Người dân đi lễ cầu tài lộc tại đền Bà Chúa Kho, Bắc Ninh
Zing
Đổ xô cầu tài – lộc vì mất niềm tin!
00:39/06:20
Mất niềm tin vào xã hội
Năm nào cũng vậy, trước khi diễn ra sự kiện Lễ hội phát ấn đền Trần đêm 14 rạng sáng ngày rằm tháng Giêng tại thành phố Nam Định, hàng nghìn người dân từ các tỉnh thành phía Bắc lại đổ dồn về đây, chầu chực, xếp hàng ở bên ngoài khu vực phát ấn từ khi chiều tối. Để rồi đến khi diễn ra lễ phát vào đúng 12 h đêm, cả ngàn người dân chen chúc, xô đẩy, thậm chí giẫm đạp lên nhau để tranh cướp ấn.
Cũng tương tự tình cảnh trên, tại chùa Phúc Khánh, quận Đống Đa (Hà Nội) vào các Lễ dâng sao giải hạn hay Lễ cầu an, hàng nghìn người dân thủ đô xếp hàng kín mít bên ngoài ngôi chùa nhỏ, thậm chí ngồi tràn hết cả ra lề đường và cảnh tượng chen lấn để xin lộc lại lặp lại ngay sau khi buổi lễ kết thúc.
Con cái tôi còn nhỏ, mang tiếng có bảo hiểm nhưng đi khám nhà nước cho được mấy viên thuốc, uống cũng chẳng thấy khỏi bệnh gì cả mà chẳng biết trông chờ vào ai cả – người dân
Từ khi nào niềm tin tâm linh của người Việt lại trở nên “mãnh liệt” như vậy. Vì sao trong những năm gần đây, người ta tìm đến các đình, đền, chùa, miếu, mạo ngày một đông, vào bất kể dịp nào trong năm? Khi được hỏi về lý do thường xuyên đi lễ, bà Minh, một người dân cho biết:
“Xã hội bây giờ bệnh tật thì nhiều, ra đường thì người dân không có ý thức đi ẩu gây ra tai nạn giao thông, ăn uống thì thực phẩm bẩn, môi trường thì ô nhiễm… đâm ra cũng chẳng biết trông chờ gì. Thôi tốt nhất là cứ theo mặt tâm linh đi lễ cầu mong sức khoẻ, bình an cho gia đình mà thôi”
Mất niềm tin vào cuộc sống, rất nhiều người dân như bà Minh cố gắng bấu víu vào các thế lực tâm linh mà cụ thể là việc đi lễ để xin ơn trên che chở cho bản thân và gia đình trước những mối đe doạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống:
“Con cái tôi còn nhỏ, mang tiếng có bảo hiểm nhưng đi khám nhà nước cho được mấy viên thuốc, uống cũng chẳng thấy khỏi bệnh gì cả mà chẳng biết trông chờ vào ai cả”
Không chỉ dừng lại ở việc cúng lễ, hình thức hầu đồng cũng ngày một trở nên phổ biến hơn. Các đình, đền, miếu, phủ vào các dịp lễ thánh trong năm lúc nào cũng tấp nập, đông đúc với các vấn hầu đồng, thậm chí người ta còn phải bỏ tiền ra đút lót để có được những xuất hầu vào các ngày giờ đẹp. Chưa bao giờ người dân lại đặt niềm tin vào các đấng siêu nhiên nhiều như bây giờ. Nhà nghiên cứu Pham Cẩm Thượng năm 2013 cũng đã từng chia sẻ: “Ở đâu mà lòng người bất an, xã hội bất trắc, thì mê tín dị đoan cũng có nhiều cơ hội, như cỏ dại gặp đất hoang vậy”.
Lệch lạc nhận thức
Trên facebook cá nhân, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện cho rằng: “Nước ta đang dấy lên chuyện tâm linh, nhưng toàn cổ xúy cho những lệch lạc, mê lầm”
Theo ông, trên thực tế, đáng lẽ đền Trần là nơi giáo dục hào khí Đông A và tinh thần yêu nước thì trở thành nơi cổ xúy chuyện ấn triện, thăng tiến và lợi lộc, mua quan bán chức; đền Bà Chúa Kho, bà chúa Xứ là nơi giáo dục tinh thần tận tụy và liêm chính, trách nhiệm với kho dự trữ của nhà nước thì trở thành nơi mặc cả vay mượn, mua bán quàng xiên. Hay như lễ Tịch điền, đàn Xã Tắc là nơi giáo dục lòng biết trọng nông thuần phác thì lại thành ra nơi lòe loẹt, cờ đèn kèn trống.
Trả lời về vấn đề này, GS-TS Nguyễn Chí Bền, nguyên Viện trưởng Viện văn hoá nghệ thuật Việt Nam cho biết:
“Tôi cũng đã đi theo một số người đi lễ, họ đi đến đình, đền, phủ hay đến chùa đều nói một câu hết sức quen thuộc là “Nam mô a di đà Phật”, điều đó cho thấy người ta đến di tích và không gian ấy mà không hiểu ý nghĩa thực sự hay vị thánh, thần nào là điện chủ của di tích ấy, chính vì vậy mà họ hiểu nhầm”
Người ta đến đó (đền Bà chúa Kho) để xin vay mượn dịp đầu năm xong đến cuối năm người ta đến đó để trả “nợ” – GS.TS Nguyễn Chí Bền
Ngoài ra, ông cũng cho rằng việc một bộ phận không nhỏ người dân đổ xô về một số di tích đình, đền, chùa là do hiệu ứng đám đông:
Người ta cứ tưởng rằng cứ đến đền Trần, có được cái lá ấn thì là được thăng quan tiến chức trong khi thực tế người ta đến đền Trần để cảm ơn các vua nhà Trần đã phù hộ cho người tra 1 năm vừa qua và cầu xin sự phù hộ cho năm sắp tới. Hay là đền Bà chúa Kho là nơi thờ người phụ nữ trông coi kho cho các vua nhà Lý để phục vụ cho việc chống giặc ngoại xâm thì giờ biến thành câu chuyện vay mượn, và người ta đến đó để xin vay mượn dịp đầu năm xong đến cuối năm người ta đến đó để trả “nợ”.
Đánh giá về hiện tượng này, sư thầy Thích Thánh Hiền, chùa Hoa Nghiêm, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ cho rằng, không phải ai cũng hiểu được mục đích của việc đi lễ và do đó họ thường cầu xin công danh, bổng lộc hay của cải, vật chất. Tuy nhiên, điều này đi ngược lại hoàn toàn với mục đích chính của nét đẹp văn hoá này và cần phải điều chỉnh cũng như thay đổi dần nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân hiện nay.
“Đức thế tôn dạy rằng vạn pháp đều từ tâm mà ra. Nếu tâm mình thanh tịnh thì cuộc sống của mình sẽ hạnh phúc. Mình cầu sự bình an, mình phát đi một tâm lành thì những điều thiện, điều lành sẽ đến với mình”
Theo GS.TS Nguyễn Chí Bền, tín ngưỡng, văn hoá là khái niệm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và hằn sâu trong tâm thức của mỗi con người. Do đó, việc tuyên truyền, quảng bá nhằm giúp người dân nhân thức đúng đắn về ý nghĩa tâm linh cũng như có kiến thức về những di tích lịch sử đình đền chùa là một vấn đề cần phải thực hiện; tuy vậy không thể dễ dàng thực hiện được trong thời điểm hiện nay.
Bản quyền hình ảnh PEOPLE IN NEEDBà Nguyễn Thanh Mai nhận giải Homo Homini thay cho blogger Đoan Trang
Blogger Đoan Trang nhờ một phụ nữ gốc Việt nhận giải nhân quyền Homo Homini tại Czech và gửi thông điệp về “cuộc đấu tranh quyền cơ bản” ở Việt Nam.
Blogger Đoan Trang, tác giả cuốn Chính Trị Bình Dân, hiện đang trong tình trạng “ẩn náu tại Việt Nam” sau lần bị câu lưu hôm 24/2.
Lễ trao giải Homo Homini của tổ chức People in Need diễn ra tại Prague, Cộng hòa Czech vào đêm 5/3 giờ địa phương.
Trong clip phát biểu được gửi đến sự kiện, Đoan Trang nói: “Người dân Việt Nam vẫn đang phải đấu tranh để quyền cơ bản của con người được thực thi.”
Cô cũng nhắc đến câu chuyện của những người đang bị cầm tù: sinh viên Trần Hoàng Phúc, blogger Thúy Nga và Mẹ Nấm…
“Tôi ước ao là một ngày nào đó, người dân Việt Nam không còn phải đấu tranh với một nhà nước độc tài,” Đoan Trang nói trong lời kết bài phát biểu.
‘Ý thức của người dân‘
Bà Nguyễn Thanh Mai, người đang làm việc cho một hãng hàng không ở Cộng hòa Czech và được Đoan Trang nhờ đi nhận giải thay, nói với BBC hôm 7/3:
“Trong lần về Việt Nam hồi tháng 3/2015, tôi có gặp Đoan Trang. Tôi cho là vì đang phải ẩn lánh, cho nên cô ấy có lý do để lo lắng cho sự an toàn mà người khác có thể sẽ gặp phải nếu công khai đi nhận giải thay cô ấy.”
“Đoan Trang là tác giả mà tôi yêu quý và trân trọng. Có thể nói không ngoa rằng cô ấy là người giúp tôi mở mắt.”
“Theo như tôi thấy, Đoan Trang khác các nhà báo khác ở chỗ cô ấy ý thức rất rõ rằng người dân cần phải có kiến thức cơ bản về chính trị, về sự vận hành của các thể chế chính phủ, để biết mình muốn thể chế nào, phải chăng quyền đó có là chính đáng hay không và có thể làm được gì cho điều đó.”
“Khác với các lời kêu gọi kiểu “Các bạn hãy đi theo tôi”, thông điệp của Đoan Trang là các bạn hãy tự tìm hiểu và làm theo những gì các bạn cho là tốt nhất.”
Bản quyền hình ảnh OTHER Blogger Đoan Trang trong clip mà cô gửi đến lễ trao giải
Bà Thanh Mai cũng cho biết thêm:
“Từ 1999, tôi về Việt Nam thường xuyên, năm nào cũng một, hai lần vì cha mẹ đã già. Lúc đó thì tôi không hề có bất kỳ hoạt động gì, một phần vì con nhỏ, một phần vì chưa có ý thức.”
“Tôi bắt đầu có các hoạt động đầu tiên từ 2013, khi đó tôi tham gia nhóm Văn Lang Praha và bắt đầu dịch, biên tập một số tác phẩm của Vaclav Havel [cựu tổng thống và cũng là nhà viết kịch bất đồng chính kiến] Nhờ các tác phẩm này mà tôi mở mắt hơn, và bắt đầu có những hoạt động mà phần lớn đều có thể thấy trên website Văn Lang.”
“Trong lần về nước hồi tháng 12/2015, tôi bị chặn lại và được thông báo rằng mình không được đón nhận tại Việt Nam. Khi tôi hỏi tại sao thì công an cửa khẩu bảo tôi sang hỏi an ninh tại sứ quán Việt Nam tại Czech.”
“Dĩ nhiên là chẳng có ai ở đó tự nhận mình là an ninh, cho nên chưa bao giờ tôi biết lý do bị cấm nhập cảnh. Ngay cả khi cha tôi qua đời ở Việt Nam, tôi lên xin visa và cũng không nhận được trả lời.”
“Năm ngoái, một nhân viên của sứ quán Việt Nam có mời tôi gặp nói chuyện. Cuối buổi nói chuyện, người này nói tôi nên ‘sử dụng quan hệ của mình với báo chí, truyền thông Czech một cách thích hợp hơn’. Tôi cảm ơn sự quan tâm và hứa là sẽ suy nghĩ về lời khuyên này.”
Cũng trong hôm 7/3, BBC nhận được ý kiến của ông Trịnh Hữu Long, đồng sáng lập Luật Khoa Tạp chí: “Theo tôi được biết, từ khi Đoan Trang về nước vào tháng 1/2015, không ai biết chắc cô ấy có bị cấm xuất cảnh hay không vì cô không bị thu hộ chiếu và chưa thử xuất cảnh lại bao giờ.”
“Tuy vậy, chuyện đó không quan trọng vì Đoan Trang đã từng thề trước khi về nước là sẽ không bao giờ rời Việt Nam chừng nào Việt Nam còn độc tài.”
“Cam kết vững chắc đó của Đoan Trang cho thấy cô ấy nghiêm túc và sẵn sàng trả giá cao đến như thế nào cho cuộc đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam.”
“Từng nhiều lần Đoan Trang nói với tôi rằng, đây không phải cuộc chơi để mà dạo chơi, đây là cuộc đấu tranh giữa sống và chết, giữa khao khát được sống tự do, lương thiện của con người với cái ác, cái xấu đang cố dìm con người xuống.”
“Hơn nữa, tôi biết Đoan Trang không ham hố giải thưởng gì. Nếu tôi nhớ không lầm thì cô ấy đã được đề nghị trao giải nhiều lần lắm rồi. Lần này cô ấy đồng ý nhận giải vì giải này không trao hiện kim, mà lại là cơ hội để giới làm phim quốc tế biết đến tình hình nhân quyền Việt Nam nhiều hơn.”
ĐTGM PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC ĐÃ ĐỘT QUỴ VÀ QUA ĐỜI TẠI ROMA
Đây là những hình ảnh mới nhất chụp với ĐTC Phanxicô tại Rome, ngày 05.03.2018, trong chuyến đi Ad Limina này.
Cha Phêrô Kiều Công Tùng, Chưởng ấn, Tòa TGM Sài Gòn cho biết:
“Đức Tổng Giám Mục Phaolô đã an nghỉ trong Chúa tại Roma vào sáng sớm hôm nay thứ Tư 07.03.2018 sau khi bị đột quỵ và được cấp cứu tại bệnh viện San Camillo từ hôm qua (06.03.2018).
Xin quý cha và các cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho Đức cố TGM Phaolô. Từ hôm nay, trong phần chuyển cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể, xin quý cha chỉ nêu tên các giám mục phụ tá.
Việc tổ chức tang lễ và chương trinh chi tiết sẽ được thông báo sau”.
Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1944), khẩu hiệu giám mục là “Chúa là nguồn vui của con.”
Ngài sinh tại Đà Lạt. Trong quá trình tu tập, từ năm 1956, ngài học tại nhiều nơi: Tiểu chủng viện Sài Gòn, Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn và tại Đại học Truyền giáo Urbaniana Rôma. Năm 1970, sau đó trở về Việt Nam và thụ phong linh mục ngày 17 tháng 12.
Ngài từng làm giáo sư Tiểu chủng viện Simon Hòa, Đại chủng viện Minh Hòa và Viện Đại học Đà Lạt. Năm 1975, ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Đại chủng viện Minh Hòa, giáo sư Thần học tín lý tại Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt, và các Đại chủng viện Sài Gòn, Huế và Hà Nội. Từ năm 1995, ngài kiêm thêm nhiệm vụ Tổng đại diện Giáo phận Đà Lạt.
Ngày 26 tháng 3 năm 1999, Đức cha Phaolô được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho. Ngày 28 tháng 9 năm 2013, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng giám mục phó của Tổng giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Cùng với bổ nhiệm trên đây, Tân Tổng giám mục Phó Phaolô Bùi Văn Ðọc cũng được bổ nhiệm làm Giám quản Tông Tòa giáo phận Mỹ Tho.
Tại kỳ họp thứ 12 của Hội đồng Giám mục Việt Nam tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Sài Gòn, ngài đã được các giám mục bầu làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2013 – 2016. Ngày 22 tháng 3 năm 2014, Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận đơn từ nhiệm chức Tổng giám mục của hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giám mục phó Phaolô Bùi Văn Đọc đương nhiên kế vị chức tổng giám mục theo Giáo luật.
Ngày 29 tháng 6 năm 2014, Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc nhận dây pallium do Giáo hoàng Phanxicô trao. Ngày 13 tháng 9 cùng năm, Giáo hoàng bổ nhiệm ngài làm thành viên Bộ truyền giáo.
NGÀY MAI LÀ 8 THÁNG 3. KHÔNG BIẾT CÓ AI BIẾT RẰNG trên thế giới bây giờ chỉ còn lại một nhúm quốc gia lấy ngày 8 tháng 3 làm ngày lễ phụ nữ hay không nhỉ? Và khi chỉ với một nhúm như thế thì có nên gọi đó là ngày “quốc tế” nữa không khi mà có đến 86% các quốc gia trên toàn cầu chẳng ai thèm đi “ăn mừng” ngày 8/3 cả.
Trang web IWD (International Women’s Day) cho biết chỉ có 27/193 quốc gia (14%) lấy “Ngày quốc tế phụ nữ 8/3″ làm ngày lễ kỷ niệm chính thức là các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cuba, Lào, Campuchia, Afghanistan, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Mông Cổ, Montenegro, Nga, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine, Uzbekistan, Zambia, Burkina Faso, Guinea-Bissau, Madagascar, Uganda và Nepal.
Thật là phì cười khi phần lớn các nước trong nhóm 27 quốc gia này đều là loại bị xếp hạng thấp và trung bình về chỉ số phát triển con người HDI. Trong khi đó, 166 quốc gia còn lại trên toàn cầu, trong đó có các nước văn minh tiên tiến như nhóm G7 (Mỹ, Đức, Nhật, Anh, Pháp, Canada, Ý), Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ, Brazil, Argentina… không ăn mừng 8 tháng 3 thì lại nằm ở thứ hạng cao ngất về chỉ số HDI.
Điều đó đã phản ánh lên câu chuyện gì? Xin thưa, đó là món bánh vẽ dành cho đám chị em ở những quốc gia mà con người nói chung, phụ nữ nói riêng đều đang đói ngấu về tự do và hạnh phúc. Ngày ngày sống trong âu lo, khắc khoải bởi phân biệt đối xử và không ít người phải nhắm mắt trao thân để đổi lấy miếng ăn!
Không quên những người phụ nữ can trường vẫn còn đang bị giam giữ trong lao tù chỉ vì lòng yêu nước và đấu tranh cho tự do, dân chủ tại Việt Nam.
(Ảnh Từ trái qua phải theo thứ tự)
– Cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị bắt giữ vào cuối tháng Bảy năm 2011 vì chụp hình một cuộc biểu tình chống Trung Quốc và bị kết án 8 năm tù với tội danh “lật đổ nhà nước” theo điều 79. Tuy học làm nghề thẩm mỹ, cô gái 26 tuổi này là người nhiệt huyết cổ võ cho công bằng xã hội và nhân quyền, thể hiện qua việc làm của một ký giả nhiếp ảnh. Cô đến những nơi nào có bất ổn xã hội, có biểu tình công cộng để chụp hình và tạo chú ý cho các sự kiện này.
– Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – Mẹ Nấm, là một blogger viết về các vấn đề xã hội và là mẹ của hai đứa con nhỏ. Từ năm 2009 đến năm 2016, Mẹ Nấm đã bị bắt giữ nhiều lần do tham gia các hoạt động dân sự, đòi nhân quyền và biểu tình phản đối Trung Quốc chiếm biển đảo. Mẹ Nấm bị bắt ngày 10 tháng Mười năm 2016 tại Nha Trang với tội danh theo điều 88 – “tuyên truyền chống nhà nước”và bị kết án 10 năm tù.
– Bà Trần Thị Nga năm nay 40 tuổi và mẹ của bốn người con, trong đó có hai người con trai nhỏ. Vì những hoạt động hỗ trợ dân oan, biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, chống Formosa,… mẹ con bà Nga liên tục bị công an bắt cóc, chặn đánh giữa đường. Sau nhiều ngày bị khủng bố, đe dọa và giam lỏng tại nhà riêng, bà Trần Thị Nga đã bị công an bắt vào ngày 21/1/2017 và bị khởi tố theo điều 88 Bộ Luật Hình Sự – “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” và bị kết án 9 năm tù.
– Bà Trần Thị Thúy là một Phật tử Hòa Hảo hoạt động cho quyền lợi của dân oan, đang thụ án tù 8 năm sau khi bị kết án “có những hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” theo Điều 79 Bộ Luật Hình Sự. Bà bị bắt giữ hồi tháng Tám năm 2010 và đang bị giam giữ tại trại An Phước, tỉnh Bình Dương. Mang bệnh nan y trong người và sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt trong tù, bà Thúy nhiều lần bị giới chức trách khước từ cho đi chữa trị sức khoẻ. Tình trạng của bà hiện đang được quốc tế báo động.
– Lê Thu Hà là thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, đảm trách chức vụ thư ký và ngoại giao cho hội. Cô cũng là một trong những người thực hiện chương trình Lương Tâm TV, một kênh truyền thông được phát trên Youtube nói về các vấn nạn xã hội. Ngày 16 tháng 12 năm 2015, cô Lê Thu Hà bị bắt cùng Luật sư Nguyễn Văn Đài với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 Bộ Luật Hình Sự.
Tuyết đóng tại nơi nghỉ mát trượt tuyết ở Lake Tahoe, California. (Hình: AP)
SAN FRANCISCO, California (AP) – Một bà mẹ và đứa con trai 7 tuổi thiệt mạng khi một tảng băng tuyết khổng lồ rơi từ mái nhà căn chung cư và đè lấp họ ngay trước cửa nhà ở một khu vực đồi núi tại Bắc California, theo giới hữu trách.
Bà Olga Perkovic, 50 tuổi, và đứa con trai, Aaron Goodstein, 7 tuổi, trước đó đi trượt tuyết ở vùng núi Sierra Nevada, gần biên giới với tiểu bang Nevada và trở về căn chung cư của mình vào chiều ngày Chủ Nhật, thì một tảng băng tuyết lớn khổng lồ, từ trên mái xuống, chôn vùi hai mẹ con dưới đống tuyết dầy khoảng 1 mét, theo Sở Cảnh Sát Alpine County.
Khi nghe tin hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson vào Đà Nẵng tháng Ba, 2018, tôi tự hỏi: tại sao không phải Cam Ranh mà là Đà Nẵng, và tại sao lại tháng Ba?
Nhìn lại lịch sử thì ta thấy cái địa danh Đà Nẵng hay gắn liền với những bước ngoặt của chiến lược Mỹ tại Biển Đông.
Mà kể cũng lạ, những bước ngoặt ấy lại có một sự trùng hợp: đó là nó thường hay xảy ra vào tháng Ba:
Tháng Ba, 1965 sau bao nhiêu thẩm định, cân nhắc, Washington đi tới quyết định đưa quân tác chiến vào Việt Nam. Đà Nẵng được chọn làm nơi để bắt đầu. Quyết định này phản ảnh một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ chiến tranh du kích, chống nổi dậy tới chiến tranh quy ước.
Tháng Ba, 1973: sau Hiệp định Paris, lễ chính thức hạ cờ Mỹ để kết thúc vai trò của quân đội tác chiến tại Việt Nam lại được tổ chức tại sân bay Đà Nẵng.
Tháng Ba, 1975: Tòa Lãnh Sự Mỹ – bộ phận dân sự còn lại của Mỹ – đóng cửa hoàn toàn và rút đi trên con tầu cuối cùng rời cảng Đà Nẵng.
Bây giờ – tháng Ba, 2018 – siêu hàng không mẫu hạm cập cảng Đà Nẵng. Liệu nó có đánh dấu một bước ngoặt khác hay không?
Trước hết ta nhìn lại những mốc lịch sử của Đà Nẵng liên hệ tới chiến lược của Mỹ:
Tháng Ba, 1965: đổ bộ Đà Nẵng
Sau khi TT John F. Kennedy bị sát hại vào tháng 11, 1963, Phó TT Lyndon B. Johnson lên kế vị. Tuy có lập trường cứng rắn về Việt Nam, ông cố gắng kìm hãm, không leo thang cuộc chiến vì đã đặt ra mục tiêu ưu tiên cho chính quyền ông là War on Poverty– chiến đấu để khắc phục sự nghèo khó của lớp người thiểu số ở Mỹ.
Cuối năm 1964, dù sau khi đã đại thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, nhiều người khuyên ông nên có hành động mạnh ở Việt Nam nhưng ông vẫn tiếp tục tự chế.
Nhưng rồi biến cố Pleiku đã thay đổi hẳn lập trường của ông. Cuộc tấn công vào doanh trại cố vấn Mỹ tại Pleiku và căn cứ trực thăng Holloway (cách đó khoảng bốn dặm) vào lúc 2:00 giờ sáng ngày 7 tháng 2, 1965 đã gây nên thiệt hại lớn : trong số 137 quân nhân Mỹ ở căn cứ này thì 9 người bị tử thương và 76 người bị trọng thương. Những tổn thất về thiết bị cũng rất nặng nề: 16 trực thăng và 6 máy bay các loại khác bị hư hại. Đó là cuộc tấn công lớn nhất vào các cơ sở của Mỹ tại miền Nam Việt Nam cho tới thời gian đó.
Nó đã đưa tới một quyết định mau lẹ của Tổng thống Johnson để trả đũa. Ông nhóm họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và nói:
“Tôi đã gác khẩu súng ở phía trên lò sưởi và cất đạn ở dưới hầm nhà từ lâu rồi, nhưng địch quân đang giết hại người của ta… Hèn nhát đã đưa chúng ta vào nhiều cuộc chiến hơn là trả đũa: nếu như Hoa kỳ đã mạnh dạn hơn ngay từ đầu thì đã tránh được Thế Chiến I và II.”
Sau đó ông cho khởi động chiến dịch Rolling Thunder: từng lớp máy bay khu trục bay xuyên qua những đám mây dầy đặc tới oanh tạc các doanh trại Bắc Việt cách Vĩ tuyến 17 khoảng 40 dặm về phía bắc tại Đồng Hới. Việc trả đũa này đã bắt đầu một chiến dịch oanh tạc kéo dài với Linebacker I và Linebacker II.
Đưa nhiều máy bay oanh tạc vào tham gia cuộc chiến thì phải bảo vệ phi trường Đà Nẵng và khu vực chung quanh phi trường để tránh bị pháo kích như ở Pleiku. Vì vậy Washington tính đến việc mang quân vào để đáp ứng.
Nhưng nếu mang quân tác chiến vào thì vi phạm Hiệp định Geneve và có khả năng là chiến tranh sẽ leo thang.
Bàn đi bàn lại thật kỹ nhưng rồi Washington đi tới kết luận phải chấp nhận mọi rủi ro.
Ngày 23 tháng 2 năm 1965, tại Sài Gòn, Tướng Westmoreland đề nghị với Tư lệnh Thái Bình Dương và Bộ Tổng Tham Mưu:
“Đưa một Lữ đoàn Viễn chinh Thủy Quân Lục Chiến MEB (Marine Expeditianory Brigade) để giữ an ninh cho Đà Nẵng. Việc đưa quân vào tiếp theo sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào sự đồng ý của thượng cấp trên căn bản chính trị. Đại sứ Taylor cũng sẽ đề nghị đưa một đội Tiểu Đoàn Đổ Bộ BLT (Battalion Landing Team) vào Đà Nẵng ngay.”
Ngày 26 tháng 2 năm 1965, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Sứ quán tại Việt Nam:
“Thượng cấp đã có quyết định tiến hành đổ bộ cùng một lúc một đơn vị MEB, một đơn vị BLT, và một phi đội trực thăng… rồi sẽ thêm BLT thứ hai, tất cả đều trong Khu vực Đà Nẵng …”
Ngày 8 tháng Ba, bốn con tầu USS Henrico, Union, and Vancouver đưa một lữ đoàn 3,500 TQLC vào đổ bộ ở bãi biển “Red Beach.”
Hành động này là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ trợ giúp, cố vấn trong chiến tranh du kích, chống nổi dậy (counterinsurgency) tới chiến lược đem đại quân tác chiến (combat troops), tham gia trực tiếp vào cuộc chiến.
Lữ đoàn TQLC Viễn chinh Số 9 đã là đội tiền phong dẫn đường cho trên một nửa triệu quân nhân Mỹ vào Việt Nam.
Tháng Ba, 1973: rút khỏi Đà Nẵng
Theo Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1, 1973 thì Mỹ phải đơn phương rút khỏi Miền Nam.
Điều 5 quy định: “Nội trong 60 ngày sau khi bản Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự, và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội… phải được hoàn toàn triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam…” Vì Hiệp định được ký ngày 27 tháng 1 cho nên ngày 27 tháng Ba là hạn chót của việc rút quân. Vào thời điểm ấy thì một số quân đội Mỹ còn đóng ở Đà Nẵng.
Điều 6 của Hiệp định quy định thêm: “ Các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Một, phải được giải tỏa trong hạn 60 ngày, sau khi Hiệp định được ký kết.” Đà Nẵng là căn cứ không quân quan trọng nhất yểm trợ hai Quân Khu I và II. Nó đã được chọn để tổ chức một nghi lễ biểu tượng quan trọng: lễ hạ lá cờ Mỹ và mang đi, đánh dấu việc chấm dứt sự có mặt của quân đội tác chiếnMỹ tại Miền Nam.
Lễ nghi được diễn ra rất trang trọng với sự hiện diện của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Việc “Cuốn Cờ” (Flag Folding) đã theo đúng thủ tục gồm năm bước, bắt đầu bằng việc trải lá cờ ra cho thật thẳng và gấp lại theo chiều dài lần thứ nhất (độc giả vào mạng xem để tìm hiểu thủ tục cầu kỳ và đầy ý nghĩa này).
Tháng Ba, 1975: Lãnh sự cuối cùng rời Đà Nẵng
Tuần lễ cuối tháng Ba, sau khi có tới gần một triệu người dân từ Huế, Quảng Trị và vùng lân cận di tản đổ dồn và tràn đầy Đà Nẵng, thành phố này bị tràn ngập và hỗn loạn trước sự tiến quân của quân đội Bắc Việt. Tình hình an ninh trở nên tuyệt vọng.
Mỹ điều động hai con tầu Pioneer Contender và Miller tới hải cảng Đà Nẵng để giúp di tản những nhân viên Mỹ làm ở Tòa Lãnh sự với hàng trăm ngàn người Việt. Ngoài số tầu biển còn có chiếc máy bay Boeing 727 của hãng hàng không Air America đã hạ rồi cất cánh trong cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.
Sau cùng thì viên lãnh sự Mỹ, ông Al Francis đã ra đi bằng đường biển.
Sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam đến đây đã chấm dứt hoàn toàn.
Tháng Ba, 2018: hàng không mẫu hạm vào Đà Nẵng
Mỹ đi rồi Mỹ lại về… vào Đà Nẵng?
Lich sử sẽ ghi nhận sự kiện này thế nào?
Ta có thể tạm thời nhận xét như sau:
Thứ nhất, về chiến lược ở Biển Đông: Mỹ đang xúc tiến cho thật nhanh diễn tiến ‘Xoay Trục.’ Như chúng tôi đã đề cập trong cuốn ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’: hoàn cảnh lịch sử hiện nay hết sức khó khăn. Nó khác hẳn với hoàn cảnh trong những thập niên 60 và 70. Trong hai thập niên ấy, chiến lược của Mỹ là “ngăn chận Trung Quốc,” còn bây giờ là phải “trực diện đối đầu với Trung Quốc.”
Từ khi Mỹ rút khỏi Đài Loan, rồi mặc kệ, không giúp Miền Nam Việt Nam trong việc bảo vệ Hoàng Sa chống Trung Quốc, và sau đó là bỏ rơi Miền Nam, TQ hết bị ngăn chận nên đã thực sự tràn xuống Biển Đông và đang thâu tóm trọn vẹn khu vực này, tiến trình theo đúng như thuyết Đôminô.
Nhưng Xoay Trục khó có thể hoàn thành mau lẹ và thành công nếu không có sự cộng tác của Việt Nam, vì đây là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như Bộ Quốc Phòng Mỹ đã xác định ngay từ đầu thập niên 50 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào,’ Chương 2).
Vì vậy Mỹ muốn thúc đẩy hợp tác quân sự chặt chẽ hơn đối với Việt Nam.
Thông cáo chung về chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump tháng 11, 2017 xác định hai điểm:
Hai bên “khẳng định kế hoạch hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ trong giai đoạn 2018-2020.” Ta thấy giai đoạn 2018-2020 là trùng hợp với khung thời gian Mỹ đặt ra cho mục tiêu hoàn thành bước đầu của chiến lược Xoay Trục khi 60% của hải lực Mỹ sẽ có mặt ở Thái Bình Dương.
Hai bên “hoan nghênh hàng không mẫu hạm Mỹ lần đầu tiên tới thăm một hải cảng của Việt Nam trong năm 2018.”
Lưu ý độc giả một điểm có ý nghĩa: cho tới nay, chúng tôi thấy tất cả truyền thông quốc tế đều loan tin sai lầm rằng “đây là hàng không mẫu hạm đầu tiên cập bến Việt Nam kể từ năm 1975” hay “kể từ sau cuộc chiến,” hay “kể từ khi chiến tranh kết thúc cách đây hơn 40 năm.”
Không đúng, đây là lần đầu tiên kể từ trước tới nay. Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều hàng không mẫu hạm Mỹ như USS Constellation, Hancock, Ticonderoga có tham chiến, nhưng chỉ đậu ở Subic Bay (Phi Luật Tân), Yokosuka (Nhật Bản) hay thả neo ở ngoài khơi, chưa bao giờ vào Đà Nẵng (hay Cam Ranh). Năm 1964 chỉ có một hàng không mẫu hạm USS Card chở quân trang, quân cụ và thiết bị vào Sài Gòn (và bị đánh bom). Nhưng tầu này nhỏ, thuộc vào loại hộ tống Bogue, cũ kĩ vì sản xuất từ năm 1941.
Đưa nhiều hàng không mẫu hạm, chiến hạm vào Biển Đông thì cần phải có cơ sơ hỗ trợ từ đất liền – hải cảng, sân bay, bảo trì, tiếp vận xăng nhớt, thực phẩm, tiện nghi. Những cơ sở ấy thì thực tế nhất, tiện lợi nhất là vùng duyên hải của Việt Nam – đặc biệt là Cam Ranh và Đà Nẵng. Đây là hai nơi mà Mỹ đã xây cất, xử dụng trong nhiều năm nên đã quá quen thuộc.
Nhưng tại sao Mỹ không đưa hàng không mẫu hạm vào Cam Ranh có vịnh nước sâu mà lại đem vào Đà Nẵng? Về phương diện logistic, tầu Carl Vinson quá lớn, khó mà thả neo ở Hải cảng Quốc Tế Cam Ranh.
Lại nữa, có thể vì lý do Thành phố Đà Nẵng có giá trị tượng trưng cho vai trò của người Mỹ ở Việt Nam trước đây – qua các biến cố như đã đề cập. Ngoài ra, còn có khả năng là sẽ có đông dân chúng Việt Nam chào đón USS Carl Vinson, giống như thời xưa (1965) có các thiếu nữ ra bãi biển choàng hoa lên cổ các chiến sĩ thuỷ quân lục chiến Mỹ, hay gần đây nhiều người Việt leo lên chiến hạm Mỹ do hạm trưởng người Mỹ gốc Việt lái tới Đà Nẵng, hoan hỉ đón tiếp.
Và như vậy là để nêu cao sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc thăm viếng hữu nghị này?
Xác định xong về cuộc viếng thăm là có hành động cụ thể ngay: tại Hà Nội ngày 25 tháng 1, Bộ trưởng Quốc Phòng Jim Mattis đã chính thức tuyên bố là sự việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba.
Trong mấy năm vừa qua, đã có tầu ngầm và chiến hạm Mỹ ra vào Cam Ranh, nhưng đây là lần đầu tiên một Hàng Không Mẫu Hạm tiến vào hải phận và cập cảng Đà Nẵng. Thứ hai, phô trương lực lượng: hàng không mẫu hạm là tiêu biểu cho sức mạnh hải và không lực Mỹ. Nó được gọi là một “không quân nhỏ” (small air force) lưu động.
USS Carl Vinson thuộc loại “Nemitz,” một siêu mẫu hạm loại mới (2009), chạy bằng nguyên tử. Nó chính là tầu chỉ huy của Đội Mẫu Hạm Tấn Công Số I (Carrier Strike Group 1) mới thành lập, có trụ sở tại San Diego. Đây là một phần của Đệ Tam Hạm Đội, mạnh mẽ nhất thế giới, thường thả neo ở các đại dương khác chứ không phải ở Thái Bình Dương (trách nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội). Tầu này thực sự chứa những khí giới gì ngoài những phi đội khu trục thì còn là một bí mật quân sự – nhưng có thể Trung Quốc cũng đã biết.
Hiện tại tất cả thế giới chỉ có 19 hàng không mẫu hạm đang hoạt động (và 6 cái đang được sản xuất). Trong số 19 tàu này thì Mỹ đã chiếm tới 10 cái, tức là hơn một nửa. Số còn lại thì hầu hết thuộc các nước đồng minh của Mỹ như Anh Quốc (4 cái), Pháp (2), Ý (1). Nước Nga chỉ có một cái còn đang hoạt động là Admiral Kuznetsov. Nga có 4 cái khác nữa nhưng thuộc vào loại Kiev (như Minks, Novorossiysk): tất cả đều đã “về hưu.” Như vậy, nếu số mẫu hạm của Mỹ cộng với của các đồng minh thì hải lực tổng hợp này thực sự bá chủ cả bốn đại dương. Thứ ba, gửi tín hiệu cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã lên hàng cường quốc, nhưng về mặt hải lực thì còn rất yếu kém. Đó là vì chỉ mới có được một con tầu cũ tên là Varyag mua lại của Ukraine năm 1998 rồi đưa về tân trang tại xưởng đóng tầu Đại Liên (Dalian) ở đông bắc TQ, đổi tên là Liêu Ninh. Tầu được đưa vào hoạt động năm 2012, mục đích là để tập luyện.
Hè 1974 chúng tôi có dịp thăm viếng Trung Tâm Hành Quân của Đệ Thất Hạm Đội ở Honolulu và được chỉ dẫn về các hoạt động chính yếu của một hàng không mẫu hạm. Các chuyên gia cho thấy: việc điều khiển một hàng không mẫu hạm trên đại dương, nhất là giữa một cuộc chiến là hết sức phức tạp, nó đòi hỏi nhiều kỹ năng và kinh nghiệm. Nguyên công tác “roping” (buộc giây, thả neo) đã rất phức tạp. Rồi đến việc điều khiển từng lớp khu trục cất cánh, hạ cánh, đến công tác phòng không, chống tầu ngầm, điều hợp với các tầu hộ tống, với trung tâm hành quân và các lực lượng hỗ trợ từ trên bờ.
Ngoài số lượng, TQ chưa bao giờ có kinh nghiệm về hải chiến lớn chứ chưa cần nói tới hàng không mẫu hạm. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi đoàn quân của Tướng Mỹ Douglas MacArthur từ ngoài khơi đổ bộ vào hải cảng chiến lược Inchon (phía tây của Nam Hàn, khoảng 100 dặm về phía nam vĩ tuyến 38 và 25 dặm từ Seoul) vào ngày 15/9/1950, quân đội TQ và Bắc Hàn phải vội vã cuốn gói rút về qua vĩ tuyến 38.
Tới Trận Hoàng Sa: tuy là nhỏ mà TQ cũng đã bị Hải Quân VNCH gây tổn thất nặng nề. Ngược lại, Mỹ thì đã có kinh nghiệm về đại hải chiến và xử dụng hàng không mẫu hạm từ cả một thế kỷ: trong Đệ Nhất, rồi Đệ Nhị Thế Chiến, tới chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, và ngày nay, chiến tranh vùng Trung Đông. TQ có nhiều tiền, có thể mua tất cả những khí giới tối tân trên thế giới này nhưng không thể nào mua được một thế kỷ kinh nghiệm về đại hải chiến.
Mở ra một chương lịch sử mới?
Như chúng tôi đã có dịp đề cập trước đây, trong chuyến công du tại Hà Nội năm 2016, TT Barrack Obama đã gợi ý về trang sử mới này khi ông trích Nguyễn Du trong truyện Kiều:
“Rằng trăm năm cũng từ đây.
Của tin gọi một chút này làm ghi“
Tiếp theo, TT Trump đã đi thẳng vào vấn đề và phát biểu “Chúng ta đã gắn kết dần với nhau để tìm được những mục tiêu chung, những lợi ích chung. Và đó là điều đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để tái khẳng định những gắn kết đó.”
Thông cáo chung cũng xác định việc“mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở … các lợi ích chung và mong muốn chung.”
Tại Hà Nội ngày 25 tháng 1 vừa qua, Bộ trưởng QP Jim Mattis đã cám ơn Việt Nam về sự phát triển của quan hệ đối tác ấy, qua việc hàng không mẫu hạm tới Đà Nẵng (nguyên văn: “Thank you for increasing partnership, with our aircraft carrier coming into Danang here in March” ).
Thứ tư, tác động vào đồng minh: qua hành động này, Mỹ cũng muốn gián tiếp trấn an các quốc gia đồng minh tại Á Châu . Họ đang lo ngại về quyết tâm của Mỹ. Lại nữa, cho tới nay chính sách ngoại giao của TT Trump chưa rõ ràng về Biển Đông. Bây giờ, với việc tầu USS Carl Vinson cập bến Đà Nẵng – lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (nhắc lại, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chứ không phải từ khi cuộc chiến kết thúc năm 1975 như truyền thông thế giới đã loan tin) – bất chấp sự phản đối của TQ, đồng minh Á Châu sẽ thấy – từng bước một – chính quyền Trump có lập trường bảo vệ Biển Đông – bằng hành động – và cứng rắn hơn thời TT Obama nhiều.
Đã không phải là ngẫu nhiên mà TT Trump lại tăng thuế mạnh tới 25% vào nhập cảng thép (phần lớn là từ TQ) cùng một thời điểm với sự có mặt của siêu hàng không mẫu hạm ở Đà Nẵng – ngay sát Hoàng Sa và chỉ cách căn cứ hải quân lớn của TQ trên 400 km.
Thứ năm: lợi ích chiến thuật: đó là để chính thế hệ trẻ của hải quân Mỹ – những quân nhân mới vào cuộc sau chiến tranh Việt Nam, gồm cả trên hai lữ đoàn trên USS Carl Vinson có dịp làm quen với bãi biển, hải cảng và sân bay Đà Nẵng.
Cách đây 6 năm, khi thấy Mỹ trực tiếp giúp Việt Nam dọn dẹp, làm sạch chất độc da cam tại sân bay Đà Nẵng vào mùa hè 2012 (mà không phải trên dẫy Trường Sơn), chúng tôi cho rằng Mỹ khó mà quên được cái địa danh Đà Nẵng.
Rõ ràng là bang giao mang tính chiến lược và tiến tới toàn diện Việt – Mỹ đã đi được một bước đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bước ấy dài hay ngắn thì còn tùy thuộc vào việc có hay không những hành động có thực chất tiếp theo. Cụ thể, ta có để đặt câu hỏi liệu sẽ có những cuộc tập trận giả, thao diễn quân sự Việt – Mỹ có tầm cỡ lớn với sự tham gia của Hải Đội Tấn Công USS Carl Vinson trong năm 2018 hay không?
Thay lời cuối: hôm nay, ngày 6/3/1018 thấy trên mạng chiếu cảnh người dân Đà Nẵng bắt nhịp với ban nhạc Hạm Đội 7 hát bài “Nối VòngTay Lớn” tôi không thể không nghĩ tới khả năng rằng: biết đâu biết đâu đấy, một trang sử mới của bang giao Việt-Mỹ đã thực sự bắt đầu – như cựu TT Obama đã có dịp gợi ý: “Rằng trăm năm cũng từ đây?”
Muốn cho chương lịch sử này kéo dài và bền vững thì nó phải dựa trên căn bản dài lâu và vững chắc.
Căn bản ấy chính là quyền lợi hỗ tương của cả hai nước: chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc và bảo vệ tuyến hàng hải vào hàng quan trọng nhất thế giới ($3,000 tỷ lưu thông mỗi ngày) (*) – hai mục tiêu hoàn toàn là tự vệ chứ không phải khiêu khích hay tấn công. Tuyến hàng hải này nằm chỉ cách vùng duyên hải của Việt Nam 12 hải lý.
Việt Nam, lại một lần nữa có cơ hội đóng vai trò địa chính trị chiến lược trên thế giới, nhờ vào vị trí nhìn ra Biển Đông của Đà Nẵng.
____
(*) Ghi chú của Tiếng Dân: Có lẽ tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhầm, con số 3,000 hàng hóa lưu thông qua Biển Đông mỗi ngày là không chính xác. Theo số liệu của Trung tâm CSIS, hàng hóa lưu thông qua Biển Đông hàng năm trị giá 5.3 trillion dollars, tức 5,300 tỷ Mỹ kim. Lấy con số này chia cho 365 ngày trong năm, mỗi ngày chỉ có 14,5 tỷ hàng hóa lưu thông qua Biển Đông.
Cảm ơn một vị khách phát hiện sai sót này và bình luận bên dưới.
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ. Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng. Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi.
Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người. Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).
Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe dọa phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ.
Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Ma quỉ luôn tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa.
Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. T hiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10).
Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó.
Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm.
Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
****************************** *
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
Bạn hy vọng gì và làm gì trong một xã hội mà giá trị đạo lý đã hoàn toàn bị đảo ngược?
Hai ngàn năm, “cây cầu kiều” chính thức bị đánh sập! Phụ huynh không còn yêu lấy Thầy nữa… Mà với họ, những nhà giáo dục, những bậc thầy mô phạm bây giờ chỉ còn là những người làm thuê! Họ trả tiền để những người Thầy phải cung phụng con họ như những ông hoàng bà chúa! Họ dùng quyền lực đồng tiền để biến con cái thành một pháo đài bất khả xâm phạm!
Một cái thước đánh vào tay hay một lần quỳ trên bục giảng – điều rất đỗi bình thường trong giáo dưỡng đã trở thành “tội ác ghê gớm” của năm 2018…
Trong trường hợp cô giáo Nhung, tôi mong Cô và gia đình sẽ chọn nghề khác để mưu sinh, hoặc ít nhất, là rời bỏ ngôi trường mà Ban Giám Hiệu đã không đủ dũng cảm để bảo vệ Cô. Có lẽ, Ban Giám Hiệu đã sợ “mất” vài học sinh nên họ dễ dàng chấp nhận “vứt đi” sự tự tôn của những người Thầy!
————————————-
Bắt người Thầy quỳ gối! Đó là sự bạo hành man rợ chỉ có thể gặp ở một xã hội đi ngược chiều văn minh!
Chưa bao giờ chúng ta phải chứng kiến những Người Thầy giáo, Người Thầy thuốc lại dễ dàng bị tát, bị quỳ, bị chém như thế! Và họ hoàn toàn cô độc
Nên nhớ! Giáo dục và Y tế là nền tảng An Sinh căn bản nhất của một xã hội, một đất nước! Sẽ ra sao khi người Thầy giáo vừa đứng trên bục giảng vừa run sợ? Người Thầy thuốc vừa chữa bệnh cứu người vừa lo lắng, bất an? Hậu quả to lớn từ việc những người Thầy quỳ gối, không ai khác, chính chúng ta, chính con cháu chúng ta sẽ phải gánh chịu!
Khi người Thầy quỳ gối, cả dân tộc sẽ không thể ngóc đầu!
Nó nói: “Tao đi gần hết thế giới, chưa thấy có quốc gia nào nhiều quán nhậu như ở Việt Nam CS. Tao đi từ Hà Nội vô tới Sài Gòn, dừng lại ở Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, không có thành phố nào mà không tràn ngập quán nhậu. Ở Ireland, nơi tao sinh ra và ở Úc, quê hương thứ hai của tao, mỗi thị trấn chỉ có một cái pub và dăm ba cái clubs, có thị trấn không có club. Đó là Úc và Ireland được xếp loại là dân uống rượu có tầm cỡ thế giới. Ở Việt Nam CS thì pub và club khắp nơi !.”
Mình hỏi: “Mày nghĩ quán nhậu ở Việt Nam CS nhiều như vậy là không tốt?”
Nó đáp: “Tất nhiên! một xã hội mà thanh niên và thiếu nữ không biết đi đâu, không biết làm gì khác ngoài việc đi vào quán nhậu bất kể giờ nào, thì đó là biểu hiện của sự bế tắc ở cấp độ từng cá nhân, và nếu có vô số những đám đông với những cá nhân như vậy, đó là sự bế tắc của cả xã hội. Họ tìm đến với cồn để tạm quên những vấn đề trước mắt !.”
Mình hỏi thêm: “Vậy thì mấy cái chỉ số đo lường hạnh phúc các quốc gia là sai?”
Nó nói: “Đúng và sai !. Đúng ở chỗ, dân Việt Nam tỏ vẻ hạnh phúc khi họ ngồi trước ly bia, mà tạm quên những thử thách trước mắt, nhưng sai ở chỗ, họ vẫn phải đối diện với những thử thách sáng hôm sau !!!.”
——————-
Mình tự hỏi, tại sao một thằng Úc thòi lòi có thể thấy và có thể nhận xét về xã hội Việt Nam CS ở mức độ bản chất như vậy?
Khi đôi chân cô giáo Nhung quỳ xuống trong sự quay lưng của hiệu trưởng nhà trường cũng là lúc bức thành trì “Tôn sư trọng đạo” đã bị xô ngã, ít ra là ở Trường Tiểu học Bình Chánh.
Khi đôi chân cô giáo Nhung quỳ xuống trong sự quay lưng của hiệu trưởng nhà trường cũng là lúc bức thành trì “Tôn sư trọng đạo” đã bị xô ngã, ít ra là ở Trường Tiểu học Bình Chánh.
Bên cạnh Làng Cùi Di-Linh, tỉnh Lâm Ðồng, có ngôi mộ của Ðức Giám Mục Jean Cassaigne (Gioan Sanh,) vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di-Linh. Trên bia mộ Ðức Giám Mục De Cassaigne, có khắc hai dòng chữ sau đây:
“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”
Ngay sau khi Ðức Cha Jean Cassaigne tấn phong Cha Simon Hòa Hiền (cựu Giám Mục Ðịa Phận Ðàlạt) năm 1955, thay vì về lại Pháp là nơi Ðức Cha Cassainge đã lớn lên, Ngài đã trở lại để vui sống với anh em bệnh nhân trại cùi, một làng nhỏ chính tay Ngài tạo dựng mấy mươi năm về trước. Tại làng nhỏ bé này, Ngài vừa làm Cha sở, Thầy giảng, Giám đốc, Y tá, chăm nom chu đáo cho tất cả bệnh nhân mọi tôn giáo, trẻ già, với sự cộng tác nhiệt thành của các sơ dòng Bác Ái Vinh Sơn. Ngài quyết tâm sống chết với con cái cùi hủi của Ngàị
Trong cuốn “Lạc Quan Trên Miền Thượng” [1] do Linh Mục Giuse Phùng Thanh Quang viết vội vào năm 1972 về cuộc đời hy sinh cho người cùi của Ðức Cha Cassaigne, lúc Ðức Cha Cassaigne đang đau quằn quại thê thảm với những cơn đau khủng khiếp cuối đời. Một đời hy sinh thật cao quý của Ðức Cha Cassaigne mà có lẽ nay còn rất ít người có biết và nhớ đến.
Cha Cassaigne được thụ Phong chức Linh Mục năm 1925 tại chủng viện Rue du Bac của Paris. Qua Sài Gòn ngay sau đó và nhận nhiệm sở thí điểm truyền giáo vùng ma thiêng nước độc Di Linh (DJIRING) năm 1927. Ngài đã yêu thương những người “Mọi cùi” đến độ đã sống giữa người cùi, tắm rửa, săn sóc cho những người cùi, đã thương yêu họ cho đến khi họ chết. Cha Cassaigne đã kể một câu chuyện có lần Ngài giúp những người cùi thức ăn gồm có gạo, muối, và thịt naị Có một bà cùi hàng tuần đến lấy phần ăn, nhưng tuần đó không thấy đến. Cha Cassaigne đến lều tranh tìm bà thì thấy bà ta sắp chết với mủ nhớt nhầy nhụa, mùi hôi thối không chịu được xông ra từ mảnh thân héo tàn đáng thương xót nàỵ Cha vội lo dạy bà những điều về Thiên Chúa và hỏi bà ta có muốn Cha rửa sạch những tội lỗi để bà được lên Trời sau khi chết không? Người cùi đáng thương đồng ý được rửa tội và nói với Cha Cassaigne rằng:
“Cau dờng! Ăn rơp kăh dơ mê dỡ ăn gũh rê hơ trồ”
” Ông lớn ơi! Tui sẽ nhớ đến ông khi tôi ở trên Trời”
Cái chết tội nghiệp nhưng tốt lành của bà Thượng cùi đã làm khích động thật sâu xa tâm hồn Tông Ðồ của vị Linh Mục Thừa Saị Câu nói “Tôi sẽ nhớ Cha khi được ở trên Trời” là viên đá đầu tiên được đặt xuống để khởi đầu công cuộc thành lập làng cùi tại Di Linh.
Trong khoảng thời gian đó, ở miền Trung cũng như ở miền Nam nước Việt cũng có những trại cùi với số người bệnh tương đối ít. Trong khi ở vùng đất xa xôi có đến hàng trăm người cùi, lại không có chỗ cho họ ở. Theo lời Linh Mục Phùng Thanh Quang kể lại.
Một ngày cuối Thu năm 1928, trong chuyến đi thăm một làng Thượng xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sức mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ mặc dù có người khập khiểng, có người vừa bò vừa lết, và đói, cố đuổi theo Cha bao vây lấy Ngài và tất cả đồng gào lên thảm thiết:
“Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn nđàc sơngit bol hi!”
Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!
Rồi tất cả sụp lạy Ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Thì ra đây là nhóm người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập từng nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về ông lớn làm thuốc và hay thương giúp người cùi này. Họ chờ Cha trên khúc đường vắng để nhờ Cha giúp đỡ. Vài ngày sau, đó, việc lập làng cùi Di Linh được xúc tiến ngay [3] Trong bài thuyết trình của Cha Cassaigne tại Sài Gòn năm 1943 về bệnh cùi khủng khiếp như thế nào, Ngài viết:
“Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một cách thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẵng có ai hay biết…”
Trước khi mắc bệnh, mỗi lần thuyết trình đến đây, cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần thì chắc Ngài cảm thấy lo âu sợ sệt như linh cảm thấy trước định mệnh sẽ đến, Ngài run sợ như chính mình đang mắc chứng bệnh nan y nàỵ
Các việc làm nhân đức của Cha Jean Cassaigne đã đưa Ngài từ một căn lều tranh để phục vụ người hủi tới tận tai Tòa Thánh La Mã. Ngài được bổ nhiệm chức Giám Mục và Ngài phải tuân lệnh Toà Thánh về làm việc tại Ðiạ Phận Sài Gòn. Trong hơn 14 năm giữ chức vụ này Ðức Giám Mục Cassaigne đã đôn đốc thực hiện công cuộc bác ái, cứu trợ vật chất, ủy lạo tinh thần cho những người gặp cảnh bất trắc nghèo khó, di cư tị nạn, không phân biệt địa phương hay tôn giáọ Vì nhớ đám dân cùi, Ngài xin từ nhiệm chức Giám Mục Sài Gòn để trở về băng bó vết thương tinh thần và vật chất cho những đứa con cùi hủi của Ngài tại làng cùi Di Linh.
Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Từ năm 1929, Ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với Ngài vì sống gần gũi với người bịnh; từ năm 1957, bịnh lao xương không thuốc chữa làm Ngài đau đớn, và năm 1964, bịnh lao phổi trở lại hành ha thân Ngài. Ðức Cha đau đớn tột cùng với những cực hình thể xác, nhưng luôn luôn vững lòng chấp nhận để xin Chúa thương mà giảm bớt cái đau của những người hủi tại Việt Nam. Những ai may mắn sống gần Ðức Cha thường được nghe Người nói:
– “Ðời tôi chỉ có ba ước nguyện: được chịu đựng, chịu đau, và chịu chết ở đây, giữa những người Thượng của tôi”
(Je ne demande que trios choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards).
Chúa đã nhận lời cầu xin của Ðức Cha, đã cho Ngài mang lấy bốn chứng bệnh nan y. Ðã giúp sức cho Ngài chịu đựng quá lâu dài. Những ngày cuối cùng tuy đau đớn, nhưng Người vẫn đọc kinh cầu nguyện cho nước Việt Nam, cho các người cùi. Người nói:
“Suốt 47 năm dài, Cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này, và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây, Cha không tiếc một điều gì về sự dâng hiến toàn diện ấy”.
Theo lời từ biệt của ông Nguyễn Thạch Vân, đọc trong lễ an táng Ðức Cha Cassaigne tại Di Linh ngày 11 tháng 5, năm 1973 kể lại, Cha Cassaigne còn nói:
“Việt Nam chính là quê hương của Cha, bởi vì Chúa muốn như vậy”.
Khi nói đến câu: “Nước Việt Nam là quê hương của tôi”. Ðức Cha chấp tay như để cầu nguyện, và Ngài khóc! Ðây là giòng lệ Thánh cầu nguyện của một Tông đồ Truyền giáo, đã tận hiến đời mình cho lớp người khốn khổ, bất hạnh nhất trên cõi đời này.
Năm 1972, Ðức Cha đã được trao tặng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương trên giường bệnh và đã qua đời tại Di-Linh ngày 31-10-1973.