Mậu Thân 1968, cả Mỹ lẫn Bắc Việt đều thất bại

Mậu Thân 1968, cả Mỹ lẫn Bắc Việt đều thất bại

Kính Hòa RFA
2018-02-01
 

Binh sĩ Mỹ bị thương tại Huế trong trận Mậu thân. Ảnh chụp ngày 6/2/1968.

Binh sĩ Mỹ bị thương tại Huế trong trận Mậu thân. Ảnh chụp ngày 6/2/1968.

 AFP
Ngày 31 tháng 1 năm 2018, đánh dấu tròn 50 năm ngày lực lượng cộng sản tấn công toàn miền Nam trong một chiến dịch mà họ gọi là Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu thân.

Nhân dịp này một cuộc hội thảo mang tên Bài học sau 50 năm trận đánh Mậu thân được tổ chức tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế ở Thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ.

Thất bại của cả hai bên

Tôi là một trong 9 nhân viên dân sự có mặt trong Tòa Đại sứ Mỹ vào đêm 31 tháng 1 năm 1968, khi cuộc tấn công vào Tòa Đại sứ bắt đầu. Tôi phải mất một thời gian ngắn để biết chuyện gì đang xảy ra. Một nhóm Việt cộng bắn vào tòa nhà và tìm cách xâm nhập. Nhưng lực lượng thủy quân lục chiến gác tòa đại sứ đã nhanh chóng phản ứng, khóa kín đường vào, và Việt cộng không thể xâm nhập được.”

Đó là hồi ức của ông Allan Wendt, cựu Đại sứ Mỹ tại Slovenia kể lại với chúng tôi tại cuộc hội thảo về cuộc tấn công của một nhóm đặc công cộng sản vào Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Theo ông bài học từ trận đánh Mậu thân là những thông tin tình báo phải chính xác, sự chuẩn bị của quân đội phải kỹ lưỡng để có thể đương đầu với mọi cuộc tấn công.

Việt cộng tin rằng dân chúng sẽ nổi dậy khi họ tấn công. Điều đó thật là ngu xuẩn.
-Ông Bing West.

Chiến dịch Mậu thân mà những người cộng sản phát động vào mùa xuân năm 1968 được xem như là một thất bại lớn, vì cả hai mục tiêu mà họ đưa ra đều không thực hiện được, đó là tiêu diệt lực lượng kẻ thù, và kích động một cuộc nổi dậy của dân chúng. Không những vậy, điều mà những người cầm quyền Bắc Việt không hề nghĩ tới, là các lực lượng quân đội cộng sản lại bị tổn thất rất nặng nề, chuyện người dân miền Nam mở cửa đón bộ đội “giải phóng” không hề xảy ra.

Một diễn giả của buổi hội thảo là ông Bing West, từng làm trợ lý Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ thời Tổng thống Reagan, cho rằng không chỉ phía miền Bắc, mà phía Mỹ cũng thất bại, vì sau đó Washington đã đưa ra một quyết định chính trị quan trọng là ngồi vào bàn hội nghị với đối phương mà không tiếp tục cuộc chiến, và đó là bài học lớn nhất của người Mỹ từ trận đánh Mậu thân 1968.

“Quyết định lớn nhất đó trong cuộc chiến lại chỉ được một số ít người quyết định, họ chẳng hỏi ai, mà chỉ bàn bạc với nhau. Trong lịch sử đã từng diễn ra như vậy, những nhân vật vĩ đại quyết định vận mệnh của cả đám đông, của thể chế chính trị. Điều làm tôi sửng sốt nhất đó là sự thất bại của cả hai phía khi nhóm lãnh lãnh đạo cao cấp nhất quyết định. Việt cộng tin rằng dân chúng sẽ nổi dậy khi họ tấn công. Điều đó thật là ngu xuẩn. Phía chúng ta cũng thế. Chúng ta có vị Tư lệnh lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, là tướng Westmoreland có một ý tưởng kỳ lạ là nhảy vô rừng đánh với Việt cộng, nơi mà họ chiến đấu rất giỏi. Rồi khi Tết Mậu thân xảy ra ông ấy viết rằng điều đó là để kéo lực lượng chúng ta ra khỏi Khe Sanh, một nơi heo hút.”

Căn cứ Khe Sanh nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Quảng Trị, ngay phía dưới vĩ tuyến 17 phân chia ranh giới hai miền Nam và Bắc Việt Nam trước đây. Quân đội Mỹ đã thiết lập một căn cứ quân sự ở đây vào năm 1962. Ngày 21 tháng Giêng 1968, lực lượng cộng sản tấn công Khe Sanh, 10 ngày trước khi cuộc tấn công Tết Mậu Thân bắt đầu. Cuộc chiến ở đây kéo dài 77 ngày.

Tướng Westmoreland cho rằng cuộc tổng tấn công của lực lượng cộng sản vào các thành thị miền Nam chỉ là cuộc nghi binh để họ tiếp tục đánh căn cứ Khe Sanh. Điều này sau đó được chứng minh là không đúng.

Theo ông James Robbins, một diễn giả khác của buổi hội thảo thì ngay cả Tổng thống Mỹ là Lyndon Johnson cũng tin vào điều ông Westmoreland suy tính, vì ông Johnson bị ám ảnh bởi một cuộc thất bại kiểu Điện Biên Phủ, một căn cứ quân sự trên rừng núi tương tự như Khe Sanh của lực lượng Pháp, đã bị thất thủ vào năm 1954, kết thúc cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954.

Tuy nhiên một diễn giả khác lại không có cùng quan điểm với ông Bing West là ông Erik Villard làm việc ở Trung tâm lịch sử quân đội Hoa Kỳ, ông cho rằng việc ông Westmoreland chọn Khe Sanh để đặt một căn cứ quân sự lớn là điều đúng vì nó sẽ chận con đường tiếp liệu của quân đội cộng sản miền Bắc vào Nam.

Suy tính của phe cộng sản

Người nghiên cứu về chiến lược và những quyết định của chính phủ Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là chiến dịch Mậu thân 1968, là Giáo sư Pierre Asselin ở Đại học San Diego, California. Ông nói tại buổi hội thảo:

“Điều tôi muốn nghiên cứu là xem những nhà lãnh đạo phía bên kia nghĩ gì. Bên phía Mỹ, những toan tính và hành động của các Tổng thống đều được ghi nhận khá đầy đủ. Tôi dựa nhiều vào tài liệu lưu trữ của phía Việt Nam, và đó là điều rất khó khăn vì không phải tài liệu nào cũng có thể tiếp cận được. Nhưng qua 20 năm cố gắng, cộng với cả những cuộc nói chuyện với nhiều người Việt Nam, chúng ta có thể nói rằng có những điều chúng ta tưởng rằng chúng ta đã biết. Hồ Chí Minh là một huyền thoại, nhưng ông ta đã bị ra rìa cùng với Võ Nguyên Giáp vào những năm đầu của thập niên 1960. Mọi quyết định tập trung vào tay Lê Duẩn. Mậu thân chính là quyết định của Lê Duẩn.”

Theo nghiên cứu của ông Asselin, ông Lê Duẩn có thể được so sánh với những người cầm quyền độc tôn ở các xứ cộng sản khác như ông Mao Trạch Đông bên Trung Quốc, hay ông Kim Nhật Thành bên Bắc Hàn, và đến giữa những năm 1960 ông Lê Duẩn đã mất kiên nhẫn vì cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam không có kết quả, ông muốn một chiến thắng lớn.

Ông Asselin cho rằng ông Lê Duẩn là một nhân vật cứng rắn nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam, lúc đó gọi là Đảng Lao động. Ông Lê Duẩn muốn thắng bằng quân sự để thiết lập sự cai trị cộng sản trên toàn Việt Nam, và qua đó tạo nên một chiến thắng cho phe cộng sản quốc tế.

Kết quả thất bại Mậu thân cũng là sự thất bại của ông Lê Duẩn, nhưng theo ông Asselin, bộ máy tuyên truyền của cộng sản giấu đi sự thật, không cho người dân miền Bắc biết rằng “Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân’ là một thất bại lớn về mặt quân sự lẫn chính trị.

Báo chí và kết quả tâm lý bất ngờ

Một điểm quan trọng mà nhiều diễn giả đã nêu ra trong buổi hội thảo là vai trò của báo chí Mỹ đã làm thay đổi thái độ của nước Mỹ đối với cuộc chiến tranh. Cựu Đại sứ Allan Wendt nói với chúng tôi:

Tôi nghĩ là báo chí (Hoa Kỳ) đã tường thuật sai chuyện gì đã thật sự xảy ra. Có nghĩa là cuộc tấn công Tết Mậu thân là một thất bại của Việt cộng. Nhiều bài báo đã nói rằng Việt cộng đã thành công trong các trận đánh, có nghĩa hàm ý là chúng ta đã kém chuẩn bị, nhưng thực ra Việt cộng đã đại bại.

Ông James Robbins, người nghiên cứu về báo chí Mỹ trong chiến tranh Việt Nam cho rằng những bình luận về chiến tranh của các nhà báo Mỹ, đặc biệt trường hợp nhà báo Walter Conkite của hãng CBS, được xem như là nhà báo được tin tưởng nhất nước Mỹ, chuyển từ khá tích cực sang rất tiêu cực sau Mậu thân. Điều này tạo thành một hiệu ứng tâm lý phản đối chiến tranh sau khi Mậu thân xảy ra. Nhưng ông Robbins cũng nói rằng điều này có phần trách nhiệm của những phân tích tình báo.

Ông Robbins giải thích rằng trước khi trận tấn công xảy ra, các phân tích tình báo của CIA cho rằng nếu cuộc tấn công Mậu thân của phe cộng sản xảy ra thì đó chỉ là một trận đánh có tính biểu trưng, để gây nên một hiệu ứng tâm lý chiến. Nhưng ông Robbins nói rằng điều đó không nằm trong dự tính của những nhà hoạch định chiến lược cộng sản.

Ông James Robbins đưa ra các con số thăm dò thái độ của người dân Mỹ sau khi cuộc tấn công diễn ra. Các con số cho thấy mặc dù có sự sụt giảm trong việc ủng hộ chiến tranh của dân chúng, nhưng phần lớn người Mỹ vẫn ủng hộ sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Nhưng, ông Robbins nói tiếp là Tổng thống Johnson đã không quan tâm đến những thăm dò đó mà kêu gọi Bắc Việt Nam ngồi vào bàn hội nghị, để tiến tới việc kết thúc chiến tranh.

Hiệu ứng tâm lý trên đất Mỹ sau Mậu thân 1968 là điều mà những người cộng sản không hề dự tính.
-Ông James Robbins.

Cuối buổi hội thảo, ông Nguyễn Mậu Trinh, một trong duy nhất hai người Việt Nam đến dự hội thảo nói với chúng tôi:

Người Mỹ họ biết rõ những điều khác với quần chúng bên ngoài. Ví dụ thăm dò ý kiến hồi đó cho thấy có 65% dân Mỹ ủng hộ chiến tranh chứ không phải chống lại như là Hà Nội tuyên truyền.”

Nhưng sự ủng hộ đó đã nhanh chóng biến mất vì Tổng thống Lyndon Johnson đã quyết định chấm dứt chiến tranh, điều mà ông Bing West gọi là không đủ dũng khí để tiếp tục. Ông James Robbins cũng nói rằng cá nhân ông không than phiền báo chí hay bất cứ ai, mà người chịu trách nhiệm chính là Tổng thống Johnson.

Buổi hội thảo kết thúc với hầu như không có câu hỏi nào mà những người đến tham dự là để chia sẻ những kinh nghiệm mà họ đã sống qua trong cuộc chiến Mậu thân.

Người Việt Đang Từ Bỏ Quê Hương – Nguyệt Quỳnh

Bỏ phiếu bằng chân.!

Kimtrong Lam
 

Người Việt Đang Từ Bỏ Quê Hương – Nguyệt Quỳnh

Cứ mỗi năm cuộc tranh giành quyền lực ở cấp lãnh đạo thượng tầng lại lập đi lập lại, và càng ngày mức độ càng gay gắt. Tôi tự hỏi không biết các vị lãnh đạo có từng bao giờ quan tâm để nhận biết ra rằng từ lâu nhiều người dân Việt Nam đã thầm lặng bỏ nước ra đi!

Điều đáng giật mình là – ngày nay người ta rời bỏ quê hương mình không một chút vấn vương luyến tiếc. Quê hương là nơi chốn thiêng liêng, nơi thân thuộc, nơi có cha mẹ, anh em, bằng hữu, có cả một trời thơ ấu; nhưng vì sao người VN lại tìm mọi cách để rời bỏ đất nước mình?

Bốn mươi năm trước, người ta buộc phải dứt áo ra đi, buồn thắt ruột khi phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Thi sĩ Luân Hoán có bốn câu thơ nhớ quê đến nao lòng:

“Trông ra cửa kính trời mưa tuyết
Ngó lại mình đang ngồi bó tay
Quê hương nhắm mắt như sờ được
Sao vẫn buồn xo đến thế này?”

Nếu như ngày xưa, người Việt tị nạn lìa xa quê, nhớ từng chiếc lá me, từng cành phượng vĩ, thương từng viên ngói vỡ, bóng con chim se sẻ trước hiên nhà; thì ngày nay, người giàu cũng như nghèo, ngay cả con cái các quan chức nằm trong bộ máy chính quyền cũng tìm mọi cách để rời bỏ đất nước, ra đi không cần ngoái đầu nhìn lại.

Trong cuộc họp tại văn phòng Quốc hội ngày 29 tháng 12 vừa qua, bàn về tình trạng các du học sinh cấp phổ thông trung học và đại học sau khi tốt nghiệp không trở về; Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng đã nhìn nhận với các đại biểu Quốc hội rằng: “Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về.”

Vì đâu có tình trạng này? Chiến tranh, nghèo đói cũng không làm người ta rời bỏ quê hương mình. Chỉ mới ngày nào, khi cuộc chiến biên giới bùng nổ vào năm 1979, hàng hàng lớp lớp thanh niên ưu tú sẵn sàng viết đơn bằng máu để xin ra chiến trường. Dù khó khăn, gian khổ người ta vẫn gắn bó, vẫn hãnh diện về dân tộc mình. Tôi nhớ có lần đọc được trong facebook của một em sinh viên: “Tôi tự hào vì mỗi tên đất, tên đường ở xứ tôi đều viết bằng tên người chứ không phải đánh số.” Nhưng chỉ vài tuần trước đây, một bài viết trên trang mạng BBC viết rằng – tác giả muốn rời bỏ VN để con cái mình khi lớn lên được sống làm người tử tế.

Tôi có dịp gặp một số thanh niên Việt Nam ở Philippines. Họ trẻ, tốt lành và trong sáng, nhưng họ quay lưng hẳn và không muốn nhắc đến tình hình xã hội, chính trị tại đất nước mình. Sự gian dối, giả trá khắp nơi đã làm các em chán nản. Một em chia sẻ với tôi là hầu hết các bạn của em đều cảm thấy bất lực và muốn tìm cách rời khỏi Việt Nam.

Tôi gặp em H, một thiếu nữ sống một mình ở đất nước xa lạ này. Em sống và chống trả với những bất trắc, bão tố do tình trạng cư trú bất hợp pháp của mình. Gã chủ nhà muốn xâm hại em, thản nhiên cầm điện thoại và hăm dọa nếu em không thuận hắn sẽ báo cảnh sát. Rất may, H là một thiếu nữ thông minh và mạnh mẽ, em đã vượt thoát được. Cha mẹ ở miền quê làm sao biết được em đã phải chống chọi với những gì. Những thiếu nữ yếu đuối, không may mắn khác sẽ hành xử ra sao? Và định mệnh sẽ đưa đẩy các em về đâu?

Tôi cũng gặp một trường hợp khác, một phụ nữ miền biển, nghèo khó, vô danh nhưng chị đã làm tôi xúc động đến ngẩn ngơ.

Nếu bạn đang đi du lịch phượt trên đất Thái. Dừng chân uống một cốc nước dừa trên hè phố hay tại một quán ăn nào đó. Lúc bạn đang cố bập bẹ nói một ít tiếng Thái với người đang phục vụ, thì nhớ rằng người đang nói chuyện với bạn bằng tiếng địa phương đó có thể là một người Việt Nam. Bên dưới nụ cười xã giao và ánh mắt lẩn tránh đó, ẩn chứa cả một mối ân tình thắm thiết của người đồng hương.

Tôi gặp chị L, người phụ nữ gầy ốm da ngăm đen đứng bán một xe nước dừa bên hè phố. Ban đầu có lẽ nghe chúng tôi nói tiếng Việt, không nhịn được, chị cất tiếng hỏi tôi có phải người Việt Nam không. Thấy người đồng hương tôi vồn vã hỏi thăm, nhưng thấy thái độ chị lẩn tránh và đáp lại bằng tiếng Thái tôi đoán có lẽ chị đang có vấn đề về di trú. Bốn mươi năm trước, tôi đã gặp một người mẹ cắt ruột đẩy đứa con 6 tuổi của mình ra biển để mong nó tìm được tương lai. Ngày nay, tôi gặp người mẹ khác, cũng thắt ruột bỏ lại đứa con gái năm tuổi của mình cho bà ngoại để đi kiếm sống ở nước ngoài, đi “tha hương cầu thực”.

Khi đã tin cậy, chị níu chặt lấy cánh tay tôi luôn miệng nói chuyện, quên cả bán hàng. Được một lúc chị móc trong túi áo ra 25 baht tôi vừa trả tiền nước, đưa lại. Chị ngượng ngùng bảo tình cảm mà lấy tiền tối về không ngủ được. Tôi xúc động vì sự tốt lành, vì cái ân tình chị dành cho tôi, một người xa lạ. Bấy nhiêu thôi cũng đủ thấu hiểu tấm lòng tha thiết của chị đối với người Việt, đối với quê hương như thế nào. Vậy mà có đến mấy lần chị nói với tôi là chị không muốn trở về VN nữa. Xin ghi lại một đoạn đối thoại của tôi với người phụ nữ này để hiểu vì sao chị không muốn trở về. Tôi cố tình hỏi tiếp:
– Nhưng khi để dành đủ tiền rồi chị về quê mình chứ?
– Thôi không về đâu.
– Tại sao lại không về?
– Ở đây người Thái họ hiền lắm, họ thương mình. Mình đẩy xe đi bán từ 7 giờ sáng đến 12 giờ đêm mới về được đến nhà. Đi ban đêm cũng không sợ… Ở đây từ những người thấp nhất trong xã hội như xe ôm hay cảnh sát họ đều giúp đỡ mình hết mình.
– Nhưng mai mốt chị về thăm con, người khác dành mất chỗ bán của chị thì sao?
– Không sao đâu, không có mình thì họ bán, khi họ thấy mình đẩy xe tới, họ tự động đẩy xe đi chỗ khác.
– …
Những dự thảo văn kiện đại hội đảng có bao giờ đặt ra vấn đề vì lẽ gì mà người dân nghèo, lương thiện lại không cảm thấy an toàn ở quê hương mình? Những người như chị bán nước dừa, hay cháu H đâu cần biết gì đến dân chủ hay nhân quyền? Họ cũng không cần biết ngày mai ông Nguyễn Phú Trọng hay ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ trở thành Tổng Bí Thư. Họ chỉ cần một môi trường sống ổn định, an lành. Nơi hàng ngày không phải nơm nớp lo sợ gặp cảnh sát giao thông hay quân cướp giật. Nơi họ kiếm được miếng ăn hàng ngày và không phải im lặng trước những điều tai ác.

Đến bao giờ người dân mình khi “Rời Bỏ” quê hương đều ôm giấc mơ sẽ “Trở Về” để sớt chia những gian nan và dựng xây lại đất nước?

Tôi biết những người như vậy, những người đã ra đi, nhưng lại chọn trở về như Trần Văn Bá, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Võ Hoàng, Ngô Chí Dũng…Chúng ta cũng biết những người đang nỗ lực thay đổi xã hội, những người gắn bó với tổ quốc, người muốn dân mình, đồng bào mình được có đời sống đích thực cần có của một con người. Họ là Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Hồ Đức Hoà, Đặng xuân Diệu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Văn Oai, Bùi Minh Hằng, Nguyễn Đình Cương, Võ An Đôn…Tiếc rằng những nỗ lực của họ chỉ đổi lấy tù tội, bất trắc và gian nan.

Tôi tự hỏi những người như Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng, các vị đại biểu quốc hội, những đảng viên “chân chính”… họ nghĩ gì? Họ phục vụ cho ai? Một chính quyền dù có theo đuổi mục đích, lý tưởng cao đẹp gì đi chăng nữa thì cũng chẳng có ý nghĩa gì khi mà con em họ, khi mà mọi người dân, từ trí thức cho đến chị bán nước dừa cũng đều muốn ra đi.

Tôi cho rằng các vị lãnh đạo, những người liên hệ trong chính quyền, hay trong trận đấu đá tranh giành quyền lực năm 2016 – từ anh công an quèn quen bóp cổ dân, đến các nhân sự tứ-trụ-triều-đình tương lai cần có câu trả lời chính đáng cho chính mình và cho những người dân hiền lành, chất phác đang phải sống lưu vong khắp nơi.

Nguyệt Quỳnh
rfa.org/vietnamese/

Image may contain: one or more people, people standing and crowd
 

Những điều người tù cần biết (Phần 1)

Những điều người tù cần biết (Phần 1)

Nguyễn Ngọc Già (Danlambao) – Dù đang bị tạm giữ, tạm giam hay thi hành án, tôi xin phép gọi chung, những người đang ở sau cánh cửa nhà tù, là TÙ NHÂN. Mỗi tù nhân và gia đình của họ, có cách sống và quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, ở đây, tôi nêu lên những gì chung nhất mà bản thân tôi trải qua thực tế, tôi nghĩ có thể, có những điều cần thiết cho thân nhân của các bạn tù tham khảo, nhằm chăm sóc cho chính bản thân mình và chăm lo cho người thân đang ở tù.

Quan điểm của tôi: “Chăm sóc bản thân tức là đang chăm sóc cho người thân”.

Thân nhân của người tù, vui lòng lưu tâm những điều sau đây:

  1. Cần luôn luôn bình tĩnh và khỏe mạnh. Hãy nhớ rằng, chính bản thân mình khỏe mạnh và bình tĩnh mới giúp cho người tù, dù ít nhất. Dặn người tù cũng giữ đúng tinh thần như thế.

 

  1. Tập thể dục mỗi sáng khoảng nửa tiếng (nhiều hơn càng tốt). Hãy luyện yoga (không cần chuyên sâu, chỉ cần 11 tư thế (1) căn bản), quan trọng là thường xuyên. Nhấn mạnh, nhớ hít thở sâu. Dặn người tù cũng làm đúng như thế, dù trong phòng giam chật hẹp (như ở số 4 PĐL, chỉ có 4m2/2 người) tôi vẫn tập được. Khi thi hành án tại Xuân Lộc, tôi ra khoảng sân nhỏ rộng rãi hơn, hoặc ngay trong phòng cũng tập được. Động tác “rắn hổ mang” rất tốt cho cột sống.

 

  1. Ăn đúng bữa, uống nước nhiều, cố gắng ngủ đủ giấc và ngủ sâu. Dặn người tù cũng làm đúng như thế.

 

3.1 Nếu ai không thể ăn cay, hãy cố gắng tập ăn cay dần dần. Trong bữa ăn, hãy lấy vài tép tỏi và vài trái ớt, giã nhuyễn cùng một chút đường để làm chén nước mắm. Nhớ pha nước mắm đủ ăn trong 1 ngày. Vừa tốt, vừa không lãng phí. Có quan niệm ăn cay dễ bị đau bao tử, nổi mụn, nổi nhọt, táo bón… Quan niệm này không đúng. Cố gắng ăn cay mỗi ngày. Bản thân tôi, khi ăn cay và nóng, mồ hôi toát ra, làm cơ thể khỏe khoắn, phấn chấn hơn rất nhiều. Đặc biệt, ăn cay & nóng rất tốt đối với những ai đang bị cảm cúm.

 

3.2 Nhà tù nào cũng giao cơm, canh khá sớm. Cơm tù là gạo dở, để chừng 1/2 tiếng là khô cứng, rất khó ăn. Giờ giao cơm canh, sáng khoảng 6h đến 6h30 (chỉ có cơm), giấc (gọi là) trưa khoảng 9h30 đến 10 giờ, giấc (gọi là) chiều khoảng 3h đến 3h30. Nên ăn ngay, cơm nóng và canh nóng cùng chén nước mắm cay và ít cá khô, chà bông v.v… giúp chúng ta dễ ăn hơn. Tại Xuân Lộc, mỗi tháng có 7 lần thịt và 4 lần cá. Kinh nghiệm của tôi, không nên ăn thịt. Nếu không phải toàn mỡ, cũng là thịt độc hại (cho mèo, mèo cũng chê. Thậm chí, tôi để thử một ngày, ngay cả kiến cũng tránh xa). Cá, có thể ăn được, nếu là cá biển (thỉnh thoảng có cá nục) nên chiên hoặc kho lại (rắc tiêu nhiều, nếu bạn không thể ăn ớt), còn đa số là cá mè (rất tanh và nhiều xương).

 

3.3 Nước uống. Tại Xuân Lộc, mỗi bình 20 lít, có giá 20.000 đồng. Thêm cái vỏ bình 80.000 đồng. Vị chi, lần đầu phải mất 100.000 đồng. Mỗi tháng, mất khoảng 60.000 đồng tiền nước uống. Một năm là 720.000 đồng. Nếu người tù nào có thăm nuôi, xin đừng tiết kiệm khoản chi này. Bạn có thể ăn thiếu thốn, nhưng không được thiếu nước uống sạch. Có những bạn tù, dù có người thân thăm nuôi, nhưng vì tiết kiệm, nên dùng nước giếng bơm (dùng cho cả tắm giặt và ăn uống) nấu sôi để nguội và lọc lại (chỉ bằng cục bông gòn và cái bình lọc tự chế), rồi uống. Nhiều người đã bị đau thận, ban đầu tiểu gắt, tiểu nhiều lần, sau tiểu ra máu, đau lưng rất nhiều. Hãy nghĩ rằng, mỗi tháng bạn tốn 60.000 đồng, để giữ 2 quả thận, bởi dù bạn có cả tỉ đồng để chữa trị cũng không thể nào làm cho quả thận của mình trở lại như trước khi ở tù. Riêng tôi, không ăn canh của trại tù Xuân Lộc. Cứ cách khoảng 3 ngày, tôi mua nửa ký bắp cải hoặc nửa ký khoai tây và dùng nước bình để nấu canh. Tại số 4PĐL và Chí Hòa (có lẽ vì ngay Sài Gòn) có nước sạch uống (nhưng không bao giờ có nước sôi, dù chỉ để ăn mì gói, nên trong tù có món “mì gió”, ai cũng biết), nên tôi không phải mua nước uống.

4.Mỗi sáng, bụng đói (nhớ là phải chưa ăn gì cả), hãy lấy 4 tép tỏi tươi, lột vỏ, nhai sống (phải nhai sống thì chất gì đó [tôi không nhớ và có lẽ cũng không cần nhớ] mới tiết ra). Nhai nhuyễn rồi hãy nuốt. Tất nhiên, rất cay và khó chịu. Hãy cố gắng làm quen với hương vị này. Chuẩn bị một ly nước (ấm càng tốt), khi nhai xong một tép thì uống ngụm nước để bớt cay và cứ thế tiếp tục. Nếu ai có thể nhai cả 4 tép tỏi càng tốt, rồi uống nước cũng được. Nếu chịu cay được như tôi, không cần uống nước. Sau đó, để mất mùi tỏi, hãy đánh răng súc miệng. Dặn người tù cũng làm y như vậy. Rất tốt, qua kinh nghiệm của tôi. Vui lòng lưu ý: việc nhai tỏi sống chỉ có tác dụng, khi nhai sống mỗi ngày, kéo dài ít nhất 6 tháng. Nếu tạo thành thói quen suốt đời càng tốt. Trong tù, tôi đã nhai tỏi như thế suốt gần 2 năm trời, hiệu quả thấy rõ, những cơn đau tim vừa chớm (khi biết tin con trai qua đời) lui dần sau 6 tháng và hiện nay không còn nặng ngực và không còn thấy nhói buốt ngực dù là từ phía sau hay trước ngực trái. Ngoài tim ra, việc nhai tỏi như vậy cũng giúp cho phổi nhẹ nhàng, nhất là đối với không khí trong phòng giam rất ngột ngạt và ô nhiễm (như số 4 PĐL, Chí Hòa, Bố Lá).

  1. Vì ở tù lâu ngày, ăn đồ khô là chủ yếu, thiếu chất dinh dưỡng, nên hầu hết người tù đều có vấn đề về răng. Hãy ngậm nước muối thường xuyên mỗi ngày, dù bạn không đau răng, nhằm để phòng ngừa. Có anh Phạm Xuân Thân (người ám sát phái đoàn tiền trạm của Giang Trạch Dân khoảng năm 96 – 97 thế kỷ trước, nhận án chung thân) vì đau răng quá, anh ấy đã nhờ bạn tù dùng đá và cây củi để đục “một phát dứt khoát” cho bứt chiếc răng ra. Ở tù, người ít thì rụng một cái, nhiều thì 5 – 6 cái. Vui lòng đừng đặt câu hỏi “bác sĩ đâu?”.

 

  1. Trong tù, có tiêu chuẩn bột giặt và đường cát. Mỗi ngày, hãy lấy ít đường và cắt nửa trái chanh để pha uống. Mỗi trái chanh uống được 2 ngày. Cắt theo chiều ngang trái chanh, không nên cắt dọc. Cắt như thế, dễ vắt nước cốt và dễ úp nửa trái còn lại để dành cho ngày mai. Nên uống vào giấc 9h đến 10h sáng.

 

  1. Nên tắm giặt từ khoảng 9h đến 14h mỗi ngày. Trại Xuân Lộc, không buộc chúng tôi (những người tù vì điều 88, 79, 84) phải đi lao động. Chúng tôi bị nhốt như trong sở thú (đã mô tả khái quát khi trả lời phỏng vấn RFA), nên tôi thường xuyên tắm giặt vào giờ nói trên. Ngay cả những hôm mưa bão, rất lạnh, tôi cũng thường xuyên tắm giặt vào giờ đó. Những ngày hè nóng bức, tôi thường tắm thêm vào giấc tối khoảng 6 giờ, tắm nhanh và lau thật khô. Nếu đêm nào nóng quá (khoảng 21 – 22 giờ), tôi không tắm, chỉ xối nước vào khăn rồi vắt cho thật khô lau người, để đỡ nóng.

 

  1. Đặc biệt “ở tạm giam”, đó lại là thời gian khắc nghiệt nhất (tôi ở tình trạng tạm giam 24 tháng qua 3 nhà tù: 4 PĐL, Chí Hòa, Bố Lá). Chỉ nên ăn thực phẩm của mình (dù là gia đình gởi vào hay mua từ nhà tù). Hãy tính toán kỹ và dè xẻn cho những lần thăm nuôi kế tiếp. 

 

8.1 Bạn có thể chia sớt thực phẩm của mình cho bạn tù, nhưng đừng bao giờ nhận thực phẩm được bạn tù chia sớt. Nếu ở chung với người nước ngoài hãy thoải mái nói chuyện. Ở số 4 PĐL, tôi bị nhốt chung với mấy tay (Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina, Nga) ăn trộm tiền bằng thẻ ATM giả. Nếu bạn bị nhốt chung với mấy tên “nhảy sô” (tiếng lóng trong tù, tức là để được giảm án nhiều, những người tù này nhận lịnh vào ở chung với bạn để khai thác thông tin), hãy cư xử lịch thiệp và tranh thủ làm “công tác” “nhảy sô vận”. Rất dễ nhận ra những người “nhảy sô”, tôi tin tất cả anh em tù không phải thường phạm, đều nhận ra ngay. Ít nhiều, những người này cũng nể trọng những người tù chúng ta. Đừng nên to tiếng, cãi nhau v.v… Bởi như thế, bạn đã “sập bẫy” rồi. Nơi đây đỡ phức tạp hơn, nhưng cũng phải tự ăn uống lấy. Tại đây, mua thực phẩm bị cai tù ăn bớt bằng cách kê giá cao hơn, cân thiếu v.v…, thậm chí, mấy tên trộm nước ngoài bị cắt tiền rất nhanh mà không biết lý do, cũng không cãi nhau với công an được, vì chúng không biết tiếng Việt, còn công an không biết tiếng Anh. Vả lại chúng tự biết thân phận cũng là những tên trộm, nên chỉ thắc mắc với tôi, rồi thôi. Bản thân tôi, cũng bị ăn xén như thế, nhưng lúc đó, tâm trạng quá mệt mỏi, vì thế tôi cũng bỏ qua. 

 

8.2 Tại Chí Hòa, nghĩa là bạn đã xong “kết luận điều tra” hoặc đã xong “sơ thẩm”, an ninh không còn cần vai trò “nhảy sô”, nên không cần lo sửa “kết luận điều tra”. Thậm chí, đừng nghe những lời thêu dệt hay hù dọa: bị ghi âm, bị nghe lén, “báo cáo mồm”, mách lẻo v.v… Tôi rút ra được thành ngữ và chia sẻ với mọi người: “Mồm + Mồm = Không”.

Tuy nhiên, bạn phải chú ý rất kỹ. Ngay từ đầu, phải cho tất cả bạn tù biết, bạn không phải “tù bậy bạ”. Ở Chí Hòa, cai ngục dung dưỡng tình trạng “đại bàng” và “đầu mâm”, cùng tình trạng “hối lộ”, “chạy án” v.v… rất hổ lốn và bạn đang sống như trong rừng rậm. Môi trường sống rất bẩn thỉu, họ giam cả người HIV giai đoạn cuối (vì chơi ma túy) chung với người không bịnh. Khi cần thiết, bạn cũng cần hung tợn lên, nhưng tránh đánh nhau, vì sẽ rơi vào bẫy. 

Ở Chí Hòa, 99,9% tù nhân đều bị ghẻ. Không thể tránh khỏi lây ghẻ, vì tù bị nhốt khoảng 40 – 50 người trong một diện tích khoảng 50m2 (gồm cả chỗ tiêu tiểu, tắm giặt, chỗ để thức ăn dự trữ v.v…). Không có muối để tắm, vì Chí Hòa sợ tù nhân dùng muối pha nước rồi đổ vào các thanh sắt, lâu ngày gây mục rữa. Tắm như tắm cho heo, đồng loạt. Giờ tắm khoảng 13h30 đến 14h30 hoặc trễ hơn một chút. Không thể tắm sạch, vì rất đông mà chỉ có khoảng 1 tiếng đồng hồ. Chỉ có thuốc trị ghẻ hiệu “DEP” khi có khi không, thuốc chỉ làm cảm giác nóng và nhờn nhưng không hiệu quả. Bạn có thể “đi xe” (tiếng lóng để chỉ việc mua từ các công an cai tù) với “thuốc bảy màu” trị ghẻ, giá khoảng 500.000 đồng/tube, mặc dù giá ngoài tiệm thuốc chỉ khoảng 20.000 đồng. Một chai dầu gió xanh giá khoảng 700.000 đồng. Một lạng thuốc lào khoảng 2.000.000 đồng, một gói thuốc JET khoảng 500.000 đồng, mua lẻ khoảng 100.000 đồng/điếu v.v… Bán thuốc lào, thuốc lá là một chuyện; nếu để cai tù bắt gặp, là đánh nhừ tử. Đánh xong, cắt thăm nuôi 1 tháng và phát thuốc xức, nhằm phi tang chứng cớ dùng nhục hình. Thậm chí, những tên “đại bàng” giăng bẫy, cũng giả bộ nhập chung để hút lén thuốc lào, rồi “hiệp đồng” trước với phó và trưởng khu bắt tại trận, nhằm lập công theo lịnh của phó và trưởng khu. Bạn cũng có thể gọi điện cho người thân với giá 200.000 đồng/khoảng 2 hay 3 phút nói chuyện. Nói chung bạn có thể mua tất cả, nhưng bạn phải là “tù bậy bạ”. Những người tù như chúng ta, không bao giờ công an dám “bắt mối” để bán.

9. Ở tù, rất nhiều loại bịnh, trong đó, đau dạ dày là khá nhiều. Tất cả đều biết, chứng bịnh này phần lớn do tâm trạng buồn phiền, lo lắng, căng thẳng gây ra. Vì thế, người tù nên vui vẻ, ca hát, kể chuyện tiếu lâm, nói chuyện, chia sẻ những vấn đề thời cuộc hiện nay (thông qua việc đọc báo ND và xem VTV) công khai một cách tự nhiên v.v… đừng kìm nén trong lòng, đừng xầm xì và lấm lét, câm bặt khi thấy bóng dáng công an v.v… Bởi lâu ngày uất khí tích tụ, sẽ gây cho bạn đau dạ dày và trầm cảm nặng.

  1. Tuyệt thực. Theo thiển ý của tôi, không nên tuyệt thực. Vì ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho cả bản thân và gia đình mình. Bởi quan niệm của tôi “Biết chăm sóc bản thân tức là thương yêu gia đình”. Hẳn là bất kỳ bạn tù nào cũng không muốn thân nhân mình muộn phiền và bất an? Thiếu tá Nguyễn Đình Tứ (trưởng nhà tạm giam PA92) từng nói bình thản với tôi về tuyệt thực: Tuyệt thực không chết được đâu. Tôi thấy đúng và càng đúng hơn khi nhớ lại anh Điếu Cày, anh Trần Huỳnh Duy Thức v.v… Trong trường hợp, bạn tù nào vẫn giữ quan điểm tuyệt thực, vui lòng theo cách này: Phài đặt vài câu hỏi, ví dụ: Tuyệt thực bao lâu? Mục tiêu tuyệt thực để làm gì? Kết quả được bao nhiêu phần trăm? Hậu quả sau tuyệt thực sẽ là gì? v.v… Sau khi đã tự giải đáp những câu hỏi rồi, bạn hãy ăn bớt lại từ từ rồi hãy tuyệt thực, nhằm làm cho dạ dày thích nghi và quen dần với việc đói bụng. Ví dụ, mỗi buổi thay vì bạn ăn 2 chén cơm, hãy bắt đầu ăn một chén rưỡi trong 1 tuần. Tiếp theo giảm dần còn 1 chén, rồi giảm dần nửa chén, giảm dần chỉ ăn 1 chén canh, rồi nửa chén canh và dần dần như thế… Không nên “đùng một phát” tuyệt thực ngay, vô cùng nguy hại cho dạ dày và cho sức khỏe lâu dài của bạn.

1/2/2018

Nguyễn Ngọc Già

danlambaovn.blogspot.com

________________________________________

(1) http://www.khoedep.vn/huong-dan-11-tu-the-yoga-co-ban-cho-nguoi-moi-tap/l

Mời đọc thêm: 

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/blogger-nguyen-ngoc-gia-tells-prison-stories-01182018102555.html

http://danlambaovn.blogspot.com/2018/01/nguyen-ngoc-gia-vi-sao-toi-chon-con.html

GIẢI PHÁP CHO SỰ SUY TRẦM VÌ SỢ HÃI CÁI CHẾT

CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN – phần hai.

GII PHÁP CHO S SUY TRM VÌ S HÃI CÁI CHT

Michelle  ở tiểu bang Michigan

Từ khi còn bé, tám chín tuổi tôi đã phải vật vã với nỗi sợ hãi sâu thẳm về sự chết, tôi không biết vì sao lại bị như vậy và nỗi sợ vốn bắt đầu từ đâu ? Tôi không hề bị đối diện với các thảm cảnh chết chóc lúc bé thơ, sự sợ hãi chỉ âm thầm nắm giữ hết mọi tưởng tượng của tôi cho đến khi tôi không còn nhớ đến điều gì khác ngoại trừ một ý thức thường xuyên có tính xác đinh rằng “mình sắp phải chết”, hồn tôi sẽ lìa khỏi thân xác này, nó sẽ trở nên lạnh lẽo và cứng đờ. Tôi sẽ mất hết mọi liên hệ với người thân yêu, mất hết các thứ đồ vật  mà tôi yêu thích. Thần chết, kẻ thống trị sẽ vồ lấy tôi và ném vào nơi tối tăm cô quạnh.

Tôi không hẳn đã bị mất lý trí vì sợ hãi, không đến nỗi bị trầm cảm, suy thoái. Nỗi sợ không làm tê liệt cuộc sống vào lúc ban ngày của tôi, còn bé tôi vẫn chơi đùa, chạy nhảy với chúng bạn, lớn lên thành một thiếu nữ, dồn năng lực cho việc học hành và làm một y tá, niềm vui lập gia đình và có con thơ. Tôi yêu kính Chúa, ngày tháng của tôi tùy thuộc vào Ngài. Tuy nhiên, ban đêm là lúc tôi thuộc về sự sợ hãi.

Ngay khi tôi vừa đặt mình nằm xuống và thế giới chung quanh trở nên đen tối, vừa ngay lúc chồng và con cái ngủ say, (họ thường ngủ trước tôi từ thời khắc lâu trước tôi), liền có tiếng lập lại, vang vọng trong đầu tôi, “Mày sắp chết rồi”. Tôi sợ sự cảnh báo trước về cái chết này đến mất ngủ, có khi tự kỷ đem tôi đến  với các đề nghị ác độc của nó: “Đằng nào thì rồi mày cũng sẽ phải đối diện với cái chết, sắp đến nơi rồi. Tại sao lại phải chờ đợi điều không thể tránh khỏi ? Hãy tự kết liễu nó ngay đi, ít nhất sự sợ hãi sẽ không còn nữa”.

Là một tín hữu Công Giáo sốt mến, tôi nhận định đây là các áp lực tấn công của Kẻ dữ. Hơn thế nữa, là một tín hữu Canh Tân Đặc Sủng, tôi biết là Chúa Thánh Thần có thể cứu tôi khỏi các cơn hành hạ như vậy, tôi đã thấy nhiều người được Chúa chữa lành thoát khỏi sự bức chế và được tự do. Tôi cầu xin Chúa cũng thực hiện điều ấy cho tôi nữa.

Qua nhiều năm, khi xưa tôi đã cầu nguyện, rồi tôi xin người khác đặt tay cầu nguyện trên tôi, để xua đuổi các trói buộc của kẻ thù, giúp tôi phục hồi trí nhớ và xin họ thi hành mục vụ chữa lành cho cô gái bé nhỏ đang mang đầy sợ hãi là tôi. Nhưng mà,  mọi biện pháp đều không mang lại thay đổi nào hết.Sau nhiều năm sống trong nghi ngờ và thất vọng, khi trong tâm tôi đặt vấn đề về sự quan phòng của  Chúa, Ngài có đoái hoài đến đời sống bé bỏng của tôi không?

Tôi cuối cùng đi đến sự đầu phục Chúa,tuân theo thánh ý Ngài, tôi biết rằng mình đã thỉnh cầu Chúa chữa lành nhiều lần rồi, và tôi có thể tiếp tục cầu xin điều đó, tuy nhiên tôi chấp nhận một thực tế là,  vì một số lý do nào đó, Chúa cho phép tôi mang thánh giá đau khổ này ngoài sự mong ước của tôi. Như vậy, trong những đêm đen,  thay vì chết nhát và van nài Chúa giải thoát khỏi sợ hãi, tôi chỉ bày tỏ lòng tín thác nơi Chúa và dâng sự đau đớn, khắc khoải cho Chúa. “ Lậy Chúa, xin sử dụng nó để cứu người của Chúa và để cho con thêm lòng yêu mến Ngài. Xin cùng đi với con trong sự kinh hãi này. Con biết Chúa đang ở đây mà”.

Một đêm nọ, ngay sau khi tôi cầu nguyện những lời tín thác nêu trên, căn phòng của tôi bỗng tỏa sáng, chan chứa ánh sáng lóng lánh vàng. Đột nhiên, tôi thấy mình nằm đó, trên cái gường của tôi nhưng điều tôi nhận ra đấy là chiếc gường chết, ở trên đó tôi nằm yên lành, thanh thản bao bọc trong luồng ánh sáng dịu dàng. Căn phòng có đầy người, và tôi biết họ, có các thiên thần, các vị Thánh đặc biệt mà tôi hằng cầu xin họ suốt đời, Đức Mẹ Thiên Đàng của tôi và cũng có linh hồn những người bạn thân đã qua đời trước tôi. Linh hồn tôi được nhấc bổng khỏi thân xác và được chào đón bởi đông đúc những đấng đang vui mừng chung quanh tôi. Chúng tôi bước đi như thể tiến sang căn phòng bên cạnh nhưng tôi biết là đang bước sang một thế giới khác, nơi chẳng bao lâu tôi sẽ diện kiến Chúa Giê Su. Rồi thị kiến mờ nhạt dần, chỉ còn lại ánh sáng và tôi trở lại tình trang đang nằm trên gường. Thần khí Chúa nói rõ trong linh hồn tôi, với sự ngắt đoạn cách mạnh mẽ giữa những câu sau đây: “Sẽ không có bạo động, Sẽ không có bóng tối. Con sẽ không đơn độc.”

Kể từ khi đó, tôi không còn cảm thấy sợ hãi cái chết nữa, tôi không thể ngờ đã được Thiên Chúa tài tình chữa cho tôi tân gốc căn nguyên của sự sợ hãi cái chết và giải thoát tôi một cách trực tiếp không qua sự can thiệp của một linh hồn nào khác. Đối với tôi, kinh nghiệm này làm sáng tỏ câu Kinh Thánh, 2 Côrinto 3:17

         “…Còn Chúa, Ngài là Thần khí; và đâu có Thần khí của Chúa, thì có tự do.”

Phần tôi, chỉ biết dành toàn bộ thân xác, tâm tình, linh hồn, trí khôn, trí nhớ và mọi sáng kiến của tôi thuận thảo với ý định đáng yêu của Chúa, vào bất kỳ lúc nào ngày và đêm.

                                                                             *–*–*–*–*–*–*

 BỨT PHÁ NHỜ MẤY BUỔI CHUYỆN VÃN.

 Cô Donna, Canada

Hồi ấy, tôi đang tham dự buổi họp mặt cầu nguyện, đề tài cầu nguyện,suy niệm và thảo luận quả là một khám phá cho tôi: “ Làm sao để không là một Kitô hữu hâm hâm dơ dở”. Chúa muốn chúng ta làm nhân chứng về sự hiện diện của Ngài trong đời ta một cách tích cực sinh động, chúng ta không thể do dự chần chừ khi có cơ hội nói về Ngài cho người khác.

Phản ứng ban đầu của tôi về sự dậy dỗ này là thái độ ơ hờ, và đúng là như thế, tôi mang ngay vấn đề thưa với Chúa Giê Su rằng tôi không được chuẩn bị để ra đứng ở một góc đường phố rồi công nhiên tuyên bố thông điệp của Tin Mừng, tôi yêu cầu Chúa hễ muốn tôi nói về Ngài với ai thì xin chỉ định rõ ràng.

Sáng hôm sau, đến sở làm, tôi đang tà tà đi lấy ly nước ở vòi giải khát thì ở đầu kia, có một đồng nghiệp đi về phía tôi, anh ta tiến thẳng đến và chào tôi. Trong lúc vắn tắt mấy câu chuyện vãn, anh ta hỏi tôi làm gì chiều tối hôm qua. Tim tôi đập nhanh dồn dập khi tôi ý thức rằng đây là một cơ hội Chúa dành cho tôi để làm chứng về Ngài. Mặc dù có một khoảnh khắc tôi  sợ bị chàng ta chế diễu nhưng tôi không thể nào lại trốn tránh một cách thẳng thừng, không đáp trả cho thông điệp “yêu cầu làm chứng” của Chúa! Tôi liều trả lời với vẻ mặt tỉnh khô như ngày nắng hạn:

  • Tôi tham dự một nhóm Canh Tân Đặc Sủng cầu nguyện
  • Wow, cô dẫn tôi cùng đi vào lần họp nhóm kế tiếp được không ?

Tôi sửng sốt như bị điện giật ( Ui giời, thời buổi bi giờ mà có người chịu quá bộ, quan tâm đi theo  để cầu nguyện sao kìa ?), tôi bảo anh có thể tham gia cùng tôi vào tối thứ Ba tuần sau. Qua sự kiện này, tôi thầm thì cảm tạ, tôn vinh Chúa, và không thể nào thôi không nhớ đến sự biến chuyển tốt đẹp Chúa đang cho phép xảy ra. Rồi tôi bắt đầu hỏi Chúa Giê Su rằng anh ta sẽ phản ứng với việc cầu nguyện như thế nào đây, tôi sẽ phải chuẩn bị cho đương sự điều gì đây vì có lẽ chàng chưa hề từng cầu nguyện như vậy đâu nhỉ. Trong khi tôi còn đang phân vân với các “théc méc” nhiều nhiều thì người này chợt xuất hiện trước cửa văn phòng của tôi với một bó hoa tươi tốt cầm trên tay, anh muốn cảm ơn về cuộc đàm thoại vừa rồi… Tôi chỉ còn biết lúng túng, nghẹn lời vì quá vui sướng.

Mãi về sau, tôi mới biết rằng chàng trẻ tuổi, có Đạo Công Giáo trên danh nghĩa mà thôi, thậm tệ hơn nữa, chính anh ta đã có lần đi tập thiền Krishna (mà không biết các hậu quả Ma Quỉ có thể gò trói nếu không đề phòng và tôn sùng chúng qua các câu Mantra tối nghĩa). Chúng tôi đi ra ngoài vào ngày Thứ Bẩy và bàn luận chung quanh một tâm điểm là  Chúa suốt buổi chiều tối hôm đó. Ngày hôm sau là lễ Lá và Chúa đã bắt đầu vinh hiển tiến vào đời của anh chàng trẻ tuổi này cách tưng bừng như khi tiến vào thành Giê rusalem  cách đây hai ngàn năm. Anh cảm thấy cần phải đi tham dự Thánh Lễ “lần đầu” sau một giai đoạn kéo dài hơn mười lăm năm bỏ lễ, và anh dò tìm thấy có một nhà thờ dâng lễ vào lúc 5 giờ chiều. Rồi trong Thánh Lễ hôm đó, lại có thông báo nghi thức cáo giải được tiến hành vào lúc 7 giờ tối, thế là anh ta quay lại nhà thờ sau đó để được xưng tội. Không cần nói cũng biết là anh chàng vui mừng đến độ nào khi được quay về “mái nhà Cha xưa”, buổi họp cầu nguyện thứ Ba tiếp theo sau, anh thích thú tham dự với tất cả sự toại nguyện có thể tìm thấy được trên đời cứ như là Nhóm này quen anh từ xưa xửa xừa xưa rồi hay sao á!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chúng tôi hẹn hò, quen biết nhau trong hai năm và cùng tham dự không biết bao nhiêu đợt thám hiểm trên các chuyến hành trình  phát triển tinh thần mà kể cho siết, nhiều lắm lắm luôn á! Chúng tôi làm đám cưới vào tháng 5, tháng dành riêng kính nhớ Mẹ Maria, dịp lễ vọng Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ Ngũ tuần năm 1977, một năm Thánh do Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị tuyệt vời công bố.

Chúng tôi đang ở năm thứ hai mươi tám của cuộc hôn nhân cùng với ba con. Tình yêu của chúng tôi dành cho Chúa và cho nhau cứ tiếp tục lớn lên một cách đậm đà, sâu sắc.

Chúa ơi, Chúa thật là Tình Yêu…….. của chúng con theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen phải không ạ.

Có nên đối thoại với Ma Quỷ?

 

Có nên đối thoại với Ma Quỷ?

Gần đây trên  kênh truyền hình Công Giáo TV 2000, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết: “Chẳng có điều gì thuyết phục tôi để phải đối thoại với Satan cả!” Sau đó ngài đưa ra lý do vì Satan thông minh hơn chúng ta nhiều. Nếu chúng ta bắt đầu đối thoại với nó, nó sẽ quay chúng ta vòng vòng và sau cùng là chúng ta lạc hướng. Bản chất của Satan là dối trá lừa bịp chúng ta, thậm chí với cả giám mục và linh mục nữa. Ngược lại khi chúng ta cương quyết đuổi nó đi, chúng ta sẽ chiến thắng.

Là con người, chắc hẳn ai cũng sợ thế lực ma quỷ, Satan. Chúng ta kinh nghiệm được thế nào là sự dữ, thế nào là sức mạnh của thế lực xấu xa lộng hành. Chúng chống lại Thiên Chúa và phá hoại cuộc sống của con người. Thực vậy, Kinh Thánh cho chúng ta biết thuở xưa có những Thiên thần đã sa ngã mà chúng ta gọi là thần dữ hay ma quỷ. Thế giới của chúng là những chỗ chết chóc đau thương, của hỏa ngục tù đày. Thiên Chúa nhắc chúng ta biết Satan không bao giờ ngủ, chúng luôn quấy phá con người. Đó là bản chất và sở trường của chúng. Từng ngày, từng giờ, chúng ta sống trong nguy cơ sa ngã phạm tội, và không theo Chúa nữa. Do đó, “Anh em hãy sng tiết độ và tnh thc, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gm thét, ro quanh tìm mi cn xé.” 1Pr 5,8.

Hẳn nhiên Satan không có thể xác hữu hình như con người. Chúng thuộc thế giới vô hình. Do đó, chúng quấy phá con người ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta thường gọi đó là những cơn cám dỗ khiến con người làm điều ác. Chúng có nhiều mưu mô thâm độc để bằng mọi cách giết chết con người. Những cơn cám dỗ từ thô thiển đến tinh vi. Bởi đó người ta kể rằng Quỷ Vương rất tinh khôn để gửi những tên lính của mình đến với từng loại người khác nhau mà cám dỗ. Những kẻ đang ở trong tội lỗi, nó sẽ gửi những “Satan nghiệp dư” đến để tiếp tục lôi kéo người ấy đi vào tình trạng xấu hơn. Ngược lại những người đang trên đường nhân đức, Ma Quỷ kéo bè kéo đảng đến để dụ dỗ người ta từng bước nên xấu hơn. Do đó, dù là người tốt hay người chưa tốt, Thiên Chúa nhắc chúng ta “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.” Ep 4,26-27.

Bằng cách nào? Hẳn là Đức Giáo Hoàng cho chúng ta phương pháp để chống lại những cơn cám dỗ: “Đừng đối thoại với nó!” Đó là phương pháp tốt mà Đức Giêsu đã dùng khi ngài chịu những cơn cám dỗ của Satan trong hoang địa. Ðức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi” (Lc4,10). Khi không đối thoại với nó nghĩa là đừng tiết nuối, đừng lấy lý do biện minh cho những hành động xấu, nhưng hãy can đảm bỏ đi những tội lỗi mà mình có thể nhận thấy được. Điều ấy không dễ dàng, vì cám dỗ lúc nào cũng ngọt ngào hấp dẫn. Đó là cuộc chiến khốc liệt giằng xé trong tâm hồn mỗi người!

Tuy nhiên con người may mắn vì khi bị cám dỗ, họ luôn có Thiên Chúa ở cùng. Tiếng nói lương tâm cho ta biết những mưu mô của ma quỷ. Hơn nữa, Thiên Chúa cùng với con người chiến đấu với Ma Quỷ. Một khi con người khẩn xin và cộng tác với Thiên Chúa, chắc chắn Ngài sẽ chiếm ngự hồn ta, trao cho ta sức mạnh và bình an để Ma quỷ không có chỗ quấy phá con người nữa. Bởi đó khi bị cám dỗ, Giáo Hội khuyên tín hữu hãy làm dấu Thánh giá trên mình để xin ơn phù giúp. Kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi bằng tên của Người sẽ thánh hóa công việc ta sắp làm, ban chúc lành cho ta và giúp ta mạnh sức khi gặp khó khăn và cám dỗ. Bên cạnh đó, Kitô hữu được mời gọi hãy cầu nguyện để được thanh tẩy, được “sức đề kháng mạnh” để chống lại cám dỗ. Nhờ cầu nguyện, nghĩa là kết thân với Thiên Chúa, con người được mạnh mẽ khi yếu đuối, được thoát mọi nỗi sợ, được tăng cường sức lực, và được hạnh phúc.

Hẳn nhiên mỗi người đều biết những tội lỗi rất riêng của mình. Nó theo ta như hình với bóng. Có khi ta mệt mỏi chẳng dám chia tay vĩnh viễn với Ma Quỷ. Nhưng Thiên Chúa không cho phép ta bỏ cuộc, vì Thiên Chúa ở cùng với ta mọi ngày cho đến tận thế! Khi biết mình bị Ma Quỷ lừa vào đường tội lỗi, ước gì chúng ta biết đứng lên, đến với cha giải tội để được Thiên Chúa thứ tha. Trong lúc đó, Thiên Chúa có cách để giúp chúng ta không thích đối thoại với Ma Quỷ nữa, nhưng thích nói chuyện với Thiên Chúa hơn, thích hướng đến điều tốt đẹp hơn. Được như thế, hy vọng cuộc sống của ta được Thiên Chúa bảo vệ hướng dẫn.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau để đừng đi vào những cuộc nói chuyện vô ích và nguy hiểm với Ma Quỷ. Xin với Thiên Chúa Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Một Luật Sư Quận Cam trở thành Linh Mục

Một Luật Sư Quận Cam trở thành Linh Mục

Linh mục Trần Đình Văn Quân – Linh mục Công giáo thuộc Giáo phận Orange, California

Tôi làm Luật sư gần 12 năm và 10 năm trong số đó tôi làm Phó Biện lý Quận Cam ở California. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở thành một linh mục! Nhưng Chúa đã biết cả trước khi tôi chào đời và đã cho tôi được làm linh mục. Tôi đã phải trải nghiệm cuộc sống, hẹn hò, và làm việc trước khi sẵn sàng để nghe và đáp trả lời mời gọi của Người.

Sự quan phòng của Chúa đã làm việc trong ơn gọi của tôi trước khi tôi sinh ra. Khi ông nội tôi được mười hai tuổi, có một chuyện xảy ra đã làm thay đổi tất cả. Bà cố nội của tôi bệnh rất nặng và các bác sĩ đã không có hy vọng. Một ngày kia, khi ông cố nội của tôi đang đi bộ về nhà sau khi thăm bà trong bệnh viện, ông đi ngang qua Nhà thờ Công giáo Thánh Giuse. Mặc dù không phải là người Công giáo, nhưng vì tuyệt vọng, ông bước tới trước tượng của Thánh Giuse, ông quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện. Ông đã xin Thánh Giuse giúp vợ ông được bình phục. Ông hứa rằng nếu bà hồi phục, cả gia đình sẽ chuyển sang đạo Công giáo.

Đêm đó, ông bà cố nội tôi đã có cùng một giấc mơ. Họ đã mơ thấy một người đàn ông trông giống như Thánh Giuse đi vào phòng bệnh viện của bà, lấy đi ở phần bụng bà – bộ phận bị đau – và thay thế vào một cái mới. Buổi sáng hôm sau, bà đã được chữa khỏi hoàn toàn và các bác sĩ đã không thể tin được. Ông bà cố nội tôi chia sẻ giấc mơ họ đã có tối hôm trước và biết rằng qua Thánh Giuse bà cố nội tôi đã được chữa khỏi một cách kỳ diệu. Một thời gian ngắn sau đó, ông bà cố nội và ông nội của tôi đã chịu phép rửa tội theo đức tin Công giáo. Nếu không có phép lạ này, bây giờ gia đình tôi và tôi có thể không phải là người Công giáo!

Lớn lên, bà nội tôi là người sùng đạo nhất trong gia đình. Mặc dù bà chỉ theo đạo Công giáo khi bà kết hôn với ông nội tôi, nhưng chính bà lại là người duy trì việc thực hành đức tin sống động trong gia đình. Tôi đã gần bà khi lớn lên và bà đã dạy tôi làm Dấu Thánh Giá và những kinh cầu nguyện căn bản của Giáo hội như kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh và kinh Ăn năn tội. Bà đã dạy tôi cách xưng tội và lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Bà nội tôi đã góp phần trong sự hình thành đức tin của tôi.

Mẹ tôi cũng đã theo đạo khi kết hôn với cha tôi. Lớn lên, chúng tôi là những người Công giáo “lãnh đạm”. Chúng tôi đã đến dự Thánh lễ Chúa nhật và nhận tất cả các bí tích căn bản – chủ yếu bởi vì sự khăng khăng của bà nội tôi. Trong gia đình tôi, tôi chưa bao giờ nghe có ai nói về một ơn gọi có thể có như chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Thay vào đó lại nhấn mạnh về trình độ học vấn cao, có việc làm tốt với mức lương cao và có địa vị nữa.

Trong khi học Đại học, tôi không còn đi dự Lễ nữa. Những điều thế gian như vui chơi và đạt điểm tốt đã trở thành sự quan tâm của tôi; đức tin không phải là một ưu tiên. Điều này tiếp tục tiếp diễn khi tôi đang ở trường luật và cả khi tôi làm luật sư. Trong quá trình lược lại, tôi quyết định đi học tại trường luật. Tôi đã tốt nghiệp Cử nhân Quản trị Kinh doanh về Tài chính nhưng không hứng thú làm việc trong lĩnh vực này. Vì vậy bước tiếp theo hợp lý là để có được một MBA hoặc là đi học luật. Thế rồi tôi quyết định học về luật pháp vì tôi nghĩ rằng nó sẽ cho tôi nhiều lựa chọn hơn.

Công việc đầu tiên của tôi khi ra trường luật là luật sư biện lý công chúng ở Bakersfield. Đó là một kinh nghiệm tốt nhưng tôi biết tôi không muốn sống ở Bakersfield trong suốt quãng đời còn lại. Vì vậy, tôi đã nộp đơn lên Văn phòng Luật sư Công cộng và Văn phòng Luật sư Quận tại Quận Cam, nơi tôi đã lớn lên. Văn phòng của D.A. đã cho tôi một cuộc phỏng vấn và sau đó là một đề nghị tuyển dụng, và tôi đã chấp nhận. Năm 1997, chuyển về Quận Cam và bắt đầu sự nghiệp của tôi với tư cách là công tố viên; Tôi vẫn chưa thực hành đức tin của mình. Tôi mua một căn nhà, một chiếc xe BMW và đã hẹn hò. Tôi đang tìm kiếm một người ưng ý để kết hôn và bắt đầu một gia đình. Nhưng Chúa đã có những kế hoạch khác.

Mãi cho đến khoảng năm 2001 tôi mới bắt đầu trở lại đi dự Thánh lễ thường xuyên. Lý do là vì tôi đang hẹn hò với một phụ nữ Công giáo tốt bụng, cô ta muốn tôi đi lễ với cô vào Chúa nhật và tôi đã làm như vậy. Đây là khởi đầu của cuộc hành trình trở về với Chúa. Tôi đã biết rất ít là cuối cùng nó sẽ dẫn tôi đến đâu.

Chúng tôi đã hẹn hò trong vài tháng nhưng mọi thứ đã không kết quả và chúng tôi chia tay. Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi dự Thánh lễ mỗi Chủ nhật. Tôi tiếp tục hẹn hò với hy vọng gặp được “người duy nhất.” Trong khi đó, Chúa đã sử dụng những người xung quanh tôi để hướng tôi đến với chính Người và cho ơn gọi đích thực của tôi. Chỉ sau đó tôi mới hiểu được ai thực sự là “người duy nhất” đối với tôi. Vào đầu năm 2005, tôi gặp một người phụ nữ ở trong giáo xứ và chúng tôi bắt đầu hò hẹn. Cô cũng là một người Công giáo tốt và cô giới thiệu tôi với chuỗi Mân côi, tham dự Thánh lễ hàng ngày và Chầu Thánh Thể. Cô khuyến khích tôi trở thành một Thừa tác viên Thánh Thể và sau đó là đọc sách Thánh. Tôi đã phát triển trong đức tin và thật sự thực hành nó.

Đồng thời, lúc đó tôi cũng đang trải qua một số khó khăn trong công việc. Điều này khiến tôi bắt đầu suy nghĩ về sự lựa chọn khác. Tôi nghĩ về việc tìm một việc làm khác hoặc thậm chí thay đổi nghề nghiệp, và tôi bắt đầu tìm kiếm… Tôi nhận ra rằng thực sự tôi không thích làm công tố viên hoặc luật sư vì bất cứ lý do nào. Tôi bắt đầu suy nghĩ để tìm ra những gì tôi thực sự muốn làm với cuộc đời của mình. Tôi muốn làm điều gì đó mà tôi thích và đam mê, nhưng không có gì là đúng cả.

Trong tuyệt vọng tôi quay sang cầu nguyện (như ông cố nội tôi). Với đức tin mới tìm thấy, tôi đã đến gần Chúa và hỏi Chúa cho tôi biết điều tôi phải làm là gì? Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi không có lựa chọn dự phòng nào; quá trình lược lại đã dẫn tôi đến ngõ cụt.

Ngay sau khi cầu nguyện, mọi thứ bắt đầu thay đổi. Người phụ nữ Công giáo mà tôi hẹn hò đã bất ngờ hỏi tôi một cách bâng quơ là có khi nào tôi nghĩ đến việc trở thành một phó tế vĩnh viễn không? Tôi nói với cô ấy rằng tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ tới việc trở thành một phó tế. Thậm chí tôi không biết phải làm gì để trở thành một phó tế, nhưng có lẽ nó đòi hỏi phải trở lại trường để học thêm, và tại thời điểm đó trong cuộc đời, tôi không hề muốn trở lại trường học. Nhưng hạt giống đã được gieo!

Không bao lâu sau, ba người khác hỏi tôi có khi nào tôi nghĩ đến việc trở thành một linh mục hay thầy phó tế không? Cho đến thời điểm này trong cuộc đời của tôi, không một ai đã từng hỏi tôi những câu hỏi như vậy. Tôi thấy rất tò mò vì trong vòng một tháng, sau khi tôi cầu nguyện, xin Chúa tiết lộ kế hoạch của Người cho tôi, bốn người khác nhau đã hỏi tôi xem tôi đã từng xem xét về chức linh mục hay thầy phó tế vĩnh viễn không? Tôi chưa bao giờ nghĩ đến ơn gọi và không biết phải làm gì để trở thành một phó tế hay một linh mục. Vì vậy, tôi bắt đầu kiếm trên mạng lưới để tìm hiểu thêm thông tin và tôi thấy mình như bị lôi cuốn về chức linh mục. Tôi thực sự không thể giải thích tại sao. Cảm giác này về chức linh mục là điều tôi đang tìm kiếm và đó là điều tôi muốn làm. Tôi càng suy nghĩ nhiều hơn về chức linh mục, thì nó càng cho tôi cảm giác bình an, niềm vui và có ý nghĩa. Tôi có cảm giác rằng đây chính là câu trả lời cho lời cầu nguyện của tôi.

Tôi đã rất phấn khởi và sợ hãi cùng một lúc. Có một cái gì đó mới lạ, một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến trước đó. Nhưng sự cam kết và thay đổi trong đời sống thì rất lớn. Từ bỏ nghề luật là một chuyện, còn một điều khác nữa để từ bỏ, đó là khả năng không bao giờ có vợ và gia đình. Tôi luôn nghĩ rằng mình sẽ tìm được đúng người, kết hôn và có gia đình. Độc thân không phải là điều dự tính của phương trình! Nhưng còn về chức phó tế thì sao? Nó cho phép tôi được kết hôn, có gia đình và trở thành phó tế cùng một lúc. Nhưng chức phó tế vĩnh viễn thì không bao giờ nghĩ tới. Tôi sẽ dâng cuộc sống của tôi cho Chúa hoàn toàn như là một linh mục hoặc lập gia đình; không có lựa chọn nào khác!

Tôi tiếp tục cầu nguyện và nhận ra ý Chúa cho tôi. Một ngày kia đang quỳ sau khi rước lễ và nhìn lên thánh giá, tôi có thể nghe thấy Chúa Giêsu đang nói trong tâm trí và trái tim tôi, Người kêu tôi bỏ tất cả mọi thứ và theo Người. Một phần của tôi muốn nói “Vâng, Chúa Giêsu, con sẽ từ bỏ tất cả mọi thứ để theo Chúa. Nhưng một phần khác vẫn chưa sẵn sàng, vì vậy tôi cầu nguyện: “Chúa Giêsu ơi, nếu Chúa muốn con theo Chúa, thì Chúa phải giúp con bỏ mọi thứ vì con không thể làm điều đó một mình được. Nếu Chúa muốn, Chúa phải làm cho nó xảy ra.”

Sáng hôm sau tôi thức dậy với bài hát này trong đầu: Everything I Own by Bread. Tôi đã lên trang mạng, in lời bài hát và đọc chúng. Bài hát này nói về một người mất cha và mong muốn cha mình vẫn còn sống. Nhưng đối với tôi, lời bài hát là cách Chúa nói với tôi rằng tôi có thể từ bỏ tất cả mọi thứ cho Người, nếu tôi không làm bây giờ thì cơ hội sẽ không còn và có thể tôi sẽ hối tiếc về điều đó:

Cha đã che chở con khỏi mọi điều tổn hại

Giữ cho con ấm, giữ cho con ấm

Cha đã cho con cuộc sống của con

Cho con tự do, cho con tự do

Những năm đẹp nhất mà con có

Là những năm con đã có với cha

Và con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Bỏ cuộc sống, trái tim, nhà cửa của con

Con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Chỉ để có Cha một lần nữa

Cha đã dạy con biết yêu

Nó là gì, nó là gì

Cha không bao giờ nói quá nhiều

Nhưng cha vẫn chỉ ra cách

Và con đã biết khi con quan sát cha

Không ai khác có thể biết được

Một phần của con không thể buông thả

Và con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Bỏ cuộc sống, trái tim, nhà cửa của con

Con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Chỉ để có Cha một lần nữa

Có ai đó mà bạn biết

Và bạn đang thương họ

Nhưng bạn cũng đã đang coi thường họ

Bạn có thể mất họ một ngày

Một ai đó sẽ mang họ đi

Và họ sẽ không nghe được những lời bạn muốn nói

Và con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Bỏ cuộc sống, trái tim, nhà cửa của con

Con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Chỉ để có Cha một lần nữa

Chỉ để chạm vào Cha một lần nữa

Đây chỉ là một trong nhiều sự kiện mà Chúa đã tỏ cho tôi biết ơn gọi của mình.

Vào mùa thu năm 2005, tôi dự khoá tĩnh tâm Cursillo tại Trung tâm Mục vụ Marywood ở Orange và nó rất mạnh mẽ! Suốt cuối tuần đó, tôi cảm nhận tình yêu và ân sủng đầy quyền năng, đặc biệt là tình yêu của Mẹ Maria. Tôi đã bị cuốn hút đến Mẹ Maria hơn bao giờ hết. Tôi không thể ngừng nhìn vào ảnh của Mẹ. Lời xin vâng của Mẹ Maria cứ lẩn quẩn trong tôi: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin làm cho tôi theo lời của Ngài.” Không nghi ngờ gì, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất lớn trong khi tôi biện phân ơn gọi của mình.

Trong khóa tĩnh tâm, có ai đó đã nói với tôi về một giáo xứ được điều hành bởi dòng ‘the Oblate of the Virgin Mary.’ Tôi bắt đầu tham gia giáo xứ đó và rất có ấn tượng với vị linh mục này. Lời giảng của Ngài rõ ràng và đầy quyền năng, theo tôi chưa bao giờ cảm nghiệm trước đây. Vị linh mục đó đã trở thành người hướng dẫn tâm linh của tôi.

Trong thời gian biện phân, tôi đã gặp một người phụ nữ khác. Tôi đã nói với cô ấy ngay lập tức rằng tôi đang có ý định làm linh mục, để cho cô ấy biết trước. Cô là người Công giáo, đầy tài năng và hấp dẫn. Trên thực tế, tôi nghĩ cô ấy có tất cả những phẩm chất mà tôi mong muốn ở một người vợ. Cô ấy cũng phát triển tình cảm với tôi. Tôi không hiểu tại sao cô ấy đã bước vào cuộc đời tôi vào thời điểm này. Nếu tôi gặp cô ấy sáu tháng trước, tôi có thể đã nhìn thấy phần đời còn lại của tôi với cô ấy. Nhưng bây giờ không phải là thời điểm tốt. Qua cầu nguyện, tuy nhiên, tôi cảm nhận được Chúa cho tôi một sự lựa chọn có ý thức. Đây là người phụ nữ mà tôi có thể lập gia đình, hoặc tôi có thể chọn Người. Nếu tôi chọn cô ấy, Chúa cũng sẽ chúc phúc cho cuộc hôn nhân của tôi, nhưng Người đã gọi tôi chọn Người. Với ân sủng của Thiên Chúa, tôi đã có thể chọn Người. Chúa cho tôi cơ hội này để tôi đưa ra một quyết định có ý thức bởi vì Người không muốn sau này tôi suy nghĩ: “Chuyện gì xảy ra nếu tôi gặp đúng người?” Chúa muốn tôi chắc chắn về ơn gọi của mình.

Vào mùa hè năm 2006, tôi đã yêu cầu và nhận được một năm nghỉ việc để thử ơn gọi mới của tôi bằng cách vào chủng viện. Các đồng nghiệp của tôi rất ngạc nhiên. Nhiều người nghĩ rằng tôi đã đang trải qua một “giai đoạn” và rằng tôi sẽ trở lại trong vòng chưa đầy một năm.

Gia đình tôi cũng rất ngạc nhiên. Bố tôi, đang sống ở Denver, đã bay tới Quận Cam vào ngày hôm sau để nói chuyện với tôi và xem tôi có đang gặp phải bất kỳ vấn đề gì không. Ông cùng với nhiều người khác trong gia đình, nghĩ rằng tôi đã mắc phải sai lầm lớn; họ không thể hiểu được tại sao tôi lại biện phân về chức linh mục và nghĩ rằng tôi đã vứt đi cuộc đời của mình.

Việc chuyển đổi từ một luật sư sang chủng sinh không phải là dễ dàng. Tôi đã bán nhà, bán xe và bỏ hầu hết tài sản của mình. Từ bỏ những điều này không phải là khó khăn. Điều khó nhất là bỏ mấy con chó của tôi. Tôi có bốn con chó và tôi phải tìm nhà cho nó. Thật là đau lòng, nhưng Chúa đã ban cho tôi ân sủng để cho nó đến những gia đình tốt. Những người chủ mới đã rất tốt, họ email và cập nhật hình ảnh cho tôi và tôi có thể đến thăm bất cứ lúc nào.

Vào năm 2006, tôi tham gia vào dòng ‘the Oblates of the Virgin Mary’ như là một dự sĩ tại chủng viện của họ ở Boston và bắt đầu học triết học. Đó là một trải nghiệm mới và đầy thách thức đối với tôi. Tôi đã là một luật sư với nhà riêng và xe của mình, tôi có thể đến và đi lúc nào tôi muốn. Bây giờ tôi phải sống với một cộng đoàn tôn giáo nhỏ và phải làm hầu hết mọi thứ cùng với năm chủng sinh khác: ăn, cầu nguyện, học tập, dọn dẹp, giải trí, vv… Thật khó! Nhưng với sự trợ giúp của Chúa, tôi đã ở được một năm. Vào cuối năm tôi đã nhận ra rằng cuộc sống tôn giáo hoặc ít nhất là dòng ‘the Oblates of the Virgin Mary’ có lẽ không phải cho tôi. Tôi trở lại Quận Cam không biết mình sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng có một điều chắc chắn – tôi không muốn là một D.A. nữa. Tôi nộp đơn từ chức, trả lại huy hiệu và I.D. Tôi thấy bình an với quyết định này.

Nhưng bây giờ làm gì? Tôi tìm kiếm lời khuyên của một người hướng dẫn tâm linh mới, một Norbertine. Ông đề nghị tôi thử Giáo phận Orange trước khi từ bỏ ý định làm linh mục và trở lại “thế giới thực tại.” Vì vậy tôi đã gia nhập Giáo phận Orange và được cử đi học thần học tại Chủng viện Thánh Patrick ở Menlo Park, California . Ngay lập tức tôi nhận thấy một sự khác biệt lớn từ cuộc sống tôn giáo ở Boston. Có nhiều chủng sinh hơn và tôi có nhiều quyền tự do hơn để lựa và chọn, làm thế nào và với ai khi dùng thời gian rảnh của mình. Càng ngày tôi càng cảm thấy tôi đã tìm được ơn gọi của mình. Vào cuối năm đầu tiên của thần học, Đức Giám Mục Orange đã cho tôi một sự lựa chọn: ở lại St. Patrick học hoặc đi đến Trường cao đẳng Bắc Mỹ ở Rome. Tôi đã chọn Rome.

Rome cũng là một thách thức vì là một quốc gia khác, với một nền văn hoá và ngôn ngữ khác biệt, xa với sự quen thuộc và thoải mái ở nhà. Nhưng đó cũng là một kinh nghiệm tuyệt vời cho phép tôi hoà đồng với nhiều chủng sinh và linh mục có năng khiếu từ khắp nơi trên nước Mỹ (và thế giới nói chung). Tôi cũng có cơ hội trải nghiệm những kỳ quan của Rome và các vùng khác nhau của Châu Âu. Điều quan trọng nhất là khi tôi tiếp tục học tập và đào tạo, nó trở nên rõ ràng và rõ ràng hơn rằng linh mục là ơn gọi của tôi.

Vào ngày 10 tháng 7 năm 2010, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi được làm thầy phó tế chuyển tiếp của Giáo phận Orange. Nhiều gia đình, bạn bè đã có mặt và tôi đã thuyết giảng Thánh lễ đầu tiên của tôi như một Thầy phó tế vào Chúa nhật Lễ Hiện Xuống. Cuối tuần đó thật đầy ân sủng! Thật khó để tin rằng bốn năm trước đó, tôi đã là một luật sư cố gắng bỏ mọi thứ và theo Chúa Kitô. Gia đình, bạn bè của tôi đã hãnh diện về tôi. Mùa hè tiếp theo, vào ngày 11 tháng 6 năm 2011, tôi được Thụ phong Linh mục. Tôi đã trở lại Rome để hoàn tất chương trình Licentiate in Sacred Theology trước khi trở về nhà trong năm 2012. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là tại nhà thờ Our Lady of Mount Carmel ở Newport Beach, và năm đầu tiên làm linh mục phó xứ là một phần thưởng và kinh nghiệm cho tôi.

Tôi không chắc chính xác kế hoạch của Chúa dành cho tôi như thế nào. Nhưng dù sao, tôi biết rằng nó tốt hơn bất cứ kế hoạch nào tôi có thể làm cho bản thân mình. Tôi đã giao phó ơn gọi của mình cho Mẹ Maria, tin tưởng vào sự chăm sóc của Mẹ và cố gắng để nên giống Mẹ. Biết rằng sẽ có những thử thách phía trước và tôi cố gắng chấp nhận làm theo ý Chúa mỗi ngày. Tôi giữ những lời sau đây của Mẹ Têrêxa gần với tôi để nhắc nhở tôi tin tưởng Chúa mọi lúc:

“Hoàn toàn đầu phục cho Chúa phải đi từ những chi tiết nhỏ đến những chi tiết lớn, chẳng có gì ngoài một từ duy nhất: ‘Vâng! Con chấp nhận những gì Chúa cho, và con cho những gì Chúa muốn.’ Và đây chính là cách đơn giản để chúng ta nên thánh. Không nên tạo ra khó khăn trong tâm trí mình. Để thánh thiện không có nghĩa là làm những điều phi thường, hiểu những điều lớn lao, nhưng đơn giản là chấp nhận, bởi vì tôi đã dâng mình cho Chúa, tôi thuộc về Người – tôi phó thác tất cả!”

Linh mục Quân hiện là Cha phó – Giáo xứ Chánh toà Chúa Kitô ở Garden Grove. Ngài cũng đang là Vị Đại diện Giám mục của Hiệp nhất Kitô giáo và Đối thoại Liên tôn thuộc Giáo phận Orange.

Anh chị Thụ & Mai gởi

THÁNH GIOAN DON BOSCO (Ý, 1815-1888)

 THÁNH GIOAN DON BOSCO (Ý, 1815-1888)

 Cuộc đời thánh Gioan Don Bosco, như chính ngài viết trong nhật ký theo lệnh ÐGH Pio IX, ghi lại dòng Salésiens, gồm 3 phần: sống nghèo với cảnh mẹ góa con côi.  Ơn gọi làm linh mục, mở trường giáo dục con em, và lập Dòng Salésiens.  Cha Thánh suốt đời sống và phục vụ người trẻ.  Trước khi qua đời 31.01.1888, cha nói: Hãy nói với các bạn trẻ, ta chờ chúng ở trên Thiên Ðàng.  Thánh nhân được phong Chân Phước 02.06.1926, và Hiển Thánh 1.4.1934, do ÐGH Pio XI.  Lễ kính 31.1 hàng năm.  Khi phong thánh, Ðức Giáo Hoàng tôn vinh Don Bosco là cha và thầy của thanh thiếu niên. Năm 2015, kỷ niệm 200 sinh nhật Thánh Don Bosco, Ðức Giáo Hoàng Phanxico nói: Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thánh nhân, xin hoán cải giới trẻ trong tinh thần tươi trẻ huynh đệ như xưa, ngài đã đào luyện.

  1. Nghèo cảnh Mẹ Góa con côi

 Thánh Gioan Don Bosco sinh 15.08.1815, lễ Ðức Mẹ Lên Trời, tại làng Becchi, Marialdo, thị trấn Castelnuovo d’Asti, bắc Ý, xa Torino 17 cây số.  Ngày 17, Gioan được rửa tội do cha Giuse Festa.  Trong sổ rửa tội ghi tên em nhỏ: Bosco Joannes Melchior.  Melchior là tên ông nội.  Chữ Don thêm vào để “tôn kính” hay “cha.”

 Mẹ Gioan là Magarita Occhiena di Capriglio (+1865).  Ông bà thành hôn năm ông 28 tuổi bà 24 tuổi.  Cha của Gioan là Phanxico Aloysii, dân quê.  Ông qua đời 12.5.1817, 34 tuổi.  Năm đó, Bosco mới 22 tháng, mẹ kéo Gioan vào buồng khóc, nói: Bố không còn nữa.  Gia đình có ba anh em: Antôn con mẹ trước, Têrêxa mất khi mới hai ngày.  Giuse và Gioan.  Trong nhà còn bà nội, 70  tuổi.

Gia đình sống trong thời đói kém.  Dân làng ăn cháo bột bắp hay mì.  Người chết đói la liệt ngoài đường, miệng còn ngậm cỏ.  Có tiền cũng không mua được thức ăn.  Có lần bà mẹ nhờ người hàng xóm đi mua thức ăn.  Họ mang tiền về.  Cả nhà bàng hoàng lo sợ.  Giữa lúc túng bấn ngặt nghèo, bà qua nhà bên cạnh vay mượn chút ít.  Nhưng không ai có.  Bà nói với các con: Khi bố chết, có dặn: phải có lòng tin.  Nghe lời bố cả nhà qùi xuống cầu kinh.  Rồi bà xuống bắt con bê, nấu một phần cho con ăn, qua cơn đói.

Ngay trong những ngày đói kém, có người ngỏ ý muốn kết hôn.  Bà từ chối: Thiên Chúa cho tôi một người chồng.  Nay Chúa cất đi.  Anh trao lại cho tôi ba đứa con.  Tôi sẽ là người mẹ độc ác, nếu bỏ rơi chúng đang khi chúng cần tôi.  Người ta nói với bà tìm cho mỗi đứa một người giám hộ tốt.  Bà trả lời: giám hộ chỉ là bạn.  Tôi là mẹ, không bao giờ bỏ con.  Dù cho tôi vàng bạc.  

 Chính bà để tâm dạy các con đọc kinh chung, lần chuỗi và cầu nguyện.  Năm Don Bosco lên sáu, xưng tội lần đầu mẹ dẫn con đến nhà thờ, tham dự Lễ, bà xưng tội trước, sau đến con.  Ðức Pio XII nói về gia đình bà: hãy xem người phụ nữ góa, cùng ba đứa con cầu nguyện.  Chúng như thiên thần nhỏ.  Người mẹ mở tủ, lấy quần áo cho con mặc.  Ðem con đi nhà thờ làng bên cạnh.  Sau cơm tối, con cái vây quanh, bà nhắc các con 10 giới răn.  Kể cho con cuộc tử nạn Chúa Giêsu.  Sau này, Bosco kể lại, nhờ mẹ, mà mình có lòng tôn kính Phép Thánh Thể.

Mẹ không có nghề trong tay, nên Bosco làm nhiều việc, phụ giúp nuôi gia đình như: chăn bò, bửa củi, bồi bàn càfê, may quần áo…  Năm 11 tuổi, Gioan mới cắp sách, đi bộ 4 cây số, mới đến trường, do các linh mục điều hành, kỷ luật.

 Nghèo, lại lận đận học hành, Bosco mất học nhiều năm.  Từ nhỏ nuôi mộng thành linh mục.  Nhưng sợ mẹ vất vả tốn kém.  Bà đã nói với con: đừng băn khoăn.  Mẹ nghèo, sống và chết nghèo.  Năm 16 tuổi, Bosco nhập tu.  Giờ rảnh Bosco xin tập họp trẻ mồ côi, vui chơi và dạy giáo lý.  Sau khi làm linh mục, cha bắt tay gầy dựng theo ước mơ.  Lần đầu 1 trẻ đến.  Ba hôm sau có 9 em.  3 tháng có 25 em.  Chẳng bao lâu, toàn trẻ mồ côi đến.  Sáng lễ, xưng tội.  Chiều giáo lý, hát vui chơi.  Cha lập các “nguyện xá” qui tụ thanh thiếu niên, vui chơi.  Cha có thiên tài viết nhạc thuyết phục trẻ và chủ trương: Nhà Salésiens thiếu âm nhạc, chỉ là xác không hồn.  Bosco yêu giới trẻ.

 Có mẹ Margarita, thánh Gioan Don Bosco trở thành nhà giáo dục thanh thiếu niên tài giỏi.  Anh của Bosco nóng tính hay hành hạ em.  Bà buồn.  Cha sở thấy Gioan thông minh chọn vào nhà xứ học latinh, chuẩn bị đi tu.  Anh ghét, bắt Gioan làm việc tối ngày lại đánh đập, có khi Gioan ngất xỉu.  Nhìn xa, biết con sẽ đau khổ, bà gửi con tới nhà cậu em, xa 20 cây số.  Ở nhà cậu, em làm bánh mì, nặng nhọc thức khuya dậy sớm.  Dưới ánh lửa tối, Gioan lấy sách ra học.  Ðôi khi bà gửi con đến nhà những người quen.    

Ðến hôm người anh lập gia đình, ở riêng.  Bà mẹ đem con về nhà và gửi vào cha xứ tiếp tục tu luyện.  Ngày con nhập tu viện Torino, nghèo bà phải bán áo cưới may cho con áo chùng thâm.  Ngày con thụ phong linh mục, bà qùy nhận phép lành, bà nói: mẹ sung sướng thấy con thành linh mục.  Con thành tâm phụng sự Chúa và các linh hồn.

Có lần thấy mẹ lạnh, ăn mặc lôi thôi, cha mua cho mẹ áo mới.  Lâu không thấy mẹ mặc, cha hỏi.  Mẹ trả lời đã bán phụ tiền nuôi trẻ.  Sau nhiều năm phụ con, cạn tiền, lại già, kiệt sức, vì lũ trẻ tinh nghịch, phá phách bà xin nghỉ.  Cha nói với mẹ: vắng mẹ, còn ai giúp con.  Bà mẹ mắt mờ, lưng còng, hai mẹ con nhìn nhau, nước mắt lưng tròng, nói: Gioan con, mẹ hiểu và ở lại với con…. cho đến chết.  Tụi nó là con mẹ.  Sau 20 năm phụ con, bà qua đời ai cũng mộ mến và gọi là má Magarita.  Hiện có tượng má lớn ngay cổng vào làng cũ xưa.  Tay mang giỏ hoa.  Bà qua đời năm 1865, sau 20 năm phụ con giáo dục, giúp trẻ em.  Ai cũng mộ mến gọi bà: Má Margarita. 

  1. Linh Mục trẻ ở Torino

 Mẹ thánh nhân nói với con lúc 14 tuổi khi vào chủng viện Chierin ở Turino: Mẹ tràn đầy niềm vui, khi thấy con mặc áo chùng thâm, nhưng con nên nhớ “chiếc áo không làm nên thầy tu.”  Nếu ngày nào con nghi ngờ ơn gọi, thì mẹ van xin con, hãy chọn con đường khác.  Mẹ thích đứa con nông dân nghèo hơn linh mục sao lãng bổn phận.  Lúc con chào đời, mẹ đã dâng con cho Đức Mẹ.  Khi con đi học, mẹ đã dặn con tôn kính Người trong khó khăn.  Giờ đây con hãy chọn Đức Mẹ là nữ vương của con.

 Năm 1848, Don Bosco thụ phong linh mục, lúc đầu làm tuyên úy nhà tù, sau có mẹ phụ giúp, phục vụ giới trẻ trong xóm lao động.  Và 1844, làm tuyên úy lưu xá sinh viên.  Từ 1856, hai mẹ con trực tiếp nuôi khoảng 150 đến 200 trẻ em.

 Từ nhỏ Gioan cảm thấy ao ước làm linh mục.  Cậu kể lại giấc mơ, năm lên 10.  Một đêm trong giấc mơ, Gioan Don Bosco thấy mình đứng giữa bọn trẻ đang đánh nhau và chửi tục.  Cậu khuyên can, chúng không nghe.  Bỗng, người áo trắng đến mỉm cười, nói:

–   Bằng tình yêu, em sẽ biến chúng thành ngoan ngoãn đạo hạnh.

–   Nhưng thưa ông, cháu nghèo và dốt.

–   Vâng lời, chịu khó học, em sẽ làm được.

–   Thưa, ông là ai? 

–   Ta là con Trinh Nữ mà mẹ em đã dạy phải cầu nguyện, em hãy xin Mẹ Ta giúp.

 Rồi kìa, Ðức Mẹ xuất hiện, mặt dịu hiền, nói với Don Bosco:

–   Con nhìn xem…

Theo tay Mẹ chỉ, Bosco nhìn thấy đoàn chó dữ.  Ðức Mẹ tiếp:

– Như Mẹ xử với đoàn chó dữ thế nào, con hãy xử với các trẻ như vậy.

 Từ giấc chiêm bao đó, Don Bosco hiểu được sứ vụ giáo dục phục vụ thanh thiếu niên.   

Ngày kia, mẹ dẫn Bosco đi coi xiệc.  Về nhà, Bosco nảy ra, bắt chước trong xiệc “tự tập leo giây.”  Mỗi lần té, Bosco lại đọc Kinh Kính Mừng.  Sau nhiều lần, Bosco thành công.  Tập hết màn này, sang màn khác.  Cuối cùng, Don Bosco trình diễn một buổi xiệc.  Thành công.

 Nguyện xá ở Valdosco

 Năm 1848, chuyện xảy ra khiến cha nghĩ phải lập nhà riêng cho giới trẻ nghèo.  Là hôm  đó, cha vào phòng áo chuẩn bị lễ, thì nhìn thấy người coi phòng áo đánh đập cậu bé.  Cha đuổi ông.  Tên cậu Garetti Bartholomew, 16 tuổi, làm gạch.  Ba hôm sau cậu rủ thêm 8 người khác, đến gặp cha.  Rồi được Thiên Chúa và Ðức Mẹ thúc đẩy, Cha nghĩ ra nơi tập trung cho thanh thiếu niên đến ngày một đông.  Cha đặt tên cho trung tâm này Nguyện xá.  Các linh mục, dân chúng, trong vùng không tán thành vì cho rằng cha đã lôi kéo bọn trẻ, chúng không đến nhà thờ được.  Trong khi đó, chính quyền làm khó dễ, cho là ồn ào, mất an ninh.  Nên bước đầu cha tập trung thanh thiếu niên ngoài cánh đồng.  Ngủ lều, lưu động, mưa gió, nhất là thực phẩm vô cùng khó khăn.  Có những ngày, cha dẫn đàn em xin ăn.  Bên ngoài nhìn vào, người ta cho cha điên.  Nhưng kiên tâm, kết quả tốt, nhờ giúp đỡ người thiện nguyện.  Chính trong các Nguyện Xá có thánh lễ, ca hát, lớp học chữ và nghề.

 Ngày nay, trung tâm Valdocco còn lại: lớp học, phòng ăn, phòng ngủ, sân chơi, vòi nước… xưa, rộng rãi, một lúc cho cả mấy ngàn em…  Nguyện xá lần lượt xây cất, dựng lên, với bao tiếng hoan hô và hâm mộ.  Các em đến ngày một đông.  Nổi tiếng. 

  1. Lập Dòng Phanxico Salésiens.

 Một mình không thể làm xuể.  Có lần Cha mệt, té, tưởng chết.  Từ đó, năm 1859, cha và các cộng sự viên có ý tưởng lập Dòng Don Bosco, chuyên giáo dục thanh niên.  Có dòng nam và nữ Salésiens. Người ta thường gọi Don Bosco là Vincent de Paul mới.  Theo tinh thần của Thánh Phanxico.  Ðược Tòa Thánh công bố, 22.07.1864, mang tên Hội Ðạo Ðức thánh Phanxico đệ Salê, với sắc lệnh Decretum Laudis.  Ðức Pio IX, phê chuẩn hiến luật, 1873.

 – 1859, đầu tiên có dòng Nam, tên là “Phanxico Salésiens’’ (SDB).  Dòng lo giáo dục, dạy nghề cho thanh thiếu niên.  Dòng còn lo truyền giáo.  Triết lý giáo dục là hiểu biết và yêu thương giới trẻ.  Chân phước linh mục Michel Rua là 1 trong 8 tu sỹ khấn dòng đầu tiên.  Sau làm Bề trên kế nghiệp Cha Bosco.  Họ được chọn trong những em được cha Bosco nuôi.

 Khẩu hiệu Dòng: Xin cho tôi các linh hồn.  Các sự khác cứ lấy đi (x. St. 24, 21-23)

 – 1872, Cha cùng thánh Marie Mazzarello lập Dòng Nữ mang tên “Dòng con Ðức Mẹ Phù Hộ Giáo Hữu” (FMA)

 – 1876, Cha bề trên cả Phillip Rinaldi (sau là chân phước) thành lập ‘‘Chí nguyện Don Bosco (VDB) nhiệt tâm với giới trẻ.  Họ là những người độc thân, có nam, có nữ được thánh hiến.  Dưới sự hướng dẫn của linh mục Salésiens.

 Sau khi Thánh Don Bosco qua đời, những người tình nguyện và cựu học sinh mộ mến Dòng, lập ra ba tổ chức sau, yểm trợ cho Dòng tiếp tục đào tạo thế hệ trẻ.

 –  “Hội Cựu học viên Don Bosco” (FMA) gồm những học sinh đã chịu ơn Salésiens, rải  rác khắp nơi, đóng góp tài sức cho dòng Salésiens. 

 –  “Hội Cộng tác viên Salésiens” gồm giáo dân sống trong gia đình và cả linh mục trong xứ đạo, sống Tin Mừng theo tinh thần Don Bosco, trên thế giới, phục vụ giới trẻ địa phương.

 –  “Hội Truyền giáo giáo dân Salésiens” gồm nam nữ độc thân hay có gia đình, làm việc tự nguyện, ít ngày, bên cạnh SDB, FMA, tại các nước truyền giáo, có người Salésiens.  

   Lạy thánh Gioan Don Bosco, là người cha, thầy, bạn tuyệt vời của bạn trẻ.  Xin cho chúng con biết noi gương Ngài cả đời đem hết tâm huyết nhiệt tình lo cho thanh thiếu niên, giáo dục bằng tình yêu và gương sáng, để giúp các em về và ở lại với Chúa mãi mãi.  Amen.

 Sưu tầm

From Langthangchieutim

SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

 Elisabeth Nguyễn

 Trong đời sống đức tin của Kitô hữu, một trong những điều kiện thiết yếu của tự do nội tâm là khả năng sống giây phút hiện tại. Chỉ có giây phút hiện tại ta mới có tự do để Thần Khí Chúa hoạt động, hướng dẫn ta cầu nguyện, suy nghĩ, nhận định để quyết định lưa chọn điều mình muốn làm. Khi ta phó thác tin tưởng nơi Ngài thì những quyết định trong giờ phút này hợp lòng Chúa vì có

Thầy đang ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế

Chúa Giêsu cũng đang nói với anh chị em và với tôi:

Hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”

nếu chúng ta biết chạy đến với Ngài để Ngài được tha thứ lỗi tội của chúng ta.

Trong giây phút hiện tại, dù những quyết định của ta đem lại thành công hay thất bại thì Chúa cũng luôn luôn hiện diện ở đó. Khi chúng ta tin tưởng phó thác như vây thì ta không có gì phải lo lắng. (Quá khứ đã qua, dù quá khứ quá đắng cay hay quá khứ huy hoàng thì cũng đã qua rồi. Tương lai chưa tới, dù ta có hoạch định kế hoạch to lớn thế nào thì cũng chưa thể thực hiện được).

Chúa cho ta kinh nghiệm này để ta cần nhìn sâu vào nội tâm của mình, sống giây phút hiện tại với Ngài, Ngài sẽ biến đổi mọi sự, tha thứ mọi sự, làm trong sáng mọi mục đích và ban cho ta nghị lực để hành động, qua tình thương của Ngài.

Ai có khoảnh khắc hiện tại là có Thiên Chúa, ai có khoảnh khắc hiện tại là có tất cả  (Thánh Teresa Avila)

Mọi khoảnh khắc hiện tại, dù mang lại điều gì cũng đều ngập tràn sự hiện diện của Thiên Chúa, vì Ngài là hiện tại vĩnh cửu. Chúng ta phải học, phải tập yêu, phải tập sống với Ngài trong mỗi khoảnh khắc, như tự nó, đã đủ để cho Thiên Chúa hiện diện ở đó.

Ôi Giêsu! Để yêu mến Ngài, con chỉ có hôm nay. (Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu).

Vâng, yêu thương chỉ có thì hiện tại. Hôm nay có sự khốn của hôm nay, có sự vui của hôm nay, có yêu thương của hôm nay, có đau khổ của hôm nay, có ân sủng của hôm nay.

Hãy tập SỐNG và thưởng thức GIÂY PHÚT HIỆN TẠI để cuộc sống của chúng ta trở nên nhẹ nhàng và thú vị.

SỐNG HÔM NAY luôn luôn đẹp vì Ngài ở cùng chúng ta, dù ta đau ốm, dù ta gặp vấn nạn, Ngài an ủi, xoa dịu và chữa lành. Ta hạnh phúc, hạnh phúc sẽ được ân sủng của Ngài nhân lên.

Ta đang SỐNG HÔM NAY một cuộc SỐNG SUNG MÃN thì chúng ta dễ dàng chấp nhận mọi sự việc đưa đến, việc này việc khác, việc ân thưởng việc vui vẻ, việc khó khăn việc cay đắng, chúng ta có đủ ơn của Chúa để giải quyết

Khi đời sống tâm linh của Kitô hữu trưởng thành hơn, thì ta càng thắm thiết kết hợp với Chúa hơn trong phó thác, tin yêu, và hy vọng tuyệt đối vào Ngài. Ta sẽ không lo lắng, không sợ thời gian nó chạy nhanh như bóng câu qua cửa sổ hay nó chậm như rùa khi ta trong tình trạng chờ đợi. Khi ta thênh thang với thời gian hiện tại thì nội tâm ta SẴN SÀNG có thời gian cho người khác, người bên cạnh ta đang đau yếu cần sự an ủi nâng đỡ của ta, người nghèo khó cần ta giúp lương thực, quần áo, người đang đau khổ hay bệnh nạn v.v…

Hãy có một tâm hồn rộng rãi  trước tất cả những sự việc giây phút hiện tại đưa tới (Andre Gide)

Chúng ta không được phép trì hoãn sống đức tin của mình trong ngày hôm nay bằng cầu nguyện với Lời Ngài và sống Lời Ngài dạy (qua phương pháp Lectio Divina), vì Thiên Chúa chỉ đòi hỏi mỗi lúc ta kết hợp với Ngài trong tình yêu Ngài.

Đơn giản cuộc sống của chúng ta là HÔM NAY.

BÂY GIỜ HOẶC KHÔNG BAO GIỜ.

Ta trả lời thế nào nếu Chúa Thánh Thần hỏi:

Chúng ta ngày hôm nay như thế nào?

Trái tim yếu đuối của ta hay để mất đi HÔM NAY, cơ hội sống trọn vẹn là không để tội lỗi hủy hoại cuộc sống (DGH Francis)

                                                                              Elisabeth Nguyễn

From Tamlinhvaodoi

“ĐẶT CẢ CHÂU Á DƯỚI CHÂN” ? VÂNG, CHÂU Á ĐÂY, HÃY XEM HÀN QUỐC VÀ SINGAPORE!

 Vu Kim Hanh‘s post.
 
 
 
Image may contain: text
Image may contain: 2 people, people standing

Vu Kim Hanh added 2 new photos.Follow

 

“ĐẶT CẢ CHÂU Á DƯỚI CHÂN” ? VÂNG, CHÂU Á ĐÂY, HÃY XEM HÀN QUỐC VÀ SINGAPORE!

Trên bảng xếp hạng 50 nền kinh tế (QG) đổi mới nhất trên toàn cầu , Bloomberg vừa công bố Chỉ số Đổi mới 2018 và ta thấy, 2 nước châu Á xếp thứ hạng rât cao: HÀN QUỐC XẾP THỨ NHẤT VÀ SINGAPORE XẾP HẠNG 3.

Năm nay là năm thứ 5 liên tiếp, Hàn Quốc giữ vị trí này còn Singapore thì đã vượt qua các nền kinh tế Châu Âu như Đức, Thụy Sĩ và Phần Lan để đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng.

Chỉ số này được đánh giá dựa trên 7 tiêu chí có cân đối với nhau, bao gồm: (1) mức chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R & D), (2) giá trị gia tăng mà sản xuất đem lại, (3) năng suất, (4) mức tập trung các công ty công nghệ cao, (5) hiệu quả cao về giáo dục đại học, (6) mức độ tập trung các nhà nghiên cứu, và (7) hoạt động về bằng sáng chế.

Cách chấm điểm: Mỗi quốc gia được chấm điểm theo thang điểm 0-100 cho cả bảy tiêu chí, những quốc gia nào không có dữ liệu trong ít nhất 6 tiêu chí thì được loại bỏ.

Thụy Điển là nước châu Âu xếp hạng cao nhất, hạng 2, trong khi Hoa Kỳ lần đầu tiên rớt khỏi top10 sau 6 năm liên tiếp có mặt.

Đứng đầu bảng xếp hạng về hiệu suất cao, Singapore đã vượt lên trước các nền kinh tế châu Âu như Đức, Thụy Sĩ và Phần Lan để đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng.

Trong bài báo của Bloomberg, Associate Provost thuộc trường Đại học Công nghệ và Thiết kế Singapore, giáo sư Yeo Kiat Seng đã bình luận rằng “Singapore luôn đặt trọng tâm vào việc giáo dục công dân của mình, đặc biệt trong lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học)”. Với tư cách là chủ sở hữu 38 bằng sáng chế, giáo sư Yeo nói thêm rằng nhà nước-thành phố có một “cam kết kiên định để tài trợ R & D và đổi mới”.

Trong khi đó, một số nền kinh tế chủ chốt ở Châu Á cũng được ghi nhận vì nỗ lực đổi mới. Nhật Bản đã giành vị trí thứ 6 trong bảng xếp hạng. Trung Quốc cũng đã tăng lên hai điểm đạt đến hạng 19 với tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp khoa học và kỹ thuật đạt cao trong lực lượng lao động và số lượng sáng chế của các nhà đổi mới gia tăng.

Malaysia, Hồng Kông và Thái Lan cũng vẫn còn nằm trong top 50 nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, thứ hạng của họ đều giảm, Malaysia hiện hạng 26, Hồng Kông 37 và Thái Lan 45.

Ảnh. Bản đồ xếp hạng 50 nền kinh tế đổi mới 2018 của Bloomberg. Tuy hôm nay đón đội bóng U23, chúng ta rất tự hào về thành tích vượt trội, Á quân giải U23 châu Á, nhưng nền kinh tế chúng ta thì đổi mới thế nào, đang ở đâu ở châu Á?

PS.Viết xong rồi, đóng máy rồi, chợt thấy tấm ảnh này, dễ thương quá. Tâm trạng mình vẫn vương vấn với U23. Nhân Hàn Quốc đứng nhất TG về đổi mới, thấy ông thầy Hàn Quốc đang hôn an ủi Văn Thanh, chàng trai xuất sắc (và rất đáng yêu với cách khoanh tay tủm tỉm sau cú đá phạt penalty cuối cùng thành công), mình không đành mà không đăng tấm hình này, nói một lời, cám ơn ông thầy. Cám ơn tình thầy trò (ông bạn cùng nhà với mình thì gật gù, như cha con ấy nhỉ?)

CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN.

CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN.

LỜI CHỨNG CỦA ÔNG BÀ PETER DEBBIE HERBECK TRONG CUỐN “WHEN THE SPIRIT SPEAKS”

Có lẽ sự đóng góp quan trọng nhất của Đức Thánh Cha Gioan Paul đệ nhị là việc chuẩn bị Giáo Hội đối mặt các thách thức của thiên niên kỷ mới, qua việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng cho mỗi tín hữu Công Giáo có một đời sống thân mật, sống động với Chúa. Từ năm 1998 trong dịp gặp gỡ phong trào Canh Tân, Đức Thánh Cha đã nói:

  • Giáo Hội đã nhận thức dựa trên niềm tin vững chắc rằng Chúa Giê Su đang sống, đang làm việc trong lúc này và thay đổi thế gian… Với Công Đồng Vatican 2, Đấng bảo trợ mới đây đã ban cho Giáo Hội một cuộc Canh Tân của lễ Ngũ Tuần, trang bị cho động lực mới chưa hề đoán biết… Hôm nay Cha kêu nài tất cả các con có mặt nơi đây tại quảng trường Thánh Phê rô và mọi tín hữu của Chúa: mở lòng các con để vâng phục ơn Chúa Thánh Thần! Chấp nhận với tâm tình biết ơn và tuân theo các ân sủng mà Chúa Thánh Thần không ngừng tuôn đổ xuống trên chúng ta.

Lời cầu mong của Đức Thánh Cha khá linh nghiệm, đã có nhiều các con cái Chúa tiến bước trong ơn Chúa Thánh Thần, đến nay sau 50 năm đã có trên 160 triệu người ở 230 quốc gia nếm biết sự phong phú và tốt lành của nguồn ơn thánh hóa Canh Tân từ Chúa Thánh Linh. Họ có được một đời sống thân mật an hòa và hy vọng, tương tự như những gì mà vua Đa vít cảm nhận và mô tả trong Thánh Vịnh 16:7, 9, 11:

7  Con chúc tụng CHÚA hằng thương chỉ dạy,                        

     ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.

8  Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,

     được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.

9  Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,

      thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.

11  Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống :

       trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, 

       ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!

Không phải chính Chúa Giê Su đã hứa về điều này cho ta sao:

26 Nhưng Ðấng Bầu Chữa,Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta,

chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho ngươi nhớ lại

mọi điều Ta đã nói với các ngươi”. (Gioan 14:26)

Đời sống của người Tín Hữu là đời sống trong Chúa Thánh Thần, Chúa kêu gọi mọi người đã được thanh tẩy hãy bước đi nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trong ơn nâng đỡ của Chúa Thánh Thần.

Ông Peter và vợ ông là Debbie được dịp kể lại các lời làm chứng của nhiều người về những gì đã xảy ra trong cộng đoàn của các nhóm cầu nguyện mà họ có dịp tham dự. Có tổng cộng khoảng 61 lời chứng, trong loạt bài ngắn này chúng ta sẽ lược đến một số các Lời chứng ở các nơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ, ở nước Sudan Phi Châu và Kazakhstan, Luthuania, Hung Gia Lợi các nước theo Cộng Sản trước đây…

*  *   *

 LỜI CHỨNG CỦA MỘT PHI CÔNG CHIẾN ĐẤU TRONG KHÔNG LỰC HOA KỲ.

Joseph tiểu bang Missouri.

Tôi là một người Công Giáo nòi, tôi sinh trưởng trong gia đình đạo gốc, theo học trường Công Giáo nhưng lên tới trung học vào thập niên 60 thì tôi bắt đầu đàn đúm và chơi ma túy, uống rượu. Khi sắp tốt nghiệp đại học tôi quyết từ bỏ ma túy và gia nhập không lực Hoa kỳ, sau đó tôi lập gia đình và có con.

Gia đình tôi khá hạnh phúc, chúng tôi đi lễ mỗi Chúa Nhật nhưng không đi xưng tội. Vì tôi ở xa nhà trong quân ngũ suốt thời gian hứa hôn trước khi lập gia đình, chúng tôi không có dịp bàn hỏi nghiêm túc về việc ngừa thai theo sự hướng dẫn của Giáo Hội. Chúng tôi bị lôi cuốn theo trào lưu của văn hóa “Ngừa thai nhân tạo”, chúng tôi thuộc loại “Công Giáo trong quán Cà phê”, chỉ chọn lựa và đi theo những huấn giáo của Giáo Hội nào thích hợp với mong muốn của mình. (Đây cũng là đặc tính của các tín hữu Tây Phương tân thời?) Nhiều năm sau, vợ tôi không thể uống các viên thuốc ngừa thai vì các phản ứng phụ thấy rõ rành rành từ thuốc. Đến thập niên 90, chúng tôi quyết định rằng tôi cần phải giải phẫu cắt ống dẫn tinh. Tôi thực sự cho rằng làm thế, tôi đã hành xử có trách nhiệm cho sức khỏe gia đình và cho việc điều hòa dân số. Có nhiều người mà tôi biết đã làm điều này, tình cảnh của tôi thật giống như một con cá chết, thân tôi nổi lềnh bềnh trên mặt sông chảy trôi theo nhiều con cá chết khác. Tuy nhiên, Chúa Giê Su có thể làm cho một người đã chết được sống lại!

Là môt phi công phản lực lái chiếc A-10 (loại máy bay hỗ trợ bộ binh tác chiến dữ dội nhất trong không lực Hoa Kỳ), tôi trải qua hai cuộc chiến và rồi được bổ nhiệm tới Nam Á, tôi đã có nhiều cơ hội hồi tâm, suy xét trong thời gian đó, Tôi bị bắn có, tôi bắn người ta trong trận chiến có, vào sinh ra tử, tôi như được bảo bọc trong một tấm áo giáp nên mới còn sống sót. Năm 1980, tôi phụ trách huấn luyện và trực chiến ở Châu Âu, khi đó bức màn sắt còn đóng kín, đơn vị của tôi sẽ thiệt hại nặng nề nhất nếu Sô viết tấn công Tây Đức. Hồi đó, Cha tôi trao cho tôi một cỗ tràng hạt, tôi ít biết rằng đó là một thứ vũ khí hiệu lực nhất để chống lại các kẻ thù có nhiều thành tích giết chóc nhất, không chỉ là loại máu thịt nhưng cả các vương phủ chốn quyền lực tối tăm. Tôi hằng mang chuỗi theo mình trong mỗi chuyến bay thi hành nhiệm vụ nhưng phải mãi đến sau cuộc chiến vùng Vịnh Ba Tư, năm 1991, cuối cùng thì tôi đã bắt đầu cầu nguyện bằng chuỗi Môi Khôi. Rồi, ơn Chúa bắt đầu xuyên thấu trái tim cứng như đá hoa cương của tôi, trong tận đáy lòng, tôi biết rằng việc cắt ống dẫn, ngừa thai là một tội trọng, và tôi đi xưng tội. Lạ kỳ, trong nghi thức xá giải, con người ngang tàng của tôi khóc nhiều. Khi được ban ơn tha thứ tội lỗi, tôi biết có một cái gì đó khác trước cho dù tôi không cảm thấy có gì khác lạ. Bây giờ thì tôi đã biết rằng nhờ cầu nguyện với chuỗi Môi Khôi, trái tim vô nhiễm vẹn sạch của Mẹ Maria đã mang tôi đến với con của Mẹ.

Rất từ từ nhưng cẩn trọng, tôi bắt đầu ước ao được học biết nhiều hơn về đức tin Công Giáo của mình. Chúa sắp xếp cho có người và sự kiện diễn ra trong đời để giúp tôi. Khi tôi còn đang thắc mắc sao Anh Em Tin Lành lại sốt sắng, say mến Chúa thế, trong vòng một tuần lễ, tôi gặp một người trong giáo xứ, họ vừa mới trở lại Công Giáo từ Tin Lành, anh ta cho tôi một cuốn sách về đức tin Công Giáo. Đọc sách này tôi bắt đầu có một sự ao ước mạnh mẽ được hiểu biết về Đức Tin mà nhiều lần trong quá khứ tôi chực gào thét vì lẫn lộn, tù mù. Tôi đã lãng phí biết bao thời gian mà không biết rằng có một Chân Thiện Mỹ rất tuyệt vời trong Đức Tin Công Giáo. Tôi có ước ao sâu thẳm được đến với Bí Tích Thánh Thể, và tôi bắt đầu lần chuỗi hàng ngày.

Sau hai mươi năm phục vụ trong quân ngũ, mãn nhiệm tôi trở về đời sống dân sự, tiếp tục làm phi công cho hãng hàng không United Airlines. Gia đình tôi di chuyển về Missouri, tôi có dịp tham gia sinh hoạt trong Giáo xứ nhà nơi tôi lớn lên, hai con tôi tham dự lớp thêm sức.

Vào tháng năm 2002, trong thánh lễ vọng thứ bẩy, các con tôi chịu phép Thêm Sức. Trong lúc hát bài ca kết lễ, khi đức Giám Mục đi xuống từ lối giữa nhà thờ, ngang qua chỗ tôi, tôi cảm thấy có một điều mới mẻ, tôi chỉ có thể diễn tả như là một Đấng Siêu Nhiên ôm bọc lấy tôi. Cảm giác này gói trọn thân thể tôi lại từ đầu đến chân, không thể nhúc nhích. Không cầm được nước mắt, tôi ngồi xuống rồi quỳ xuống. Cả nhà thờ bỗng như trống không, vợ tôi bên cạnh muốn biết điều gì xảy ra cho tôi. Tât cả tôi có thể thì thào vài lời, là “tôi không biết”. Tôi không thể cử động, tôi cuối cùng chỉ ngồi đó mà khóc. Tôi đó, một gã to con, phi công chiến đấu dày dạn trận mạc, ngồi khóc một cách có vẻ như là vô cớ.

 Trong thâm tâm, tôi biết chuyện gì xảy ra: Thiên Chúa đã hạ mình xuống ôm ấp tôi, một người con trong số các con của Người, cũng y hệt như khi Chúa hạ mình xuống cho cả thế gian trong mỗi thánh lễ Misa. Tôi không bao giờ xứng đáng được có Chúa, Không bao giờ có thể đền đáp lại cho Người. Tuy nhiên, tôi biết rằng chúng ta được kêu gọi tiến vào mối liên hệ này với Chúa, để yêu mến Người và để ước ao được làm hài lòng người hơn hết mọi thứ trên đời.

(Từ lúc ông sĩ quan cao cấp, phi công phản lực, Joe mang theo xâu chuỗi như là lá bùa hộ mệnh trong khi giao chiến, đối mặt với chết chóc, khó khăn, cho đến lúc ông sử dụng chuỗi để lần hạt và cầu nguyện  hàng ngày, đó là cả một quá trình dài, qua năm tháng. Mẹ Maria bảo vệ và dẫn đưa người con đi từ cứng lòng, bạo động, thờ ơ từng bước nối tiếp theo nhau nhằm đích đến là được gặp một Chúa sống động. Và cuối cùng, ông Joe đã trở thành một người con ngoan, sùng mộ chân lý, thậm chí trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần. Ông có mối liên hệ bạn bè thân mật với Chúa kính yêu, thật đúng là “Nhờ Mẹ con đến với Chúa”)

&  &  & 

LỜI CHỨNG CỦA MỘT DOANH NHÂN BẬN RỘN

Anh Eric tiểu bang Minnesota.

Tôi đã đinh ninh rằng mình là một người theo Đạo trọn đời. Tôi tin có một Chúa Trời, Đấng ban Con một của Người xuống thế cho ta được ơn cứu độ. Tôi sinh hoạt tích cực trong Giáo Xứ, cố sống một đời đạo đức. Tôi có một liên hệ có tính cách cá nhân, cách nào đó với Chúa Giê Su. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ thực sự hiểu biết về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống. Hậu quả là tôi cứ dần bị lôi kéo đi xa dần mối quan hệ cá biệt với Chúa.

Tôi làm việc rất nhiều, cố duy trì cho bằng được sự điều hành cách tự chủ trên cuộc đời của mình, nhưng hởi ơi, tôi càng làm việc cần mẫn bao nhiêu thì mớ bòng bong rối càng lớn hơn lên! Nào là kinh doanh lụn bại, nào vợ tôi sảy thai, rồi đến người bạn thân nhất của tôi đi tìm đến cái chết bằng cách tự tử. Khi những điều này xảy ra, tôi chỉ biết làm việc thêm, càng gia tăng nhiều giờ hơn. Chẳng bao lâu, tôi đang làm ba công việc cùng lúc, làm sáu mươi đến bảy mươi tiếng một tuẩn. Đã từ lâu rồi, hễ vừa thức giấc, tôi liền lo lắng về việc làm ở đâu để kiếm đồng tiền kế tiếp cho các giờ của ngày hôm đó. Sự căng thẳng dẫn đến mối lo lắng và các cơn lo, bồn chồn tấn công tôi làm thức giấc giữa đêm, mình đổ mồ hôi ướt đẫm. Một đôi khoảnh khắc hiếm hoi, khi tôi không phải làm việc, đến quây quần cùng gia đình, con nhỏ của tôi liền cất tiếng hỏi “Ủa Ba có được ở nhà với tụi con bữa nay hôn Ba?” Nhìn vào hình gia đình tôi nhận thấy hầu như không tấm nào có mặt mình ở trong ảnh chụp cả nhà! Rồi tôi giật mình vì thấy con cái trong tấm ảnh đã lớn khôn nhiều mà mình mải mê và không hề hay biết.

Khi tôi thấy sự hỗn độn trong công việc của mình làm ảnh hưởng đến sinh hoạt gia đình, tôi nuốt vào bụng niềm tự hào của mình, tôi bắt đầu cầu nguyện đều đặn với Chúa, xin Người thương xót đến vợ con tôi và ban bằng an cho họ, tôi không cầu cho mình được ơn an bình vì tôi nghĩ rằng mình đáng bị khổ sở như vậy do tính luôn đòi phải tự chủ của con người.

Trong vòng một năm rưỡi tiếp theo, Chúa bắt đầu trả lời cho những lời cầu nguyện của tôi. Tôi nhận ra là mình đang làm chỉ có một công việc mà thôi và có nhiều thời gian dành cho gia đình. Tuy làm ít nhưng Chúa tạo ra nhiều cơ hội tuyệt diệu để tôi gia tăng thu nhập và có thể trả bớt phần lớn số tiền nợ nần, chúng tôi dời đến ở nhà mới mua đẹp hơn và được Chúa ban cho thêm con thứ hai chào đời. Một khi tôi chỉ cần bật mở ở một chỗ trong trái tim mình, một khe nứt nhỏ thôi, thì Chúa đã chỉ cho tôi thấy Ngài yêu thương và lo liệu cho tôi như thế nào rồi. Chúa của tôi là như thế đó!

Tuy thế, tôi vẫn còn bệnh hay lo và suy tổn vì trầm cảm, tôi biết là đời sống này cần nhiều thứ có ý nghĩa cao siêu hơn. Tôi biết là mình không xứng đáng hưởng sự an tĩnh của tâm hồn nhưng Chúa lại rất đang sẵn lòng ban điều ấy cho tôi. Tôi biết mình có trái tim quá chai đá, (khi tôi không chịu xin ơn cần thiết ấy cho dù tôi rất muốn), tôi không hiểu tại sao mình lại có sự cứng cỏi như vậy.

Để tìm câu trả lời, tôi quyết định đi tham dự kỳ tĩnh tâm (Canh Tân Đặc Sủng) tại nhà thờ của mình cùng với vợ tôi. Tôi thú nhận với vợ về cái chướng ngại không tên giữa Chúa và tôi. Đêm hôm đó, tôi thấy mình được bao quanh bởi những người có đầy ắp tình yêu của Chúa trong tim, họ có niềm vui và an bình của Chúa! Tôi như thấy Chúa chìa tay ra cho tôi nhưng có một bức tường ngăn cách không cho tôi đối thoại với Chúa.

Khi tôi lái xe về nhà sau buổi tĩnh tâm, đột nhiên, Chúa mạc khải, tỏ ra một cách sống động cho tôi, tôi bừng tỉnh và thấy rõ cái chướng ngại nằm cản giữa Chúa và tôi chính là cái cảm giác có tội, mặc cảm phạm lỗi của tôi, mặc cảm thất bại trong kinh doanh, nói dối với người khác, mặc cảm tranh chấp trong hôn nhân, nặng nề nhất là cảm giác yếu kém khi không biết giúp người bạn thân thiết nhất đời tôi, đang khi anh ấy có ý định tự tử. Trong sự mạc khải của Chúa, tôi cảm thấy gánh nặng khổng lồ trên vai được cất đi. Tuy nhiên, tim tôi cần được làm mềm mại trở lại để có thể đầu hàng, tùng phục Chúa trọn vẹn.

Trong liên tiếp sáu tuần sau đó, nhờ ơn Chúa Thánh Linh, tôi đã có thể cho phép Chúa gọt đi từng lớp một của cái vỏ cứng vốn đang bao bọc quanh trái tim tôi. Đồng thời, tôi cũng để cho các mặc cảm, các dằn vặt, sự tự kỷ, tự kết án mình ra đi, từng thứ một tôi bỏ cho chúng đi ra khỏi tâm hồn không nhớ đến chúng nữa. Vào ngày 6 tháng Ba, năm 2004, tôi cho phép điều mặc cảm cuối cùng được đóng đinh vào thập giá của Chúa và chết vĩnh viễn. Chúa Thánh Linh đổ đầy tim tôi tình yêu của Chúa trong niềm bình an và hoan lạc.

Tôi nay đã hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh hướng dẫn trong đời tôi, tôi không còn cần phải dựa vào sự hiểu biết qua kiến thức đầu óc để biết Chúa và sự giáo huấn của Ngài đang khi tôi nặng nề, ì ạch bước đi trong đời. Tôi có thể cậy dựa vào Thần Khí Chúa hướng dẫn cho đến vĩnh hằng, Ngài cùng đồng hành với tôi trong mọi lúc và ban cho tôi với nhiều ơn để hoàn thành các mục đích đặc biệt trong đời tôi.

 Tôi không còn cứ cố ý điều khiển đời theo ý riêng của mình, Tôi biết Chúa có một mục đích đặc biệt dành riêng cho tôi và Ngài bày tỏ các ý định đó trong mỗi ngày của đời sống. Tôi có một người vợ để yêu thương giống như Chúa yêu Hội Thánh. Tôi có hai đứa con trai tuyệt vời, mà tôi có thể chia sẻ đức tin cho chúng hàng ngày. Tôi có một người Cha trên trời, Đấng làm gương mẫu về tình phụ tử mà tôi phải có cho các con trai của tôi. Và tôi có một công việc mà tôi có thể chia sẻ đức tin vào cứu Chúa Giê Su cho các đồng nghiệp cũng như các khách hàng của tôi một cách thường xuyên. Tôi thường bắt đầu một ngày mới với lời nguyện đơn sơ, xin Chúa giúp tôi nhận diện những nhân vật và cơ hội mà Chúa đặt để trước tôi. Kết quả là tôi luôn ngỡ ngàng về sự dễ dàng làm sao để có thể nhận diện ra những người mà Chúa có ý đặt để trên đường tôi đi và đáp trả lại sự mời gọi của Chúa. Cuộc đời của tôi đã được biến đổi hoàn toàn rồi.

Chúa đã và còn đang trả lời cho sự cầu nguyện của tôi bằng cách mang đến bình an trong tâm tôi, Ngài tiếp tục làm mềm trái tim tôi và dậy tôi làm sao đầu phục hoàn toàn mọi khía cạnh của đời sống tôi dành cho Ngài. Tôi nay nếm trải sự vui mừng, an bình tràn ngập quá mức có thể tưởng. Cuối cùng thì tôi đã có đời sống đầy ắp trong Thần Khí Chúa, đúng như ý định Chúa vốn đã dành sẵn cho tôi.

“Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới,
sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi.
Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi,
và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.” (Ed 36, 26)

 (hẹn bạn đọc, tiếp theo kỳ tới – lời chứng của một bạn trẻ Canada và lời chúng của một bệnh nhân tự kỷ)

Một Dân Tộc bị ĐẦU ĐỘC từ NGỌN đến tận GỐC .

 
 

Một Dân Tộc bị ĐẦU ĐỘC từ NGỌN đến tận GỐC .
Sưu Tầm –

Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại! .. Thế mà có MẤY AI thấu hiểu cho đâu ???.
Lê Hoàng

Bài viết dành cho tôi và những thanh niên kém cỏi và đang lạc lối khác.

1. Bức hình này đã được lan truyền trên mạng, nó bình thường đến nỗi người ta nhìn vào nó rồi sẽ hỏi:”Rồi sao nữa ? Bức hình này có vấn đề gì à ? Mấy đứa này bạn mày hả ? Chúng nó bị ung thư gan chết hết rồi à ?”

2. Người ta nói, ở Việt Nam, đâu đâu cũng thấy đầy rẫy những chỗ nhậu nhẹt. Người ta vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, đám cưới cũng nhậu, đám ma cũng nhậu, thậm chí không biết làm gì cũng phải nhậu. Bởi thế cho nên chẳng mấy ngạc nhiên khi lượng rượu bia ở Việt Nam lại nằm trong tốp những nước tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Tôi đã nghe ai đó đã nói, rượu bia, thuốc lá và ma túy là những thứ mà ngày xưa những nước thực dân khi đi xâm chiếm các thuộc địa đã sử dụng những thứ này để làm suy yếu nội lực, tinh thần phản kháng của dân tộc đó. Việt Nam mình có lẽ cũng đang may mắn và tình cờ bị như thế ? Ai đang cố làm suy yếu dân tộc ta ?

3. Người ta nói, có một câu châm ngôn ở Việt Nam mà ai cũng thuộc và làm theo “Vì cuộc sống là không chờ đợi”. Đúng, chúng tôi không quen chờ đèn đỏ chuyển qua xanh để được đi. Chúng tôi không đủ kiên nhẫn xếp vào hàng để chờ đến lượt mua đồ ăn hay tấm vé xem một chương trình nào đó. Khi chúng tôi xảy ra va vẹt xe trên đường, chúng tôi không đợi người có thẩm quyền đến giải quyết, mà chúng tôi sẽ rút dao, mã tấu xông vào đối phương quyết một phen sống mái, để mọi ân oán được giải quyết bằng máu và nước mắt cho thỏa chí nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất ung dung tự tại chả khác gì các vị hảo hán anh hùng Lương Sơn bạc.

4. Người ta nói ở Việt Nam người ta đi làm gái nhiều lắm. Ừ thì không làm gái thì biết làm gì bây giờ. Rừng đã mất, biển đã chết, sông đã cạn thì lấy gì làm để mà nuôi thân.

5. Người ta nói ở Việt Nam để được nổi tiếng dễ lắm. Chỉ cần bạn có mông to và ngực bự thì bạn đã có được 50% cơ hội được nổi tiếng rồi. 50% còn lại thì phụ thuộc vào độ chai của da mặt bạn, và sản phẩm make up mà bạn đang tin dùng để che đi lớp da mặt bị chai đó.

6. Người ta nói ở Việt Nam làm quan dễ lắm. Bạn chỉ cần có bố hoặc mẹ đang là quan, hoặc cô dì chú bác, hoặc thậm chí là ông hàng xóm là tình cũ của mẹ bạn cũng có thể giúp bạn trên con đường quan lộ. Xin vào làm quan mới khó, chứ đã là quan rồi thì dễ í mà. Chức cao thì ăn cái to, chức nhỏ thì ăn nhỏ, quan trọng là có “vẽ” thì mới có ăn, và ăn chia sòng phẳng lúc nào cũng phải là điều kiện tiên quyết. Thành công thì chia cho trên, sẻ ở dưới. Thất bại thì rút kinh nghiệm, kiểm điểm, cảnh cáo thôi cũng đã đủ nghiêm khắc rồi.

7. Người ta nói, sống ở Việt Nam vui lắm. Ừ thì suốt ngày trên tivi ra rả đủ chương trình thi hài, thi nhau ca nhạc khắp đất nước , game show , talk show , thi hoa hậu v…v .. thì bảo sao không vui ? . Ở một đất nước, mà những diễn viên hài với những câu nói “hài là phải nhảm, phải xàm, càng nhảm càng xàm thì càng vui, thì mới là hài”. Tôi chưa thấy ở một đất nước nào, mà diễn viên hài lại được tôn vinh, được là thần tượng, là lấy làm mẫu chân lý sống cho giới trẻ như ở Việt Nam. Họ, những diễn viên hài đâu biết rằng hài là môn nghệ thuật lên án và châm biếm những mặt xấu xa của xã hội, và qua đó đằng sau những tiếng cười là để lại sự trăn trở về xã hội trong lòng người xem. Thay vì chúng ta tổ chức các chương trình kích thích sự tự học, rèn luyện sức khoẻ, ý chí vươn lên trong cuộc sống hay giúp các bạn trẻ khởi nghiệp thì chúng ta lại tổ chức các chương trình thi tuyển trở thành diễn viên hài. Dường như cái hài nhảm, hài xàm nó đang giúp người dân Việt quên đi cái nghèo, cái đói cái tủi nhục khi sống dưới cái xã hội này ? Cái đất nước này vốn đã là một sân khấu hài lớn, và dường như cả xã hội ai cũng muốn được là một diễn hài trong cái sân khấu lớn đó ?

8. Người ta nói làm giới trẻ ở Việt Nam sướng lắm. Chỉ có “ăn, ngủ, phịch, ị”. Trong khi, giới trẻ các nước khác như Hong Kong, Hàn Quốc…ừ thì mà là…trong khi giới trẻ chúng ta…là mà thì ừ.

9. Người ta nói…ừ thì cứ kệ người ta nói đi mà. Biết thì biết thế thôi chứ mình có thay đổi được gì đâu. Kệ đi!

10. Việt Nam chúng ta luôn tự hào là Con Rồng, Cháu Tiên thông minh xuất chúng, minh chứng hùng hồn nhất là chúng ta chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược. Ừ thì giỏi đó, nhưng hậu thế lại biết đến những trận đánh là những cuộc nướng quân “quân địch chết ba, quân ta chết hết” hoặc qua những kế hoạch mang đậm dấu ấn cá nhân của anh Tám, chị Chín, thím Sáu nào đó: “chúng ta đã làm tiêu hao sinh lực địch đáng kể”, nhưng thật ra là những trận khủng bố kinh hoàng chẳng khác gì IS với “quân địch chết ba dân ta chết tá”. Ngoài những chiến tích đó ra, dường như chúng ta không có một thành công nào để minh chứng chúng ta là một dân tộc thông minh, không một công trình khoa học hay phát minh sáng chế nào đóng góp cho nhân loại.

Nếu tổ tiên ta thông minh, thì ngày xưa ba Quân mẹ Cơ đã ngồi xuống cùng giải quyết vấn đề, hoà hợp hoà giải chứ không phải phải đi đến quyết định ly thân, gia đình chia cắt kẻ dắt 50 con lên rừng, người dẫn 50 con xuống biển. Nếu vua Hùng thông minh, thì khi nghe câu nói của Mai An Tiêm thay vì sẽ ngồi suy nghĩ đúng sai về câu nói đó chứ không cố chấp đày chàng trai trẻ ra biển. Nếu An Dương Vương thông minh, thì đã không nhận đứa con của kẻ thù về làm rể, chứ không để con gái rượu cuối cùng phải thốt lên “Trái tim lầm lỡ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc”. Tuy đã là quá khứ, dân tộc nào cũng có sai lầm, nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận, đối diện sự thật rằng dân tộc Việt Nam chúng ta không thông minh, và khi đã nhận thức được điều đó chúng ta cần phải mở mang đầu óc, tăng cường học hỏi những điều mới mẻ từ bên ngoài. Nhưng tiếc là thay vì chịu nhận ra điểm yếu và chịu khó học hỏi thì chúng ta lại cố chấp giữ gìn cái cũ với những sân si, hoang tưởng. Điều này thực sự là một bất hạnh cho dân tộc Việt. Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại !

Kỳ Anh