Tôi đi trong nắng thu màu nhớ,

Tà áo cưới (Sơn Tuyền)

httpv://www.youtube.com/watch?v=CvXtiY5einE

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 32 thường niên năm A 12/11/2017

“Tôi đi trong nắng thu màu nhớ”,
Ngơ ngẩn vì tiếng gió Thu buồn
Tôi đi trong lá thu vàng úa
Cứ ngỡ là muôn lá tình thư.”

(Hoàng Thi Thơ – Tà Áo Cưới)

(Gioan 16: 4)

 Trích dẫn câu hát này, chẳng phải vì mùa này là mùa cưới của nhiều người. Nhưng là vì, trong bài hát của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, còn nhiều ca-từ rất dễ nhớ như sau:

“Hôm nay sao áo bay nhiều thế
Tôi tưởng ngàn cánh bướm khoe màu
Ô hay! Tiếng pháo đâu buồn quá
Xác đỏ làm xao xuyến đường hoa.

Những tà áo cưới thướt tha bay bay trong nắng chiều
Đưa người em gái bước chân đi đi về bến nao
Ôi buồn làm sao em có nhớ Thu nào

Những tà áo cưới tiễn em đi em đi lấy chồng
Chim trời theo gió biết nơi đâu đâu mà ước mong
Cung đàn thầm rơi rơi mãi tiếng tơ lòng

Bâng khuâng trông gió bay tà áo
Gió hỡi làm sao bớt lạnh lùng
Tôi đi đi mãi theo mầu nắng
Nắng để lòng tôi với quạnh hiu.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Lúc đầu thì như thế. Như thế, những là: “thướt tha bay bay trong nắng chiều”, “bước chân đi đi về bến nao”, buồn làm sao…” Để rồi, cuối cùng, lại cũng hát “bâng khuâng trông gió”, “tôi đi đi mãi theo màu nắng” “Nắng để lòng tôi với quạnh hiu.”

 Ôi chà, là đúng quá. Cuộc vui nào chẳng có lúc tàn. Đời người, bao giờ mà chẳng có lúc đi vào ngõ tối, cũng rất cụt. Cụt và tối, như câu chuyện đôi lứa lúc về già có những buổi nằm nghĩ những chuyện vu vơ, khó nghĩ và khó có ý kiến như câu chuyện về “An tử” như sau:

Lãnh đạo các mạng lưới chăm sóc sức khỏe Công Giáo tại Úc cam kết sẽ không tạo dễ dàng cho hình thức trợ tử tại các cơ sở của họ một khi dự luật trợ tử được nghị viện thông qua. Tổng giám đốc tổ chức Health Australia của liên hợp bệnh viện St Vincent trên toàn quốc ông Toby Hall nói với tuần báo Catholic Weekly rằng bệnh viện sẽ tuân hành nghiêm chỉnh nguyên tắc là “không gây hại” một khi dự luật trợ tử trở thành hợp pháp tại tiểu bang NSW và Victoria.

Tổ chức Health Australia của liên hợp bệnh viện St Vincent được coi là mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phi lợi nhuận lớn nhất nước. Ông Hall xác nhận bất luận kết quả của các cuộc tranh luận tại Victoria và NSW có ra sao, thì không một cơ sở y tế nào của mạng lưới Health Australia sẽ cung cấp hình thức trợ tử.

Trong khi đó, ông Mark Green, tổng giám đốc toàn quốc mạng lưới y tế Calvary Care với 15 bệnh viện trong quyền quản trị của họ – kể cả tại Melbourne và Kogarah – cho biết mạng lưới Calvary Care sẽ không tham gia nếu dự luật trợ tử được thông qua tại Victoria và NSW.

Nghị viện NSW hiện đang cứu xét dự luật Voluntary Assisted Dying Bill 2017 được sự đồng bảo trợ của các dân biểu Alex Greenwich, Trevor Khan, Lee Evans, Mehreen Faruqi và Lynda Voltz. Trong khi đó tại Victoria, dự luật Voluntary Assisted Dying Bill 2017 đã được hạ viện thông qua hồi tuần qua với 37 phiếu thuận và 27 phiếu chống. Thế nhưng nay còn chờ quyết định của thượng viện.” (Vũ Nhuận chuyển ngữ từ Nguồn sydneycatholic.org)

Nay thì, mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào câu truyện kể cũng không kém khôi hài thuộc loại tiếu lâm chay, hơi bị nhạt như sau:

“Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn

Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới sương thu

Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi

Luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn , cho nên chúng ta phải học cách trân trọng, trân trọng tình thân, tình bạn , tình đồng chí, tình bạn học, tình đồng nghiệp …

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại

Sau 20 tuổi thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng

Sau 30 tuổi thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao

Sau 40 tuổi thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau , học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

Sau 50 tuổi thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

Sau 60 tuổi thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

Sau 70 tuổi thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi .

Sau 80 tuổi thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.”

Sau 90 tuổi thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện ấy nữa.

Sau 100 tuổi thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì

 Và những lời bàn “Mao Tôn Cương” của người kể, lại như sau:

 “CUỘC ĐỜI CỦA BẠN VÀ TÔI LÀ NHƯ VẬY KHÔNG KHÁC NHAU NHIỀU NHÌN RA , HIỂU ĐƯỢC , THẤU HIỂU RỒI ,CUỘC ĐỜI LÀ NHƯ THẾ . TRÂN TRỌNG NHỮNG THỨ CÓ ĐƯỢC , TÌM LẠI NHỮNG THỨ ĐÃ MẤT.”(Trích truyện kể ở trên mạng, bạn bè gửi cho nhau để còn đọc).

Đọc truyện rồi, nay mời tôi và mời bạn, ta đi vào mục hỏi đáp rất như sau:

“Thưa cha,

Vừa qua, con có dịp nói chuyện với bầu bạn  về vấn đề mà báo chí lâu nay cứ nói nhiều, đó là vấn đề “An tử” hoặc còn gọi là “Trợ tử”, tức: giúp người bệnh đi vào cõi chết, rất nhẹ nhàng. Vấn-đề này, lại sẽ được quốc hội tiểu bang New South Wales tranh-luận. Nhưng câu hỏi đặt ra là: có người từng bảo: họ cũng không hiểu được lý do tại sao ta không để cho những người đang đau khổ được chết nếu họ muốn thế. Riêng con, lâu nay tự hỏi thế nào là “An tử” và thế nào không phải là “An tử”, xin cha cho con vài giòng chỉ-dẫn”.   

Lại nữa, đã chính-thức viết thư gạn hỏi ông cha/ông cố những điều như thế thì cha/cố dù không am-tường vấn-để luật đời hay Đạo, cũng cố lục lọi sách vở để viết lên câu trả lời như sau:

“Trước nhất, ta phải tìm cách hiểu cho rõ cụm từ “An-tử” hay “Trợ-tử” bên tiếng Anh là “Euthanasia” có nghĩa gì. Cụm-từ này, xuất từ tiếng Hy Lạp có ý nói về cái chết tốt lành hoặc hạnh-đạo. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có viết tông thư Evangelium vitae (Đời sống Phúc Âm) vào năm 1995 trong đó ngài định nghĩa “Euthanasia” là “một hành động hoặc quên sót vố dĩ tự nó hoặc có ý-thức, tạo nên cái chết với mục đích loại-bỏ mọi đớn đau, sầu khổ” (Evangelium Vitae đoạn 65).

Điều ngài muốn nói, đơn-giản chỉ thế này: An-tử là việc giết chết một nhân mạng vô tội, như hành động cố sát, nhưng với mục tiêu đặc-thù là loại-bỏ cơn đau của một người. Trong tông-thư, Đức Gioan Phaolô xác-nhận: “An-tử là sự vi-phạm trầm-trọng luật của Chúa, bởi nó vung tay giết chết con người một cách vô đạo-đức, nên không thể chấp-nhận được. 

Tín-điều này dựa trên luật tự-nhiên và trên Lời của Chúa có chữ viết như truyền-thống Giáo-hội chuyển-luân và thường được huấn-quyền ban dạy trên khắp thế-giới. Tuỳ từng hoàn-cảnh, việc thực-thi động tác này thường kéo theo việc cố ý tự sát hoặc giết người rất đích thực. 

Sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo từng viết rất rõ chuyện này bảo rằng: “An-tử là hành-động cố sát nghiêm-trọng chống lại phẩm-giá con người và phản lại việc tôn-kính Thiên-Chúa hằng sống, Đấng Tạo dựng nên muôn loài. Nếu phán-đoán sai lầm, con người có thể rơi vào tình-trạng cứ yên chí không thay đổi được bản-chất của hành-động giết người là hành-động luôn bị cấm đoán và loại-trừ” (GLHTCG đoạn 2277).

 Dù có là chuyện nên làm và có thể chấp-nhận làm bất cứ thứ gì để giảm bớt sự đau-đớn nơi người bệnh, nhưng theo pháp-luật thì việc này vẫn không được phép làm vì nó chấm dứt sự sống của con người. Cuối cùng thì, Thiên-Chúa là Chúa-tể sự sống và vì thế cũng tuỳ Ngài quyết-định khi nào thì con người sẵn sang đi vào cõi chết. Ta có thể giết con thú đang đau đớn vì nó chỉ là loài thú, nhưng không thể làm thế với con người được bởi con người là hình-ảnh giống Thiên-Chúa.

 Dù sao, ta cũng không được phép quên thực-tại của luyện ngục và sự đau khổ luôn giống như lửa ngọn, rằng linh-hồn chịu đau-đớn ở nơi đó cùng một lúc các linh-hồn cũng thấy vui lòng đến cực độ vì chúng được tinh-luyện cho sạch để đạt chốn thiên-đường. Bởi ta cũng biết, nếu ta kết-thúc sự sống của ai khác một cách quá sớm sủa ngang qua an-tử , cũng có thể là ta chẳng kết-thúc được cơn đau của họ chút nào hết, mà đúng hơn nhận chìm linh hồn họ vào chốn đớn đau nhiều hơn trong luyện ngục. Có thể, Thiên-Chúa muốn họ chịu cực thêm chút nữa ở đời này để rồi họ đem họ đi thẳng vào chốn thiên-được. Nên, ta hãy để Chúa quyết-định xem khi nào là thời-điểm đích-đáng để họ chết.

 Trong thời gian chờ đợi, tốt hơn ta nên làm tất cả điều gì có thể làm được để giảm bớt sự đau khổ của con người bằng sự chăm nom săn sóc cốt làm giảm cơn đau của người bệnh bằng cách sử-dụng moo5c-phin hoặc thuốc thang nào đó cho thích-hợp. Dù việc này chỉ làm ngắn bớt sự sống của một người giảm bớt tầm-mức ý-thức của người bệnh , đây không là an-tử nhưng đúng hơn, lại là chăm sóc rất kiên-trì. (X. GLHTCG đoạn 2279)

 Dù sao đi nữa, ai ai cũng phải duy-trì tầm-mức ý-thức cho đến khi họ làm tròn trách-nhiệm đạo-đức và gia-đình của họ và có cơ-hội chuẩn bị tinh-thần để sẵn sang giáp mặt Thiên-Chúa (X. tông-thư Sự Sống Phúc Âm đoạn 65). Và bao giờ cũng thế, ta có nhiệm-vụ tiếp-tục chăm sóc người ốm đau, bệnh tật trong đó có cả việc tiếp nước và thức ăn cho họ nữa.

 Cũng thế, không phải là an-tử làm đứt đoạn tiến-trình nào đó kéo dài sự sống của một người khi biết rõ là tiến-trình ấy không hoàn-thành mục-tiêu của họ hoặc chúng gây phiền-toái hoặc nguy hiểm cho người bệnh hoặc đưa ra một kết-cuộc thiếu cân-xứng với kỳ vọng. 

Sách Giáo Lý Hội thánh Công-giáo còn cắt nghĩa thêm rằng: “Ở đây, không ai được phép gây nên cái chết. Con người không có khả-năng cản-trở chuyện ấy thì còn có thể chấp-nhận được. Mọi quyết-định phải do người bệnh lập ra nếu người ất có thẩm-quyền và khả năng làm thế; bằng không, việc ấy phải do những ai có thẩm-quyền pháp-lý được hành-động thay cho người bệnh, mà ý-muốn của người này có lợi-ích hợp-pháp đều phải được tôn-trọng.” (X. GLHTCG đoạn 2278)

Một ví dụ cụ thể, là: có thể chấp-nhận việc chấm dứt việc tiêm chích hỗ-trợ người bệnh được tiếp sống khi biết rõ là không làm thế thì người bệnh cũng sẽ chết tốt. 

Tương-tự như thế, có trường-hợp cho phép được buông bỏ các hình-thức chữ-trị cách nào đó nếu thấy không thể chữa lành được nhưng sẽ chỉ kéo dài cơn đau của người bệnh mà thôi. Điều này bao gồm việc hoá-trị và xạ-trị và bất cứ hình-thức chữa chạy nào khác vẫn không tạo hy-vọng chữa lành được căn bệnh.

 Với khoa-học tiến-bộ, ta có nhiều cách chăm sóc khả dĩ làm giảm cơn đau cực-kỳ của người bệnh và việc này khiến người bệnh thấy dễ chịu đủ thì không nên khao khát biện pháp an-tử làm gì. Nhưng, ngay cả khi người bệnh đang phải chịu cơn đau đến độ cực kỳ, ta không thể coi an-tử như phương án cuối cùng để chấm dứt cơn đau của người ấy được.” (Lm Frank Doyle, Euthanasia: Don’t rob people of their suffering, The Catholic Weekly 22/10/2017 tr. 41)

Đọc giòng chảy đầy những chữ ở trên, chắc hẳn có bạn đọc lại sẽ liên tưởng đến câu truyện kể có đầu đề là “Chuyện thắng/thua” của ai đó vừa đăng tải trên trang mạng như sau:

“Có một hòa thượng lên núi chặt củi, trên đường trở về, ông thấy cậu thiếu niên nọ đã bắt được một con bướm và đang cố gắng khom hai bàn tay lại để giữ cho nó khỏi bay.

 Nhìn thấy người tu hành, cậu cất lời: “Hòa thượng, cháu và ngài đánh cược một ván được không?”

Hòa thượng hỏi lại:

-Cược thế nào?”

-Ngài đoán xem con bướm trong tay cháu sống hay chết? Nếu ngài đoán sai, bó củi sẽ thuộc về cháu”, – cậu thiếu niên trả lời.

Vị hòa thượng nọ đồng ý và đoán:

-Con bướm trong tay cháu chết rồi.

Cậu thiếu niên cười lớn đáp:

-Ngài đoán sai rồi.

Nói đoạn, cậu mở tay ra, con bướm từ trong bay lên.

Hòa thượng nói:

-Được, gánh củi này thuộc về cháu.

Nói xong, ông đặt gánh củi xuống, vui vẻ bước đi. Cậu thiếu niên không biết vì sao hòa thượng lại có thể vui vẻ đến như vậy nhưng nhìn gánh củi trước mặt, cậu ta cũng không để tâm lắm mà vui vẻ gánh gánh củi về nhà.

 Nhìn thấy con về, người cha liền hỏi số củi đó ở đâu ra, cậu mới đem chuyện kể lại cho cha nghe. Nghe hết câu chuyện của con trai, đột nhiên ông giơ tay tát con một cái, giọng giận dữ:

-Con ơi là con! Con hồ đồ quá rồi! Con nghĩ là mình đã thắng sao? Ngay cả khi con đã thua, con cũng không hề biết mình đã thua đấy.

Lời cha nói khiến cậu con trai ngơ ngác, không hiểu gì. Người cha liền lệnh cho cậu ta gánh bó củi lên vai, hai cha con mang củi đến trả cho nhà chùa.

Nhìn thấy vị hòa thượng nọ, người cha liền cất tiếng:

-Thưa thầy, con trai tôi đắc tội với thầy, xin thầy lượng thứ.

Hòa thượng gật đầu, mỉm cười nhưng không nói gì. 

Trên đường trở về nhà, cậu thiếu niên sau một khoảng thời gian băn khoăn cuối cùng cũng đã nói ra những nghi vấn trong lòng. Người cha thở dài, nói:

-Vị hòa thượng đó cố ý đoán con bướm chết, như thế con mới thả nó ra và thắng được gánh củi. Nếu ông ấy nói con bướm còn sống, con sẽ bóp chết con bướm và con cũng sẽ thắng cược. Con cho rằng vị hòa thượng đó không biết con tính toán gì sao? Người ta thua một bó củi nhưng đã thắng được thứ giá trị hơn rất nhiều, đó là lòng từ bi. Còn con, con đã thua, đã để mất thứ quý giá đó mà chẳng hề hay biết.”

 Câu chuyện có thể rất đơn giản nhưng đó là bài học cho chúng ta trong cuộc sống. Thắng, thua, thành, bại là những chuyện thường xuyên giày vò cuộc sống của con người. Có những lúc chúng ta tự cho rằng mình đã thắng nhưng trên thực tế, có khi chúng ta đã thua nhiều hơn mà chẳng hay. (Sưu Tầm)

 Nói như người kể truyện ở trên, thì: mọi việc trên đời “có thể rất đơn giản, nhưng đó là bài học cho chúng ta trong đời sống!”

Nghe ra như thể: có người đọc truyện kể ở trên lại cũng nghĩ rằng: “Trong đời sống của chúng ta, nhiều bài học xem ra cũng đơn giản như truyện kể”, thế thôi.

Như thế, nghĩa là: truyện kể hay bài học và bài học hay truyện kể đôi khi cũng giống nhau từng chi tiết. Có những chi tiết chỉ đơn-giản như câu truyện để kể, lại cũng có chi tiết vẫn được coi như bài học  chứ không chỉ là truyện kể, để cho vui.

Xem thế, giống như thể người đi Đạo Chúa lâu nay cứ nghe đi nghe lại nhiều truyện kể trong Tin Mừng, lúc đầu cứ tưởng đơn-giản chỉ là truyện kể, nhưng nghe nhiều lần mới thấy đó là bài học để đời, giúp ta sống. Sống đạo hạnh và đơn giản như truyện kể mà thôi. Một trong các câu nói để đời ấy có thể kể như sau:

“Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi.

Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc,

thì anh em biết là mùa hè đã đến gần.

Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra,

anh em hãy biết là Con Người đã đến gần,

ở ngay ngoài cửa rồi.

Thầy bảo thật anh em:

thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.

Trời đất sẽ qua đi,

nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.

“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được,

ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không,

chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.”

(Mc 13: 28-30)

Và hôm nay, nếu bạn và tôi dám áp-dụng câu nói trên vào cuộc đời người có những chuyện không phải để kể, mà để học và hỏi như chuyện “An tử” hay “Trợ tử” bàn ở trên, thì kết luận có thể rút ra được, hệt như câu trên mà rằng: có những sự việc “ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.”

Nói thế, không để phản bác lập-trường của Giáo-hội hay ai đó về vấn đề “Trợ tử” hay “An tử”, nhưng chỉ muốn bảo với tôi và với bạn rằng: có những chuyện hoặc những truyện chỉ để kể chứ không để rút ra một kết luận nào đó, đúng/sai, thực/hư, mà chỉ để cho nhau nghe mà thôi.

Nghe thế rồi, nay mời tôi và mời bạn, ta lại trở về với bài ca ở trên dung làm câu chấm hết hết cho bài “Phiếm” hôm nay, mà rằng:

“Hôm nay sao áo bay nhiều thế
Tôi tưởng ngàn cánh bướm khoe màu
Ô hay! Tiếng pháo đâu buồn quá
Xác đỏ làm xao xuyến đường hoa.

Những tà áo cưới thướt tha bay bay trong nắng chiều
Đưa người em gái bước chân đi đi về bến nao
Ôi buồn làm sao em có nhớ Thu nào

Những tà áo cưới tiễn em đi em đi lấy chồng
Chim trời theo gió biết nơi đâu đâu mà ước mong
Cung đàn thầm rơi rơi mãi tiếng tơ lòng

Bâng khuâng trông gió bay tà áo
Gió hỡi làm sao bớt lạnh lùng
Tôi đi đi mãi theo mầu nắng
Nắng để lòng tôi với quạnh hiu.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Tắt một lời, có đi “rong nắng thu màu nhớ” hay không, cũng là cơ hội để ta nhớ lại những gì được Đấng thánh hiền nhà Đạo từng nói ở Tin Mừng, rồi giữ lấy cho đời mình:

“Thầy đã nói với anh em những điều ấy,

để khi đến giờ họ hành động,

anh em nhớ lại là

Thầy đã nói với anh em rồi.”

(Gioan 16: 4) 

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng có nhiều lúc

Vẫn nghe và vẫn nhớ nhiều sự việc

Lại nghĩ đó là sự thật

nên mới hoàn hồn. 

Đã có Kết quả giải nhân quyền lần thứ 16 của Mạng lưới Nhân quyền năm nay.

From facebook:  d Trần Bang‘s post.
 
Image may contain: text

Trần Bang

Đã có Kết quả giải nhân quyền lần thứ 16 của Mạng lưới Nhân quyền năm nay.

Chúc mừng các cá nhân và tổ chức đạt Giải Nhân Quyền VN 2017!

1- Ông Nguyễn Hữu Vinh, trang Ba Sàm
2- Blogger Mẹ Nấm, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
3- Mục sư Y Ích, dân tộc thiểu số

Tổ chức: Hội Anh em Dân chủ

Mời xem clip họp báo hôm nay:
https://www.youtube.com/watch?v=TuC-vhpjURo

Nguồn baotiengdan.com và FB Thu Ngoc Dinh

XIN CÁM ƠN NGÀI TRUMP

 
 
 

Phúc Chính Kiều is with Phil Nguyen. 

XIN CÁM ƠN NGÀI TRUMP

Ông ta chẳng cầm giấy
Không giống như lãnh đạo của mình
Ông ta giàu là do bàn tay ông có
Không giống Việt Nam ta

Thành tỷ phú mới bước vào tổng thống
Chẳng nghĩ bòn mót của dân
Chỉ một lòng dâng cao nước Mỹ
Ở chân trời xa lại có ngọn hải đăng ?

Nghe ông nói mà đêm qua tôi mất ngủ
Chắc các vị vua quan đương thời có vậy ?
Làm người phải biết nghĩ suy
Không xấu hổ đâu phải hạng người cao đế ?

Cứ tưởng Việt Nam tôi bé nhỏ
Mà sao ông cũng biết Hai Bà ?
Ông nêu lên làm tôi đau nhói
Xin cám ơn ngài DONAL TRUMP .

TOÀN VĂN BÀI NÓI CỦA TỔNG THỐNG D. TRUMP TẠI DIỄN ĐÀN APEC

From facebook:   Thư Hiên Vũ
TOÀN VĂN BÀI NÓI CỦA TỔNG THỐNG D. TRUMP 

TẠI DIỄN ĐÀN APEC

Tôi rất vinh dự được có mặt tại Việt Nam, ở trung tâm của vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương, để phát biểu trước người dân và các lãnh đạo doanh nghiệp của khu vực này.
Đây là một tuần đáng nhớ với nước Mỹ ở khu vực tuyệt vời này của thế giới. Từ Hawaii, Melania và tôi đã đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và bây giờ là Việt Nam, có mặt ở đây cùng tất cả các bạn hôm nay.

Trước khi chúng ta bắt đầu, tôi muốn gửi lời thăm hỏi tới những người bị ảnh hưởng bởi cơn bão Damrey. Người Mỹ đang cầu nguyện cho các bạn và mong các bạn khôi phục trong những tháng tới. Trái tim của chúng tôi đoàn kết cùng những người dân Việt Nam phải hứng chịu thiệt hại từ cơn bão khủng khiếp này.

Chuyến thăm này diễn ra vào một thời điểm thú vị đối với nước Mỹ. Một tinh thần lạc quan mới đang lan tỏa khắp đất nước chúng tôi. Tăng trưởng kinh tế đạt 3,2% và đang tiếp tục tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất trong 17 năm qua. Thị trường chứng khoán đang ở mức cao chưa từng có. Và toàn thế giới đã được hưởng lợi nhờ sự đổi thay của Mỹ.
Bất cứ nơi nào tôi đến trong chuyến đi này, tôi đều vui mừng chia sẻ những tin vui từ Mỹ. Nhưng hơn cả, tôi có vinh dự được chia sẻ tầm nhìn của chúng tôi về một Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và cởi mở – nơi mà các quốc gia độc lập và chủ quyền, với những nền văn hóa đa dạng và nhiều giấc mơ khác nhau, tất cả có thể cùng nhau phát triển thịnh vượng trong tự do và hòa bình.

Tôi rất vui được có mặt ở APEC hôm nay, vì tổ chức này được thành lập nhằm đạt tới mục tiêu đó. Mỹ tự hào là một thành viên của cộng đồng các quốc gia tạo nên một mái nhà ở Thái Bình Dương. Chúng tôi là một thành viên tích cực của khu vực này kể từ khi giành độc lập.

Năm 1784, con tàu Mỹ đầu tiên đến Trung Quốc từ một nước Mỹ mới độc lập. Nó chất đầy hàng hóa để bán ở châu Á và trở về với đầy đồ gốm sứ và trà. Tổng thống đầu tiên của chúng tôi, George Washington, sở hữu một bộ bát đĩa từ con tàu đó.
Năm 1804, Thomas Jefferson cử các chuyên gia thám hiểm Lewis và Clark đi khám phá Bờ biển Thái Bình Dương của chúng tôi. Họ là những người đầu tiên trong số hàng triệu người Mỹ đã phiêu lưu về phía tây để hiện thực hóa vận mệnh hiển nhiên của nước Mỹ trên khắp lục địa rộng lớn của chúng tôi.

Năm 1817, quốc hội Mỹ lần đầu tiên phê duyệt việc triển khai một tàu chiến Mỹ đến Thái Bình Dương toàn thời gian. Sự hiện diện ban đầu của hải quân này đã sớm phát triển thành một hạm đội để đảm bảo tự do hàng hải cho ngày càng nhiều tàu hơn, vượt sóng lớn để vươn tới những thị trường ở Philippines, Singapore và Ấn Độ.
Năm 1818, chúng tôi bắt đầu mối quan hệ với vương quốc Thái Lan, và 15 năm sau đó, hai quốc gia chúng tôi đã ký kết một hiệp ước hữu nghị và thương mại, đầu tiên của chúng tôi với một quốc gia châu Á.
Trong thế kỷ tiếp theo, khi các đế quốc đe dọa khu vực này, Mỹ đã phải trả giá đắt cho chính mình. Chúng tôi hiểu rằng an ninh và thịnh vượng phụ thuộc vào điều đó.

Chúng ta đã là bạn, là đối tác và đồng minh ở Ấn Độ – Thái Bình Dương trong suốt một thời gian dài, và chúng ta sẽ là bạn, là đối tác và là đồng minh trong thời gian dài sắp tới.
Là những người bạn lâu năm trong khu vực, không ai vui mừng hơn nước Mỹ khi chứng kiến, giúp đỡ và chia sẻ những bước tiến vượt bậc mà các bạn đã đạt được trong nửa thế kỷ qua.
Những gì các quốc gia và các nền kinh tế hiện diện ở đây hôm nay đã gây dựng ở khu vực này là vô cùng kỳ diệu. Câu chuyện về khu vực này trong những thập kỷ gần đây là câu chuyện về những gì có thể xảy ra khi con người làm chủ tương lai của họ.

Cách đây chỉ một thế hệ, ít ai có thể tưởng tượng được các lãnh đạo của những quốc gia này sẽ cùng nhau đến Đà Nẵng để làm sâu sắc thêm tình hữu nghị, mở rộng quan hệ đối tác và chúc mừng cho những thành tựu đáng kinh ngạc của người dân chúng ta.
Thành phố này từng là nơi Mỹ đặt một căn cứ quân sự, tại một đất nước nơi rất nhiều người Mỹ và người Việt Nam đã thiệt mạng trong cuộc chiến tranh vô cùng đau thương năm xưa.

Ngày nay, chúng ta không còn là kẻ thù nữa, chúng ta là bạn. Và thành phố cảng này ngày càng tấp nập, nhộn nhịp với tàu thuyền từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Những công trình kỳ công, như Cầu Rồng, chào đón hàng triệu người đến tham quan, tận hưởng những bãi biển tuyệt đẹp, ánh đèn rực rỡ cũng như những nét quyến rũ cổ xưa của Đà Nẵng.

Đầu những năm 1990, gần một nửa người dân Việt Nam sống với chỉ vài USD mỗi ngày và cứ 4 người lại có một người phải chịu cảnh thiếu điện. Ngày nay, Việt Nam, với nền kinh tế mở cửa, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, tăng hơn 30 lần. Sinh viên, học sinh Việt Nam được xếp vào hàng những người trẻ ưu tú nhất toàn cầu. Điều đó thật ấn tượng.
Chúng ta cũng đã được chứng kiến sự chuyển mình kỳ diệu tương tự trên khắp khu vực. Người Indonesia trong nhiều thập kỷ đã xây dựng đất nước và thiết lập các thể chế dân chủ để kiểm soát một chuỗi đảo khổng lồ gồm hơn 13.000 hòn đảo. Kể từ những năm 1990, người dân Indonesia đã tự mình vươn lên từ đói nghèo, trở thành một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất G20. Hiện nay, đây là nền dân chủ lớn thứ ba thế giới.
Philippines cũng hiện lên với tư cách một quốc gia đáng tự hào với những gia đình bền vững và chân thành. 11 năm liền, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã xếp Philippines ở vị trí đầu tiên trong số các quốc gia châu Á thực hiện tốt mục tiêu thu hẹp khoảng cách giới tính, cũng như thúc đẩy phụ nữ tham gia kinh doanh và hoạt động chính trị.
Vương quốc Thái Lan đã trở thành một quốc gia có mức thu nhập trên trung bình trong chưa đầy một thế hệ. Thủ đô Bangkok hoa lệ của họ hiện nay là thành phố thu hút nhiều người tìm đến nhất thế giới. Điều này rất ấn tượng. Không có nhiều người ở đây đến từ Thái Lan!
Malaysia đã phát triển nhanh chóng qua vài thập kỷ gần đây, và nay được liệt vào danh sách một trong những địa điểm hấp dẫn nhất thế giới để đầu tư, phát triển kinh doanh.
Tại Singapore, người dân mà trước đây bố mẹ họ sinh sống với mức thu nhập 500 USD một năm, nay nằm trong nhóm những công dân thu nhập cao nhất thế giới. Sự biến chuyển này đã thành hiện thực nhờ tầm nhìn của chính phủ Lý Quang Diệu, một chính phủ được quản lý trung thực và tuân theo pháp luật. Con trai cả của ông cũng đang điều hành đất nước tuyệt vời.
Tôi vừa tới Hàn Quốc và nhận thấy người dân của đất nước cộng hòa này đã biến quốc gia từ một nơi nghèo đói bị chiến tranh tàn phá, trở thành một trong những nền dân chủ giàu có nhất thế giới chỉ trong vài thập kỷ. Ngày nay, người Hàn Quốc thu nhập cao hơn người dân ở nhiều quốc gia thuộc Liên minh châu Âu. Thật tuyệt vời khi được gặp gỡ và dành thời gian với Tổng thống Moon.

Ai cũng biết về những thành tựu ấn tượng mà Trung Quốc đạt được trong vài thập kỷ qua. Trong giai đoạn ấy – giai đoạn cải cách thị trường lớn, nhiều khu vực ở Trung Quốc đã tăng trưởng kinh tế vượt bậc, thị trường việc làm bùng nổ, hơn 800 triệu người dân thoát nghèo. Tôi vừa rời Trung Quốc sáng nay. Trước đó, tôi đã có buổi làm việc hiệu quả và quãng thời gian tuyệt vời cùng chủ nhà hiếu khách, Chủ tịch Tập Cận Bình.
Còn nữa, trong điểm dừng chân đầu tiên của tôi ở chuyến đi này, tại Nhật Bản, chúng tôi thấy được một nền dân chủ năng động trên vùng đất của những kỳ quan công nghiệp, kỹ thuật và văn hóa. Trong chưa đầy 60 năm, đảo quốc này đã sản sinh hơn 24 người đoạt giải Nobel thế giới về các thành tựu vật lý, hóa học, y học, văn học và hòa bình. Thủ tướng Abe và tôi đã đạt được nhiều đồng thuận.
Trên khu vực rộng hơn, những nước ngoài APEC cũng đang có những bước tiến dài trên chương mới của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Ấn Độ đang kỷ niệm 70 năm ngày độc lập. Đó là một nền dân chủ chủ quyền, với hơn một tỷ dân. Từ khi Ấn Độ mở cửa kinh tế, đất nước này đã đạt tăng trưởng đáng kinh ngạc, mở ra thế giới cơ hội mới cho tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh. Thủ tướng Modi đã và đang nỗ lực đưa đất nước rộng lớn này và mọi người dân đoàn kết làm một. Ông ấy đang rất, rất thành công.
Như chúng ta có thể thấy, ngày càng nhiều nơi trong khu vực này, người dân những quốc gia độc lập, có chủ quyền, đã nắm bắt được vận mệnh của chính mình tốt hơn, và giải phóng tiềm lực của nhân dân.
Họ theo đuổi một tương lai công bằng, trách nhiệm, khuyến khích tư hữu tài sản và tuân thủ pháp luật, đi theo chế độ coi trọng lao động chăm chỉ và doanh nghiệp cá nhân.
Họ xây dựng các doanh nghiệp, thành phố. Họ xây dựng toàn bộ đất nước từ điểm khởi đầu. Nhiều người trong số các bạn có mặt tại đây đã tham gia vào những dự án xây dựng vĩ đại, giúp nâng tầm quốc gia. Chúng đã là những dự án của các bạn, từ lúc bắt đầu đến khi hoàn thiện, từ giấc mơ đến hiện thực.
Với sự giúp đỡ từ các bạn, toàn bộ khu vực đã trỗi dậy, và nó vẫn đang trỗi dậy, như một chòm sao đẹp gồm các quốc gia, mỗi quốc gia là một ngôi sao sáng.
Có những người trong số các bạn đã trải qua những sự thay đổi đó và hiểu rõ những giá trị đã đạt được hơn bất cứ ai. Các bạn cũng hiểu rằng ngôi nhà của bạn chính là di sản của bạn. Bạn phải luôn bảo vệ nó.
Trong quá trình phát triển kinh tế, các bạn tìm kiếm quan hệ thương mại với các quốc gia khác, thiết lập quan hệ đối tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, hướng trực tiếp đến lợi ích song phương.

Hôm nay, tôi có mặt tại đây để đề nghị làm mới mối quan hệ đối tác với Mỹ, cùng nhau hành động nhằm tăng cường mối liên kết hữu nghị và thương mại giữa tất cả các quốc gia trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, và cùng nhau, thúc đẩy an ninh và thịnh vượng của chúng ta.
Điều cốt lõi của quan hệ đối tác này là chúng tôi tìm kiếm những mối quan hệ thương mại mạnh mẽ dựa trên nguyên tắc bình đẳng và có qua có lại. Khi Mỹ tham gia một mối quan hệ thương mại với các quốc gia khác, chúng tôi, kể từ lúc này, hy vọng đối tác sẽ tuân thủ các nguyên tắc như chúng tôi. Chúng tôi kỳ vọng các thị trường sẽ mở cửa tương xứng ở cả hai bên, lĩnh vực công nghiệp tư nhân, không phải các nhà hoạch định của chính phủ, sẽ có sự đầu tư trực tiếp.
Thật không may, điều trái ngược lại xảy ra suốt thời gian dài và tại nhiều địa điểm. Trong những năm qua, Mỹ mở cửa nền kinh tế một cách có hệ thống chỉ với một số điều kiện. Chúng tôi hạ hoặc chấm dứt hàng rào thuế quan, thương mại, cho phép hàng hóa nước ngoài tự do vào Mỹ.
Nhưng trong khi chúng tôi hạ các rào cản thị trường, những nước khác lại không mở cửa thị trường của họ cho chúng tôi.
Các quốc gia trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), họ thậm chí không tuân thủ những nguyên tắc được đề ra. Đơn giản là, chúng ta không được WTO đối xử công bằng. Những tổ chức như WTO chỉ hoạt động đúng chức năng khi mọi thành viên tuân thủ luật chơi và tôn trọng quyền chủ quyền của mọi quốc gia thành viên. Chúng ta không thể có những thị trường mở nếu không đảm bảo được tiếp cận thị trường một cách bình đẳng. Cuối cùng, thương mại bất bình đẳng sẽ làm xói mòn tất cả chúng ta.

Mỹ thúc đẩy các doanh nghiệp, sự đổi mới và công nghiệp lĩnh vực tư nhân. Những quốc gia khác lại sử dụng ngành công nghiệp do chính phủ vận hành và hoạch định cùng các doanh nghiệp quốc doanh.
Chúng tôi tuân thủ các nguyên tắc WTO về bảo vệ tài sản trí tuệ, đảm bảo cách tiếp cận thị trường bình đẳng. Họ tham gia bằng cách trợ giá sản phẩm, bán phá giá, thao túng tiền tệ và các chính sách công nghiệp bị lợi dụng.
Họ phớt lờ các quy tắc để giành lợi thế trước những người tuân thủ luật chơi, tạo ra sự méo mó lớn trong thương mại, đe dọa các nền tảng của chính thương mại quốc tế.
Những hành động như vậy, cùng với sự thất bại tập thể của chúng ta trong việc ứng phó, gây tổn hại rất nhiều người dân ở quốc gia của chúng tôi cũng như các nước khác. Việc làm, nhà máy, các ngành công nghiệp bị tước đoạt khỏi Mỹ và nhiều quốc gia khác. Nhiều cơ hội đầu tư mang lại lợi ích song phương cũng mất đi bởi người dân mất niềm tin vào hệ thống.
Chúng tôi không thể bỏ qua những sự lợi dụng thương mại này. Chúng tôi sẽ không tha thứ họ. Sau nhiều năm những cam kết bị vi phạm, chúng tôi được bảo rằng một ngày nào đó, sớm thôi, các bên sẽ hành xử công bằng và có trách nhiệm.
Người dân Mỹ và ở khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương đã chờ ngày đó tới. Nhưng nó chưa bao giờ xuất hiện. Đó là lý do tôi có mặt ở đây, ngày hôm nay, để nói một cách thẳng thắn về những thách thức của chúng ta và cùng hành động hướng đến tương lai tươi sáng hơn cho tất cả mọi người.

Tôi vừa có chuyến đi tuyệt vời tới Trung Quốc. Tại đây, tôi đã nói chuyện thẳng thắn và cởi mở với Chủ tịch Tập về các hành vi bất bình đẳng thương mại của Trung Quốc và thâm hụt thương mại lớn trong quan hệ thương mại của họ và Mỹ. Tôi bày tỏ mong muốn mạnh mẽ được phối hợp với Trung Quốc để đạt được quan hệ thương mại, thực hiện trên cơ sở công bằng, bình đẳng thực sự.
Sự mất cân bằng thương mại hiện nay là không thể chấp nhận được. Tôi không đổ lỗi cho Trung Quốc hay bất kỳ nước nào khác, dù có rất nhiều nước, vì đã lợi dụng nước Mỹ trong vấn đề thương mại. Nếu các đại diện của họ có thể bình an vô sự với điều này, họ chỉ đang làm việc của mình. Tôi ước gì chính quyền trước đây của Mỹ nhìn thấy những gì đang diễn ra và làm điều gì đó. Họ không làm, nhưng tôi sẽ làm.

Từ hôm nay trở đi, chúng ta sẽ cạnh tranh một cách công bằng và bình đẳng. Chúng tôi sẽ không để nước Mỹ bị lợi dụng thêm nữa. Tôi sẽ luôn đặt nước Mỹ lên hàng đầu, như cách mà tôi mong muốn tất cả các bạn trong hội trường này đưa tổ quốc mình lên trên hết.
Mỹ sẵn sàng phối hợp với từng lãnh đạo trong hội trường này hôm nay để đạt được thương mại cùng có lợi mang lại lợi ích cho cả nước bạn lẫn nước tôi. Đó là thông điệp mà tôi muốn truyền tải ở đây.
Tôi sẽ ký các thỏa thuận thương mại song phương với bất cứ quốc gia Ấn Độ – Thái Bình Dương nào muốn trở thành đối tác của Mỹ và sẽ tuân thủ nguyên tắc thương mại công bằng và có đi có lại. Điều chúng tôi không tiếp tục làm là tham gia vào những thỏa thuận lớn trói tay nước Mỹ, ảnh hưởng đến chủ quyền, cũng như khiến việc thực thi điều đó một cách có ý nghĩa trở nên bất khả thi trong thực tế.
Thay vào đó, chúng tôi sẽ thương thảo trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Chúng tôi sẽ tôn trọng độc lập và chủ quyền của các bạn. Chúng tôi muốn các bạn mạnh mẽ, thịnh vượng và tự tin, giữ vững bản sắc lịch sử và vươn tới tương lai. Đó là cách chúng ta cùng thịnh vượng và tăng trưởng, trong mối quan hệ đối tác với giá trị thực tế và lâu bền.
Nhưng để cái mà tôi gọi là giấc mơ Ấn Độ – Thái Bình Dương này trở thành hiện thực, chúng ta phải đảm bảo rằng tất cả cùng chơi theo luật, vốn là điều họ không làm vào thời điểm hiện nay. Những nước tuân thủ luật chơi sẽ trở thành đối tác kinh tế gần gũi nhất của Mỹ. Những ai không làm được như vậy có thể chắc chắn rằng Mỹ sẽ không còn nhắm mắt làm ngơ cho những hành động vi phạm, lừa gạt hay xâm lược kinh tế. Những ngày đó đã qua rồi.

Chúng tôi sẽ không tiếp tục dung thứ cho hành vi ăn cắp quyền sở hữu trí tuệ một cách trắng trợn. Chúng tôi sẽ đối đầu với những thủ đoạn ép buộc các doanh nghiệp trao công nghệ cho nhà nước và buộc họ phải tham gia vào các liên doanh để đổi lấy quyền tiếp cận thị trường.
Chúng tôi sẽ đối phó với tình trạng trợ cấp quy mô lớn cho các ngành công nghiệp thông qua những doanh nghiệp nhà nước lớn vốn đẩy các đối thủ tư nhân ra khỏi cuộc chơi, điều vẫn thường xuyên xảy ra.
Chúng tôi sẽ không tiếp tục im lặng khi các công ty Mỹ bị những đối thủ được nhà nước hậu thuẫn nhắm tới vì lợi ích kinh tế, dù là thông qua các cuộc tấn công mạng, gián điệp kinh tế, hay các thủ đoạn phản cạnh tranh khác. Chúng tôi sẽ khuyến khích tất cả các nước cất lên tiếng nói khi các nguyên tắc về bình đẳng và có đi có lại bị xâm phạm.
Chúng tôi biết nước Mỹ có lợi ích trong việc xây dựng quan hệ đối tác ở một khu vực đang trở nên phát đạt, thịnh vượng và không phụ thuộc vào bất cứ ai. Chúng tôi sẽ không đưa ra quyết định vì mục đích quyền lực hay bảo trợ. Chúng tôi sẽ không bao giờ yêu cầu các đối tác từ bỏ chủ quyền, quyền riêng tư và sở hữu trí tuệ, hay hạn chế hợp đồng đối với các công ty quốc doanh.
Chúng tôi sẽ tìm cơ hội cho các công ty tư nhân Mỹ hợp tác với công ty của các bạn để tạo ra việc làm, của cải cho tất cả chúng ta. Chúng tôi tìm kiếm đối tác mạnh, không phải đối tác yếu. Chúng tôi tìm kiếm láng giềng mạnh, không phải hàng xóm yếu. Trên tất cả, chúng tôi tìm kiếm tình hữu nghị và không mơ về sự thống trị.
Vì lý do này, chúng tôi đang tái tập trung vào những nỗ lực phát triển đang có. Chúng tôi kêu gọi Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á hướng nỗ lực của họ vào đầu tư cơ sở hạ tầng chất lượng cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mỹ cũng sẽ thực hiện phần công việc của mình. Chúng tôi cũng cam kết cải cách các thể chế tài chính phát triển để chúng có thể khích lệ tốt hơn các khoản đầu tư từ lĩnh vực tư nhân vào nền kinh tế của các bạn, và cung cấp những phương án mạnh thay thế các sáng kiến do nhà nước định hướng vốn gắn liền với nhiều ràng buộc.
Trong những năm gần đây, Mỹ đã nhiều lần nhắc nhở rằng an ninh kinh tế không chỉ đơn thuần liên quan đến an ninh quốc gia. An ninh kinh tế chính là an ninh quốc gia. Điều đó rất quan trọng với sức mạnh quốc gia của chúng ta.
Chúng tôi cũng biết rằng sẽ không có sự thịnh vượng lâu dài nếu chúng tôi không dám đối mặt với những mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh, chủ quyền và sự ổn định mà thế giới hiện nay đang đối diện.
Đầu tuần này, tôi đã phát biểu trước quốc hội tại Seoul, Hàn Quốc và kêu gọi tất cả các quốc gia có trách nhiệm đoàn kết trong việc tuyên bố rằng: mọi bước đi của chính quyền Triều Tiên trong việc tăng cường kho vũ khí đều là một bước đi đến nguy hiểm ngày càng lớn hơn. Tương lai của khu vực này và những người dân tốt đẹp tại đây không thể bị kìm giữ như những con tin cho những tưởng tượng méo mó về các cuộc chinh phục bạo lực và hăm dọa hạt nhân của nhà độc tài.
Hơn nữa, chúng ta phải tôn trọng các nguyên tắc đã đem lại lợi ích cho tất cả chúng ta, như tôn trọng thượng tôn pháp luật, các quyền cá nhân, tự do hàng hải và trên không, bao gồm các tuyến vận chuyển mở. Ba nguyên tắc này tạo ra sự ổn định và xây dựng lòng tin, an ninh, và thịnh vượng giữa các quốc gia có cùng chí hướng.

Chúng ta cũng phải giải quyết dứt khoát những mối đe dọa khác đối với an ninh và tương lai của con cái chúng ta, như tội phạm, buôn người, ma túy, tham nhũng, tội phạm mạng và việc bành trướng lãnh thổ. Như tôi từng nói nhiều lần: Tất cả những người văn minh phải cùng nhau đẩy lùi những kẻ khủng bố và các phần tử cực đoan khỏi xã hội, chặn đứng nguồn hỗ trợ về tài chính, lãnh thổ và tư tưởng của chúng. Chúng ta phải ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan.
Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm việc để có một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hoà bình, thịnh vượng và tự do. Tôi tin tưởng rằng, cùng nhau, mọi vấn đề chúng ta nói đến ngày hôm nay đều có thể được giải quyết. Mọi thách thức mà chúng ta phải đối mặt đều có thể vượt qua.
Nếu chúng ta thành công trong nỗ lực này, nếu chúng ta nắm bắt được cơ hội ngay trước mắt và đặt sự hợp tác làm nền tảng vững chắc vì lợi ích của người dân, chúng ta sẽ đạt được mọi thứ chúng ta ước mơ cho các quốc gia và cho con cái.
Chúng ta sẽ có được một thế giới của các quốc gia mạnh mẽ, chủ quyền và độc lập, phát triển trong hòa bình và thương mại với nhau. Đó sẽ là nơi chúng ta có thể xây dựng nhà cửa và nơi các gia đình, doanh nghiệp và con người có thể phát triển.
Nếu chúng ta làm được điều này, khi nhìn thế giới vào nửa thế kỷ tới, chúng ta sẽ ngạc nhiên trước chòm sao xinh đẹp của các quốc gia – mỗi nước đều khác biệt, có nét độc đáo riêng và tất cả đều tỏa sáng đầy tự hào trong khu vực này. Cũng giống như khi chúng ta nhìn vào các ngôi sao trên bầu trời đêm, khoảng cách thời gian sẽ làm cho hầu hết những thách thức chúng ta phải đối mặt và nhắc đến ngày hôm nay trở nên rất nhỏ bé.
Nhưng điều không nhỏ sẽ là những lựa chọn lớn mà tất cả các quốc gia sẽ phải đưa ra để giữ cho các ngôi sao luôn tỏa sáng rực rỡ.

Ở Mỹ – cũng giống như mọi quốc gia đã chiến thắng và bảo vệ chủ quyền của mình, chúng tôi hiểu rằng không có gì quý giá như quyền lợi đương nhiên của công dân, sự độc lập quý giá và sự tự do.
Lý tưởng đó đã dẫn dắt chúng tôi trong lịch sử nước Mỹ. Lý tưởng đó đã thôi thúc chúng tôi hy sinh và đổi mới. Và đó là lý do tại sao ngày nay, hàng trăm năm sau chiến thắng của chúng tôi trong Cách mạng Mỹ, chúng ta vẫn nhớ đến lời của lời nhà lập quốc và là Tổng thống thứ hai của nước Mỹ John Adams. Trước khi từ giã cõi đời, người yêu nước vĩ đại này được yêu cầu đưa ra suy nghĩ trong dịp kỷ niệm 50 năm tự do của Mỹ. Câu trả lời của ông là “độc lập vĩnh viễn”.

Đó là tinh thần cháy bỏng trong lòng người yêu nước và mọi quốc gia. Nước chủ nhà Việt Nam không chỉ có tinh thần đó trong 200 năm mà là trong gần 2000 năm. Vào khoảng năm 40, Hai Bà Trưng đã đánh thức tinh thần của người dân vùng đất này. Đó là lần đầu tiên người dân Việt Nam đứng lên đấu tranh cho sự độc lập và niềm tự hào của các bạn.
Ngày nay, những người yêu nước, anh hùng trong lịch sử nắm giữ những câu trả lời cho những câu hỏi lớn về tương lai và thời đại của chúng ta. Họ nhắc nhở chúng ta là ai, sứ mệnh của chúng ta là gì.

Cùng với nhau, chúng ta có sức mạnh để nâng người dân và thế giới lên những tầm cao mới chưa từng có.
Hãy chọn tương lai của lòng yêu nước, thịnh vượng, niềm tự hào.
Hãy chọn thịnh vượng và tự do chứ không phải nghèo đói và sự tôi tớ.
Hãy chọn một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở cửa.
Cuối cùng, đừng bao giờ quên rằng thế giới có nhiều nơi, nhiều giấc mơ, và nhiều con đường, nhưng không có nơi nào như nhà mình. 
Vì vậy, vì gia đình, vì đất nước, tự do, lịch sử và vì Chúa, hãy bảo vệ tổ quốc của các bạn, hiện giờ và mãi mãi về sau.
Cảm ơn các bạn. Chúa phù hộ các bạn. Chúa phù hộ khu vực Thái Bình Dương. Chúa phù hộ nước Mỹ. Cảm ơn nhiều. Cảm ơn các bạn.

Song Phương – Ngọc Thành – Hạnh Tâm

The Vietnam War – Đôi điều cần phải nói

The Vietnam War – Đôi điều cần phải nói

 Phạm Tín An Ninh

Bộ phim tài liệu The Vietnam War được thực hiện bởi hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Norvick, hiện đang được phổ biến rộng rãi trên truyền hình NRK (NaUy) và được một số báo chí thiên tả NaUy tán thưởng. Bộ phim này cũng đã được trình chiếu tháng trước trên hệ thống truyền hình PBS tại Mỹ, tạo nên làn sóng tranh cãi, nhiều phản bác hơn là ngợi khen, từ những người Mỹ lẫn người Việt, Người ta công nhận The Vietnam War có khá hơn nhiều so với Vietnam – The Ten Thousand Day War (của Michael Maclear) trước đây, tuy nhiên nó vẫn là một bộ phim tồi. Những người thực hiện vẫn tiếp tục đi theo lối mòn định kiến của giới truyền thông Mỹ. Trong khi đa phần những người trong cuộc, từng tham dự và bị nhiều hệ lụy từ cuộc chiến ấy, dễ dàng nhận ra sự thiên lệch, thiếu chính xác của cuốn phim, từ trong tư tưởng, tài liệu, hình ảnh đến việc phỏng vấn và mục đích thực hiện.

1/- Trước hết, nên biết Ken Burns, người thực hiện The Vietnam War là ai?

Suốt trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Ken Burns là một thành viên đắc lực của phong trào phản chiến. Ông là một người theo phái tả, liberal và triệt để ủng hộ Đảng Dân Chủ.

Với một người như thế, tất nhiên Ken Burns luôn mang nặng thành kiến về cuộc chiến Việt Nam. Chính những người phản chiến như ông đã tạo nên một nhận định khá phổ biến “Cuộc chiến Việt Nam không thua tại Việt nam nhưng đã thua tại Hoa Kỳ”.

2/- The Vietnam War dựa theo những tài liệu, hình ảnh nào, do ai cung cấp?

Tất nhiên phần lớn dựa theo tài liệu, hình ảnh của Hoa Kỳ và của chính quyền Việt nam Cộng sản cung cấp. Ai cũng biết là các chính quyền CS không bao giờ tôn trọng sự thực, nên tất cả mọi tài liệu, hình ảnh đưa ra đều tô vẽ có lợi cho họ. VNCH không còn tồn tại, mọi tài liệu bị thất tán, phá hủy, không còn tiếng nói để chứng minh lẽ phải về họ, mặc dù chính họ mới là lực lượng chính trong cuộc chiến và đã phải nhận nhiều hệ lụy nhất chứ không phải Hoa Kỳ.

3/- The Vietnam War đã phỏng vấn những ai?

Có 3 thành phần:

– Những người Mỹ, một số cựu chiến binh tại Việt Nam, nhân viên của chính phủ, nhà báo. người có chồng, con tử trận tại Việt Nam, và có cả những người thuộc thành phần chủ chốt trong phong trào phản chiến trước đây.

– Những người Việt Nam trong nước. Hầu hết là những sĩ quan cao cấp, nhà văn nhà báo phục vụ chế độ CS. Ai cũng hiểu rằng, khi những nhà làm phim muốn tiếp xúc với họ đều phải qua chính quyền CSVN sắp xếp, chọn lựa hay tối thiểu là phải có sự cho phép, và tất nhiên phải nói những điều có lợi cho sự tuyên truyền của họ.

– Những người miền Nam (VNCH) đang sống tại Mỹ. Một số cựu sĩ quan, viên chức ngoại giao, và một vài người thành công ở Hoa kỳ.

Tuy nhiên trong suốt cuốn phim, ai cũng nhìn thấy là họ được nói rất ít. Một hai câu ngắn.Tất nhiên các nhà làm phim tìm họ để phỏng vấn, không phải chỉ để hỏi một đôi câu ngắn ngủn như thế, nhưng chắc chắn những lời nói của họ đã bị cắt bỏ, chỉ còn lại một vài câu có lợi theo quan điểm của người làm phim. Ngoại trừ bà Dương Vân Mai Elliott, là nhân vật được xuất hiện nhiều nhất và phát biểu lâu nhất. Bà là nhà văn, tác giả cuốn sách “The Sacred Willow” được đề cử giải Pulitzer trong đó nói về bốn thế hệ sống trong một gia đình Việt Nam. Bà gốc người Bắc, thân phụ Bà làm việc cho Pháp. Năm 1954 cả gia đình di cư vào Nam, ngoại trừ người chị cả ở lại cùng chồng tham gia kháng chiến. Năm 1960 bà được học bổng, sang Mỹ học về ngành ngoại giao. Năm 1964, khi 23 tuổi, bà lập gia đình với người chồng Mỹ cùng ngành và sau đó cả hai vợ chồng cùng làm việc cho Rand Corporation ở Sài gòn từ 1964 đến 1967. Với thân thế như vậy, nên bà Dương Vân Mai Elliott hiểu biết khá tường tận về tình hình chính trị và quân sự ở miền Bắc VN trước 1954, cũng như ở miền Nam sau 1954. Tuy nhiên về sau này, từ giữa thập niên 1960, dường như Bà đã có cái nhìn về cuộc chiến Việt Nam dưới lăng kính của một người Mỹ.

Một người đặc biệt nữa là Ông thẩm phán Phan Quang Tuệ.Ông là con trưởng của Ông Phan Quang Đán, người sáng lập Đảng Dân Chủ Tư Do, luôn quyết liệt chống đối chính phủ Ngô Đình Diệm và tham gia cuộc đảo chánh bất thành 11.11.1960 (với vai trò ủy viên chính trị và cố vấn), nên bị bắt cầm tù. Thời đệ nhị Cộng Hòa, ông ra tranh cử cùng liên danh với ông Phan Khắc Sữu, trong chức vụ Phó Tổng Thống, nhưng bị thua liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ. Do đó trong The Vietnam War, con trai ông, Phan Quang Tuệ, đã phát biểu tiêu cực về chế độ Ngô Đình Diệm cũng như các chính quyền miền Nam sau này với lòng hận thù, thay vì với lương tâm của một người trí thức.

4/- Không chính xác từ cách gọi tên cho cuộc chiến.

Ken Burns gọi cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến”. Điều này không đúng. Nếu là một cuộc nội chiến thì đã không có 58.220 người Mỹ đã chết tại Việt Nam. Chính vì sự méo mó này, mà trong suốt cuốn phim, không thấy đề cập nhiều đến các nước Cộng sản, đặc biệt là Liên Xô và Trung Cộng luôn là những quan thầy của CSVN và hỗ trợ hết mình để mang thắng lợi cho miền Bắc CS. Trong khi Hoa Kỳ đã nhảy vào Nam Việt nam và xem miền Nam như là một tiền đồn của Thế Giới Tự Do, nhằm ngăn chặn làn sóng đỏ Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á. Hơn nữa, quân đội Nam VN (VNCH) chưa hề đưa quân tấn công ra Bắc, họ chỉ bảo vệ miền Nam để xây dựng một thể chế dân chủ tự do, không Cộng sản. Còn cái gọi là MTGPMN cũng chỉ là đám CS nằm vùng, được cài lại miền Nam sau 1954, hoặc xâm nhập từ miền Bắc sau này, được CSBV nặn ra nhằm lừa bịp quốc tế.

5/- Cách hành xử “kẻ cả” của Mỹ đối với một đồng minh, đã đưa đến sự thất bại tại Nam Việt nam.

Không có một vị lãnh đạo và cả người dân miền Nam nào muốn có sự hiện diện cùa quân đội Hoa Kỳ trên đất nước của họ. Chính Tổng thống Ngô Đình Diệm đã từng cực lực lên tiếng bác bỏ ý định của Hoa Kỳ, ngay từ thời Tổng thống J.F. Kennedy, muốn đưa quân vào Nam Việt nam. và cũng chính vì việc này đã đưa đến cái chết thảm khốc của anh em ông Diệm vào ngày 1.11.1963. (Mỹ đã đưa ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ để dàn xếp một cuộc đảo chánh, và một sĩ quan cao cấp CIA, trung tá Lucien Conein, ngồi ngay trong sào huyệt của Dương Văn Minh cùng các tướng lãnh phản bội ông Diệm, tại Bộ TTM/QLVNCH, để trực tiếp giám sát, theo dõi việc đảo chánh.)

Ông Diệm luôn phản đối việc Mỹ đưa quân sang Việt Nam, vì ông nghĩ như thế sẽ làm mất chính nghĩa cho công cuộc đấu tranh của dân chúng miền Nam bảo vệ tự do, và có cớ để Liên Xô và Trung Cộng vào cuộc, ra lệnh và hỗ trợ miền Bắc đưa quân vào đánh Nam Việt nam.

Nên nhớ là nền cộng hòa non trẻ của Ông Ngô Đình Diệm được xây dựng tại miền Nam sau Hiệp định Genève 1954, trên những đống tro tàn, rác rưởi và nhiều phe nhóm bạo loạn của Pháp để lại, cùng lúc phải lo định cư cho hơn một triệu người dân di cư từ miền Bắc, trốn thoát chế độ CS. Nếu có đôi điều bất như ý cũng là lẽ tất nhiên. Nhưng đây lại là thời kỳ “vàng son” nhất mà người dân miền Nam được hưởng, giáo dục, kinh tế và cả quốc phòng phát triển tốt đẹp. Với kế hoạch Ấp Chiến lược, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiêu diệt và loại gần hết đám CS nằm vùng tại Nam VN, do CS gài lại sau hiệp định Genève.

Và có lẽ Ông là người lãnh đạo quốc gia duy nhất trên thế giớiđã tha tội chết cho cả ba người từng giết hụt mình: Hà Thúc Ký, Phạm Phú Quốc và Hà Minh Trí (người ám sát Ông tại Ban Mê Thuột)

So với Hồ Chí Minh, ông Ngô Đình Diệm yêu nước, thương dân và đạo đức hơn gấp vạn lần. Ông sống độc thân, đạo hạnh, trong khi Hồ Chí Minh tự xưng mình là “Bác” của toàn dân, bắt mọi người phải tôn thờ ca tụng mình, nhưng đã từng sống với nhiều người đàn bà, ngay cả với vợ một đồng chí của mình, và ra lệnh giết một cô con gái trẻ sau khi có con với ông ta và cô ấy tỏ ý muốn được công khai chấp nhận. Một tội ác điễn hình của ông ta, khi ban hành Chiến dịch Cải cách Ruộng Đất, giết dã man hàng vạn người dân vô tội, trong đó có cả bà Nguyễn Thị Năm, người bị xử tử đầu tiên, là một ân nhân đã từng cưu mang ông cùng những cán bộ cao cấp, và trợ giúp rất nhiều cho tổ chức của ông. Nhưng trong Tập 1 The Vietnam War, người làm phim đã hết sức ca ngợi Hồ Chí Minh và bôi bẩn hình ảnh ông Ngô Đình Diệm một cách ác ý đến lố bịch.

Mỹ đã lợi dụng một vài bất đồng của Phật giáo, đi đêm và đứng đằng sau một số sư sãi quá khích, tạo nên tình trạng bất ổn liên tục tại miền Nam. Nhưng thực chất, sau ngày mất miền Nam, đã lộ ra rất nhiều sinh viên Phật tử đứng đầu các cuộc tranh đấu chống Ngô Đình Diệm vốn là những đảng viên hoặc đã hợp tác với Cộng sản, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh … tại Huế, và Đỗ Trung Hiếu, Đỗ Hữu Ưng, Lê Hiếu Đằng, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm … tại Sài gòn. (Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ, dù không còn vịn vào lý do “đàn áp Phật giáo”, nhưng những người mượn danh Phật giáo này vẫn tiếp tục phản đối các chính quyền kế tiếp, gây bất ổn cho cả nước, đặc biệt tại Huế, miền Trung Việt nam.)

Làm như vậy, chỉ với mục đích để Hoa kỳ biện mình cho việc đưa quân vào Nam Việt nam, cũng như việc tổ chức lật đổ và giết ông Diệm, người luôn phản đối việc Hoa Kỳ đưa quân vào Nam Việt nam, và chỉ yêu cầu được viện trợ trong thời gian miền Nam đang từng bước xây dựng nền cộng hòa non trẻ. Hơn nữa, dù hùng mạnh và giàu có, nhưng quân đội Hoa Kỳ không thích hợp với hình thái chiến tranh tại Việt Nam, lúc ấy đa phần là du kích chiến.

Điều trịch thượng và “phi chánh trị” quái đản khác, từ khi đưa quân ào ạt vào Nam VN, Mỹ mặc nhiên xem cuộc chiến này là của họ. Trong tất cả các cuộc đàm phán, ký kết hiệp định, Mỹ tự cho mình ngang hàng với Bắc Việt và xếp Nam VN ngang hàng với MTGPMN. Trong khi ai cũng biết rằng: MTGPMN chỉ là một nhóm tay sai do Hà Nội dựng lên để lừa bịp quốc tế. (Ngay sau khi vừa chiếm Nam VN, CS đã khai tử MTGPMN, tất cả những nhân vật trong chính phủ của MT này không nhận được bất cứ một chức vụ quan trọng nào, và bị loại dần ra khỏi guồng máy lãnh đạo). Điều đặc biệt tệ hại hơn, Hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973 là một áp đặt trắng trợn để ngay sau đó Hoa Kỳ phủi tay khi CSBV công khai ngang nhiên vi phạm.

6/- The Vietnam War quá bất công đối với QLVNCH, một quân đội đã bị bức tử, không còn tiếng nói.

Trong khi Mỹ có 58.220 quân nhân chết tại Việt Nam, thì QLVNCH có đến trên 320.000 binh sĩ tử trận và khoảng hơn 1.200.000 bị thương. Trong Tết Mậu Thân 1968, CSBV đã tung nhiều sư đoàn đánh vào nhiều thành phố Nam VN, QLVNCH đã anh dũng chiến đấu và đập tan ý đồ của địch, gây tổn thất rất nặng nề cho CSBV. Người ta không hiểu vì lý do gì, trong những ngày đầu trong trận Mậu Thân, ở nhiều nơi, Mỹ đã không tham chiến? Và mặc dù CSBV đã vi phạm thỏa ước hưu chiến trong ngày Tết nguyên đán, bất ngờ tổng tấn công vào nhiều thành phố lớn, vậy mà đã không có khả năng chiếm được bất cứ thành phố nào. Chỉ có Huế kéo dài 26 ngày, và CSBV đã giết dã man hơn 6.700 người dân vô tội. Có tiến bộ hơn nhiều phim trước, The Vietnam War có đề cập thoáng qua tội ác này của CSBV, nhưng chỉ nói có khoảng 2.800 người bị giết kèm theo lời xác nhận và bào chữa yếu ớt của một cựu cán binh CS.

Mùa Hè 1972, CSVN đưa một lực lượng quân sự hùng hậu, với xe tăng, đại pháo tối tân của Nga sô cung cấp, từ miền Bắc và Lào xâm nhập Nam VN, dùng nhiều sư đoàn thiện chiến, đánh vào Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Lúc này các đơn vị chiến đấu Mỹ đã rút khỏi Nam VN, chỉ có QLVNCH đã chống trả mãnh liệt, tạo những chiến thắng lẫy lừng, giữ vững được các tỉnh lỵ này và gây tổn thất rất lớn cho CSBV. Thời điểm này, Hoa Kỳ cũng đã cắt giảm khá nhiều viện trợ cho Nam VN. (Thêm một điều cần nói: QLVNCH luôn luôn được Mỹ viện trợ vũ khí, chiến cụ kém hiệu năng rất nhiều so với vũ khí, chiến cụ của CSBV được phe CS trang bị.). Một câu hỏi được đặt ra, trong Mùa Hè 1972 này, QLVN Cộng Hòa đã chiến thắng lớn tại Kontum, An Lộc và cả Quảng Trị, nhưng trong The Vietnam War không hề được nhắc tới, thay vào đó lại là hình ảnh của một lực lượng thuộc Sư Đoàn 3 BB phải lui binh khỏi Quảng Trị?

Một cuộc chiến như thế, với những thành tích và sự hy sinh như thế, nhưng trong The Vietnam War, cả một quân đội miền Nam ấy gần như cái bóng mờ nhạt, nếu có đề cập, cũng chỉ là một vài hình ảnh tiêu cực.

– The Vietnam War chỉ đưa ra một vài trận đánh mà QLVNCH không may bị nhiều tổn thất: như Trận Ấp Bắc, Trận Bình Giã… nhưng không hề nói đến những chiến thắng lớn mà Quân lực này đã anh dũng đạt được tại các trân chiến ác liệt như An Lộc, Kontum, Quảng Trị, v.v…, hay Tống Lê Chân (một tiền đồn nằm gần biên giới Việt-Miên, chỉ được phòng thủ bởi 1 Tiểu Đoàn 92 BĐQ/BP, bị lực lượng CS, có khi lên đến cấp trung đoàn luân phiên tấn công vây hãm, pháo kích suốt ngày đêm. Măc dù nhiều tháng không được tiếp tế, tản thương, nhưng TĐ 92/ BĐQ đã anh dũng chiến đấu ròng rã trong suốt 510 ngày(10.5.72 – 11.4.74), sự kiện này cả UBLHQS và UBQT tại Việt Nam đều biết). Một chiến tích đặc biệt khác mà cả quân sử Hoa Kỳ và hồi ký của Tướng Westmoreland đều có ghi nhận đầy đủ: TĐ 37 BĐQ của VNCH được tăng phái cho lực lượng quân đội Hoa Kỳ, bảo vệ tuyến Đông Bắc Phi trường Khe Sanh, mặc dù bị một lực lượng hùng hậu của Cộng quân tấn công và pháo kích liên tục, có những ngày không được tiếp tế, nhưng đơn vị này đã dũng cảm tử chiến với Cộng quân ròng rã trong suốt 70 ngày đêm (21.2.68 – 08.4.68), giữ vững được phòng tuyến và bảo vệ phi trường Khe Sanh, một cứ điểm quan trọng cho sự an toàn của cả một căn cứ nổi tiếng của Mỹ tại Việt Nam.)

– Đặc biệt Trận Ấp Bắc, đúng là đơn vị Nam VN đã không giải quyết được chiến trường, bởi nhiều lý do (trong đó có lỗi lầm của Mỹ), nhưng không phải đến bây giờ, trong The Vietnam War, các nhà đạo diễn mới cố thổi phồng sự tổn thất của Nam VN và không nói đến tổn thất của địch. Phóng viên chiến trường Neil Sheehan, tác giả cuốn “The Bright Shining Lie”, khi ấy đi theo cánh quân thiết giáp do Đại úy Lý Tòng Bá chỉ huy, cũng đã viết rất nhiều điều phóng đại, không thực trong cuốn sách. Sau này, cựu Tướng Lý Tòng Bá gặp lại anh ta tại Mỹ đã chỉ trích điều này, nên anh ta đã viết bài “After The War Over” để gởi tặng cựu tướng Lý Tòng Bá, như một lời xin lỗi về nhiều điều anh đã viết không đúng trong trận Ấp Bắc. John Paul Vann, khi ấy là Trung tá cố vấn tại Sư đoàn 7BB, cũng đã từng nhận định và có những tuyên bố sai lạc về trận Ấp Bắc và cá nhân Đại úy Bá, sau này, năm 1972, khi làm cố vấn cho Quân đoàn II, cùng Tướng Lý Tòng Bá tạo nên chiến thắng Kontum, ông Vann cũng đã chính thức xin lỗi Tướng Bá về những nhận định thiếu chính xác về trận Ấp Bắc trước kia.

Cũng đã có những nhận định là Mỹ cố tạo ra một hình ảnh thất bại của QLVNCH trong trận Ấp Bắc để có cớ đưa quân vào Nam VN.

Trong phim, khi được phỏng vấn, Tom Valley, một cựu TQLC Hoa Kỳ từng tham gia cuộc chiến Việt Nam đã buồn bã thốt lên: “Người Mỹ rất hiếm khi chịu nhìn nhận sự dũng cảm của họ (QLVNCH). Chúng ta tỏ ra khinh thường họ, phóng đại sự yếu kém của họ, chỉ vì muốn khoe khoang tài năng của ta.” Lời nói này là chân thật, nhưng cũng chỉ mới đúng được một nửa.

– The Vietnam War đã cố tình đưa ra một số hình ảnh tuyên truyền quá quen thuộc nhằm gây bất lợi cho Nam VN. Cô bé Kim Phúc bị phỏng bởi bom Napalm ở Trảng Bàng, Tây Ninh, ngày 8.6.72, bị CSVN lợi dụng, tô vẽ cho cả một chiến dịch tuyên truyền, sau này cô đã xin tỵ nạn tại Canada. Trường hợp Tướng Cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan xử tử tên VC Bảy Lốp sau khi tên này đã tàn sát rất dã man cả một gia đình từ bà già cho đến con nít. Và khi ấy tên VC này không hề mang quân phục hay bất cứ giấy tờ gì, thì không thể gọi hắn ta là tù binh để phải hành xử theo luật tù binh chiến tranh được. Hắn ta được xử như một tên khủng bố nguy hiểm, ác độc. Tướng Loan đã được một toà án Hoa Kỳ miễn truy tố, với lý do này.

Phóng viên Eddie Adams, người chụp bức hình xử bắn được giải Pulitzer ấy, đã tìm đến gia đình Tướng Loan xin lỗi, và khi được tin Tướng Loan mất, Eddie đã đích thân đến dự đám tang, khóc nức nở khi đọc bài điếu văn, trong đó có đoạn:“Ông là một vị anh hùng. Cả nước Mỹ nên khóc thương ông mới phải, tôi không muốn nhìn thấy ông ra đi như thế này, người ta không hiểu gì về ông ấy”. (The guy was a hero, America should be crying. I hate to see him go this way – Without people knowing anything about him). Trên vòng hoa phúng điếu của Eddie Adams, có đính một danh thiếp ghi rõ dòng thủ bút: “General! I’m so…sorry. Tears in my eyes” (Thưa Thiếu tướng, tôi rất ân hận. Lệ đã tràn đầy mắt tôi).Bản điếu văn của ông Eddie Adams sau đó được tuần báo Time đăng tải vào ngày 27 tháng 7 năm 1998

Bây giờ, The Vienam War lại đóng thêm những chiếc đinh oan nghiệt trên quan tài của của một người đã chết, đã từng bị sỉ nhục và khốn đốn vì tấm ảnh mang một nửa sự thực, chỉ vì ông là người của Nam VN!

Trong khi ấy, suốt cuốn phim 10 tập, dài đến 18 tiếng đồng hồ, người ta không tìm thấy hình ảnh của CSBV pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ngày 9.3.74, làm chết 32 và gây thương tích cho 55 em học sinh. Người ta cũng không hề thấy cảnh trên 2.000 đồng bào, rời bỏ làng mạc bị CS chiếm, gồng gánh chạy về phía tự do, bị CS pháo kích tàn sát, nằm chết la liệt trên đoạn đường dài 9 km (QL 1 thuộc tỉnh Quảng Trị) được báo chí đặt tên là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Một hình ảnh rất đặc biệt mà đến nay nhiều báo chí tại Hoa Kỳ vẫn còn nhắc đến, một bé gái 4 tháng tuổi ôm bú vú người mẹ chết từ mấy ngày trước, đã được một binh sĩ TQLC/ VNCH cứu, mang về giao cho một viện mồ côi. Sau đó, cháu bé được một trung sĩ Mỹ nhận làm con nuôi, đưa sang Mỹ vào cuối năm 1972, và sau này trở thành một sĩ quan cao cấp trong Quân đội Hoa kỳ: Đại Tá Kimberly M. Mitchell! Người Mỹ đã ca ngợi cô đại tá Hải quân gốc Việt này, nhưng trong The Vietnam War không hề nhắc tới Đại Lộ Kinh Hoàng!

Khi The Vietnam War được thực hiện và trình chiếu tại Hoa Kỳ, thì không phải chỉ có Thủ tướng hay Chủ tịch nước mà ngay cả Tổng Bí thư Đảng CS Nguyễn Phú Trọng đã được chính phủ Mỹ tiếp đón tại Tòa Bạch ốc, Việt Nam được Mỹ “dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí”, “bình thường hóa toàn diện” rồi trở thành “đối tác chiến lược” của Hoa Kỳ. Trong khi đó tại Việt Nam, Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, nơi chôn cất hơn 16.000 binh sĩ Nam Việt Nam tử trận vẫn tiếp tực bị tàn phá, hoang phế, ngăn cấm thân nhân đến sửa sang, thăm viếng, và những thương binh VNCH vẫn tiếp tục bị CS lên án, kỳ thị, phân biệt đối xử.

The Vietnam War, với sự thiên lệch, giả dối chỉ khoét sâu thêm vết thương chưa lành trên thân phận của một đất nước từng tan nát bởi chiến tranh và đặc biệt của những người lính bất hạnh Nam VN, vốn là những ngươi bạn đồng minh của Hoa Kỳ!

Phạm Tín An Ninh
(một người lính VNCH)

APEC/ĐÀ NẴNG/2017 & NHỮNG THÚ VỊ … ĐẮNG NGẮT !

From facebook:  Trung Minh Le and Người Việt LV Hoà Lan shared Vu Vo‘s post.
Image may contain: 2 people, people smiling, text
Vu Vo is with Nam Viet.

 

APEC/ĐÀ NẴNG/2017 & NHỮNG THÚ VỊ … ĐẮNG NGẮT !

– Thật thú vị khi bà Angela Merkel của nước Đức một trong 5 người phụ nữ quyền lực nhất thế giới đã lắc đầu từ chối không đến VN để tham dự hội nghị thượng đỉnh các nền kinh tế Apec vì vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh !
– Thật thú vị khi mà tại hội nghị này Thủ Tướng Canada Justin Trudeau đã lắc đầu ngao ngán vì vấn đề nhân quyền không được tôn trọng tại VN nên đã rút khỏi TPP và đã rời Đà Nẵng vào Tp.HCM chạy bộ hít thở ở kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè !
Đúng là ” Thiên thời Địa lợi Nhân hòa ” tại VN không hợp với những nền kinh tế khổng lồ !
Đúng là, đắng ngắt đáng để cười mỉa !
Nhưng vẫn được bảo đảm là khi hội nghị kết thúc thì vẫn một bổn cũ soạn lại với bài ca muôn thuở rằng : HỘI NGHỊ ĐÃ THÀNH CÔNG RỰC RỠ !!! – Vi Vu

CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?

From facebook:   Trần Bang shared Lê Mỹ Hạnh‘s post.
Ai cứ cho là “mình” không liên quan đến chính trị thì hãy đọc kỹ để xem “mình” còn là con người không?

“Con người là động vật chính trị”

Nên nếu con người mà bỏ phần chính trị đi thì chỉ còn là động vật!

 
Image may contain: one or more people, eyeglasses and text
Lê Mỹ HạnhFollow

 

CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?

Khi mày tát CSGT mày bị 9 tháng tù. Khi CSGT đập mày nhập viện, nó bị kiểm điểm. Đó là chính trị !

Khi con mày đi học, nó không được học cái nó muốn, mà phải học cái người khác muốn. Đó là chính trị !

Khi bây giờ tụi mày không biết thực phẩm nào sạch,thực phẩm nào của Trung Quốc dù vẫn tốn tiền thuế để nuôi lũ kiểm tra những thứ đó. Đó là chính trị !

Khi mày phải tốn 18.000đ để mua 1 lít xăng thay vì chỉ 10-11.000. Đó là chính trị!

Khi mày đóng thuế đầy đủ, nhưng 1 cơn mưa khiến đường bộ thành đường sông , và mày phải hứng chịu tất cả. Đó là chính trị !

Năm nào cũng ngập nhưng không có giải pháp và khi người thân của mày phải lâm vào cảnh lầm than, đói khổ. Đó là chính trị !

Khi xả lũ chết bao nhiêu người và thủ phạm vẫn ung dung làm lãnh đạo. Dân tình thì đéo quan tâm khi đồng bào mình chết. Đó là chính trị !

Đừng bao giờ nói với tao cụm từ ” vật giá leo thang”. Đó là khi nợ công đang ngày 1 nhiều. Và tao với mày phải đóng thuế để trả đống nợ đó thông qua TẤT CẢ những thứ tao với mày từng mua với giá rẻ hơn. Đó là chính trị !

Và nếu tụi mày có đi du lịch. Cầm mấy chục triệu VND ra đổi được có mấy ngàn của người ta. Đó cũng là chính trị !

Tất cả những thứ tao và mày đang gánh chịu : từ nợ công , thực phẩm bẩn, quan liêu, hách dịch v.v…đều vì việc sợ CHÍNH CHÍNH TRỊ! Và lần cuối Tao nhắc lại: Nếu mày là con gái và đang trong thời kỳ chửa đẻ thì cái BVS mày dùng hàng tháng đó cũng là CHÍNH TRỊ tất!

Nếu còn hỏi tao chính trị là gì, thì tốt nhất mày nên chết m* đi. Chỉ tổ làm nợ công tăng thêm thôi!

(Nguồn Copy)