Có tin cho rằng TXT bị bắt ở Đức, rồi đưa bằng ô tô sang nước khác thân cộng, sau đó đưa về Việt Nam.

From facebook:  Trần Bang

 

NÓNG!

20 giờ VN, ngày 31-07-2017, NGƯỜI BUÔN GIÓ: Trịnh Xuân Thanh

Có tin cho rằng TXT bị bắt ở Đức, rồi đưa bằng ô tô sang nước khác thân cộng, sau đó đưa về Việt Nam.

Nếu thế quan hệ Việt Đức nguy to rồi, xâm nhập lãnh thổ, bắt cóc rồi ép là tự thú. Bảo sao không thấy đưa clip chỉ thấy báo chí nói với nhau.

Nhưng thằng nào cung cấp tin TXT cho an ninh Việt Nam bắt cóc?
Nếu đang ở Đức thì liệu hồn, định xúi bắt Thanh để nuốt trôi số tài sản TXT nhờ giữ hộ à.

Anh sẽ có bằng chứng những chú giữ hộ tài sản của TXT.
————
Như vậy, theo anh Gió thì Xuân Thanh KHÔNG bị bắt “chính thức, công khai” và cũng KHÔNG tự ra đầu thú.

( FB Nam Liên Phan )

BBC: Nhà báo Lê Trung Khoa từ Đức, khách mời tham gia Bàn tròn nói:
“Ông Trịnh Xuân Thanh không tự động về nước mà đã bị bắt cóc về nước hôm Chủ Nhật hôm 30/7. Phía Đức trong ít giờ nữa sẽ ra thông báo về việc vi phạm chủ quyền.”

Nhà báo Lê Trung Khoa nói tại Tọa đàm Bàn tròn của BBC Tiếng Việt: “Tôi đã gặp trực tiếp cán bộ điều tra và luật sư người Đức của ông Trịnh Xuân Thanh. Việt Nam đã dựng lên việc ông Trịnh Xuân Thanh về nước. Đức vẫn chưa ký kết với Việt Nam về thỏa thuận dẫn độ trong lúc có lẽ Việt Nam đã cử một đội sang bắt cóc ông Thanh. Việc này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn cho quan hệ ngoại giao giữa hai nước.”

 
Bàn tròn của BBC về sự kiện ông Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang của Việt Nam ‘ra đầu thú’. Chương trình được bắt đầu vào lúc 20h30 ngày …

THÁNH INHAXIÔ, TỔ PHỤ DÒNG TÊN

THÁNH INHAXIÔ, TỔ PHỤ DÒNG TÊN

Từ Lộ Đức (Pháp) đến Burgos (Tây Ban Nha) hơn 400km.  Tại Burgos có Đền Thánh Loyola nổi tiếng.  Từ xa, nhìn Nhà thờ với dáng vẻ cổ kính và khuôn viên rộng lớn.  Bên trong Nhà thờ có nhiều nhà nguyện ở chung quanh với những cột đá cẩm thạch nhiều màu sắc khác nhau thật lộng lẫy, có nhiều tác phẩm nghệ thuật trên cung thánh, trên trần và trên các bức tường.

Chúng tôi viếng thăm những nơi liên hệ đến cuộc hoán cải của Thánh Inhaxiô.  Hướng dẫn chương trình tham quan đã được thu âm bằng nhiều ngôn ngữ.  Chọn phần tiếng Việt, chúng tôi lắng nghe về hành trình hoán cải và nên thánh của Inhaxiô, đi đến những căn phòng giới thiệu về cuộc đời của thánh nhân và đến Nhà nguyện “hoán cải” dâng thánh lễ.

  1. Đôi dòng tiểu sử Thánh Inhaxiô

 Thánh Inhaxiô sinh tại Loyola vào năm 1491, trong một gia đình quí tộc xứ Basque của Tây Ban Nha.  Inhaxiô là người em út trong số 13 người con.  Thời niên thiếu, Ignatiô được nhà vua chọn làm người hầu cận, tiếp đến là chiến sĩ trong quân đội hoàng gia.

Năm 1509, Inhaxiô tòng quân Antonio Manrique de Lara, Duke thành Najera và Viceroy thành Navarre với mục đích là được thăng tiến thành một công tước.  Dưới sự lãnh đạo của Duke, Inhaxiô đã tham gia nhiều trận đánh mà không bị thương tích gì.

Ý Chúa thật nhiệm mầu.  Sức mạnh lại bày tỏ qua sự yếu đuối như lời thánh Phaolô:“…vì quyền năng của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối ” (2 Cr 12,9).  Ngày 20 tháng 5 năm 1521, cột mốc ghi dấu đặc biệt.  Quân Pháp đánh chiếm thành Pamplona.  Inhaxiô bị một viên đạn đại bác bắn gãy chân và bị thương nặng.  Bức tượng bằng đồng phía ngoài hành lang kể lại sự kiện này.  Trở về dưỡng bệnh trong lâu đài của gia đình, Inhaxiô giết thời giờ bằng cách đọc những sách kể lại những hành động phi thường và lãng mạng của các hiệp sĩ.  Người chị dâu đã đem đến cho ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và cuốn “Hạnh các thánh”.  Dần dần, những quyển sách này đã thu hút ngài.  Khi đọc về cuộc đời của thánh Phanxicô Assisi, Thánh Đaminh và nhiều tu sĩ nổi tiếng khác, Inhaxiô quyết tâm noi gương các bậc thánh nhân hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Giáo hội.  Sau khi phục hồi, Inhaxiô đến thăm tu viện Santa Maria de Montserrat của dòng Biển Đức.  Tại đây, ngài treo bộ quân phục của mình trước một bức hình Đức Mẹ Maria.  Sau đó, ngài đến thị trấn Manresa, Catalonia và đã dành nhiều tháng sống trong một hang động để thực hành khổ hạnh khắt khe.  Tại Manresa, Inhaxiô bắt đầu thay đổi lối sống và cảm nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn xen lẫn niềm vui và nỗi khổ đau.  Được Chúa đánh động, từ đó ngài khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô.  Một lời cầu nguyện cho các hối nhân mà Inhaxiô rất tâm đắc: “Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí khôn và cả ý chí con.  Tất cả những gì con có và đang làm chủ, Chúa đã cho con; nay con xin dâng lại cho Chúa.  Tất cả là của Chúa, xin Chúa xử dụng hoàn toàn theo tôn ý Ngài.  Lạy Chúa, xin hãy ban cho con tình yêu và ân sủng Chúa.  Đối với con, thế là đủ.  Amen!”

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat.  Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria, thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện.  Chính trong thời gian hoán cải này, Linh Thao là con đường thiêng liêng đặc biệt và ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, đó là cuốn “Những Thao Luyện Tâm Linh”.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Roma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây.  Vì lo sợ cho tính mạng của ngài, các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona.  Tin tưởng rằng, kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Paris.

Sau khi đi hành hương ở Đất Thánh về, Inhaxiô quyết định trở thành một linh mục.  Việc này đòi hỏi ngài phải bắt đầu lại việc học hành.  Inhaxiô đã cố gắng học tiếng La tinh và ghi tên vào học ở Đại học Paris.  Trong lúc theo học ở Paris, ngài đã thu phục được một nhóm nhỏ sinh viên thành lập một hội đoàn trong đó có Phanxicô Xaviê và Pierre Fabre.

  1. Sáng lập Dòng Tên

Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15-8-1534, bảy sinh viên Đại Học Paris cùng nhau đến nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre (Crypte du Martyrium de Montmartre) để tuyên khấn.  Chân phước Phêrô Favre, linh mục duy nhất của nhóm, dâng lễ, một lễ dành riêng cho họ.  Trước khi rước Mình Thánh Chúa, mỗi người lần lượt đọc lời khấn đã viết sẵn.  Trong tinh thần này, bảy anh em đã ý thức được một tâm tình: Tất cả là những người Bạn của Chúa Kitô.  Trong số bảy người đó, ngoài Thánh Inhaxiô ra còn có Thánh Phanxicô Xaviê.  Khi viếng thăm nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre, chúng tôi đọc được một bảng bằng đồng viết bằng tiếng La tinh: “Societas Jesu Quae Sanctum Ignatium Loyolam Patrem agnoscit, Lutetiam matrem Hic nata est. – Dòng Tên sinh tại nơi đây.  Cha: Thánh Inhaxiô, Mẹ: Paris”.

Sau thời gian sống ở Paris, Inhaxiô và nhóm bạn bảy người đã nuôi mộng sẽ đi Giêrusalem và dấn thân ở đó.  Tuy nhiên, họ cũng có một ý tưởng thứ hai, là nếu điều kiện không cho phép họ đi Giêrusalem, thì tất cả sẽ xin tự nguyện tùng phục Đức Thánh Cha, và sẽ đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để phục vụ Giáo Hội.

Khi từng người lần lượt đã đến Roma, họ nhận được sự chúc lành của Đức Thánh Cha, Ngài cũng cho phép họ đi Đất Thánh và Ngài còn cho phép tất cả được chịu chức Linh Mục.

Trong năm đó, năm 1537, vì điều kiện không cho phép, nên việc đi Giêrusalem phải hoãn lại, và với thời gian, Chúa đã muốn hướng đi khác cho những người trẻ này.  Đặc biệt trong thời gian này Inhaxiô đã có được một thị kiến tại La Storta: “Một hôm khi còn cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một nhà thờ, Inhaxiô nhận thấy một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, và thấy rõ ràng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Kitô, con của Ngài.  Inhaxiô không thể nào nghi ngờ điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đặt mình cùng Chúa Con” (Hồi ký I-nhã số 96).  Đó chính là một trong những kinh nghiệm giúp Inhaxiô và các anh em nhận ra được ơn gọi để trở nên những người kết thân với Chúa Kitô, trở nên những môn đệ của Ngài và cùng Ngài lên đường phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn.

Trong thời gian này, các anh em tiếp tục sống tinh thần tông đồ, giúp các các linh hồn, và đưa mọi người về với Đức Kitô đúng theo tinh thần của Linh Thao.  Đây cũng là một trong những trọng tâm sống của họ.  Các anh em đều tiếp tục xây dựng cuộc sống của mình trên đặc sủng Linh Thao.  Họ cũng nhận định và suy nghĩ về tương lai của mình.  Một trong những điều họ suy nghĩ là: “Nên đặt tên cho nhóm bạn mình là gì đây?”  Với tâm tình “là những người bạn trong Chúa Kitô”, tất cả đều đồng tâm chọn chính tên của Đấng đã làm cho mọi người yêu mến và ao ước phục vụ.  Vì thế, họ đã chọn tên cho nhóm là: “Societatis Jesus – Cộng đoàn Giêsu hữu”.

Sau đó, vào Mùa Chay năm 1539 tại Roma, Inhaxiô và các bạn đã nhất trí xin lập một dòng tu mới.  Đức Thánh Cha Phaolô III đã chính thức phê chuẩn Dòng Chúa Giêsu vào năm 1540, với tên gọi “Cộng đoàn Giêsu hữu”.  Thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên đầu tiên.  Ở đây xin mở ngoặc để phần nào trả lời cho câu hỏi: “Tại sao ở Việt Nam lại kêu Dòng Chúa Giêsu là Dòng Tên?”  Vì khi Dòng Chúa Giêsu vào Việt Nam, thì trong bối cảnh xã hội thời đó, ai kêu tên của Ông Bà Cha Mẹ, đặc biệt tên của Chúa, thì rất phạm thượng, nên “Dòng Chúa Giêsu” đã được kêu là “Dòng Tên”, để không phạm húy, để mọi người dễ chấp nhận, và cũng dễ dàng cho anh em Giêsu Hữu thời đó trong việc truyền giáo.

Khi Dòng Tên được phê chuẩn và hình thành, Inhaxiô và các anh em đã quyết định một vài điều liên quan đến đời sống thiêng liêng và phục vụ.  Cộng đoàn Dòng Tên sẽ không có giờ kinh phụng vụ chung, tu sĩ dòng không có áo dòng như các tu viện và dòng Tu thời đó, và Dòng Tên cũng không là một tu viện với một “chỗ gối đầu” êm ấm, được bao quanh bởi bốn bức tường kiên cố.  Nhưng tại sao lại có những quyết định như thế?  Đơn giản là các tu sĩ Dòng Tên cần phải sống ơn gọi tông đồ mà Thiên Chúa đã mời gọi.  Vì thế, họ đã chọn lựa một số cách thức giúp họ dễ dàng thi hành sứ mạng tông đồ hơn.  Vì thế, tu viện của Dòng Tên sẽ là phố phường và thế giới, nơi các tu sĩ Dòng Tên đặt chân tới để giúp các linh hồn và phục vụ anh chị em.  Đó chính là tinh thần sống của Inhaxiô, một người lữ hành, và của những anh em Dòng Tên từ xưa cũng như hôm nay.

Từ đó trở đi, theo gương của Chúa Giêsu, các tu sĩ Dòng Tên đã đi đến từng phố phường, làng mạc…, để đem Tin Mừng của Chúa đến khắp mọi nơi, cùng chia sẻ và giúp đỡ từng tâm hồn nhận ra được tình yêu của Chúa, tin vào Tin Mừng của Ngài, và tập sống theo mẫu gương của Đức Kitô.  Đặc biệt, ở đâu cần giúp đỡ hơn, ở đâu khó khăn hơn, ở đâu Tin Mừng Chúa cần “nở hoa” hơn thì các anh em Dòng Tên quyết tâm lên đường dấn thân nơi đó.  Vì vậy mà Phanxicô Xaviê đã phải xa lánh nhóm bạn, đáp tàu đến một vùng đất xa xôi và lạ lẫm ở Ấn Độ và Nhật Bản, Mattheo Ricci và Adam Schall ở Trung Quốc, Alexandre de Rhode (cha Đắc Lộ) ở Việt Nam, và còn bao tu sĩ Dòng Tên khác đã đặt chân lên Nam Mỹ, Châu Phi.

Ngoài ra, môi trường phục vụ của dòng Tên ngày xưa, cũng như hiện nay với trên 20 ngàn tu sĩ tại 127 quốc gia, không giới hạn ở một chân trời nào cả.  Không chỉ có chân trong triều đình nhà Vua thời xưa, mà còn ở những góc phố dơ bẩn tại Manila thời nay.  Không chỉ ở tại những đại học danh tiếng như Georgetown University – Hoa Kỳ, mà còn tại những vùng hoang vu đất đỏ ở Việt Nam.  Thực vậy, nơi nào Vinh Danh Thiên Chúa hơn, thì các tu sĩ Dòng Tên có mặt ở đó.

  1. Inhaxiô một vị thánh lớn của Giáo hội

Trong khi các bạn đồng hành được Đức Giáo Hoàng sai đi truyền giáo thì Inhaxiô vẫn ở Roma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.

Trong thị kiến ở La Storta, Inhaxiô xin và đã được “Chúa Cha và Đức Giêsu vác thập giá nhận Inhaxiô làm người phục vụ.”  Đức Giêsu vác thập giá đã nói với Inhaxiô: “Ta muốn con phục vụ chúng ta”.

Thánh Inhaxiô qua đời ngày 31-7-1556, hưởng thọ 65 tuổi.  Đức Giáo hoàng Phaolô V phong chân phước cho ngài vào ngày 27-7-1609.  Đức Giáo hoàng Grêgôriô XV phong thánh ngày 13-3-1622.  Lễ kính Thánh Inhaxiô vào ngày 31-7 hằng năm.

Thánh Inhaxiô đích thực là một nhà thần bí.  Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể.  Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên “ad majorem Dei gloriam” nghĩa là  “để Thiên Chúa được vinh danh hơn”.  Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội.  Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện.  Vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà Đức Giáo Hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Các linh mục Dòng Tên gồm những nhà bác học, thần học, giáo dục, khoa học cho đến những nhà truyền giáo danh tiếng và nhiều đấng tử đạo.  Những thần học gia vĩ đại, con cái của Thánh Inhaxiô như: Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) và Henri de Lubac (1896-1991) của Pháp, Karl Rahner (1904-84) của Đức, Bernard Lonergan (1904-84) của Canađa và John Courtney Murray (1904-67) của Hoa Kỳ, Hans Urs von Balthasar (1905-88), người Thụy Sĩ… Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng là Tu sĩ Dòng Tên.

Đến ngày 1 tháng 1 năm 2012, tổng số tu sĩ Dòng Tên là 17.637 tu sĩ, trong đó có 12.526 linh mục, 1.470 tu huynh, 2.896 học viên và 745 tập sinh, phục vụ tại 133 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới trong 84 tỉnh dòng, 5 miền độc lập và 10 miền phụ thuộc.  Các tu sĩ của Dòng có mặt trong hầu hết các hoạt động của Giáo Hội (suy tư thần học, giảng thuyết, mục vụ giới trẻ, giúp Linh thao, truyền giáo…) cũng như của xã hội (giáo dục, truyền thông, phục vụ người tị nạn và di dân,…) nhằm phục vụ và thăng tiến con người.  Họ là các thần học gia, các vị linh hướng, giáo sư, kỹ sư, nhạc sĩ, nhân viên xã hội, tâm lý gia, bác sĩ, luật sư, nhà báo, nhà truyền giáo…(x.dongten.net).

Khi dâng lễ ở Nhà nguyện “hoán cải”, tôi suy gẫm về ơn trở lại của thánh nhân.  Nhờ đọc sách thiêng liêng mà Inhaxiô được biến đổi.  Thiên Chúa đã dùng sách thiêng liêng như một khí cụ để hoán cải Inhaxiô.  Việc đọc sách thiêng liêng đã tạo nên nhiều vị thánh.  Nhờ việc đọc sách thiêng liêng, con người trau dồi tri thức về giáo lý Kitô Giáo, đồng thời tìm được những kiến thức cho cuộc thưa chuyện mỗi ngày với Thiên Chúa.  Một cuốn sách thiêng liêng hay có thể được coi như một người bạn tốt.

Thời đại kỹ thuật số hôm nay, các phương tiện truyền thông hằng ngày luôn tấn công con người bằng những âm thanh và hình ảnh thế tục, nó muốn tách lìa từng người ra khỏi Thiên Chúa.  Một quyển sách tốt có thể trở thành một người bạn tuyệt vời, một nhà tư vấn khôn ngoan.  Một quyển sách tốt là một kho tàng tâm linh.  Một vài phút suy niệm về một bài đọc thiêng liêng sẽ giúp chúng ta gần Chúa hơn.

Inhaxiô là một vị đại thánh cho Giáo Hội và một nhân cách lớn cho xã hội.  Ngài là một thiên tài trong lịch sử loài người.  Nơi ngài, ân sủng và tự nhiên hòa hợp cách mỹ mãn để biến đổi một hiệp sĩ đầy tham vọng thế tục thành một vị thánh lớn để bước theo Chúa Kitô xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa và phục vụ mọi người.  Thật khó mà mô tả đầy đủ những đức tính phong phú và có phần đối nghịch của Inhaxiô: hăng hái nhưng biết kềm chế; dũng cảm, quyết tâm, nhưng đơn sơ, cẩn trọng; mạnh mẽ, cương nghị nhưng dịu dàng, yêu thương.  Một con người của những khát vọng lớn lao.  Cả những tham vọng, đam mê thế tục.  Trước khi hoán cải, phục vụ vua chúa trần gian, tìm kiếm danh vọng cho bản thân.  Sau khi hoán cải, cũng với khát vọng và hoài bão lớn lao cố hữu, nhưng được thanh luyện, để không còn tìm kiếm chính mình mà tìm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Mừng lễ kính thánh Inhaxiô, xin Chúa cho mỗi người chúng ta được noi gương ngài luôn sống và làm việc “Để Thiên Chúa được vinh hiển hơn”.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn

Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn

 
Trong khi họ đang ăn trong một tiệm ăn ở San Antonio (Texas, nước Mỹ) thì các cảnh sát viên ngạc nhiên vì đề nghị của em bé gái.
Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn
Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn
Câu chuyện thật cảm động vừa xảy ra gần đây trong một tiệm ăn ở tiểu bang Texas. Đầu tiên hết, câu chuyện được đăng trên Facebook ngày thứ tư 5 tháng 7, được hàng ngàn người chia sẻ, sau đó được báo chí Mỹ đăng tiếp. Và người ta hiểu vì sao nó đã được đăng.
 Hôm đó, cô bé Paige 8 tuổi đi ăn với dì Martha ở tiệm ăn Luby’s, Paige Bosquez, em thấy một nhóm cảnh sát mặc đồng phục ngồi ăn gần đó.

Xin Chúa bảo vệ

Người mảnh khảnh, em mặc áo thun màu xanh da trời, quần ngắn bermuda cũng màu xanh da trời, em đến gần họ và hỏi một câu làm những người dũng cảm này quá ngạc nhiên: “Các ông có muốn con cầu nguyện cho các ông được an toàn và Chúa bảo vệ các ông trong sự che chở của Ngài không?”.

Sững sờ, các cảnh sát viên đồng ý ngay và họ cùng em Paige cầu nguyện, và phản xạ tự nhiên của dì Martha là chụp hình cảnh đang ghi nhớ này. Khi cầu nguyện xong và ăn xong, họ đến bàn của em Paige để cám ơn trước khi rời tiệm ăn.

Phải nói là các cảnh sát viên này vẫn còn sốc sau cái chết của một trong các đồng nghiệp của họ, ông Miguel Moreno đã bị hạ khi ông điều tra các vụ ăn cắp xe hơi vào ngày 30 tháng 6 vừa qua. Sáng kiến của em Paige đã làm cho họ rất xúc động.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nguồn tin: Phanxico

Tại sao đồng tiền Mỹ lại có dòng chữ “In God We Trust”?

 Tại sao đồng tiền Mỹ lại có dòng chữ

“In God We Trust”?

 By   QUỲNH VI

Dòng tiêu ngữ trên đồng tiền Mỹ. Ảnh: Liberty News Now.

Vào ngày này cách đây 61 năm, cụm từ “In God We Trust” (tạm dịch: “Chúng ta tin Chúa”) trở thành tiêu ngữ quốc gia Mỹ.

Ai đã từng cầm một tờ đô-la Mỹ trên tay đều dễ dàng nhìn thấy dòng chữ này. Vì sao một nhà nước thế tục như Mỹ lại sử dụng dòng chữ mang đầy tính tôn giáo này làm tiêu ngữ quốc gia?

“Chúng ta tin Chúa” bắt nguồn từ bài thơ Lá cờ sao lấp lánh được luật sư Francis Scott Key viết trong Cuộc chiến Anh-Mỹ năm 1812. Bài thơ này được nhà soạn nhạc John Stafford Smith phổ nhạc, và vào năm 1931, đã chính thức trở thành Quốc ca Hoa Kỳ.

Một đạo luật của Quốc hội vào năm 1864 đã cho phép khắc dòng chữ này trên đồng hai xu sau khi có rất nhiều người dân đưa ra đề xuất. Người đi đầu trong nỗ lực này là mục sư M. R. Watkinson của bang Pennsylvania.

Theo thông tin từ Bộ Ngân khố Hoa Kỳ, mục sư M. R. Watkinson cho rằng, khi Cuộc chiến Nam – Bắc trở nên khốc liệt hơn, đại bộ phận người dân miền Bắc cảm thấy họ cần phải được tiếp sức niềm tin để tiếp tục chiến đấu.

Niềm tin của họ, theo Watkinson, chính là GodGod ở đây được hiểu là Chúa trời, hay Thượng đế. Nhiều người Mỹ tin rằng Chúa trời đã bảo vệ nước Mỹ từ những năm đầu lập quốc, nhờ vậy, cho dù đã từng trải qua nhiều cuộc chiến ác liệt, Liên bang Hoa Kỳ (the Union) vẫn tồn tại.

Bài thơ Lá cờ sao lấp lánh đã truyền cảm hứng đặc biệt cho người dân miền Bắc. Lý do là nó ra đời sau khi tác giả chứng kiến pháo đài McHenry tại thành phố Baltimore, bang Maryland vẫn ngoan cường chiến đấu và không thất thủ, dù bị quân đội Anh tấn công dữ dội vào đêm 18/6/1812.

Francis Scott Key hoàn thành bài thơ vào năm 1814, và ông đã viết:

“Hãy cùng ca tụng quyền lực nào đã làm nên và bảo toàn Tổ quốc ta! Chiến thắng rồi sẽ đến với những ai mang lý tưởng của sự công bình. Hãy lấy điều này mà làm tiêu ngữ, ‘Chúng ta tin Chúa’!”

Và theo mục sư Watkinson, niềm tin của các binh sĩ trong cuộc chiến Anh – Mỹ cũng chính là niềm tin của người miền Bắc trong thời kỳ Nội chiến, rằng Chúa đứng về phía họ, như đã từng đứng về phía cha ông họ trong những cuộc chiến trước, và sẽ giúp họ chiến đấu bảo vệ một nước Mỹ toàn vẹn.

Đến tháng 3/1865, khi Nội chiến sắp kết thúc, Quốc hội Mỹ tiếp tục ban hành một đạo luật nữa, cho phép tiêu ngữ này được khắc trên tất cả các đồng tiền kim loại. Ngay sau khi Nội chiến chấm dứt, từ năm 1866 trở đi, tiêu ngữ này đã bắt đầu xuất hiện trên các đồng xu Hoa Kỳ.

Tiến vào thập niên 1950, cuộc chiến chống lại ý thức hệ cộng sản dâng cao tại Mỹ. Một số người dân cho rằng, việc xác quyết niềm tin vào tôn giáo một lần nữa cần được đề cao để khẳng định Hoa Kỳ là một đất nước có niềm tin tôn giáo, trái ngược với tư tưởng vô thần của những người cộng sản. God đến lúc này được họ hiểu là đấng tối cao nói chung của các tôn giáo, chứ không riêng tôn giáo nào.

Vì vậy, ngày 11/7/1955, Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã ký ban hành Đạo luật H.R.619, và kể từ năm 1957 trở về sau thì không chỉ các đồng xu, mà tất cả các đơn vị tiền tệ của Hoa Kỳ sẽ đều in dòng chữ “In God We Trust”.

Ngày 30/7/1956, tiến thêm một bước, Tổng thống Eisenhower lại ký ban hành Đạo luật P.L.84-140, chính thức công nhận dòng chữ “In God We Trust” là tiêu ngữ quốc gia của Hoa Kỳ.

Luật sư Francis Scott Key, tác giả bài thơ “Lá cờ sao lấp lánh”, sáng tác năm 1812, sau này được phổ nhạc thành Quốc ca Hoa Kỳ. Ảnh: Maryland Public Television.

Có trái ngược với Hiến pháp không?

Ngay từ những ngày đầu tiên khi “In God We Trust” trở thành tiêu ngữ quốc gia, nó đã bị phản đối.

Những người ủng hộ một nhà nước thế tục tuyệt đối (secularists) cho rằng nó vi phạm Tu chính án thứ Nhất của Hiến pháp Mỹ, vốn ngăn cấm Quốc hội ban hành bất kỳ đạo luật nào tôn vinh một tôn giáo nào hay cấm đoán quyền tự do tôn giáo của người dân.

Hầu hết những người cho rằng tiêu ngữ này vi hiến đều dựa vào lập luận của Thomas Jefferson, là một trong những tổ phụ cổ xúy cho việc Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ phải tuyệt đối trở thành một nhà nước thế tục.

“Tôi, cũng như quý vị, tin rằng tôn giáo là vấn đề riêng tư giữa một cá nhân và Thượng đế, rằng một người không cần phải giải thích với bất kỳ ai về niềm tin hay cách thức mà anh ta thờ phụng, và rằng các quyền lực chính đáng của một nhà nước chỉ có thể vươn đến các hành vi của một người chứ không phải là những suy nghĩ của anh ta.

Tôi đoan chắc, với chủ quyền nhân dân đáng kính mà người dân Hoa Kỳ đã dùng để tuyên bố rằng, cơ quan lập pháp của họ sẽ ‘không tạo ra những luật lệ chỉ tôn vinh sự thiết lập của một tôn giáo, hay cấm đoán quyền được có tự do tín ngưỡng’, là chính người dân đã dựng lên một bức tường phân cách giữa Nhà nước và Tôn giáo” – Thomas Jefferson (1802).

Trong bức thư gửi Hội thánh Danbury năm 1802, Jefferson đã giải thích lý do vì sao ông ủng hộ việc phân chia rõ ràng giữa quyền lực nhà nước và thần quyền của một tôn giáo.

Theo Giáo sư Công pháp Jesse H. Choper của Đại học Luật Berkeley, bang California, Tu chính án thứ Nhất thường được các án lệ diễn giải là Hiến pháp không cho phép nước Mỹ có quốc giáo (national religion) và cũng nghiêm cấm chính quyền liên bang dùng ngân sách quốc gia để ủng hộ việc thiết lập hoặc vận hành của bất kỳ một tôn giáo nào.

Vào năm 1971, trong án lệ Lemon v. Kurtzman, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp xác định một hành vi hay đạo luật của chính phủ có vi phạm Tu chính án thứ Nhất hay không, bao gồm:

  • mục đích của nhà nước phải mang tính thế tục (secular purpose),
  • kết quả tiên quyết (primary purpose) của hành vi hay đạo luật của nhà nước không thể ủng hộ hay ngăn cấm bất kỳ một tôn giáo nào, và
  • không được tạo ra quan hệ đan xen quá mức giữa nhà nước và tôn giáo.

Tự do tôn giáo lại còn có nghĩa là người ta có quyền theo hoặc không theo bất kỳ một tôn giáo nào. Những ai phản đối sử dụng “Chúng ta tin Chúa” thì cho rằng, mục đích của việc đưa nó trở thành tiêu ngữ rõ ràng là ý tứ của những người tin vào thần quyền. Vì thế, mục đích của đạo luật này đã mất đi tính thế tục, và là hành vi vi hiến.

Tuy nhiên, tòa án Hoa Kỳ đã không đồng ý với lập luận trên, và tiêu ngữ này vẫn tiếp tục được sử dụng.

Tiêu ngữ “Chúng ta tin Chúa” trên tem Hoa Kỳ thập niên 1960. Nguồn: Shutterstock.

Tòa án nghiêng về phe ủng hộ tiêu ngữ

Trong 61 năm kể từ khi “Chúng ta tin Chúa” trở thành tiêu ngữ quốc gia, đã có khá nhiều vụ kiện phản đối nó. Lần gần đây nhất là vào năm 2016, khi một người theo chủ nghĩa vô thần (atheist), luật sư Michael Newdow, nộp đơn kiện yêu cầu tòa án không công nhận “Chúng ta tin Chúa” là tiêu ngữ quốc gia vì lý do vi hiến.

Nhưng mặc cho các nỗ lực của những người như Michael Newdow, cho đến thời điểm hiện tại, quan điểm của các vị thẩm phán Hoa Kỳ trong các án lệ liên quan vẫn không thay đổi, và nghiêng về phía ủng hộ tiêu ngữ.

Theo các thẩm phán, tiêu ngữ “In God We Trust – Chúng ta tin Chúa”, không phải là một câu văn có ý nghĩa tôn giáo tại Mỹ. Do đó, tiêu ngữ này không vi phạm Tu chính án thứ Nhất.

Ngoài ra, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ liên tục từ chối, cũng như chưa bao giờ xem xét những vụ kiện liên quan đến tiêu ngữ “Chúng ta tin Chúa”.

Và vì thế, hiện nay, án lệ Aronow v. United States (1970) của Toà Phúc thẩm Liên bang Khu vực số 9 có thể được xem là phán quyết có thẩm quyền cao nhất về vấn đề pháp lý này.

Theo án lệ này“rất hiển nhiên là câu tiêu ngữ quốc gia được in trên các đồng xu và toàn bộ hệ thống tiền tệ của Hoa Kỳ – ‘Chúng ta tin Chúa’ – không có bất cứ mối liên quan gì đến việc thiết lập một tôn giáo nào (làm quốc giáo)”.

Ngoài ra, những gì thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, William J. Brennan Jr., viết trong án lệ Lynch v. Donnelly (1984) – là một vụ kiện liên quan đến lời tuyên thệ trung thành với nước Mỹ (pledge of allegiance) – cũng nói rõ quan điểm chung của các tòa án Mỹ về vấn đề này.

Đó là, ngày nay, các tiêu ngữ như “Chúng ta tin Chúa” hay “Dưới Thiên Chúa” (Under God) đã mất đi màu sắc tôn giáo của nó bởi vì mọi người cứ nhai đi nhai lại những câu nói này theo kiểu học vẹt. Điều này đã khiến chúng không còn được xem là một cách tuyên xưng tôn giáo nữa, mà chỉ còn mang tính hình thức, đủ để xem đó là một phần của nghi lễ dân sự (civil religion).

Thái độ của các thẩm phán cũng đại diện cho số đông dân chúng.

Đến thời điểm hiện tại, đa số người Mỹ vẫn ủng hộ “In God We Trust”, và điều này được thể hiện qua việc Quốc hội Mỹ đã rất nhiều lần tái khẳng định đó chính là tiêu ngữ quốc gia. Lần gần nhất là vào năm 2011.

Vì sao người Mỹ lại có thái độ như vậy?

Ủng hộ tiêu ngữ “Chúng ta tin Chúa” vì lý do lịch sử 

Ngoài việc nghe quen tai như các thẩm phán đã chỉ ra ở trên, đa phần những người ủng hộ (hoặc không phản đối) dựa vào lịch sử và bối cảnh ra đời của nó tại Hoa Kỳ, chứ không hẳn bởi vì họ là những người sùng đạo.

Theo thời gian, trong sâu thẳm tâm thức của người Mỹ, ca từ của bài Quốc ca hiển nhiên được xem là một phần của lịch sử đất nước, với một tinh thần rất thế tục chứ không có mục đích tôn giáo nào nữa.

Hơn thế, hoàn cảnh ra đời của tiêu ngữ trong thời kỳ Nội chiến càng giúp người Mỹ khẳng định niềm tin vào sự vẹn toàn của Tổ quốc họ, cũng như lý do để họ tiếp tục bảo vệ quốc gia và những giá trị, di sản ông cha để lại.

Vì vậy, chúng ta có thể phần nào hiểu được vì sao đa số người Mỹ không cảm thấy họ đang tuyên xưng cho một quốc giáo, khi chọn một câu trong bài thơ Lá cờ sao lấp lánh của luật sư Francis Scott Key làm tiêu ngữ quốc gia của mình.

Tài liệu tham khảo:

Liên Hiệp Quốc kêu gọi chính phủ Việt Nam xóa bỏ Điều 88, 79, 87, 245 và 258 Bộ luật hình sự

From facebơk:  Trần Bang with Chinh Minh and Lỗ Ngọc.
Hôm 30/7, ông John Sifton, Giám đốc Vận động, Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) bình luận với BBC: “Các vụ bắt giữ mới nhất cho thấy một năm thật tồi tệ cho nhân quyền Việt Nam. Trước đó là những vụ hành hung các nhà bất đồng chính kiến, án tù nặng nề hơn cho các nhà hoạt động bị xử phạt.”

“Những điều đó cho thấy cuộc trấn áp mới lớn đang được tiến hành.”
“Các nhà tài trợ cho Việt Nam, nhất là EU và Nhật, cần phải lên tiếng về việc này. “

Hồi tháng 10/2016, Liên Hiệp Quốc phát đi thông cáo kêu gọi chính phủ Việt Nam xóa bỏ Điều 88, 79, 87, 245 và 258 Bộ luật hình sự mà Cao ủy Nhân quyền nói là “vi phạm tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế”.

Ông Zeid Ra’ad Al Hussein kêu gọi Việt Nam trả tự do cho “toàn bộ các cá nhân bị giam giữ liên quan các điều luật này”.

Nguồn BBC http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-40767303

Image may contain: 11 people, people smiling

Đất nước đẹp vô cùng, sao họ phải ra đi ?

Xin ghi chú thêm, trước năm 1975, không có ai muốn sinh sống ở nước ngoài, đủ thấy chế độ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà cũng đáng sống thực, chứ không như “thời đại rực rỡ” của ngày hôm nay, cái cột đèn nó biết đi nó cũng đi. Tại sao???

From facebook: Hoa Kim Ngo shared Mạnh Quân‘s post.
Các chú đọc kỹ bài của nhà báo Manh Quân nhé
 

Đất nước đẹp vô cùng, sao họ phải ra đi ?

Trong số đại biểu Quốc hội khóa trước, khóa XIII, tôi và một số anh em phóng viên chơi khá thân với một ĐBQH ở một tỉnh miền Tây. Ở QH, anh cũng không quá nổi bật, cũng hay phát biểu nhưng không thật xuất sắc lắm. Nhưng anh em quý trọng, hay giao du vì tính anh thẳng thắn, quảng giao.

Từ lâu rồi, anh nói với tôi, anh sẽ định cư ở Mỹ. Đi đàng hoàng, hoàn thành đủ nghĩa vụ ở địa phương, làm đủ thủ tục rồi đi và thực tế anh đã mua nhà bên đó xong rồi. Mấy tháng nay, không thấy anh online nữa, có thể anh qua rồi vì đt cũng không liên lạc được.

Tôi hiểu vì sao anh đi. Anh nhiều lần tâm sự với tôi về tình trạng doanh nghiệp thường xuyên bị gây phiền nhiễu, gặp khó khăn ở địa phương cho dù anh là ĐBQH. Việc bị mất điểm, không trúng cử ĐBQH khóa này khiến anh càng chán nản, quyết tâm bỏ VN sang định cư ở Mỹ.

“Chán lắm rồi thằng em ạ, ở VN, doanh nghiệp tư nhân như bọn anh, làm ăn cực kỳ khó”, anh nói với tôi.

Nên hôm nay, đọc bài viết của Dau Tuan– anh bạn chơi tennis với tôi, là Trưởng ban pháp chế VCCI trên Tuôỉ trẻ, một bài viết quá hay: “Điều gì đằng sau sóng ngầm di cư của người giàu”, tôi nghĩ, ong anh kia quá điển hình để nói lên câu chuyện này.

Chuyện người Việt qua Mỹ mua nhà cũng đã nói nhiều rồi nhưng nó thực sự nóng lên với công bố được các báo ầm ầm trích dẫn hôm qua: Số tiền đầu tư mua nhà của người Việt tại Mỹ lên tới 3 tỷ USD và VN đã đứng thứ 6 trong năm 2016 và liên tục nằm trong top 10 các quốc gia có công dân mua nhà tại Mỹ- theo công bố của Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Hoa Kỳ.

Nhưng hãy nhớ là số tiền 3,06 tỉ USD đó là để mua nhà, đó là chỉ riêng ở Mỹ, chưa tính các quốc gia phát triển khác ở châu Âu, Bắc Mỹ hay châu Úc… Nếu so với 5,7 tỉ đôla Mỹ của bà con kiều bào đang đầu tư về VN qua gần 3.200 dự án từ trước đến nay (theo số liệu của Ủy ban Nhà nước về người VN ở nước ngoài) thì càng thấy, nó đáng chú ý thế nào.

Nhưng điều đáng buồn cười là bản tin này trên các báo toàn được nhìn nhận, đánh giá khá lệch lạc: số tiền đó phần nhiều là của “tham quan”, của các ông: “Chăn lợn”, “buôn chổi chít, “chạy xe ôm”…Rồi toàn thị comment kiểu: Làm sao không ngăn chặn “chảy máu ngoại tệ” ra nước ngoài…

Kỳ thực là con số trên 3 tỷ USD mua nhà đó có thể có một phần không nhỏ là của mấy bác “tai to” mua nhà, hoặc mua cho con cái đang du học bên Mỹ rồi sau này bố mẹ hưu, sang “đoàn tụ”, các ông lo lắng sau này có chuyện thì lót ổ trước, để sẵn sàng “chào các bác, em ngược” …và thực tế đã có chuyện đó. Ít nhất là tôi biết có 2-3 trường hợp, cụ thể nhất là Giám đốc một Công ty của PVC, cùng cánh với Trịnh Xuân Thanh đã trốn sang Mỹ đã gần 3 năm, hiện vẫn bị truy nã…

Nhưng số đông hơn, thực sự vẫn là của các doanh nhân, như các ông: Trần Khắc Tâm, thực sự rất khó làm ăn trong nước, khi trong tay có chút vốn liếng, họ đã tìm đến vùng đất mới. Hoa Kỳ là một trong các nước ok nhất, rồi Úc, Newzeland, Canada…những quốc gia rất tốt cho khởi nghiệp và cả môi trường giáo dục, sinh sống tốt gấp vạn lần Việt Nam. Ở Việt Nam, một năm, hàng chục đoàn thanh tra, như ở Quảng Trị, một DN đã từng kêu: 1 năm tiếp 48 đoàn thanh tra. Vậy tại sao không đi?

Thì cũng chủ yếu là giới doanh nhân, những người có điều kiện thì đi thôi. Chứ dân thường, công chức nghèo, đi du lịch thôi đã khó, nói gì mua nhà bên Mỹ ?

Thế thì, muốn những: tỷ đô, tỷ đô kia…không sang Mỹ, Úc, Canada…mà ở lại Việt Nam, thì hãy tạo điều kiện, tạo môi trường cho các doanh nhân giỏi ở lại đi, hãy trân trọng những doanh nhân sống chết với mảnh đất này, làm gì để bảo vệ sản nghiệp của họ đi, đừng hơi tí kiểm tra, khởi tố, đừng để công an, thanh tra vào làm phiền dày đặc, đừng để báo chí như bọn Duy Phong suốt ngày quấy nhiễu, tống tiền, đòi quảng cáo…

Vụ Trịnh Vĩnh Bình đó, đã và đang để lại những hậu quả vô cùng tai hại.

Con số cứ 1 doanh nghiệp mới ra đời thì cũng gần bằng số đấy, 1 DN lại chết đi trong 6 tháng đầu năm đủ nói lên kinh doanh ở thời điểm này khó khăn thế nào.

Và không chỉ môi trường kinh doanh không thôi, mọi mặt: Môi trường, giáo dục, y tế.. đều phải cải cách để đảm bảo VN là nơi đáng sống, đáng ở, là “đất lành” thì đâu chỉ có doanh nhân ở lại, mà doanh nhân các nơi nước khác họ cũng tìm đến.

Chứ như hiện nay, quả là vô vọng.

“Đất nước đẹp vô cùng,
Sao họ phải ra đi …?”

#nguoigiauradi

TTO – Chúng ta quan tâm thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn tại VN thì cũng cần quan tâm giữ những doanh nghiệp nội địa giỏi.
 
TUOITRE.VN|BY TUỔI TRẺ
 

Hình ảnh Quân đội và hàng trăm người dân Mỹ tiễn đưa chú chó bị ung thư,

From facebook:  Lan Nguyen shared Richard Nguyen‘s post.
 
Image may contain: outdoor
Image may contain: 1 person, standing
Image may contain: outdoor
Image may contain: 3 people
Image may contain: 1 person
+8
Richard Nguyen added 12 new photos.Follow

 

Hình ảnh Quân đội và hàng trăm người dân Mỹ tiễn đưa chú chó bị ung thư, hôm 27/7. Đó là Cena, chú chó từng ba lần tham chiến ở Afghanistan cùng Thủy quân lục chiến Mỹ, đã được trợ tử vì mắc ung thư xương. Hàng trăm người dân ở Muskegon, tiểu bang Michigan, đã đến tiễn đưa và nói lời vĩnh biệt với Cena. Chú chó 10 tuổi thuộc giống Labrador Retriever. Nó từng là chó nghiệp vụ của Thủy quân lục chiến Mỹ chuyên phát hiện bom mìn.

Cựu hạ sĩ Jeff DeYoung (trong hình), 27 tuổi, người tham chiến cùng Cena vào năm 2009 – 2010, đã đưa con chó lên chiến hạm bảo tàng USS LST-393 ở Michigan để được trở tử.

“Suốt quãng đời trưởng thành của tôi đã có Cena bên cạnh. Khi tôi mới 19 tuổi, đang học cách chịu trách nhiệm ở một nơi xa quê hương, Cena đã ở bên tôi. Và giờ đây, khi 27 tuổi, tôi phải nói lời vĩnh biệt với một trong những phần quan trọng nhất của cuộc đời mình,” DeYoung trả lời NBC’s Nightly News.

“Nó đã cứu mạng tôi. Tôi còn tin Cena hơn tin đa số con người”, cựu hạ sĩ Thủy quân lục chiến tâm sự, “Nó có thể nhìn, cảm nhận thấy… những con chó này, chúng ra ngoài mỗi ngày làm nhiệm vụ và đưa những người lính trở về an toàn. Nó không chỉ là một con chó, nó là gia đình và một lính Thủy quân lục chiến”.

DeYoung cho biết anh từng lấy thân mình che cho Cena dưới làn đạn của quân Taliban. Còn Cena đã giúp anh giữ ấm cơ thể trong những đêm lạnh trên sa mạc và ở cạnh an ủi anh khi DeYoung một lúc mất đi 7 người đồng đội.

Sau khi giải ngũ, DeYoung đã nhận nuôi Cena và chú chó đã giúp anh vượt qua chứng rối loạn tâm lý hậu chiến. Cena bị chẩn đoán mắc ung thư xương giai đoạn cuối hai tuần trước.

Hàng trăm người đã góp tiền xây dựng bia mộ cho Cena. “Cảm ơn chú chó vì tình yêu, lòng trung thành và sự phục vụ mà (Cena) đã dành cho những người mà chú đã cứu mạng”, một người viết trên trang mạng gây quỹ, “Một ngày nào đó, tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau ở phía bên kia cầu vồng. Cho đến lúc đó, hãy yên nghỉ nhé Cena”.

Ảnh : Wood TV

Đức Khổng Tử nói về phẩm hạnh của người quân tử

 Đức Khổng Tử nói về phẩm hạnh của người quân tử

Bài viết của Trí Chân

 Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên) đã từng nói, “Hoa lan mọc trong rừng, tỏa hương thơm ngay cả khi không có ai xung quanh thưởng thức. Tương tự như vậy, người có nhân cách cao quý sẽ không để cảnh nghèo làm nhụt chí tu Đạo và xây dựng uy đức.”Người quân tử luôn hiểu chân nghĩa của cuộc đời. Dù trong hoàn cảnh nào, họ luôn tôn trọng các chuẩn mực đạo đức trong việc làm và tự kiểm soát bản thân bằng cách tuân theo những lời dạy của các bậc thánh hiền. Bất cứ nơi nào họ đến, họ đều lan tỏa lòng tốt và sự ảnh hưởng đến những người mà họ tiếp xúc, để người ta tôn thờ đạo đức và công lý. Hiệu quả và sự ảnh hưởng của những lời dạy ấy đã khắc họa rõ phẩm chất đạo đức của họ. Sau đây là một vài câu chuyện về Khổng Tử và các học trò đã được ghi lại trong 2 cuốn sách Luận ngữ“  và Khổng Tử gia ngữ.

Người quân tử nói bằng hành động

Có một lần, Nhan Hồi hỏi thầy của mình là Khổng Tử: “Lời nói của phường tiểu nhân có những điểm gì chung? Là người quân tử, cần phải hiểu cho rõ.” Khổng Tử đáp: “Một người quân tử nói bằng hành động. Trong tất cả lời nói và việc làm, người ấy đều thực hiện theo những chuẩn mực mà thánh nhân đã dạy. Một kẻ tiểu nhân chỉ giỏi nói miệng mà thôi. Kẻ ấy chỉ giỏi đòi hỏi và tìm lỗi của người khác, trong khi lại chẳng đóng góp gì. Một người quân tử đối nhân xử thế bằng sự chân thành. Khi nhìn thấy bạn bè của mình vi phạm đạo đức, người đó sẽ cảnh báo những hậu quả mà bạn mình phải gánh chịu và khuyên bạn hành động theo lương tâm. Lời nói của họ là phát xuất từ trong tâm bởi vì họ thực sự quan tâm đến hạnh phúc của người khác. Kết quả là tình bạn sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Kẻ tiểu nhân thì lại thường kết thành bè đảng để gây rối. Tuy nhiên, chúng không thể không đổ lỗi và đâm sau lưng nhau.” Khổng Tử cũng giảng: “Quân tử nghĩ về đức hạnh, tiểu nhân truy cầu hưởng thụ. Quân tử nghĩ về đạo lý; tiểu nhân truy cầu những đặc ân mà hắn có thể kiếm được.” Điều này đã nói rõ những điểm khác nhau trong tâm của hai loại người. Người quân tử không xuôi theo dòng nước, huống hồ là thông đồng với kẻ khác. Tất cả những gì họ nghĩ đến là làm thế nào để thực hành đạo nghĩa. Còn kẻ tiểu nhân thì lúc nào cũng chỉ lo nghĩ cho bản thân. Người quân tử tôn trọng phép tắc và quy củ. Kẻ tiểu nhân luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên hết thảy mọi thứ, và tâm kẻ ấy chứa đầy những món lợi nhỏ nhen. Điều này đã được đề cập đến trong cuốn “Đệ tử quy” (“Chuẩn mực của người học trò”), viết vào thời nhà Thanh (1644 – 1912), “Nhắc nhở người khác bằng lòng tốt; đức hạnh vẹn toàn cả đôi bề; Tìm bới sai lầm của người khác; chắc chắn mất lòng cả đôi bên.” Đây là một ví dụ nữa về sự khác nhau giữa hành động của kẻ tiểu nhân với người quân tử.

Lời nói và hành động của một người đều dựa trên những suy nghĩ của người đó. Một người quân tử luôn nuôi dưỡng những suy nghĩ tốt đẹp và lẽ phải. Lời nói và hành vi của người đó là kết tinh của tình thương, lòng tốt, và sự vị tha. Ở những nơi nào người quân tử đến, những suy nghĩ tinh khiết, tốt đẹp của họ sẽ lan tỏa ra những người xung quanh, thức tỉnh lương tâm của mọi người và trồng những hạt giống của sự chính trực và lòng nhân ái.

Dùng trí tuệ để tránh một cuộc chiến

Khổng Tử đã dẫn các học trò đến đất Khuông, một vùng thuộc nước Tống. Những người dân địa phương đã nhầm Khổng Tử với Dương Hổ, kẻ đã từng tấn công tàn bạo người dân đất Khuông. Họ ngay lập tức báo động cho Giản Tử, thủ lĩnh của người Khuông. Giản Tử vội vã tập hợp binh sĩ mặc giáp, rồi họ cưỡi ngựa đến bao vây Khổng Tử và các học trò của Ngài.

Tử Lộ, một trong những người học trò của Khổng Tử, có lòng dũng cảm thiên phú. Ông thấy khó chịu ngay khi nhìn thấy những người Khuông hung tợn vây xung quanh. Ông nắm lấy vũ khí sẵn sàng nghênh chiến. Khổng Tử ngăn ông lại và nói: “Không lẽ những người đang tu luyện, hành thiện và công bình lại không thể ngăn chặn điều ác này sao? Ta thực sự sai lầm nếu không truyền rộng những áng thơ cổ cùng những tác phẩm lớn và đề cao nghi lễ và âm nhạc… Lại đây đã, Tử Lộ. Con hãy chơi nhạc và hát lên, rồi ta sẽ hòa tấu.” Tử Lộ đặt vũ khí của mình xuống và lấy ra một nhạc cụ. Khổng Tử cũng tham gia. Sau ba vòng ca hát, người dân Khuông nhận ra rằng Khổng Tử là một vị thánh hiền, chứ không phải là Dương Hổ tàn bạo. Họ cởi bỏ áo giáp và bỏ đi.

Ngay cả khi ở trong vòng vây, Khổng Tử vẫn giữ được sự điềm tĩnh. Đầu tiên ông tự nhìn lại chính mình để xem xem mình có làm gì sai hay không. Nếu không thì ông sẽ tiếp tục việc giảng dạy của mình và tác động tới những người Khuông thông qua lễ nghi và âm nhạc. Hành động của ông minh chứng rõ sự khác biệt giữa ông và Dương Hổ. Những người dân Khuông nhận ra rằng Khổng Tử là một người nhã nhặn, một người quân tử, một bậc thánh hiền, mặc dù dung mạo bề ngoài của ông rất giống Dương Hổ. Họ đã bị đẩy lui và cảm thấy thẹn. Cuối cùng, họ đã cởi bỏ áo giáp và trở về một cách yên bình. Khổng Tử đã thay đổi người khác bằng đức hạnh của mình, ông đã đảo ngược tình thế nguy hiểm. Khổng Tử đã minh chứng được lòng tốt xuất phát từ nội tâm. Mọi người đều có thể cảm nhận được lòng độ lượng cùng ý thức trách nhiệm của ông trong việc duy trì văn hóa truyền thống.

Tập trung vào vấn đề chính

Một ngày nọ, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử, “Ngày xưa, vua Thuấn đã đội loại vương miện gì?”

Khổng Tử không trả lời.

Nhà vua hỏi lại: “Ta đang cố gắng học hỏi từ ngài. Tại sao ngài không trả lời?”

Khổng Tử cúi đầu đáp: “Bởi vì câu hỏi Bệ Hạ đưa ra không tập trung vào những vấn đề chính. Đó là lý do tại sao thần đang suy nghĩ làm thế nào để trả lời.”

Nhà vua thấy tò mò và hỏi: “Những vấn đề chính là gì?”

Khổng Tử trả lời: “Trong suốt triều đại vua Thuấn, ông luôn thương dân như con của mình. Ông đề cao giáo dục đạo đức và bổ nhiệm những người hiền tài. Đức hạnh của ông lan xa khắp chốn. Tuy vậy, ông vẫn luôn giản dị khiêm nhường. Ông đã làm mọi thứ thay đổi thật nhẹ nhàng, giống như bốn mùa luân phiên thay đổi trong tự nhiên. Ông khuyến khích việc giáo hóa đạo đức trong dân chúng. Lòng tốt của ông trải rộng ra cho mọi chúng sinh. Đó là lý do tại sao những lời giáo huấn của ông được lưu truyền rộng rãi. Ngay cả những con chim Phượng hoàng và Kỳ Lân huyền thoại cũng đã xuất hiện trên mảnh đất mà ông cai trị, chứng tỏ rõ uy đức của ông. Tất cả điều này có được là nhờ ân đức vua Thuấn dành cho nhân dân. Bệ Hạ hỏi về loại vương miện mà vua Thuấn đã mang thay vì hỏi những vấn đề quan trọng hàng đầu như thế, vì thế thần không trả lời ngay được.”

Sống với người tốt cũng giống như được vào một căn phòng đầy hoa lan

Khổng Tử từng nói với Tăng Sâm, “Tử Hạ sẽ tiến bộ rất nhanh vì trò ấy rất thích dành thời gian để ở bên những người có đức hạnh cao hơn mình. Ở với những người tốt cũng giống như sống trong một căn nhà đầy hoa lan. Con người sẽ đồng hóa với môi trường. Vì vậy, một người quân tử phải cẩn thận trong việc lựa chọn người cùng chung sống.”Điều đó cũng đã được nói đến trong cuốn “Đệ tử quy”“Thật vô cùng ích lợi nếu một người được sống gần những người có thiện tâm. Mỗi ngày trôi qua, đức hạnh của người đó sẽ một tăng, và những thiếu sót của người ấy cũng bớt đi. Phải sống xa những người tốt thì thật là nguy hại. Người mà bị đẩy vào chỗ của những kẻ tiểu nhân thì rồi cũng sẽ hư hỏng.”

Điều này cho chúng ta biết rằng, bằng cách sống gần với những người nhân đức, kết bạn với họ hoặc nhận họ làm thầy, người ta có thể mở rộng kiến thức của mình cũng như giúp bản thân họ ngày một thêm hoàn thiện. Một người quân tử sẽ là một tấm gương tốt. Những người xung quanh anh ta sẽ học cách nhìn vào bản thân họ để tìm những thiếu sót của mình và liên tục tự đặt ra những tiêu chuẩn cao hơn cho mình. “Thường xuyên tự tìm thấy những khuyết điểm của bản thân, thay vì đổ lỗi cho người khác” đòi hỏi một người phải thật trong sáng khoáng đạt trong lời nói và hành vi của mình. Nghiêm khắc với bản thân nhưng khoan dung với người khác là biểu hiện của lòng độ lượng. Khổng Tử nói: “Một người quân tử học Đạo và yêu thương mọi người.”Ông đã chỉ ra rằng một người quân tử có Đạo cần phải biết quan tâm đến mọi người, biết áp dụng các nguyên tắc người đó đã học được từ Đạo để đối đãi với người khác. Tâm đại từ bi cũng giống như nước vậy, làm lợi cho tất cả trong khi bản thân không giữ lại gì.

Đức hạnh của một người quân tử sẽ đem lại sự hòa hợp và thái bình, sẽ nhắc nhở người ta tu chỉnh bản thân mình và không làm điều gì trái với lương tâm. Trong thế giới vật chất ngày nay, nơi mà có quá nhiều người mang lòng tham danh lợi, thì điều đó còn chính yếu hơn nữa trong việc giúp con người có thể giữ vững được lương tâm và đạo đức.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hàng loạt các nhà hoạt động bị bắt theo điều 79 Bộ Luật Hình Sự

Hàng loạt các nhà hoạt động bị bắt theo điều 79 Bộ Luật Hình Sự

2017-07-30

Từ trái qua: Ký giả Trương Minh Đức, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, ông Phạm Văn Trội, ông Nguyễn Bắc Truyển.

Từ trái qua: Ký giả Trương Minh Đức, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, ông Phạm Văn Trội, ông Nguyễn Bắc Truyển.

 RFA

Sáng ngày 30/07/2017, 4 thành viên của Hội Anh em dân chủ bao gồm: mục sư Nguyễn Trung Tôn, ký giả Trương Minh Đức, ông Phạm Văn Trội, Nguyễn Bắc Truyển bị bắt khẩn cấp với cáo buộc tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 BLHS.

Theo Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an, thì những nhà hoạt động này bị khởi tố, bắt tạm giam nằm trong vụ án “Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Bà Nguyễn Thị Huyền Trang, vợ ông Phạm Văn Trội cho hay, “sáng nay, khoảng 10 giờ 30 phút có rất đông công an của Bộ Công an đến đọc lệnh khám nhà và bắt anh theo điều 79, họ thu giữ Iphone 5 và một số tài liệu.”

“Thật ra anh Trội không có làm điều gì sai trái, đối với tôi và nhiều người thì anh ấy chỉ là một người bất đồng chính kiến tại Việt Nam chứ anh ấy không có âm mưu lật đổ gì hết”, bà Trang khẳng định.

Bà Nguyễn Thị Lành, vợ của Mục sư Nguyễn Trung Tôn từ Thanh Hóa cũng cho biết, công an bắt ông Tôn khi bà đang bán hàng ngoài chợ.

“Họ đọc lệnh bắt anh khi tôi chưa về tới nhà, họ bắt anh ngồi trên ghế không cho đi đâu hết.

“Tôi về tới thì họ đọc lệnh khám nhà, thu giữ máy tính và các USB, băng đĩa của anh ấy.

“Lúc 12 giờ họ gông anh ấy lên xe đưa đi đâu không biết”, bà Lành kể lại vụ việc.

Bà Nguyễn Kim Thanh, vợ của ký giả Trương Minh Đức viết trên Facebook cá nhân:

“Chồng tôi là Trương Minh Đức bị Công an bắt đi lúc 10 giờ khi hai vợ chồng đi khám bệnh mua thuốc. Hơn chục xe honda chặn đầu xe vợ chồng tôi và đã đưa về 235 Nguyễn Văn Cừ đọc lệnh bắt và bắt tôi về nhà khám xét vừa xong.”

Cả 4 ông Phạm Văn Trội, Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển đều là những cựu tù nhân lương tâm, từng ở tù vì các hoạt động ôn hòa của mình.

Trước đó, ngày 16/12/2015, Chủ tịch hội Anh em dân chủ, luật sư Nguyễn Văn Đài và cộng sự Lê Thị Thu Hà bị bắt vì tội “Tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88 BLHS. Tuy nhiên đến nay đã hơn 1 năm rưỡi nhưng vụ án vẫn chưa được đưa ra xét xử.

Bài viết phản biện rất hay !

From facebook: Son Dang shared Trần Bang‘s post.
Bài viết phản biện rất hay ! 

Mời các pan đọc lại.

 
Image may contain: 2 people, selfie and closeup
Trần Bang with Chuong Khanh Pham.

 

Bài hay!

“Tôi coi đây là cuộc nói chuyện giữa cá nhân với nhau. Xét về mặt công dân thì tôi và cô như nhau. Về địa vị thì cô là chủ tịch quốc hội còn tôi là một cựu chiến binh, nhưng chức vụ hay tài sản không làm nên giá trị con người. Xét về độ trải đời thì cô chỉ kém tôi 2 tuổi. Nói thế để nhắc rằng cô cũng đã già, đi xe bus thì được nhường chỗ, đi xe lửa thì được giảm vé.

Tuổi tác không nói lên sự khôn ngoan của con người nhưng qua theo dõi lời nói, việc làm của cô, tôi chắc rằng, cô còn ấu trĩ, dại dột, cho dù cô ngầm có mục đích sâu xa đi chăng nữa thì vẫn cứ dại dột. Điều chắc chắn hơn là cô không thể yêu nước, thương dân hơn tôi. Chỉ riêng chuyện cô phấn đấu lên đến Chủ tịch Quốc hội dưới chế độ cộng sản đã nói lên điều đó.

Sau khi cô nhậm chức Chủ tịch quốc hội được 1 ngày, trong buổi gặp mặt báo chí ngày 23/7/2016, cô nói:

“Bảo vệ hòa bình không phải hô hào cho thật to, kích động thế này thế khác là có được chủ quyền, không có đâu. Một số tổ chức, cá nhân lên tiếng hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước? Chưa làm gì cả…”

Tôi giật mình khi cô phát ngôn như vậy. Không phải tôi lạ vì câu đó mà lạ vì người nói ra câu đó lại là cô.

Cô phát ngôn trong bối cảnh đang nói về chủ quyền, biển đảo của đất nước. Bảo vệ chủ quyền của đất nước không của riêng ai mà là của mỗi người dân. Khi chủ quyền của đất nước bị đe dọa, người dân thường dù không có quyền chức trong tay đều phải thể hiện tình yêu đối với Tổ Quốc dưới mọi hình thức, mà hình thức đầu tiên nghĩ đến là biểu tình phản đối quân xâm lược. Ngoài ra, còn nhiều hình thức hoạt động khác. Công dân nào có điều kiện, khả năng mà không làm điều đó là vô trách nhiệm với đất nước. Trước đây, Đảng csVN đã chẳng từng phê phán những hạng người như thế là “đắp chăn chờ độc lập” đó sao?

Ấy thế mà nhà cầm quyền lại đàn áp người biểu tình chống giặc, đánh đập họ, bắt đi cải tạo, bắt tù, gán cho họ cái nhãn phản động. Nếu là phản động thì họ chỉ phản động đối với kẻ xâm lược và bọn bán nước, chứ đối với Tổ quốc thì không.

Bằng việc đàn áp biểu tình yêu nước, nhà cầm quyền đã tước đi của người dân quyền con người đã được ghi vào Hiến pháp và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Và khốn nạn hơn là tước đi của họ quyền yêu nước.

Có một bài mà nhà cầm quyền rất hay sử dụng, đó là “đã có Đảng và Nhà nước lo”.

Những người yêu nước chân chính và tỉnh táo không bao giờ yên tâm để cho Đảng và Nhà nước lo. Họ đã để cho Đảng và Nhà nước lo nhiều rồi, từ năm 1930, từ 1945 cơ và họ không dám tin Đảng và Nhà nước nữa. Bằng chứng là lãnh thổ Việt Nam đã co lại so với thời kỳ năm 1954. Co lại ở đâu ư? Hãy nhìn lên thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, nói chung toàn bộ biên giới Việt Trung, hãy nhìn ra Hoàng Sa, Trường Sa thì biết.

Trước kẻ thù xâm lược, dù chỉ có tay không, nhưng còn trái tim, khối óc, người yêu nước không thể ngồi im. Kẻ thù rất sợ tình cảm yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của người dân ở đất nước chúng lăm le xâm chiếm. Viêc làm của họ không thể gọi là kích động như cô nói. Vậy trước đây, trong cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam cộng hòa, ai là kẻ kích động hàng vạn người dân xuống đường? Và hồi đó, nếu xuống đường không có tác dụng gì sao họ lại phải làm thế?

Đành rằng biểu tình không quyết định việc giữ được chủ quyền, nhưng việc làm này góp phần giữ chủ quyền. Cô nên nhớ, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho Nhà nước trên mặt trận ngoại giao. Còn nếu chỉ im lặng, nhịn nhục, xin xỏ, đặc biệt là mơ hồ trước lời mật ngọt mà không nhìn thấy mũi dao sau lưng thì không những không giữ được chủ quyền mà còn làm cho giặc lấn tới, mất nước lúc nào không hạy. Trên thực tế thì VN đang mất dần chủ quyền vào tay Trung Cộng, điều này ai cũng thấy.

Cô đặt câu hỏi: “…những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước?…” rồi khẳng định: “Chưa làm gì cả”.

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết:

Đến ông Hồ Chí Minh cũng chưa dám hỏi nhân dân câu hỏi kiêu ngạo, trịch thượng này như bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân:

Chưa ai như bà Kim Ngân…

Huyênh hoang dám hỏi nhân dân câu này

Bà làm được gì xưa nay

Leo lên bằng cái vốn vay ngân hàng…?

Bạn đã làm gì cho đất nước chưa? Câu hỏi này tôi đã đọc và nghe không biết bao nhiêu lần, được coi là bài tủ của đám dư luận viên hạng bét nhằm tấn công những người chống Trung Quốc mà người ta cho chung vào một rọ phản động.

Tôi đi bộ đội vào lúc vừa đủ tuổi nghĩa vụ quân sự cho đến khi về hưu, trong đó có 5 năm khốc liệt nhất của cuộc chiến. Thế mà có những cháu 18, 20, thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông dám hỏi tôi: “Chú đã làm gì cho đất nước chưa?”

Tưởng bài ấy đã cũ mèm, ai ngờ nay nó lại xuất hiện từ miệng một vị lãnh đạo nằm trong tứ trụ hẳn hoi. Thì ra, trình độ của Chủ tịch quốc hội nước ta chỉ đến như vậy.

Trước câu hỏi ấy, tôi không bao giờ trả lời vì nó quá ngây ngô, ấu trĩ, vì mất thời gian với đám trẻ ăn chưa no, lo chưa tới ấy. Nhưng khi nó được phát ngôn từ miệng vị Chủ tịch quốc hội, tôi buộc phải có lời.

Câu hỏi này là cô dành cho những người được cô gọi là đám người ồn ào, kích động. Cô đã rất coi thường quần chúng. Cô cho rằng chỉ có đảng của cô và những người nghe theo hoặc sợ đảng mà im thin thít mới gọi là làm được gì cho đất nước. Cho đến nay, đảng csVN đã thành công trong việc triệt tiêu lòng yêu nước của người dân nhưng chưa được hoàn toàn, có phải vì thế nên cô chưa mãn nguyện? Giọng cô tỏ ra hằn học với họ. Cô nên biết trong số ấy, có nhiều trí thức của chế độ, cựu chiến binh, những người từng là quan chức cao cấp của Nhà nước đấy cô Ngân ạ.

Ai cũng hiểu, nộp thuế là nghĩa vụ công dân. Mà đã nộp thuế tức là đã đóng góp vào ngân sách nhà nước. Dù muốn hay không, mỗi người khi mua một sản phẩm là đồng nghĩa với đóng thuế. Đóng thuế tức là đã làm cho đất nước, chẳng lẽ cô không hiểu điều đó sao.

Đóng góp cho đất nước không kể người dân bình thường hay người có chức quyền. Có khi chức càng cao, làm cho đất nước thì ít nhưng làm hại đất nước thì nhiều chứ đâu phải kẻ có quyền mới làm được gì cho đất nước. Cô biết Lê Chiêu Thống chứ. Ông ấy to nhất nước đấy, to hơn cả cô bây giờ. Vậy mà hắn đã làm gì cho đất nước, cô cứ hỏi một em học sinh lớp 4 thì biết. Tôi chỉ sợ cô và Đảng của cô đang giẫm phải bước chân Lê Chiêu Thống mà thôi.

Xin lấy vài ví dụ những việc Đảng của cô đã làm cho đất nước:

Cải cách ruộng đất đã qui địa chủ cho 172 nghìn người, trong đó 71,66% bị oan sai, hành quyết và bức tử hàng chục nghìn người. Còn điều không tính được thành con số như không khí sợ hãi, nghi kỵ, oán thù bao trùm lên nông thôn miền Bắc; luân thường đạo lý bị đảo lộn, con tố cha, vợ tố chồng…

Đảng của cô đã triệt tiêu kinh tế cá thể, đưa nông dân vào Hợp tác xã, triệt tiêu kinh tế tư bản tư doanh, tịch thu nhà máy, hầm mỏ của họ để Đảng quản lý. Đảng của cô cứ tưởng giỏi đánh nhau thì cũng giỏi quản lý kinh tế, giỏi quản lý đất nước nên mới dẫn đến tình cảnh đất nước đứng bên bờ vực thẳm vào năm 1986.

Cuộc chiến tranh 1955 – 1975 cướp đi sinh mạng của khoảng 4 đến 5 triệu người. Tuy thống nhất được đất nước nhưng Đảng đã kéo miền Nam tụt xuống bằng miền Bắc. Mà không hiểu tại sao Đảng của cô đi đến đâu, dân sợ đến đấy. Năm 1954, 1 triệu dân miền Bắc di cư vào Nam. Sau 1975, hàng triệu thuyền nhân bỏ nước ra đi, bất chấp đói khát trên thuyền, bất chấp hải tặc, làm mồi cho cá biển, không thiết đến những nhà lầu, xe hơi bỏ lại Sài Gòn, không thiết vàng bạc đút lót để vượt biên, chỉ cần tay không miễn là đến được bến bờ tự do.

Còn bây giờ, không biết Đảng của cô đóng góp những gì cho đất nước mà các lĩnh vực kinh tế xã hội mặt nào cũng nát bét. Đảng cứ động vào chỗ nào là y như rằng tham nhũng, đổ bể chỗ ấy, từ các “quả đấm thép” đến hệ thống ngân hàng, đến các dự án trọng điểm… Bauxite Tây Nguyên thì thua lỗ nhưng cố đấm ăn xôi. Khắp nơi chỗ nào cũng có công trình Trung Quốc trúng thầu, xây lắp bằng công nghệ lạc hậu, khắp nơi, chỗ nào cũng có người Trung Quốc ngông nghênh, coi thường dân Việt… là nỗi ám ảnh cho những người biết lo đến an ninh của đất nước.

Những kẻ chiếm đoạt tiền thuế làm của riêng, dùng tiền thuế của dân ăn chơi đàng điếm trụy lạc, đầu tư bừa bãi, không sinh ra hiệu quả còn vốn của dân đóng góp cụt dần thì có gọi là làm cho đất nước không. Và xin hỏi cô, những người ấy là Đảng của cô hay là những người mà cô gọi là ồn ào kích động? Đến đứa trẻ cũng biết là Đảng của cô tham nhũng, chứ người không có quyền thì tham nhũng sao được. Trẻ con vừa ra đời, Đảng của cô đã giao ngay cho 30 triệu đồng nợ công.

Còn sự kiện thời sự nóng bỏng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và mưu sinh của người dân là gì, chắc cô cũng hiểu. Đó là Đảng rước thằng Pormosa về để nó giết chết biển Miền Trung, giết rừng ngập mặn, giết cả chim muông, còn người dân thì đang chết dần chết mòn. Vậy mà Đảng nhẫn tâm cầm 500 triệu đô la Mỹ đánh đổi, khoe chiến công. Thật là vô liêm sỉ.

Chẳng hiểu Đảng của cô đóng góp được gì cho đất nước mà đất nước lúc nào cũng hụp lặn ở vùng trũng của thế giới và khu vực, không ngóc đầu lên được. Ngay cả Căm Pu Chia hay Lào nó cũng dễ dàng vượt mặt, bỏ lại ông anh VN đang lóp ngóp phía sau còn nó không hơi đâu dừng lại đợi. Người Việt Nam đi làm thuê, làm ô sin khắp thế giới, được gọi dưới cái tên mỹ miều là hợp tác lao động. Năm 2014, Liên Hợp quốc xếp Việt Nam áp chót trong bảng xếp hạng các quốc gia đáng sống, thứ 124/125 số nước được xếp hạng, cô có thấy tự hào không?

Sao những gì Đảng của cô làm cho đất nước kinh sợ đến như vậy. Giá ngày ấy, Đảng của cô không sinh ra thì đất nước đâu đến nỗi nát như tương Bần thế này. Bây giờ trót rồi, tôi chỉ mong Đảng của cô né sang một bên cho người khác làm, hoặc hợp tác với các đảng phái khác cùng làm. Đừng khư khư ôm lấy một mình rồi chê người khác không làm gì.

Cũng trong buổi tiếp xúc với báo chí hôm ấy, cô còn dám đứng ở vị trí cha mẹ dân mà phán rằng: “Ngay trong gia đình, nếu bố mẹ không tôn trọng con cái thì ra đời con cái không tôn trọng người khác”

Cũng nhà thơ Trần Mạnh Hảo:

Bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân xưng mình là mẹ nhân dân Việt Nam, còn cha nhân dân là ai, xin bà nói rõ?

Đảng là đầy tớ nhân dân

Ông Hồ đã dạy bà Ngân quên rồi

Ghế trên bà tót lên ngồi

Xưng mình là mẹ dân, ôi sỗ sàng …

Cô ngụy biện: “Nếu đâu đó xảy ra mất dân chủ, dân chủ hình thức, thì đó là cái sai của của tổ chức, cá nhân cụ thể, không phải bản chất nhà nước”.

Nhưng thôi, tôi viết cũng đã dài. Khi nào có thời gian, sẽ bàn đến hai câu này của cô. Lời cuối khuyên cô rằng, đừng vì choáng ngợp với chức vụ mới mà say sưa “nổ”. Hồi chưa làm Chủ tịch Quốc hội, cô đâu đến nỗi đáng ghét như thế. Phụ nữ mà ham quyền lực thì kinh khủng lắm đấy, kinh hơn đàn ông rất nhiều. Là chính khách, cô cần phải học nhiều lắm, từ lời ăn tiếng nói, từ dáng đi, cách lựa trang phục sao cho phù hợp với lứa tuổi, với bối cảnh. Cô đừng dại dột mà tiếp tục đứng ra phát ngôn thay mấy lão khôn ngoan, lọc lõi đang đứng đằng sau cô kia kìa.

Nhưng điều quan trọng hơn cả là cô phải có cái tâm – cái tâm đối với đất nước, với nhân dân. Khi đó, nếu cô có vụng dại thì nhân dân cũng dễ thể tất.” 
Blogger Nguyễn Tường Thụy, nguồn:https://anhbasam.wordpress.com/…/9342-nguyen-thi-kim-ngan-…/

Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la

  Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la

 Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la, cả trường cười chê, còn cậu trở thành Tổng thống Mỹ

Cuộc sống có những điều không thể từ bề ngoài mà nhận biết được. Trong dòng người tấp nập, kẻ đến người đi, ai thông minh, ai ngốc nghếch, đều không hề đơn giản. Đôi khi, có những người nhìn khờ khạo, nhưng lại chính là kẻ có trí tuệ đỉnh cao.

Cậu bé Wilson nhất mực chọn đồng 5 cent, chứ không chọn đồng 1$. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)

Có một cậu bé người Mỹ tên Wilson, thoạt nhìn rất khờ khạo, do đó rất nhiều người trong thị trấn thích đùa với cậu, giống như là nhân vật hề mua vui cho mọi người. Một ngày nọ, bạn cùng lớp của Wilson cầm trên tay một đồng 1 đô la và một đồng 5 cent, rồi hỏi Wilson là chọn đồng tiền nào.

Cậu bé Wilson lúc đó đã không cần suy nghĩ mà trả lời ngay: “Tớ chọn đồng 5 cent”.

Bạn học cười khoái trí nói: “Ha ha, cậu ấy không chọn 1 đô la mà lại chọn đồng 5 cent”. Sau đó tất cả học sinh trong trường đã lan truyền nhau chuyện cười này.

Rất nhiều người đã không tin, sao Wilson lại ngốc đến vậy, họ đã đem tiền đến trước mặt Wilson để kiểm nghiệm, nhưng lần nào cũng nhận được cùng một kết quả. Mỗi lần cậu đều nói: “Tớ muốn 5 cent”. Tất cả học sinh của trường đều dùng cách này để kiểm tra và sau đó mỗi người rời đi với nụ cười của sự hài lòng.

Cuối cùng, câu chuyện đã đến tai của thầy giáo. Ở trước mặt Wilson, thầy giáo hỏi: “Chẳng lẽ trò không phân biệt được giá trị lớn nhỏ của đồng 1 đô la và 5 cent sao?”.

Trò Wilson đáp: “Đương nhiên là trò biết rõ ạ. Nếu như trò chọn đồng 1 đô la thì sẽ không có nhiều người mang tiền đến để thử, như vậy trò cũng không thu được lợi nhuận từ đồng 5 cent”.

Người thầy nghe xong như bừng ngộ ra một đạo lý lớn. Wilson không đặt sự thông minh vào món lợi nhỏ mà suy nghĩ về cái ngốc của người thông minh. Khoảng 45 năm sau, ông đã trở thành tổng thống thứ 28 của nước Mỹ.

Woodrow Wilson – Vị Tổng Thống thứ 28 của nước Mỹ, đảm đương chức vụ trong 2 nhiệm kỳ. (Ảnh: History)

Nếu để ý và quan sát con người ngày nay, hẳn chúng ta sẽ nhận ra xã hội có tồn tại rất nhiều người thông minh, họ phán đoán suy nghĩ của người khác một cách nhanh chóng và không bao giờ bị mắc lừa. Họ tính toán chi li, so đo từng chút để làm sao không thua thiệt, không bị người lừa gạt.

Nhưng họ đã quên câu: “Thông minh quá sẽ bị thông minh hại”. Nếu chứng kiến trực tiếp những việc người thông minh làm, chúng ta sẽ phát hiện, bởi vì quá thông minh nên người này thường bị người khác phòng bị.

Kỳ thực, thông minh cũng không phải là xấu. Tuy nhiên, đôi khi trong cuộc sống lại cần chúng ta ngốc một chút mới tốt, hơn thế, làm được người thông minh giả ngốc quả không dễ dàng.

Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Giả thiếu hiểu biết khiến mọi việc được tiến triển thuận lợi hơn. Biểu hiện của ngốc nghếch ở người thông minh chính là một loại trạng thái bình tĩnh, không hiểu cái đạo lý của người đại ngốc thì khó thành tựu đại sự.

Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có người liên tục mắng chửi ông.

Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa”.

Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó”.

Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó”.

Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi”.

Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông liền cảm thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật. Ngay từ khi còn trẻ, Phú Bật đã biết cái đạo của người ngốc đủ cho thấy sự thông minh cơ trí của ông.

From anh chị Thụ & Mai