Dien Hong Tran

Không đùa
Tôi đã có 3 stt đùa chơi với kiểu thay chữ của Bùi Hiền. Tuy nhiên, đã cười hết rồi, giờ là lúc không cười.
Chuyện chế chữ không có gì mới. Người ta vẫn thường chế chữ “iu” thay cho chữ “yêu” hay “ăn fở” thay cho “ăn phở”.
Từ khi có internet thì các bạn trẻ đã chế không biết bao nhiêu là chữ như j (gì), hok (không), ck (chồng), vk (vợ)… nhưng chỉ quanh quẩn trong phạm vi tin nhắn, chít chát.
Bộ Giáo dục đã từng có đề nghị đưa các chữ cái quốc tế như W, F, Z, J vào tiếng Việt, do ông Quách Tuấn Ngọc, cục trưởng cục CNTT Bộ Giáo Dục đề nghị.
Bạn Nguyễn An Biên đề nghị cải tổ tiếng Việt theo cách dùng 4 ký tự quốc tế W, F, Z, J thay cho một số từ hiện hữu
– Bỏ chữ ghép PH, vì có chữ F thay thế.
– Bỏ chữ ghép GI, vì có chữ J thay thế.
– Bỏ chữ Ư, vì có chữ W có thể thay thế.
– Đổi chữ Đ hiện tại thành D, và chữ Z sẽ dùng thay vai trò của chữ D hiện tại.
– Bỏ các chữ GH, vì chữ đơn G đã đủ để gánh cả vai trò của nó.
– Bỏ chữ NGH vì chữ NG đã thay thế được nó.
…
Tất cả các sự thay thế đó chỉ nhằm mục đích làm gọn chữ mà không làm thay đổi ý nghĩa của tiếng Việt. Đó là những suy nghĩ nghiêm túc dù không được chấp nhận.
Tuy nhiên, điều gây chấn động của Phó Giáo Sư – Tiến Sĩ Bùi Hiền là ngoài việc ông thay chữ một cách thô bạo, thiếu căn cứ (thay W cho TH, Q thay cho NG…), ông đã đạp đổ hầu như tất cả hệ thống tiếng Việt khi gom chữ lại với nhau. Chuyện ông muốn thay chữ này bằng chữ khác thì không mới, nhưng chuyện ông gom chữ mới là mới.
– Ông gom chữ CH với TR làm một.
– Chữ D, Gi, R làm một.
– C, Q, K làm một.
– S và X làm một.
Điều đó có nghĩa là trong tâm trí của ông thì Chí và Trí là như nhau, Trung và Chung là như nhau, Trước và Chước là như nhau, Trồng và Chồng là như nhau… Hai Bà Trưng và Hai Bà Chưng là như nhau. Hồ Chí Minh và Hồ Trí Minh là như nhau?
Điều đó có nghĩa là trong tâm trí của ông, trong kiến thức của ông, trong sự nhìn nhận của ông trong suốt cuộc đời thì Da và Ra là như nhau, Giầy và Dầy là như nhau, Giữ và Dữ là như nhau…
Điều đó có nghĩa là cho đến gần cuối đời, ông không phân biệt được Ký và Quý, Kéo và Quéo.
Điều đó có nghĩa là ông không hiểu sự khác nhau của Xuất và Suất, Xa và Sa, Xo và So, Xe và Se.
Có lẽ ông nghe dân miền Bắc không phân biệt được TR và CH, không phân biệt được Gi, D và R khi phát âm mà gom cả hai vào một chăng? Nếu ông có ý nghĩ đó thì sẽ không còn lạ khi mà sách vỡ lòng tiếng Việt dạy cho trẻ con là “cây lêu” thay vì “cây nêu”, “đám dỗ” thay vì “đám giỗ”. Điều này đã xảy ra trong thực tế, sách do nhà xuất bản Giáo dục ấn hành. Và như vậy thì ông sẽ gom luôn N và L làm một cho đủ bộ.
Thực tế thì dân miền Nam vẫn thường gọi “ông Trời” là “ông chời”, nhưng không vì vậy mà viết “ông Chời”. Dân miền Nam cũng đọc R thành Z hay G, “đi ra, đi vô” đọc thành “đi za, đi zô”, hoặc “bắt con cá gô bỏ zô gổ nó kêu gột gột”… nhưng không vì vậy mà không phân biệt được sự khác nhau giữa da, dô và ra, vô, cá rô và cá gô.
Thật sửng sốt khi ông lại là Phó Giáo Sư, Tiến Sĩ của ngành giáo dục, đã từng giữ các chức vụ quan trọng (nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội).
Lẽ nào câu nói “trăm năm trồng người” lại có thể tương đương với “chăm năm chồng người?”.
Không thể cười được với cái trò ma quỷ làm ảo thuật này. Trong khi sự thay đổi mẫu tự chỉ làm cho câu chữ trở thành ngây ngô, quái đản mà trước đây không ai chấp nhận thì việc đánh đồng âm vần trong ngôn ngữ Việt Nam lại chính là một hành vi có tính phá hoại văn hóa, phá hoại ngôn ngữ quốc gia, sỉ nhục tri thức người Việt.
Nếu không nói rằng đây là những kiến thức và phát minh ma quái thì chỉ còn một đường duy nhất là ông Bùi Hiền bị bệnh tâm thần, cần chữa trị.
Hơn cả dinh của vua Bảo Đại thời phong kiến !
Chiều nay 26.11, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên đã ra quyết định kỷ luật, xóa tên luật sư Võ An Đôn khỏi danh sách đoàn LS Phú Yên với phiếu thuận là 66,66%.
Theo quy định tại Điều 18 Luật Luật sư v/v “Thu hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư”, thì việc xoá tên được coi như rút thẻ hành nghề; Khi đó các hoạt động pháp lý không được thực hiện với vai trò là luật sư nữa.
—
Luật sư Võ An Đôn (1977) là trưởng Văn phòng luật sư Võ An Đôn, tại tỉnh Phú Yên. Anh được biết đến nhiều khi tham gia một số vụ án được cho là nhạy cảm như các vụ kiện liên quan tới công an đánh chết người, dân oan, gần đây là vụ của chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm).
Vào giữa tháng 8.2017, LS Võ An Đôn đã nhận được văn bản “Thông báo xem xét kỷ luật Luật sư” do Chủ nhiệm Đoàn LS tỉnh Phú Yên Nguyễn Hương Quê ký. Theo văn bản đó, thì lý do là “Trên trang mạng xã hội facebook Đôn An Võ có nhiều bài viết nói xấu LS, đăng tải các clip phỏng vấn giữa LS Võ An Đôn với các đối tượng ở nước ngoài với các nội dung kích động, xuyên tạc không đúng sự thật gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước và giới LS Việt Nam”.
Như vậy, trong phiên phúc thẩm Mẹ Nấm Quỳnh ngày 30.11 tuần sau sẽ không có mặt luật sư Đôn!
Bởi AdminTD –
Trung Nguyễn
24-11-2017
Có hai hình ảnh trên thế giới khiến tôi rất xúc động trong những ngày qua. Thứ nhất là đoạn video clip một người lính Bắc Hàn bỏ trốn sang Nam Hàn và bị bắn trọng thương. Thứ hai là hình ảnh người dân Zimbabwe đổ ra đường hò reo ăn mừng việc cựu Tổng thống Robert Mugabe từ chức.
Chế độ độc tài đảng trị hủ bại ở Bắc Hàn
Đã qua thế kỷ 21 được gần 20 năm rồi nhưng vẫn còn những người phải liều chết để trốn chạy các chế độ độc tài, ở đây là chế độ cộng sản Bắc Hàn. Người lính Bắc Hàn đó đã bị chính các đồng đội bắn trọng thương nhằm ngăn cản anh bỏ trốn.
Theo những người Bắc Hàn đã trốn thoát chế độ thành công, thanh niên Bắc Hàn bị buộc đi nghĩa vụ quân sự 10 năm. Tuy nhiên, thường thì họ tự nguyện đi vì nếu họ làm dân thì sẽ không có gì để ăn. Ít nhất ở trong quân ngũ họ còn có khẩu phần ăn để không bị chết đói. Cuộc sống kham khổ đến nỗi phụ nữ cũng phải xung phong vào quân đội và thậm chí bị tắt kinh.
Ở trong ruột người lính Bắc Hàn bị bắn, các bác sỹ phát hiện ra rất nhiều giun, có con dài tới 27 cm, cho thấy cuộc sống của người dân ở chế độ cộng sản Bắc Hàn thê thảm như thế nào. Và những người đang cai trị đất nước đó vẫn được những giới cầm quyền Việt Nam gọi là “đồng chí”.
Tôi đoán là các đồng đội của anh lính Bắc Hàn đó cũng rất muốn có thể trốn thoát thành công như anh dù phải trả giá bằng việc bị trúng đạn. Họ cũng muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn và được sống với đúng nghĩa một con người, có những quyền con người tối thiểu. Tuy nhiên, chế độ Bắc Hàn khống chế họ qua gia đình, người thân. Nếu họ bỏ trốn thì gia đình họ sẽ phải trả giá rất đắt.
Vì vậy, tôi đoán anh lính Bắc Hàn đó không còn người thân thích nào, là trẻ mồ côi.
Cây cột điện cũng bỏ nước mà đi
Thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi sau năm 1975. Nguồn: QPOL
Nhìn cảnh anh bỏ chạy, tôi nghĩ những người sinh sau 1975 có thể hình dung ra được lý do đồng bào miền Nam nói riêng và cả nước nói chung phải lên thuyền vượt biên sau khi chế độ cộng sản được thiết lập trên toàn quốc. Họ sẵn sàng chấp nhận cái chết để có thể có “quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” mà ông Hồ Chí Minh đã trích từ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và đọc trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ngày 2/9/1945.
Không phải từ thời vượt biên những năm 80, mà ngay mới đây thôi, vào tháng 3/2017, ba gia đình ở Bình Thuận đã quyết định lên một con thuyền gỗ mỏng manh để vượt biên đến Úc. Họ đã tuyên bố nếu chính phủ Úc trục xuất họ về Việt Nam thì họ sẽ nhảy xuống biển tự tử chứ không bao giờ trở lại Việt Nam.
Ngay cả một cô bạn của tôi, một doanh nhân trẻ thành đạt, mới đây cũng đã lên đường đi Canada định cư. Lý do cô nói với tôi là cô chán phải đối phó với nạn “hành dân là chính”. Cô cũng không muốn đứa con nhỏ của cô phải ăn thực phẩm bẩn, hít thở bầu không khí ô nhiễm, và phải chấp nhận nền giáo dục lạc hậu, tẩy não ở Việt Nam.
Câu nói dân gian hay truyền tụng là “ở Việt Nam, nếu cây cột điện biết đi thì nó cũng đã bỏ đi” chưa bao giờ thấm thía với tôi như thế! Và tôi nghĩ nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam có lương tri thì tối ngủ họ cũng phải vắt tay lên trán suy nghĩ xem tại sao dưới sự lãnh đạo “sáng suốt và tài tình” của họ mà dân muốn bỏ nước ra đi.
Vận mệnh [sụp đổ] tương quan
Có đau đớn như vậy thì tôi mới cảm nhận được niềm vui vỡ òa của người dân Zimbabwe khi nhà độc tài tự nhận là người Mác-xít đã cầm quyền 37 năm của họ, ông Robert Mugabe, từ chức. Từ đây báo hiệu một chặng đường lịch sử mới của Zimbabwe.
Nhà độc tài Mugabe đã ra đi nhưng đảng độc tài ở Zimbabwe là Zanu PF vẫn còn đó. Và người dân, các chính trị gia dân chủ ở Zimbabwe còn rất nhiều việc phải làm ở phía trước.
Tôi biết thâm tâm các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đang rất run. Cứ mỗi lần một chế độ độc tài trên thế giới sụp đổ là họ biết họ thêm cô đơn. Lúc cuộc cách mạng dân chủ Mùa Xuân Ả-rập bắt đầu từ năm 2010 diễn ra, quản giáo không cho các tù nhân chính trị ở Việt Nam đọc báo nữa vì sợ nắm bắt tin tức mà… lên tinh thần. Còn bên Trung Quốc cũng vậy, an ninh được bố trí dày đặc ở các nơi công cộng, hễ ai cầm hoa nhài là sẽ bị bắt ngay vì sợ kích động Cách mạng hoa Nhài giống Tunisia ở Trung Quốc.
Đó cũng là lý do mà hai đảng cộng sản ở Việt Nam và Trung Quốc phải ôm nhau mà hò hét “vận mệnh tương quan”. Đảng nào sụp đổ thì đảng còn lại sẽ rất cô đơn và nhanh chóng… đi theo.
“Thanh gươm và lá chắn” an ninh rệu rã
Tôi từng ngồi nói chuyện với một đại tá, chính ủy một đơn vị quân đội lớn ở Việt Nam. Ông nói rằng ông và các bạn của ông trong Tổng cục 2 (Tình báo quân đội) hiểu rất rõ dân chủ rất cần thiết cho Việt Nam. Ông cũng biết rõ lãnh đạo đảng cộng sản đang làm sai, lạm dụng quân đội để thi hành chế độ độc tài đảng trị. Tuy nhiên, vì miếng cơm manh áo nên ông phải tiếp tục phục vụ cho chế độ.
Một số sỹ quan an ninh công an mà tôi biết cũng xin bỏ ngành vì họ thấy những việc họ làm là bất nhân và vi phạm pháp luật, đạo lý.
Các lãnh đạo đảng cộng sản thừa biết điều này. Đó cũng là lý do Nghị quyết Trung ương 4, đại hội 12 của đảng cộng sản kêu gọi “chống tự diễn biến, tự chuyển hóa”.
Nghĩa là tiếng nói phản đối chế độ đảng trị của chính các đảng viên cộng sản còn gây lo lắng cho họ hơn các “thế lực thù địch” bên ngoài nhiều.
Do đó, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu một ngày đẹp trời nào đó, các tướng lãnh Việt Nam cũng “mời” dàn lãnh đạo của đảng cộng sản phải chấp nhận trả lại quyền làm chủ cho người dân, chấp nhận bầu cử tự do và công bằng.
Chế độ sụp đổ là chắc chắn
Dù các tướng lãnh không hành động thì tôi cũng biết là chắc chắn chế độ độc tài đảng trị sẽ ra đi vì đó là quy luật bất biến của lịch sử. Chỉ có điều sau đó sẽ là một chế độ dân chủ tốt đẹp hay lại là một tình trạng hỗn loạn thì tôi không biết.
Các quan chức cộng sản cũng biết rõ điều này. Do đó con cái họ đi du học nước ngoài và không trở về. Chính nguyên thứ trưởng bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng cũng phát biểu tại kỳ họp Quốc hội năm 2015:
“Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về.”
Do đó, thật sự dân chủ hóa ở Việt Nam không khó như các quốc gia khác vì tâm lý của các lãnh đạo, cán bộ cộng sản đã rệu rã vì họ biết họ sai và họ sẽ sụp đổ. Họ chỉ đang cố gắng câu giờ, kéo dài thời gian càng lâu càng tốt. Họ đã chuẩn bị để bỏ chạy thì sự sụp đổ sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc họ quyết tử ở lại Việt Nam giữ chế độ tới cùng.
Người Hàn Quốc nhìn Việt Nam và ghen tị vì ít ra, Việt Nam đã thống nhất được hai miền Nam Bắc về mặt địa lý. Tuy nhiên, do chế độ độc tài đảng trị tước đoạt quyền làm chủ bình đẳng của người dân nên lòng người Việt Nam đang chia rẽ nặng nề giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trả lại quyền làm chủ cho dân là giải pháp cho lãnh đạo
Thế thì lời khuyên cho các nhà lãnh đạo cộng sản là hãy trả lại quyền làm chủ cho người dân, thực hiện đoàn kết quốc gia trên nền tảng pháp luật chuẩn mực như những gì đảng cộng sản đã hứa hẹn với người dân. Cùng là đồng bào Việt Nam với nhau thì người dân cũng dễ tha thứ, bao dung hơn để cùng nhau đi tới, xây dựng lại đất nước có được “dân quyền hiện thực, pháp quyền chuẩn mực, chính quyền chính trực”.
Dựa vào dân thì thế và lực của lãnh đạo Việt Nam sẽ mạnh hơn rất nhiều là đi dựa vào các thế lực bên ngoài.
Còn nếu các nhà lãnh đạo cộng sản cứ cương quyết bám vào Trung Cộng để tồn tại thì số phận họ sẽ rất thê thảm vì Trung Cộng chẳng thương xót gì người dân Việt Nam, và càng khinh những kẻ bán nước như họ. Lịch sử không thiếu những bài học như thế này.
Đoàn kết với nhau một cách có tổ chức là giải pháp cho người dân
Trở lại với người dân Việt Nam, trong hoàn cảnh về tâm lý và tổ chức của đảng cộng sản cầm quyền đã rệu rã như vậy, nếu trong nước không thể hình thành các tổ chức chính trị, các chính đảng dân chủ chân chính, có tổ chức chặt chẽ thì sẽ rất khó để chế độ đảng trị bị lung lay.
Hãy nhớ lại vào cuối những năm 80, đầu những năm 90, kinh tế trong nước khó khăn do tham chiến ở Campuchia, siêu lạm phát, Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không còn viện trợ, giới lãnh đạo đảng cộng sản khi đó rất lo sợ nhưng cuối cùng họ đã vượt qua được vì người dân Việt Nam khi đó đã không biết đứng cùng nhau tạo thành tổ chức để có sức mạnh.
Tôi nghĩ vẫn nên nhắc lại lời của Lênin, bậc thầy của người cộng sản: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên”. Theo đó, không có các tổ chức đảng dân chủ mạnh thì cuộc cải cách dân chủ sẽ không thể thành công.
Dĩ nhiên, làm sao để hình thành các tổ chức chính trị dân chủ lớn mạnh ở Việt Nam thì đó là câu hỏi mà các chính trị gia dân chủ ở Việt Nam phải trả lời và thực hiện. Và tôi biết đó là một con đường dài.
© Copyright Tiếng Dân
Suy tư về cái chết là suy tư về cái sống. Chết là một phần của sự sống bỡi lẽ trong sự sống đã có sự chết. Nó là cánh cữa nối liền hai thế giới như cữa sông đưa giòng nước vào nguồn biển rộng mênh mông. Nó là người bạn trung thành nhất của chúng ta. Nó là người bạn duy nhất không bao giờ quên chúng ta và nó có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào, vào sáng sớm tinh sương hay vào lúc đã về xế chiều.
Chúng ta không cần nói đến những cái chết đến với chúng ta từ những nguyên nhân bên ngoài như do tai nạn, sự mưu sát, hay một nguyên nhân nào khác không cần biết. Chỉ cần nói đến sự chết đang nằm sẵn trong bản tính con người chúng ta. Như một hoa trái đang chín dần, mỗi ngày sống là một bước đi chúng ta đang tiến dần về với cái chết đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Bên cạnh đó, trong cuộc sống hằng ngày cũng còn có rất nhiều những mất mát, những thua thiệt khiến chúng ta cũng đã chết đi phần nào trong con người chúng ta như mỗi khi chúng ta phải lựa chọn hay mỗi khi phải ra đi. Mỗi lúc lựa chọn là mỗi lúc phải quyết định từ bỏ. Từ bỏ khiến chúng ta phải mất đi một phần những cái thuộc về chúng ta và điều đó làm chúng ta đau khổ và chết đi không ít. Mỗi khi chúng ta phải lên đường ra đi vì công việc hay vì cuộc sống cũng vậy. Chúng ta phải dứt bỏ tình cảm quen thuộc, dứt bỏ sự quyến luyến tự nhiên mà một khi đã quen nhau chỉ muốn ở gần nhau. Sự ra đi lúc nầy quả thật là một sự thương đau và cũng là một sự chết đi trong lòng không ít cho người phải ra đi, vì không có ra đi nào không làm lòng mình tê tái, cũng không có ra đi nào không để lại nỗi nhớ thương. Nhưng chưa hết, không phải chỉ lúc chúng ta ra đi chúng ta mới cảm thấy đau thương mà cả sự ra đi của những người thân yêu chúng ta cũng để lại những cảm giác thương đau rất nhiều. Mỗi người chúng ta thảy đều có kinh nghiệm nầy: cứ mỗi lần có một người bạn thân hay một người trong gia đình chúng ta vĩnh viễn ra đi, chúng ta thấy gì trong con người chúng ta ? Chúng ta cảm thấy con người chúng ta cũng chết đi với họ, bằng chứng là chúng ta thấy mất hẳn sinh lực, mất hẳn tinh thần, cũng như mất hẳn niềm vui để sống.
Cứ theo định luật tự nhiên, con người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết. Đó là định luật chung của con người. Không ai có thể sống mãi mà không chết ngay dầu các vua chúa ngày xưa đã cố gắng đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng họ cũng không tránh khỏi định luật khắc nghiệt ấy. Vì thế, chối từ sự chết là lừa dối chính mình. Để sống cách trọn vẹn, người ta phải can đãm chấp nhận sự sống lẫn sự chết. Sự sống quá tự nhiên đến nỗi chúng ta không nghĩ đến ngày nó kết thúc.
Thái độ của con người đối với sự chết luôn là một sự giằng co giữa sự lôi cuốn và sự khước từ. Mọi người đều nhận ra rằng sự sống là mỏng manh, là ngắn ngủi và nó có thể kết thúc bất cứ lúc nào.
Chính những tư tưởng về sự chết đưa chúng ta đến vấn nạn nầy: Cái gì là chính yếu, là trường cửu đối với con người chúng ta ? Chúng ta cần phải làm gì để đối đầu với cái chết đang đến với chúng ta ? Vì thế, phản ảnh về sự chết là học cách chúng ta phải sống hôm nay.
Người xưa đã sống đời sống như có một sự sống khác quan trọng hơn là cuộc sống ở đây và bây giờ, khiến họ sống cách xa cuộc sống hiện tại. Nhưng đối với giới trẻ hôm nay, họ không thể chấp nhận cuộc sống như thế.
Thật vậy, nếu chối từ cuộc sống chúng ta đang sống hiện tại hoặc chỉ chú trọng đến cuộc sống hôm nay mà không nghĩ đến ngày mai chúng ta sẽ chết, cả hai đều không thực tế. Vì thế, một số các nhà tâm lý học có khuynh hướng KiTô giáo hiện đại đang có khuynh hướng nầy: Sống là chuẩn bị cho con người đi về với cái Chết. Chính tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều người thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng khi con người đối diện với cái chết, và nhờ đó cũng đã giúp nhiều người chuẩn bị sẵn sàng để lên đường ra đi cách an bình về với Thiên Chúa và về với những người thân yêu của họ bên kia thế giới. Cũng chính những tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều nhà giàu sang phú quí thực thi đức bác ái, biết dùng của cải đời nầy để mua lấy nước trời bằng cách chia xẻ phần nào những của cải của họ cho những người nghèo khổ và nhờ thế nhiều người bất hạnh đã có được một đời sống tương đối xứng đáng với phẩm giá con người hơn.
Nói đến đây, tôi nhớ đến câu chuyện về hành vi thiếu bác ái của một người bạn đồng nghiệp của tôi. Câu chuyện xem ra quá bình thường nhưng đã để lại một ký ức không mấy tốt đẹp cũng như đã để lại một sự hối hận suốt đời cho người bạn già của tôi. Hy vọng nó có thể giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm sống cho những ngày còn lại của chúng ta trên trần gian nầy.
Trong chuyến du hành sang Hy Lạp, trên con đường từ Athens đến Kalambaka, người bạn già của tôi đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông như sau:
Chiều hôm đó, khi đi ngang qua một làng nhỏ của người da đen trong sa mạc Sahara. Như thường lệ, khi có một người khách đến, mọi người trong làng chạy ra vây bao quanh xe khách hoặc tò mò, hoặc để giành lấy những thực phẩm mà du khách thường mang theo để tặng họ. Hôm đó, tôi có nhìn thấy một ông lão già đang run lập cập vì lạnh. Nói về cái lạnh trong sa mạc xem ra là khó tin nhưng thực tế là thế. Sahara thường được gọi là xứ lạnh vào đêm nhưng rất nóng dưới ánh quang mặt trời. Mặt trời lặn rồi, ông lão lạnh cóng. Bấy giờ, tôi có ý nghĩ cho ông ta một trong những chiếc mền của tôi, nhưng tôi lại để tư tưởng đó qua đi vì tôi nghĩ đêm đến tôi cũng sẽ cóng lạnh như vậy. Dầu tôi lý luận: ông có thể quen với thời tiết ở đây hơn tôi, nhưng một chút bác ái trong tôi cũng đã khiến tôi suy nghĩ lần nữa, tốt hơn là cho ông ta một chiếc dẫu tôi có lạnh hơn một chút. Tuy vậy, khi tôi rời bỏ ngôi làng, những chiếc mền vẫn còn nằm nguyên vẹn trên chiếc xe của tôi. Bấy giờ, lương tâm tôi bắt đầu cắn rứt.
Khi đến nơi tôi có ý định đến, tôi rảo một vòng đi tìm một chỗ để yên nghỉ và tôi đã tìm được một nơi vừa ý thích. Tôi cố gắng nằm yên tựa chân lên một hòn đá lớn, nhưng rồi tôi vẫn không yên tâm được. Tôi nhớ cách đó một tháng, một người da đen đã bị nghiền nát bỡi một tảng đá to rơi xuống. Nên tôi đã ngồi dậy để xem tảng đá chỗ tôi đang nằm có bảo đảm không. Tôi thấy nó không được cân bằng cho lắm nhưng không đến nỗi nguy hiểm.
Tôi lại nằm xuống. Nếu tôi kể lại điều mà tôi mơ thấy, có lẽ bạn sẽ cảm thấy lạ lùng. Điều đáng buồn cười là tôi mơ thấy tôi đang ngủ dưới một hòn đá lớn và rồi vào một lúc, tôi thấy hòn đá di động và rơi xuống trên tôi. Tôi nghe thấy tiếng xương kêu răng rắc và tôi cảm thấy mình sắp chết vì cả thân xác bị nghiền nát dưới tảng đá ấy. Nhưng tôi ngạc nhiên vì không cảm thấy mình đau đớn gì cả, chỉ có một điều là không thể cử động được. Bấy giờ tôi thấy ông lão đang run rẩy trước mặt tôi. Không do dự một chút nào cả, tôi vội vàng lấy ngay một chiếc mền không được dùng đến đang nằm đàng sau tôi để trao cho ông. Tôi cố gắng giang tay ra để đưa nó cho ông. Nhưng viên đá khổng lồ ấy khiến tôi ngay cả một cử động nhỏ cũng không thể làm được. Tôi sợ quá nên chợt tỉnh giấc. Chính cơn ác mộng ấy đã giúp tôi suy nghĩ và hiểu được luyện ngục là gì, cũng như đã hiểu được nỗi khổ đau của các linh hồn là không còn có thể làm được điều mà trước đây họ có thể và lẽ ra nên làm.
Có ai biết được bao nhiêu năm trời sau đó tôi cứ phải bị ám ảnh và ray rứt trong lương tâm mỗi khi nhìn thấy chiếc mền như một bằng chứng cho sự ích kỷ của tôi cũng như cho sự chưa đủ trưởng thành của tôi để vào nước của Tình Yêu?
Tôi cố gắng nghĩ đến bao lâu tôi đã phải ở dưới hòn đá khổng lồ ấy ? Và có sự đáp trả cho tôi rằng cho đến khi tôi có thể làm được một hành động của tình yêu trọn vẹn. Bấy giờ, tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực.
Tôi đưa mắt hướng nhìn đi nơi khác và tôi đã nhìn thấy những bia đá đang nằm trước mặt tôi không gì khác hơn là những nấm mồ của những người đã nằm xuống. Họ cũng vậy, cũng bị xét xử theo hành động trọn vẹn của tình yêu của họ, và giờ đây họ nằm ở đó đang mong chờ Vị Cứu Thế đến giải cứu họ trong ngày sau hết.
Hành động trọn vẹn của tình yêu là gì ? Là Chúa Giêsu đi lên đỉnh đồi Calvê để chết cho hết thảy chúng ta. Như những phần tử của nhiệm thể, chúng ta cũng sẽ được hỏi để cho thấy chúng ta có đủ tình yêu trọn vẹn ấy để theo Ngài lên đỉnh đồi Calvê không ? Sự khước từ làm những việc bác ái cho những người anh em chúng ta nói lên cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn có cả một con đường dài nữa phải đi. Nếu chúng ta đã có thể đi qua một người anh em đang run rẩy vì lạnh, một người anh em đang gặp hoạn nạn bên vệ đường, làm cách nào chúng ta có thể dám chết đi cho những người anh em khác như Chúa đã chết đi cho hết thảy chúng ta.
Nếu chúng ta không muốn nằm lâu bất động dưới những viên đá khổng lồ đó thì bây giờ ngay khi còn sống, hãy làm những gì chúng ta có thể làm được cho những người anh em chúng ta để làm hành trang chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa gọi chúng ta lên đường về bên kia thế giới.
Lm. Lê Văn Quảng
Hai chữ “đời sau” là có ý muốn nói đến “sau cái chết”. Người ta tin rằng sau khi chết đi, mình vẫn còn sống theo một cách thức nào đó, chỉ có điều, sự sống ấy như thế nào, giống và khác với sự sống mà ta đang thụ hưởng ra sao, thì chẳng ai biết được cả. Dù không biết chính xác, nhưng trong tận thâm tâm, người ta tin là nó sẽ tuyệt vời hơn bây giờ rất nhiều, rằng “người đã chết” ấy hiện diện trong một trạng thái thuần linh, “người đó” có thể nhìn thấy chúng ta, nghe biết và chứng kiến mọi chuyện đang diễn ra trong thế giới này. Thậm chí, người ta còn tin rằng, “người đã chết”, vì không còn bị kìm kẹp bởi vật chất nữa, nên “thần thông quảng đại” hơn, có thể làm được nhiều điều mà chúng ta không thể làm được. Đó là lý do vì sao chúng ta thường dành một sự cung kính cho người quá cố, chúng ta thắp cho họ nén hương, khấn vái, cầu khẩn… Nhiều người còn dâng cúng đồ ăn thức uống, trò chuyện với người đã khuất.
Ở đây, ta tạm thời không bàn đến những tranh luận và suy tư triết học cũng như thần học, nhưng hãy cùng tìm hiểu xem “ý niệm về sự sống đời sau” muốn nói với chúng ta điều gì.
Nhiều người chắp nối “đời sau” với “đời này” như một kiểu nhân quả. Đời này sống tốt thì đời sau sẽ được hưởng phúc; đời này làm nhiều điều gian ác thì đời sau sẽ chịu khổ gấp trăm ngàn lần. Ở “đời sau”, người ta sẽ hưởng hoặc gánh chịu cái mà người ta làm ở “đời này”. Lối suy nghĩ này cổ võ người ta cố gắng “làm lành lánh dữ”, tích nhiều phúc đức qua các việc bác ái, để có thể được “báo đáp” ở đời sau. Có thể có một kiểu hưởng phúc hay hình phạt nào đó mà ta không thể biết và tưởng tượng được. Những hình ảnh như linh hồn bơ vơ vất vưởng hay những ngục tù đầy rắn rết, tối tăm, lạnh lẽo, những ngọn lửa bạo tàn, hay một chốn bồng lai tiên cảnh, nơi người ta hưởng trạng thái tiêu diêu… có lẽ là những phóng chiếu của ta từ kinh nghiệm của cuộc sống này, dựa trên lối quan niệm nhân-quả ấy. Nhưng dẫu sao, khi nghĩ đến “đời sau”, ta cảm thấy được mời gọi không quá bám víu vào những vật chất ở đời này, thấy được mời gọi để mở lòng mình ra hơn, để trao ban bình thương, đón nhận tình mến. Ý thức về đời sau làm cho ta thấy sự ích kỷ, ghen ghét, mưu toan… thật nhỏ bé và tầm thường quá đỗi. Đời sau đích thực là một đời sống ở tầm cao, ở cái hướng thượng, cái siêu việt, với những giá trị trỗi vượt.
Cũng có người nhìn về “đời sau” trong sự đối lập với “đời này”. Họ cho rằng đời này đầy những khổ đau, còn đời sau là bến bờ hạnh phúc. Họ ráng gắng gượng sống cho qua kiếp này, mong chờ cái chết đến thật nhanh để kết thúc những mệt mỏi và để được hưởng sự an nhiên vô lo. Có lẽ do bị quá nhiều tai ương ập đến, những người ấy coi đời này như địa ngục, hay như một chốn đoạ đày. Không thấy được giá trị của sự sống nên họ cứ vật vờ như cọng cỏ chờ gió cuốn đi. Họ chỉ tồn tại đó thôi, chứ chẳng có gì gọi là sống cả. Có những người bi quan hơn, vội vàng tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Niềm tin Kitô giáo cảm thông với những ai đang rơi vào tình cảnh khó khăn tuyệt vọng, nhưng không bao giờ đồng tình với lối suy nghĩ này. Đã đành, sống trong kiếp người thì phải đối diện với những nhiều không mong muốn, nhưng đời này vẫn luôn có một giá trị của nó. Sẽ chẳng thể nào nếm được hạnh phúc đời sau, khi người ta không bắt đầu từ cuộc sống này. Có thể nói, đời này và đời sau không tách biệt nhau, nhưng hoà quyện và nối kết với nhau rất bền chặt. Mọi phần thưởng và hình phạt đã manh nha cách nào đó ngay trong đời sống này rồi. Ta không biết gì về đời sau, nhưng ta hoàn toàn chắc chắn rằng có một cuộc sống ở đời này và nếu không sống nó một cách đầy nhiệt huyết và năng lượng, ta đã hoang phí ơn trời và tự huỷ diệt sự sống mà ta đang thụ hưởng.
“Sự sống đời sau” gợi lên trong chúng ta cảm thức một sự linh thiêng nào đó hiện diện nơi đời sống của con người. Có một thực tại nào đó bao trùm tất cả mọi hiện hữu, mà cái thế giới hữu hình của chúng ta chỉ là một chấm nhỏ. Con người luôn thấy trước mặt mình những mầu nhiệm cao cả vô cùng, nơi đó, họ ý thức được rằng dù họ có giàu sang, quyền lực thế nào, họ cũng chỉ như hạt cát nơi sa mạc. Con người được huyền nhiệm ấy bao trùm lấy mình, để rồi, họ nhận thấy mình cũng là cái gì đó rất linh thiêng và cao cả, vượt trên những giới hạn của bản thân. Ý thức về cái chết giúp cho con người biết rằng ai trong chúng ta cũng đều phải mang một chữ “phận”, phải vâng lời tiếng gọi của Siêu nhiên. Và dù có kinh hãi trước cái chết, con người vẫn có thể khảng khái đối diện với nó vì tin rằng đằng sau nó, vẫn còn cái gì đó khác chào đón mình. Cái chết là bức tường ngăn cản giữa hữu hình và vô hình. Nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolo, mọi sự xuất hiện trước mắt ta ở đời này chỉ mờ mờ ảo ảo như nhìn thấy cái gì đó trong tấm gương. Bước qua cái chết, người ta sẽ được chiêm ngưỡng mọi sự như thực tế nó là, với tất cả mọi nét hoàn mỹ và tuyệt đẹp. “Sự sống đời sau” mang đến cho chúng ta một sức mạnh và một niềm hy vọng về sự bất tử của chính mình, trọn vẹn con người mình, chứ không phải chỉ là một phần nào đó của mình.
Khi trực giác về một sự sống bất tử ở đời sau, ta đồng thời cũng được mặc khải cho biết về phẩm giá tuyệt hảo của chính mình. Ta được mời gọi để sống thanh cao, sống những giá trị vượt trên những tầm thường nhỏ nhen. Thật ra, ta đã có thể bắt đầu sự sống đời sau với nhiều hạnh phúc qua từng cái chết nho nhỏ nơi cuộc sống này: chết đi cho cái tôi ích kỷ, chết đi cho những kiêu ngạo, chết đi qua những hy sinh… Thật lạ kỳ: giá trị của cuộc sống hệ tại ở những cái chết như thế; càng chết đi, ta lại càng cảm thấy mình sống cách sung mãn hơn, và sự sống đời sau bắt đầu hình thành từ giây phút ấy.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ,
dongten.net
Lác đác đèo ngang bóng Việt ta
Đâu đâu cũng thấy một lũ tà
Tà ma quốc cộng thi nhau phá
Hủy hoại môi sinh nát cửa nhà
Ích Tắc , đười ươi phỡn mặt ra
Đồng hành tiểu quốc Fóc -mo -sa
Nhân dân phản đối vào nhà đá
Uất hận đèo ngang ghét lũ tà
Cảm ơn anh Lý Hòa, bài thơ anh tui đọc xong tốn 2 giọt thuốc “nhỏ mắt” đó! Hehehe
Hay !!!!!
Mần thơ fải nhớ lé vần ôn
Nếu kó gan trơi hãq niệu hồn
Chậk zấu ông na thằq mắk zịk
Sai từ mợ kưở gã zu kôn
Lank chank pók đại âu người bậq
Xớn xák đănq bừa cẻ trẳq khôn
Chữ ngĩa văn trươnq đừnq nộn xộn
Cẻo khônq chúnq trửi viết như nồl
Hoavanl Ly
HAY !!! bài họa : phúc lũy
Đách sợ cớ gì lách vận ôn
Văn chương chữ nghĩa phải ra hồn
L, N nào chuẩn rèn chờ ổn
Sai lạc C, T đợi luyện ôn
“ Nói nẻo làm đường” ra kẻ bậy ?
“Ăn không nói có ” ấy người khôn !
Chặng dài thế tục đang bề bộn
Lắm chuyện đang bàn quả bân rôn*
*Dòng thơ Bút Tre Bân rôn ( băng rôn tuyên truyền – Bận rộn,…..
Duc Au
NGẪM NGƯỜI LẠI NGHĨ ĐẾN TA..! ĐẤT NƯỚC MÌNH CŨNG CÓ TBT NÔNG ĐỨC MẠNH & LÊ KHẢ PHIÊU BUÔN CHỔI ĐÓT GIỎI MÀ..!
Ông cựu tổng thống ‘bán chổi đót’ của Zimbabwe
TTO – Bà Grace từng tuyên bố rằng “ông chồng tổng thống của tôi nghèo lắm”, không tơ hào của ai một đồng. Vậy mà nhiều nguồn tin nói rằng gia đình bà tài sản phải trên tỉ đô, và chả ai tin họ làm giàu kiểu “bán chổi đót”…
Khi Bona Mugabe, con gái rượu của mình làm đám cưới cách đây vài năm, Robert Mugabe quyết định không thuê bất kỳ sân golf hay khu nghỉ dưỡng sang trọng nào. Hôn lễ được tổ chức tại “tư gia” của nhà gái.
Một sự thanh liêm, đáng được ca ngợi và sẽ chẳng có gì nghi ngờ cho một đương kim Tổng thống nếu không có một chi tiết: cấm tiệt máy ảnh. Sao lạ vậy, đám cưới mà lại cấm tiệt chụp ảnh?
Đơn giản vì vợ chồng ông Mugabe không muốn người ta biết bên trong cái “tư gia” 25 phòng ngủ được xây bằng đá hoa cương kia, ngoài những chiếc Maybach S600, Rolls Royce Phantom thì còn những thứ gì “lạ lẫm” nữa.
Năm 1996, cô thư ký Grace Marufu, 29 tuổi, bước lên xe hoa, trở thành vợ thứ hai của Tổng thống Robert Mugabe khi đó đã 72 tuổi.
“Chồng tôi là vị Tổng thống nghèo nhất thế giới. Tôi chưa từng thấy ông ấy vòi tiền của bất kỳ ai” – bà Grace Mugabe, giờ là cựu Đệ nhất phu nhân, từng tuyên bố rõ từng chữ trước đám đông ủng hộ tại Harare năm 2014.
Những gì mà bà Grace tuyên bố, rốt cuộc cũng giống như những cam kết chính sách của chồng bà, nghe rồi để đó chứ chẳng dám tin. Ở cái xứ Zimbabwe này, có ai lớn lên mà không nghe tin đồn này kia về khối tài sản của ông tổng thống Mugabe?
Nhưng đồn đoán vẫn là đồn đoán, người ta không ước tính được ông Mugabe có bao nhiêu tiền cho tới khi trang Wikileaks công bố các tài liệu ngoại giao Mỹ.
Tài sản khắp năm châu
Năm 2011, Wikileaks công bố một điện tín cũ của Đại sứ quán Mỹ tại Harare – thủ đô Zimbabwe, nội dung trong đó như sau: “Không ai biết chính xác số tài sản đầy đủ của Mugabe, nhưng tin đồn khẳng định phải đáng giá trên 1 tỉ USD, phần lớn số của cải đó dường như được đầu tư ở hải ngoại”.
Tài sản của nhà lãnh đạo 93 tuổi “bao gồm mọi thứ, từ các tài khoản bí mật ở Thụy Sĩ, Bahamas, quần đảo Channel cho đến những lâu đài ở Scotland”.
Phương Tây hay gọi bà đệ nhất phu nhân của Zimbabwe bằng “Gucci Grace” để chỉ sự mát tay xài tiền, hay “Dis-Grace”, một cách chơi chữ có nghĩa “nhục nhã” để gọi người phụ nữ này. Trong lúc phần lớn người dân Zimbabwe sống trong cảnh nghèo đói, bà Grace như một bà hoàng bên cạnh chồng với những món đồ xa xỉ, mỗi cái sải chân của bà ở nước ngoài được trải bằng tiền.
Theo báo The Guardian, bà Grace đã mua nhiều bất động sản ở khu nhà giàu Sandton của thủ đô Johannesburg (Nam Phi), hàng loạt công trình ở Malaysia, Singapore và có thể cả Dubai (Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất).
Cựu đệ nhất phu nhân cũng được cho là sở hữu dàn siêu xe đắt tiền, tất nhiên không thể nhiều bằng số lượng giày đắt xắt ra miếng trong bộ sưu tập của bà. Bà Grace từng chi 75.000 USD cho các mặt hàng xa xỉ trong một chuyến mua sắm ở Paris, số tiền gấp 75 lần mức thu nhập trung bình của một người dân Zimbabwe năm 2016.
Năm 2014, một vụ tranh chấp quyền sở hữu bất động sản ở Hong Kong đã giúp người ta hình dung rõ hơn về khối tài sản và sự lạm quyền của ông Mugabe khi làm Tổng thống.
Trong đơn kiện nộp lên tòa án Hong Kong, Chính phủ Zimbabwe yêu cầu tòa tuyên bố JC castle – một bất động sản đắc địa hai tầng ở đặc khu này – thuộc sở hữu 100% của Zimbabwe. Số tiền 5 triệu USD mà một doanh nhân người Nam Phi gốc Hoa bỏ ra để mua JC castle năm 2008 là “mua giùm” ông Mugabe.
Lấy đâu ra tiền?
Dư luận đang đặt ra câu hỏi về nguồn gốc khối tài sản khổng lồ của ông Mugabe. Sau khi bị Liên minh châu Âu trừng phạt vì cuộc cải cách ruộng đất nhắm vào người da trắng, người ta hầu như không thấy ông Mugabe xài tiền mát tay ở nước ngoài nữa.
Ngoài khu phức hợp với hàng chục biệt thự ở Mazowe cùng căn nhà lộng lẫy giữa thủ đô Harare, nhà Mugabe còn sở hữu nhiều bất động sản khác.
Nổi tiếng nhất là trang trại bò sữa Omega, một trong những trang trại bò sữa lớn nhất miền nam châu Phi. Một số chính trị gia đối lập cho rằng ông Mugabe sở hữu 14 trang trại trên khắp đất nước. Điều này được cho là vi hiến vì đi ngược lại quy định giới hạn sở hữu đất đai ở Zimbabwe.
Theo trang Wikileaks, sau khi cuộc nội chiến Congo lần 2 kết thúc (1998-2002), ông Mugabe duy trì quan hệ với những cá nhân quyền lực kiểm soát lợi ích thương mại ở quốc gia này. Những người này, đổi lại, chuyển một phần của cải sang cho Mugabe.
Zimbabwe Consolidated Diamond Co. – một công ty khai thác kim cương do ông Mugabe thành lập, cũng được xem là con gà đẻ trứng vàng của nhà này. Tổ chức Global Witness tố cáo công ty này là nguyên nhân gây ra “một thập kỷ biến mất của nguồn lợi kim cương” tại Zimbabwe.
Người “kiếm” tiền, kẻ “đốt” tiền
Bà Grace Mugabe đã từng bỏ ra 1,35 triệu USD để mua một chiếc nhẫn ưa thích. “Con hư tại mẹ” đặt vào nhà Mugabe quả không sai.
Bellarmine Chatunga Mugabe, quý tử của nhà Mugabe, hồi đầu năm nay đã khiến mạng xã hội giận dữ với màn trút chai sâm-banh 400 USD lên chiếc đồng hồ 60.000 USD.
“60.000 USD trên cổ tay nhờ có ông già lãnh đạo cả một đất nước!!!” – cậu con trai út của ông Mugabe ngang tàng viết trên mạng xã hội Instagram.
Cậu Russell Goreraza, con trai của bà Grace với người chồng trước, thậm chí cũng được thơm lây khi mẹ lấy Tổng thống. Hồi tháng 9 rồi, Russell đã mua hẳn hai chiếc Rolls Royce Phantom có đầy đủ “đồ chơi” và tùy chọn với cái giá không tưởng: 7 triệu USD.
“QUYỀN LỰC CUỐI CÙNG THUỘC VỀ NHÂN DÂN”
Tất cả những người học luật, làm nghề luật có cảm thấy xót xa và tủi hổ cho thân phận của luật pháp cũng như cả những người dân bé mọn dưới gọng kìm của những bàn tay ngu dốt không?
Tội nhận hối lộ chỉ có thể áp dụng đối với những người có chức vụ, quyền hạn – chủ thể đặc biệt – do luật định, để thực thi một công vụ nào đó. Còn hai nông dân này thì lấy đâu ra quyền hạn hay trách nhiệm để thực thi công vụ mà đem họ ra truy tố và xét xử về tội nhận hối lộ???
Đọc tình tiết vụ án mới thấy hết nỗi bi hài của việc vận dụng pháp luật cũng như cách họ lộng quyền để thoả mãn sự dốt nát của mình.
Chúng ta đều có thể trở thành nạn nhân như hai nông dân này bất cứ lúc nào, nếu mỗi chúng ta không chung tay để ngăn chặn nó lại.
Chúng ta có thể trông cậy và nương tựa vào luật pháp và hệ thống thực thi như thế này hay không?
http://m.plo.vn/…/hom-nay-xet-xu-2-nong-dan-nhan-hoi-lo-740…