Lee & Man Việt Nam: thất bại mang bản chất hệ thống


Formosa và Lee & Man Việt Nam có sự tương đồng nào?
Formosa và Lee & Man Việt Nam có sự tương đồng nào?

Mấy ngày qua, một loạt tờ báo nhà nước đã loan tải thông tin về việc các hộ dân ở ấp Phú Xuân, thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang khẩn thiết kêu cứu vì tình trạng ô nhiễm nặng nề do Nhà máy Giấy Lee & Man Việt Nam gây ra.

Theo các nguồn tin, một hộ dân nằm cách nhà máy giấy Lee & Man khoảng 100 mét cho biết, thời gian gần đây, từ lúc chiều tối đến rạng sáng (6 giờ chiều đến 5 giờ sáng), phía bên nhà máy giấy lại xuất hiện 2-3 cột khói màu trắng đục, cao khoảng 5-10 mét, có mùi giống axít, rất khó chịu. Khi trời không gió, các cột khói bay thẳng lên bầu trời nên không ảnh hưởng đến người dân. Thế nhưng, mỗi khi có gió thổi theo hướng từ nhà máy qua khu dân cư, thì chỉ chừng 15-20 phút sau, làn da của bà con sinh sống gần nơi đây lại có cảm giác khô, căng như bị con gì châm chích.

Ngoài ra, một người dân khác ngụ ở ấp Phú Xuân thì phản ánh là gần đây, cứ vài ngày lại xuất hiện mùi hôi như mùi bồn cầu bùng lên từ khu vực gần các ống xả thải của nhà máy (bên bờ Sông Hậu).

Chưa hết, bên cạnh tình trạng mùi hôi là hiện tượng nước sông khu vực xung quanh nhà máy mà người dân bơm lên sử dụng, khi qua đêm thì xuất hiện tình trạng “nhớt nhớt” ở bề mặt vật dụng tiếp xúc với nước.

Đây không phải là lần đầu dự án đầy tai tiếng này thu hút sự chú ý của dư luận vì những vi phạm môi trường do họ gây ra.

Tháng 12/2016, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên – Môi trường) cho phép Công ty TNHH Lee & Man Việt Nam vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải dự án sản xuất giấy. Đến tháng 1/2017, việc vận hành thử nghiệm có tải của nhà máy tạm ngừng để thực hiện các yêu cầu theo kết luận thanh tra của Bộ TN-MT, trước khi vận hành thử nghiệm trở lại vào tháng 3/2017.

Tuy nhiên, khi nhà máy chỉ mới bắt đầu vận hành thử nghiệm trở lại, người dân sống gần nhà máy đã phải gửi đơn kêu cứu khắp nơi khi cuộc sống của họ bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do nhà máy gây ra.

Thực ra, không phải đến lúc này, mà ngay từ năm 2007, khi dự án mới được UBND tỉnh Hậu Giang trao giấy chứng nhận đầu tư, đã xuất hiện nhiều tiếng nói phản đối Lee & Man Việt Nam.

Đây là dự án của Tập đoàn Lee & Man Paper Manufacturing Limited đến từ Quảng Đông, Trung Quốc, với tổng mức đầu tư lên tới 1,2 tỷ USD và nằm trong số 5 nhà máy giấy lớn nhất trên thế giới. Tổng diện tích của nhà máy là 82,8ha, nằm trong Cụm Công nghiệp Phú Hữu A, thị trấn Mái Dầm. Tổng thầu xây dựng nhà máy là Công ty Cổ phần Kỹ thuật Hải Thành đến từ Thượng Hải, Trung Quốc.

Từ năm 2007, nhiều nhà quản lý môi trường, doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thuỷ sản tại Hậu Giang đã bày tỏ thái độ hết sức lo ngại về vấn đề ô nhiễm môi trường và nghi ngờ khả năng tạo vùng nguyên liệu cho nhà máy giấy của Lee & Man.

Theo văn bản số 1311/CV-SDR ngày 6/6/2007 của Cục Lâm nghiệp thì trong “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp giấy đến năm 2010” (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt) không quy hoạch xây dựng nhà máy giấy ở Hậu Giang. Ngay cả Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2010 – tầm nhìn 2020, cũng không quy hoạch vùng nguyên liệu giấy tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Về khả năng vùng nguyên liệu, Cục Lâm nghiệp khẳng định là “nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng trong khu vực chắc chắn chỉ đáp ứng được dưới 20% công suất nhà máy”.

Ngoài ra, Cục Lâm nghiệp còn tính toán là với công suất của nhà máy giấy, mỗi năm sẽ có đến 28.500 tấn xút được thải ra môi trường. Điều này vô cùng nguy hiểm, bởi nhà máy nằm ở vùng trũng nhất khu vực nên rất khó rửa trôi một khối lượng xút lớn như vậy. Nếu chúng bị đổ ra Sông Hậu rồi ra biển thì nguồn lợi thủy sản ở sông và biển ở phía Nam sẽ bị huỷ hoại, đồng thời ảnh hưởng rất lớn tới việc nuôi trồng thủy sản ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Chưa hết, 80% nguyên liệu nhập khẩu cũng ẩn chứa mối nguy hại tiềm tàng, bởi theo chủ đầu tư đó là giấy phế liệu; nghĩa là khu vực dự án sẽ trở thành nơi tiếp nhận phế thải của nước ngoài, nguy cơ ô nhiễm lại càng khó tránh khỏi.

Hậu Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung không phải là thị trường tiêu thụ của một nhà máy giấy có quy mô nằm trong tốp 5 thế giới. Nghĩa là, địa điểm dự án vừa không phải là vùng nguyên liệu lớn, vừa không phải là khu vực thị trường tiêu thụ chính, lại vừa đặc biệt nhạy cảm về môi trường (nghĩa là để đảm bảo được những yêu cầu ngặt nghèo về môi trường thì chi phí đầu tư sẽ rất cao, trong khi công nghệ của Lee & Man nói riêng và các doanh nghiệp Trung Quốc nói chung lại bị xếp vào loại lạc hậu).

Cần nên nhớ, địa điểm ngay bên bờ Sông Hậu là vị trí đặc biệt lợi hại về quân sự: chiếm lĩnh được vị trí xung yếu này là có thể kiểm soát được Sông Hậu, tuyến đường thuỷ huyết mạch nối liền Biển Đông đến biên giới Việt Nam – Campuchia.

Nguy cơ này lại càng đặc biệt nguy hiểm bởi Trung Quốc đã và đang nắm giữ Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải (xã Dân Thành, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, tức bên bờ Biển Đông) và Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu (thị trấn Mái Dầm, tỉnh Hậu Giang). Ba căn cứ liên hoàn này sẽ cho phép Bắc Kinh kiểm soát cả vùng biển phía nam Việt Nam lẫn Sông Hậu.

Đến tháng 6/2016, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) vẫn tiếp tục lên tiếng thông qua bản kiến nghị khẩn cấp gửi Quốc hội và Chính phủ, đề nghị chỉ đạo kiểm tra, rà soát công nghệ xử lý nước thải của dự án xây dựng nhà máy giấy của Công ty TNHH Giấy Lee & Man Việt Nam. Thậm chí đến ngày 6/8/2016, tờ Người Lao Động vẫn còn đăng bài “Sao không dừng Nhà máy Giấy Lee & Man?

Bất chấp mọi lời đề đạt, kiến nghị, cảnh báo, dù khẩn thiết đến đâu, nhà máy giấy Lee & Man Việt Nam vẫn cứ ra đời và sắp sửa đi vào hoạt động, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.

Suy cho cùng, giống như Formosa Hà Tĩnh hay hàng loạt thảm hoạ “made in China” khác trên khắp Việt Nam, thất bại mang tên Lee & Man Việt Nam hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên; ngược lại, nó là kết quả tất yếu của hệ thống hiện hành, một hệ thống bao gồm hai thành phần chủ yếu: những kẻ chủ tâm “rước giặc vào nhà” và những kẻ “ngậm miệng ăn tiền”, đồng loã với chúng.

“Thọ” chưa hẳn là may mắn

    “Thọ” chưa hẳn là may mắn

Vu Trung Hien

Cứ mỗi lần có dịp phải vào nhà dưỡng lão để thăm người quen hay bạn bè, tôi thường có những suy nghĩ và ám ảnh, liệu rồi sau này lúc già yếu, bệnh hoạn, tôi có phải vào nằm ở đây không, mà ví như cha mẹ tôi còn sống, tôi có khả năng nuôi nấng săn sóc cha mẹ tôi ở nhà không hay lại phải đưa quý cụ vào đây?

“Nước mắt chảy xuôi” là thành ngữ Việt Nam nói đến tình thương chỉ có thể từ cha mẹ dành cho con cái, theo dòng thuận của đời người, từ cao xuống thấp, để khuyên chúng ta đừng đòi hỏi một sự báo đáp từ con cái. Nhưng sự thật, các bậc cha mẹ cũng buồn lòng khi thấy con cái đối xử với mình tệ bạc, nhất là đến tuổi già, bệnh tật, có khi bị bỏ quên, cha mẹ cảm thấy cô đơn, cần sự an ủi, săn sóc. Trong một bài viết về nỗi niềm của cha mẹ già bị bỏ quên trong xã hội hôm nay, tôi nhận được lá thư của một vị cao niên ở tận miền Ðông, bày tỏ ý kiến của cụ:

“Tôi đã khóc, khóc cho chính mình và cho ai trong tuổi già ở xứ này.

Ông kể lại có cụ già đã chết cả một hai tuần, không ai biết

-Con cái ở đâu?

Ðó là những người có con mà còn vậy, còn những người không con thì chắc phải vô trường hợp này quá. Vì tôi không con gái, chỉ hai ‘đực rựa’, một ở Cali, một ở gần đây, nhưng ít khi kêu và có khi không kêu hỏi thăm được một tiếng, lúc cần tiền hay cần gì đó mới kêu.

– Có lúc tôi nghĩ:

Hay mình bất hiếu với cha mẹ nên con cái nó bạc với mình chăng?

Ở Florida này cũng có một bà Việt Nam ở riêng, mỗi tuần có cậu con trai mang đồ ăn tới.

Hôm đó cậu ta kêu cửa, nhưng không ai ra mở.

Cậu ta tưởng bà cụ đi vắng bèn treo gói đồ ăn vào hàng rào cổng.

Mấy ngày sau trở lại, thấy gói đồ ăn vẫn còn, mới khám phá ra bà mẹ đã chết.

-“Thật là thảm!”

Ðây chắc chắn là chuyện này có thể tránh được.

-Nếu mẹ ở nhà riêng, con nên có một cái chìa khóa nhà để dùng lúc cần thiết.

-Ðem thức ăn đến cho mẹ, khi mẹ đi vắng, dù bận thế nào đi nữa, thì cũng vào nhà, để thức ăn vào tủ lạnh cho mẹ.

-Nếu mẹ ngủ thì cũng vào nhà xem mẹ có khỏe không?

-Ðiện thoại cho mẹ nhiều lần mà không nghe trả lời thì phải nhờ người ở gần, đến gõ cửa nhà mẹ xem sao, hay vội vàng chạy lại xem sự thể thế nào?

-Câu chuyện như trên có thể xẩy ra bất cứ ở đâu.

-Trái tim của người mẹ có nhiều chỗ dành cho đứa con, như đôi cánh của một con gà mẹ có thể dang ra che kín mười đứa con bé dại, nhưng người mẹ có chỗ nào trong trái tim của con.

Ngày xưa, mẹ chưa bao giờ biết nói tiếng “bận” với con.

-Khi đang ăn mà con “làm bậy” cũng phải buông đũa đứng dậy.

-Nửa đêm dù đau yếu, mỏi mệt nghe tiếng con khóc cũng phải mở mắt, vỗ về và ôm con vào lòng.

-Sao các con bây giờ vẫn thường nói tiếng “bận” với cha mẹ.

-Vì bận nên các con đưa cha mẹ già lú lẫn vào nursing home,

-Vì bận, nên theo lời một cô y tá cho biết, nhiều gia đình bỏ cha mẹ vào đây rồi không bao giờ lui tới thăm viếng.

-Cô cho biết nhiều người đã ở đây năm sáu năm rồi, không hề có ai lai vãng.

-Có bao nhiêu lý do để những đứa con có thể nêu ra để không còn chỗ nào trong lòng, nhớ đến cha mẹ.

-Đàn ông chúng ta nên vui, vì hiện nay trong các nhà dưỡng lão 70% là quý bà, vì các ông đã quy tiên sớm hơn vợ mình, thông thường ít nhất là 6 năm, để ngày nay khỏi phải chịu cảnh cô đơn, buồn tẻ.

-Trước ngày Giáng Sinh tôi có dịp vào viếng thăm một người bạn sắp qua đời trong một nursing home.

Trên hành lang dẫn vào phòng người bạn, và ngay trước chỗ làm việc của nhân viên ở đây, tôi thấy nhiều ông bà cụ ngồi trên những chiếc xe lăn, nhìn những người qua lại.

Các cô y tá đã sắp xếp cho các cụ ra ngồi trên hành lang đối điện với văn phòng làm việc, một phần để trông chừng các cụ, một phần cho các cụ đỡ buồn.

Nhưng các cụ nhìn sự vật một cách dửng dưng, đôi mắt đờ đẫn, có người đã gục đầu xuống ngủ. Giá mà có người đẩy xe lăn đưa các cụ đi dạo một vòng ngoài trời nắng ấm kia, chắc hẳn các cụ vui hơn và biết đâu cuộc sống sẽ kéo dài thêm một thời gian nữa.

Giờ này trong công viên hay trên những con đường trong thành phố nhiều người mẹ đang đẩy chiếc xe đưa con đi dạo, nhưng vài mươi năm nữa ai sẽ đẩy chiếc lăn cho bà.

Phải chăng định luật của cuộc sống và tình thương là “nước mắt chảy xuôi”, sẽ không bao giờ có một dòng nước chảy ngược về nguồn.

Người Âu Mỹ thường thèm địa vị của các bậc cha mẹ người Á Ðông lúc về già vẫn còn được con cái lui tới săn sóc, nhưng họ cũng nên nhớ lại, họ chỉ nuôi con cho đến năm 18 tuổi là hết bổn phận, trên pháp lý, không ai trừng phạt gì họ được, mà trên mặt tình cảm cũng không có gì phải cắn rứt lương tâm.

Trong xã hội văn minh này, một đứa trẻ bỏ học, đi lang thang ngoài đường hay bị đối xử tàn tệ, cha mẹ có thể ra tòa và mất quyền nuôi dưỡng, còn những cụ già vô gia cư, đói khát bị bỏ bên lề đường, không ai có trách nhiệm và chẳng có ai phải ra tòa.

Ðiều đáng nói là các cụ già cũng như những đứa trẻ, đều yếu đuối, không có khả năng tự bảo vệ và rất dễ xúc động, buồn vui.
Trong một xã hội đáng gọi là văn minh, các trẻ em và người cao niên đều được che chở, bảo vệ và săn sóc chu đáo.

Các cụ có các cơ quan xã hội lo thuốc men, thực phẩm nhưng với nỗi cô  đơn, phiền muộn ai là người lo cho các cụ, trong khi những đứa trẻ có người an ủi, vỗ về và nói với nó những lời dịu ngọt.

Ngân khoản của liên bang cấp để ngăn ngừa tình trạng lạm dụng có đến 90% dành cho việc ngăn ngừa lạm dụng trẻ con, 7% để ngăn ngừa bạo hành trong gia đình nhưng chỉ có 2% sử dụng trong việc ngăn ngừa ngược đãi người già.
Không biết có bao nhiêu đạo luật và ngân khoản dành cho việc chống lại việc ngược đãi súc vật? Cứ vào “Pet-Abuse.com” chúng ta sẽ tìm thấy hàng nghìn trường hợp công dân Mỹ, già và trẻ, đàn ông lẫn đàn bà bị tù tội, phạt tiền vì bạc đãi, bỏ đói, đánh đập hoặc giết những con vật thân yêu trong nhà

Bỏ quên một bà mẹ già trong nhà dưỡng lão nhiều năm có phải là một trường hợp ngược đãi không   ?     
Tôi nghĩ là không……. Nếu có, luật pháp đã bắt đứa con phải phạt vạ hay vào nhà tù.

Theo người xưa, tuổi thọ là một ơn Trời và là một phúc đức lớn cho gia đình nào có cha mẹ tuổi thọ cao, trước nhất là của chính người cao tuổi nhưng đồng thời cũng là cho con cháu, bởi vì cha mẹ có sống lâu, con cháu mới có cơ hội được thể hiện lòng hiếu thảo. Có ba điều người ta thường mong ước ở đời là

                              Phước , Lộc , Thọ.

Phước có chỗ đứng cao hơn hết, Lộc thì phù du, mà ở đây Thọ chưa hẳn đã là may mắn.

Vu Trung Hien

Đảng lãnh đạo tài tình công tác đối ngoại, tăng vị thế của VN trên trường Quốc tế là thế này đây?

From facebook:  Trần Bang
Đảng lãnh đạo tài tình công tác đối ngoại, tăng vị thế của VN trên trường Quốc tế là thế này đây?

 

Có lỗi không nhận, không sửa là truyền thống cực kỳ… “phải như thế nào bạn (CHLB Đức) mới đình chỉ đối tác chiến lược với ta (VN) chứ”?

”Ngay sau khi nắm được thông tin về vụ việc chúng tôi đã khẳng định rõ rằng việc bắt cóc người trên lãnh thổ Đức là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Chúng tôi có các bằng chứng rõ ràng về vụ bắt cóc này và sẽ công bố chúng vào thời điểm thích hợp. Ngày 10 tháng 8, Tổng Công tố Liên bang đã tiếp nhận điều tra vụ việc. Hiện quá trình này vẫn chưa kết thúc.

Vụ bắt cóc đã vi phạm trắng trợn luật pháp Đức và luật pháp quốc tế, điều mà chúng tôi không bao giờ dung thứ.
Bằng việc trục xuất trưởng phòng tình báo của Đại sứ quán Việt Nam, chúng tôi đã thực hiện những biện pháp thẳng thắn đầu tiên. Chúng tôi đã nhiều lần thông báo rõ với Chính phủ Việt Nam về các yêu cầu của phía Đức và thể hiện rõ rằng chúng tôi bảo lưu quyền áp dụng thêm các biện pháp khác.

Cho tới nay, yêu cầu xin lỗi của chúng tôi kèm theo cam kết không vi phạm pháp luật tương tự trong tương lai đã không được Chính phủ Việt Nam đáp ứng. Phía Việt Nam cũng không khẳng định rõ rằng sẽ xử lý những người có trách nhiệm trong vụ việc.

Chúng tôi đã đưa ra các yêu cầu liên quan đến ông Trịnh Xuân Thanh, trong đó có việc áp dụng quy trình tố tụng theo nguyên tắc pháp quyền đối với ông Trịnh Xuân Thanh và có sự tham dự của các quan sát viên quốc tế.

Vì lí do cho tới nay phía Việt Nam hoàn toàn không đáp ứng các yêu cầu của chúng tôi cũng như không thừa nhận việc vi phạm pháp luật và phá vỡ lòng tin nên chúng tôi buộc phải áp dụng các biện pháp tiếp theo.

Vì vậy, ngày hôm qua, trong buổi làm việc với Đại sứ Việt Nam tại trụ sở Bộ Ngoại giao chúng tôi đã thông báo với phía Việt Nam về việc sẽ tạm dừng mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi đã quyết định trục xuất thêm một cán bộ của Đại sứ quán Việt Nam. Người này có 4 tuần để cùng gia đình rời khỏi nước Đức.

Chúng tôi mong đợi rằng phía Việt Nam sẽ thực hiện các yêu cầu của phía Đức.
Phía Việt Nam biết làm thế nào để có thể khôi phục lại mối quan hệ song phương và khắc phục việc vi phạm pháp luật và phá vỡ lòng tin.”
ĐSQ Cộng hòa Liên bang Đức tại Việt Nam

Image may contain: 3 people
 

Cùng rủ nhau về góp một thành hai

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 25 thường niên năm A 24/9/2017

(Mt 20: 1-16)  

Khi ấy Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này:

Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.”

Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”

Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.” Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho! ” Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.”

 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.”

 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)

 &  &   &

“Cùng rủ nhau về góp một thành hai”

“Những bước chân người góp đi làm đến.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mai Tá lược dịch.

 Trình thuật nay kể, là kể về dụ ngôn có tình tiết/lớp lang rất đời thường, ở mọi thời. Một thời, có đám công nhân càm ràm về công bằng với công lý mà người chủ thực hiện. Người chủ ở đây, quyết hiện thực đường lối chi trả rất khác lạ của riêng ông. Vào cuối ngày, ông gọi những người đến làm việc vào giờ chót và cho họ trọn lương hướng của nguyên ngày.

Đám thợ này, không phản đối đã đành và mừng khen chủ mình nhân hiền, rộng lượng. Họ lẳng lặng chấp nhận. Còn, đám thợ làm nguyên ngày cũng chỉ nhận bấy nhiêu thôi. Bởi thế nên, đó mới là duyên do ta nghe có tiếng phản đối đường lối xử sự khá bất công của người chủ.

Cứ tưởng tượng tình huống trong đó có người đứng suốt ngày ở đầu đường để tìm việc. Hoặc, những người cứ lân la nơi phòng tuyển dụng hoặc cơ sở từ thiện hòng được giúp đỡ, nên nếu có ai gọi tên mình vào giờ phút chót, cũng rất cám ơn. Thế nên, mấy người này thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Bàn cãi chi cho nhiều, ai cũng thấy là những người lâu nay để mấtđi niềm hy vọng, nay được gọi đến cho việc làm, lại được trả lương hậu hĩnh, thì quả là không hạnh phúc nào lớn hơn thế.

Hãy liên tưởng đến trường hợp khác, trong đó có người thợ suốt ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẵn sàng chấp nhận đồng lương ít ỏi để sống qua ngày. Và người đó còn phải lo cho gia đình nheo nhóc đang trông chờ mình về. Thợ như thế, hay tính toán giờ giấc, giá cả cũng như loại hình lao tác mình có thể làm. Họ suy tính công việc có thể thương lượng được với chủ, để tiền mang về đủ nuôi sống nhiều miệng ăn. Họ làm việc có hợp đồng, luật lệ công minh như thường thấy ở nhiều nơi.

Nay, hãy liên tưởng đến người kiếm đồng lương có giao kèo/thoả thuận hẳn hòi, nhưng không tính đến khoản phụ trội, tưởng thưởng hoặc phụ thu hầu thêm mắm muối cho bữa cơm hằng ngày. Nhưng, những người này vẫn trông chờ những quà tặng không tên phụ vào ngân sách gia đình như:đồng lương tăng vì vật giá, lạm phát. Tiền mất giá. Không có các khoản này, người thợ sẽ không mấy hài lòng, dù tiền thưởng không hẳn là quà ngẫu nhiên, do người chủ rộng tay độ lượng.

Cũng nên liên tưởng đến giới thợ nào thấy mình chẳng bao giờ được hưởng những thứ đó, nên vẫn lảng vảng quanh phòng tuyển dụng, hoặc chốn nhà thờ. Những người này, sẽ hiểu công bằng/chính trực theo lẽ tự nhiên. Những điều, những lẽ ít thấy trong cõi đời. Thế nên, thái độ của họ là thái độ của người thợ làm việc theo cách tiêu cực, nghĩa là: chỉ làm theo mức tối thiểu, chỉ bỏ vào đó đủ sức lao động của mình, thôi. Hoặc, những người suốt ngày cứ chống cằm lên bàn, khi thấy không có ai dò xét, để ý. Vì họ cứ nghĩ: mình dại gì mà làm cho lắm, chỉ lợi cho chủ, thôi.

Những liên tưởng ở trên, không chỉ xảy ra nơi sở làm hoặc công trường lao động, mà thôi. Nhưng nó vẫn xảy đến cả trong Hội thánh nữa. Xưa nay, nhiều người đi Đạo vẫn ao ước có được nhiều quyền, nhiều tiền và nhiều qui chế dễ thở để được hưởng thụ, nhiều hơn nữa. Với hàng giáo sĩ, thì nhiều vị phục vụ nhiều năm trong âm thầm/tăm tối, nay muốn về giáo xứ/họ đạo sung túc, hoặc đông đúc bổn đạo cho bõ công ngày tháng chôn vùi đời mình trong bóng tối. Nên, hễ thấy thế hệ trẻ mới ra trường lại có được chỗ tốt thơm, mới đem lòng căm tức và nhìn xuống đám trẻ bằng đầu mũi.

Với hàng ngũ giáo dân, có người lại chỉ muốn có chân trong hội đồng giáo xứ/mục vụ, để ưu tiên hưởng được nhiều thứ. Là thành viên ca đoàn, có người chỉ thích hát những lễ nào đông người dự. Hoặc, hát vào các giờ lễ thích hợp giờ giấc của mình thôi. Những người có kinh nghiệm mục vụ trong giáo xứ/giáo đoàn, thấy mình tài giỏi hơn người mà chẳng bao giờ được giao phó công việc tốt. Trong khi đó, những người được điều động từ nơi khác đến chưa từng có lấy kinh nghiệm lao tác/hục vụ, lại được giao phó những công việc khó,đòi nhiều kinh nghiệm, thấy cũng lạ.

Đời sống thiêng liêng, cũng thế.Nhiều vị ngỡ rằng chỉ mỗi mình là người được Chúa cho lên thiên đàng thẳng cánh. Những người như thế, những tưởng rằng chỉ mình họ, vốn nhiều năm chuyên chăm làm điều tốt, nên dễ bất bình khi thấy mình không được ưu đãi hơn người khác, nên nghĩ rằng Chúa cũng thiên vị, khi Ngài ban ơn lành cho kẻ xấu, tức cho cả những người chẳng bao giờ làm điều tốt lành hết. Thế nên, nhiều vị lại hay ganh tương/tị nạnh với kẻ biếng nhác chẳng lo chuyện đạo hạnh, mà vẫn được Hội thánh trọng dụng, bởi vì họ biết hoán cải, vào cuối đời.

Dụ ngôn hôm nay khuyên ta nên thay đổi não-trạng vẫn có xưa nay. Dụ ngôn thử thách ta cởi bỏ những động thái/tưtưởng nào không cần thiết cho Nước Trời. Thử và thách, chuyển đảo mọi giá trị, do ta đặt ra.

Nơi thế giới của những người chỉ tính chuyện làm ăn và với các thánh hội chỉ những lo toan chuyện làm ăn/ăn làm, không bận tâm gì chuyện thiêng liêng/đạo đức của dân con đi Đạo, cũng như thế. Tức, cũng suy tính về những gì hoặc những việc không có Chúa dính dự, ngự trị. Trường hợpấy, Chúa chẳng khi nào lập toà hoá giải, cũng không có toà kháng án, hoặc văn phòng công lý/khiếu kiện, để mình xin.

Khi nghĩ rằng Chúa ban ơn lành cho hết mọi người, ai cũng hiểu Ngài ban theo kiểu rủi may, giống xổ số. Cứ nghĩ rằng, có thể là ân huệ mình nhận được chắc cũng ít, hoặc rất kém. Bởi, họ lại nghĩ:Chúa đã rộng tay ban phát cho nhiều người, thì còn đâu mà cho mình. Thật ra, ân huệ Chúa ban vẫn dư dật, tràn đầy. Dư và đầy, đến độ ai cũng có phần. Chẳng ai là người thua thiệt, tủi phận hết.

Ân huệ Chúa ban là điều ta có được ngoài mức tưởng tượng, đợi trông. Rất nhưng-không. Chúa không nợ nần gì ai. Và, ta cũng chẳng có công gì để đáng được nhận nhiều hơn người khác. Lâu nay ta nhận ân huệ dồi dào, vì Chúa thương yêu hết mọi người. Ngài yêu thương vô điều kiện. Không bớt xét. Thế nên, tất cả mọi người trước sau gì cũng được. Tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều được ơn.

Đọc dụ ngôn hôm nay, nhiều người thường hiểu vườn nho mà thánh sử đề cập ở trình thuật, chỉ là nước Do thái hoặc thánh hội rất Công giáo. Người làm vườn, là kẻ được mời đến chốn thánh thiêng, các văn phòng hoặc thánh bộ. Thật ra, không phải thế. Chúa đâu cần thợ ở vườn nho. Ngài cũng không cần công nhân lao động ở mọi chốn. Điều Ngài muốn và cần, là mọi người được mời đến để Ngài tặng ban ơn lành, cách nhưng-không. Để rồi, ta nhắn nhủ mọi người hãy trao cho nhau tình thương yêu ân huệ ấy. Chí ít, những người đang cần được ta thương yêu.

Đó là sứ mệnh phục vụ. Đó, không là món hời dễ ăn. Nhưng, là tương quan hai chiều. Và ta được mời đến để phục vụ.Phục vụ, ở nơi ta đang sống hoặc ở chốn miền ta hoạt động rất lao lực. Bất kể ta là ai. Bởi cuối cùng, rồi ra người được mời cũng sẽ ngạc nhiên/thích thú được ban và nhận ơn như thế.

Trong thời gian đợi chờ Chúa ban ơn, ta hãy trở về với công việc liên quan đến mỗi người, và mọi người. Chúa vẫn để tâm chăm sóc đến ta khi ta kết thúc một ngày lao động đường dài. Ngài chẳng kỳ thị ai, hoặc bất công với ai trong lao động. Ngài là Đấng Nhân Hiền Độ Lượng, luôn rộng ban ơn lành cho hết mọi người. Chắc chắn ta sẽ nhận dù không là những gì mình đáng hưởng vì công của mình, nhưng nhận rất nhiều. Nhiều hơn cả những điều ta dự đoán.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Tôi chia em trọn kho tàng

Kho tàng của chúng ta (Nguyễn Trung Cang) – Elvis Phương

httpv://www.youtube.com/watch?v=tHjz8T2-3Cc

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 25 thường niên năm A 24/9/2017

“Tôi chia em trọn kho tàng. “
Tôi chia anh trọn kho tàng.
Niềm quý mến nhau là xâu chuỗi mầu,
Buồng tim yêu thương là châu báu.”

(Nguyễn Trung Cang – Kho tàng của chúng ta)

(Thư Rôma 6: 17)

  Trần Ngọc Mười Hai

“Kho tàng của chúng ta” sao? Ối chà chà, là bài hát! Ối giời ơi, là câu ca. Ca với hát cho hay, cũng chỉ đến như thế mà thôi! Bởi, còn gì hay bằng khi nghe lại những ca-từ đầy kim-cương/vàng bạc như sau:

 “Kim cương đây là môi cười.
Tôi xin chia phần cho người.
Từng ánh mắt vui, từng câu ấm lòng,
Từng câu yêu thương hằn trên môi.

Ta sẽ chia kho tàng

tình yêu cho anh em cùng dòng máu.
Ta sẽ chia kho tàng

tình thương cho khắp quê hương.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Chưa hết đâu. Chia kho tàng, tình thương khắp quê hương thôi, cũng chưa đủ. Nghệ sĩ nhà mình còn mua bán cả những “căm thù” nữa, vẫn ở đây:


“Tôi xin mua lại căm thù.

Tôi xin mua lại lao tù.

Bằng những cánh hoa cài trên áo người.

Bằng đôi tay non còn rướm máu.

 

Tôi dâng anh vạn chân tình.

Tôi dâng em trọn tim mình.

Đời sống sẽ vui dù ta có nghèo.

Người vui ta cùng vui theo.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 

Lời lẽ trên đây, chính bần đạo bầy tôi này từng nghe được vào thập niên 1950s khi nhóm nhạc trẻ ABC, Ba Con Mèo và/hoặc Ba Trái Táo cứ là nhộn nhịp với ca nhạc và hát hò, vui khôn kể.

Thế còn, niềm vui nhà Đạo thì sao? Có “chia nhau trọn kho tàng”? Hoặc: “dâng anh vạn chân tình” không thế? Điều này không rõ, chỉ rõ có một điều là các đấng bậc nhà mình đã và đang bận tâm với vấn đề “Hôn-nhân đồng giới tính” xảy ra ở đây đó, như một nhận-định trên các “Bản tin Giáo xứ”, như sau:

“Hậu quả việc Quốc hội Úc tái định-nghĩa Hôn-nhân như sự kết-nối giữa hai con người dù đồng tính: 

 -mất tự do ăn nói: Không được đả động đến chuyện này

-mất tự do tín ngưỡng: chấp nhận đám cưới cho đồng tính 

-mất tự do lập hội: không được phản đối đám cưới của họ  

-mất tự do lương tâm: vì phản đối các đám cưới như thế

-giới-tính không còn xứng-hợp trong xã-hội

-tự-vựng “Mẹ” và “Cha” sẽ biến mất trong tự-điển

-sẽ có thay-đổi trong giáo-dục giới-tính

-bất an về giới tính sẽ gia-tăng nhanh-chóng

-quyền-hạn của bậc cha mẹ sẽ bị giỡ bỏ

-trường học nào không chịu dạy về đồng-tính luyến-ái và hôn-nhân đồng-tính sẽ phải đóng cửa.

 Việc bỏ phiếu tái định-nghĩa hôn-nhân là tự-nguyện, nên Đức TGm Anthony yêu-cầu các giáo-xứ hãy tham-gia đầu phiếu. Ai mới thay đổi địa chỉ với Uỷ-Ban Bầu-Cử Úc cần cập-nhật lại từ nay đến 24/8/17 bằng không sẽ trễ tràng nếu không được cập-nhật. Có thể cập-nhật địa chỉ ở trên mạng…” (Trích Tin Vắn trên Bản Tin Giáo Xứ Fairfield, NSW Úc ngày 2/8/2017)

Đồng giọng với Lm Michael de Stoops là chánh xứ nói ở trên, còn thấy có đấng bậc vị vọng nổi cộm của Tổng Giáo Phận Sydney, NSW Úc từng giải đáp thắc mắc của bổn đạo đặt ra như thế này:

“Thưa Cha,

Con trai con đã ngưng không còn thực-thi niềm tin đi Đạo cách nay nhiều năm rồi; và nay thì cháu nó đang sống trong tội lỗi với bạn gái của cháu. Cháu còn tuyên-bố rằng cháu không còn cầu nguyện gì được và cũng chẳng muốn đi nhà thờ dự lễ gì nữa hết. Đôi khi, lại vẫn nghĩ rằng cháu đã để mất đi sự tự-do quan-hệ với Chúa rồi, phải thế không thưa cha? Xin cho con vài lời chỉ dẫn.

 Gì chứ, chỉ vài lời chỉ-dẫn từ đấng bậc thôi, sẽ có ngay lập tức, như bên dưới:

“Để trả lời chị cho đúng phép, tôi nghĩ trước tiên ta phải làm cho sáng tỏ định nghĩa thế nào là “Tự do”, mới được. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo định nghĩa: “đó là quyền-uy/sức mạnh cắm rễ sâu nơi lẽ phải và ý-chí để hành-động hoặc không hành-động, để làm việc này hoặc việc kia và có thế mới thực-hiện hành-động một cách cân-nhắc có trách-nhiệm .” (Sách GLHTCG đoạn 1731).

Loài người đều có lý-trí, thông minh và ý muốn tự do, thế nên ta có thể chọn lựa quá-trình diễn biến hành-động rất khác-biệt. Loài thú không có được những thứ này, Chúng không có trí thông minh lý-luận cũng chẳng có chút tự-do nào hết, thành ra chúng không thể có được chọn-lựa theo tự-do. Thú vật chỉ biết làm theo bản-năng của chúng, mà thôi. 

Ở nơi loài người, ta có thể nhận ra sự khác-biệt giữa tự do mang tính chất bản-thể hoặc căn bản mà mọi người, với  tư cách là bản-thể người đều có được tự-do hiện-sinh, thực-thụ như mình có. Theo định-nghĩa đầu, con người có lý-trí và ý-chí tự-do, nên ai cũng có thể hành-động một cách tự do trên nền-tảng.

 Thế nhưng, cũng tuỳ cung-cách sử-dụng tự do ấy như thế nào, con người có thể từng nấc một gia-tăng hoặc giảm sút mức-độ tự-do của mình. Theo nghĩa này, thật rất đúng để nói là nhiều người có tự-do nhiều hơn một số người khác.

 Muốn hiểu điều này cho thấu-đáo, ta cần phải làm sáng-tỏ mục-đích của tự-do, nữa. Vấn-đề là hỏi rằng: tại sao Thiên-Chúa lại dựng nên con người có tự do như thế? Ta có được làm bất cứ thứ gì bất kẻ việc ấy tốt/xấu với ta như thế nào không? Không phải thế. Thiên-Chúa để cho ta san-sẻ sự tự-do của Ngài, thành ra ta có thể chọn-lựa một cách tự-do phục-vụ Ngài, làm điều tốt đẹp và phải lẽ; và như thế mới phát-triển tính-chất nhân-loại một cách đầy đặn hơn và cuối cùng về ở với Ngài mãi mãi trên thiên-quốc.

 Công đồng Vaticăng 2 cũng đã định-nghĩa tự-do theo nghĩa bảo rằng: “Thiên-Chúa muốn để con người tuỳ thuộc lời khuyên của lương-tâm để họ có thể tự ý tìm kiếm Đấng Tạo Hoá và tự do có sự toàn-hảo/toàn-thiện bằng một lòng thuỷ-chung với Ngài.” (X. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đoạn 17; Sách GLHTCG đoạn 1730)

Nói tóm lại, mọi người chúng ta đều có tự-do tìm-kiếm Chúa và nhờ đó có được sự toàn-thiện và hạnh-phúc. Cả hai thứ ở đây, lúc này và mãi về sau. Theo nghĩa này, thì khi nói chữ “tự-do” là ta nói đến thứ tự-do tìm kiếm Chúa, và hoàn-thành trọng-trách đạt mục đích cao-cả ấy. Đó không là “tự do xuất tự Thiên-Chúa và luật-pháp của Ngài.”

 Thế nhưng, cũng tuỳ theo cách ta có được chọn-lựa nào, ta có thể từng bước gia-tăng sự tụ-do của ta để kiếm tìm Chúa và thực-hiện thánh-ý của Ngài hoặc làm giảm bớt những thứ ấy. Bằng việc cầu nguyện, nhận lãnh bí-tích cách đều-đặn, hoặc phấn-đấu nghe theo lương-tâm của ta mà làm những gì ta biết là đúng-đắn, tốt đẹp và tránh né những gì ta biết nó sai trái, có thế mới trưởng-thành trong đạo-đức và mới thấy dễ dàng phục-vụ Chúa. Càng ngày ta càng thấy mình tự do hơn để làm thế.

 Đổi lại, ta có thể ngưng không còn nguyện-cầu và nhận các phép bí tích, phớt lờ những điều mà lương-tâm khuyên ta làm và chỉ làm những gì mình thích và rồi cứ từ từ xa rời Chúa đi vào cuộc sống đầy tội lỗi. Đây là tình-cảnh mà con trai của chị đang rơi vào trong đó. Thay vì lớn lên trong nhân-đức, thì cháu lại tăng-trưởng trong sự xấu khiến ta thấy khó mà định đoạt thế nào là phải lẽ, thế nào sai. Làm như thế, tự khắc ta giảm-suy tự do của ta. 

Cuối cùng, ta cũng nên xem lời tóm tắt ở sách Giáo lý đoạn 1733, cũng cùng một ý tưởng viết trong thư của thánh Phaolô gửi cộng đoàn tín-hữu Rôma, những lời rằng:

 “Nếu như ta làm điều tốt ngày càng nhiều,

thì ta càng trở nên tự do nhiều hơn nữa.

Không thể có tự-do đích-thật

ngoại trừ lo phục vụ những gì là tốt đẹp và phải lẽ.

Nếu ta cứ chọn bất tuân-phục,

và chỉ làm sự xấu,

thì đó là hành-động lạm dụng tự-do,

và rồi cũng làm thân nô lệ tội lỗi, thôi.”

(Rm 6: 17)

Thánh Phêrô cũng từng viết bức thư thứ hai cho cộng-đoàn tín-hữu vẫn bảo rằng: “vì miệng họ nói những lời huyênh hoang rỗng tuếch, họ dùng những ham muốn xác thịt dâm ô mà nhử những người vừa thoát tay các kẻ sống trong lầm lạc. Họ hứa cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy.” (2P 2: 18-19)

Vậy nên, quả là điều quan-trọng biết bao khi ta biết sử-dụng sự tự-do của ta một cách khôn-ngoan không sai lạc.” (X. Lm John Flader, Is it possible to become less and less free? Question Time, The Catholic Weekly ngày 13/8/2017 tr. 25)   

Hôm nay đây, trích-dẫn lời lẽ của bậc thánh hiền trong Đạo về sự tự-do rất chính-đáng, cũng chỉ để luận phiếm cho vui, hoặc cho qua ngày đoạn tháng khi người người nói quá nhiều về thứ tự-do không theo nghĩa đích-thực của đạo-nghĩa, và Đạo Chúa.

Nói thì nói thế, với người đời thời buổi này, chẳng ai có sức thuyết-phục hoặc ép buộc mọi người phải làm những gì mà Đạo Chúa khuyên dạy. Như mọi lần, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên mời nhau đi vào vùng trời truyện kể để nghe

“Trong vườn hoa nhà thờ, vị linh mục nọ lang thang đi dạo chung với một thương-gia cùng với môn đồ trẻ lẽo đẽo đi sau nghe chuyện. Xem ra, câu chuyện giữa vị linh mục và lão thương-gia có vẻ hấp dẫn. Nhà buôn nói:

-50 ngàn đôla được không, thưa ngài?

Vị linh-mục nọ đáp lại một cách gọn lỏn:

-Không được!

-Thế vậy đề-nghị với ngài là 100 ngàn đôla cũng được chứ, phải không?

 Thấy linh mục nọ chẳng nói thêm điều gì, thương-gia nhà ta bèn thưa tiếp:

Thôi được, cấp trên bảo: tôi có tự do ra giá, vậy thì tôi đề-nghị 500 ngàn đola vậy

Nghe vậy, vị linh mục vẫn chẳng trả lời thêm câu nào. Thấy thế, môn-đồ trẻ hỏi;

-Sao cha nói có tự do đề xuất giá cả cơ mà?

-Về chuyện này, cha đây không có chút tự do nào để làm hết.

-Ai mà chẳng có tự do chịu giá, cơ chứ?

-Đây thì không, vì ông ấy đề-nghị với ta là: mỗi lần đọc xong bất cứ bài nào trong thánh lễ, thay vì nói “Đó là Lời Chúa”, ngài cứ vui vẻ bảo “Đó là nguồn suối Coca-Cola” theo cách rất tự do, là xong ngay.

-Không được phạm-thượng như thế!”

(Trích truyện cười lạt lẽo lấy từ trên mạng vi-tính)        

 Hiển nhiên là, ai cũng có đủ mọi thứ tự-do, cả trong chuyện ăn nói, trả giá và giao hàng, được hết. Nhưng, ở đây hôm nay, ta không đặt thành chuyện nghiêm-chỉnh chút nào, chỉ mỗi đưa ra vấn-đề, là hỏi rằng: bậc cha/bác trong nhà Đạo, dù có quyền phép như “Đức Chúa Trời con”, các “đức ngài” vẫn chỉ có thứ gọi-là “tự do trong khuôn-khổ”, mà thôi.

Tự do, thật ra không có nghĩa: muốn làm gì thì làm. Dù chuyện đó, có là chuyện luật pháp hoặc đạo-đức hay không. Có tự-do, là có trách-nhiệm. Trách-nhiệm, về hành-động mình làm. Trách-nhiệm, cả về hậu-quả kéo theo sau đó.

Tóm lại, tự-do là nhận-lãnh trách-nhiệm khi tra tay làm việc gì đó theo đúng lương-tâm mình đòi hỏi, dù không tạo lợi/lộc gì cho chính mình cả. Tự-do, với người trong Đạo/ngoài đời, là làm điều tốt-đẹp cho mình và cho người, đúng với lương-tâm từng chỉ vẽ cách mình hành-động.

Nói cách khác, tự-do và trách-nhiệm, hoặc tự-do trong trách-nhiệm, là hai phạm-trù luôn sánh đôi, song-hành ở mọi nơi, vào mọi lúc, trong đời người.

Trong tinh-thần hãnh-tiến thực-hiện những gì được lương-tâm hoặc truyền-thống nhà Đạo khuyên-dạy, mời bạn và tôi, ta cứ thế hiên-ngang hát lại ca-từ nhạc trẻ những hát rằng:

“Tôi chia em trọn kho tàng. “
Tôi chia anh trọn kho tàng.
Niềm quý mến nhau là xâu chuỗi mầu,
Buồng tim yêu thương là châu báu.

Kim cương đây là môi cười.
Tôi xin chia phần cho người.
Từng ánh mắt vui, từng câu ấm lòng,
Từng câu yêu thương hằn trên môi.
Ta sẽ chia kho tàng

tình yêu cho anh em cùng dòng máu.
Ta sẽ chia kho tàng

tình thương cho khắp quê hương.”

 Và:

“Tôi xin mua lại căm thù.

Tôi xin mua lại lao tù.

Bằng những cánh hoa cài trên áo người.

Bằng đôi tay non còn rướm máu.

Tôi dâng anh vạn chân tình.

Tôi dâng em trọn tim mình.

Đời sống sẽ vui dù ta có nghèo.

Người vui ta cùng vui theo.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cứ ngâm nga

những câu ca tựa hồ như thế

rất tự-do.

Mình ơi – Dậu Nguyễn

httpv://www.youtube.com/watch?v=V1betrDxFHA&list=PLYNu2WsZ1JUhQ7J1GGZCKRwWY41IaYbRS

Mình ơi – Dậu Nguyễn (4K)

“Mình ơi”. Nhạc và lời: Diệu Hương. Tiếng hát: Ngọc Hạ. Hình ảnh và video clips: Internet. Thực hiện nhạc cảnh: Dậu Nguyễn.

Đức trục xuất thêm một nhà ngoại giao VN

Đức trục xuất thêm một nhà ngoại giao VN

BBC

Chính phủ Đức tuyên bố trục xuất thêm một nhà ngoại giao Việt Nam để phản đối Việt Nam vì vụ “bắt cóc” Trịnh Xuân Thanh.

Trịnh Xuân Thanh
Chính phủ Đức liên tiếp đăng các biện pháp trả đũa Việt Nam trên mạng xã hội sau vụ ông Trịnh Xuân Thanh: Bìa phải là Thủ tướng Angela Merkel và Bộ trưởng Ngoại giao Đức Sigmar Gabriel

Twitter chính thức của Bộ Ngoại giao Đức ngày 22/9 nói “không có hồi đáp đầy đủ từ Việt Nam sau vụ bắt cóc ở Đức”.

“Vì thế chúng tôi đã trục xuất thêm một nhà ngoại giao,” Bộ Ngoại giao Đức tuyên bố.

Thông báo bằng tiếng Đức của Bộ Ngoại giao nước này gửi cho báo chí cũng nói hiện Berlin đã “tạm ngưng quan hệ đối tác chiến lược” với Việt Nam.

Đây là nhà ngoại giao thứ hai từ Sứ quán Việt Nam ở Berlin bị Đức trục xuất sau cáo buộc của Đức rằng Việt Nam đã tiến hành vụ “bắt cóc” và đưa ông Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam.

 

Người này cùng gia đình sẽ có bốn tuần để rời khỏi Đức, AFP tường thuật.

Được biết, Công tố viện Liên bang Đức vẫn chưa hoàn tất cuộc điều tra liên quan đến vụ ông Trịnh Xuân Thanh “bị bắt cóc” khỏi Berlin, theo Bộ Ngoại giao Đức.

‘Bằng chứng liên quan’

Người phát ngôn ngoại giao Đức Rainer Breul nói Đại sứ Việt Nam hôm thứ Năm đã được thông báo rằng một nhà ngoại giao thứ hai buộc phải rời khỏi Đức vì “có bằng chứng ông này liên quan vụ việc”.

Chiếc xe gây án
Bản quyền hình ảnh          BUI QUANG HIEU
Cảnh sát Đức trả lại cho ông Bùi Quang Hiếu chiếc xe mang biển CH Czech bị thuê để “bắt cóc” ông Trịnh Xuân Thanh. Trên xe còn nguyên các dấu vết cuộc điều tra

“Người này không phải là cấp quản l‎ý cao cấp tại Tòa Đại sứ” nhưng “chúng tôi có bằng chứng cho thấy ông ta đã tham gia vụ việc” cùng với “một số” nhân viên ngoại giao khác của Việt Nam tại Tòa Đại sứ, hãng tin AFP dẫn lời ông Rainer Breul nói.

“Chúng tôi không định im lặng và để cho vụ việc rơi vào quên lãng,” người phát ngôn cảnh báo, và cho biết thêm cho đến nay Hà Nội đã không chịu xin lỗi về vụ bắt cóc, cũng không chịu cam kết là những hành vi tương tự sẽ không diễn ra trên lãnh thổ Đức.

Trước đó hôm 9/8, Đức tuyên bố đang cân nhắc các bước đi cần thiết sau khi Việt Nam không hồi đáp yêu cầu của Berlin, muốn Hà Nội trao trả ông Trịnh Xuân Thanh.

Berlin nói ông Trịnh Xuân Thanh ‘đã bị mật vụ Việt Nam bắt cóc’ hồi cuối tháng Bảy.

Hôm 4/8, Ngoại trưởng Đức cáo buộc Việt Nam đã thực hiện vụ việc theo cách thức “chỉ có trong các phim ly kỳ thời Chiến tranh Lạnh” và đó là hành vi mà Đức thấy là “không thể chấp nhận”.

Sau vụ việc, phía Đức đã giữ chiếc xe ‘nghi là phương tiện gây án’ từ CH Czech, thu thập mọi chứng cứ liên quan rồi trả lại xe cho chủ là một doanh nhân Việt Nam tại Prague.

Thông cáo nói nghi can đã lái một chiếc xe thuê từ Prague đến Berlin vào ngày 20/7, 3 ngày trước khi có thông tin ông Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc.

Twitter bằng tiếng Anh của Bộ Ngoại giao Đức
Bản quyền hình ảnh   TWITTER
Twitter bằng tiếng Anh của Bộ Ngoại giao Đức nêu lý do ‘Không có câu trả lời thỏa đáng từ Việt Nam, nên chúng tôi trục xuất thêm một nhà ngoại giao VN nữa khỏi Đức’.

Cũng theo các nguồn tin từ Berlin, Cục An ninh Liên bang Đức đã hỏi chuyện nhiều người Việt ở Berlin về vụ Trịnh Xuân Thanh và cách thức hoạt động của những nhóm người Việt tại Đức, liên kết bên trong và bên ngoài của họ và quan hệ với các cơ quan của Việt Nam tại Đức.

Giới chức Đức hồi cuối tháng 8 cũng đã bắt giữ một nghi phạm người Việt từ Cộng hòa Czech, bị nghi là có liên quan tới vụ bắt cóc.

 

Luật sư tại Đức của ông Thanh nói thân chủ của mình đã bị lôi lên xe hơi, cưỡng bức đưa về Việt Nam chứ không phải tự nguyện quay về.

Trả lời phỏng vấn của báo chí Đức hôm 7/8, Ngoại trưởng Sigmar Gabriel nói rằng ông thấy việc Việt Nam “chấp nhận mạo hiểm” trong việc đánh đổi các thành quả trong quan hệ song phương trong vụ Trịnh Xuân Thanh là điều “khó hiểu”.

“Vụ việc xảy ra vào cuối tháng Bảy vừa qua đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ Đức – Việt,” ông ngoại trưởng được trang tin Stuttgart dẫn lời. “Chuyện giới doanh nghiệp Đức cảm thấy bất an là điều hoàn toàn dễ hiểu, vì rõ ràng là một số người có chức trách tại Việt Nam đã thiếu tôn trọng mối quan hệ đối tác với Đức và các quy định pháp luật.”

Phía Việt Nam nói rằng ông Trịnh Xuân Thanh đã tự nguyện ‘ra đầu thú’, và công bố đoạn video trong đó ông Thanh dáng điệu mệt mỏi nói rằng ông “đành phải về để đối diện sự thật”.

Tại Việt Nam cũng có một luồng dư luận chủ yếu trên các trang mạng xã hội cho rằng Đức “không nên bao che cho người tham nhũng” mà nên hỗ trợ Việt Nam thì hơn là trừng phạt.

 
Ngoại trưởng Đức tuyên bố ‘không thể chấp nhận’ việc VN bắt cóc người

Đoạn video được phát trong chương trình thời sự của Việt Nam cũng công bố hình ảnh “đơn xin tự thú” được cho là của ông Thanh viết tay.

 

Tương lai quan hệ?

Trong năm 2015, Đức cam kết trợ giúp Việt Nam 220 triệu euro (257,8 triệu đôla Mỹ) viện trợ phát triển trong vòng hai năm.

Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khối Liên hiệp Âu châu; các thành viên của khối này đang chuẩn bị xem xét việc phê chuẩn thỏa thuận tự do thương mại với Việt Nam.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, sau khi chính quyền Đức liên tiếp công khai các tuyên bố trừng phạt Việt Nam, gồm cả việc “tạm ngưng quan hệ đối tác chiến lược” thì tương lai của hiệp định thương mại EU – VN bị đặt câu hỏi.

Chủ tịch Trương Tấn Sang và phu nhân
Bản quyền hình ảnh   TOBIAS SCHWARZ
Chủ tịch Trương Tấn Sang và phu nhân có chuyến thăm cao cấp tới Đức hồi 2015

Lý do là cùng quá trình Brexit khi Anh ra khỏi EU, Đức là nước có nền kinh tế lớn nhất và sức mạnh chính trị áp đảo duy nhất còn tại ở EU.

Hai nước Đức – Việt ký Tuyên bố chung Hà Nội về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược khi bà Thủ tướng Angela Merkel thăm Việt Nam năm 2011.

Các quan chức cao cấp của Đức đã liên tiếp sang thăm Việt Nam như Chủ tịch Quốc hội Nobert Lammert (2015), và Bộ trưởng Ngoại giao Frank-Walter Steinmeier (2016).

Từ phía Việt Nam, các lãnh đạo cấp cao nhất nhiệm kỳ trước cũng sang thăm Đức liên tục: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm năm 2013; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2014, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân năm 2015 và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2015.

Ông Trịnh Xuân Thanh
Bản quyền hình ảnh  VTV
Ông Trịnh Xuân Thanh “xin lỗi” trong đoạn phim chiếu trong chương trình thời sự của VTV tối 3/8

Nhân vật cao cấp nhất của nhiệm kỳ này tại Việt Nam sang thăm Đức dự hội nghị G20 là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhưng khủng hoảng quan hệ hai bên nổ ra không lâu ngay sau chuyến thăm của ông trong tháng 7 vừa qua.

6 GIÁ TRỊ MỸ KHÔNG MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN.

From facebook:   Trần Bang‘s post.
 

Trần Bang

 

6 GIÁ TRỊ MỸ KHÔNG MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN.

1. Ca sĩ Madonna từng nhổ nước bọt vào mặt một bà cụ, lập tức tòa án Liên bang phán quyết cô phải bồi thường 5 triệu đô-la Mỹ (khoảng 113 tỷ VNĐ) cho bà lão.
Quan tòa nói, sở dĩ mức phạt nặng như vậy không phải bởi miếng nước bọt đó đã mang đến tổn thương lớn ngần nào cho bà cụ. Lý do là với những người có tiền như Madonna nếu chỉ phạt bồi thường 50 nghìn đô-la, lần sau cô ấy chắc chắn sẽ tái phạm. Có thể cô ấy cũng sẽ gây tổn thương cho hơn 10 người khác nữa.

2. Ở Mỹ, không có một hãng truyền thông nào thuộc về chính phủ. Bởi vì pháp luật nước Mỹ quy định, không thể lấy tiền của dân chúng để dát vàng cho mình mà lừa mị, mê hoặc dân chúng.
Kênh truyền thông duy nhất mà chính phủ Mỹ bỏ vốn làm chủ là đài phát thanh VOA của Mỹ, nhưng nó không được phép phát sóng trên đất Mỹ. Trong con mắt của người Mỹ, dư luận nên phải là tự do, nhiều nguồn, muôn hình muôn vẻ, thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau.

3. Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia, trẻ em được pháp luật che chở cẩn thận. Nếu bạn không có tiền gửi con ở nhà trẻ, chính phủ sẽ chi trả, hoặc không có tiền mua sữa bột, chính phủ cũng sẽ chu cấp. Ngoài ra còn có nhiều chính sách đặc biệt trợ cấp cho phụ nữ mang thai, sản phụ thu nhập thấp và trẻ em chưa đến 5 tuổi.

Các gia đình thu nhập thấp có thể nhận được bữa cơm dinh dưỡng sáng và trưa miễn phí. Nếu bạn không có tiền thuê nhà, chính phủ sẽ chi trả, hơn nữa quy định trẻ nhỏ cần phải có phòng ngủ riêng. Ở nước Mỹ, bạn sẽ không bao giờ bắt gặp hình ảnh trẻ em đi xin ăn.
Có một bà mẹ mải mê bận rộn việc nhà, nhất thời không để ý trông con. Đứa con chẳng may ngã xuống bể bơi chết đuối. Trong lúc người mẹ đang đau khổ không thôi thì bất ngờ nhận được giấy triệu tập của tòa án.

Lý do mà tòa án đưa ra vô cùng đơn giản, bà đã không làm hết trách nhiệm của một người giám hộ nên sẽ phải đối mặt với việc bị tuyên án. Điều đó cũng giúp cảnh tỉnh ý thức chăm sóc con trẻ cho hàng triệu người mẹ khác.
Người Mỹ quan niệm, một đứa trẻ trước hết thuộc về bản thân nó. Đứa trẻ đó mang theo vô số quyền lợi sống vốn có trong xã hội này. Không kể là bản thân nó có ý thức được hay không, không kể là nó có thể lớn lên thành người hay không, xã hội này có tầng tầng pháp luật để bảo vệ nó.

4. Ở nước Mỹ, người dân có bệnh thì bệnh viện cần phải điều trị trước, sau đó mới gửi hóa đơn viện phí đến nhà bệnh nhân. Nếu bạn không gánh nổi khoản tiền trị liệu thì các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ sẽ ‘ra mặt’ giải quyết. Trong trường hợp người nghèo khó chỉ vì không có tiền chi trả viện phí mà bệnh viện ngưng điều trị thì những người có liên quan sẽ bị chất vấn và nhận chế tài của pháp luật.

5. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (nổ ra vào tháng 3/2003), quân Mỹ huy động lực lượng quân sự lớn mạnh tấn công tầm xa trong sa mạc. Quân đội của nhà độc tài Saddam Hussein binh bại như núi đổ, nhếch nhác bỏ chạy. Lúc này, trong cát bụi mịt trời, một chiếc xe vận tải của quân Mỹ mất phương hướng, lạc vào trận địa của quân địch.

Người lái xe là một nữ quân nhân tên Lira, bị thương và bị địch bắt giữ làm con tin để uy hiếp quân Mỹ. Cô bị nhốt ở một nơi hẻo lánh bí mật và bị canh giữ sát sao. Vì để cứu Lira, quân Mỹ đã huy động đội đột kích Hải Báo tấn công mãnh liệt khiến quân địch mất phương hướng, hoảng loạn tan vỡ.

Chỉ trong thời gian mấy phút, quân Mỹ đã giải cứu thành công Lira. Cô nhanh chóng được đưa về hậu phương điều trị. Chiến tranh kết thúc, Lira cùng với hai binh sĩ Mỹ từng bị bắt giữ khác trở về quê nhà và được chào đón như những người anh hùng.

6. Điều được giảng trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không phải là quần thể, quốc gia, thậm chí không hề giảng đến dân chủ. Điều được giảng là 3 quyền lợi lớn: quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Ba quyền lợi này đều là quyền lợi của cá nhân, không phải là quyền lợi của quần thể hay quốc gia.

P/s…: Những quyền lợi này có được ngay từ khi công dân Mỹ vừa mới sinh ra, chứ không phải do ai ban tặng. Mặt khác, những quyền lợi này có thể bảo vệ cá nhân, khiến họ không phải chịu đựng sự xâm hại của bất cứ ai. Chỉ có kiến lập trên cơ sở quyền lợi cá nhân, mọi người mới có thể có được một xã hội tự do chính nghĩa, tôn nghiêm và bình đẳng .

Chia sẽ lời bình luận của Roy Nguyen .
Fb Hiệp Tôn Hiep Ton That ( Copy FB Bao Nhi Lê )

Clip cảm động về cảnh sát Mỹ giúp tìm mẹ cho một em bé :http://www.daikynguyenvn.com/…/cau-be-goi-911-nho-tim-me-tr…

Con sãi ở chùa lại quét lá đa

J.B. Nguyễn Hữu Vinh
2017-09-20
 
Các thành viên mới của Bộ Chính trị (từ trái qua phải) Trương Hòa Bình, Võ Văn Thưởng, Phạm Minh Chính, Trương Thị Mai, Trần Quốc Vượng, và Ngô Xuân Lịch, chụp hình chung với các ủy viên trung ương mới của Đảng Cộng sản tại lễ bế mạc đại hội 12 ĐCS ở Hà Nội hôm 28/1/2016

Các thành viên mới của Bộ Chính trị (từ trái qua phải) Trương Hòa Bình, Võ Văn Thưởng, Phạm Minh Chính, Trương Thị Mai, Trần Quốc Vượng, và Ngô Xuân Lịch, chụp hình chung với các ủy viên trung ương mới của Đảng Cộng sản tại lễ bế mạc đại hội 12 ĐCS ở Hà Nội hôm 28/1/2016

 AFP
 

Đã có một thời kỳ rất dài, người cộng sản lên án chế độ thực dân, phong kiến ở mọi góc độ, mọi bình diện và mọi nơi, mọi lúc. Bất cứ thứ gì liên quan đến chế độ thực dân, phong kiến đều được gắn cho những tính từ không mấy dễ chịu như “lạc hậu, thối nát, man rợ”… và nhiều ngôn từ  khác nữa.

Đặc biệt, chế độ phong kiến bị cộng sản lên án nhiều nhất là tệ “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Thế rồi, để kích động dân đen nổi dậy, lật đổ, người Cộng sản luôn nêu cao những câu ca dao rằng: “Bao giờ, dân nổi, can qua. Con vua thất thế lại ra quét chùa”.

Phá tan tất cả

Tin vào những lời lẽ lên án đanh thép và những lời đường mật đó, dân nghèo đất Việt đã hùa nhau “đi theo đảng” lật đổ phong kiến, thực dân để cho bọn “con vua thất thế” và con dân nghèo nhảy lên ngai vàng.

Tôi nhớ mãi bài thơ của Tố Hữu về một người đầy tớ, cuộc sống của ông được mô tả như sau:

“Đến già, còn bửa củi
Gánh nước, cuốc vườn cau
Đất bụi lấm đầy đầu
Mà chủ còn hất hủi!”

Khi đó, người cộng sản đã đến với họ với những lời đường mật:

Tôi riết chặt bàn tay
Của lão: “Bao nhiêu nỗi
Đau buồn và tức tối
Sẽ tan biến ngày mai…
Ông đã nghe ai nói
Có một xứ mênh mông
Nửa tây và nửa đông
Mạnh giầu riêng một cõi ?
Nơi không vua, không quan
Không hạng người ô uế
Không hạng người nô lệ
Sống đau xót, lầm than.
Nơi tiêu diệt lòng tham
Không riêng ai của cải
Hàng triệu người thân ái
Cùng chung sức nhau làm
Để cùng nhau vui sướng
Ai già nua tật nguyền
Thì cứ việc ngồi yên
Đã sẵn tiền nuôi dưỡng”. 

(Trích Lão đầy tớ – Tố Hữu)

Và người dân Việt cứ vậy mà sướng, mà ung dung khoan khoái “ngồi mơ nước Nga”

Và đám dân chúng cùng đinh ấy, đã đua nhau hò hét, cướp giết và lật đổ để xây dựng một đất nước cộng sản như được hứa hẹn.

Kết quả là kể từ khi cướp chính quyền bằng cuộc cách mạng 19/8/1945 trở đi, biết bao cuộc vận động, phong trào thúc giục người dân Việt Nam đạp đổ, phá nát tất cả mọi “tàn dư thực dân phong kiến” ở đất nước này, bất kể tốt, xấu quý giá hay rẻ mạt. Phá tất. Tất cả để nhằm xây dựng một nền văn hóa mới XHCN với đầy đủ những lời lẽ ru ngủ như ở đó “của cải tuôn ra dào dạt, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, con người bình đẳng và làm chủ  xã hội”… Ôi chao, cứ như trong mơ về một “Thiên đường XHCN” ở ngay mặt đất này.

Những cuộc cách mạng “long trời, lở đất” như Cải Cách ruộng đất, cải tạo Công thương nghiệp tư bản, tư doanh, đánh tư sản… đã phá nát đến ngõ ngách không chỉ cơ sở vật chất và mối quan hệ xã hội được xây đắp bao đời, mà nền văn hóa ngàn đời cũng theo đó mà bị tận diệt.

Và người ta hy vọng rằng ở cái Thiên đường XHCN ấy là nơi “ Nơi không vua, không quan. Không hạng người ô uế. Không hạng người nô lệ. Sống đau xót, lầm than”.

Vết xe đổ, nhổ xong lại liếm!

Một thời gian mới cướp được chính quyền về tay mình và sau chiến tranh, người Cộng sản chưa vững ghế, chưa chắc chân, do vậy mọi hoạt động còn nhìn trước, ngó sau kẻo “Quan trên trông xuống, người ta trông vào”.  Thế nên việc đưa con cái, cháu chắt, người nhà vào chiếm những chiếc ghế béo bở trong bộ máy cai trị còn được chú ý, kiêng dè.

Thế nhưng, khi bộ máy được củng cố, nhà tù, súng đạn đã đầy đủ, ghế ngồi đã chắc chắn và nhất là khi người dân đã nếm đủ mọi mùi sự sợ hãi và khiếp nhược sau một thời gian dài cái “chuyên chính vô sản” tha hồ tác oai, tác quái… thì những người Cộng sản không ngại ngần trong việc ngang nhiên bất chấp tất cả để duy trì hệ thống độc tài toàn trị kiêm gia đình trị của từng vùng, từng lãnh thổ và cả đất nước.

Chính vì hệ thống cai trị chuyên quyền và độc tài, nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn. Những chiếc ghế cai trị dân bất cứ ở vị trí nào từ địa phương đến trung ương đã được dần dần định danh và định giá. Nếu trước đây, trên mạng Internet người ta có vẻ ngạc nhiên khi có thông tin chạy vào chức Chủ tịch Tp hết 30 tỷ đồng. Rồi người ta ngạc nhiên khi trong vụ án PMU 18 với thông tin chạy vào Trung ương Đảng hết 1 triệu đô la, thì đến nay, việc mua bán chức quyền đã là một điều như việc cơm ăn, nước uống hàng ngày.

Mới đây, bà Châu Thị Thu Nga khai đã chạy vào ĐBQH hết 30 tỷ đồng là chuyện không làm cho người ta ngạc nhiên.

Chính vì những chiếc ghế gắn liền với sự béo bở và là những đầu mối kiếm chác, tham nhũng vinh thân phì gia, mà các nhà chính trị, các nhà lãnh đạo đất nước đã không từ bỏ cơ hội bố trí người nhà, họ hàng vào các chân “Đầy tớ phục vụ nhân dân” này ngoài những phi vụ mua bán kiếm chác như đã nói ở trên.

Có lẽ khó có ai có thể tìm được một số người trong bộ máy công quyền tại Việt Nam hiện nay không xuất thân từ con ông cháu cha mà từ thực tài của bản thân không cần mua bán, chạy chọt phe nhóm.

Chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Chí Vịnh thứ trưởng Bộ Quốc phòng nếu không phải là con Nguyễn Chí Thanh. Cũng sẽ không có một Nông Quốc Tuấn bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang nếu không phải là con Nông Đức Mạnh, càng không thể có một Lê Minh Hưng làm Thống đốc Ngân hàng nếu không phải con Lê Minh Hương, cựu bộ trưởng Công an.

Người ta cũng biết rằng Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh con của Trần Đức Lương, cựu chủ tịch nước hoặc Phạm Bình Minh Bộ trưởng ngoại giao là con Nguyễn Cơ Thạch. Và người ta thừa biết rằng nếu không phải con Nguyễn Văn Chi, thì Nguyễn Xuân Anh có nằm mơ đến bảy đời sau cũng không leo được lên chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Có thể kể cả ngày không hết hiện tượng “con ông, cháu cha” trong hệ thống nhà nước Việt Nam hiện tại.

Có lẽ thời kỳ “con ông cháu cha” hưng thịnh nhất là thời Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng. Một thời gian dài làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam với những câu nói và hành động bất nhất điển hình, Nguyễn Tấn Dũng đã thể hiện cho cả nước biết rằng khi có quyền lực trong tay thì “miệng quan trôn trẻ” là chuyện đương nhiên.

Khỏi cần nhắc lại những lời thề thốt của một người đứng đầu chính phủ và sự nuốt lời trong công việc, chỉ cần nhìn hai đứa con ông đều được “cấu tạo” thần tốc vào các chân lãnh đạo tỉnh thì biết rằng ông bất chấp tất cả miệng đời người thế. Và ông đã mở đầu, cổ vũ cho việc đưa người thân, gia đình, họ hàng vào chiếm ghế lãnh đạo.

Thế là đúng như cha ông đã nói “thượng bất chính, hạ tắc loạn” các quan chức các tỉnh thi nhau đưa con cái, cháu chắt ào ào vào những chiếc ghế béo bở như chỗ không người. Cả nước theo nhau làm đúng quy trình “Cha bổ nhiệm con, chồng cơ cấu vợ, chị nâng đỡ em”… mọc lên như nấm sau mưa.

Không chỉ ở Huế cả nhà làm quan, mà ở Bắc Ninh thì cả họ nhà Bí thư tỉnh ủy đều chiếm những vị trí quan trọng trong tỉnh. Không chỉ có Yên Bái, chị bổ nhiệm em, mà ở Hải Dương thì từ con trai cho đến em rể… tất cả đều làm quan “đúng quy trình”.

Về vấn đề này, báo chí cho  biết: Bộ Nội vụ đã kiểm tra, rà soát theo thông tin báo chí phản ánh, tổng hợp được 9 địa phương, đơn vị bao gồm: Tỉnh Hà Giang; xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế; Huyện Buôn Đôn, Đăk Lăk; tỉnh Bình Định; huyện Phong Điền, Cần Thơ; Cục thuế tỉnh Bà Rỉa – Vũng Tàu thuộc Tổng cục thuế – Bộ Tài chính; tỉnh Yên Bái; Trung tâm Pháp y thuộc Sở y tế TP. Đà Nẵng.

Nhưng đó chỉ mới là một phần nhỏ trong hệ thống công quyền hiện nay.

Không chỉ cả họ làm quan, mà hình thành một hệ thống còn hơn cả thời phong kiến vua chúa ngày xưa. Người dân Hà Tĩnh thường đùa với nhau rằng: Nếu như ở Mỹ chỉ có Tổng thống Bush cha và Bush con, thì ở Hà Tĩnh có từ Thoại ông, Thoại cha đến Thoại cháu. Nghĩa là cả ba đời đang thay nhau để cai trị đám dân đen ngu dốt chứ không dành phần cho ai.

Rồi không chỉ anh em, họ hàng, mà những người cánh hẩu được đưa vào giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước bất chấp khả năng. Báo chí đã nêu không biết bao nhiêu trường hợp đưa lái xe vào làm chánh văn phòng Ủy ban, thậm chí đưa lái xe lên làm Viện Trưởng, bổ nhiệm em trai có tiền sự bị bắt vì đánh bạc lên làm Giám đốc Sở… Những câu chuyện chắc chỉ có ở cái thời Cộng sản kiêm Phong kiến thối nát ở Việt Nam đầu thế kỷ 21 mà thôi.

Và hài hước thay, khi đã thành một hệ thống con vua thì lại làm vua như một định luật bất biến, thì hệ thống quan chức đã lập tức có những lý luận, bao biện hết sức… gây cười. Chẳng hạn Nguyễn Thị Quyết Tâm, Phó bí thư Thành ủy HCM cho rằng: “Con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc”. Điều này đã gây những phản ứng dữ dội trên mạng xã hội.

Hạnh phúc hay đại họa?

Cần phải nói rằng, một con người được hình thành bởi nhiều yếu tố cộng lại. Để làm một người lãnh đạo dân, cần hội tụ nhiều yếu tố cơ bản cần thiết, đặc biệt là sự thông minh, nhạy bén và nhất là sự hy sinh phục vụ. Với con người, yếu tố thông minh, tài giỏi có nguồn gốc lớn từ nguồn gen di truyền là chính, sự học hành, rèn luyện là cần thiết nhưng chỉ là một phần mà thôi.

Thế nhưng, thử xét theo cả hệ thống cộng sản xưa nay, trong một thể chế chính trị mà ngay từ đầu đã chủ trương “Trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ” – nghĩa là những tầng lớp ưu tú nhất đều bị loại bỏ, người Cộng sản chỉ ưu tiên Giai cấp công nhân vì họ nhận đó là giai cấp của họ. Mà xưa nay, công nhân chỉ có búa và đe thì họ thạo, còn chữ nghĩa, trí thông minh thì chẳng ai trông cậy vào cái giai cấp ấy.

Mà phần lớn những lão thành, những cá nhân đã từng leo đến chức lãnh đạo trong hàng ngũ cộng sản, đều xuất phát từ giai cấp công nhân, hoặc nông dân là tầng lớp liên minh mới được cất nhắc, bổ nhiệm và chú trọng, những thành phần ưu tú khác như “Trí, phú, địa, hào” thì đừng có mơ.

Vì thế có thể nói ngay rằng, về nguồn gen, họ chẳng được thừa hưởng bất cứ sự thông minh tài giỏi nào để lại. Ngược lại họ được thừa hưởng sự lưu manh, cơ hội và thiếu văn hóa cần thiết cho con người và xã hội.

Còn về tinh thần, đạo đức? Thì hẳn là những kẻ cố tình bám lấy cơ hội là cái ô cái lọng của cha ông, anh chị để leo lên giữ cái ghế của mình không bởi từ thực tài, đó là những kẻ cơ hội. Mà đã là cơ hội thì xin đừng nói đến tinh thần phục vụ bất cứ ai, kể cả người thân của mình.

Như vậy, việc bổ nhiệm con em cán bộ lãnh đạo lên làm lãnh đạo tiếp tục, cần phải được hiểu chính xác là đại họa của dân tộc. Chỉ là hồng phúc cho đám cơ hội vơ vét mà thôi.

Thì đã hẳn, cứ nhìn đất nước này sau mấy chục năm người cộng sản thi nhau cha truyền con nối làm tập thể vua lãnh đạo cho đến hôm nay  đứng trên bờ vực của sự suy đồi, sụp đổ mọi mặt thì sẽ thấy rõ ràng.

Còn quan chức ư? Cứ mở miệng ra câu nào thì dân đập vào miệng câu ấy đủ hiểu trình độ và tư duy của họ như thế nào.

Tạm kết

Có lẽ, khi người cộng sản ra sức tung hô chiếc bánh vẽ thiên đường xã hội chủ nghĩa, và qua đó ra sức chửi rủa hệ thống phong kiến và thực dân, họ cũng không ngờ rằng sẽ có một ngày nào đó, chính họ lại phải liếm lại bãi nước bọt mà họ đã nhổ ra.

Có ai ngờ, đến một  ngày, chính người cộng sản lúng túng đến mức chắc phải xé bỏ tất cả những trang sách giáo khoa và những tác phẩm văn học đã từng vận dụng câu ngạn ngữ dân gian rằng: “Còn vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”.

Bởi đơn giản là những câu đó nếu được nhắc lại thì chỉ tổ làm người ta thấy ớn lạnh, sửng sốt và kinh hãi trước sự lỳ lợm, sự điêu toa và sự thiếu liêm sỉ khi chính người dân nhìn vào hệ thống hiện nay.

Bởi ngày xưa chỉ có “con vua thì lại làm vua” còn ngày nay, con cháu họ hàng cán bộ đua nhau làm cán bộ.

Ngày xưa, cả đất nước chỉ có một vua, việc lạm dụng chức quyền cũng chỉ có một người. Còn ngày nay, bất cứ chỗ nào cũng có những đàn vua tập thể mang tên Đảng ủy và đàn cán bộ họ hàng, hang hốc nhà đảng viên chia chác nhau ghế ngồi trên đầu người dân.

Và đại họa của đất nước đang lừng lững đến một cách vững chắc nhất, nhanh chóng nhất và khủng khiếp nhất.

GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

From facebook:   Van Pham‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, hat and outdoor
Image may contain: sky and outdoor

Van Pham added 3 new photos.

 

Bài viết này của Thiếu Tá Vương Mộng Long (tốt nghiệp khóa 20 Võ Bị QG Đà Lạt), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động quân thuộc Liên Đoàn 2 BĐQ trấn thủ tại mặt trận Tây Nguyên… tôi đã đăng trước đây.

Nay qua cuốn phim “Vietnam War” vừa được trình chiếu tại Mỹ & phổ biến trên internet…. trong đó có nhiều điều chưa đúng sự thật hay còn thiếu sót. Tôi xin được đăng lại, để mọi người hiểu tại sao những tay “phản chiến” hoặc giới truyền thông báo chí thường bóp méo cuộc chiến Việt Nam qua lăng kính của người ngoài cuộc và thời thượng…

THƯA ĐẠO DIỄN LYNN NOVICK. ĐÂY MỚI LÀ GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

Xin mời bà con hãy đọc ở đây để công tâm hơn.
*************

Một chiều cuối năm 1998 tôi vào trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều.

Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C… C.).

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ. Thật là, không có gì diễn tả nỗi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.

Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full time, đi học full time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quarter) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam.”

Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn.

Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý. Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai (1954 1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Ðông Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Ðiện Biên Phủ, về Hiệp Ðịnh Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei Me, Khe Sanh, Kontum, Bình Long, Long Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Ðồng Minh và Việt Nam Cộng Hòa. Trận Mậu Thân, chỉ là cảnh… nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Thầy mô tả Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc Phòng Hoa Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Ðã có đôi lần tôi giơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm, “Book said!”

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm “không” (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử tổng thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà tiểu bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Ðảng Dân Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Ðúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Ðể thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra. Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện được.

Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những chứng cứ thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.

Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ:
– Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở :
– Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng:
– Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên cao nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia Drang. Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia Drang đó.

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Từ đó, tên Việt Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

Chính tên sát nhân này và đảng Cộng Sản Việt Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ cộng sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Ðồng Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Ðồng Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng 4 năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng 4 năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
– Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
– Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
Tôi không ngần ngại, tiếp lời:
– Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.

Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Plei Me, Ðức Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
– Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?
Tôi cứ tình thực trả lời,
– Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.

Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Ðường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che giấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn Thám săn tin dọc biên giới Việt Miên Lào từ Khâm Ðức tới Bu Prang vào những năm 1972-1973.

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã áp dụng trong trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975. Trận Xuân Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
– Trời ơi!”

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng 4 năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh cộng sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp Ðịnh Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam. Quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Ðồng Minh vào Việt Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Ðồng Minh bàn giao lại. Ðể chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt Nam Cộng Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Ðoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

– Ðây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Ðà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Ðể chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Ðây là lời của anh ấy,

– Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Ði đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt Nam Cộng Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
– Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
– Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
– Cậu bé Việt Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm “không” (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
– Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
– Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

Ðêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Ðoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A.A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm:
– Long! I’m proud of you!

Ðến lúc bà hiệu trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi.”

Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những dòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
– Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

VƯƠNG MỘNG LONG.

 

Người giàu sụ Việt Nam tiêu tiền vào đâu?


Số du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây (ảnh minh họa).

Số du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây (ảnh minh họa).

“Ở Việt Nam có một số người giàu lên rất nhanh,” Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương Việt Nam cho biết. “Họ giàu lên một cách quá dễ dàng và không phải kinh doanh gì. Cho nên số người đó có khả năng chi tiêu rất lớn và họ cũng sẵn sàng chi tiêu.” Các con số mà tạp chí Forbes đưa ra về các chi tiêu nước ngoài, mua nhà ở Hoa Kỳ theo ông Doanh, “là những con số tuy có thể cần được xác minh thêm, nhưng là những có số từ các nguồn khác nhau có sự trùng hợp, cho nên có một khả năng tin cậy nhất định.”

Một lượng tiền lớn của người giàu Việt Nam đang được đầu tư vào bất động sản ở nước ngoài. “Mua nhà ở Mỹ, ở Australia, ở New Zealand — là những khoản chi rất lớn,” theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, “để họ còn chuẩn bị ra nước ngoài định cư.”

Các lãnh vực “nước ngoài” khác mà người giàu Việt Nam đang tiêu tiền vào được tạp chí Forbes liệt kê còn có du lịch nước ngoài. Du khách Việt Nam có thể dễ dàng du lịch đến các nước trong khu vực với những chuyến bay đường ngắn, giá vé rẻ đang rất thịnh hành; họ lại được miễn visa du lịch vào các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á, khối có dân số 630 triệu người.

Báo Vietnam Net dẫn số liệu thống kê trong nước nói rằng số người Việt Nam đi du lịch Nhật Bản đạt đến 230,000 lượt người từ năm 2012 đến 2016, và ước tính đến năm 2021 sẽ có khoảng 7,5 triệu người du lịch nước ngoài.

Về nhu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở nước ngoài, theo Forbes, người giàu Việt Nam dần chuyển nhu cầu về chăm sóc sức khỏe từ dịch vụ, dược phẩm, mỹ phẩm rẻ tiền, không tên tuổi sang các loại đắt tiền mang thương hiệu nổi tiếng. Báo cáo của hãng nghiên cứu thị trường Euromonitor International đánh giá rằng thị trường chăm sóc sức khỏe của Việt Nam tăng mạnh trong năm nay. Còn hãng nghiên cứu thị trường Neilson thì nói rằng chăm sóc sức khỏe là quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng Việt Nam.

“Chi cho du lịch khoảng hơn 6 tỉ đôla, khoản chữa bệnh khoảng 3 tỉ đôla, và mua nhà ở Hoa Kỳ khoảng 3 tỉ đôla, tổng cộng lại khoảng 12 tỉ đôla,” theo nhận định của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Xài hàng Nhật, theo phân tích của Forbes, thì người tiêu dùng Việt Nam nói họ thường tránh mua hàng Trung Quốc vì hàng hóa nhập từ nước có lịch sử “ức hiếp chính trị” Việt Nam này có chất lượng kém. Xe máy, đồ điện tử và hàng tiêu dùng của Nhật luôn được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng. Gần đây mỹ phẩm và nhiều loại hàng tiêu dùng của Hàn Quốc cũng đang mở rộng thị phần ở Việt Nam.

iPhone của Apple và Galaxy Note của Samsung bán rất chạy ở Việt Nam vì nhu cầu máy điện thoại cầm tay tiếp tục tăng mạnh. Những chiếc điện thoại cầm tay đắt tiền này vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng vừa là “đồ trang sức.” Điện thoại Oppo của Trung Quốc chiếm thị phần lớn thứ hai tại Việt Nam.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh phân tích: “Dĩ nhiên là các chi tiêu nước ngoài đó không đóng góp gì được cho tăng trưởng GDP ở trong nước. Vì tăng trưởng GDP trong nước là phải tạo ra công ăn việc làm, và tạo ra giá trị gia tăng.”

Về mặt xã hội, theo Tiến sĩ Doanh thì xu hướng chi tiêu nước ngoài này càng đào sâu hố phân cách giàu nghèo: “Điều đó nói lên sự chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam rất đậm nét, vượt quá dự đoán của các nhà kinh tế. Người nghèo thì vẫn rất nghèo, người ta thấy những cảnh như qua thiên tai bão tố mới đây.”

Nhóm tư vấn Boston Consulting Group của Mỹ ước tính sự giàu có lên tiếp tục tăng mạnh tại Việt Nam. Nhóm này ước tính đến năm 2020, một phần ba dân số của Việt Nam sẽ ở vào tầng lớp trung lưu hoặc cao hơn, có nghĩa là mức thu nhập bình quân của một người trong nhóm này tối thiểu là 714 đôla một tháng.