Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Trang Chủ » Hạnh Các Thánh » Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

* Gương Thánh Nhân:

Sinh năm 251 tại Cai Rô, miền thượng Ai Cập, thánh An tôn là con một gia đình giàu có, đạo đức, Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã được cha mẹ dạy dỗ sống đời đức hạnh. Khi lên 18 tuổi thì cha mẹ ngài qua đời, để lại một gia tài to lớn.

Một hôm, ở thánh đường, thánh nhân nghe đọc lời kinh thánh: ” Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó rồi theo Ta”. ( Mt .19,21). Ngài nghĩ là lời đó Chúa muốn nói với mình, nên về bán hết gia tài cha mẹ để lại, phân phát cho người nghèo, chỉ để lại chút ít cho người em gái, rồi vào sa mạc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện và làm việc cực nhọc hằng ngày để sinh sống. Thánh A-ta-na-xi-ô đã viết về ngài: ” Anh tự làm lấy mà ăn vì anh đã nghe nói rằng: Ai không làm thì đừng có ăn. Tiền làm ra, anh đem mua bánh ăn một phần; phần còn dư lại, anh phát cho kẻ nghèo.

Anh cầu nguyện liên lỉ, vì anh nghe nói phải cầu nguyện riêng không ngừng. Anh chăm chỉ đọc sách đến nỗi không để rơi lời Kinh Thánh nào, nhưng nhớ hết, đến nỗi sau này anh có thể dùng trí nhớ thay cho sách vở. Mọi người trong làng, mọi kẻ hẳn hoi đến thăm anh. Thấy anh sống như vậy, họ gọi anh là bạn của Chúa. Người thì yêu anh như con cái, kẻ lại thương anh như anh em”

Mặc dầu sống giữa sa mạc hoang vu hiu quạnh, thánh nhân luôn bị ma quỷ cám dỗ. Chúng cám dỗ ngài về những ham mê xác thịt, tiền của, danh vọng, nhất là bỏ đời tu luyện khắc khổ mà trở về thế gian. Nhưng chúng càng cám dỗ dữ dội chừng nào, ngài càng tăng gia ăn chay cầu nguyện nhiều chừng nấy. Và nhờ ơn Chúa ngài luôn luôn chiến thắng . Dầu vậy, thánh nhân cũng phải rời sa mạc hai lần. Lần thứ nhất vào năm 311, do cuộc bắt đạo của A-la-xi-mô-nô. Ngài đi khích lệ các tù nhân và khuyến khích mọi người trung thành làm chứng cho Chúa. Lần thứ hai ngài rời sa mạc trở lại thành A-lê- xăn-tri, để phụ giúp Đức Giám mục A- na-ta-xi-ô chống lại lạc giáo. Ngài rảo khắp thành thị làng mạc, rao giảng kêu gọi mọi người trung thành sống theo giáo huấn của Hội thánh. Đi tới đâu, dân chúng cũng tuôn đến nghe ngài, vì ngài giảng rất hùng hồn thông suốt, khiến nhiều người lầm lạc ăn năn hoán cải. Còn những kẻ đạo đức trí thức thì hết sức ngạc nhiên về tài trí thông minh của ngài. Họ không ngờ ngài sống trong sa mạc, thiếu liên lạc tiếp xúc với các nền văn hoá cũng như không có sách vở học hỏi mà thấu suốt hết mọi vấn đề, nhất là về phương diện thiêng liêng nhân đức. Họ không biết rằng ngài đã học biết Chúa nhiều hơn qua các cảnh vật thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng. Đối với người có đức tin và lòng sốt mến, thiên nhiên là cuốn sách vĩ đại giúp họ nhìn biết Thiên Chúa và các tài năng, đức tính của Người.

Sau khi giúp Đức Giám mục giải quyết lạc giáo xong, thánh nhân trở lại đời sống ẩn dật, khắc khổ nơi sa mạc. Từ đó, nhân đức thánh thiện của ngài vang dội khắp nơi. Nhiều người đạo đức đến xin làm môn đệ ngài. Thế là nhờ Thánh An tôn mà phong trào ẩn tu đã phát triển mạnh mẽ. Và nhiều người đã nên thánh nhờ lời giáo huấn và gương sáng đời sống của ngài. Lúc đó, ngài đã gần 100 tuổi. Ngài biết sắp từ giã cõi trần, nên hằng ngày lo dọn mình trở về cùng Chúa. Ngài qua đời năm 356, hưởng thọ 105 tuổi.

* Quyết tâm: Noi gương thánh An-tôn, sẵn lòng từ bỏ mọi sự giàu sang, vui sướng ở đời, sống âm thầm thân mật với Chúa trong việc ăn chay cầu nguyện hằng ngày, hầu đủ sức chống trả mọi chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt, thế gian.

* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh An-tôn viện phụ sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhậm lời người nguyện giúp cầu thay, mà cho chúng con biết quên mình, để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

GPVL

Ngày 17 tháng 01   

THÁNH ANTÔN ẨN TU
          (521-357)

Đời sống thánh Antôn là tấm gương chiến đấu liên lỉ và can đảm với thù tặc Satan, xứng đáng cho mọi người công giáo noi theo.

Antôn chào đời vào năm 251, tại làng Cosma thơ mộng, một làng đẹp nhất miền Ai Cập thượng. Cha mẹ ngài thuộc dòng tộc quý phái; lại giầu lòng đạo đức. Cả hai kiên tâm giáo hoá con cái về học vấn lẫn tu đức. Mà vì nền giáo dục quá nghiêm khắc, cậu Antôn ít được ra khỏi nhà hay chơi đùa với các bạn đồng tuổi. Suốt đời niên thiếu hầu như cậu chỉ biết có dinh thự gia đình và nhà nguyện của làng.

Năm 18 tuổi, sau khi cha mẹ từ trần, Antôn ở với em gái. Hai anh em theo gương cha mẹ, hết lòng yêu thương nhau, và giúp nhau sống đạo đức. Cũng vào kỳ này, Antôn nghĩ nhiều đến việc dâng mình cho Chúa. Một hôm đi dự lễ, Antôn nghe đọc lời Phúc Âm Chúa phán với người giầu có: “Nếu con muốn nên trọn lành, con hãy trở về bán hết gia tài, đem tiền cho kẻ khó rồi đến đây theo Cha, con sẽ được kho tàng trên trời”. Tưởng như Chúa nói với mình, Antôn nhất định áp dụng đến triệt để, và nhất quyết theo Chúa. Thánh nhân về nhà chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người túng bấn. Ban đầu ngài còn để lại chút ít lấy cái độ thân và nuôi em, nhưng khi suy đến lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”. Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho kẻ khó. Xong việc, ngài dâng cô em vào một cộng đồng Trinh nữ, và quyết chí bỏ thế gian.

Thời ấy ở Ai Cập chưa có mấy nhà dòng sống kiểu cộng đồng, vì những nhà đầu tiên đã bị phân tán trước ngọn gió bách hại. Đàng khác, đời sống ẩn tu dường như ít ai nghĩ đến. Sau nhiều ngày lang thang, Antôn tình cờ gặp một vị ẩn sĩ tuổi tác, Antôn liền xin dựng lều gần ông để tập sống đời ẩn tu. Đầu tiên vị ẩn sĩ trẻ tuổi này phân phối thời gian để học Thánh kinh, cầu nguyện và làm việc tay chân hầu phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Ngài không quên tìm cách ăn chay hãm mình, và dành thời giờ viếng thăm các đồng bạn chung quanh. Với ơn Chúa và thiện chí, không bao lâu ẩn sĩ trẻ tuổi ấy đã nên gương mẫu cho anh em cùng lý tưởng. Cảm phục nhân đức và đời sống khắc khổ của Antôn, các tu sĩ đã tặng người một tên đệm: “Đêicôla” nghĩa là kẻ thờ phượng Chúa.

Ngài đã chiến đấu, nhưng từ nay ngài càng phải chiến đấu hơn nữa với trăm ngàn cám dỗ của Satan. Chúng chịu làm sao được khi nhìn thấy tâm hồn thánh thiện của đầy tớ Thiên Chúa. Nhất nữa vì thánh nhân là người đã phát động phong trào tu hành phồn thịnh tại Ai Cập; Palestina và Arập. Sức chiến đấu can đảm của thánh nhân trong 25 năm trời, chứng minh đầy đủ câu châm ngôn: “Chúa không bao giờ để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta”.

Quả vậy, ma quỷ dùng chiến lược tấn công ngài như xưa chúng đã tấn công Chúa. Chiến lược thứ nhất chúng dùng vinh hoa thế gian và đau khổ đời tu hành. Chiến lược thứ hai là lạc thú tình dục với mọi hình thức khêu gợi. Và chiến lược thứ ba là lòng kiêu ngạo, coi mình như đã vượt mức thánh thiện. Và đây là chiến thuật đối phó của thánh nhân. Sẵn sàng nghênh chiến với Satan bằng tinh thần suy niệm và cầu nguyện liên lỉ, bằng hy sinh và đánh tội. Chính vì thế, ngài cầu nguyện và đọc sách thâu đêm, ăn chay đánh tội hằng ngày. Mỗi ngày ngài chỉ ăn một tấm bánh nhỏ với muối và nước lạnh sau khi mặt trời đã lặn. Chiến đấu với cám dỗ này thánh nhân lại chuẩn bị chống lại mưu độc khác.

Chưa lấy thế làm đủ, thánh Antôn còn muốn sống đời khổ hạnh hơn: ngài bỏ lều, xuống một hầm kín và chật chội. Không muốn một ai viếng thăm, trừ một thầy bạn, thỉnh thoảng tiếp tế đồ ăn cho ngài. Thánh nhân trốn xa người thế nhưng không thoát khỏi quyến rũ, hành hạ của Satan. Quả thế, trong hầm tối tăm này, thánh nhân có khi phải nhức óc vì những tiếng gầm thét, tru tréo của Satan mặc hình thức thú vật hoặc phải chết lử vì những trận đòn hung ác. Nhưng thánh Antôn vẫn kiên tâm, vì tin rằng Chúa hằng ở với ngài. Lần kia, sau trận đòn nhừ tử, thánh nhân tỉnh dậy thưa với Chúa: “ Lạy Chúa, vừa rồi Chúa ở đâu. Tại sao Chúa không giúp con ngay phút đầu?”. Lập tức có tiếng phán: “Cha vẫn ở đây, để chứng kiến con chiến đấu. Cha thấy con chiến đấu dũng cảm lắm, con hãy tin vào Cha, Cha sẵn sàng tiếp ứng con!”

Năm 35 tuổi, thánh nhân muốn rút lui vào hẳn sa mạc, với một số lương thực vừa đủ sáu tháng. Không một chút do dự trước những khối bạc lượng vàng ma quỉ bầy ra để quyến rũ, thánh nhân băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atphite Ngài ở đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy người bạn hằng năm hai lần đem của ăn tới cho ngài.

Nhưng “hữu xạ tự nhiên hương”, dù thánh Antôn có ý tránh xa thế tục, thì hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều khách thập phương đến thăm ngài. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ bầy kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt, nên thánh Antôn buộc lòng phải ra đón tiếp họ. Mục đích đoàn khách thập phương là đến thăm viếng và xin ngài dậy đường nhân đức. Và ngài cứ ở đây đón tiếp họ cho đến năm 305 mới nhận rõ ý Chúa là muốn ngài bỏ đời ẩn tu, đi lập các tu viện. Ngài lập nhiều tu viện, thu nhận nhiều môn đệ. Hằng năm ngài lần lượt đi thăm các cộng đồng tu sĩ và huấn dụ về đời sống thiêng liêng. Ngài theo kinh nghiệm bản thân, bầy tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt của Satan. Và, theo ngài, khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.

Thêm vào đời sống tu hành khắc khổ, thánh Antôn còn mong mỏi được phúc tử đạo. Vậy năm 327, khi được tin Hoàng đế Maximinô Daia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexanđria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu kiên trung, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, ngài cùng với một số tu sĩ xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố. Rồi ngài ngang nhiên tiến thẳng vào toà án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin, không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo, Chúa muốn ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện ăn chay cho đại gia đình tu trì. Tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới trở gót về cộng đồng tu sĩ.

Và từ đấy cho đến cuối đời, thánh Antôn không được sống an tịnh như ý muốn. Ngài dựng lều trên sườn núi Gôtzin (Gokzin) và suốt ngày tiếp đón mọi thứ người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân. Năm 342, ngài đến thăm thánh Phaolô Thêbê và tận tình giúp đỡ trong an táng thánh Phaolô. Bấy giờ tiếng khôn ngoan và nhân đức thánh Antôn vang lừng khắp kinh thành nên đã được thánh tổ phụ Athanasiô mời về thành để cùng chung lực chống lại các tà giáo, nhất là bè rối Ariô. Cũng thời này, thánh Antôn được Chúa cho phép làm phép lạ: Ngài chữa nhiều bệnh nhân, trừ người bị quỷ ám và biết trước số phận nhiều linh hồn bên kia thế giới. Ngoài ra, thánh Antôn còn được ơn nói tiên tri như lời thánh tổ phụ Gioan Christon làm chứng.

Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, ngài liền hội các tu sĩ lại quanh giường, khuyên bảo lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các tu sĩ và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa ngày 17-1 năm 356.

Đến năm 561 dưới triều Hoàng đế Justiliô, người ta đem xác ngài về táng trong nhà thờ thánh Gioan Tẩy giả thành Alexanđria. Lòng sùng kính đối với thánh nhân bắt đầu từ các giáo đoàn Trung Đông và Tiểu Á. Phong trào tốt lành ấy mỗi ngày một lan rộng sang các nước Âu châu, và càng phổ cập hơn trong thế giới công giáo khi Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.

Tinmung

Anh chị Thụ & Mai gởi

Cứ Ðể Yên Như Thế

    Cứ Ðể Yên Như Thế

    Trong một tác phẩm có tựa đề “Quyển Phúc Âm thứ 5”, một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.

    Con người đã có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..

    Với tất cả những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ”.

    Chúa Giêsu mới trả lời: “Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên”.

    Có hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia tăng.

    Có thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Ái, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Ái

    Kỳ thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công Bình và Bác Ái mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.

    “Hãy trở nên những viên đá sống động”. Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.

    Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay

Dien Hong Tran and Hai Tran shared Anh Chi‘s post.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

Anh Chi added 5 new photos — with Dung Nguyen and 21 others.

Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay

Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.

Truyền thuyết

Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.

Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.

Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.

Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.

Như vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v.

Nếu tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.

Khi vua Kinh Dương Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.

Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia.

Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.

Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”

Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới trời”

Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua Bà là ai.

Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”

Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.

Miếu thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:

Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:

Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu đối:

Giang thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:

Trên sông Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).

Trải qua ngàn năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc, khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.

Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.

Truyền thuyết không cách xa sự thực

Trong bài viết có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới cổ của Việt Nam nằm ở hồ Động Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:

1 – Núi Ngũ lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.

2 – Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.

3 – Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.

Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:

Biên giới cổ của nước Việt Nam, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.

Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.

Trần Hưng

http://m.trithucvn.net/…/dien-tich-nuoc-viet-co-lon-gap-10-…

TRỞ VỀ CÁT BỤI

TRỞ VỀ CÁT BỤI

 

 

 

 

GIÃ TỪ CĂN PHÒNG NURSING HOME.

( Viết thay chị Hồng Thủy khi nghe tin mẹ chị qua đời. Jan 09, 2018 )
Mẹ tôi vừa qua đời,
Giã từ căn phòng trong nursing home quen thuộc, 
Giã từ người bạn chung phòng không quen biết, 
Hai người chung phòng nhưng chưa bao giờ nói chuyện, 
Dù chỉ một câu, 
Vì cả hai cùng già cùng mất trí như nhau.


Những lần tôi đến thăm,
Trong căn phòng nhỏ, 
Bức màn chia hai người, 
Hai thế giới xa lạ. 
Mẹ tôi ngồi trong chiếc xe lăn gục đầu như tượng đá,
Bà kia cũng ngồi trong chiếc xe lăn, 
Mắt nhìn mông lung về bức tường trước mặt, 
Thỉnh thoảng cười cười chẳng ai hiểu vì đâu. 
Mấy năm trời bên nhau, 
Họ đã cùng thời gian ăn ngủ, 
Cùng thở chung một bầu không khí, 
Cùng trải qua những đêm yên lành 
Những khi thức giấc, 
Hay những khi ốm đau khó ở…. 

 

 

 

 

Hôm nay mẹ tôi qua đời,
Chiếc giường vắng người, 
Tôi thấy bà bạn chung phòng của mẹ, 

 

 

 

 

 

Vẫn ngồi trong chiếc xe lăn lặng lẽ,

Đôi mắt vô hồn, 
Nụ cười ngu ngơ, 
Bà đâu biết rằng người bạn bên giường kia vừa mới đi xa. 

Ôi những người gìà, 
Như mẹ tôi, 
Như bà bạn chung phòng, 
Sống trong nursing home những ngày cuối đời, 

 

 

 

 

 

 

 

Chiếc lá cuối mùa tàn tạ, 
Sẽ rụng rơi, 
Và trở về cội nguồn cát bụi. 

Nguyễn Thị Thanh Dương.
 

(Jan. 09, 2018)

httpv://www.youtube.com/watch?v=MqLScBs9qXg

Bạn Chết Lặng Khi Nghe Ca Khúc Này – Cát Bụi Cuộc Đời 

Hồng phúc cho dân tộc Việt Nam rồi còn gì?

 Minh Tran‘s post.
Hồng phúc cho dân tộc Việt Nam rồi còn gì?
Đời sống19 tuổi có biệt phủ nguy nga, thật kỳ lạ! Loading… “Biệt phủ đứng tên sở hữu của con gái cán bộ. Nhưng con gái mới 19 tuổi đã có biệt phủ nguy nga như vậy thì thật là kỳ lạ!” – đại biểu Nguyễn Anh Trí. Chiều 9-11, …
CANHBAOVN.COM
 

Trò đánh người, bắt người trái pháp luật nhưng quy chụp cho nạn nhân

From:  Trần Bang‘s post.
Image may contain: 1 person, outdoor

Trần Bang

 

Trò đánh người, bắt người trái pháp luật nhưng quy chụp cho nạn nhân – người bất đồng chính kiến ôn hoà “ gây rối trật tự công cộng” này đã quá cũ.

“Chị Lý Thị Tuyết Mai, vợ thầy giáo Vũ Văn Hùng cho chúng tôi biết, cán bộ điều tra Kim Minh Đức thông báo thầy giáo Vũ Văn Hùng đã có lệnh tạm giam 2 tháng. Người này cũng hứa sẽ đưa giấy cho gia đình vào thứ hai tuần tới.

Ngày 4/2018. Thầy Vũ Hùng đi dự buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Hội Giáo chức Chu Văn An. NAn ninh đã gây sức ép cấm nhà hàng phục vụ nên buổi gặp măt phải giải tán.

Sau đó thầy Hùng đi ra bến xe bus để về thì bị hai tên bám theo gây sự và đánh. Thầy Hùng có phản ứng sau đó lên xe về. Đến khi đang đi bộ về gần tới nhà ở Khu dân cư mới Đa Sĩ, phường Kiến Hưng, Quận Hà Dông thì bị công an bắt, đưa về giam ở Công an phường Thanh Xuân Bắc, rồi chuyển đi trại tạm giam quân Thanh Xuân. Tại địa điểm bị bắt và tại đồn Thanh Xuân Bắc, thầy giáo Vũ Hùng đều bị đánh. Thầy bị tạm giữ với tội danh tưởng tượng là “gây rối trật tự công cộng”.

Ngày 12/1 là ngày hết 3 lệnh tạm giữ, chị Tuyết Mai đến thăm chồng. Qua nhiều lần yêu cầu, chị được gặp chồng 5 phút, nói chuyện qua cửa kính. Chị Mai cho biết tình thần của thầy Hùng rất vững vàng. Tại đây, chị được điều tra viên thông báo như trên.

Thầy Vũ Văn Hùng là cựu tù nhân lương tâm. Thầy bị bắt ngày 18/9/2008, bị cáo buộc tội tuyền truyền chống nhà nước và bị kết án 3 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Việc bắt thầy Vũ Hùng tạm giam cho thấy nhà cầm quyền đã đi tới sự vô sỉ, bạo ngược tới một nấc thang mới.

Thông tin thầy Vũ Hùng bị bắt tạm giữ 9 ngày rồi bây giờ tạm giam đã vấp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ trong công luận. Nhiều anh chị em hoạt động xã hội dân sự ngày từ đầu đã luôn bên cạnh hỗ trợ, tư vấn cho chị Tuyết Mai, giúp chị Mai thuê luật sư cho Vũ Hùng. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho thầy Vũ Hùng là Ngô Anh Tuấn. Ls Ngô Anh Tuấn cũng là luật sư bào chữa cho Trần Thị Nga trong vụ án năm vừa qua.

( Blogger Nguyễn Tường Thụy đăng RFA )

Khí lạnh Bắc Cực đưa mưa băng giá đến Houston

 

Khí lạnh Bắc Cực đưa mưa băng giá đến Houston

(Hình minh họa: Scott Olson/Getty Images)

HOUSTON, Texas (NV) – Một bầu khí lạnh từ Bắc Cực đang kéo đến vùng Houston tuần này, khiến Sở Khí Tượng Quốc Gia (NWS) phải đưa ra lời cảnh báo thời tiết, cho hay có thể có tình trạng nguy hiểm giao thông khởi sự từ tối Thứ Hai.

Từ khoảng nửa đêm, mưa lạnh có trộn lẫn với băng đá từ phía Bắc kéo xuống và dự trù sẽ tới Houston vào lúc sáng sớm Thứ Ba, đúng vào lúc khởi sự giờ cao điểm đi làm là 6 giờ sáng, theo cơ quan NWS.

Bản tin của tờ báo địa phương Houston Chronicle nói rằng nhiệt độ có thể xuống tới 25 độ F vào ban đêm hôm Thứ Ba với nhiệt độ cao nhất trong ngày là 38 độ F.

Cảnh báo thời tiết của NWS có hiệu lực từ lúc 3 giờ sáng ngày Thứ Ba tới 6 giờ sáng ngày Thứ Tư. Cơ quan NWS cũng cho biết thêm rằng có thể sẽ phải đưa lên thành báo động bão mùa Đông nếu tình hình trở nên nguy hiểm hơn.

Trong khi đó, một trận bão tuyết sẽ tới vùng Đông nước Mỹ tuần này, mang theo cả tuyết đá và khí lạnh gay gắt.

Trận bão này đã đổ hơn 6 inches tuyết xuống một số nơi ở vùng Trung Tây Mỹ.

Vào sáng Thứ Hai, tuyết rơi xuống Chicago, Indianapolis, Cincinnati và St. Louis, làm đường xá trở nên trơn trượt.

Bão này cũng sẽ đổ xuống mấy inches tuyết nữa dọc theo hành lang xa lộ liên bang I-95 vào tối ngày Thứ Ba, từ Washington tới New York. (V.Giang)

Việt Nam tiếp tục bị xếp hạng là quốc gia không có tự do

RFA
2018-01-16
 

Bà Trần Thị Nga, một nhà hoạt động xã hội bị bắt bỏ tù. Ảnh chụp phiên tòa xử bà Nga ngày 21/12/2017.

Bà Trần Thị Nga, một nhà hoạt động xã hội bị bắt bỏ tù. Ảnh chụp phiên tòa xử bà Nga ngày 21/12/2017.

 AFP
 

Việt Nam không phải là một quốc gia tự do. Đó là xếp hạng của Tổ chức theo dõi tự do và dân chủ, Freedom House, có trụ sở tại Hoa Kỳ, công bố trong báo cáo thường niên 2018, vào ngày 16 tháng Một, năm 2018.

Theo tổ chức này, tại Việt Nam, quyền tự do được xếp hạng 6/7, trong đó hạng 7 là những quốc gia mất tự do nhất. Tương tự, quyền chính trị của người dân được xếp hạng 7/7 tức là không có quyền hạn chính trị nào. Lĩnh vực khá nhất của Việt Nam là các quyền dân sự được xếp hạng 5/7.

Theo báo cáo của Freedom House, năm 2017 là năm mà nền dân chủ gặp khủng hoảng trên toàn thế giới, trong đó có cả Hoa Kỳ quốc gia được xem là mẫu mực của dân chủ. Cụ thể chính phủ của tổng thống Donald Trump xâm phạm những chuẩn mực đạo đức, cũng như làm giảm tính minh bạch của họ.

Theo báo cáo mới công bố, trong tổng số 195 quốc gia được khảo sát chỉ có 88 quốc gia được gọi là tự do, chiếm 45% các quốc gia trên thế giới; Số có phần nào tự do là 58, tức 30% và số không có tự do là 49 nước, chiếm 25% .

Các quốc gia được xếp hạng tệ nhất là Syria, Bắc Hàn, và một số nước khác vùng Trung Đông, Trung Á và châu Phi.

Tại châu Á có những sự kiện sau đây được Freedom House nêu ra như là minh chứng cho sự thoái trào của nền dân chủ, đó là các nghị sĩ ở Hong Kong bị bãi chức, các thủ lĩnh đối lập bị bỏ tù, Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục tăng cường sự kiểm sóat đối với truyền thông, Chính phủ Cam Pu Chia giải tán đảng đối lập.

Mọi bệnh tật đều khởi phát từ trong tâm?

Vì sao người xưa nói: Mọi bệnh tật đều khởi phát từ trong tâm?

Rốt cuộc, hết thảy bệnh tật trên đời đều là tâm thái của bạn gây nên cả. Phải làm thế nào để cải biến tất cả đây?

Tâm thái của bạn chính là chủ nhân của cơ thể. Hoàn cảnh không trói buộc con người, mà là con người ta tự buộc chặt mình vào trong hoàn cảnh.

  1. Tâm niệm và bệnh tật là có quan hệ trực tiếp với nhau

Tâm hồn có tổn thương, có vấn đề thì sẽ biểu hiện ra ngoài thân thể. Rất nhiều bệnh tật trên thân thể chỉ là giả tướng. Giống như chúng ta chỉ có thể nhìn thấy được hình dạng của quả, chứ không biết được hạt giống gieo xuống từ khi nào và ở đâu, rồi lại nảy mầm kết trái ra sao.

Bệnh tật có tâm niệm trong đời này, còn có nhân duyên, quan niệm, của những đời trước. Hãy để cho mỗi một niệm đều chan chứa tình thương. Trong tình yêu thương đó không có đau lòng, sợ hãi, phẫn nộ, mà chỉ có bình thản, hài hòa. Học cách yêu thương để thân thể trở thành đồng hồ đo của tình thương, để tâm hồn tỏa ra ánh sáng lương thiện vốn có!

Đời người, mỗi một cảm xúc đều là một cái hộp tối của tâm hồn. Đời người, mỗi một trạng thái đều là hiển hiện của tâm linh. Đó cũng chính là góc khuất của tâm tình mà người ta hay nói đến.

Con người ta một khi sinh ra tâm trạng tiêu cực trong suốt khoảng thời gian dài, rất mau chóng sẽ chiêu mời bệnh tật. Có những người sợ hãi quá độ, kết quả có thể dẫn đến các chứng bệnh thần kinh. Lại có những người tâm oán hận rất lớn mạnh, sẽ chiêu mời các loại tai họa.

 Xin hãy ghi nhớ rằng, lực lượng tự nhiên là vô cùng to lớn

Nó vốn không sợ bạn cứng rắn đến đâu, chỉ sợ bạn luôn hiền lành, khiêm nhường. Phàm những người có tâm oán hận quá nặng, vận mệnh trong đời phần lớn đều sẽ đau khổ bi thảm. Phàm những người hiền lành, khiêm nhường, vận mệnh cuộc đời phần nhiều sẽ tốt lành. Sống theo đạo trời, một đời bình yên là vậy.

Tâm oán hận sâu nặng chính là căn nguyên của mọi khổ nạn trong đời. Hãy cố gắng loại bỏ nó đi. Đời người nếu sinh khởi một niệm tâm oán hận, sau này thế nào cũng sẽ có người tức giận với bạn, hoặc khiến bạn tức giận. Con người ta nếu như ngày nào cũng như vậy thì quả là phiền phức rồi. Rác rưởi tích tụ nhiều rồi, tai họa trong đời ắt sẽ giáng xuống.

Nếu như một đời này của chúng ta luôn thích nóng giận, thế thì sẽ cứ luôn mắc bệnh. Hãy luôn tự nhắc nhở bản thân: “Mình không nên cứ luôn tức giận như thế!“. Vậy thì, mọi thiếu sót của bản thân đều sẽ dần dần được hóa giải. Hãy nhớ rằng, nếu đời người thật sự học được cách sám hối thì nhất định có thể cải biến vận mệnh của mình.

Nếu chúng ta bớt nóng giận, sau này những việc khiến ta tức giận cũng sẽ ít đi. Đồng thời, người khác cũng sẽ ít chọc giận bạn hơn. Trường khí đen bẩn trong thân thể bạn tự nhiên sẽ giảm bớt đi, đau nhức trong thân thể cũng sẽ thuyên giảm đi rất nhiều. Vận mệnh đời người cũng sẽ theo đó mà phát sinh thay đổi.

 Người ta trong đời luôn phải học cách nhận thức bản thân

Đây là năng lực giác ngộ cá nhân vô cùng quan trọng. Ai có thể tìm ra được càng nhiều thiếu sót của bản thân thì năng lực giác ngộ của người đó càng mạnh. Người nào cứ mãi tìm kiếm khuyết điểm của người khác thì si mê của người đó càng sâu. Người tu Đạo không nhìn vào chỗ thiếu sót của người khác, mà chỉ nhìn vào chỗ thiếu sót của bản thân.

Vào thời thượng cổ, người người đều tu Đạo, người người đều tu tâm, con người thời đó hầu như đều có thể sống đến hơn trăm tuổi. Về điều này, trong “Hoàng Đế Nội Kinh” đều có ghi chép rõ ràng. Hiện tại, một đời này của chúng ta, phần nhiều đều sống không được thoải mái lắm.

Rất nhiều người hàng ngày đều đang bới tìm khuyết điểm của người khác, hễ gặp chuyện thì cứ luôn oán trách người khác, trước nay không chịu nhìn lại bản thân mình. Ngày ngày luôn nghĩ đến việc tranh đấu tính kế người khác, họ không biết rằng người thích tranh tới tranh lui cuối cùng đều chỉ là công dã tràng.

Tâm tình của người ta có thể làm lợi muôn vật, thay đổi vạn vật. Tâm trạng của người ta có thể nuôi dưỡng sinh mệnh của chính mình. Tâm trạng người ta rối bời rồi thì thân thể của người đó sẽ mắc bệnh. Thân thể của chúng ta là đồng hồ đo của linh hồn. Tiếc thay chúng ta trước nay lại không hề hay biết, cũng thật đáng buồn thay!

Trong bộ y kinh “Hoàng Đế Nội Kinh”, người xưa từ sớm đã vén mở những quy luật thân tâm đơn giản như vậy: “Vui vẻ tổn thương tim“, “vui vẻ thì khí trì hoãn“, vui mừng quá độ thường thì không còn chút sức lực. “Giận tổn thương gan“, “giận thì khí sôi trào lên“, vậy nên người xưa có câu “giận dựng đứng cả tóc gáy“. “Buồn thì hại phổi“, “buồn thì tinh thần sa sút“, khóc đến bi thương cực độ, con người ta sẽ bị sốc choáng. “Lo nghĩ nhiều tổn thương lá lách“, “nghĩ nhiều thì khí ứ đọng“. Hay như: “Lo sợ thì hại thận“, “lo sợ thì khí huyết tụt giảm“.

 Biết rõ tính cách của bản thân chính là biết rõ bệnh tật của mình

Phàm là người dễ bị kích động, chẳng mấy ai có được trái tim khỏe mạnh. Mạch máu đầu não thông thường cũng sẽ lưu thông không được tốt.

Phàm là người hay tức giận, rất dễ mắc các bệnh tuyến giáp trạng, gan cũng sẽ không được tốt.

Phàm là những người thích phân cao thấp, không chịu nhận thua, phần nhiều xương cổ không được tốt.

Phàm là những người nhát gan sợ sệt, thận tạng thông thường sẽ không được tốt.

Phàm là những người hay đa nghi, thường có vấn đề về tuyến tụy.

Phàm là những người không có chủ kiến, đầu óc thường hay mơ hồ.

Phàm là những người hay tức giận trong lúc làm việc, thường có vấn đề xung quanh bờ vai.

Phàm là những người mà con cái không nghe lời, thường thường có vấn đề nơi các khớp chân.

Phàm là những người chăm chỉ nghiêm túc, phần đông trông khá là gầy gò.

Phàm là những người chấp nhận được thì cứ chấp nhận, thích tích cóp từng chút một, không có tinh thần cầu tiến, rất dễ bị béo phì.

Phàm là người hay lo lắng, tim dễ đập mạnh, phần nhiều mắc các bệnh cao huyết áp.

Phàm là người sợ áp lực, phần nhiều dễ mắc chứng huyết áp thấp.

Phàm là những người đặc biệt thích sạch sẽ, da dẻ thường không được tốt, tỳ vị cũng không được khỏe.

Phàm là người đau khổ quá độ, phần nhiều tuyến tụy không được tốt, lưng cũng không được tốt, rất dễ có cảm giác nhức mỏi.

Phàm là người hay buồn bực, phần nhiều dễ bị ngứa ngáy trên người.

Phàm là những người cảm thấy đời người quá gian nan, thường thường khi đi đứng hành động cảm thấy đặc biệt khó khăn.

“Tướng” do tâm sinh, “bệnh” do tâm khởi, vậy nên các loại bệnh tật, suy cho cùng đều là do tâm thái bạn dẫn khởi cả! Muốn cải biến cơ thể, đổi thay vận mệnh, đừng chỉ tập trung vào biểu hiện bề ngoài. Uống mười thang thuốc chẳng bằng cười một nụ cười sảng khoái. Thay đổi thái độ, nghĩ tích cực hơn, sống an lạc, nhẹ thân tâm, đạo trường sinh chẳng phải đó sao?

Theo Soundofhope

Cụ Bá ngồi chễm chệ trên chiếc ghế được dát vàng, chạm tinh sảo…

Tăng Bui‘s post.
Cụ Bá ngồi chễm chệ trên chiếc ghế được dát vàng, chạm tinh sảo, hai đầu RỒNG ở tay ghế nhìn có vẻ uy nghi, Bộ da Hổ lót ghế thay nệm càng tăng thêm vẻ uy nghi.

Cụ Bá lim dim mắt từ từ quét qua lần lượt các Lý. Bỗng cụ đập bàn chát một cái. Tao đã nuôi chúng mày một cách tuyệt đối, lương bổng không thiếu thứ gì. Vậy tại sao chúng mày làm việc không như tao mong muốn?

Quyền lực trong tay, công cụ bạo lực trong tay, vậy tại sao chúng mày vẫn không bịt miệng được cái đám Dân đen? Tao muốn: giết nhầm hơn bỏ sót!

Không ai bắt nhịp, chẳng ai hô; nhưng lạ thay tất cả bọn chúng đều đồng thanh “Đội ơn Cụ, chúng con đã hiểu”.

Băng đảng này còn thì chúng mày còn cơ hội sống cuộc sống Vương giả: Biệt thự khắp nơi trên thế giới, siêu xe, du thuyền muốn gì đều có. Vậy mà chúng mày không ai lo đại cuộc.đứa nào cũng lo lợi ích riêng. Vậy rồi chúng ta sẽ về đâu? Tao nhắc lại: mất băng đảng là chúng ta mất tất cả.

Tao cũng không muốn đem chúng mày ra xử làm gì; tao cũng đau chứ khi phải xử thuộc hạ. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay cũng cần phải xử điển hình để an Dân. 

Thôi thì ta cho quay vòng quay không kỳ diệu (1/101), nghĩa là trong 101 con số đó chỉ có 01 con số tử, kẻ nào quay đúng thì phải chịu.

Người đàn ông hành động bất ngờ sau khi nhặt được 500 đô la ở máy ATM

  

Một người đàn ông tình cờ nhìn thấy 500 đô la tiền mặt khi rút tiền ở máy ATM, ông đi vào ngân hàng để nhờ giúp đỡ, không ngờ người bị mất tiền và câu chuyện xảy ra sau đó đã tạo nên một làn sóng gửi đi lòng tốt khiến mọi người xúc động tán dương.

Người đàn ông nhặt được 500 đô la ở máy ATM

Đây là sự việc xảy ra vào giữa tháng 11/2015.

Ông Bobby Puryear sống tại thành phố Modesto thuộc tiểu bang California (Mỹ) lái xe đến máy ATM để rút tiền. Ngày hôm đó đúng lúc là ngày nghỉ nên cũng không có nhiều người đi rút tiền, còn ông thì đi bằng đường dành cho người lái xe, vì vậy không cần xuống xe cũng có thể kéo cửa kính xuống để dùng máy ATM.

Điều khiến ông Bobby cảm thấy ngạc nhiên đó là khi ông định để thẻ vào máy ATM thì nhìn thấy nơi trả tiền của máy có để một xấp tiền mặt. Ông cầm lên đếm thử thì thấy là 500 đô la chẵn.

“500 đô la tiền mặt không phải là một con số nhỏ!”. Ông Bobby nói, ông biết nhất định số tiền này là người rút tiền trước đó để quên, ông tin rằng người bị mất nhất định đang rất lo lắng khi không thấy tiền đâu nữa.

Nhân viên ngân hàng nhờ giám đốc hỗ trợ tìm người bị mất

Ông Bobby lái xe một vòng quanh ngân hàng nhưng cũng không tìm thấy chủ của số tiền, thế nên ông dừng xe và đi vào ngân hàng để được hỗ trợ.

Sau khi được biết về sự việc, nhân viên ngân hàng cho biết, họ không thể kiểm tra được ngay người sử dụng máy ATM trước đó là ai mà phải cần báo với cấp trên để kiểm tra.

Ông Bobby để số tiền lại cho nhân viên ngân hàng, người này đã lưu lại số tiện thoại của ông để báo cho ông biết về tình hình kiểm tra.

Cuộc điện thoại báo tin: Đã tìm thấy người bị mất tiền

Ngày hôm sau, khi ông Bobby đang đi làm thì điện thoại reo, đầu dây bên kia là nhân viên ngân hàng.

Nhân viên ngân hàng nói với ông Bobby rằng chủ của số tiền bị mất là một bà cụ 92 tuổi tên là Edith. Người này gọi cho ông Bobby bằng cuộc gọi trực tuyến ba bên, tức là ông Bobby, bà Edith và nhân viên ngân hàng đang đồng thời nghe máy và có thể nói chuyện với nhau được.

Bà Edith nói với ông Bobby rằng mình rút 500 đô la để trả số tiền thuê nhà là 480 đô. Khi phát hiện ra không thấy tiền đâu cả, bà đau khổ lắm bởi vì đã ở tuổi này rồi, mất số tiền như vậy, không biết phải nhờ ai giúp nữa đây.

Bà cụ cho hay, số tiền thuê nhà là 480 đô la, bà muốn tặng 20 đô còn dư cho ông Bobby để cảm ơn. Thế nhưng bà cụ cũng nói, thu nhập mỗi tháng của mình chỉ có vỏn vẹn 500 đô này thôi, 20 đô còn lại sau khi trả tiền thuê nhà vốn là sinh hoạt phí một tháng của bà.

Quyết định của ông Bobby đã cổ vũ tập thể những người tốt bụng hành động

Nghe thấy tình hình kinh tế của bà cụ eo hẹp như vậy mà vẫn muốn tặng mình 20 đô để cảm ơn, ông Bobby vô cùng cảm động. Tuy nhiên, ông không nhận số tiền cảm ơn của bà cụ, mà đưa ra một quyết định.

“Anh này, anh hãy chuyển 200 đô từ tài khoản của tôi sang tài khoản của bà Edith”, qua điện thoại, ông Bobby nhờ nhân viên ngân hàng giúp đỡ, ông nói rằng mình có một công việc ổn định, nên muốn giúp đỡ bà cụ nghèo này.

Không ngờ đồng nghiệp của Bobby nghe được nội dung mà ông nói trong điện thoại thì hết sức cảm động, người này lập tức nói với ông: “Hãy thêm 100 đô nữa, tôi muốn biếu bà Edith”.


Người đàn ông tốt bụng Bobby.

Ông Bobby gác máy, ông và đồng nghiệp rất vui vì hôm ấy đã giúp được một bà cụ neo đơn. Không ngờ một tiếng sau, điện thoại lại reo, người gọi vẫn là nhân viên ngân hàng kia.

Người này nói với ông Bobby rằng mình đã kể về hành động tốt bụng của ông cùng đồng nghiệp cho mọi người trong ngân hàng nghe, sau khi nghe xong đầu đuôi, họ đều mong muốn gửi đi tấm lòng yêu thương của mình, tổng cộng đã tặng thêm 300 đô la nữa cho bà Edith.

Như vậy, bà Edit không chỉ tìm được số tiền 500 đô la bị mất của mình mà còn nhận được khoản tiền từ thiện 600 đô la.

Ông Bobby cười nói: “Đây là món quà Giáng sinh sớm!”

Ngọc Trúc

Bất đồng chính kiến, sự thật, và sự tan rã của Liên Xô

Trần Bang added 2 new photos.

Chống lại dối trá, trở về với Sự thật là cách đã giúp Đông Âu, LX thoát khỏi chế độ cộng sản toàn trị dựa vào bạo lực và tuyên truyền dối trá?

“…Nếu Liên Xô là ví dụ lớn nhất của thế kỷ 20 về một chế độ sử dụng tuyên truyền và thông tin để kiểm soát các công dân của mình – hay 70 năm thao túng tin giả – thì dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Bolshevik là một thời điểm quan trọng để đánh giá lại cách mà nó tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong xã hội dân sự “ngầm” tại Moskva và Leningrad.

Phản kháng nội bộ thực sự chống lại chế độ Liên Xô bắt đầu nổi lên trong những năm 1960, vào thời điểm nhiệt độ chính trị trong nước đang chuyển từ thời kỳ hậu Stalin hừng hực sang lạnh lẽo trở lại. Đàn áp bắt đầu với phiên tòa xét xử các nhà văn trào phúng Yuli Daniel và Andrei Sinyavsky vào đầu năm 1966. Khi các đợt phản kháng và các phiên tòa tiếp diễn sau đó, phe bất đồng chính kiến đã phải đối mặt với một tình trạng lưỡng nan thú vị: làm thế nào để chống đối hiệu quả nhất trong bối cảnh thông tin họ có đang ngày càng nhiều. Gần như hàng ngày, họ đều được nghe chi tiết về những cuộc thẩm vấn, những câu chuyện được truyền lại về cuộc sống trong các trại lao động, cũng như những cuộc lùng sục và bắt bớ.

Nhóm bất đồng chính kiến có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền riêng của mình, nhấn mạnh cuộc bức hại và biến vốn từ ngữ phong phú của Liên Xô về những kẻ “côn đồ” và “phần tử phản xã hội” thành những áng văn dài cay đắng chống lại nhà nước. Nhưng họ đã không làm vậy. Thay vào đó, họ đã chọn cách truyền đạt một cách phi cảm xúc và trong trẻo nhất có thể. Họ đã đạt được những gì chúng ta có thể gọi là sự khách quan.

Nhiều thế hệ công dân Liên Xô đã tự đào tạo mình để nghĩ về sự thực như một khái niệm mang tính tương đối. Các bài báo đã được đọc như những câu chuyện nhằm tôn vinh nhà nước chứ không phải phản ánh thực tế. Và người ta cũng bị tách biệt thành những con người riêng tư, thường khác biệt với khuôn mặt và lời nói chốn công cộng của họ.

Do xã hội Liên Xô được xây dựng dựa trên sự lừa dối kéo dài hàng thập niên này, điều đáng chú ý và khiến ta yên tâm là việc nói thật và nói rõ ràng vẫn có quyền lực lớn lao trong số cho các nhà bất đồng chính kiến vào những năm 1960. Và thực sự là vậy. Hãy nghe Lyudmila Alexeyeva, một trong những nhà sáng lập của một tạp chí ngầm quan trọng nhằm tôn vinh sự thật, tờ A Chronicle of Current Events, mô tả về sự cuốn hút gần giống với tôn giáo:

“Đối với từng người trong chúng tôi, làm việc cho tờ Chronicle có nghĩa là cam kết trung thành với sự thật, nó có nghĩa phải gội sạch bản thân khỏi mọi dơ bẩn của việc ‘suy nghĩ nước đôi’ vốn đã tràn ngập mọi giai đoạn trong đời sống Liên Xô,” bà viết. “Tác động của Chronicle là không thể đảo ngược. Mỗi người trong chúng tôi đã trải qua điều này một mình, nhưng ai cũng biết những người khác cũng đã trải qua cuộc tái sinh đạo đức này.”

Liệu hành trình “ngầm” nhằm tìm kiếm sự thật dựa trên các báo cáo khách quan, thận trọng này có góp phần thúc đẩy sự tan rã của Liên Xô?

Thật khó để xác định, vì còn có rất nhiều yếu tố khác, đặc biệt về kinh tế, cũng góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào cuối những năm 1980. Nhưng nó đã ảnh hưởng đến cách Liên Xô tan rã. Không giống như Trung Quốc, vốn cũng phải đối mặt với một thách thức lớn đối với quyền lực của đảng cộng sản vào năm 1989, Liên Xô không thể hy vọng tự cải cách chỉ bằng perestroika (về kinh tế). Việc Gorbachev thông qua khái niệm glasnost đã thừa nhận rằng cũng cần phải thay đổi xã hội dân sự nữa.

Các nhà bất đồng chính kiến đã tạo ra kỳ vọng rằng có thể sẽ có một loại ngôn ngữ khác, một ngôn ngữ thể hiện được thực tế mà không bị sàng lọc qua các mệnh lệnh của Liên Xô. Họ khao khát sự trung thực và minh bạch ở một quốc gia mà ngay cả tỷ lệ tự tử cũng được coi là bí mật nhà nước. Samizdat cung cấp một phương tiện để họ đạt được mục đích này.

Và những sự thật, không ngừng xếp chồng lên nhau, đã trở thành cách mà các nhà bất đồng chính kiến xây dựng một nước Nga khác, nơi mà họ hy vọng một ngày nào đó có thể đứng lên và vượt qua tất cả những điều dối trá.”

Trích từ http://nghiencuuquocte.org/…/bat-dong-chinh-kien-su-va-su-…/

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor
Image may contain: night and outdoor