỉ muốn tái tạo lập lại quá khứ buồn. Tức, chỉ muốn quay trở về thời xưa cũ, có lối thờ phụng cung kính, cũng rất cổ. Và rất quen. Quen cầu Chúa phú ban nhiều linh mục hơn để giùm giúp. Có số người lại chỉ cảm tạ Chúa về nhiều thứ. Có người vẫn cứ cầu Chúa ban thêm cho mình nhiều ân huệ. Đồng thời, lại cứ chối bỏ chuyện cũ xưa. Trong khi đó, nhiều người khác vẫn cứ theo kiểu xưa lối cũ mà răm rắp giữ Đạo.

Hôm nay, thánh Mátthêu muốn làm một sự khác thường, với người đọc. Thánh nhân muốn đặt sự mới mẻ lên chuyện cũ. Muốn, đem cơ hội đổi mới những chuyện cũ, đã xa vời. Thánh nhân nhận rằng mình đã tìm ra ý nghĩa mới mẻ về cuộc sống. Về Chúa. Và về con người mình. Qua, kinh nghiệm sống. Thánh nhân cũng muốn kể cho người đọc biết kinh nghiệm lòng tin của mình. Về, những gì mình chưa từng nghĩ đến. Chưa từng thực hiện mà lại không phải qua thủ tục hoặc khuôn phép nào hết. Tựu trung, điều thánh nhân muốn nói đến, là: chính ông cũng là một dụ ngôn…

Cũng nên biết, sở dĩ thánh Mátthêu nói thế là muốn người đọc như ta, cũng đều là một thứ dụ ngôn, nào khác.

Trong mấy tuần qua, thánh Mátthêu từng kể cho ta nghe rất nhiều dụ ngôn/truyện kể về cuộc sống. Thánh nhân kể, cũng là để ta lắng tai nghe âm nhạc của đời mình để thấy được sự dồi dào, sung mãn ở nơi Chúa. Thánh nhân mời gọi ta tham gia sự mới mẻ trong cuộc sống, không phải để ta khiếp sợ những mâu thuẫn sẽ thấy nơi tình huống ta đang dấn bước, đi vào đó.

Vì thế nên, thánh nhân đã định nghĩa lại để ta thấy được căn tính của mình. Làm như thế, có nghĩa: ta là lớp người tuyệt vời hơn mình tưởng. Và, mỗi câu truyện đời của ta, cũng sẽ là những câu truyện lớn rất nên kể. Phải chăng đó cũng là câu truyện dụ ngôn, của mỗi người?

Trong tâm tình đầy cảm kích như thế, cũng nên ngâm thêm lời thơ ta từng ngâm khi trước:

“Nàng hãy vui đi dẫu một ngày,

dẫu phần ba phút, góc tư giây.

Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp,

cũng đủ cho nàng quên đắng cay.”

(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)

Hãy vui đi, dù xảy đến những đổi thay, hay rất mới, ở đời mình. Hãy cứ vui, dù trong thoáng chớp, nhìn như chớp. Vui, để biết rằng Hội thành Chúa vẫn đổi thay. Rất hằng ngày. Ở mọi nơi.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

“Chỉ chừng một năm thôi”,

CHuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 17 thường niên năm A 30/7/2017

“Chỉ chừng một năm thôi”,

Là quên lời trăn trối,

Ai nuối thương tình đôi,

Chỉ chừng một năm thôi.”

(Phạm Duy – Chỉ Chừng Đó Thôi)

 (Thư Êphêsô 4: 2-3)

 Vâng. Đúng thế. Ngày “N” hôm ấy, ở buổi Hát Cho Nhau Nghe tại Sydney đêm mùng 8 tháng 7 năm 2017, cả hát sĩ lẫn người đệm đàn đều đã nhè nhẹ nói lên những lời làm rụng đôi cánh hoa, ít khi nghe.

Vâng. Quả thật ở chốn văn chương/thi-tứ nhà Đạo, lại cũng thế. Cũng thấy đề-cập đến vấn đề nóng bỏng, giật gân và thời-sự như chuyện “linh-mục có vợ” hoặc chuyện “phụ nữ làm linh-mục” được phép thi-hành thừa-tác-vụ cao-siêu/nhiệm-mầu để rồi, cuối cùng thì: “cũng chỉ chừng đó thôi”.

Vâng. Đời người, vẫn thấy và vẫn nghe đâu đấy vang lên những câu ca thực-tế cứ bảo rằng:

 “Chỉ chừng một năm qua,

Là phai gầy hương cũ,

Hoa úa trong lòng ta,

Chỉ cần một năm xa…

Khi xưa em gầy gò đi ngang qua nhà thờ.

Trông như con mèo khờ, chờ bàn tay nâng đỡ.

Ta yêu em tình cờ, như cơn mưa đầu mùa,

Rơi trên sân cỏ già, làm rụng đôi cánh hoa.

Chỉ một chiều lê thê,

Ngồi co mình trên ghế,

Nghe mất đi tuổi thơ

Chỉ một chiều bơ vơ.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Thế đấy. Nếu biết rằng: cũng “chỉ chừng đó thôi”, thì đã làm gì có chuyện nhiêu-khê, tơi bời, rất vời vợi! Nhưng, “chỉ chừng đó thôi”, còn có nghĩa thế này:

 “Chỉ chừng một cơn mưa,

Để không ngờ chi nữa,

Đi dưới mưa hồng nghe

Giọt nhẹ vào tim ta…

Ta yêu em mù lòa, như Ađam ngù ngờ

Yêu Eva khù khờ, cuộc tình trinh tiết đó.

Nhưng thiên tai còn chờ, đôi uyên ương vật vờ

Chia nhau xong tội già, đày đọa lâu mới tha!

Chỉ là chuyện đong đưa,

Đời luôn là cơn gió

Thay áo cho tình ta

Chỉ là chuyện thiên thu…

Chỉ cần một cơn mưa, chẳng ai còn yêu nhau.

Nào ngỡ đâu tình yêu giăng bẫy nhau còn nhiều.

Nghe lòng còn kho giáo, nghe tình còn khát khao.

Nên gục đầu rất lâu, xưng tội cả kiếp sau.

Cả chiều người yêu nhau,

Còn ai là không thấu,

Len giữa u tình sâu

Một vài giọt ơn nhau…

… Tia sáng thiên đường cao rọi vào ngục tim nhau.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. “Tia sáng thiên-đường”, vẫn cứ “rọi vào ngục tim nhau”, “len giữa u tình sầu”, một vài giọt ơn nhau”. Ơn nhau đây, là: huệ/lộc soi-sáng chốn “thiên-đường” như “đám ngù ngờ” “yêu Eva khù khờ”, “cuộc tình trinh-tiết đó”…

 Vâng. “Thiên đường là đây”, vẫn thấy “thiên tai còn chờ, đôi uyên-ương vật-vờ”, “chia nhau xong tội già”, đày đoạ lâu mới tha.”

 Vâng. Cũng như thế. “Chốn thiên đường” nhà Đạo ở Úc này, hôm nay, lại thấy xảy ra cái-gọi-là “tội già”, “đày đoạ” đến độ bạn và tôi, ta không thể bỏ qua cho được. Tội già/đày đoạ đây, là: những tin tức…mình về đấng bậc nọ thuộc tầm cỡ thứ 3 ở triều-thần Vatican, vừa trải qua một thứ “đoạ đày” như báo/đài vừa thông báo:

“Nhân-vật đứng thứ 3 của Vatican, là Hồng y George Pell người Úc vừa được báo cho biết: ông phải ra hầu toà về một cáo-buộc là: ông đã “lạm-dụng tình-dục thời buổi trước”, lúc còn trẻ. Tin cho hay: kể từ ngày Hồng y được bổ-nhiệm làm Bộ trưởng Thánh-bộ Kinh tế-Tài chánh, với trọng-trách dọn/dẹp các vụ bê bối về kinh-tế/tài-chánh, của Giáo-hội.

 Hồng y George Pell đã cực-lực bác bỏ cáo-buộc có luận-điệu như thế. Ông sẽ không nương bóng đứng đằng sau trách-nhiệm của mình ở Vatican, nhưng đã lên kế-hoạch về lại Úc để nghe những đoạn nhạc vừa trổi lên. Trong lần tiếp xúc với báo-giới, ông tuyên-bồ: Vấn-đề này, lâu nay, được điều-tra có đến gần như hai năm trời rồi.

 Thật ra thì, báo-giới đã bắt chụp những tin rò rỉ từ đâu đó, khiến trở thành mưu-toan giết chết thanh-danh ông cách tàn-nhẫn đến độ hơn tháng trời nay, tin cho biết toà án Bang Victoria Úc quyết định ra trát buộc Hồng y Pell xuất-hiện trước công-đường để trả lời cho những cáo-buộc nói trên.  

Và, Hồng y George Pell lại cũng tuyên-bố:

Cuối cùng ra, điều mà tôi tiên-đoán trước đây, có nghĩa rằng: rồi ra, họ cũng sẽ buộc tôi hầu toà chỉ để công-khai kết tội tôi, mà thôi. Nhưng, tôi nhắc lại một lần nữa: tôi hoàn-toàn vô tội trước những cáo-buộc như thế. Cáo buộc này, hoàn-toàn sai sự thật; bởi, toàn-bộ ý-tưởng về chuyện lạm-dụng tình-dục xưa/nay đối với tôi vẫn là chuyện ghê-tởm không thể tưởng tượng nổi.”

 Thật dễ hiểu. Tin tức loan đi khắp nơi về những chuyện như thế đã làm chấn-động mọi người, đặc-biệt là những người không hay/biết rằng Cảnh-sát Bang Victoria, Úc đã mở cuộc điều-tra về chuyện này.

 Thế nhưng, chuyện Hồng y Goerge Pell than-phiền về một mưu-toan giết chết con người không thương tiếc; và lời than phiền ấy, không có gì là quá đáng. Đài ABC Úc cùng các báo/đài có uy-tín như tờ Sydney Morning Herald và The Age, cũng đã nêu bật lời đồn khen/chê, và chưa từng để luột mất cơ hội bôi nhọ tên tuổi Hồng y Goerge Pell.” (X. Michael Cook, Australia’s Cardinal Pellcharged with sex offences, MercatorNet 29/6/2017)

Thế đó, là tin-tức được người chủ-trương trang mạng mang tên MercatorNet đã loan-báo. Nhưng, lời nhận-định từ giới hiểu biết sự việc diễn ra ở giáo-triều Vatican, lại như sau:

“Hồng y George Pell, nay đã hết thời ở Vatican, rồi. Quí vị có thể đánh cá/cược về nền tài-chánh và tài-sản kếch-sù của Toà Thánh mà nói rằng, trên thực-tế, ông ta đã chấm-dứt không còn giữ chức-vụ Bộ-trưởng Thánh-bộ Kinh-tế/tài-chánh là cơ-quan chuyên giám-sát nguồn tài-sản to lớn ấy.

 Các cáo-buộc về Hồng y Pell đã lan-truyền nhiều năm nhưng chưa lần nào bị tắc nghẽn. Hồng y Pell luôn nhấn mạnh rằng ông vô tội, và tuần rồi ông cam-kết sẽ bạch-hoá tên tuổi mình trong sự-vụ gọi là “mưu-toan giết chết con người không thương tiếc. Rõ ràng là, ông đã mướn trạng sự nổi-tiếng của Melbourne là Robert Richter nổi tiếng chuyên biện-hộ các vụ hình-sự cho các nhân-vật kiệt-suất. Thế nên, đây sẽ là cuộc chiến tại toà kéo dài cả năm hoặc hơn nữa; và cũng kéo dài ngày đối với Toà Thánh Vatican trống vắng vị thủ-trưởng hoặc cánh tay mặt của ngài.

 Sự vụ liên quan đến Hồng y Pell làm ta liên-tưởng đến trường-hợp của Libero Milone, nhà tài-chánh người Ý sinh trưởng tại Hoà Lan, nhưng ăn học ở Anh và Hoa Kỳ. Vị thanh-tra 68 tuổi đời này được tuyển-dụng làm tổng Thanh-tra Toà thánh cho một thời-gian dài, nhưng ông này đã từ-nhiệm chức-vụ này mà không nói rõ lý-do chỉ vài tuần trước khi Hồng y Pell lấy ngày nghỉ. Cho đến nay, sự việc ông Tổng Thanh-tra này dừng bước trước công việc còn bề bộn vẫn là điều bí-ẩn, chẳng ai rõ biết duyên-do. Thanh-tra Milone chỉ tồn-tại có hai năm, trong khi Hồng y Pell lại chỉ làm có hơn 3 năm trong nhiệm-kỳ 5 năm.

 Nay thì Libero Milone đã rũ áo ra đi một lần là mãi mãi, trong khi Hồng y chỉ tạm thời ít năm thôi, và chức-vụ này hiện đang do hai nhân-viên cấp thấp đảm-trách, một là Đức Ông Alfred Xuerev, một linh mục người đảo Malta là thư ký riêng của Đức Bênêđíchtô 16 và làm cho Đức Phanxicô một thời-gian rất ngắn. Vị kia, là Đức Ông Luigi Misto từng là nhân-viên kế-toán làm việc tại Tổng Giáo-phận Milan dưới triều Hồng y Carlo Maria Martini. Kế-toán-viên này hiện trông coi bộ-phận hành-chánh trực-thuộc văn-phòng Kinh-tài của Toà thánh.          

 Nhiều quan-sát-viên và các bình-luận-gia chuyện Toà thánh lại vẫn tiên-đoán rằng: sự việc xảy ra mới đây, nói lên thảm-trạng đối với các cố-gắng của Đức Giáo-Hoàng nhằm cải-tổ hoạt-động kinh-tài của Vatican, trên bình-diện tổng-thể. Thế nhưng, bình-luận-gia người Ý của nhật-báo Corriero della Sera ở Milan là ông Massimo Franco lại tin rằng: việc đổi-thay nhân-lực mới đây, sẽ là cơ hội mới để công-cuộc cải-tổ trở về đúng với đường lối họ từng đặt. Trong vụ Hồng y George Pell, ông Massimo Franco còn cho biết: sự việc Hồng y Pell vĩnh-viễn rời bỏ Vatican sẽ xúc-tiến cuộc cải-tổ tài-chánh nhiều hơn là khiến họ dừng đứng. .

 Ông Massimo Franco cũng cho biết thêm rằng: cung-cách mà Hồng y George Pell xử-lý sự việc ờ Toà thánh, quả thật đắt giá và chẳng chút hiệu-năng nào hết. Bởi, thánh-bộ của ông lâu nay đụng-chạm nhiều với các thánh-bộ khác. Và, đặc-biệt trong các xung-đột này, sự việc thường thấy nhất là: các hành-xử của Hồng-y Pell hơi quá đáng về văn-hoá. Ông vẫn có thành-kiến chống bất cứ thứ gì mang tính-chất Ý-Đại-Lợi. Hồng y Pell còn đi xa hơn nữa, ở việc: bắt buộc mọi người phải sử-dụng tiếng Anh làm ngôn-ngữ chính trong thánh-bộ của ông. Và ông từng nói xa nói gần rằng: lâu nay, tham-nhũng là vấn-đề cố-hữu tồn-tại mãi trong phương pháp mà người Ý quản-trị về tài-chánh! Và, Hồng y Pell không ngần-ngại áp-đặt hệ-thống pháp-luật kiểu “bàn tay sắt” của người Anh-Cát-Lợi trên toàn thế-giới mà ông ít biết đến, nhưng Hồng y Pell vẫn một mực bác-bỏ những điều như thế.

 Nói tóm lại, theo ông Massimo Franco thì: lề-lối xử-sự cách “cộc cằn” và mặc-cảm tự-tôn văn-hoá đã là trở-ngại chính cho các cố gắng của ông để tiến tới công cuộc cải-tổ tài-chánh lớn rộng của Toà thánh.

 Nói cho cùng, thì: chủ-trương và cung-cách mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang thực-hiện nhằm cải-tổ nền tài-chánh của Toà thánh đang gặp khó khăn, thiết nghĩ Đức Phanxicô có lẽ phải chấp-nhận việc cải-tổ bất-toàn này sẽ không còn là cái giá mà ngài phải trả, nếu ngài muốn đạt mục-tiêu quan-trọng này.” (X. Robert Mickens, Cardinal George Pell’s Out. Now what? MercatorNet 03/7/2017)

Nhận-định này/khác từ giới quen biết ở truyền-thông Úc, thì như thế. Như thế, vẫn như thể: loan truyền tin-tức hoặc ghi-nhận chuyện thời-sự, cũng chỉ để người đọc mọi rộng tai/mắt mà xem xét thôi.

Truyền-thông báo giới hôm nay “coi vậy mà không phải vậy”, chút nào hết. Coi như thể không dính-dự vào bất cứ trường-hợp khó xử nào ở nhà Đạo; nhưng kỳ thật, lại cũng loan và báo những tin giật gân, động trời, đầy vấy bẩn.   

Truyền-thông/báo giới hôm nay, lại cứ đóng vai-trò “tưởng-chừng-như-đứng-ngoài”, nhưng trái lại, vẫn từng gây hại rất nhiều cho cả nạn-nhân lẫn người bàng-quan, đứng ngoài, không cần-thiết phải “biết hết mọi sự”.

Truyền-thông/báo giới hôm nay là thứ quyền-lực ngầm chuyên trị những sự kiện ngoài tầm đạo-đức/chức-năng của chính mình. Bởi thế nên, tin dữ càng được hoặc bị loan-truyền đi xa, càng làm người bàng-quan/vô-tư cứ bị lôi kéo vào vòng tròng/tréo rất khó xử.

Để tạo cho người và cho mình một tình-huống dễ sống và dễ thở hơn, có lẽ bạn và tôi, ta cũng nên bỏ mọi chuyện gây bứt rứt sang một bên, mà tìm về vườn hoa truyện kể để thư-giãn. Thư-giãn bằng truyện kể cảm-động có tên là “những bàn tay để nắm”:

“Truyện rằng,

 Một lần nọ, ông xã ngồi mân mê bàn tay tôi rồi hỏi: “Nói anh nghe, bàn tay này đã nắm bao nhiêu bàn tay rồi?” Một câu hỏi không hề dễ trả lời, thậm chí là không thể trả lời cho chính xác. Có những bàn tay ta nắm rồi buông, và chẳng bao giờ còn nhớ lại. Có những bàn tay, nắm rồi nhớ mãi dù năm tháng đi qua.

Bàn tay tôi nắm đầu tiên là của ai, là bố hay là mẹ? Tôi chắc chắn không biết. Nhưng tôi biết đó là hai bàn tay tôi đã nắm nhiều nhất thuở ấu thơ. Những bàn tay to, thô ráp bởi cày cuốc ruộng đồng, những bàn tay như thần thánh có thể làm hết thảy mọi việc. Bàn tay bố dắt tôi chập chững bước đi. Bàn tay mẹ cầm tay tôi uốn từng nét chữ.

 Bất cứ khi nào tôi ngã, hay khi tôi buồn khóc, ốm đau, sẽ có bàn tay rộng lượng chìa ra cho tôi nắm vào để biết rằng mình đang được vỗ về an ủi. Sau này lớn lên, tôi lấy chồng xa, thỉnh thoảng đưa con về thăm nhà, ngủ chung với mẹ. Những đêm chờ mẹ ngủ say, tôi cầm bàn tay mẹ áp vào ngực mình. Bàn tay vẫn to, đầy những nốt chai sần và nay đã nhăn nheo gầy guộc. Và tôi khóc, cảm giác nhớ tiếc một cái gì đó.

 Tôi nhớ bàn tay người con trai đầu tiên mà tôi gọi đó là mối tình đầu. Đôi bàn tay đẹp, dài với những chiếc móng được cắt gọt cẩn thận. Người ấy thường nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, dùng ngón tay mình vẽ vẽ vào lòng bàn tay tôi rồi hỏi: “Đố em biết anh vừa viết gì?”. Tôi lắc đầu. Anh cười nói anh viết rằng: “Anh muốn nắm tay em đi hết con đường đời dài rộng” .Nhưng rồi mọi lời hứa hẹn đều như gió thoảng mây bay. Bàn tay ấy đã buông lơi, thôi không còn nắm tay tôi mà tìm đến một bàn tay khác. Những lúc buồn, tôi vẫn vô thức tự vẽ vẽ lên lòng bàn tay mình. Rồi lại tự cười một mình khi nhận ra mình giống hệt một kẻ ngốc.

 Ngày có người con trai cầm tay tôi nói lời cầu hôn, tôi cảm nhận rõ sự gai góc xù xì trong bàn tay ấy. Cảm giác ấy khiến tôi liên tưởng đến bàn tay mềm mại của mối tình đầu, rồi chợt thốt lên: “Sao bàn tay anh xấu thế?”. Anh nhìn tôi, bật cười giải thích, vì nó không được lớn lên trong mượt mà nhung lụa mà lớn lên bởi những gánh nặng mưu sinh, vì nó không được nâng niu mà đã bao phen trầy da chảy máu. Rồi anh nhìn vào mắt tôi, bàn tay siết chặt bàn tay: “Em cứ tin, nó không đẹp nhưng chẳng ngại khó khăn nào cả, hãy cứ vững tâm mà nắm lấy, được không?”.

 Cuối cùng thì tôi đã nhận lời nắm lấy bàn tay ấy, để anh dắt lên xe hoa, để anh lồng vào ngón tay chiếc nhẫn cưới, để anh lau những giọt nước mắt ngày tôi về nhà chồng. Bàn tay ấy đã tự vào bếp nấu cho tôi bát cháo ngày tôi ốm, tự cắm hoa vào lọ những ngày kỷ-niệm yêu đương. Bàn tay ấy đã dắt tôi đi qua bao nhiêu ngày tháng chông chênh đan xen những lo toan và niềm hạnh phúc. Đôi bàn tay xù xì nhưng cứng cáp và ấm áp vô ngần.

 Ngày tôi đau tưởng chừng xé ruột để cho chào đời một sinh linh, đứa con gái bé bỏng của tôi sau khi được y tá tắm rửa sạch sẽ được đặt nằm cạnh mẹ. Hai bàn tay nhỏ xíu yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng chạm vào bàn tay con, hạnh phúc đến ứa nước mắt. Đó là khi tôi biết rằng mình đã thực sự trưởng thành, và tin rằng mình sẽ mạnh mẽ hơn để có thể che chở cho con, để dắt con đi suốt những tháng năm thênh thang phía trước.

 Những đêm nằm bên con, cầm lấy tay con đặt nhẹ lên môi hôn, chợt nghĩ rằng có lẽ ngày xưa mẹ mình cũng nâng niu và yêu thương mình nhiều đến thế. Rồi một ngày con gái mình sẽ lớn, sẽ lại đặt bàn tay vào một bàn tay khác mà con thương yêu. Chỉ mong con gặp đúng người để tin, và bàn tay không bị buông lơi trong nỗi đớn đau thất vọng.

 Ngày ông nội mất, tôi nghẹn lòng nhìn bà nội cầm tay ông kể lể về những tháng ngày xưa cũ khi ông bà còn trẻ. Hai người đã cùng nhau sống chung hơn nửa thế kỷ với bao nhiêu yêu thương, giận hờn, khổ đau, hạnh phúc. Vậy mà nay tay bà còn ấm, tay ông đã lạnh ngắt rồi. Chẳng ai cưỡng được số mệnh, chẳng ai đâu. Ai rồi cũng sẽ một ngày về nằm trong lòng đất. Có người ra đi trong ồn ào khóc lóc, có người lìa khỏi thế gian trong lạnh lẽo cô đơn. Người ra đi bởi đã trả xong nợ cõi trần. Chỉ là người ở lại sẽ mang nhiều nuối tiếc xót xa khi biết rằng bao nhiêu yêu thương lúc này cũng không thể sưởi ấm cho người được nữa.

 Thỉnh thoảng tôi vẫn đưa tay mình lên trước mặt rồi tự hỏi lại câu chồng mình đã hỏi: Bàn tay này đã nắm bao nhiêu bàn tay? Nhiều, nhiều lắm. Có những cái nắm tay khiến mình nhớ mãi, có những cái nắm tay buông rồi là quên ngay. Có những cái nắm tay thật chặt, cũng có cái nắm tay buông lơi hờ hững. Chợt nhận ra một bàn tay đẹp không phải là bàn tay thon dài mềm mại với những chiếc móng được tỉa tót sơn màu. Một bàn tay đẹp là chìa ra đúng lúc mình cần, nắm tay mình qua những đoạn đường đời chông chênh sỏi đá, dẫu mệt mỏi cũng không buông, dẫu xa xôi cũng không nản.

 Nếu chúng ta đang có những bàn tay để nắm, xin hãy trân trọng từng phút giây. Đừng mơ mộng những bàn tay xinh đẹp của ai kia mà buông lơi bàn tay gần gũi ấm áp ở bên mình. Nắm lấy tay nhau, cử chỉ ấy ấm áp hơn mọi lời nói yêu thương đầu môi chót lưỡi.

 Bởi cuộc đời nhiều bất trắc, ai biết được khi nào ai nhắm mắt xuôi tay. Ai biết được khi nào tay mình vẫn ấm áp đây mà bàn tay ai kia đã vô chừng lạnh lẽo. Vậy nên khi sống không đem đến cho nhau sự ấm áp, thì khi lìa khỏi nhân gian có bịn rịn tiếc thương cũng còn ý nghĩa gì?” (Lê Giang –  Dân Trí)

Truyện ở trên, là câu chuyện về nắm bắt tay/chân người khác, chứ không phải tay chân của chính mình. Trong việc nắm bắt ý-nghĩa mọi sự việc trong đời, đặc-biệt là đời đi Đạo, lại cũng thấy có những lời vàng từng bảo ban, như sau:

“Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn,

hiền từ và nhẫn nại;

hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.

Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất

mà Thần Khí đem lại,

bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau.”

(Thư Êphêsô 4: 2-3)

Nhằm thực-hiện cuộc sống “thuận hoà/gắn bó” với nhau ở đời thường, lại cũng đề nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm câu truyện ngắn khác hầu vui sống những tháng ngày tràn đầy các giao-dịch với mọi người ở trong họ, ngoài làng, rất như sau:

“Truyện rằng:

 Có một anh chàng dắt theo một con chó ngao Tây Tạng trị giá cả bạc triệu ra ngoài đi dạo. Anh ta hễ gặp ai cũng đều đem con chó ra khoe, lại còn huyênh hoang mà nói rằng: “Người không có bốn năm trăm cân sức lực thì không thể kéo nổi chú chó của tôi”.

 Lúc này, anh chàng nhìn thấy một ông già bị hói đầu bên đường cùng với một con chó gần như đã rụng hết lông đang ngồi bên cạnh. Con chó ngao Tây Tạng của anh ta hướng về phía con chó đó kêu sủa ầm ĩ, nhưng con chó già kia không thèm để ý đến nó.

 Chàng trai cảm thấy không vui. Nói rằng: “Ông lão này! Con chó của ông lớn thế kia, là giống chó gì vậy? Hãy để hai con chó của chúng ta đấu với nhau thử xem? Nếu chó của ông thua hãy đưa cho tôi 500 đồng, còn nếu chó ngao Tây Tạng của tôi thua thì tôi sẽ đưa cho ông 2000 đồng”.

 Ông lão nói: “Tôi đang lo lắng về thức ăn tháng sau của anh bạn già này đây! Nếu được thì hãy đánh cược lớn hơn một chút? Nếu chó của tôi thua, tôi sẽ đưa cho anh 5 vạn, còn nếu chó của anh thua thì anh hãy đưa cho tôi 3 vạn”. 

Anh chàng cười lớn: “Con chó này của tôi là giống chó ngao Tây Tạng thuần chủng. Sau này, ông đừng có nói là tôi đã không nói cho ông biết trước. Được thôi!” Hai con chó giao tranh chưa được hai phút, chó ngao Tây Tạng kia đã bại trận, cũng không còn dám kêu sủa gì nữa. 

Anh chàng thua mất 3 vạn đồng, vô cùng sầu não: “Ông này, con chó đó của ông là chó gì thế? Sao lại dũng mãnh thế kia?” Ông lão vừa đếm tiền vừa nói: “Đến bây giờ tôi cũng không biết nó là chó gì nữa, trước khi chưa rụng lông thì gọi là sư tử!”

 Anh chàng nghe xong thì cười không được mà khóc cũng không xong!!! Bất cứ lúc nào thì cũng đừng có khoe khoang, hãy giữ khiêm tốn! Khiêm tốn! Khiêm tốn hơn nữa! Bạn khoe khoang cái gì, điều ấy nói rõ bạn đang thiếu nó.

 Những người có bản lĩnh thật sự, luôn luôn bảo trì một trạng thái bình tĩnh ôn hòa, giống như ông lão đó và “con chó già” của ông, chỉ là điềm đạm ung dung mà tồn tại.

Bạn đã là sư tử rồi, thì đâu cần phải chứng minh làm gì nữa? Đâu cần phải khoe khoang làm gì nữa?

 Con người sống ở trên đời, không phải là để so đo với người khác. Bản thân hãy sống sao cho có ý nghĩa nhất, và làm ra những cống hiến vĩ đại nhất.”(Truyện kể rút từ trang mạng gồm đầy những câu truyện để kể cho nhau nghe)

Phiếm-luận chuyện Đạo/đời ngày hôm nay, còn là kể cho nhau nghe một cách phiến-phiến những truyện kể dù không đáng kể, chỉ để minh-hoạ vấn-đề gì đó ta bàn, rày cũng đặng. Phiếm-luận chuyện nghiêm-túc ở trong Đạo hoặc chuyện vẩn vơ ở ngoài đời, còn là công việc của bạn, của tôi vào lúc này. Những lúc hoặc những ngày, ta có rất nhiều chuyện để bàn và để tán, như hôm nay.

Thế nhưng, chuyện gì rồi cũng đi đến phần kết dù hay hoặc dở. Và hôm nay, đi vào phần kết-luận một chuyện phiếm, tưởng cũng nên đề nghị bạn và tôi, ta lại cứ ngước mặt lên cao, hát lại những ý/lời của nhạc-bản mang đầu đề “Chỉ chừng một năm thôi”; để rồi sẽ coi mọi chuyện như “không có gì để ầm ĩ”, không còn tán rộng ra như thế.

Quyết thế rồi, nay ta mọi mọi người hãy hát những lời như:

“Chỉ chừng một cơn mưa,

Để không ngờ chi nữa,

Đi dưới mưa hồng nghe

Giọt nhẹ vào tim ta…

(Phạm Duy – bđd)