GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

From facebook:   Van Pham‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, hat and outdoor
Image may contain: sky and outdoor

Van Pham added 3 new photos.

 

Bài viết này của Thiếu Tá Vương Mộng Long (tốt nghiệp khóa 20 Võ Bị QG Đà Lạt), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động quân thuộc Liên Đoàn 2 BĐQ trấn thủ tại mặt trận Tây Nguyên… tôi đã đăng trước đây.

Nay qua cuốn phim “Vietnam War” vừa được trình chiếu tại Mỹ & phổ biến trên internet…. trong đó có nhiều điều chưa đúng sự thật hay còn thiếu sót. Tôi xin được đăng lại, để mọi người hiểu tại sao những tay “phản chiến” hoặc giới truyền thông báo chí thường bóp méo cuộc chiến Việt Nam qua lăng kính của người ngoài cuộc và thời thượng…

THƯA ĐẠO DIỄN LYNN NOVICK. ĐÂY MỚI LÀ GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

Xin mời bà con hãy đọc ở đây để công tâm hơn.
*************

Một chiều cuối năm 1998 tôi vào trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều.

Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C… C.).

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ. Thật là, không có gì diễn tả nỗi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.

Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full time, đi học full time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quarter) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam.”

Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn.

Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý. Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai (1954 1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Ðông Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Ðiện Biên Phủ, về Hiệp Ðịnh Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei Me, Khe Sanh, Kontum, Bình Long, Long Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Ðồng Minh và Việt Nam Cộng Hòa. Trận Mậu Thân, chỉ là cảnh… nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Thầy mô tả Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc Phòng Hoa Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Ðã có đôi lần tôi giơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm, “Book said!”

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm “không” (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử tổng thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà tiểu bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Ðảng Dân Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Ðúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Ðể thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra. Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện được.

Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những chứng cứ thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.

Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ:
– Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở :
– Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng:
– Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên cao nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia Drang. Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia Drang đó.

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Từ đó, tên Việt Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

Chính tên sát nhân này và đảng Cộng Sản Việt Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ cộng sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Ðồng Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Ðồng Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng 4 năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng 4 năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
– Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
– Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
Tôi không ngần ngại, tiếp lời:
– Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.

Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Plei Me, Ðức Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
– Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?
Tôi cứ tình thực trả lời,
– Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.

Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Ðường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che giấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn Thám săn tin dọc biên giới Việt Miên Lào từ Khâm Ðức tới Bu Prang vào những năm 1972-1973.

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã áp dụng trong trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975. Trận Xuân Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
– Trời ơi!”

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng 4 năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh cộng sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp Ðịnh Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam. Quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Ðồng Minh vào Việt Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Ðồng Minh bàn giao lại. Ðể chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt Nam Cộng Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Ðoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

– Ðây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Ðà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Ðể chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Ðây là lời của anh ấy,

– Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Ði đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt Nam Cộng Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
– Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
– Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
– Cậu bé Việt Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm “không” (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
– Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
– Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

Ðêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Ðoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A.A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm:
– Long! I’m proud of you!

Ðến lúc bà hiệu trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi.”

Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những dòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
– Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

VƯƠNG MỘNG LONG.

 

Người giàu sụ Việt Nam tiêu tiền vào đâu?


Số du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây (ảnh minh họa).

Số du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây (ảnh minh họa).

“Ở Việt Nam có một số người giàu lên rất nhanh,” Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương Việt Nam cho biết. “Họ giàu lên một cách quá dễ dàng và không phải kinh doanh gì. Cho nên số người đó có khả năng chi tiêu rất lớn và họ cũng sẵn sàng chi tiêu.” Các con số mà tạp chí Forbes đưa ra về các chi tiêu nước ngoài, mua nhà ở Hoa Kỳ theo ông Doanh, “là những con số tuy có thể cần được xác minh thêm, nhưng là những có số từ các nguồn khác nhau có sự trùng hợp, cho nên có một khả năng tin cậy nhất định.”

Một lượng tiền lớn của người giàu Việt Nam đang được đầu tư vào bất động sản ở nước ngoài. “Mua nhà ở Mỹ, ở Australia, ở New Zealand — là những khoản chi rất lớn,” theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, “để họ còn chuẩn bị ra nước ngoài định cư.”

Các lãnh vực “nước ngoài” khác mà người giàu Việt Nam đang tiêu tiền vào được tạp chí Forbes liệt kê còn có du lịch nước ngoài. Du khách Việt Nam có thể dễ dàng du lịch đến các nước trong khu vực với những chuyến bay đường ngắn, giá vé rẻ đang rất thịnh hành; họ lại được miễn visa du lịch vào các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á, khối có dân số 630 triệu người.

Báo Vietnam Net dẫn số liệu thống kê trong nước nói rằng số người Việt Nam đi du lịch Nhật Bản đạt đến 230,000 lượt người từ năm 2012 đến 2016, và ước tính đến năm 2021 sẽ có khoảng 7,5 triệu người du lịch nước ngoài.

Về nhu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở nước ngoài, theo Forbes, người giàu Việt Nam dần chuyển nhu cầu về chăm sóc sức khỏe từ dịch vụ, dược phẩm, mỹ phẩm rẻ tiền, không tên tuổi sang các loại đắt tiền mang thương hiệu nổi tiếng. Báo cáo của hãng nghiên cứu thị trường Euromonitor International đánh giá rằng thị trường chăm sóc sức khỏe của Việt Nam tăng mạnh trong năm nay. Còn hãng nghiên cứu thị trường Neilson thì nói rằng chăm sóc sức khỏe là quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng Việt Nam.

“Chi cho du lịch khoảng hơn 6 tỉ đôla, khoản chữa bệnh khoảng 3 tỉ đôla, và mua nhà ở Hoa Kỳ khoảng 3 tỉ đôla, tổng cộng lại khoảng 12 tỉ đôla,” theo nhận định của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Xài hàng Nhật, theo phân tích của Forbes, thì người tiêu dùng Việt Nam nói họ thường tránh mua hàng Trung Quốc vì hàng hóa nhập từ nước có lịch sử “ức hiếp chính trị” Việt Nam này có chất lượng kém. Xe máy, đồ điện tử và hàng tiêu dùng của Nhật luôn được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng. Gần đây mỹ phẩm và nhiều loại hàng tiêu dùng của Hàn Quốc cũng đang mở rộng thị phần ở Việt Nam.

iPhone của Apple và Galaxy Note của Samsung bán rất chạy ở Việt Nam vì nhu cầu máy điện thoại cầm tay tiếp tục tăng mạnh. Những chiếc điện thoại cầm tay đắt tiền này vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng vừa là “đồ trang sức.” Điện thoại Oppo của Trung Quốc chiếm thị phần lớn thứ hai tại Việt Nam.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh phân tích: “Dĩ nhiên là các chi tiêu nước ngoài đó không đóng góp gì được cho tăng trưởng GDP ở trong nước. Vì tăng trưởng GDP trong nước là phải tạo ra công ăn việc làm, và tạo ra giá trị gia tăng.”

Về mặt xã hội, theo Tiến sĩ Doanh thì xu hướng chi tiêu nước ngoài này càng đào sâu hố phân cách giàu nghèo: “Điều đó nói lên sự chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam rất đậm nét, vượt quá dự đoán của các nhà kinh tế. Người nghèo thì vẫn rất nghèo, người ta thấy những cảnh như qua thiên tai bão tố mới đây.”

Nhóm tư vấn Boston Consulting Group của Mỹ ước tính sự giàu có lên tiếp tục tăng mạnh tại Việt Nam. Nhóm này ước tính đến năm 2020, một phần ba dân số của Việt Nam sẽ ở vào tầng lớp trung lưu hoặc cao hơn, có nghĩa là mức thu nhập bình quân của một người trong nhóm này tối thiểu là 714 đôla một tháng.

Hòa hợp-Hòa giải: Liệu có thành?

Hòa hợp-Hòa giải: Liệu có thành?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2017-09-20
 
Nhà thơ Hữu Thỉnh (bìa trái) và Nhà văn Phan Nhật Nam (bìa phải).

Nhà thơ Hữu Thỉnh (bìa trái) và Nhà văn Phan Nhật Nam (bìa phải).

 Photo: RFA
 

Vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc” lại được dấy lên qua sự kiện nhà văn hải ngoại Phan Nhật Nam từ chối lời mời của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam về tham dự Cuộc gặp mặt giữa Hội nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài.

Từ chối thư mời

“Hãy hòa hợp với người dân trong nước. Rồi chúng tôi sẽ về”. Đó là trả lời của Nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả của những tác phẩm gắn liền với cuộc chiến Việt Nam như “Mùa Hè Đỏ Lửa”, nói với RFA khi được hỏi về thư mời của chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam gửi cho ông vừa qua.

Cụ thể Nhà văn Phan Nhật Nam nhận được thư điện tử của ông Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, vào đầu tháng 9. Nội dung mời về tham dự Cuộc gặp mặt giữa Hội nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài, dự kiến diễn ra từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 10, tại Hà Nội và khu vực phía Bắc.

Lời lẽ trong bức thư mời của Nhà thơ Hữu Thỉnh, trong vai trò Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam được cho là thân tình với mong mỏi ‘vượt qua mọi xa cách, trở ngại để ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp và dù rằng có thể có những khó khăn, nhưng hãy vì “Dân Tộc” để vượt qua tất cả.

Tôi sống bảy mươi mấy năm. Tôi đi khắp thế giới, tôi thấy cho dù một đất nước nào có hoang dã cách mấy thì cũng không có chế độ nào giống như ở Việt Nam. Đâu phải là Đảng Cộng Sản nữa! Đó là một chế độ của côn đồ. Cứ lấy sách vở của Karl Marx, Lenin, Engels ra mà đọc. Chế độ Cộng sản không phải vậy
-Nhà văn Phan Nhật Nam 

Trong thư từ chối của mình, tự xưng là một “người lính-Viết văn”, Nhà văn Phan Nhật Nam cũng nêu rõ trên tinh thần vì dân tộc Việt, ông đề nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam điều chỉnh một cách thành thực danh xưng mà ông này cho là có tính miệt thị đối với người lính và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trước đây; tức gọi “Ngụy quân-Ngụy quyền”. Ông Phan Nhật Nam nói rõ chính quyền Hà Nội cần chấm dứt các hình thức chống đối Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cũng như cho sửa sang các phần mộ tại nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ông nhấn mạnh trong thư hồi đáp rằng Chính quyền Việt Nam cần thiết phải thương yêu 90 triệu người dân trong nước và hãy thành tâm hòa giải với họ trước thì ông tin rằng những người Việt hải ngoại như ông sẽ về mà không cần phải mời.

Nhà văn Phan Nhật Nam phát biểu với RFA về quan điểm của ông đối với chính sách “hòa hợp hòa giải dân tộc” mà phía Đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra:

“Cắt cổ người dân vô tội ở trong đồn công an, mà bảo rằng người ta tự vẫn. Rồi, Thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa: VNCH), người trẻ nhất cũng sáu mươi mấy tuổi, 70-80 tuổi, què chân, cụt tay, mù mắt…sống không ra dạng người; thế mà đả đảo Thương phế binh VNCH thì đả đảo cái gì? Người ta đi biểu tình cũng đánh. Các vụ dân oan. Vụ cá chết do Formosa gây ra, từ ngày mùng 6 tháng 4 năm ngoái cho đến nay mà bảo rằng môi trường đó là tốt…

Tôi sống bảy mươi mấy năm. Tôi đi khắp thế giới, tôi thấy cho dù một đất nước nào có hoang dã cách mấy thì cũng không có chế độ nào giống như ở Việt Nam. Đâu phải là Đảng Cộng Sản nữa! Đó là một chế độ của côn đồ. Cứ lấy sách vở của Karl Marx, Lenin, Engels ra mà đọc. Chế độ Cộng sản không phải vậy.

Tôi không thù hận và giận dỗi ai hết. Nhưng phải làm những điều cho hợp lý.”

Cần làm gì để “hòa hợp, hòa giải”?

Việc mời Nhà văn hải ngoại Phan Nhật Nam được cho là bước tiếp theo trong việc thực hiện đề nghị cũng của chính ông Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đưa ra hồi trung tuần tháng Giêng năm nay. Đó là sẽ mời các nhà văn, nhà thơ người Việt hải ngoại, kể cả những người cầm bút phục vụ chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hòa) về nước để “giao lưu với tinh thần hòa hợp dân tộc văn học”.

Qua đề nghị của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đương nhiệm, mà được cho là chưa từng có kể từ sau cuộc chiến tranh Việt Nam, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đưa ra nhận xét với RFA rằng đây là một tín hiệu tốt vì trong lãnh vực nghệ thuật thì những nhà văn luôn hướng đến con người và nhân văn. Ông nói nếu như phía phát tín hiệu từ trong nước là thật tâm và thật tình thì người Việt ngoài nước cũng nên đáp ứng. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Nguyên khẳng định để thực hiện đề nghị của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam cũng cần có thời gian và phải tuân theo nguyên tắc chung là được tự do viết và tự do xuất bản tại Việt Nam.

Phải hoà giải với giới bất đồng chính kiến trong nước trước. Bởi vì họ thấy giới bất đồng chính kiến trong nước còn bị đàn áp thì làm sao họ tin để trở về được
-TS. Phạm Chí Dũng

Liên quan đến chủ trương “hòa hợp hòa giải dân tộc” của Nhà nước Việt Nam, Đài Á Châu Tự Do ghi nhận đa số người Việt hải ngoại cùng lên tiếng Đảng Cộng Sản Việt Nam hãy nhanh chóng thực hiện việc hòa giải với người dân trong nước, như cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rằng:

“Hòa giải với dân chúng, hòa giải với đảng phái, hòa giải với tôn giáo, hòa giải với tất cả những người trong nước. Có hòa giải được rồi thì mới hòa hợp được với người dân trong nước, làm sao cho dân chúng tin thì lúc đó hãy nói chuyện với người Việt hải ngoại”.

Một số nhân sĩ trí thức trong nước cũng đồng quan điểm như thế, như Nhà báo độc lập-Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, yêu cầu việc làm cần thiết nhất của nhà cầm quyền Hà Nội là:

Phải hoà giải với giới bất đồng chính kiến trong nước trước. Bởi vì họ thấy giới bất đồng chính kiến trong nước còn bị đàn áp thì làm sao họ tin để trở về được?”

Những người Việt trong và ngoài nước mà chúng tôi tiếp xúc bày tỏ không rõ bao giờ Đảng và Nhà nước Việt Nam lắng nghe cũng như thể hiện thiện chí “hòa hợp hòa giải dân tộc” theo tinh thần thật tâm và thật tình như nhận định của Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên?

Vụ CSGT đánh người quay phim, và gặm tiền ở đường vào sân bay

From facebook: Trần Bang
 

Vụ CSGT đánh người quay phim, và gặm tiền ở đường vào sân bay, clip phơi bầy hết ra, trẻ con cũng biết thật hay giả… Lãnh đạo CSGT HCM có như thế nào mới bối rối, vòng vo, câu giờ cả tuần không trả lời báo chí như thế chứ?

NLĐ: “..Cũng nhân đây, chúng tôi xin nhắc lại quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định 25/2013 của Thủ tướng, quy định:
“Trường hợp xảy ra vụ việc cần có ngay ý kiến ban đầu của cơ quan hành chính thì người phát ngôn có trách nhiệm chủ động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí trong thời gian chậm nhất là một ngày kể từ khi vụ việc xảy ra”.

Và thêm lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại rằng khá nhiều công văn mà Báo Người Lao Động gửi cho PC67 Công an TPHCM về nhiều hiện tượng mãi lộ trong ngành, đến nay vẫn chưa được phản hồi.

Hơn ai hết, những người có trách nhiệm trong bộ máy công quyền hiểu rằng một khi luồng thông tin nào đó tạo thành điểm nóng (kể cả tích cực hoặc tiêu cực) thì trách nhiệm của họ là phải có phát ngôn sớm nhất trong thẩm quyền cho phép (ít nhất là tiếng nói về tinh thần) để mọi việc được khách quan, minh bạch.

Đó là trách nhiệm bắt buộc và cũng là “phép thử” thể hiện sự bản lĩnh của người đứng đầu.”

http://nld.com.vn/…/noi-thang-canh-sat-giao-thong-cau-gio-h… 

Thứ trưởng Tài chính: Tăng thuế VAT không ảnh hưởng tới người nghèo

From facebook:   Ngua O Chu
Vừa nói vừa cười, loại người không thật ! 

Có 1 thằng cộm cũng thuộc loại này, nhìn là biết ngay (đã rụi)!

Lãnh đạo Bộ Tài chính và nhiều bộ ngành khác đã giải đáp các câu hỏi dư luận quan tâm tại họp báo của Văn phòng Chính phủ chiều 30/8.
GIADINH.NET.VN
 
 

Tổng thống Mỹ đã nói về biển Đông và chủ nghĩa Cộng sản

ung shared Đài Á Châu Tự Do‘s video.

11 hrs · 

 
 
 

45,340 Views

· 

Tổng thống Mỹ đã nói về biển Đông và chủ nghĩa Cộng sản trong bài phát biểu ở Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 19/9/2017.

Ông nói “Chúng ta phải chối bỏ những mối đe dọa đối với chủ quyền từ Ukraine cho đến Biển Đông… Bất cứ nơi nào mà chủ nghĩa xã hội hay cộng sản thực sự được áp dụng, thì nó chỉ mang đến đau thương, tàn phá và thất bại.”

TÁCH CÀ PHÊ CUỘC ĐỜI

TÁCH CÀ PHÊ CUỘC ĐỜI

 

Một nhóm sinh viên, sau khi tốt nghiệp ra trường đều có công việc tốt, rủ nhau về thăm thầy giáo cũ. Sau một hồi trò chuyện, họ bắt đầu phàn nàn về những căng thẳng trong công việc cũng như cuộc sống.

Nghe vậy, thầy đi vào bếp và quay trở ra với một bình cà phê lớn cùng những chiếc tách khác nhau. Chiếc bằng sứ, chiếc bằng nhựa, chiếc thuỷ tinh, chiếc bằng pha lê, có vài chiếc tách trông rất đơn giản, nhưng cũng có cái rất đắt tiền. Người thầy bảo các học trò tự chọn tách và rót cà phê cho mình. Sau khi mỗi người đều đã có một tách cà phê, ông bắt đầu nói:

– “Nếu chú ý, các em sẽ nhận ra điều này. Những chiếc tách đắt tiền và đẹp đều được lấy hết, chẳng ai đụng đến những chiếc tách rẻ tiền cả. Điều này thật bình thường vì ai chẳng muốn chọn cho mình cái tốt nhất, nhưng điều ấy lại chính là nguồn gốc của mọi vấn đề rắc rối trong cuộc sống của các em.

Điều mà chúng ta thực sự cần là cà phê, chứ không phải chiếc tách, nhưng ai cũng vội vàng chọn những chiếc tách tốt nhất, rồi sau đó liếc mắt qua người bên cạnh để xem tách của họ có đẹp hơn tách của mình không.

Bây giờ mọi người hãy suy ngẫm điều này nhé!

Cuộc sống chính là cà phê, còn công việc, tiền bạc và địa vị xã hội chính là những chiếc tách.
Chúng là công cụ để giữ và chứa đựng cuộc sống, và không làm thay đổi phẩm chất  cuộc sống chúng ta. Đôi khi, vì chúng ta cứ tập trung vào ‘chiếc tách’, và bỏ qua việc thưởng thức hương vị cà phê mà cuộc sống tặng cho chúng ta”.

– Người hạnh phúc nhất không phải là người có tất cả những thứ tốt nhất. Họ chỉ trân trọng mọi thứ mà họ có.

Hãy sống đơn giản,
trao yêu thương,
quan tâm sâu sắc
và nói những lời đẹp đẽ.

Namo Buddhaya

From  Kim Bằng Nguyễn 

 

GANH TỴ

GANH TỴ

 Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi.  Nó biến đổi mà không phải là biến mất.  Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời.  Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện, và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng.  Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo.  Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.

Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn.  Lớn hơn chút ganh chơi.  Tuổi thiếu niên ganh nói.  Tuổi thanh niên ganh xe mới.  Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí.  Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh.  Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó.  Khi về già ganh viện dưỡng lão, và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.

Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu.  Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng.  Cờ không đến tay không được phất.  Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên.  Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.

Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu.  Nếu hài lòng đã không ganh.  Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn.  Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều.  Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.

Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng.  Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày.  Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày.  Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối.  Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh.  Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy.  Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.

Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật.  Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng.  Có người thuê là mừng rồi.  Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả.  Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng.  Dẫu thế, có vẫn hơn không.  Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày.  Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng.  Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công.  Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào lòng tốt của chủ vườn nho.  Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân.  Chính ông xác định điều này.  Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm.  Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê.  Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu.  Như thế việc ít, thợ nhiều.  Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề.  Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn.  Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.

Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn.  Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn.  Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho.  Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu.  Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.  Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban.  Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác.  Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình.  Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình.  Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.

Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?  Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?  Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?

Lm Vũ Đình Tường

****************************** ***************

Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.

 Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

 Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.

 Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
 

Rabbouni 

From Langthangchieutim

Coi chừng gần 100.000 tỉ đồng tan theo mây khói

From facebook:  Ngua O Chu
Dân đen lại tiếp tục “chia xẻ với nhà nước” !? È cổ ra mà đóng cho lũ phá nước hại dân chia chác thôi.
Theo báo cáo của các bộ, ngành, tính đến 25.8.2017, có 43 dự án có dấu hiệu đầu tư không hiệu quả, tổng mức đầu tư lên đến 42.000 tỉ đồng. Tính thêm 12 dự án của ngành công thương, con số lên tới 100.000 tỉ đồng.
 
LAODONG.VN|BY BÁO LAO ĐỘNG
 
 

TÔI ĐI HỌC

From facbook:  Văn Lang‘s post
 
 
 
TÔI ĐI HỌC

Cha mất sớm, mẹ một mình quang gánh nuôi bốn đứa con thơ lúc tôi chưa đến tuổi đi học.

9 năm từ tiểu học đến hết trung học đệ nhất cấp, học sinh chỉ phải đóng một khoản tiền nhỏ gọi là “Niên Liễm”, riêng anh em tôi thì được miễn. 
Mẹ bận túi bụi vào việc cơm áo nên chẳng còn thời giờ bảo bạn gì, chuyện dạy dỗ chúng tôi giao hết cho nhà trường. 
Thời ấy, việc học thật nhẹ nhàng mà hiệu quả. Tôi còn thừa ối thời gian để đọc vô số tiểu thuyết (thứ mà tôi rất mê ngay từ năm lớp 4) trong thư viện trường. Lại còn thời gian để tự củng cố kiến thức thường xuyên, nên sự học rất chắc chắn. Suốt 9 năm, tôi chẳng tốn một đồng để “học thêm” ngày nào cả. 
Và tôi học giỏi, tôi không hư hỏng, tôi biết sống nhân nghĩa và không quá nhu nhược hay bàng quan trước những bất công xung quanh.

Đó là mảnh đất giáo dục của VNCH mà tôi may mắn được gieo trồng ngay từ những năm đầu quyết định nhân phẩm của một con người. 
Xin cảm ơn!

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CHỒNG

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CHỒNG

Yêu thương để mang lại cuộc sống viên mãn

 Lạy Chúa Giêsu,

Con đặt đời con trong sự quan phòng mầu nhiệm của Chúa.

Con nhận ra những thiếu sót và lỗi phạm của con.

Con không dám biện minh hay tự phụ.

Chúa đã sống giữa chúng con,

chia sẻ niềm vui và thử thách trong gia đình.

vâng lời và tròn trách nhiệm của Người Con.

Ngày hôm nay, lạy Chúa,

với ơn Chúa hướng dẫn, con xin nguyện dâng lời thề hứa:

sẽ xây dựng gia đình theo gương Thánh Gia.

Con xin canh tân đời mình bằng lời thề hôn ước:

sẽ sống với vợ con hết lòng,

sẽ không bao giờ bỏ rơi nàng nhưng tôn trọng và chung thủy,

sẽ không giân dữ nhưng luôn vui hòa và tha thứ,

sẽ không làm tổn thương nhưng yêu quý và bảo vệ nàng

đến hơi thở cuối cùng.

Với ơn sủng của Chúa, xin cho con biết làm mới lời hứa:

tận tâm với con cái:

sẽ triều mến chúng như tặng phẩm Chúa ban,

sẽ trao cho chúng những gì chúng cần,

sẽ nuôi dưỡng thể xác và huấn luyện tâm hồn chúng,

sẽ dành thời giờ để chăm sóc chúng,

sẽ xây dựng cho chúng một mái ấm tình thương,

sẽ đưa chúng đi trên đường thánh thiện và ân sủng,

sẽ dạy chúng lớn khôn như những người con Chúa,

những người thừa hưởng Nước Trời.

Vì những điều nầy, xin Chúa chúc lành cho con.

Xin hướng dẫn con trong cuộc đời nầy

và tăng sức cho con chống lại cám dỗ.

Xin cho con lành mạnh xác hồn

để con sống vì vợ và vì các con.

Xin cho con luôn dâng hiến đời mình

để phụng sự Chúa và phụng vụ gia đình.

Lạy Chúa, xin hãy đến trong gia đình con.

Nhà của con cũng là nhà của Chúa.

Xin liên kết chúng con lại với nhau.

Xin sống giữa chúng con, và ban ơn cho chúng con mỗi ngày.

Lạy Chúa, là mẫu gương yêu thương của chúng con.

Amen

John Lê Mừng chuyển ngữ