NGHĨ VỀ SỰ CHẾT

NGHĨ VỀ SỰ CHẾT

ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết.  Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.

Chắc chắn tôi phải chết.  Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn.  Chân lý này, không ai dạy tôi.  Nó nằm ngay trong con người của tôi.

Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người.  Nó là một vấn đề chung.  Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng.  Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống?  Cuộc đời đi về đâu?  Bên kia sự chết có gì không?

Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo.  Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.

Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý.  Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.

Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng.  Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm.  Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng.  Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.

Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt.  Đã tới lúc ra đi.  Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả.  Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm.  Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.

Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm.  Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.

Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban.  Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không.  Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình, và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định.  Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.

Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi.  Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.

Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi.  Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng.  Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục.  Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.

Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.

Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.

Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.  Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô.  Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6).  Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người.  Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa.  Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới.  Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc.  Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.

Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo.  Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này.  Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt.  Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô.  Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu.  Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới.  Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng.  Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.

Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).  Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:

“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em.  Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết.  Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.  Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.  Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta.  Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.  Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?  Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.  Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).

“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.  Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.  Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21).

Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.  Nhiệm vụ được chấm dứt.  Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng.  Chúa sẽ phán xét công minh điều đó.  Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.

Biết lo là điều tốt.  Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ.  Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn.  Coi như bắt đầu lại.

Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất.  Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.

Những nỗi lo như thế là chính đáng.  Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan.  Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết.  Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước.  Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.

 ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

From Langthangchieutim

Nhân dân Hà Nội tự nguyện đón Tổng thống Mỹ Donald Trump Đảng/nhà nước VN tổ chức đón Tập Cận Bình.

Thuong Phan and Tai Nguyen shared Phạm Văn Hải‘s post.
Image may contain: 1 person, standing, walking and outdoor
Image may contain: one or more people, night and outdoor
Image may contain: 4 people, night and outdoor
Image may contain: 5 people, people standing, suit, wedding, child and outdoor
Image may contain: 4 people, child and outdoor
+2
Phạm Văn Hải added 6 new photos.Follow

 

Nhân dân Hà Nội tự nguyện đón Tổng thống Mỹ Donald Trump

Đảng/nhà nước VN tổ chức đón Tập Cận Bình.

Các bạn coi ảnh sẽ rõ:

Ảnh 1-2-3 rất đông nhân dân tự phát (thiếu tổ chức) đón Trump. Ảnh 4-5-6 chứng minh các quan chức, vài nhóm người do chính quyền tổ chức ăn mặc chỉnh tề, mang cờ TQ đón tập cận bình.

CHẾT

CHẾT

Quyên Di

Cổ nhân ta nói: “Sinh kí tử quy”, sống là tạm gửi, chết mới là về. Ðó là một nhân sinh quan, và cái nhân sinh quan ấy chi phối đời sống người ta, đến độ có nhiều người nói rằng “sống là chuẩn bị cho cái chết.”

Từ quan niệm ấy, người Việt Nam hình như không sợ hãi khi đối diện với cái chết. Những cụ già xây sẵn phần mộ, mua sắm sẵn cỗ áo quan, ra vào vuốt ve ngắm nghía nó như ngắm một vật thân quí, đôi khi vào nằm thử một cách bình tĩnh. Các cụ còn định sẵn cả chương trình cho đám tang của mình, phải tổ chức ra sao, nghi thức thế nào. Thật đúng là sự chuẩn bị cho một cuộc trở về.
Ðó mới chỉ là những cái bên ngoài biểu lộ quan niệm “sinh kí tử quy”. Một cách sâu xa hơn, người ta chuẩn bị cho chuyến trở về bằng cả một cuộc sống của mình. Ðể cho cuộc trở về tốt đẹp, người ta sống tốt đẹp, cư xử tử tế với mọi người, tạo phúc đức để lại cho con cháu, trả sạch nợ nần để không phải vướng mắc với ai, không tạo ra những ác nghiệp v.v… Thực hiện được những điều đó, người ta thanh thản trở về thế giới bên kia.

“Sinh kí tử quy.” Sống là tạm gửi, chết mới là về. Nhưng về đâu? Ðó là vấn đề. Có phải là về với lòng đất? Có phải là về với hư không? Có phải là về với tổ tiên? Hay là về chốn bồng lai tiên cảnh?… Ðiều đó tùy thuộc quan niệm và niềm tin của từng người. Người Công giáo chúng ta tin rằng con người có linh hồn bất tử, và khi chết, linh hồn của mình sẽ về cùng Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên mình. Thiên Chúa là nguồn cội. Từ Thiên Chúa, có muôn loài muôn vật, có chính mình. Bởi thế, chết là một cuộc “lá rụng về cội” lớn lao nhất, quan trọng nhất.

“Lá rụng về cội”. Ðó có thể coi như một nguyên tắc, một lẽ đương nhiên? Thật ra không hẳn thế. Quan sát sự kiện thực tế ngoài đời, ta sẽ biết ngay: có chiếc lá khi rụng, chao đi vài vòng, rồi nhẹ nhàng đặt mình dưới gốc cây. Nhưng cũng có những chiếc lá vừa lìa khỏi cành đã bị trận bão loạn gió cuồng cuốn bay đi xa lắc. Lá rụng, nhưng lá không về cội.

Ðời người ta cũng như những chiếc lá. Như lá được sinh ra và nuôi dưỡng từ chất nhựa từ cội là gốc rễ đưa lên thế nào, con người cũng được sinh ra, lớn lên, sinh hoạt trong dòng đời, từ chính cội nguồn của sự sống là Thiên Chúa như thế. Cái chết của con người cũng giống như chiếc lá lìa cành. Về với Thiên Chúa cũng như “lá rụng về cội”. Nhưng lá rụng chưa chắc đã về cội thì con người khi chết cũng chưa hẳn sẽ được về cùng Thiên Chúa. Về được với Chúa hay không, cái đó tùy ở cách sống của mình, tùy ở chính mình.

Có người ví cuộc hành trình về với Chúa, hay nói khác đi là về Thiên Ðàng, là một chuyến đường. Người đi phải tập làm quen với con đường, hay nói khác đi là phải đi lại nhiều lần trước khi ra đi để về thật. Nếu không quen đường thuộc lối, rất có thể người ta sẽ đi lạc, và như thế chẳng về được nhà.

Con đường về với Chúa là con đường gì? Ðó là đường Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Và Thiên Ðàng là nơi gồm toàn những người biết yêu Chúa và yêu nhau. Như thế, làm quen với con đường về Thiên Ðàng cũng có nghĩa là tập sống yêu thương. Yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì dễ, vì Chúa là Ðấng trọn hảo và rất đáng kính yêu. Chúa không làm cho mình khổ, Chúa không gây ra những rắc rối cho đời mình. Chúa lại yêu mình hết mực. Tuy nhiên, yêu Chúa “khơi khơi” thì dễ, chứ yêu đến nơi đến chốn, yêu với tất cả linh hồn và trí khôn, yêu đến độ sẵn sàng sống chết vì Chúa… điều ấy chưa chắc đã dễ.

Yêu người khó hơn nhiều lắm. Vì đã là người thì có khuyết điểm. Người ta dễ làm cho mình đau khổ, cũng gây cho mình rất nhiều điều rắc rối. Rất nhiều khi người ta không yêu mình, trái lại còn ghen ghét, thù hận mình nữa. Người ta như vậy đó, thế mà mình phải yêu, để làm quen được với cái đường đi về Thiên Ðàng kia.

Nói cho cùng, cuộc sống làm nên ý nghĩa của sự chết. Cuộc sống quyết định cho đích điểm của một chuyến đi. Chuyến đi xa nhất, quan trọng nhất của đời người. Ðây cũng là chuyến đi cô đơn nhất, vì không có ai đồng hành với ta.

Sống Yêu Thương, yêu Chúa và yêu người thật lòng, ta sẽ về được với Ðấng chính là Tình Yêu. Sống không yêu thương, đường đi của ta sẽ ngược chiều, và ta khó lòng gặp được Thiên Chúa Tình Yêu. Ðó là nỗi bất hạnh lớn lao nhất, nỗi cơ cực kinh khủng nhất. Bởi vì hạnh phúc thật của con người, nói cho cùng, là về được, hòa nhập được với chính cội nguồn nơi mình đã xuất phát: Thiên Chúa. Hòa nhập được với Thiên Chúa, Ðông phương gọi là hòa hợp cùng Ðại Ngã, còn chúng ta gọi là được về nước Thiên Ðàng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.
Còn nỗi cô đơn. Ai mà chẳng sợ cô đơn. Muốn tránh cô đơn, chỉ còn cách kết bạn và mời bạn làm kẻ đồng hành. Nhưng bạn nào đồng hành được với ta trên đường về, mà khởi đầu là cái chết phần thân xác? Chỉ có một “người” thôi, đó chính là Thiên Chúa. Hạnh phúc cho ai, trên đường về có chính Thiên Chúa làm bạn đồng hành. Trong tình bạn, cần có thời gian. Bạn thân để có thể đồng hành lại càng cần thời gian dài hơn nữa. Như thế, trong cuộc sống trần gian, nếu ta đã không từng quen với Chúa, thân với Chúa, chia sẻ với Chúa, thì khi ta chết, làm sao ta có được Chúa làm người bạn đồng hành trên đường về?

“Sinh kí tử quy”, “Lá rụng về cội.” Ðó thật là những tư tưởng đẹp và thâm sâu. Ðể hiểu được vẻ đẹp và sự thâm sâu đó, không phải một sớm một chiều. Giá ta phải trả để hiểu được nó và áp dụng nó là cả một cuộc đời, với nỗ lực và với yêu thương.

Quyên Di

Thế hệ của những nô lệ

From facebook: Thuong Phan and 3 others shared Anh Chi‘s post.
Image may contain: 1 person, smiling

Anh Chi is with Khôiphục TâmthứcViệt.

 

Thế hệ của những nô lệ
Nhật Phong, 9.11.2017

Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích – Có kẻ tưởng mình là ông chủ, mà thật ra còn nô lệ hơn cả tôi tớ của họ… (Jean Jacques Rousseau, Du Contrat social, 1962)

Cái quì gối hôm nay

Cái quì gối của một anh chàng sinh viên học viện ngoại giao Việt Nam trong buổi nói chuyện với Jack Ma, giữa một hội trường hàng ngàn sinh viên, khách mời và những người hâm mộ vị tỷ phú Trung Quốc này có lẽ làm cho nhiều người còn lại chút ít tinh thần dân tộc và tự trọng phải nóng mặt , xấu hổ.

Thực ra, những hình ảnh tương tự như thế khá quen thuộc với giới trẻ Việt Nam. Hàng chục ngàn nam thanh nữ tú đã điên loạn trong cơn say cuồng những thần tượng Kpop của Hàn Quốc, rất nhiều trong số đó sẵn sàng hôn ghế ngồi, gào khóc thảm thiết vì không được chạm vào những thần tượng của họ. Những hình ảnh không thể dùng một từ ngữ nào diễn tả hết sự rồ dại của đám đông đang bị chi phối bởi những qui luật bản năng và bầy đàn nhất.

Về mặt tâm lý học, đó là những trạng thái có cùng một não trạng tương tự nhau. Chứng sùng bái cá nhân thái quá này thường thấy ở những xã hội thần quyền, những thể chế chuyên chính độc tài, quân chủ hay những xã hội có môi trường truyền thông lệch lạc và hệ thống giáo dục sai lỗi cho ra những “sản phẩm” thiếu sự tiết chế, lòng tự trọng, khả năng tư duy biện chứng, cũng như các giá trị về nhân bản.

Những ngôi sao ca nhạc, bóng đá, những doanh nhân thành đạt, người mẫu xinh đẹp…..và đương nhiên, tất cả họ – những thần tượng của giới trẻ – đều rất giàu cóhoặc có vẻ như vậy, thường có sức hút mãnh liệt với giới trẻ Việt Nam. “Thần tượng” trở thành những quan tâm hàng đầu, “món ăn tinh thần” không thể thiếutrong đời sống phần lớn thanh niên một đất nước mà sựgiàu có về vật chất là “chuẩn mực” quan trọng nhất.

Một sự thực có thể làm cho mà các nhà lãnh đạo VN – những gương mặt có tần suất hiện diện dày đặc trên mọi phương tiện truyền thông thường ngày – sẽ ghen tị vô cùng khi biết rằng họ chẳng giành được sự quan tâmcủa công chúng bằng một phần nhỏ vòng mông cô người mẫu Ngọc Trinh, siêu xe của Cường dola hay sự giàu có của nhà tỷ phú Trung Quốc Jack Ma ngày hôm nay. Cứ nhìn khán phòng ba ngàn chỗ ngồi chật cứng người ở trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình thì biết, những tấm vé để được nghe buổi nói chuyện của ông chủ “Alibaba và bốn mươi tên cướp” này có giá hàng triệu đồng ở thị trường chợ đen đã cháy hàng trước đó từ lâu. Và cũng chắc chắn một điều, nếu như ông Nguyễn Phú Trọng đến nói chuyện ở một trường đại học nào đó về “đạo đức Hồ Chí Minh” sẽ không có sinh viên nào ra quì lạy ông trong khi miệng hô “chúng ta là Phú Trọng, chúng ta yêu Phú Trọng”cả. Không tin thì cứ thử thì biết.

Dù thiên hạ xôn xao và những “nhà đạo đức” thì xấu hổ vì cái quì lạy của anh sinh viên nọ, gạch đá trên mạng xã hội chắc đủ xây mồ mả ba đời nhà anh ta nhưng tôi thấy ít nhất, anh ta đã biểu lộ chân thật thứ tình cảm “ái mộ thần tượng” xuất phát từ não trạng của mình. Việc quì lạy của anh thanh niên nọ trước sự chứng kiến cả ngàn người trong khán phòng lúc đó và hàng chục triệu người trên các mạng xã hội hẳn là một việc làm ít ai dám thể hiện. Anh ta đã chuẩn bị rất kỹ cho buổi gặp mặt với những lá thư và đề nghị hợp tác viết bằng 2 thứ tiếng công phu. Anh ta biết rõ anh ta làm cái gì và để làm gì. Suy cho cùng thì anh chàng đó không ăn cắp, ăn cướp hoặc phạm pháp điều gì ngoài việc mang lại cảm giác hổ thẹn cho những người còn lòng tự tôn dân tộc.Tin tôi đi, đó là thiểu số.

Cái quì gối ngày hôm qua

Thực ra, việc quì lạy này xuất phát từ những qui ước về nghi thức xã hội thể hiện một sự tôn kính đặc biệt, thần phục hoàn toàn trước những to tem tôn giáo, những biểu tượng quyền uy của các bậc vua chúa hay vong linh của tổ tiên. Đối với người Việt, ảnh hưởng khá hỗn tạp của những luồng văn hóa tín ngưỡng của Trung Quốc, Ấn Độ, Champa, những tín ngưỡng bản địa và tư tưởng Nho giáo của Khổng tử…hòa trộn với nhau làm cho người Việt với sự dễ dãi sẵn có trong việc tìm hiểu cội nguồn hay lịch sử của những tín ngưỡng nơi họ tín thác, cùng với đó là tư tưởng “thần dân” đậm đặc trong tâm hồn, sự thiếu hụt nhận thức về những giá trị của nhân quyền đã làm cho họ dễ dàng chấp nhận thần phục những biểu tượng uy quyền mà theo họ có khả năng ban phát “ơn trên”. Và hàng triệu người dân ở xứ này chẳng phải đang xì xụp khấn vái trước những pho tượng bằng gỗ, đá hay xe xua bợ đỡ trước những “quan phụ mẫu” quyền lực, những “đại gia” lắm tiền nhiều của hầu mong có được chút “lộc rơi, lộc vãi” hay thăng quan tiến chức hay sao? Khác biệt một chút so với hình ảnh những đám đông dân chúng Bắc Hàn quì gối và khóc lóc thảm thiết trước cha con nhà họ Kim để thể hiện lòng trung thành và tôn kính (hoặc vì sự sợ hãi tột độ và cái dạ dày đói khát), người Việt (hầu như) có thể quì gối trước bất cứ thứ gì từ những to tem tôn giáo mơ hồ, những biểu tượng của Nước, Lửa, Gió, Đất, cây cối, muông thú, những thần linh và cả ma quỉ trong các hệ thống tín ngưỡng chồng chéo qua quá trình giao thoa văn hóa 4000 năm đến những cá nhân hay thiết chế xã hội độc tài, phi nhân nhất…miễn sao có thể có được chút “ơn trên” để được “vinh thân phì gia” ở cõi thế tục.

Có những cái quì gối mà cả 90 triệu dân Việt khốn nạn và nhục nhã hơn nhiều, mất mát to lớn hơn rất nhiều so với cái quì gối của anh chàng sinh viên nọ. Những cái quì gối mà bách hại muôn kiếp dân đen, đẩy dân tộc vào vòng lầm than, diệt vong. Không biết làm sao tôi lại liên tưởng đến những bức ảnh mà vị “cha già dân tộc Việt Nam” với nụ cười hớn hở, quì gối ngồi dưới chân “Chủ tịch Mao vĩ đại” khi ông ta đang ngồi trên một chiếc ghế mây hay bức ảnh ông tổng bí “Tài nông, Đức cạn” với nụ cười nhe cả hàm răng “chắc khỏe” trong lúc cúi gập người hết mức khi chào mừng ông Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào trong chuyến công du Việt Nam hồi năm 1991.

Những vị lãnh đạo Việt Nam lúc đó, chắc chắn, đã thể hiện hết sức chân thành thứ tình cảm “ái mộ thần tượng” của mình với trạng thái hạnh phúc lâng lâng xuất phát từ cùng một thứ não trạng giống như anh chàng sinh viên nọ – não trạng của những thần dân nô lệ.

Cái quì gối của ông Hồ trước một “hoàng đế” Mao Trạch Đông quyền uy, đã chấp nhận đưa dân tộc Việt Nam vào một trang sử đen tối mà cho đến ngày hôm nay chúng ta càng ngày càng thấm thía cảnh báo và viễn kiến chính trị thiên tài của một Ngô Đình Nhu mà lịch sử đã dành cho ông cái kết thúc oan nghiệt như chính số phận của dân tộc này?

“…Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ khủng khiếp. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà con đe dọa đến sự tồn vong của Dân tộc…” – Chính đề Việt Nam, Ngô Đình Nhu.

Những tư tưởng Mác Lê, Mao Trạch Đông và những đường lối của Đảng cộng sản Trung Quốc áp đặt vào hệ thống chính trị Việt Nam trước và sau mốc dấu 1975 đã phá hoại đến tận gốc rễ những thứ bản sắc được gọi là văn hóa, nhân phẩm, những nỗ lực cải cách xã hộicũng như để lại những di họa khôn cùng ăn sâu vào não trạng và xương tủy của những thế hệ Việt Nam. Và cái cúi gập người của ông Nông Đức Mạnh trước Hồ Cẩm Đào được cụ thể hóa bằng một “lộ trình nô lệ” có cái tên “4 tốt và 16 chữ vàng”.

Thật đau đớn khi một dân tộc tự hào với 4000 năm văn hiến nhưng chẳng có nổi một triết gia hay nhà tư tưởng. Cũng có thể đã có một Trần Đức Thảo như một ánh sao băng lẻ loi, lịm tắt nhanh chóng trên bầu trời thời đại đen đặc. Một dân tộc luôn phải vay mượn những tư tưởng, những chủ thuyết mà thế giới đã vứt vào sọt rác lịch sử từ lâu và luôn có những bạo chúa và “hoàng đế cởi truồng” vậnlên mình bộ hoàng bào hoang tưởng.

Những thế hệ nô lệ !

Có một sử gia người Pháp tôi không nhớ tên từng nói câu đại ý như thế này “Nếu thung lũng sông Mã, sông Hồng không được trấn giữ bởi một dân tộc anh dũng nhất thế giới thì biên giới của Trung quốc đã là cả Châu Á ngày hôm nay”. 
Dân tộc Việt Nam có lẽ là một dân tộc phải chịu đựng một số phận đặc biệt khốc liệt khi Định Mệnh đặt vào một vị thế đối nghịch với một quốc gia, một dân tộc lớn nhất thế giới luôn có tư tưởng bá quyền ăn sâu trong tiềm thức của dân tộc đó – dân tộc Hoa Hạ. 
Suốt một tiến trình lịch sử cổ đại, người Hoa Hạ liên miên gây những xung đột và chiến tranh, dần dần đẩy dân tộc Bách Việt cổ xuống phía Nam ra khỏi vùng Trung Nguyên màu mỡ. Cho đến khi những người Bách Việt cổ di trú xuống vùng đồng bằng sông Hồng và sống Mã ngày này. Lịch sử của Việt Nam cũng là lịch sử của những cuộc chiến liên miên, giành giựt nền độc lập với những triều đại Trung Hoa.

Cũng có những giai đoạn đen tối của lịch sử kéo dài cả ngàn năm Bắc thuộc, những giai đoạn nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, có những Trần ích Tắc, Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà” nhưng đã có bao nhiêu trang sử giữ nước oai hùng.

“…Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có….” 
trích Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi.

Dân tộc này đã từng có những Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ, Lý Thường Kiệt…hiệt kiệt, uy dũng lẫy lừng, sống mãi cũng non sông. Dân tộc này đã có những trang sử chói lọi và nền văn hiến đầy bản sắc nhân văn. Vậy mà hôm nay, chúng ta chứng kiến cả một thế hệ quì gối và một thể chế nô lệ. Điều gì đã đẩy đất nước này vào bước đường oan nghiệt, đớn hèn đến vậy?

Đã có một lớp người với những lý tưởng ngây thơ và say cuồng những “lý tưởng” về một “thế giới cộng sản đại đồng” về “tình anh em giai cấp vô sản”. Họ tin yêu vô hạn những Mác, Lê, Mao, Stalin, Hồ hơn cả cha mẹ hơn cả bản thân mình. Và những lãnh đạo đất nước này, ngày hôm nay vẫn trong cơn mê đắm ở những giấc mơ “thiên đường xã hội chủ nghĩa” và tình hữu nghị “Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”. Những kẻ cơ hội nắm quyền lực sẵn sàng mãi quốc cầu vinh. 
Những cái cúi đầu của các nhà lãnh đạo CSVN ngày hôm nay,trong lễ kỷ niệm 100 năm cuộc cách mạng tháng 10 Nga, khi mà cả thế giới và nước Nga đang phải cố gắng lãng quên thứ chủ thuyết đầy hận thù và dối trá này, đã cho thấy sự mê muội đến cùng cực một thể chế lạc điệu quá xa so với thế giới văn minh. Và đó chính là câu trả lời vì sao mà lòng tự tôn dân tộc đã không còn và những thế hệ sẵn sàng quì gối nô lệ.

Nhiều người lầm tưởng rằng ở một “thế giới phẳng” giữa thế kỷ 21 sẽ khó có thể xảy ra những cuộc chiến tranh làm thay đổi đường biên giới. Nhưng lịch sử là một vòng tròn và người Nga có một câu châm ngôn rất hài hước “Bài học duy nhất của lịch sử là nó chẳng dạy cho ta biết điều gì”.

Thế giới cũng đã thay đổi rất nhiều và cuộc chiến ngày hôm nay có thể rất khác, không phải đầu rơi máu chảy nhưng nó từ từ chuyển biến những giá trị ẩn sâu cốt lõi của một dân tộc từng bước một. 
Đó là cuộc xâm lấn về tư tưởng, tôn giáo,văn hóa, kinh tế và sự trộn lẫn lịch sử theo chủ đích chính trị của những kẻ cầm quyền. Đến một ngày không xa chính bản thân chúng ta không nhận ra cội nguồn của mình thì lúc đó quá trình vong nô đã hoàn tất. Khi đó, có lẽ, dấu tích về một dân tộc Việt có lịch sử oai hùng ở thung lũng sông Hồng, sông Mã một ngày nào đó đã trở thành huyền sử bi tráng, đắng cay?. 
“Những viễn ảnh nô lệ khủng khiếp” đó chẳng phải chính từ những cái cúi đầu của những kẻ cầm quyền hôm qua và cái quì gối của những thanh niên Việt ngày hôm nay hay sao?   

6 giá trị của người dân Mỹ không ai mua được bằng tiền

6 giá trị của người dân Mỹ không ai mua được bằng tiền

     
1. Ca sĩ Madonna từng nhổ nước bọt vào mặt một bà cụ, lập tức tòa án Liên bang phán quyết cô phải bồi thường 5 triệu đô-la Mỹ cho bà lão.


Quan tòa nói, sở dĩ mức phạt nặng như vậy không phải bởi miếng nước bọt đó đã mang đến tổn thương lớn ngần nào cho bà cụ.. Lý do là với những người có tiền như Madonna nếu chỉ phạt bồi thường 50 nghìn đô-la, lần sau cô ấy chắc chắn sẽ tái phạm. Có thể cô ấy cũng sẽ gây tổn thương cho hơn 10 người khác nữa.

2. Ở Mỹ, không có một hãng truyền thông nào thuộc về chính phủ. Bởi vì pháp luật nước Mỹ quy định, không thể lấy tiền của dân chúng để dát vàng cho mình mà lừa mị, mê hoặc dân chúng.

Kênh truyền thông duy nhất mà chính phủ Mỹ bỏ vốn làm chủ là đài phát thanh VOA của Mỹ, nhưng nó không được phép phát sóng trên đất Mỹ. Trong con mắt của người Mỹ, dư luận nên phải là tự do, nhiều nguồn, muôn hình muôn vẻ, thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau.

3. Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia, trẻ em được pháp luật che chở cẩn thận. Nếu bạn không có tiền gửi con ở nhà trẻ, chính phủ sẽ chi trả, hoặc không có tiền mua sữa bột, chính phủ cũng sẽ chu cấp. Ngoài ra còn có nhiều chính sách đặc biệt trợ cấp cho phụ nữ mang thai, sản phụ thu nhập thấp và trẻ em chưa đến 5 tuổi.

Các gia đình thu nhập thấp có thể nhận được bữa cơm dinh dưỡng sáng và trưa miễn phí. Nếu bạn không có tiền thuê nhà, chính phủ sẽ chi trả, hơn nữa quy định trẻ nhỏ cần phải có phòng ngủ riêng. Ở nước Mỹ, bạn sẽ không bao giờ bắt gặp hình ảnh trẻ em đi xin ăn.
Có một bà mẹ mải mê bận rộn việc nhà, nhất thời không để ý trông con. Đứa con chẳng may ngã xuống bể bơi chết đuối. Trong lúc người mẹ đang đau khổ không thôi thì bất ngờ nhận được giấy triệu tập của tòa án.

Lý do mà tòa án đưa ra vô cùng đơn giản, bà đã không làm hết trách nhiệm của một người giám hộ nên sẽ phải đối mặt với việc bị tuyên án.. Điều đó cũng giúp cảnh tỉnh ý thức chăm sóc con trẻ cho hàng triệu người mẹ khác.

Người Mỹ quan niệm, một đứa trẻ trước hết thuộc về bản thân nó. Đứa trẻ đó mang theo vô số quyền lợi sống vốn có trong xã hội này. Không kể là bản thân nó có ý thức được hay không, không kể là nó có thể lớn lên thành người hay không, xã hội này có tầng tầng pháp luật để bảo vệ nó.

4. Ở nước Mỹ, người dân có bệnh thì bệnh viện cần phải điều trị trước, sau đó mới gửi hóa đơn viện phí đến nhà bệnh nhân. Nếu bạn không gánh nổi khoản tiền trị liệu thì các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ sẽ ‘ra mặt’ giải quyết. Trong trường hợp người nghèo khó chỉ vì không có tiền chi trả viện phí mà bệnh viện ngưng điều trị thì những người có liên quan sẽ bị chất vấn và nhận chế tài của pháp luật.

5. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (nổ ra vào tháng 3/2003), quân Mỹ huy động lực lượng quân sự lớn mạnh tấn công tầm xa trong sa mạc. Quân đội của nhà độc tài Saddam Hussein binh bại như núi đổ, nhếch nhác bỏ chạy. Lúc này, trong cát bụi mịt trời, một chiếc xe vận tải của quân Mỹ mất phương hướng, lạc vào trận địa của quân địch.

Người lái xe là một nữ quân nhân tên Lira, bị thương và bị địch bắt giữ làm con tin để uy hiếp quân Mỹ. Cô bị nhốt ở một nơi hẻo lánh bí mật và bị canh giữ sát sao. Vì để cứu Lira, quân Mỹ đã huy động đội đột kích Hải Báo tấn công mãnh liệt khiến quân địch mất phương hướng, hoảng loạn tan vỡ.

Chỉ trong thời gian mấy phút, quân Mỹ đã giải cứu thành công Lira. Cô nhanh chóng được đưa về hậu phương điều trị. Chiến tranh kết thúc, Lira cùng với hai binh sĩ Mỹ từng bị bắt giữ khác trở về quê nhà và được chào đón như những người anh hùng.

6. Điều được giảng trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không phải là quần thể, quốc gia, thậm chí không hề giảng đến dân chủ.. Điều được giảng là 3 quyền lợi lớn: quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Ba quyền lợi này đều là quyền lợi của cá nhân, không phải là quyền lợi của quần thể hay quốc gia.

P/s...: Những quyền lợi này có được ngay từ khi công dân Mỹ vừa mới sinh ra, chứ không phải do ai ban tặng. Mặt khác, những quyền lợi này có thể bảo vệ cá nhân, khiến họ không phải chịu đựng sự xâm hại của bất cứ ai. Chỉ có kiến lập trên cơ sở quyền lợi cá nhân, mọi người mới có thể có được một xã hội tự do chính nghĩa, tôn nghiêm và bình đẳng. 

Trịnh Kim Tiến: Nhân quyền không phải giá trị riêng của Mỹ

From facebook:   Thu Ngoc Dinh‘s post.
 

Trịnh Kim Tiến: Nhân quyền không phải giá trị riêng của Mỹ

Bởi vì lịch sử hình thành nên Mỹ luôn được coi là cái nôi của Nhân quyền. Nhắc đến Nhân quyền không thể không nhắc đến Mỹ, đó là giá trị truyền thống của họ. Cho dù ngày hôm nay tinh thần và những giá trị đó có thể đi xuống, nhất là dưới thời của Trump thì nhiều người vẫn luôn tin rằng đó vẫn là giá trị mà dân tộc họ theo đuổi.

Và có lẽ chính bởi niềm tin đó nên khi nghe bà Trump không đến Việt Nam nhiều người đã không nguôi thất vọng.

Thất vọng vì những mong mỏi của Nấm đã không được đoái hoài, vì hai chữ Nhân quyền đối với vị phu nhân của của ông Trump không có ý nghĩa bằng chuyến đi chơi trên đất Tàu.

Riêng tôi chưa từng hy vọng vào sự có mặt của bà ấy ở Việt Nam, bởi nếu là một người quan tâm đến quyền con người, bà đã không để Nấm viết đến bốn bức thư mà không một lần hồi âm trở lại.

Nấm cứ tưởng rằng bà Trump là phu nhân của một dân tộc đề cao quyền con người, bà là một người mẹ như mẹ của con thì bà sẽ hiểu nỗi đau của mẹ khi phải xa con. Nhưng con nhầm rồi, bà ấy là phu nhân của một vị Tổng Thống trên cao ngất ngưởng, bà chưa bao giờ phải xa con của bà, bà làm sao mà hiểu được con? Đúng là bà ấy đã trao giải “NGƯỜI PHỤ NỮ CAN ĐẢM” cho mẹ của con nhưng đó cũng chỉ là hình thức như cái cách mà nước Mỹ đang giữ tư tưởng Nhân quyền của họ vậy.

Nhưng chúng ta không có quyền trách họ con à, bởi vì giá trị Nhân quyền là một giá trị phổ cập chứ không phải riêng đất Mỹ. Mỹ không có nghĩa vụ phải bảo vệ những người hoạt động xã hội ở các nước mất tự do. Nếu như họ coi việc thúc đẩy Nhân quyền trên thế giới là sứ mệnh của dân tộc thì họ sẽ không im lặng đâu.

Tự do cho mẹ con là chuyện của người Việt. Nếu chúng ta coi việc đòi hỏi Nhân quyền cho đất nước chúng ta là việc của một Quốc gia khác thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được nó.

Quyền con người ở Việt Nam phải do người Việt Nam dành giữ, tự do nếu muốn có thì chúng ta phải trả giá thôi con.

Thương con! Nấm – Gấu!

Nhân quyền không phải giá trị riêng của Mỹ Bởi AdminTD – 10/11/2017 Tweet Share 0 +1 Pinterest 0 Email FB Trịnh Kim Tiến 10-11-2017 Bởi vì lịch sử hình…
BAOTIENGDAN.COM
 

Cuốn sách kỳ diệu có thể ‘lọc nước’ và làm thay đổi số phận 600 triệu người châu Phi

Cuốn sách kỳ diệu có thể ‘lọc nước’ và làm thay đổi số phận 600 triệu người châu Phi

Giá trị của sáng tạo không chỉ là mới mẻ mà còn là những món quà ý nghĩa gửi đến những người cần giúp đỡ. Theresa Dankovic là một Tiến sĩ Hóa học, là người đã phát mình ra cuốn sách mang tên Drinkable Book – Sách có thể uống, một cuốn sách đã thay đổi số phận cho hơn 600 triệu người.

Sau chuyến công tác đến châu Phi, vì quá kinh ngạc và đau lòng trước cảnh nhiều em nhỏ phải uống nước bẩn và không đảm bảo vệ sinh, Theresa đã ấp ủ trong mình giấc mơ mang nguồn nước sạch đến cho những người dân nghèo khó.

Chính những điều đó đã thôi thúc Theresa sáng tạo, mặc dù là một tiến sĩ hóa học tài năng, nhưng cô không bị kiến thức khô cứng tách rời cuộc sống. Cô bắt đầu đem những kiến thức mình học được ứng dụng vào đời sống thực tế của người dân.

Tại châu Phi, nguồn nước sạch được xem là một vấn nạn nghiêm trọng, đây cũng chính là nguyên nhân đang khiến cho rất nhiều dịch bệnh xảy ra khắp nơi khi không có đủ nguồn nước sinh hoạt, nhất là những quốc gia đang phát triển.

Trở về từ chuyến đi, Theresa làm việc miệt mài trong phòng thí nghiệm trong suốt 8 năm với hy vọng tìm ra giải pháp cải thiện nguồn nước sạch. Những cố gắng không mỏi mệt ấy đã đem đến cho cô một kết quả thật sự ngoài sức tưởng tượng. Đó là ion nano bạc có tác dụng diệt khuẩn cực hiệu quả! Theresa nảy ra ý tưởng dùng ion bạc nano bỏ vào nguyên liệu làm giấy, nhằm tạo ra loại giấy có độ lọc khuẩn. Trong nhiều tháng, cô làm việc miệt mài tại phòng thí nghiệm, tiến hành hàng ngàn lần kiểm tra. Và cô đã thành công.

Kết quả nghiên cứu, loại giấy này có thể loại bỏ 99% vi khuẩn trong nước, giúp nguồn nước uống sạch hơn tiêu chuẩn nước sạch của Mỹ. Cuốn sách Drinkable Book đã được xuất bản thành công và được đánh giá là một trong 25 thiết kế tốt nhất năm 2015 do tạp chí Time bình chọn.

Mỗi cuốn sách đều có ghi dòng chữ ấm áp: “Nguồn nước ở nông thôn ẩn chứa nhiều loại vi khuẩn gây chết người. Tuy nhiên, những tờ giấy trong cuốn sách này đều là giấy lọc nước, đảm bảo an toàn cho người uống”.

Điều tuyệt vời bên trong cuốn sách đó là nó được thiết kế rất tiện lợi, mỗi khi dùng chỉ cần mở hộp và đóng hộp, lấy ra tờ giấy và đổ nước vào lọc, nước bẩn sẽ trở thành nước sạch. Một trang sách nhỏ có thể lọc được 100 lít nước. Mỗi cuốn có thể dùng lọc nước uống cho 1 người trong 4 năm.

Cô ngay lập tức đem theo loại giấy mới mà mình vừa nghiên cứu này đi đến Nam Phi, Kenya, Haiti, Ấn Độ và các nước khác để làm thử nghiệm với 25 loại nước bị ô nhiễm nặng.

Theresa chia sẻ sáng kiến hữu dụng của mình với người dân địa phương và hướng dẫn họ cách dùng thử. Sự hài lòng của mọi người đã làm cô cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Điều này cũng đem đến cho cô điều ngạc nhiên thú vị. Cô thật sự hạnh phúc khi nghĩ đến trẻ em ở châu Phi sẽ không phải uống nguồn nước màu đen nữa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong quá trình trò chuyện khi làm việc cùng mọi người cô phát hiện rằng: “Điều đáng sợ nhất không phải là nguồn nước bị ô nhiễm mà là ý thức về uống nước sạch của người dân địa phương”.

Thành quả này giúp cô nhận ra sáng tạo và đam mê cộng hưởng cùng lòng thương mới mang đến niềm hạnh phúc thật sự. Niềm hạnh phúc khi biết rằng mình có thể bằng công sức và năng lực của mình để đem niềm vui đến cho nhiều người.

Một người có đầu óc sáng tạo là người biết kết nối vấn đề và mọi thứ trở nên rõ ràng hơn theo thời gian. Đó là bởi vì họ có thể kết nối những kinh nghiệm mình có và tổng hợp thành những thứ mới. Lý do khiến họ có thể làm điều đó là họ có nhiều kinh nghiệm hơn hoặc họ đã suy nghĩ nhiều về kinh nghiệm của mình hơn người khác.

Mỗi người chúng ta ai cũng có một sợi dây vô hình nào đó tự buộc lại những sáng tạo của bản thân mình, chúng sẽ ngăn cản và phá hủy đi nhiều cơ hội mới. Và nếu thế mãi mãi bạn sẽ ở trong cái khung cũ kỹ của cuộc đời mình. Bạn nhớ rằng, trên đường đua sáng tạo hay nghệ thuật, điều kỳ diệu chỉ thực sự xuất hiện khi bạn nắm bắt cơ hội, sẵn sàng cho mình thật nhiều trải nghiệm mới.

 Gia Viên – Hồng Tâm 

Lãnh đạo nào muốn có thêm vợ bé để quản lý tài sản tham nhũng?

Lãnh đạo nào muốn có thêm vợ bé để quản lý tài sản tham nhũng?

Hương Khê (Danlambao) – Sáng 9/11/2017, Quốc hội có phiên thảo luận tại hội trường về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Đại biểu Trần Thị Quốc Khánh (đoàn Hà Nội) nói: “Các báo cáo đánh giá đúng mức những kết quả hạn chế, thực trạng thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới”.

Tuy nhiên, đại biểu Trần Thị Quốc Khánh cho rằng, báo cáo của Chính phủ chưa phản ánh hết những kết quả mà Chính phủ và các Bộ, ngành, đội ngũ nam giới đã và đang chăm lo đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ trên các lĩnh vực.

“Trong thực tế thời gian vừa qua dư luận, báo chí, cử tri rất băn khoăn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, kể cả những người đứng đầu cấp ủy đảng các địa phương có biểu hiện “quan tâm” đến phái nữ vì muốn có thêm vợ bé, hay bồ nhí để quản lý khối tài sản khổng lồ do tham nhũng mà có. Thế nên họ chỉ đạo cấp dưới đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm “siêu tốc” vào vị trí lãnh đạo ở địa phương. “Không cần nói ra thì tất cả chúng ta đều biết”…

“Nếu Chính phủ, Quốc hội không quan tâm thấu đáo, cấp ủy, chính quyền địa phương không xử lý nghiêm minh thì sẽ trở thành tiền lệ rất nguy hiểm, vi phạm pháp luật, coi thường phụ nữ, coi phụ nữ chỉ để đáp ứng những dục vọng tầm thường của mình”….

“Vấn đề này tạo ra lối sống thiếu lành mạnh trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý dẫn đến sự bất an lo lắng cho chính chị em, gây bất bình cho xã hội”…

“Ví dụ như trường hợp ở Thanh Hóa đến bây giờ chúng tôi cũng không biết cô gái trẻ đấy đã đi đâu?” (1)

Sau khi bài phát biểu của ĐBQH Trần Thị Quốc Khánh được một số báo lề đảng đăng tải, dư luận đã được một phen bàn tán xông xao.

Đa số ý kiến đều cho rằng, với câu nói: “Không cần nói ra thì tất cả chúng ta đều biết”, và kết hợp với câu cuối: “Ví dụ như trường hợp ở Thanh Hóa đến bây giờ chúng tôi cũng không biết cô gái trẻ đấy đã đi đâu?,” thì đúng là một ý kiến rất nặng ký, làm cho rất nhiều quan chức tại hội trường “có tật giật mình”.

Nếu như TBT Nguyễn Phú Trọng lúc này có mặt tại hội trường, và da mặt không quá dày, thì sau khi nghe câu nói này của bà Trần thị Quốc Khánh, chắc ông ấy sẽ bị hoa mắt ù tai và xây xẩm mặt mày.

Bởi vì đã hơn một năm nay, kể từ khi báo chí lề đảng đồng loạt phanh phui vụ bổ nhiệm thần tốc cô Trần Vũ Quỳnh Anh, từ một chân tạp vụ, chỉ sau một thời gian ngắn, đã thăng tiến một cách thần kỳ như “cá vượt Vũ Môn”.

Từ một người chỉ có bằng Cao đẳng Công nghệ Thông tin, được nhận vào làm chân Tạp vụ năm 2008, chỉ sau 7 năm, cô này đã có những “bước tiến vĩ đại” trên con đường “quan lộ” của mình. Chẳng những là được bổ nhiệm các chức vụ quan trọng không qua thi tuyển và không minh bạch, không đúng chuyên ngành được đào tạo, mà cô này còn được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ của Sở Xây dưng.

Chỉ trong thời gian ngắn, vừa đi học vừa nghỉ sinh, mới ngồi vào chức Trưởng phòng Phòng Quản lý nhà và Thị trường bất động sản, Trần Vũ Quỳnh Anh đã được Sở Xây dựng tỉnh Thanh Hóa cử đi học lớp Cao cấp Lý luận Chính trị. Sau đó, được tỉnh Thanh Hóa làm quy trình để bổ nhiệm Phó Giám đốc sở này.

Từ năm 2010 đến 2016, là lúc ông Trịnh Văn Chiến làm Chủ tịch và Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa đến nay, cô Quỳnh Anh đã sử dụng một tài sản khủng lên đến hàng chục triệu đôla. Ngoài việc cô này sử dụng xe sang tiền tỷ, mà còn có mấy tòa ngang dãy dọc tại những khu đất vàng của TP Thanh Hóa, mặc dù cô này xuất thân trong một gia đình hoàn cảnh kinh tế rất bình thường.

Tháng 9/2016, khi báo chí đồng loạt đưa tin về vụ việc liên quan đến mình thì Trần Vũ Quỳnh Anh bất ngờ nộp đơn xin thôi việc và rời khỏi Việt Nam rất lẹ. Điều bất thường đầu tiên là chỉ ba ngày sau có đơn, Giám đốc Sở Xây dựng Đào Vũ Việt tức tốc ký quyết định cho Quỳnh Anh thôi việc. Song Sở này cũng không thèm báo cáo Sở Nội vụ (theo nguyên tắc xử lý thông thường) và không hề thông báo cho cán bộ, công chức trong cơ quan… Điều bất thường thứ hai nữa, đó là việc cùng với đơn xin thôi việc thì tập hồ sơ công chức gốc của bà Quỳnh Anh cũng đồng thời không cánh mà bay.(2)

Việc cô Quỳnh Anh chẳng những được bổ nhiệm một cách thần tốc, bỏ việc cũng thần tốc, ôm con nhảy ra nước ngoài cũng thần tốc, và mất hồ sơ gốc cũng rất thần tốc… Chứng tỏ các công đoạn này đã được tính toán và thực hiện “rất đúng quy trình”. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là hiện tượng “tẩu tán tổ chức”; “tẩu tán nhân sự”. Vậy là những quan tham thời nhà sản, khi bị rung rinh, thì không những là tẩu tán tài sản, mà còn tìm cách tẩu tán cả các cô “ bồ nhí” để mất dấu tích. Đó cũng là một cách “chùi mép” đúng quy trình.

Trước sức ép của búa rìu của dư luận xung quanh vụ bổ nhiệm thần tốc này, và ý kiến của nhiều vị lão thành cách mạng của tỉnh Thanh Hóa, đề nghi UBKTTƯ vào cuộc để cho khách quan và trung thực, thì vào ngày 29/ 9/2017, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã họp và kỷ luật vụ bổ nhiệm thần tốc này.

“Cuộc họp đã bỏ phiếu, thống nhất hình thức kỷ luật “khiển trách” đối với ông Ngô Văn Tuấn – Phó Chủ tịch UBND tỉnh, nguyên Giám đốc Sở Xây dựng Thanh Hoá (nhiệm kỳ 2010-2015) là do để xảy ra sai phạm trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm đối với bà Trần Vũ Quỳnh Anh – nguyên Trưởng phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản thuộc Sở Xây dựng một cách bất thường thời gian ông làm Giám đốc”.(3)

Như vậy là đã có một con dê được đem ra tế thần.

Nói cho nó vuông, thì việc ông Ngô Văn Tuấn dù có bị kỷ luật với hình thức khiển trách, hay thậm chí là cảnh cáo và cách chức đi nữa, thì cũng không oan. Vì ông này dù sao cũng đã “no xôi chán chè” với người đẹp Quỳnh Anh một thời gian rồi. Sau đó mới “dâng” cô này cho ông Chủ tịch Trịnh Văn Chiến như một món quà bằng hiện vật, để làm bàn đạp tiến thân. Đồng thời để ngài Chủ tịch có người săn sóc và thư giãn sau những lúc bận rộn công việc vì lo cho đời sống của nhân dân xứ Thanh.

Điều đáng nói và cũng thật đáng mỉa mai là, ông Nguyễn Phú Trọng đã ra sức hô hào cổ vũ cho chiến dịch đốt lò của mình, với những câu tuyên bố rất hùng hồn: “Lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy”.

“Sáng 31/7/2017, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng tổ chức phiên họp thứ 12 dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Trưởng Ban chỉ đạo, để thảo luận cho ý kiến về tiến độ, kết quả thực hiện chương trình công tác của Ban chỉ đạo 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2017.

Đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng thời gian qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã trở thành phong trào, xu thế của cả xã hội. 

Khi tiếp xúc cử tri, tôi hay nói: Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công”.(4)

Không biết loại lò của ông Trọng là lò gạch hay lò gì, mà trong quá trình đưa củi vào đốt lại có sự lựa chọn? Và phải chăng thành tích cuối cùng của ông Trọng trong chiến dịch này chỉ là diệt được con chuột nhắt Nguyễn Xuân Anh mà thôi. Còn những loại củi tươi như Trịnh Văn Chiến, Võ Kim Cự, Huỳnh Đức Thơ, Đinh La Thăng, Nguyễn Thị Kim Tiến v.v… vì là “phe ta”, đã biết “lấy của che thân”, nên ông Trọng không dám sờ tới? Chỉ có Nguyễn Xuân Anh là ngây thơ và “lấy thân che của” nên mới mang họa.

Trong một quốc gia độc tài như Việt Nam, việc chống tham nhũng chỉ là sự đấu đá nội bộ và tranh giành quyền lực của các bè phái, hất cẳng lẫn nhau để thâu tóm lợi ích, mà đằng sau đó là những mối lợi kếch sù đem về cho phe nhóm của mình.

Và khi đã vơ vét đấy túi rồi, thì phải tìm mọi cách cất giấu bằng nhiều hình thức.

Chỉ có những loại ngạo mạn và ngáo đá như Phạm Sĩ Quý mới bày ra để khoe khoang cái tài vơ vét của mình. Vì vậy nên đã làm cho bà chị Phạm Thị Thanh Trà phải chạy ngược chạy xuôi như con thoi, gặp gỡ năn nỉ hết ông này đến ông khác, và tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, để dàn xếp cho êm chuyện.

Vì vậy, với câu nói của bà ĐBQH Trần Thị Quốc Khánh rằng: “Một số lãnh đạo muốn có thêm “vợ bé” để quản lý tài sản tham nhũng”, thì như một mũi tên đã bắn trúng tim đen không những vào ông Nguyễn Phú Trọng, mà vào hầu hết giới lãnh đạo ĐCSVN hiện nay.

Hương Khê

danlambaovn.blogspot.com

__________________________________

Chú thích:

(1) http://vov.vn/chinh-tri/quoc-hoi/mot-so-lanh-dao-muon-co-them-vo-be-de-quan-ly-tai-san-tham-nhung-693487.vov

(2) https://thanhnien.vn/toi-viet/cui-am-thanh-hoa-dang-gay-khoi-881816.html

(3) https://www.baomoi.com/pct-tinh-thanh-hoa-bi-bo-phieu-ky-luat-vi-vu-bo-nhiem-than-toc/c/23412915.epi

(4) http://vov.vn/chinh-tri/dang/tong-bi-thu-lo-nong-len-roi-thi-cui-tuoi-vao-cung-phai-chay-653960.vov

Áo yếm tiếp APEC để “khoe” nét truyền thống?

Áo yếm tiếp APEC để “khoe” nét truyền thống?

2017-11-09
 
 
 

Nữ phục vụ mặc áo yếm tại đại tiệc APEC hôm 6/11/2017.

Nữ phục vụ mặc áo yếm tại đại tiệc APEC hôm 6/11/2017.

 Vietnamnet

Trên các trang mạng xã hội, mọi người truyền tay nhau những tấm hình các cô gái trẻ măng, mặc trang phục áo yếm của phụ nữ Việt Nam xưa, hở nguyên phần vai và nửa lưng. Những cô gái này đang cầm khay đồ ăn phục vụ gần 300 đại biểu từ các nền kinh tế APEC, sau khi kết thúc kỳ họp 4 Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC- ABAC và tối ngày 6/11 vừa qua.

Áo yếm là một thứ trang phục nội y không thể thiếu của phụ nữ Việt Nam xưa, được lịch sử ghi chép là bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam vào thời nhà Lý (thế kỷ 12). Yếm là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, được dùng để che ngực. Áo yếm ngày xưa là một trang phục nội y được sử dụng rộng rãi, không chỉ ở chốn cung đình cao sang, quý phái mà cả những người nông dân gắn bó với chiếc áo tứ thân cũng rất “ưa chuộng”.

Nhà văn Thùy Linh, một người quan tâm và am hiểu lĩnh vực xã hội, văn hóa của Việt Nam nói rằng việc Việt Nam cho lễ tân mặc trang phục áo yếm để tiếp khách ngoại giao là một sự “lố bịch”:

Mình rất không hài lòng về điều đó, bởi vì cái yếm của các cụ ngày xưa nó thay cho cái áo ngực thường các cụ mặc bên trong. Còn ở nông thôn, khi những người đàn bà cho con bú để đứa trẻ dễ tiếp cận với ngực của mẹ. Cho nên những kiểu mặc đó rất suồng sã.

Mình không hiểu một bữa tiệc để đãi các nguyên thủ quốc gia đến Việt Nam mà lại mặc áo yếm đó, không hiểu xuất phát từ ý nghĩ gì. Mình thấy nó hơi kỳ quặc.

Đêm đại tiệc được tổ chức tại Furama Resort Đà Nẵng do Sovico Holdings và Ngân hàng HD Bank tài trợ. Đại diện của khu resort nói rằng đã chuẩn bị cho sự kiện này trong vòng 3 năm, với ý nghĩa chính là giới thiệu văn hóa dân gian Việt Nam khi tái hiện cuộc sống 4 mùa tại các vùng miền khác nhau.

Tuy nhiên, nhà văn Thùy Linh lại cho rằng việc lựa chọn áo yếm để khoe nét truyền thống của Việt Nam trong một sự kiện lớn như vậy là không phù hợp.

Truyền thống thì có nhiều cấp độ lắm. Váy đùm cũng là truyền thống mà. Sao không cho các cô ấy mặc váy đùm và áo yếm đi tiếp? Mình nghĩ bây giờ cho mình mặc cái yếm đó ra ngoài đường chắc mình cũng không dám mặc. Hay mặc ở nhà để tiếp bạn mình cũng không dám mặc chứ đừng nói mang ra mặc trước mặt các quốc gia khác.

Trong một quốc tiệc, thì nó không mang tính chất nghi lễ, không trang trọng, không thể hiện một sự lịch lãm tối thiểu với một tư cách quốc gia.
– Nhà văn Thùy Linh

Chúng tôi cũng trò chuyện với chị Tâm, một người dân sống ở Sài Gòn về vấn đề này. Chị Tâm chẳng ngần ngại so sánh những hình ảnh lễ tân phục vụ APEC không khác nào những cô gái trong các quán bar:

Tôi cũng thấy như vậy không phù hợp khi tiếp khách quốc tế. Mình phải ăn vận như thế nào cho lịch sự để khi mình tiếp khách cho kín đáo. Khi mình tiếp khách mà ăn mặc lố lăng quá thì không khác nào những chỗ như quán bar. Ăn vận như vậy mà gọi là truyền thống thì không phù hợp cho lắm. Ăn mặc như vậy sẽ làm mất hình ảnh người Việt Nam.

Trên các trang mạng, chúng tôi ghi nhận nhiều bình luận dưới những tấm hình các cô gái áo yếm tiếp khách quốc tế. Hầu như mọi bình luận đều chỉ trích cách ăn mặc không phù hợp của nước chủ nhà Việt Nam. Một bài viết của tác giả Nguyễn Phan Khiêm nhận định rằng: Với các suy nghĩ nông dân của tôi thì các cụ xưa tuyệt không mặc thế khi có người lạ, chưa kể khi ra đường hay nhà có khách các cụ luôn mặc áo dài. Yếm chỉ khi rất nóng nực người ta mới mặc trong nhà, tương tự đàn ông bây giờ mặc may ô. Cho nên, vị nào tham mưu cho gái trẻ mặc yếm ra tiếp quốc khách thì nên cho nghỉ để tìm tham mưu khác. Việt Nam tự hào là nước có văn hiến nên không thể không mặc đẹp một cách nền nã, sang trọng để đón khách quí.

Chính trang phục được chọn để tiếp đãi khách quý lại là trang phục từng bị báo chí Việt Nam lên án nhiều lần, chẳng hạn như bài viết “Đỏ mặt vì mỹ nhân hững hờ áo yếm” trên báo Lao Động hay “Người đẹp Việt gây phản cảm khi mặc áo yếm quá sexy” trên Báo Mới,…

Câu hỏi được đặt ra đó là những cô gái mặc áo yếm trong những bài báo này đã bị chỉ trích phần nào tự làm mất hình ảnh người phụ nữ Việt Nam “công, dung, ngôn, hạnh”. Vậy thì, liệu Việt Nam có tự làm mất hình ảnh của mình khi để lễ tân mặc yếm tiếp khách hay không?

Chúng tôi nêu câu hỏi này với nhà văn Thùy Linh và bà cho biết:

Mình không nghĩ đến mức mất hình ảnh, bởi vì người ta cũng không thể đánh giá Việt Nam qua một cái áo yếm. Thế nhưng trong một quốc tiệc, thì nó không mang tính chất nghi lễ, không trang trọng, không thể hiện một sự lịch lãm tối thiểu với một tư cách quốc gia trong khi tiếp đón các quốc gia khác.

aoyem1
Hình ảnh những nữ lễ tân mặc áo yếm bê khay đồ ăn tiếp khách APEC.Courtesy of Vietnamnet


Chúng tôi tiếp tục nêu vấn đề với Nhà xã hội học, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, bà cũng không đồng tình với cách ăn mặc như vậy trong một sự kiện lớn của quốc gia:

Tôi nghĩ là trong xã hội Việt Nam bây giờ, một người bình thường cũng thừa hiểu cần mặc trang phục lịch sự ở một sự kiện cần thiết nào đó ví dụ như giỗ tết, hay cưới hỏi, mọi người đều biết ăn mặc như thế nào cho lịch sự.

Người bình thường cũng biết điều đó, huống chi một quốc gia thì người ta cũng phải thừa hiểu. Trong tường hợp này tôi cũng không hiểu vì sao người ta lại quyết định như vậy.

Tôi nghĩ là trong xã hội Việt Nam bây giờ, một người bình thường cũng thừa hiểu cần mặc trang phục lịch sự ở một sự kiện cần thiết nào đó.
– TS. Phạm Quỳnh Hương

Vấn đề giới trẻ Việt Nam đua theo trào lưu ăn mặc hở hang được nêu trên các phương tiện truyền thông thường xuyên. Việt Nam hiện tại cũng có những quy tắc và điều luật cấm ăn mặc hở hang phản cảm đối với nghệ sĩ hay nơi công cộng.

Nhà văn Thùy Linh nói rằng có vẻ như Nhà nước đang muốn “cách tân hóa” và học theo trào lưu của giới trẻ hiện tại. Tuy nhiên bà cho rằng sự áp dụng không đúng lúc đúng chỗ đã biến tính sáng tạo thành một điều “điên rồ” trước mắt khách quan.

Sau những lời bán tán, chỉ trích của cư dân mạng, người ta hỏi nhau rằng liệu trong những ngày APEC sắp tới có lặp lại hình ảnh những cô thiếu nữ hở vai, lưng trần tiếp khách nữa hay không?

RFA đã liên hệ với ban tổ chức APEC 2017 để hỏi về nguyên nhân vì sao lựa chọn trang phục áo yếm cho đêm đại tiệc hôm 6/11 vừa qua, nhưng không nhận được hồi đáp.

Sáu bài học từ Mẹ Têrêxa mà bạn có thể áp dụng trong cuộc sống

Sáu bài học từ Mẹ Têrêxa mà bạn có thể áp dụng trong cuộc sống

 

Sáu bài học từ Mẹ Têrêxa mà bạn có thể áp dụng trong cuộc sống

Mẹ Têrêxa chào đời ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại Albania. Từ khi là con Chúa, Mẹ lúc nào cũng tràn ngập niềm vui hướng về các linh hồn. Mới 18 tuổi Mẹ nhanh chóng trở nên nữ tu thánh thiện trong nhà Dòng Lorento ở Ái Nhĩ Lan.

1- Khiêm tốn

 

 

 

 

 

 

 

 

Chúng ta có thể thực hành bài học này bằng cách: Nói về mình ít nhất có thể. Lo công việc của mình. Tránh tò mò. Chấp nhận các nghịch lý và vui vẻ sửa đổi. Bỏ lơ các sai lầm của người khác. Chấp nhận bị tổn thương, bị chế giễu. Chấp nhận bị khinh, bị ghét, bị quên. Hiền lành và dễ thương dù bị khiêu khích. Không làm hại nhân cách của ai. Luôn chọn làm điều khó nhất.

Nếu bạn khiêm tốn thì không có gì có thể đụng đến bạn được, khen cũng như chê, vì bạn biết bạn là ai.

2 – Làm ngang sức của mình

Sống đơn giản để người khác cũng có thể sống đơn giản.

Chúng ta có cảm nhận những gì mình làm chỉ là một giọt nước trong lòng đại dương. Nhưng đại dương sẽ khác đi vì có giọt nước này.

Tôi làm những chuyện mà bạn không thể làm, bạn làm những chuyện mà tôi không thể làm, cùng nhau, chúng ta có thể làm những chuyện cao lớn
3 – Đừng xem tất cả là nghiêm trọng

Con người thường phi lý, mất lý trí, ích kỷ chỉ nghĩ về mình. Dù vậy cứ thương họ!

4 – Đừng nhấn mạnh đến lỗi lầm của người khác

Tình yêu mãnh liệt không đo đếm. Là nhưng không.

Tôi khám phá một nghịch lý. Nếu bạn yêu cho đến đau đớn thì không còn đau đớn, chỉ còn tình yêu.

Đôi khi chúng ta nghĩ nghèo là không có ăn, không có mặc, không nhà ở. Cái nghèo lớn nhất là bị bỏ rơi, không được yêu, không được chăm sóc. Chúng ta phải bắt đầu sửa loại nghèo này trong chính nhà mình.

5- Luôn lịch sự dù ở trong tình trạng nào

Khi gặp nhau luôn có nụ cười, nụ cười là khởi đầu của tình yêu.


Cho vợ chồng, cho con cái mình, cho người láng giềng tình yêu… Đừng bao giờ để ai đến với mình mà khi họ ra họ không tốt hơn, không hạnh phúc hơn.

Nếu bạn phán xét người khác, bạn không có thì giờ để thương họ.

Một đời sống không sống vì người khác không phải là một đời sống.

6 – Chọn con đường khó nhất

Đừng hài lòng chỉ đơn giản cho tiền. Tiền không đủ, tiền là của cải mình có thể làm ra, nhưng tình yêu phải được nhận như một món quà. Hãy tỏa lan tình yêu nơi nào bạn đi qua.

Đừng chờ ở các người điều khiển, cứ làm một mình, từ người này qua người kia.

Trung tín trong từng việc nhỏ, vì sức mạnh của bạn ở trong chính những việc nhỏ này.

Đụng đến người gần chết, người nghèo, những người ở một mình, những người không ai mong muốn tùy theo ơn mình nhận, đừng bao giờ ngần ngại hoặc chậm chạp khi làm công việc khiêm tốn này.

Marta An Nguyễn chuyển dịch

Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,

Suy Tư Tin Mừng tuần 32 thường niên năm A 12/11/2017

Tin Mừng (Mt 25: 1-13)

 Bấy giờ, Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho các môn đệ nghe: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

 *    *     *

“Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,”

“Thì xin em đừng tìm đến với nhau.”

(dẫn từ thơ Phạm Ngọc)

 Tìm đến nhau, là để mang lại hạnh phúc, cho nhau. Đó là sự thật. Nhưng, sao nhà thơ lại nói: xin em hãy đừng tìm! Tìm hay không, vẫn là chuyện khôn chứ đâu là dại. Khôn dại/dại khôn, thánh sử nhà Đạo xưa nay vẫn giải khuyên qua dụ ngôn truyện trình thuật có cân nhắc, ngợi khen, tung hô.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay, cũng ngợi khen/tung hô việc của Chúa, bằng nhiều cách. Cách dễ nhận nhất, là dụ ngôn. Dụ ngôn hôm nay thánh sử đặc biệt kể về các cô phù dâu khôn ngoan đáng cho mọi người nhận biết mà phân biệt dại với khôn. Khôn/dại, ở vào tình huống đợi chờ chàng rể tới, không biết trước. Vì, chàng rể đến bất chợt nên nhiều phù dâu chưng hửng, những vãn than về cảnh đột ngột, khó đoán trước.

Thời Chúa sống, đám cưới là sự kiện lớn trong sinh hoạt làng xã, mỗi một ngày. Sự kiện lớn đến độ người người trong làng đều quan tâm, muốn tham dự. Tiệc tùng lớn, có khi kéo dài nhiều ngày cả tuần lễ và còn tổ chức vui chơi đình đám suốt ngày đêm. Về phù dâu ở dụ ngôn, các cô đều là thôn nữ trẻ phần đông có quan hệ với nhà đám; tức, những người có vai vế quan trọng trong nghi thức tiệc rượu vui chơi, múa hát. Có phù dâu dự cưới, là có dễ vui và chắc chắn tiệc sẽ đạt.

Dụ ngôn, nay kể rằng chú rể đến khá trễ. Đây, là trường hợp rất phá lệ. Thường, thì chú rể nào cũng hăng hái tìm đến với ngày cưới. Vì cứ đinh ninh là phải đợi lâu, nên cánh phù dâu nhà ta mới thiếp đi và ngủ cả. Ngủ nghỉ, tuy thực chất không là vấn đề với đám cưới. Bởi, nhiều người có thể thức trắng đêm, cũng chẳng cần ngủ. Và, các phù dâu còn có thể thức giấc vào bất cứ lúc nào, khi chàng rể chợt đến. Nếu chàng đến vào nửa đêm -thường thì ít khi là thế- tất cả đều cần đèn đóm, ánh sáng, nên rất muốn có dầu để đốt sáng. Muốn vậy, phù dâu phải chuẩn bị cho đủ, để khỏi lỡ mất cơ hội. Bởi, nếu không biết cách mà chuẩn bị, phù dâu ta phải bổ đi lùng tìm cho bằng được dầu đốt để thắp đèn, còn gì là vui nữa.

Dụ ngôn, nay cũng kể về hai nhóm phù dâu. Một, luôn đề cao cảnh giác. Còn nhóm kia, chẳng chuẩn bị hoặc quan tâm gì đến đèn đóm. Dụ ngôn hôm nay, thoạt nghe có vẻ hơi mù mờ. Đọc kỹ, hẳn có người sẽ tự hỏi: làm sao nhóm phù dâu khôn lanh kia, lại không chỉ cách cho nhóm khờ dại biết sớm hơn, để cả hai cùng nhau chuẩn bị cho chu đáo. Tại sao nhóm khù khờ dù có dại cách mấy cũng phải biết cử một hai người đi lùng tìm dầu, chứ sao lại phải đi cả nhóm? Phải chăng, ngay lúc đó đã có căng thẳng, vì chú rể đã mướn toàn bộ số phù dâu để đạt hiệu quả tối đa cho tiệc cưới, nên toàn bộ nhóm phù dâu có thể hụt trọn cả lễ cưới? Nói tóm lại, hốt hoảng ở trường hợp nào cũng thế, thường lấy đi sự suy xét bình thường rất cần thiết của con người.

Sự thật mà nói, ở đời thường người khờ khạo thường là những người luôn chịu thua thiệt. Nên, dễ bị người khác chèn ép coi nhẹ như người không biết gì. Chí ít, là chuyện đạo đức, luân lý, rất trí thức. Chuyện dụ ngôn về người khờ khạo và khôn ngoan có thể áp dụng vào mọi người nói chung. Nói chung, là nói về những người không làm gì nên chuyện, hoặc cho ra hồn, nhưng vẫn muốn đạt lương tiền hậu hĩ, giống “mì ăn liền”. Như người đi tìm việc được gọi đi phỏng vấn, lại cứ khăng khăng theo ý mình đội mũ ngược ngạo, chẳng giống ai. Cũng tựa như đám học trò chẳng chịu học nhưng lại cứ muốn đậu cao, có đủ bằng cấp, nhưng thực chất lại ngu dốt. Như đôi uyên ương nọ chỉ biết lấy nhau để gần nhau mà ăn ở cho vui sướng, chẳng lo gì chuyện tương lại mai ngày, để có con.

Dụ ngôn, nay không chỉ kể, có thế. Nhưng thực sự, còn muốn diễn tả về tình hình Giáo hội mọi thời đang ở vào tình trạng của phù dâu. Chàng rể nói ở đây, là Đức Kitô. Việc “chàng rể đến chậm” là ý nói về ngày quang lâm Chúa lại đến cũng chầm chậm, theo quan niệm của cộng đoàn Hội thánh lúc ban đầu. Dụ ngôn đây, là: truyện dài cốt để kể lại sử hạnh Hội thánh thời ban sơ. Về tiêu chuẩn Chúa phán xét định đoạt về Giáo hội vào ngày Ngài đến lại.

Hình ảnh làm nền ở dụ ngôn hôm nay, là về dầu đốt. Nghe về dầu để đốt, hẳn có người sẽ nghĩ về niềm tin đốt cháy. Tức, lòng siêng chăm, sùng đạo. Về cung cách quản, tài lãnh đạo, hoặc: lòng độ lượng, thứ tha, đùm bọc, rất phục vụ, hoặc những chuyện như thế. Cũng may, là trình thuật hôm nay thực ra chẳng đề cập gì về những chuyện như thế. Vậy thì, về vấn đề gì?

Đoạn cuối trình thuật có nói:“Cửa đóng lại.” Và chàng rể đây, là Đức Giêsu lại muốn bảo: “Ta không biết các người.” Không biết ở đây, là không được Ngài biết đến. Không biết, là: không biết theo cách riêng tư như quan hệ bạn bè, chỗ thân quen. Không biết đến, chẳng phải là: ta không biết đến Ngài. Mà là: Ngài không hề biết ta. “Không biết đến ta”, tức hỏi rằng: không biết Chúa có còn đoái hoài đến ta hoặc mọi người? Phải chăng Ngài vẫn coi ta như dân con của Ngài? “Không biết đến ta”, còn có nghĩa là: ta có làm những việc “đáng làm” như Ngài, không? Đó, là những vấn đề đích thực đặt ra cho những ai tự gọi mình là Kitô- hữu. Tức Kitô khác.

Được Chúa biết, theo cách thế tự do như bạn bè người thân của riêng Ngài. Được Chúa biết, cũng đòi ta phải có cung cách xử thế như dân con được Ngài quang lâm đến lại. Được Chúa biết, là biết vào khoảnh khắc như Ngài từng loan báo vào thời trước. Được Chúa biết, còn diễn tả việc Chúa am tường mọi hành xử của Hội thánh trong quá khứ, hiện tại và mai ngày. Nói tóm lại, câu Chúa nói “Ta không biết các ngươi”, có nghĩa Chúa đã nhận ra được những việc làm “thật không phải”. Không thực tâm làm, như lời Ngài khuyên dạy.

Khi ta làm việc gì tốt lành, chắc chắn Chúa sẽ cảm kích, phấn chấn và cũng ngạc nhiên. Ngài sẽ đưa ta vào với nhóm hội của muôn người ở thế giới, để Ngài sẽ hiện diện trong ta, rất tự do, cởi mở. Và có như thế, ta mới nhận ra thiên đường hạnh phúc Ngài hứa ban bằng vào việc sử dụng sự tự do của chính mình.

Không nên hiểu câu nói của Chúa “Ta không biết các người.” như Chúa biết tất cả về đời ta qua lăng kính của vi tính, dù mọi sự đều hiện ra ở trên đó. Bởi, nếu như thế, chắc Chúa cũng sẽ buồn chán khi phải ngắm nhìn ta chuyển vận. Thật sự thì, Chúa không là Đấng chuyên kiểm soát vũ trụ vạn vật, theo cách đó. Ngài làĐức Chúa tự do, sống động và mật thiết với ta. Ngài cùng làm và cùng vui với ta trong muôn việc, ở đời.

Nếu so sánh Chúa với ta theo kiểu nghệ nhân đầy sinh lực, thì Chúa như nghệ sĩ bộ môn nhạc Jazz, chơi nhạc rất ngẫu hứng với ta, ở mọi thời. Ngài chấp nhận mọi hiểm nguy, cả khi ta tự do đối xử xem ra không ổn, như “người của Chúa”. Cả vào khi ta chơi nhạc Jazz mà lại chơi sai nốt trật nhịp. Ngài tuy biết, nhưng vẫn nhìn thoáng qua trong chốc lát, cứ để ta chơi tiếp. Nhưng, khi ta chơi nhạc đúng cách như người hành xử rất xứng hợp ở đời, thì Ngài sẽ cảm kích, biết ơn. Nói tóm lại, đó là cách thức để “biết đến ta” rất hay và rất thực như sự thực xảy đến trong cuộc đời của con người.

Nói theo kiểu dụ ngôn, thì chính đó là dầu đốt. Bởi thế nên, thể hiện tinh thần của trình thuật, là: sống thực. Sống, như mục đích ta sử dụng tự do của mình, để đem đến cho Chúa một thưởng lãm rất thực, để được Chúa nói ‘đã biết ta’. Đó, là thiệp mời. Là, tấm vé về dự tiệc cưới. Lễ hội của tự do. Giả như ta không làm thế, thì không thể gặp mặt chú rể cách đích thực như phù dâu có đèn mà không có dầu. Không làm được thế, chắc chắn rồi ra Ngài sẽ bảo: “Ta không hề biết các người”, như ngôn ngữ của trình thuật hôm nay.

Cuối cùng, có chuẩn bị chu đáo như thế không, mới là vấn đề. Vấn đề của ta và, mọi người. Trong tâm tình đó, cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa chợt hát, để cảm kích hát mãi: 

“Quỳnh chỉ nở về đêm trong giấc ngủ

Như tình yêu chỉ đẹp lúc ban đầu

Chẳng có gì tồn tại đến ngàn sau

Khi cơn mộng mù loà đêm dâng hiến”

(Phạm Ngọc – Với Quỳnh)

Với quỳnh, thì như thế. Thế còn với Chúa, chắc không hẳn thế. Bởi, Chúa là Tình Yêu, Ngài sẽ cứ tồn tại mãi đến muôn đời. Để, người người ngợi khen Ngài mãi khôn nguôi. Ngợi Tình Chúa. Khen tình người tồn tại mãi chốn thiên thu rất bất tận.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.