Nên chăng gọi đó là sự man rợ

 

Nên chăng gọi đó là sự man rợ

 

Ảnh cắt trong clip ghi lại cảnh công bố trên đường phố vụ mua bán dâm

Và tôi không biết diễn tả như thế nào khi nhìn ba con người cúi đầu, co ro sợ hãi, đầy cảm giác nhục nhã trước đông đảo đồng bào. Viên công an, trong sắc phục ngành, đang thi hành trách vụ bằng cách “lột trần truồng” ba đồng bào tội nghiệp bằng những lời mô tả hùng hồn vang vang qua micro…

Chiều 29.1.2018, công an thị trấn Dương Đông đã áp giải hai phụ nữ, một người đàn ông ra lề đường Cách Mạng Tháng Tám, thị trấn Dương Đông, H.Phú Quốc và đọc bản mô tả hành vi mua dâm bán dâm của những người này. Nhiều khách đi đường, những người sống kế bên, có cả trẻ em, đứng ngồi quan sát.

Tôi thực sự kinh hoàng nghe viên công an đọc bản mô tả hành vi dùng miệng kích dâm. Đó là sự mô tả trần trụi và tục tĩu, không ngượng ngùng trước đám đông và không có ý thức bảo vệ trẻ em khỏi thấy khỏi nghe những điều chúng chưa nên thấy – nghe.

Hành vi là của một con người, nhưng con người đó không thể tách khỏi môi trường mình làm việc, xã hội mình đang sống. Tính vô văn hóa trong xã hội Việt Nam hiện nay đã xuống tới mức thấp như vậy sao?

Và tôi không biết diễn tả như thế nào khi nhìn ba con người cúi đầu, co ro sợ hãi, đầy cảm giác nhục nhã trước đông đảo đồng bào. Viên công an, trong sắc phục ngành, đang thi hành trách vụ bằng cách “lột trần truồng” ba đồng bào tội nghiệp bằng những lời mô tả hùng hồn vang vang qua micro…

Sự chà đạp nhân phẩm con người tới tận cùng đã được gieo rắc công khai vào xã hội. Tính man rợ trong xã hội Việt Nam hiện đã tới mức như vậy sao?

Cố gắng bình tâm nghe hết lời viên công an nói. Đầu tiên là nêu rõ danh tánh, địa chỉ cư ngụ bốn người đó, địa chỉ nơi họ mua bán dâm. Sau đó là mô tả dài và chi tiết hành vi mua bán dâm. Dứt phần mô tả là phần nhận xét cho rằng hành vi đã phạm lỗi gì, theo quy định gì, theo đó bị phạt bao nhiêu tiền! Không có một lời về thuần phong mỹ tục, đạo đức, văn hóa!

Tự nhiên tôi liên tưởng tới những người trộm chó. Họ bị bắt, trói lại, đấm đá cho tới chết. Đám đông reo hò, tham gia đấm, đạp hay khoanh tay đứng xem! Người trộm chó đã bị tra tấn tới chết ở nơi công cộng với sự dã man thời trung cổ vì tội trộm những con chó giá vài triệu đồng!

Sinh mạng, theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, sinh mạng sinh học hay sinh mạng xã hội, là cái giá con người trong xã hội Việt Nam phải trả khi trộm những con chó giá vài triệu đồng hay vi phạm những việc bị phạt vài triệu, vài chục triệu đồng!

Ai cũng có quyền trừng trị một người nếu người đó phạm tội? Xã hội còn pháp lý và pháp luật không? Xã hội còn nhân tính không?

Nhiều sự phê phán đã cất lên. Hôm qua, báo Tuổi Trẻ đưa vụ việc với tiêu đề: TRÁI LUẬT, PHẢN CẢM. Tôi thông cảm với tiêu đề của báo, nhưng nếu có tờ báo riêng của mình, tôi sẽ có tiêu đề kiểu như MAN RỢ! Tiêu đề không để câu khách mà nói rõ tính chất của sự việc, tính chất mà tôi nghĩ mỗi người Việt cần biết rõ để cùng tham gia chữa trị xã hội của mình. Người có trách nhiệm không chỉ Giật Mình, Lấy Làm Tiếc mà nên Phẫn Nộ, Kinh Sợ, Xót Xa! Không chỉ Kinh Sợ về mặt suy thoái văn hóa, đạo đức mà còn Kinh Sợ về mặt tổ chức: sự việc được tổ chức bởi công an thị trấn, trước bàn dân thiên hạ trong cả buổi!

Việc điều tra để xử lý là cần thiết, nhưng sự lên án mạnh mẽ ngay lập tức bởi cấp lãnh đạo còn cần thiết hơn nhiều!

Nhiệm vụ chính của công an là bảo vệ luật pháp. Về mặt ý nghĩa, trách nhiệm này rất cao đẹp: bảo vệ sự yên bình của xã hội cho người dân sống trong môi trường an lành, tốt đẹp, hiền lương. Lãnh đạo ngành nên kiên quyết loại bỏ từ bên trong tất cả mọi hình thức xâm phạm hay chà đạp ý nghĩa cao đẹp nói trên. Cần cho dân chúng thấy quyết tâm của lãnh đạo chống lại cái ác, cái vô pháp trong xã hội để họ còn giữ được lòng tin và hy vọng vào cái thiện và sự tử tế trong tương lai!

Những người trẻ dấn thân: Đấu tranh và Khai trí

2018-01-31
 
Nguyễn Văn Hoá, người bị kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế với cáo buộc ‘tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự.

Nguyễn Văn Hoá, người bị kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế với cáo buộc ‘tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự.

 Facebook Nguyễn Văn Hoá
 

Thêm 1 nhà hoạt động trẻ tuổi bị kết án 6 năm tù giam và 4 năm quản chế với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88, bộ luật hình sự Việt Nam, Đó là Trần Hoàng Phúc, 23 tuổi, thành viên nhóm Sáng kiến Thủ lĩnh Trẻ Đông Nam Á (YSEALI).

Bản án này làm tăng thêm số tù nhân chính trị trẻ tuổi hiện đang bị giam giữ hoặc đang thi hành án, hoặc đang phải sống lưu vong vì dám cất lên tiếng nói đối lập, vừa cho thấy số người trẻ dấn thân vào con đường đấu tranh cho tự do dân chủ, nhân quyền ngày càng nhiều.

Đấu tranh và khai trí

Cũng trong tháng Giêng này, phiên toà phúc thẩm xét xử nhà hoạt động Nguyễn Văn Oai kết thúc với bản án không thay đổi, 5 năm tù giam và 4 năm quản chế. Đây là lần bị bắt giam thứ hai của ông sau khi kết thúc 4 năm tù giam (2011-2015) với cáo buộc “lật đổ chính quyền nhân dân’ theo điều 79 Bộ luật Hình sự Việt Nam.

Một phiên toà khác dự kiến diễn ra ngày 25/1/2018 nhưng cuối cùng bị hoãn lại, đó là phiên xử nhà hoạt động Hoàng Đức Bình, thành viên của phong trào Lao Động Việt. Cùng với nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền, ông Bình từng tham gia đấu tranh cho quyền lợi của các ngư dân bị thiệt hại do thảm họa Formosa.

Hiện tại, Bạch Hồng Quyền đang bị chính quyền Hà Nội truy nã toàn quốc về tội “gây rối trật tự công cộng” tại UBND huyện Lộc Hà vào ngày 3/4/2017.

Trở lại từ giữa năm 2017, có hai nhà hoạt động trẻ khác cũng vướng vòng lao lý. Đó là thanh niên Nguyễn Văn Hoá, bị kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế với cáo buộc ‘tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự. Người thứ hai là Nguyễn Viết Dũng, còn gọi là Dũng Phi Hổ, bị bắt giam từ 27/9/2017, cũng về hành vi bị cáo buộc theo điều 88.

Những cá nhân trên, đối với nhà cầm quyền Hà Nội, là những người đang phạm tội “tuyên truyền, lật đổ nhà nước”. Truyền thông do nhà nước quản lý gọi họ là ‘những thành phần nguy hiểm’.

Nhưng, đối với 1 số  bạn trẻ hiện nay đang sinh sống trong nước, họ là những ngọn lửa tinh thần, những người khai trí cho một xã hội công bằng hơn và tốt đẹp hơn.

Cô Nguyễn Xoan, con dâu của nhà hoạt động Lê Đình Lượng, tức facebooker Lỗ Ngọc, bị Cơ quan An Ninh Điều Tra Công an tỉnh Nghệ An bắt khẩn cấp vào chiều ngày 2/7 với cáo buộc là có hành vi ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”, cho biết cô nhận thấy ngày càng có nhiều người trẻ dấn thân vào con đường đấu tranh dân chủ. Cô cho rằng “đó là 1 điều rất tốt”.

“Em thấy có nhiều người trẻ đứng lên làm như thế là em rất vui. Họ nhận thức được, họ biết được và họ dám đứng lên đòi hỏi quyền lợi của mình và của mọi người.”

Vì sao họ nhận thức được? Vì sao họ dám đứng lên đòi hỏi quyền lợi chính đáng, cơ bản của 1 công dân cho chính mình và cho mọi người? Theo bạn trẻ Nguyễn Peng, một nhà hoạt động thiện nguyện và nhiều lần lên tiếng đòi hỏi môi trường sạch, từ Sài Gòn cho rằng đó là 1 quá trình tự tôi luyện và tự khai trí cho nhau. Anh nói:

“Hầu hết các bạn trẻ tầng lớp tụi em là tự khai trí cho nhau. Hầu hết họ bị đàn áp đánh đập hay bắt bớ, lưu vong thì họ đều nói lên tiếng nói trong xã hội hiện nay.

Họ là những bạn trẻ cầu tiến. Nhiều bạn học rất giỏi, như bản thân bạn Phúc mới bị nhà cầm quyền tuyên án chiều nay, em tiếp xúc với bạn nhiều lần, bạn rất tốt và có nhiều điều em nể phục bạn ấy.”

Kết nối, truyền đạt cho bất kỳ ai có cơ hội gặp gỡ, là cách mà cô Nguyễn Xoan nhắc đến.

“Nhìn 1 người nào đó, mình nói với họ. Ví dụ người chạy taxi chẳng hạn, mình có thể giải thích với họ là giá xăng tăng như thế, quyền lợi của họ sẽ bị thiệt thòi như thế nào. Ít nhiều họ cũng hiểu.”

Bạn trẻ Nguyễn Peng nói thêm rằng, anh nhận thấy thế hệ thanh niên lứa tuổi 18, 19 ngày nay hiểu biết rất nhiều. Họ sẵn sàng kết nối và truyền lửa cho nhau, cùng nhau xây dựng 1 thế hệ tuổi trẻ mới không phải với những ngôn ngữ giáo điều, rập khuôn của 1 hệ thống giáo dục “học thuộc lòng” cũ kỹ.

“Nhờ sự khai trí của những bạn trẻ này, họ biết thêm những bạn khác nữa. Bản thân em cũng vậy. Khi em gặp 1 bạn kia, em nói những sự việc thế này thế này, thì tự họ tìm hiểu được những vấn đề trong xã hội ngày nay và khai trí lại cho người khác.

Em nghĩ tuổi trẻ hôm nay họ nói về vấn đề chính trị rất nhiều rồi. Năm 2017, dù là chính quyền Việt Nam bắt bớ hay đàn áp những người trẻ như tụi em nhưng em cảm thấy mãn nguyện là hiện tại bây giờ, họ đã quan tâm nhiều vấn đề xã hội hơn.”

Nhờ sự khai trí của những bạn trẻ này, họ biết thêm những bạn khác nữa. Bản thân em cũng vậy. Khi em gặp 1 bạn kia, em nói những sự việc thế này thế này, thì tự họ tìm hiểu được những vấn đề trong xã hội ngày nay và khai trí lại cho người khác. – Nguyễn Peng

Nhiều mặt trận đấu tranh

Nói về công cuộc dấn thân của những người trẻ trong xã hội Việt Nam hiện nay, có nhiều hình thức thể hiện. Có thể nói là họ có nhiều “mặt trận” khác nhau để bày tỏ chính kiến.

Đó là những cuộc biểu tình ôn hoà lan rộng khắp mọi miền đất nước để đòi quyền được sống trong 1 môi trường xanh và sạch, đòi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo.

Nhà hoạt động dân chủ Dương Đại Triều Lâm cho biết anh không ủng hộ dùng phương cách bạo lực để phản kháng lại bạo lực.

“Nếu chúng ta sử dụng bạo lực để đánh trả bạo lực thì chúng ta sẽ rơi vào cái bẫy. Chúng ta sẽ đối đầu với thế mạnh nhất của họ là sử dụng bạo lực để đàn áp. Chúng ta phải bắt buộc nhà cầm quyền phải thực hiện các biện pháp bảo vệ pháp luật, khởi tố vụ án, đưa hung thủ ra trước ánh sáng. Công lý phải được thực thi. Phải bảo vệ nạn nhân, quyền chỗ ở, xâm phạm thân thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, những điều đã được pháp luật công nhận.”

Đó còn là những bài viết trên blog, chia sẻ ý kiến trên các trang mạng xã hội nhằm thể hiện sự bất bình về các chính sách kinh tế không minh bạch, hay chủ trương đánh thuế gây thiệt thòi cho đời sống người dân.

Những người trẻ đấu tranh nhận thức được sức mạnh khổng lồ của truyền thông và mạng xã hội. Cô Nguyễn Xoan khẳng định mạng xã hội là vũ khí rất quan trọng để đưa thông điệp lan toả nhiều hơn trong công cuộc đấu tranh đòi dân chủ.

“Mình mà muốn đạt được kết quả tốt đẹp thì đầu tiên em nghĩ đó là mạng xã hội. Mạng xã hội rất quan trọng vì ngày nay con người hiện đại ai cũng dùng mạng xã hội hết. Đầu tiên mình phải đưa lên mạng xã hội những bằng chứng, hoặc những việc làm xấu xa của nhà cầm quyền để nhiều người biết tới.”

Mình mà muốn đạt được kết quả tốt đẹp thì đầu tiên em nghĩ đó là mạng xã hội. Mạng xã hội rất quan trọng vì ngày nay con người hiện đại ai cũng dùng mạng xã hội hết. Đầu tiên mình phải đưa lên mạng xã hội những bằng chứng, hoặc những việc làm xấu xa của nhà cầm quyền để nhiều người biết tới. – Nguyễn Xoan

Đó cũng là những chuyến đi thiện nguyện đến bất cứ nơi nào có những kiếp người đói khổ, mà lẽ ra, đây là những việc trước tiên thuộc về trách nhiệm của nhà nước, chính phủ.

Bằng chính những chuyến đi của mình và các bạn, Nguyễn Peng gọi đó là một hình thức lên tiếng thể hiện sự bất bình về 1 xã hội còn nhiều bất công. Từ những chuyến đi đó, anh và mọi người hiểu được chính trị đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người dân như thế nào.

“ Em thừa sức hiểu được những bất công của nhà cầm quyền đối với những người vô gia cư, hay những người nghèo ở vùng sâu vùng xa. Em thường đi thiện nguyện và từng lên những vùng đó. Họ rất thiếu thốn. Công việc thiện nguyện cũng chính là để liên kết giúp cho những vấn đề xã hội hiện nay đang đi xuống.”

Nếu nói về những người trẻ dấn thân trong xã hội Việt Nam ngày nay, có một hình ảnh được gợi nhớ và thể hiện rõ nhất tinh thần đấu tranh của họ, đó là khi hai nhà hoạt động Hoàng Đức Bình và Bạch Hồng Quyền bị truy nã, rất nhiều người trong và ngoài nước đồng loạt thay đổi ảnh đại diện trên trang Facebook cá nhân của mình với hình ảnh của 2 nhà hoạt động này. Cùng với hành động đó là những lời kêu gọi “Mỗi người là một Bạch Hồng Quyền”; “Mỗi người là một Hoàng Bình”.

Một Dân Tộc bị ĐẦU ĐỘC từ NGỌN đến tận gốc

Một Dân Tộc bị ĐẦU ĐỘC từ NGỌN đến tận gốc

  Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại!

Lê Hoàng

Bài viết dành cho tôi và những thanh niên kém cỏi và đang lạc lối khác.

1. Bức hình này đã được lan truyền trên mạng, nó bình thường đến nỗi người ta nhìn vào nó rồi sẽ hỏi:”Rồi sao nữa ? Bức hình này có vấn đề gì à ? Mấy đứa này bạn mày hả ? Chúng nó bị ung thư gan chết hết rồi à ?”

2. Người ta nói, ở Việt Nam, đâu đâu cũng thấy đầy rẫy những chỗ nhậu nhẹt. Người ta vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, đám cưới cũng nhậu, đám ma cũng nhậu, thậm chí không biết làm gì cũng phải nhậu. Bởi thế cho nên chẳng mấy ngạc nhiên khi lượng rượu bia ở Việt Nam lại nằm trong tốp những nước tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Tôi đã nghe ai đó đã nói, rượu bia, thuốc lá và ma túy là những thứ mà ngày xưa những nước thực dân khi đi xâm chiếm các thuộc địa đã sử dụng những thứ này để làm suy yếu nội lực, tinh thần phản kháng của dân tộc đó.Việt Nam mình có lẽ cũng đang may mắn và tình cờ bị như thế ? Ai đang cố làm suy yếu dân tộc ta ?

3. Người ta nói, có một câu châm ngôn ở Việt Nam mà ai cũng thuộc và làm theo “Vì cuộc sống là không chờ đợi”. Đúng, chúng tôi không quen chờ đèn đỏ chuyển qua xanh để được đi. Chúng tôi không đủ kiên nhẫn xếp vào hàng để chờ đến lượt mua đồ ăn hay tấm vé xem một chương trình nào đó. Khi chúng tôi xảy ra va vẹt xe trên đường, chúng tôi không đợi người có thẩm quyền đến giải quyết, mà chúng tôi sẽ rút dao, mã tấu xông vào đối phương quyết một phen sống mái, để mọi ân oán được giải quyết bằng máu và nước mắt cho thỏa chí nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất ung dung tự tại chả khác gì các vị hảo hán anh hùng Lương Sơn bạc

4. Người ta nói ở Việt Nam người ta đi làm gái nhiều lắm. Ừ thì không làm gái thì biết làm gì bây giờ. Rừng đã mất, biển đã chết, sông đã cạn thì lấy gì làm để mà nuôi thân.

5. Người ta nói ở Việt Nam để được nổi tiếng dễ lắm. Chỉ cần bạn có mông to và ngực bự thì bạn đã có được 50% cơ hội được nổi tiếng rồi. 50% còn lại thì phụ thuộc vào độ chai của da mặt bạn, và sản phẩm make up mà bạn đang tin dùng để che đi lớp da mặt bị chai đó.

6 Người ta nói ở Việt Nam làm quan dễ lắm. Bạn chỉ cần có bố hoặc mẹ đang là quan, hoặc cô dì chú bác, hoặc thậm chí là ông hàng xóm là tình cũ của mẹ bạn cũng có thể giúp bạn trên con đường quan lộ. Xin vào làm quan mới khó, chứ đã là quan rồi thì dễ í mà. Chức cao thì ăn cái to, chức nhỏ thì ăn nhỏ, quan trọng là có “vẽ” thì mới có ăn, và ăn chia sòng phẳng lúc nào cũng phải là điều kiện tiên quyết. Thành công thì chia cho trên, sẻ ở dướiThất bại thì rút kinh nghiệm, kiểm điểm, cảnh cáo thôi cũng đã đủ nghiêm khắc rồi.

7. Người ta nói, sống ở Việt Nam vui lắm. Ừ thì suốt ngày trên tivi ra rả đủ chương trình thi hài, game show hài này nọ thì bảo sao không vui. Ở một đất nước, mà những diễn viên hài với những câu nói “hài là phải nhảm, phải xàm, càng nhảm càng xàm thì càng vui, thì mới là hài”. Tôi chưa thấy ở một đất nước nào, mà diễn viên hài lại được tôn vinh, được là thần tượng, là lấy làm mẫu chân lý sống cho giới trẻ như ở Việt Nam. Họ, những diễn viên hài đâu biết rằng hài là môn nghệ thuật lên án và châm biếm những mặt xấu xa của xã hội, và qua đó đằng sau những tiếng cười là để lại sự trăn trở về xã hội trong lòng người xem. Thay vì chúng ta tổ chức các chương trình kích thích sự tự học, rèn luyện sức khoẻ, ý chí vươn lên trong cuộc sống hay giúp các bạn trẻ khởi nghiệp thì chúng ta lại tổ chức các chương trình thi tuyển trở thành diễn viên hài. Dường như cái hài nhảm, hài xàm nó đang giúp người dân Việt quên đi cái nghèo, cái đói cái tủi nhục khi sống dưới cái xã hội này ? Cái đất nước này vốn đã là một sân khấu hài lớn, và dường như cả xã hội ai cũng muốn được là một diễn hài trong cái sân khấu lớn đó ?

8. Người ta nói làm giới trẻ ở Việt Nam sướng lắm. Chỉ có “ăn, ngủ, phịch, ị”. Trong khi, giới trẻ các nước khác như Hong Kong, Hàn Quốc…ừ thì mà là….trong khi giới trẻ chúng ta…là mà thì ừ.

9. Người ta nói…ừ thì cứ kệ người ta nói đi mà Biết thì biết thế thôi chứ mình có thay đổi được gì đâu. Kệ đi!

10. Việt Nam chúng ta luôn tự hào là Con Rồng, Cháu Tiên thông minh xuất chúng, minh chứng hùng hồn nhất là chúng ta chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược. Ừ thì giỏi đó, nhưng hậu thế lại biết đến những trận đánh là những cuộc nướng quân “quân địch chết ba, quân ta chết hết” hoặc qua những kế hoạch mang đậm dấu ấn cá nhân của anh Tám, chị Chín, thím Sáu nào đó: “chúng ta đã làm tiêu hao sinh lực địch đáng kể”, nhưng thật ra là những trận khủng bố kinh hoàng chẳng khác gì IS với “quân địch chết ba dân ta chết tá. Ngoài những chiến tích đó ra, dường như chúng ta không có một thành công nào để minh chứng chúng ta là một dân tộc thông minh, không một công trình khoa học hay phát minh sáng chế nào đóng góp cho nhân loại.

 Nếu tổ tiên ta thông minh, thì ngày xưa ba Quân mẹ Cơ đã ngồi xuống cùng giải quyết vấn đề, hoà hợp hoà giải chứ không phải phải đi đến quyết định ly thân, gia đình chia cắt kẻ dắt 50 con lên rừng, người dẫn 50 con xuống biển. Nếu vua Hùng thông minh, thì khi nghe câu nói của Mai An Tiêm thay vì sẽ ngồi suy nghĩ đúng sai về câu nói đó chứ không cố chấp đày chàng trai trẻ ra biển. Nếu An Dương Vương thông minh, thì đã không nhận đứa con của kẻ thù về làm rể, chứ không để con gái rượu cuối cùng phải thốt lên “Trái tim lầm lỡ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc”. Tuy đã là quá khứ, dân tộc nào cũng có sai lầm, nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận, đối diện sự thật rằng dân tộc Việt Nam chúng ta không thông minh, và khi đã nhận thức được điều đó chúng ta cần phải mở mang đầu óc, tăng cường học hỏi những điều mới mẻ từ bên ngoài. Nhưng tiếc là thay vì chịu nhận ra điểm yếu và chịu khó học hỏi thì chúng ta lại cố chấp giữ gìn cái cũ với những sân si, hoang tưởng.. Điều này thực sự là một bất hạnh cho dân tộc Việt. Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại!

 Kỳ Anh

Thánh Antôn đã chiến đấu với ma quỷ như thế nào?

Thánh Antôn đã chiến đấu với ma quỷ như thế nào?

 

Thánh Antôn Viện Phụ (cũng gọi là Antôn Ai Cập, Antôn Cả hay Antôn tu rừng) đã được Tin Mừng gợi hứng để bán đi tất cả tài sản và sống một cuộc đời cô tịch trong sa mạc Ai Cập. Ngài thiết lập một cư sở cho mình biệt lập khỏi thế giới, nhưng lại không thể thoát hoàn toàn khỏi các kẻ thù ngoan cố nhất.

Bởi vì Thánh Antôn là một người rất thánh thiện và gần gũi với Thiên Chúa, ma quỷ không ngừng tung mọi chiêu nó có ra để chống lại Thánh nhân. Nó không thể dụ dỗ ngài bằng của cải trần thế, thì nó tấn công ngài về tinh thần lẫn thể xác. Thánh Athanasiô đã ghi nhận lại một vài cuộc đối đầu như thế.

Sau khi cám dỗ ngài đam mê tiền của thất bại, ma quỷ xui khiến một người đàn ông trẻ đến phá rối Thánh Antôn suốt ngày suốt đêm. Tuy thế, sau mỗi cuộc cám dỗ, Thánh nhân đều thanh tẩy bản thân bằng đức tin, cầu nguyện và chay tịnh.

Thất bại làm cho Thánh nhân mất thanh tịnh, ma quỷ giả dạng làm một cậu trai trẻ và đến hàn huyên cùng ngài. Thánh Antôn nói với nó: “Mày thật là hèn hạ, vì tâm địa mày u tối, còn mày thì yếu đuối như một đứa con nít. Tao sẽ không có vấn đề gì với mày đâu, vì Chúa là Đấng phù trợ tao, và tao sẽ chẳng thèm để ý đến kẻ thù tao làm chi.”

Ma quỷ để ngài yên một thời gian, nhưng không lâu sau nó lại quay lại cám dỗ quyết liệt, với nhiều quỷ hơn. Quỷ dữ thậm chí còn hiện ra và đánh đập thân xác Thánh Antôn, để khiến ngài sợ mà quay lại với thế giới bên ngoài. Kiên định trong đức tin, Thánh Antôn quát mắng ma quỷ: “Tao là Antôn, tao ở đây; tao không chạy trốn mày đâu, cho dù mày có tấn công tạo nhiều hơn, thì cũng chẳng gì có thể chia tách tao khỏi tình yêu của Đức Kitô… Cho dẫu có cả quân đoàn được lập ra để chống tao, tao cũng không sợ.”

Sau mỗi lần ngài bị ma quỷ đánh đập, Thánh Antôn lại được củng cố trong đức tin và được Thiên Chúa đến an ủi. Về sau, ngài dạy các môn đệ của ngài cách đánh bại ma quỷ: “Hãy bảo vệ chính mình bằng dấu Thánh giá, và cứng rắn xao lãng đi, để chúng nó tự chơi với nhau.” Lúc khác, ngài dạy: “Nhưng chúng ta phải sợ hãi những gợi ý của chúng, và tránh đi bằng kinh nguyện, chay tịnh và tin tưởng vào Chúa. Các tấn công của chúng sẽ thất bại ngay.”

Trong bất cứ cơn cám dỗ nào ta đối mặt, Thánh Antôn luôn dạy rằng:đức tin, cầu nguyện, chay tịnh, và dấu Thánh giá là đủ để đánh bại lưới dò của quỷ dữ. Ma quỷ rất mạnh mẽ, nhưng các Thánh luôn luôn và luôn luôn chứng minh rằng nó không hề và không thể nào đối địch nổi với những ai đặt trọn tin tưởng nơi Thiên Chúa toàn năng.

Theo Aleteia
Gioakim Nguyễn lược dịch

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

Chứng từ của một linh mục được chào đời nhờ người mẹ can đảm không phá thai

Chứng từ của một linh mục được chào đời nhờ người mẹ can đảm không phá thai

Những người tham gia cuộc tuần hành vì sự sống tại Washington – AP

25/01/2018 10:12
 
“Tôi biết có một phụ nữ mang thai, khi bà đi siêu âm, các bác sĩ nói với bà rằng các cơ phận của thai nhi không phát triển bình thường và đứa trẻ có lẽ sẽ không sống được một năm sau khi sinh. Rồi họ đã khuyên bà nên phá thai. Người phụ nữ đó chính là mẹ của tôi và tôi là đứa trẻ đó.” Đó là chứng từ của cha Martino Choi, cha sở của giáo xứ thánh Patrick ở Rockville, bang Maryland, Hoa kỳ. Trước 18 ngàn bạn trẻ và người lớn tại cuộc biểu tình và Thánh lễ vì sự sống dành cho người trẻ được tổ chức tại thủ đô Washington, Hoa kỳ, cha Choi đã trình bày chứng tá của mẹ mình trong quyết định bảo vệ sự sống.Cha Choi kể tiếp rằng các bác sĩ nói với mẹ của cha là phá thai sẽ bảo vệ đứa con và người mẹ khỏi những đau khổ không cần thiết. Vị linh mục trẻ nhận định: “Ma quỷ biết cách che đậy, ngụy trang cho sự ác bằng một lời nói dối rằng dù sao chết vẫn tốt hơn là sống. … nhưng sự chết không bao giờ tốt hơn sự sống.”

Cha Choi cũng chia sẻ những câu chuyện mà cha đã trải qua tại giáo xứ của cha, nơi cha đã cố vẫn cho những cha mẹ bị mất những đứa con chỉ mới nhìn thấy ánh mặt trời vài ngày hay vài tháng. Cha nói: “Không có gia đình nào đến với tôi và nói ‘Cha biết không thưa cha, chúng con ước là chúng con đã không có đứa trẻ này. Chúng con ước giá như chúng con không phải đau khổ vì điều này.’ Không có ai trong họ nói những điều như thế. Tất cả họ nói: ‘Cám ơn Chúa là chúng con đã yêu thương đứa trẻ này, dù cho là chỉ một ít ngày.’” Cha Choi kể tiếp: “Có một gia đình có đứa con không bao giờ được rời bệnh viện cho đến khi qua đời, họ đã nói rằng cuộc sống chỉ kéo dài 3 tháng của đứa con trai đã dạy cho họ về sự sâu sắc của tình yêu cũng như lòng can đảm, điều mà họ đã không thể hiểu được trước khi đứa con ra đời.”

Những câu chuyện của cha Choi vang dội trong lòng các bạn trẻ đến từ các giáo phận trên khắp Hoa kỳ và cả quốc tế đển thủ đô để tham dự Thánh lễ vì sự sống. Kelly Lambers, một học sinh trung học thuộc tổng giáo phận Cincinnati đã chia sẻ: “Mẹ của cha đã không từ bỏ cha ngay cả khi bà biết là con của mình sẽ không sống lâu, nhưng giờ đây hãy nhìn vào cha kìa; cha là một linh mục!” Lambers đã cùng với các bạn học của mình tại trường trung học Mẹ lòng thương xót đi xe buýt 9 tiếng để tham dực cuộc tuần hành vì sự sống. Cô cảm thấy hãnh diện rất nhiều vì các bạn của cô mang bảng hiệu “ủng hộ sự sống là ủng hộ người nữ.” Tajil Baptiste là một người trẻ đến từ quần đảo Virgin. Anh đã chia sẻ tại sao anh và các bạn đến thủ đô Washington để tham gia cuộc tuần hành vì sự sống. Anh nói: “Đối với chúng tôi, đó là một sự kiện tôn giáo. Đi thật xa từ hòn đảo nhỏ đến đây, nhưng sứ điệp mà chúng tôi mang về cho cộng đoàn và giáo xứ chúng tôi là “Hãy ủng hộ sự sống, hãy thay đổi thế giới.”

Cuộc tuần hành vì sự sống năm nay là lần thứ 45 nó được tổ chức, có chủ đề “Tình yêu cứu giữ sự sống”. Có một điều đặc biệt là từ Nhà Trắng – dinh tổng thống, tổng thống Donald Trump đã ngỏ lời trực tiếp với các tham dự viên qua hệ thống vệ tinh. Ông nói: Tôi muốn cám ơn mọi người ở đây hôm nay, những người hoạt động với trái tim vĩ đại để bảo đảm cho các phụ huynh có được sự chăm sóc và ủng hộ cần thiết để họ chọn sự sống. Chính nhờ các bạn, hàng ngàn người Mỹ được sinh ra và đạt được sức mạnh đầy đủ mà Chúa ban cho họ … Các bạn là những chứng nhân sống của chủ đề “Tình yêu cứu giữ sự sống.”

Nghị viên Jaime Herrera Beutler cũng kể lại câu chuyện gia đình mình trước sự hiện diện của gia đình, trong đó có đứa con gái Abigail 4 tuổi, đứa con được coi như là của phép lạ. Bà Beutler kể rằng khi bà đang mang thai cháu Abigail, kết quả siêu âm là một tin thất vọng – con gái của họ không phát triển các cơ phận bình thường trong lòng mẹ và hầu như nó sẽ bị ngộp thở và chết ngay khi được sinh ra. Con gái bà được dự đoán là có 0% hy vọng. Các cha mẹ ở trong trường hợp này thường chọn phá thai. Bà Beutler kể tiếp: “Chúng tôi đã cầu nguyện, đã khóc và trong sự suy sụp đó chúng tôi đã nhìn thấy Chúa.” Không muốn phá thai, vợ chồng bà đã tìm bác sĩ và các trị liệu để có thể cho con gái họ cơ hội sống. Bà khẳng định rằng chính tình yêu dành cho con gái và việc không muốn đầu hàng đã cứu mạng con gái. Cuối cùng với sự can thiệp thần linh và một số bác sĩ can đảm sẵn lòng chịu nguy hiểm, gia đình bà đã có được con gái Abigail, nay là đứa trẻ 4 tuổi khỏe mạnh. (CNA 19/01/2018)

Hồng Thủy

HỆ LỤY TÔN GIÁO

HỆ LỤY TÔN GIÁO

[Bài chủ đề báo ĐMHCG, số 377, tháng 01-2018, DCCT xuất bản tại Hoa Kỳ]

Theo ước tính, hiện nay trên thế giới có khoảng 500.000 tôn giáo đang tồn tại, Á Châu chiếm đa số. Trong số hơn 7 tỉ người trên trái đất, có 85% là những người có niềm tin tôn giáo. Nhưng có nhiều ý kiến cho rằng các cuộc xung đột trong thế kỷ 21 này có thể là sự xung đột giữa các tôn giáo. Đó là mối quan ngại, và thực tế này đang manh nha!

Trong Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu” (Ecclesia in Asia – ĐGH Gioan Phaolô II, 6-11-1999) cho biết: “Á Châu là nơi khai sinh của Ðức Giêsu và của Giáo Hội”. Thánh GH Gioan Phaolô II đã nhận thấy Á Châu là một chân trời mới đầy hứa hẹn cho một “mùa gặt các linh hồn mà Ngài thấy đã chín mùi và phong phú” cho sứ vụ của Giáo Hội trong Ngàn Năm Thứ Ba (số 9). Tông Huấn này xác định:“Ðức Giêsu đã sinh ra, sống, chết và phục sinh nơi Thánh địa, vùng đất bé nhỏ này ở Tây Á đã trở nên một vùng đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho tất cả nhân loại” (số 4). Á Châu chính là “chiếc nôi của tôn giáo”. Thật kỳ lạ!

CHIẾC NÔI TÔN GIÁO

Dân số Á châu hiện nay là hơn 3 tỉ người, nghĩa là chiếm hơn nửa dân số thế giới. Đó là một lục địa mênh mông, đồng thời cũng là quê hương của chính Ðức Kitô, thế mà số người Công giáo chỉ có vỏn vẹn hơn 132 triệu tín hữu, tỷ lệ là 3,95%.

Michael Inzlicht, nhà thần kinh học thuộc ĐH Toronto, Scarborough, người hướng dẫn cuộc nghiên cứu về mối liên quan giữa tôn giáo và não bộ, cho biết: “Tôn giáo đưa ra khung-biểu-diễn để hiểu biết thế giới. Nó cho bạn biết thời điểm hành động, cách hành động, và những gì cần làm trong mỗi tình huống. Nó cung cấp chi tiết kế họach về cách tương tác với thế giới”. Tôn giáo – và có thể khác hơn là hệ thống niềm tin – làm vật đệm cho quyết định dự đoán khác.

Cuối năm 2011, để phân tích kinh nghiệm về nỗ lực của tôn giáo đối với hạnh phúc, người ta đã sử dụng các dữ liệu từ 3 đợt (2002-2003, 2004 và 2006) của tổ chức Nghiên cứu Xã hội Âu châu (ESS – European Social Survey) đối với 114.019 cá nhân ở 24 quốc gia.

Các dữ liệu này cung cấp thông tin về đặc tính cá nhân như giới tính, tuổi tác, thu nhập, sức khỏe tổng quát theo quan điểm cá nhân, tình trạng hôn nhân, hoạt động chính, số con và trình độ học vấn, và những phương diện khác,… Dường như có mối liên quan tích cực giữa mức độ tôn giáo ở một người đối với hạnh phúc: NHỮNG NGƯỜI CÀNG SÙNG ĐẠO CÀNG HẠNH PHÚC.

Chủ nghĩa vô thần muốn loại bỏ tôn giáo, nhưng đó là sai lầm nghiêm trọng. Thật vậy, chính họ cũng vẫn thắp nhang và vái lạy thì sao lại nói là mình vô thần? Vừa mặc nhiên vừa mình nhiên, họ đã tự mâu thuẫn!

Tôn giáo liên quan thế giới vô hình, liên quan các thần linh, đặc biệt là Thiên Chúa – Đấng tạo tác muôn sự muôn loài. Con người vốn dĩ duy tâm, chắc chắn không thể thiếu tôn giáo trong cuộc sống thường nhật.

Riêng tại Việt Nam, tôn giáo khá đa dạng – gồm các nhánh Kitô giáo như Công giáo Rôma, Tin Lành (Lutheran, Cơ Đốc phục lâm,…); các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo…; tôn giáo nội sinh như Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác. Cho tới nay, tín ngưỡng dân gian bản địa vẫn có ảnh hưởng nhất định trong cuộc sống của người dân Việt Nam.

Có những người Việt nhận mình là những người không tôn giáo, mặc dù thi thoảng họ vẫn đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần Đình Hượu, người Việt được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung về phương diện thờ cúng, còn về giáo lý và tinh thần lại ít được quan tâm. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, toàn quốc có 15.651.467 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với điều đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành bởi đa số dân chúng.

Từ xưa, Việt Nam đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, mô tả nhiều về hình ảnh một loài chim – cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng chúng là đối tượng được người Việt xưa tin thờ. Ngoài ra, con Rồng cũng xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật và mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ cúng Lạc Long Quân – huyền thoại về một con người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển,… cũng được người Việt tôn làm vị thần bảo vệ và chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ, nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức của dân tộc mình vào đó để hình thành loại tôn giáo mang bản sắc riêng biệt.

Thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Các tôn giáo hiện diện lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Tuy nhiên, Phật giáo có vai trò quan trọng trong các triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn.

Sau năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, vấn đề tâm linh bị coi là đối tượng đấu tranh về tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ, thế nên họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá. Họ muốn xóa bỏ tất cả, mặc dù tín ngưỡng tôn giáo thuộc nhu cầu tâm linh và là quyền cơ bản của con người – tự do tín ngưỡng. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa, nhưng tại miền Trung và miền Nam vẫn duy trì hoạt động đó. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến đầu thập niên 1980 khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành các lễ hội mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian.

Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét: “Dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây, và cả hiện nay nữa, đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt”. Theo ông, đó là bài học về việc đừng tạo ra những sa mạc nhận thức như đã từng làm, vì không ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Tại Việt Nam có 6 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành, và Hồi giáo. Trong số đó, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất. Theo thống kê dân số năm 2009, số tín đồ Phật giáo là 6.802.318 người. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y tam bảo.

Công giáo Rôma tới Việt Nam vào đầu thế kỷ 16, tại Nam Định (thời Nhà Lê trung hưng), bởi những nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Pháp, trước cả khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Về sau, chính quyền Pháp không khuyến khích người dân theo tôn giáo nào, nhưng họ bảo đảm quyền tự do tôn giáo lần đầu tiên trên đất nước Việt Nam, nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ – nơi chịu sự bảo hộ của Pháp. Nhờ vậy Công giáo cũng như những tôn giáo khác đã thoát khỏi thời kỳ bách hại lớn nhất dưới các triều đại phong kiến kể từ thế kỷ 16. Công giáo lan truyền trong dân tại các tỉnh ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, sau đó lan tới vùng châu thổ sông Hồng và các vùng đô thị. Theo thống kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 5.677.086 tín hữu Công giáo, GP Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) có nhiều tín hữu Công giáo nhất, với khoảng 800.000 tín hữu, và có khoảng 6.000 nhà thờ tại Việt Nam. Công giáo được mệnh danh là “đạo yêu thương”, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16), và luật Chúa tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người.

Cao Đài (còn gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) là một tôn giáo do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, có trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh, thờ cúng Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Các tín đồ Cao Đài thi hành những giáo điều như không sát sanh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành, lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay. Mục tiêu tối thiểu của họ là đem hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng Đế nơi Thiên Giới, và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏi vòng luân hồi. Theo số liệu năm 2011, có 2,4 triệu tín đồ Cao Đài trên cả nước, đông nhất tại Tây Ninh, và có khoảng 30.000 tín đồ sống tại Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu.

Hòa Hảo (Phật giáo Hòa Hảo) là một tôn giáo Việt Nam gắn chặt với truyền thống Phật giáo, do Huỳnh Phú Sổ (gọi là Đức Huỳnh giáo chủ) thành lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống hòa hợp, đánh giá cao triết lý “Phật tại tâm”, khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và việc đời. Theo thống kê năm 2009, có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, chủ yếu tập trung ở miền Tây Nam Bộ (đặc biệt là An Giang, nơi có nhiều tín đồ nhất – gần 1 triệu).

Tin Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo này chỉ được phép hoạt động tại các vùng do Pháp quản lý, các vùng khác bị cấm. Đến năm 1920, Tin Lành mới được phép hoạt động trên khắp Việt Nam. Theo thống kê năm 2009, Tin Lành là tôn giáo chính của nhiều dân tộc thiểu số, và số tín đồ chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, nơi có nhiều tín đồ Tin Lành nhất là Đăk Lăk.

Hầu hết tín đồ Hồi giáo và Hindu giáo tại Việt Nam là người Chăm. Người ta cho rằng Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam đầu tiên là khoảng thế kỷ 10 và 11, trong cộng đồng người Chăm. Theo thống kê năm 2009, tại Việt Nam có khoảng 75.268 tín đồ Hồi giáo, chủ yếu ở Bình Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, và Saigon, đông nhất là tại Ninh Thuận (hơn 25.000 tín đồ). Có hai phái Hồi giáo của người Chăm: người Chăm ở Châu Đốc, Saigon, Tây Ninh và Đồng Nai theo Hồi giáo Chính thống, còn người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận theo phái Chăm Bà Ni.

Một tôn giáo chính khác của cộng đồng người Chăm là đạo Bà La Môn (hơn 56.000 tín đồ) chủ yếu tập trung ở Ninh Thuận (hơn 40.000 tín đồ).

Ngoài 6 tôn giáo lớn vừa đề cập, Việt Nam còn có nhiều tôn giáo nhỏ khác được chính quyền công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa (hơn 41.000 tín đồ), Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (hơn 11.000 tín đồ), Bửu Sơn Kỳ Hương (hơn 10.000 tín đồ), Baha’I (khoảng 8.000 tín đồ), Minh Lý Đạo và Minh Sư Đạo.

Đồng thời còn có vài tin ngưỡng và tôn giáo không chính thức như tín ngưỡng bản địa ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, Đạo Ông Trần tại Đảo Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu); các tín ngưỡng phụ phổ biến như Đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; Chính Thống giáo tại Việt Nam có đại diện là giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo hội Chính thống Nga) ở Vũng Tàu, nơi có vài trăm chuyên gia người Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Các đại diện của Bộ phận liên lạc các giáo xứ ở ngoại quốc của tòa thượng phụ Moskva thường xuyên thăm giáo xứ này để tổ chức các thánh lễ theo lịch phụng vụ dịp Lễ Phục Sinh và các thánh lễ tại nơi khác.

HỆ LỤY TÔN GIÁO

Thống kê cho thấy rằng số người Việt thực hiện việc thờ cúng tổ tiên chiếm tỷ lệ trung bình là 98% dân số. Điều này chứng tỏ người Việt duy tâm lắm đấy, nghĩa là tôn giáo rất quan trọng trong đời sống của họ!

Vì nhu cầu tâm linh mà người ta tìm đến tôn giáo, vì có niềm tin tôn giáo mà nhiều người bị bách hại, và họ tìm đường thoát thân bằng cách di tản để được sống tự do – đặc biệt là tự do tôn giáo. Nhiều nơi trên thế giới đã và đang có những cuộc di tản, tạo nên tình trạng di dân và người tỵ nạn. Riêng tại Việt Nam đã có cuộc di cư năm 1954 và 1975, đó là lịch sử minh nhiên, đồng thời cũng có hệ lụy tất yếu.

Hai mươi năm là một thế hệ. Hai mươi năm không dài mà Việt Nam phải mang hai nỗi buồn rười rượi. Đau lòng lắm, quê hương ơi! Với tâm tình đó, cố nhạc sĩ Phạm Duy đã viết ca khúc “Năm Bốn, Bảy Lăm” (1954-1975) nói về tình trạng tỵ nạn của nhiều người Việt: “Một ngày năm bốn cha bỏ quê xa, chốn đã chôn nhau cắt rốn bao nhiêu đời. Một ngày năm bốn cha bỏ phương trời, một miền Bắc tối tăm mưa phùn rơi… Một ngày bảy lăm con bỏ nước ra đi, hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ. Giờ cha lưu đày ở ngay trên đất ta, và giờ con lưu đày ở đây trên xứ lạ!… Một ngày năm bốn xa mộ ông cha, với lũy tre xanh khóm chuối bên sau nhà. Một ngày năm bốn cha phải chia lìa, cùng mảnh đất nóc gia cha làm ra… Một ngày bảy lăm con bỏ hết giang sơn, hai mươi năm tình yêu người yêu cuộc sống. Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui, Saigon đã chết rồi phải mang tên xác người…”. Lời ca da diết niềm đau như mũi dao cứ xoáy sâu vào lòng vậy. Buồn và đau lắm!

Nói chung, dân tỵ nạn là những người muốn tránh khổ, thoát khổ, tức là họ quyết đi tìm tự do, bình an và hạnh phúc ở một nơi khác. Nơi nào có tự do, bình an và hạnh phúc thì họ tìm đến bằng mọi giá, và nơi đó trở thành quê hương của họ. Tuy nhiên, có những người đã phải trả giá rất đắt vì họ gặp đủ thứ nguy hiểm, thậm chí phải mất mạng trong cuộc chạy trốn đó. Quả thật, tình trạng tỵ nạn là cảnh đáng sợ, vì kiếp tỵ nạn gian khổ lắm thôi!

Về phương diện tâm linh, chúng ta không thể dùng danh từ tỵ nạn, nhưng chúng ta cũng chẳng khác gì dân tỵ nạn – theo nghĩa phiến diện nào đó, bởi vì chúng ta đang trên đường lữ hành trần gian đầy đau khổ, với hy vọng sẽ thoát cảnh “khổ não trần ai” để về tới Bến Hạnh Phúc đích thực là Nước Trời, Quê Hương vĩnh cửu. Xét về ý nghĩa đó, chúng ta có thể coi mình cũng đang là “dân tỵ nạn”. Khổ hết sức! Khổ vô cùng! Khổ trên từng cây số! Khổ tận cùng bảng số! Thế nên chúng ta luôn thao thức cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu thoát! Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến!” (Kh 22:20b).

Đúng như vậy, nguy hiểm lúc nào cũng cận kề trên đường lữ hành trần gian, sơ sảy một chút là “chết” ngay, vì thế mà Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).

Trong Tân Ước, chúng ta không thấy đề cập vấn đề tỵ nạn, nhưng Cựu Ước có nhắc tới việc tỵ nạn hai lần.

Sách Sử Biên Niên đề cập nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron: “Đây là nơi cư trú của họ, theo ranh giới các trại dành cho họ: Nên người ta cho họ vùng Khép-rôn trong đất Giu-đa, cùng với các đồng cỏ chung quanh. Đồng ruộng của thành ấy và các thôn làng thì người ta cho ông Ca-lếp con ông Giơ-phun-ne. Nhưng người ta lại cho con cháu ông A-ha-ron các thành tỵ nạn là Khép-rôn và Líp-na với các đồng cỏ, Giát-tia, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, Khi-lết với các đồng cỏ, Đơ-via với các đồng cỏ, A-san với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ. Còn chi tộc Ben-gia-min thì người ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ, A-le-mét với các đồng cỏ, A-na-tốt với các đồng cỏ. Tất cả các thành của họ là mười ba, tính theo số các thị tộc của họ” (1 Sbn 6:39-45).

Sách Isaia nói tới vấn đề tỵ nạn trong lời sấm hạch tội Mô-áp: “Lòng tôi kêu gào bênh vực Mô-áp; những người dân tỵ nạn đã đến tận Xô-a và Éc-lát Sơ-li-si-gia. Thật vậy, tại dốc Lu-khít, họ vừa trèo vừa khóc; quả thế, trên đường Khô-rô-na-gim, họ thốt lên những tiếng kêu than thảm bại” (Is 15:5).

Thế giới có nhiều trại tỵ nạn, nhiều dạng tỵ nạn, nhiều mức độ tỵ nạn, nhưng luôn có một mẫu số chung là KHỔ. Đành rằng “ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6:34), nhưng cái khổ của kiếp tỵ nạn thì chỉ hơn kiếp tù tội là có tự do. Chẳng nơi nào có thể để chúng ta an tâm nếu “chẳng may” là dân tỵ nạn.

Chỉ có một “trại tỵ nạn” đầy đủ “tiện nghi” nhất, thậm chí còn sướng hơn sống tại nhà mình, đó là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Ngài đã mời gọi mọi người, nhất là những người đau khổ: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Chúa Giêsu là nơi để chúng ta có thể “tỵ nạn” an toàn nhất, vì chúng ta không chỉ được sống mà còn sống dồi dào (x. Ga 10:10).

Ước gì mỗi chúng ta biết lánh nạn trần gian để an tâm tỵ nạn nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, nơi đó có Nguồn Nước và Máu biến đổi chúng ta, để chúng ta có thể nên thánh theo Tôn Ý của Chúa Giêsu: “Hãy hoàn thiện như Chúa Cha trên trời” (Mt 5:48). Hãy mau ngụp lặn trong Đại Dương Lòng Chúa Thương Xót, đừng chần chừ nữa, vì thời gian sắp hết, nghĩa là giờ thương xót của Thiên Chúa gần hết rồi!

Khi tỵ nạn trần gian, chắc hẳn chúng ta không thể thiếu Người Mẹ, vì có Mẹ là có bình an – bình an ngay trong cảnh khổ. Trong Kinh Cầu Đức Bà, chúng ta tha thiết cầu xin: “NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN – Cầu Cho Chúng Con!”. Đức Mẹ thông ban những ơn cần thiết trong cuộc sống trần gian, bởi vì Mẹ là Thánh Mẫu của Thiên Chúa và cũng là Nữ Vương Hòa Bình.

Trong đời thường, ngày khởi đầu công việc luôn được người ta coi trọng. Ngày khởi đầu càng quan trọng hơn khi ngày đó là Ngày Đầu Năm. Do đó, ngày 1 tháng 1 là ngày rất đặc biệt đối với thế giới, cả đạo và đời, vì đó là ngày khởi đầu năm mới. Với người Âu Tây, đó là ngày Tết; với quốc tế, đó là ngày Hòa bình Thế giới; với người Công giáo, đó là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta mới vừa mừng lễ Giáng sinh để tôn vinh Con Thiên Chúa, liền sau đó lại tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Giáo hội tạo một nối kết tuyệt vời để đề cao Tình Mẫu Tử!

Không biết Thiên Chúa có “tiền định” hay không mà các ngôn ngữ đều mở miệng gọi Mẹ bằng âm bật mở đầu là mẫu tự M. Chẳng hạn cách gọi người sinh ra mình là Mẹ hoặc Má (tiếng Việt), Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman – tiếng Pháp), Mutter (Mumie – tiếng Đức), Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre (Mamma – tiếng Ý), Moeder (Mummie – tiếng Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ?

Nói đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn yêu thương hết lòng. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình MẫuTử đích thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vìngười Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Hình như chữ T luôn có gì đó khá đặc biệt, tạo nên chuỗi liên kết kỳ diệu trong cuộc sống của mỗi chúng ta, nhất là các Kitô hữu: Tôn giáo – Tâm linh – Tình yêu – Thanh bình (hòa bình, bình an, an bình).

Cùng với cố NS Hải Linh (1920-1988), chúng ta cùng xưng tụng Đức Mẹ qua bài Thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình” (1959), ca từ nói lên tâm tình thảo kính của người Việt được hòa quyện vào giai điệu du dương: “Kính mừng Nữ vương, Nữ vương Hòa bình, Nữ vương Hòa bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con đất Việt nao nức, cất tiếng ca mừng vui: Kính chào Nữ vương Hòa bình. Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Mẹ là sáng khắp đất nước bao la! Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Đem nguồn sống an vui chan hòa”.

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giải thoát chúng con khỏi cảnh đời lầm than, xin ban bình an cho chúng con, xin cho chúng con được hưởng nền hòa bình và tự do đích thực. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa nguyện giúp cầu thay cho chúng con, đặc biệt là dân con Nước Việt. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Vì sao chủ nghĩa xã hội thất bại?

 

Vì sao chủ nghĩa xã hội thất bại?

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Paul R. Gregory, “Why Socialism Fails”, Hoover Institution, 10/01/2018.

Biên dịch: Hiếu Chân

Khi Liên bang Xô viết gần sụp đổ, Francis Fukuyama tuyên bố chế độ dân chủ tự do đã chiến thắng chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa trong bài nhận định năm 1989 của ông, Điểm tận cùng của Lịch sử?. Hơn một phần tư thế kỷ sau đó, Liên Xô quả thực đã tan rã. Phần lãnh thổ Đông Âu của nó bây giờ thuộc về Liên minh Âu châu. Trung Quốc có một nền kinh tế thị trường cho dù đất nước vẫn bị cai trị bởi một đảng duy nhất. Còn các nhà nước “xã hội chủ nghĩa” Bắc Hàn, Cuba và Venezuela đang trong đống đổ nát về kinh tế. Giờ đây, ít ai ủng hộ việc “quay lại Liên Xô”. Nhưng đồng thời, nhiều người vẫn coi chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kinh tế hấp dẫn. Hãy xem trường hợp ông Bernie Sanders[1] – một người công khai thừa nhận ủng hộ một nước Mỹ xã hội chủ nghĩa – và rất nhiều người trẻ trưởng thành vào điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ ưa thích chủ nghĩa xã hội hơn chủ nghĩa tư bản.

Sự tương đồng về kỵ sĩ và con ngựa giải thích cho sự hấp dẫn kéo dài của chủ nghĩa xã hội. Những người xã hội chủ nghĩa tin rằng các chế độ xã hội chủ nghĩa đã chọn sai kỵ sĩ để cưỡi con ngựa xã hội chủ nghĩa đi tới chiến thắng xứng đáng với nó. Những kỵ sĩ tệ hại như Stalin, Mao, Fidel, Pol Pot và Hugo Chavez đã chọn những chiến thuật và chính sách dẫn con ngựa xã hội chủ nghĩa của họ đi trật đường. Nhưng trên thực tế, một cái nhìn vào cách thức Liên Xô hoạt động lại bộc lộ rằng, chính bản thân con ngựa mới là vấn đề.

Sau khi giành được quyền lực một thế kỷ trước và nắm giữ quyền lực thông qua một cuộc nội chiến, những người cộng sản Liên Xô có ý định xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ chôn vùi chủ nghĩa tư bản. Sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa khoa học sẽ thay thế cho tình trạng vô chính phủ của thị trường. Lợi ích vật chất sẽ dồn về phía giai cấp lao động. Một nền kinh tế công bằng sẽ thay cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản và con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ nổi lên, những người đặt ưu tiên cho lợi ích của xã hội lên trên lợi ích cá nhân. Chuyên chính vô sản sẽ bảo đảm quyền lợi của giai cấp lao động. Thay vì bóc lột giá trị thặng dư từ người lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ lấy đồ cống nạp của các nhà tư bản để tài trợ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Những nền tảng căn bản của “con ngựa” Xô-viết đã được thiết lập vào đầu thập niên 1930. Theo hệ thống này, Stalin và bộ chính trị của ông ta đặt ra những ưu tiên chung cho các bộ công nghiệp và ủy ban kế hoạch nhà nước. Các bộ và các nhà kế hoạch làm việc cùng nhau để soạn ra các kế hoạch kinh tế. Cán bộ quản lý của hàng trăm ngàn nhà máy, công xưởng, cửa hàng thực phẩm và ngay đến các nông trại đều bị pháp luật bắt buộc phải hoàn thành kế hoạch mà cấp trên giao cho.

Nhà nước Xô-viết khởi động nền kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa của họ khi thế giới tư bản chủ nghĩa chìm sâu vào suy thoái, chiến tranh thương mại và lạm phát phi mã. Chính quyền Xô-viết khoe khoang về mức tăng trưởng chưa từng có trước đây. Các tổ hợp công nghiệp mới mọc lên từ số không. Các tạp chí đăng hình ảnh những công nhân vui sướng nghỉ ngơi trong những khu nghỉ mát đầy đủ tiện nghi. Thông điệp là: Phương Tây đang thất bại và hệ thống kinh tế Xô-viết là con đường đi tới tương lai.

Khi cuộc cạnh tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội Liên Xô trở nên rõ rệt trong thời Chiến tranh Lạnh, hoạt động nghiên cứu học thuật nghiêm túc về nền kinh tế Xô-viết cũng bắt đầu. Chương trình nghiên cứu bao quát của các học giả phương Tây nhắm vào “kế hoạch hóa khoa học” – những người xã hội chủ nghĩa tin rằng các chuyên gia kỹ trị có thể quản lý nền kinh tế tốt hơn là những lực lượng thị trường tự phát. Suy cho cùng, chẳng phải các chuyên gia thì hiểu biết hơn người mua người bán về chuyện cần sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai sử dụng hay sao?

Chính các nhà kinh tế học người Áo F.A. Hayek và Ludwig von Mises là những người chống lại niềm tin này quyết liệt nhất. Trong sự phê phán có tính biểu tượng của họ, được trình bày trong hàng loạt công trình nghiên cứu từ thập niên 1920 đến 1940, họ đi đến kết luận rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại. Trong các nền kinh tế hiện đại, hàng trăm ngàn doanh nghiệp sản xuất ra hàng triệu sản phẩm. Quản lý một số lượng lớn như vậy là việc quá phức tạp mà không một cơ quan hành chính nào có thể phân bổ nguồn lực nổi, cho dù có sự trợ giúp của công nghệ máy tính tinh vi nhất. Kinh tế hiện đại do đó quá phức tạp và không kế hoạch hóa được. Không có thị trường và giá cả, các nhà hoạch định chính sách không biết được mặt hàng nào bị khan hiếm, sản phẩm nào dư thừa. Nếu tài sản thuộc về mọi người, thì những người quản lý tài sản cho xã hội sẽ phải theo những luật lệ nào?

Giải pháp của người Xô-viết cho những vấn đề về tính phức tạp và thông tin là một kế hoạch quốc gia đặt mục tiêu sản xuất cho những khu vực kinh tế lớn chứ không phải cho những giao dịch cụ thể. Nói cách khác, thay vì bắt buộc nhà máy A phải giao cho nhà máy B 10 tấn dây cáp thép, các nhà kế hoạch đặt mục tiêu tổng số tấn dây cáp được sản xuất trong cả nước. Chỉ có một số mặt hàng đặc biệt – chẳng hạn như dầu thô, quặng nhôm, than nâu, điện năng và toa vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt – mới được lập kế hoạch như những giao dịch thật sự. Còn tất cả những mặt hàng khác chỉ được kế hoạch hóa theo số lượng thô, chẳng hạn như đặt mục tiêu dệt ra vài triệu mét vuông vải. Các đặc điểm của sản phẩm, kế hoạch giao hàng và thanh toán tiền chỉ được vạch ra ở những cấp thấp, và thường dẫn tới những kết quả thảm hại.

Kế hoạch hóa khoa học kiểu Xô viết trong thực tế chỉ tác động tới một phần rất nhỏ sản phẩm. Vào đầu thập niên 1950, các cơ quan trung ương lập ra hơn 10.000 chỉ mục kế hoạch trong khi sản phẩm công nghiệp có đến hơn 20 triệu chỉ mục khác nhau. Các cơ quan trung ương lập ra những kế hoạch tổng quát cho các bộ công nghiệp, các bộ này lại đề ra những kế hoạch chi tiết hơn cho các “khu hành chính quan trọng”, nơi sẽ chuẩn bị kế hoạch cho các doanh nghiệp. Không bao giờ có yêu cầu các quan chức hàng đầu phải đưa ra kế hoạch sản xuất các sản phẩm đặc biệt nào đó.

Để làm cho vấn đề thêm phức tạp, gần như tất cả mọi kế hoạch đều chỉ là “dự thảo”, có thể được thay đổi bất cứ lúc nào bởi các quan chức của đảng và chính quyền cấp cao hơn. Sự can thiệp thường xuyên này, gọi là “giám sát”, là một điều phiền toái xảy ra từ ngày đầu tiên tới ngày cuối cùng của hệ thống Xô-viết, nhưng đó cũng là cột trụ cho công cuộc phân bổ nguồn lực.

Các nhà kế hoạch trung ương chuẩn bị những kế hoạch sơ bộ cho một bộ phận nhỏ của nền kinh tế. Những “kế hoạch dự thảo” này lại kích hoạt “những trận chiến giành kế hoạch” to lớn khi các bộ và các doanh nghiệp tìm cách hoàn thành mục tiêu sản xuất của họ và đáp ứng các định mức giao hàng; tất cả những chuyện này đều có thể thay đổi bởi các cán bộ đảng và cán bộ địa phương vào bất cứ lúc nào.

Như bộ trưởng công nghiệp nặng Sergo Ordzhonokidze than phiền vào năm 1930: “Tôi đoán họ nghĩ rằng chúng tôi là một lũ ngốc. Mỗi ngày họ cho chúng tôi từ nghị quyết này đến nghị quyết khác mà không có cơ sở nào cả”. Một nửa thế kỷ sau một nhà thầu quốc phòng ẩn danh cũng đưa ra lời than phiền tương tự: “Họ nhúng mũi vào mọi vấn đề. Chúng tôi bảo họ rằng họ đã sai, nhưng họ vẫn đòi phải làm theo cách của họ”.

Nhiệm vụ của người quản lý được cho là rất đơn giản: Kế hoạch là pháp lệnh, công việc của người quản lý là hoàn thành kế hoạch. Nhưng kế hoạch cứ tiếp tục thay đổi. Hơn thế nữa, nó bao gồm nhiều nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như giao hàng, sản lượng và phân loại. Xuyên qua toàn bộ lịch sử của Liên Xô, tổng sản lượng gộp (đo bằng tấn, mét hoặc toa hàng/dặm) là các chỉ tiêu kế hoạch quan trọng nhất và cũng dễ thao túng nhất. Các nhà sản xuất đinh chẳng hạn, mà sản lượng được tính theo trọng lượng, chỉ sản xuất các loại đinh to và nặng. Các nhà sản xuất máy kéo, cố gắng hoàn thành định mức máy kéo, bị phát hiện chỉ giao cho khách hàng những chiếc máy kéo không có động cơ; buộc khách hàng phải mua động cơ như mua phụ tùng. Các nhà sản xuất giày mà kế hoạch dựa trên số lượng giày làm ra chỉ sản xuất giày cùng một cỡ, cùng một màu, bất chấp nỗi khổ tâm của khách hàng. Những mục tiêu kế hoạch khác, chẳng hạn như áp dụng công nghệ mới hoặc làm giảm chi phí sản xuất, bị lãng quên vì bị coi là không có tác dụng giúp hoàn thành kế hoạch.

Dưới chế độ kế hoạch hóa khoa học, cung cầu phải gần ngang nhau – và do ác cảm của họ đối với tính lộn xộn của thị trường, các nhà kế hoạch Xô-viết không thể cân đối cung cầu bằng cách nâng giá hoặc hạ giá. Thay vì vậy, họ soạn ra cái gọi là “cân đối vật chất”, sử dụng phép kế toán cổ xưa để so sánh những vật liệu nào đang có sẵn với những vật liệu cần có theo một nghĩa nào đó.

Kế hoạch hóa cân đối-vật chất kiểu Xô-viết có rất nhiều khiếm khuyết. Ví dụ, chỉ có thể soạn ra một số sự cân đối – năm 1938 chỉ có 379 sự cân đối ở trung ương được chuẩn bị cho một thị trường có hàng triệu mặt hàng. Và rồi, những sự cân đối này lại dựa trên những thông tin méo mó. Các nhà sản xuất hàng hóa trong phép cân đối này vận động để được phân bổ những mục tiêu thấp, che giấu năng lực sản xuất thật của họ. Những người sử dụng sản phẩm công nghiệp trong phép cân đối, ngược lại, lại khai vống lên những gì họ cần để bảo đảm việc hoàn thành kế hoạch của riêng họ.

Hình dung ra một sự cân đối thích hợp là một công việc mệt mỏi – và các nhà kế hoạch Xô-viết không phải năm nào cũng sáng tác ra cái mới; thay vì vậy, họ áp dụng cách gọi là “kế hoạch hóa từ mức độ đã hoàn tất”, nghĩa là kế hoạch của mỗi năm là kế hoạch của năm trước đó cộng thêm một số điều chỉnh nhỏ.

Vào đầu thập niên 1930, các cơ quan cung cấp phân phối nguyên vật liệu dựa trên những gì họ đã làm trong năm trước đó. Lướt nhanh đến thập niên 1980, cũng vẫn thấy cung cách làm việc như vậy. Khi một nhà sản xuất vật liệu nghề hàn muốn sử dụng tấm kim loại mỏng hơn thì câu trả lời chính thức là: “Tôi không quan tâm tới công nghệ mới. Cứ làm như cũ để mọi sự vẫn như cũ”. Kế hoạch hóa cân đối vật chất là kẻ thù của sản phẩm mới và công nghệ mới bởi vì chúng đòi hỏi phải làm lại một hệ thống các cân đối vốn đã rất mong manh. Các nhà kinh tế học Mỹ nghiên cứu sản xuất công nghiệp của Liên Xô trong thập niên 1950 hết sức ngạc nhiên khi thấy những cỗ máy đã sản xuất vài thập niên mà không hề được cải tiến gì cả, một chuyện chưa từng nghe thấy ở phương Tây.

Kế hoạch hóa cân đối vật chất là điểm yếu cơ bản nhất của hệ thống Xô-viết. Nó làm cho nền kinh tế Liên Xô bị đông cứng lại. Sản xuất của mỗi năm là bản sao chép năm trước đó. Một cán bộ quản lý Liên Xô năm 1985 sẽ cảm thấy hết sức thoải mái trong cùng doanh nghiệp đó vào năm 1935.

Ngoài kế hoạch hóa cân đối vật chất, ngân sách mềm (soft budgets) cũng tạo thành một khuyết điểm nghiêm trọng khác. Nhà kinh tế học Janos Kornai của trường Đại học Harvard lớn lên ở Hungary dưới thời xã hội chủ nghĩa kế hoạch hóa. Nghiên cứu của ông, dựa trên những trải nghiệm trực tiếp, tập trung vào những thất thoát kinh tế diễn ra cùng với những giới hạn của ngân sách mềm. Theo Kornai, nếu doanh nghiệp không phải đối mặt với nguy cơ phá sản, chúng sẽ không tìm cách cắt giảm chi phí và tìm những chiến lược sinh tồn khác. Từ ngày đầu tiên của hệ thống Xô-viết, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã hiểu rằng họ sẽ được tự động cứu nguy, nếu không nói là cứu ngay.

Nguyên nhân ban đầu của chính sách ngân sách mềm là do hệ thống Xô-viết dựa trên kế hoạch sản lượng. Đầu ra của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh nghiệp khác. Nếu kế hoạch sản lượng bị đổ vỡ thì toàn bộ kế hoạch sẽ thất bại. Đưa một doanh nghiệp ra khỏi nền sản xuất do làm ăn kém cỏi không đơn giản là một sự lựa chọn.

Trong thực tế, các doanh nghiệp thua lỗ thường trả các khoản tiền hàng bằng trái phiếu ghi nợ (IOU). Các phiếu ghi nợ không được thanh toán đúng hạn sẽ nhiều lên dần rồi đạt tới quy mô khủng hoảng. Gosbank, tức ngân hàng nhà nước Liên Xô – sẽ vào cuộc và giải quyết các hóa đơn chưa thanh toán bằng cách phát hành thêm tiền và tạo ra cái mà các quan chức ngân hàng Xô-viết gọi là “treo tiền” – đồng tiền chạy theo hàng hóa hơn là có hàng hóa để mua. Trong thực tế, việc kinh doanh chính của Gosbank trong những năm đầu tiên của hệ thống Liên Xô là tổ chức những vụ cứu nguy tài chính. Khi một vụ cứu nguy này hoàn tất cũng là lúc bắt đầu tiến hành vụ cứu nguy kế tiếp.

Vấn đề của chủ nghĩa xã hội không phải là kỵ sĩ tồi mà là chính con ngựa. Hệ thống kinh tế Xô-viết mắc nhiều chứng bệnh cuối cùng sẽ làm nó ngã quỵ. Bắt đầu từ cuối thập niên 1960, kinh tế Liên Xô rơi vào cuộc suy thoái kéo dài, về sau được gọi là “giai đoạn trì trệ”. Mikhail Gorbachev được chọn làm tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô năm 1985 với cam kết rằng ông, một nhà cải cách cấp tiến, sẽ đảo ngược đà suy thoái này.

Gorbachev đã thất bại vì cốt lõi của hệ thống kế hoạch hóa Xô-viết đã mục ruỗng. Bất chấp thiên hướng cải cách của ông, Gorbachev vẫn là một tín đồ của chủ nghĩa xã hội. Ông quyết tâm cứu vãn chủ nghĩa xã hội Xô-viết bằng cách làm cho nó giống với chủ nghĩa tư bản. Khi làm như vậy, ông đã tạo ra một nền kinh tế không phải là kế hoạch hóa, cũng không phải kinh tế thị trường – một cuộc tranh chấp đầy hỗn loạn, mà nhân dân Nga tới hôm nay vẫn buồn rầu gọi đó là “chủ nghĩa tư bản hoang dã”.

Paul Roderick Gregory lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại Đại học Harvard, làm nghiên cứu viên của Viện Hoover, giáo sư khoa kinh tế của Đại học Houston, Texas; giáo sư nghiên cứu tại Học viện Đức về nghiên cứu kinh tế ở Berlin; chủ tịch danh dự Ban Tư vấn quốc tế trường Kinh tế Kiev (Ukraine). Ông cũng đồng thời là giáo sư thỉnh giảng các trường Đại học quốc gia Moscow (Nga), Đại học Viadrina (Nga) và Đại học Tự do Berlin (Đức).

——————

[1] Bernie Sanders: Thượng nghị sĩ Dân chủ bang Vermont, Hoa Kỳ, thất bại trong cuộc tranh giành với bà Hillary Clinton tư cách đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống Mỹ trong cuộc bầu cử tháng 11-2016.

Nguồn: Viet-studies

Phúc Đức Tại Mẫu – Đinh Thủy

Phúc Đức Tại Mẫu – Đinh Thủy

Ngày còn bé con cứ thắc mắc, tại sao trên đất nước này cái gì cũng mang dấu ấn sự tôn vinh người Mẹ. Dòng sông lớn nhất ở phía Bắc đất nước ta quen gọi sông Hồng cũng còn có tên khác là sông Cái. Con đường nào lớn gọi là “đường cái.” Thứ tiếng ta nói hàng ngày cũng gọi là tiếng “Mẹ đẻ.”

Tổ Quốc thiêng liêng cũng được gọi với giọng tha thiết là “đất Mẹ.” Trên dải đất nhỏ hẹp mang hình chữ S ấy đâu đâu cũng có những đền thờ Mẫu. Bài học đầu tiên con trẻ được học cũng là từ trường mẫu giáo và do các cô bảo mẫu truyền dạy. Đến cái đũa lớn nhất để xới cơm ở quê mình cũng gọi là “đũa cái,” “đũa cả.”

NHỚ LỜI MẸ DẶN: Mẹ không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Mẹ viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu.”
Lời dặn của mẹ đã làm con khóc. Và con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời và nó đã trở thành lẽ sống của con.

Hôm con phỏng vấn xin việc vào công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, song người được lựa chọn lại là con. Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không? Họ hỏi con câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con, con đã nói lại lời mẹ dặn.

Họ bảo: “Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợp tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi.” Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con!

NHỮNG LÁ THƯ CŨ: Con và chồng con có xích mích lớn vì con nghi anh ấy vẫn gặp gỡ với người bạn gái cũ. Con bực mình bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mang từ trong chiếc hòm cũ ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây.

Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố định đem hết đám thư và ảnh của người yêu cũ ra đốt đi để chứng minh sự “một lòng một dạ với mẹ.”Mẹ đã ngăn lại và bảo:“Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỉ niệm.
Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỉ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy.” 
Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, nhưng bố cả đời thủy chung với mẹ.

Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con tự tìm về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc!

HAI VÙNG SÁNG TỐI: Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì. Sau hôm gặp mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: Mẹ cô ấy hiền hậu, phúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền.
Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hóa ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con.

Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng phụ nữ nhiều người ác quá. Mẹ lại bảo “phúc đức tại mẫu, những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi.”
Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít,đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy sinh hết lòng vì con, không ít người phụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả. Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi!

BÀI HỌC LÀM GƯƠNG: Thấy con phàn nàn về sự chểnh mảng học tập của các cháu, mẹ bảo: “Con nhắc các cháu đi học bài, mà vợ chồng con cứ ngồi xem vô tuyến. Con chê các cháu lười học tiếng Anh mà bản thân con là cán bộ cũng không thông tỏ ngoại ngữ thì dạy bảo chúng nó thế nào?”
Ngẫm kĩ lời mẹ nói, con đã quyết định đi học lớp tiếng Anh buổi tối cùng cháu. Tối về mẹ con trao đổi bài rôm rả. Đúng như mẹ nói, khi thấy cả bố và mẹ đều miệt mài làm việc, các cháu cũng tự động lấy sách ra làm bài.

Đến nay chúng con rất yên tâm về việc học hành của các cháu. Sao có mỗi bài học đơn giản rằng “muốn con chăm thì mẹ phải siêng, muốn con hiền thì mẹ phải thảo” mà con không nhớ, phải để mẹ nhắc nhở!

Mẹ nghèo không có tiền bạc cho con, nhưng mẹ đã cho con hiểu giá trị của sự tần tảo, lòng bao dung, đức hy sinh. Mẹ không đi học, nhưng mẹ dạy con biết sống đúng mực, trọng ân tình.

Cuộc đời con lúc nào cũng có mẹ ở bên. Con có cuộc sống hạnh phúc hôm nay là do bàn tay mẹ tạo dựng. Đến bây giờ con đã hiểu rằng công sinh thành dưỡng dục do cả mẹ cả cha chung sức, nhưng không phải vô tình người ta mới chỉ phong danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và trong nhạc, trong thơ, nơi đâu cũng thấy vang lên những “Huyền Thoại Mẹ,” ” Tình mẹ,” “Lòng mẹ”…

(Nguồn: franky92683@yahoo.com)

Image may contain: people sitting

Một toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác

Một toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác

I. Sức khỏe: 

Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) định nghĩa: “Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất và hoàn cảnh, chứ không phải là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật”.. 


II. Bí quyết trường thọ:

 1. Chấp nhận với những gì mình đang có 
 2. Thích nghi với hoàn cảnh của mình 
 3. Điều chỉnh để đạt được điều mong muốn. 

III. Phòng ngừa bệnh tật: 

 1. Không vui quá hại tim
 2. Không buồn quá hại phổi
 3. Không tức quá hại gan
 4. Không sợ quá hại thần kinh
 5. Không suy nghĩ quá hại tỳ
 6. Xua tan hoài niệm cay đắng bằng tha thứ và lãng quên
 7. Với người cao tuổi tránh tranh luận hơn thua. 

IV. Thức ăn & uống trong ngày: 

  •  Một củ hành: chống ung thư
  •  Một quả cà chua: chống tăng huyết áp
  •  Một lát gừng: chống viêm nhiễm
  •  Một củ khoai tây: chống sơ vữa động mạch
  •  Một trái chuối: làm phấn chấn thần kinh, bớt lo âu, chống táo bón, giảm được béo 
  •  Một quả trứng hay ít thịt nạc: chống suy dinh dưỡng
  •  Uống 1 đến 2 lít nước mỗi ngày: giải độc cơ thể.       
  • V.   Triết lý của người Trung Hoa hiện đại: 1. Một Trung Tâm là sức khỏe
     2. Hai một chút: Một chút Vui vẻ – Một chút nhiệt tình
     3. Ba Quên: Quên tuổi tác – Quên bệnh tật – Quên hận thù
     4. Bốn Có: 
    Có nhà ở 
    Có bạn đời 
    Có bạn tri ân 
    Có lòng vị tha.
    5. Năm Phải:
     Phải vận động 
     Phải biết cười 
     Phải lịch sự hòa nhã 
     Phải biết nói chuyện 
     Phải coi mình là người bình thường VI. Dưỡng bát khí – Nhà sư Thái Ất Chân Nhân:  1. Ít nói năng để dưỡng Nội Khí
     2. Kiêng sắc dục để dưỡng Tinh Khí 
     3. Bớt ăn hăng mạnh để dưỡng Huyết Khí 
     4. Đừng nhổ nước bọt để dưỡng Tạng Khí 
     5. Chớ giận hờn để dưỡng Can Khí 
     6. Chớ ăn quá độ để dưỡng Vị Khí 
     7. Ít lo lắng để dưỡng Tâm Khí 
     8. Tránh tà tâm để dưỡng Thần Khí.

     VII. Hãy Dành Thì Giờ – Đức Mẹ Teresa Calcutta:

  •  Hãy dành thì giờ để suy nghĩ. Đó là nguồn sức mạnh.
  •  Hãy dành thì giờ để cầu nguyện. Đó là sức mạnh toàn năng. 
  •  Hãy dành thì giờ cất tiếng cười. Đó là tiếng nhạc của tâm hồn. 
  •  Hãy dành thì giờ chơi đùa. Đó là bí mật trẻ mãi không già. 
  •  Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu. Ưu tiên Thiên Chúa ban. 
  •  Hãy dành thì giờ để cho đi. Một ngày quá ngắn để sống ích kỷ. 
  •  Hãy dành thì giờ đọc sách. Đó là nguồn mạch minh triết. 
  •  Hãy dành thì giờ để thân thiện. Đó là đường dẫn tới hạnh phúc. 
  •  Hãy dành thì giờ để làm việc. Đó là giá của thành công. 
  •  Hãy dành thì giờ cho bác ái. Đó là chìa khóa cửa thiên đàng.
  • From Thầy Định Nguyễn gởi

DÀNH THÌ GIỜ

DÀNH THÌ GIỜ

Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa.  Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”

Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy”.

****************************** ********

Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng.  Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình.  Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn.  Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình.  Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi.  Đây không phải là một lối sống hay ho gì.

Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình.  Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật.  Đây là một tình trạng nguy hiểm.  Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp.  So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn.  Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình.  Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả.  Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.

 Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình.  Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người.  Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu.  Người đang có nguy cơ bị hao mòn.  Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó.”  Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.

Nơi hoang vắng làm được gì cho Người?  Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi lại năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung.  Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan với Chúa Cha.  Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.

 Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì.  Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng ấm.  Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn.  Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa.  Hầu hết người ta đều cho rằng bản thân mình có giá trị qua công việc.  Họ cho rằng giá trị của con người tùy thuộc vào ích lợi của người đó.  Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch.  Hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt.  Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện. 

Cách thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi.  Rất nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội.  Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh.  Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng.  Công việc có thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa.  Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.

Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc.  Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc.  Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.  Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.  Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết.  Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận.  Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.

 Sưu tầm 

****************************** ******** 

Lạy Cha Đức Giêsu Kitô và cũng là Cha chúng con,

Chúng con đặc biệt xin Cha kết hợp chúng con với đời sống Đức Giêsu theo một phương diện đặc biệt:  xin chuẩn bị cho chúng con sẵn sàng kết hợp với lời nguyện của Ngài.

Đức Giêsu Kitô là Đấng hết lòng thờ phụng Thiên Chúa trong thần trí và trong sự thật, Người là Đấng trung gian duy nhất chuyển đạt lời nguyện chúng con lên ngai tòa ân sủng.

Chúng con hợp nhất trong Thần trí Đức Giêsu, xin Người dạy bảo chúng con biết noi gương Người, luôn cầu nguyện không mệt mỏi, kiên trì, tin tưởng khiêm cung, trong thần trí và trong sự thật, với một tấm lòng chân thành thương yêu tha nhân, nếu thiếu tình yêu ấy, không lời nguyện nào có thể làm thỏa lòng đẹp ý Cha.

Nguyện xin Đức Kitô dạy chúng con biết xin Cha những điều mà chính Người hằng tâm niệm ấp ủ.

Lạy Cha, xin Cha ban cho chúng con tinh thần cầu nguyện, trầm mặc và kết hợp với Cha.  Amen! 

Karl Rahner

From Langthangchieutim gởi

Ba người Việt bị khởi tố tội ăn cắp ở Nhật

2018-02-01
 
Hình minh họa. Khách hàng xếp hàng mua túi may mắn ngoài một cửa hàng bán lẻ hàng điện tử ở Tokyo hôm 1/1/2018

Hình minh họa. Khách hàng xếp hàng mua túi may mắn ngoài một cửa hàng bán lẻ hàng điện tử ở Tokyo hôm 1/1/2018

 AFP
 

Nhật Bản ngày 1 tháng 2 tiến hành khởi tố ba người mang quốc tịch Việt Nam về tội ăn cắp. Ba người này bao gồm Le Anh Ngoc, 22 tuổi; Vi Tuan Luu 24 tuổi; và Nguyen Anh Tuan 25 tuổi. Hai trong số ba người là du học sinh tại Nhật.

Theo cáo trạng ba người này đã thực hiện hơn 100 vụ ăn cắp tại các tỉnh Ibaraki, Kyoto, Nara,….và bị bắt vào ngày 21 tháng 1 khi đang đột nhập vào một căn nhà tại thành phố Ruyugasaki tỉnh Ibaraki, lấy đi nhiều đồ vật quý giá như túi xách hàng hiệu, trang sức, với tổng trị giá khoảng 6.200 đô la Mỹ.

Số liệu của Cảnh sát quốc gia Nhật Bản cho thấy tính đến năm 2016, số vụ phạm tội do người Việt Nam gây ra đã cao gấp đôi trong 10 năm qua, trong đó nhiều vụ liên quan đến du học sinh.

Ngoài đối tượng này, trước đây từng có những phi công, tiếp viên hàng không Việt Nam bị cơ quan chức năng Nhật cáo buộc tham gia chuyển hàng ăn cắp; hay tình trạng nhân viên sứ quán Việt Nam tại Xứ Phù Tang nhũng nhiễu và bị than phiền…