Quả lừa khủng

Hoang Le Thanh‘s post.
 
 
 
Image may contain: 6 people, people standing and outdoor
Hoang Le Thanh

 

Quả lừa khủng

Lê Công Định

Tôi nghe kể lại rằng sở dĩ gia đình bác sĩ Hồ Hải không thuê luật sư và không thông báo ngày xét xử sơ thẩm, là vì có kẻ hứa hẹn rằng tòa án sẽ tuyên cho anh Hồ Hải một mức án bằng số ngày tù anh ở, rồi trả tự do tại tòa.

Kết quả, như chúng thấy, anh Hồ Hải đã bị tuyên 4 năm tù. Thật là một quả lừa khủng! Tất nhiên, không ai trách gia đình anh ấy, vì người trong nhà vốn ngay tình và luôn mong điều tốt đẹp nhất có thể cho anh Hồ Hải. Đáng trách chỉ là bọn lừa đảo thôi.

Âu cũng là bài học cho những ai còn đặt niềm tinh vào một chế độ đã mất tính chính danh.

*

Chúc anh bình an những ngày tháng sắp tới trong gông cùm của chế độ, mà cả bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc đều đã và đang bám víu một cách hài hước.

Thương anh, một người đàn ông nước Việt thực thụ!

Nguồn: Ls. Lê Công Định
https://www.facebook.com/LSLeCongDinh/posts/1999348590338915

Ảnh: Bị cáo Hải tại tòa – Ảnh: TUYẾT MAI. (Ghi chú nguyên văn tấm ảnh trong bài báo: “Tuyên truyền chống Nhà nước, bác sĩ đa khoa lãnh 4 năm tù”, đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 01/02/2018 11:11 GMT+7).

CSVN ĐÁNH CHÌM TÀU CHI MAI ĐỂ CƯỚP CỦA!!!

Thuong Phan shared Minh Tam Dang‘s post.
 
 
Image may contain: mountain, sky, cloud, outdoor and nature
Image may contain: 11 people, people sitting, child and indoor
Image may contain: sky, outdoor and water
Image may contain: sky, mountain, outdoor, water and nature
Image may contain: ocean, outdoor, water and food
+5

Minh Tam Dang added 9 new photos.

CSVN ĐÁNH CHÌM TÀU CHI MAI ĐỂ CƯỚP CỦA!!!

TỘI ÁC CỘNG SẢN đối với Dân Việt Nam và nhất là đối với Dân Miền Nam chất cao dầy hơn cả Núi Hy Mã Lạp Sơn (8848m), trúc Nam Sơn không ghi hết tội, biển Đông và Nam hải không rửa sạch mùi tanh hôi của chúng!!!

Vậy mà giờ đây, hàng năm, chúng ta phải chứng kiến cảnh chúng ăn mừng “chiến thắng vinh quang” của chúng!

Mời đọc câu chuyện của THUYỀN TRƯỞNG CSG-92.

Xin lưu ý, những tấm hình được mượn để minh họa. Cảm ơn Ông Thuyền trưởng đã vượt qua nỗi kinh hoàng để ngồi lại viết câu chuyện hãi hùng này.

Tạ ơn Trời Phật cho những người sống sót trong những chuyến vượt biên đầy bất trắc để tìm TỰ DO, trong đó có em trai tôi đi năm 1979, sau đó Cậu tôi (Hải Quân VNCH) sau 6 năm tù cải tạo và 2 em trai khác của tôi và cuối cùng là tôi. Chúng tôi đã được Trời Phật cho sống kiếp thứ hai trên cõi trần này.

“”Xác nguời được đưa ra khỏi tàu Chi Mai đưa lên bến phà Cát Lái lập tức các túi hành lý bị tụi công an VC tịch thu đem lên xe cây ngay lập tức, không có thân nhân hay bất cứ ai léo hánh ở khu vực này. Chỉ huy bốc dỡ các tử thi này là Đại tá VC Đinh Mười, truởng phòng cảnh sát phòng cháy chửa cháy thành phố Sàigòn; và một tên đại tá khác của phòng cảnh sát trên sông. Lúc bấy giờ bí thư thành uỷ là Võ Văn Kiệt.

Tổng cộng xác chết được đem ra là 426 xác cả nam lẫn nữ. “”

“””Còn cảnh công an VC bắn vào người vượt biên hôm đó, chính mắt những người đóng đáy thấy, thủy thủ tàu CSG 92 và xà lan 64 thấy, công nhân nhà máy Vavioil và những cư dân trên bờ sông nhà bè phía đèn xanh đều thấy hết. Chưa hết đâu! Những người đi “đăng ký”, tập trung tại bến xe Văn Thánh ngoài ngã ba Hàng Xanh để cho xe bus đưa vào bên phà Cát Lái, nhưng còn hai xe bus chót chưa vào tới bến phà Cát Lái thì mìn đã nổ. Không biết rằng vì xe bus đến chậm hay thằng công an tay nghề quá zỏm, gài kim định giờ không chính xác?!”””
……………………………

Thuyền trưởng CSG-92
Cảng SaiGon

“May mắn cho tôi là khi vượt biên vô cùng thuận buồm xuôi gió, nhưng ngược lại, tôi là chứng nhân cuả một vụ cướp của giết người thật là rùng rợn do bọn cộng sản Việt Nam thực hiện vào năm 1977 tại căn cứ Hải quân Cát Lái cũ của QLVNCH.

Lúc bấy giờ tôi làm công nhân cho thuỷ đội Cảng Sàigòn, trên chiếc tàu kéo CSG 92 (Soài Rạp). Vào khoảng tháng 1 năm 1977 tàu chúng tôi chạy lên con sông Sàigòn tới phía sau nhà máy nhiệt điện Thủ Đức và kéo chiếc tàu tên là Chi Mai về Kinh Tân Thuận (kinh đôi) để cơ xưởng cảng Sàigòn gắn thêm một số máy phụ như máy charge gió (air compressor), máy bơm nước lườn, cũng như gắn thêm một số ống gió thông hơi từ boong tàu xuống tận 3 tầng dưới hầm máy.

Tôi thấy cách thiết kế vô cùng lạ mắt và không có một chút gì là an toàn cho việc vận hành, cũng như an toàn thoát hiểm tối thiểu cho một con tàu di chuyển trên sông nước. Tôi có hỏi chú sáu Bền người công nhân đầu não của xưởng này về việc lạ lùng này thì chú trả lời rằng: “Chú đâu biết gì đâu. Nghe nói rằng thành uỷ thuê xưởng sửa chữa làm một số việc và nhà nước đôi bên thanh toán cho nhau. Chú chỉ là lính lác nên đâu biết gì việc cuả họ”.

Con tàu này có máy chính hiệu của Đức chế tạo, công suất 900 horse power. Con tàu này dài khoảng chừng 22m rộng 5, 5 mét, chiều sâu tính từ mớm nước khoảng 3, 3 mét, nhưng nếu tính từ trên mặt boong (deck) khoảng 5 mét là cùng. Khi tàu này gần ra khỏi ụ sửa chữa nó được hàn thêm một số miếng sắt chữ V loại 6mm làm một boong giả thêm nữa, cao hơn mặt boong khoảng 1.70 mét.

Bấy giờ những người Hoa kiều trong Chợ Lớn thường tấp nập vào tầu này xem xét cúng bái và họ thường mang trái cây hoặc thịt thà qua biếu cho chúng tôi ăn. Sau vài lần họ muốn thuê chú hai Lâm Văn Tới làm máy trưởng cho tàu này. Họ nói dối rằng đấy là tàu khách chạy từ sài Gòn đi Cần Thơ. Nhưng chú khước từ, vì tàu CSG 62 cuả chú cũng sửa chữa sắp xong để hoạt động kéo xà lan nước đi Vũng Tàu cung cấp cho các tàu chiến cũng như đánh cá đang neo tại vùng cảng ấy. Sau họ bảo thật là đi vượt biên chính thức và sẵn lòng chi 15 lượng vàng và cho hết 6 người trong gia đình chú đi luôn không phải trả một xu nào cả, nhưng chú vẫn khước từ.

Sau đó tôi thấy tên Út Lương tên thật là Lương Văn Út thuyền trưởng tàu khách An Giang chạy từ Tân Châu -Long Xuyên -Sài Gòn và ngược lại, nhận lời. Tên Úc này là Việt kiều Kampuchia hồi hương về VN năm 69 hay 70 gì đó. Năm đó là năm Quân Lực VNCH hành quân vô Kampuchia tấn công và san bằng cục R cuả VC và cứu vớt Việt kiều khỏi bị bọn Lon Nol và Khmer Đỏ cáp duồn thả trôi sông Cửu Long về Việt Nam.

Út Lương có nước da sậm nâu, gần giống như Miên. Không hiểu hắn xoay ở đâu ra bằng Tài Công hạng nhất của Bộ giao thông và Bưu điện cấp cho hắn. Bằng màu đỏ hẳn hòi, còn mới cứng, chứ thằng này nó dốt như Hồ Chí Minh, tiếng Tây thì quẹt quẹt, tiếng Miên thì good, tiếng Việt và tiếng Tàu thì cũng khá khá, nhưng về hải nghiệp nó là con zéro to tướng. Nội việc khử từ trường cho hải bàn khi tàu sửa chữa, hay trang bị thêm chi tiết nó cũng không biết, làm floating radar, hoặc tâm phương qua tín hiệu kiểm báo nó cũng mù tịt, thì nói chi đến tính toán sai biệt trục địa cầu hàng năm để cộng thêm vào hướng đi, hoặc trừ bớt cho đúng với hướng thật sự muốn đi. Nhưng hắn vẫn nhận trách nhiệm đưa tàu đến Cát Lái.

Giờ đây tôi không chắc nhớ rõ ngày tháng sự vụ xảy ra, tôi chỉ nhớ lúc ấy trời nắng gắt lắm khoảng tháng 4 hay 5 gì đấy, bấy giờ tôi kéo xà lan chở nước xuống kho dầu Shell ở Nhà Bè bơm cho tàu dầu Hasukha của Liên Xô, và sau đó kéo ủi yểm trở cho hoa tiêu đưa tàu vào cặp cảng kho Esso Nhà Bè. Việc xong xuôi, tôi cặp xà lan nước đã giao hàng xong, kéo về lại cảng Sàigòn. Nhưng khi tàu sắp quanh vào khúc đèn xanh đỏ của sông Sàigòn, thì tôi thấy người trôi nổi lặn hụp bơi ngửa, bơ xấp đủ kiểu hết. Họ có áo phao bằng styro foam hoặc bằng túi hơi như loại hàng không phát cho hành khách. Cũng có người ôm bẹ dừa nước thả ngửa trên sông.

Tôi co giảm vận tốc tàu lại và yêu cầu anh em thuỷ thủ ở tàu kéo cũng như xà lan thả các thang dây trên tàu và xà lan xuống tận mé nước đồng thời lấy các phao tròn cột dây vào quăng ra cho họ bám vào để kéo họ lên các thang dây của tàu và xà lan.

Lúc bấy giờ là nước ròng chảy ra biển, và ngay chỗ này là mối tiếp giáp giữa 3 con sông Nhà Bè, Sàigòn và Đồng Nai nên mực nước luôn chảy nghịch lẫn nhau tạo thành dòng nước xoáy. Tôi sợ nạn nhân có thể bị lót lườn tàu và xà lan, vướng vào chân vịt, nếu họ luýnh quýnh và không hiểu biết. Vì vậy tôi chỉ để số vòng quay của chân vịt đủ mức cho tàu đứng yên một chỗ để đón cứu họ.

Lúc bấy giờ các ghe đóng đáy giàn xây (dòng xoay) tại ngã ba của ba con sông cũng túa ra cứu giúp họ. Khi đó, trên tàu và xà lan của chúng tôi đã cứu được 18 người. Bỗng phía bên sông Nhà Bè (Rạch Bảy) có nhiều tiếng súng nổ chát chúa và canô công an VC tuần tra trên sông từ hướng nhà máy dầu Navioil cũng như trên Cát Lái chạy đổ xuống, xuôi theo dòng chảy, chúng bắn vào nạn nhân bơi trên sông không một chút thương tiếc, và đuổi theo bắn tận nhà máy Silico gần đến vàm sông Phú Xuân, nơi có căn cứ của bộ đội biên phòng đóng giữ.

Riêng tàu của chúng tôi bị một tầu tuần tiễu có khoảng 6 công an nhảy lên bắt những nạn nhân này trói lại bằng dây ở những chiếc phao họ mang trên người, rồi đẩy họ té xuống tàu tuần cảnh, thấp hơn mặt boong xà lan ít nhất 2 mét. Khi không còn chỗ chứa các nạn nhân, chúng xô họ trở lại dòng sông lúc đó đang chảy xiết. Tôi la lên cản ngăn chúng, nhưng chúng bắt tôi vào trong phòng lái tàu và yêu cầu tôi chạy về cầu bến phá Cát Lái. Trên đoạn đường không đầy 2 cây số này tôi thấy vô số các túi sách may bằng nhựa simili và giỏ đệm trôi bồng bềnh trên mặt nước. Chúng ra lệnh cho tàu chạy chậm lại và dùng vợt chúng tôi thường dùng để vớt lon nhôm thực phẩm hoặc thức uống của tàu ngoại quốc thường vứt bỏ trôi nổi trên sông Sàigòn, để vớt những chiếc giỏ căng phồng này. Chúng tranh nhau mở ra lục lọi lấy vàng, đô la, đồng hồ… rồi chia chác nhau ngay tại chỗ.

Vì phải chạy chậm để tụi công an vớt những chiếc giỏ trên mặt sông nên 2 giờ sau, tàu chúng tôi mới cặp được bến phà Cát Lái trong khi đoạn đường không đến 2 cây số mà vận tốc bình thường của tầu tôi là 16 hải lý giờ (khoảng 25 cây số giờ).

Khi tàu vừa cập bến, tụi công an bắt chúng tôi lên bờ, lục soát trên tàu, xà lan và khám xét thân thể của chúng tôi. Đến khoảng 10 giờ tối thì tên đại tá công an trưởng phòng cứu hỏa đến hỏi chúng tôi có thấy điều gì hay không, có muốn khiếu nại gì không? Chúng tôi dư hiểu chúng muốn gì, nên ai cũng phải lắc đầu, “thưa không nghe, không thấy, không biết cũng như không khiếu nại điều gì”. Chúng tôi chỉ xin chúng báo cáo về đội an ninh bảo vệ của bến cảng Sàigòn là tàu chúng tôi bị vướng lưới nên phải lặn gỡ, vì vậy về trễ. Chúng bằng lòng gọi phôn giúp cho việc ấy. Khi chúng tôi được thả trở lại tàu, trên bến phá, tụi công an đã cho lập vòng rào an ninh cấm tất cả nhân dân cùng những người không có trách nhiệm lui tới khu vực ấy. Vòng đai này được kéo bằng kẽm concertina, phía trong ở giữa bến phá chúng dùng nhưng manh cót quây tròn lại, che kín những xác người nằm ngổn ngang ít nhất là 150 người. Những xác người được xếp dài khaỏng 30 mét nằm kế bên nhau như cá trong hộp thành 3 hàng. Còn các túi hành lý được chất ngay lên xe truck cuả công an mà loại này trước năm 1975 dùng để tịch thu báo chí khi báo chí có nội dung xuyên tạc vu khống chính phủ VNCH, để làm lợi cho cộng sản.

Sau đó hai ngày, đội thủy của cảng Sàigòn được lệnh điều động tàu của chúng tôi kéo cần cẩu 100 tấn (có sức mạnh kéo nổi 100 tấn). Cần cẩu này nguyên là của quân vận Mỹ bàn giao lại cho chính phủ VNCH, và sau chuyển lại cho cảng Sàigòn xử dụng. Chúng tôi kéo cần cẩu nổi này ra đến Cát Lái khoảng 10 giờ sáng và người nhái công an (Bắc Kỳ) lặn xuống choàng dây cáp 16 mm qua tàu Chi Mai để cho cần cẩu trục lên.

Nhưng không biết loay hoay như thế nào đó họ làm mãi không xong, và phải xin toán người nhái của cảng Sàigòn đến giúp đỡ. Toán người nhái ốm đói này vốn là những công nhân trên 45 tuổi trước 1975 thuộc Ty Cảng Vụ cảng Sàigòn, có nhiệm vụ lặn kiểm tra các đế phao neo (con rùa) trên sông Sàigòn, cùng như kiểm tra chân đế cầu tàu trong cảng Sàigòn. Nhờ toán người nhái của Sàigòn trước 1975 , công việc trôi chảy, tôi nổ máy đẩy cần cẩu nổi ra xa, để neo căng cả 4 phiá và kéo tàu Chi Mai lên….

Khi dây cáp được kéo lên chưa được 3 mét, từ dưới mặt nước nổi vọt lên những xác người như nhưng trái ngư lôi vừa thoát khỏi bệ phóng. Máu từ mũi tai cuả họ trào ra trông thật thảm khốc. Chú hai Giỏi, cần cẩu trưởng, người to như cảnh sát motor cycle của Mỹ, cũng phải rụng rời tay chân không thể tiếp tục giữ cần LIFT và dừng tay lại ngay vị trí này. Bọn công an trên cầu phà bụm tay lại làm loa ra lệnh kéo tiếp nên anh Sanh phải nhảy lên phòng điều khiển thay thế chu hai Giỏi…

Dây được kéo lên từ từ thật chậm từng tấc cáp mỗi lần chuyển dịch, xác người tiếp tục vọt nổi lên, Tôi không nhớ rõ lắm vì cảm giác đã chết cứng tê dại, mắt mở nhưng hình như không còn biết gì cả. Vì đấy là xác người vô tội bị VC xua đuổi, hoặc lừa đảo, nên họ phải trốn ra nước ngoài. Họ là những người giàu có, có nhà cửa khang trang, cơ sở máy móc sản xuất, mà bọn công sản Bắc Kỳ xâm lược đang thèm thuồng muốn chiếm lấy làm cuả riêng, nên đã lừa họ mang của cải xuống tàu rồi tìm cách giết họ để chiếm đoạt của cải.

Khi tàu nhô cột cờ lên khỏi mặt nước, một thảm cảnh mà suốt 16 năm sống xuôi ngược trên các dòng sông cuả VN, bờ duyên hải VN và Philippines tôi chưa bao giờ trông thấy cảnh tượng như thế. Qúy vị à! Một phụ nữ tay ôm chặt đứa bé gái khoảng một tuổi đã sình chương cuộn tròn như một quày dừa non. Chiếc áo Badesuite bằng thứ vải nylon dầy chắc vướng vào các móc dùng để móc cờ hiệu của tàu hoặc tín hiệu. Trên mặt của nạn nhân bị tôm cá rỉa mất gần hết một bên mặt….

Tàu Chi Mai tiếp tục được kéo lên, trên mặt boong không còn gì tồn đọng. Trong cabin lái, xác hai cô gái trẻ ôm nhau chết cứng. Tàu Chi Mai tiếp tục được đưa lên cao, nước tràn ra từ các lỗ Abblouse (lỗ có kính tròn để cho thuỷ thủ có thể quan sát bên ngoài hay mở ra để nhận lấy gió khi những ngày biển êm gió lặng). Nước chảy tràn ra cho thấy bên trong, xác người dằn xẹp xuống như cá được đóng vào hộp vậy….

Cuối cùng tàu Chi Mai được đặt trên boong cần cẩu 100 tấn, sau khi các kè được chêm chặt hai bên hông tàu Chi Mai. Chúng tôi thấy bên hông phía tay phải của tàu Chi Mai có một lỗ thủng to hình dạng tròn méo mó phần phía trước của lổ thủng bị tét ép vào phía trong thân tàu chứng tỏ khối thuốc nổ được đặt từ bên ngoài. Xác người bên trong chắc phải còn đủ cả vì lỗ thủng này, xác người không thể trôi ra được, vì tàu bị chìm nghiêng về phía này, bùn non và đất sét còn bám chặt cả một bên thân tàu.

Xác nguời được đưa ra khỏi tàu Chi Mai đưa lên bến phà Cát Lái lập tức các túi hành lý bị tụi công an VC tịch thu đem lên xe cây ngay lập tức, không có thân nhân hay bất cứ ai léo hánh ở khu vực này. Chỉ huy bốc dỡ các tử thi này là Đại tá VC Đinh Mười, truởng phòng cảnh sát phòng cháy chửa cháy thành phố Sàigòn; và một tên đại tá khác của phòng cảnh sát trên sông. Lúc bấy giờ bí thư thành uỷ là Võ Văn Kiệt.

Tổng cộng xác chết được đem ra là 426 xác cả nam lẫn nữ. Tôi đã không dám ăn thịt cá tôm cua hơn nửa năm trời mặc dù lúc bấy giờ công nhân kỹ thuật thuộc tổng cục đường biển như tôi mỗi tháng chỉ mua được 2 kí thịt heo cho nhu yếu phẩm mà thôi.

Thằng Lương Văn Út tài công chiếc tàu Chi Mai còn sống nhăn răng tại Sài Gòn. Sau vụ nổ tàu Chi Mai, Cộng Sản không có cách gì che giấu được, vì hơn 170 hành khách nhà nghèo loại đóng 5 cây vàng cho một đầu người, phải chịu cảnh đứng ngồi như cá hộp. Họ hiểu đi tàu trong hoàn cảnh đó sẽ bị ướt lạnh khi trời mưa giông, vì cả hai thứ nước mưa và nước sóng biển.

Họ chắc chắn hiểu được thân phận, và những rủi ro có thể mang đến cho họ khi bị say sóng, hoặc sóng to chụp phủ lên tàu có thể cuốn họ xuống biển, nên họ chịu rất nhiều tổn phí để kiếm mua phao vì thời ấy của đó là hàng quốc cấm, không có chợ nào được bày bán cả. Ngay cả như tôi, thuyền trưởng tàu kéo cấp ba (có công suất trên 1200 mã lực) là loại chỉ đếm trên đầu ngón tay vào năm 1989, vẫn không có áo phao cho cá nhân của mình nửa đó. Chỉ cấp loại xốp bình cà rem (Styro foam) nhét vào áo khỉ (monkey vest) như áo bộ đội mang băng đạn AK vậy, nhưng vẫn phải ghi tên và chức vụ bằng nước sơn đỏ, và điều này phòng vật tư của Công Ty làm sẵn phát cho tàu, nếu bị mất phải làm báo cáo và kiểm điểm như mất súng vậy.

Chính các phao này đã giúp cho hầu hết những nguời trên boong này thóat ra khỏi tàu Chi Mai ngay lúc nó nghiêng chìm. Chỉ có những người thông thuộc với sông nước nên ỷ lại không mặc vào, có thể bị chết, hoặc thoát, hay tù sau vụ chìm này. Điều tôi nói đây có kiểm chứng, vì 4 ngày sau đó, những xác chết trôi nổi trên sông Nhà Bè, Phú Xuân, Soài Rạp, Lòng Tàu, cũng như trôi dạt vào những miệng đáy đóng trên sông để bắt tôm cá. Người dân đã báo cho chính quyền đem đi mai táng hoặc trả xác lại cho thân nhân.

Còn cảnh công an VC bắn vào người vượt biên hôm đó, chính mắt những người đóng đáy thấy, thủy thủ tàu CSG 92 và xà lan 64 thấy, công nhân nhà máy Vavioil và những cư dân trên bờ sông nhà bè phía đèn xanh đều thấy hết. Chưa hết đâu! Những người đi “đăng ký”, tập trung tại bến xe Văn Thánh ngoài ngã ba Hàng Xanh để cho xe bus đưa vào bên phà Cát Lái, nhưng còn hai xe bus chót chưa vào tới bến phà Cát Lái thì mìn đã nổ. Không biết rằng vì xe bus đến chậm hay thằng công an tay nghề quá zỏm, gài kim định giờ không chính xác?! Điều này từng xảy ra trong thời chiến qua các vụ đặc công VC đánh các cầu Bình Triệu, Bình Lợi, Tân Cảng… Đặc công VC ôm mìn lội ven sông để gài giật xập cầu, nhưng lội chưa tới nơi thì mìn phát nổ. Báo chí phổ biến tin tức, lính địa phương quân giữ cầu đều biết chuyện này!

Việt Cộng sản bắn chết người thường dân vô tội đâu có phải là điều hiếm hoi ở trong thời chiến cũng như thời bình. Hơn nữa VC đã dán bản cáo trạng khắp hai miền đất nước rằng “VƯỢT BIÊN LÀ PHẢN QUỐC”. Vì vậy chúng sợ ai không dám bắn?! Hơn nữa VC bắn để cướp của, vì người bị chúng bắn là thành phần tư bản, bị VC ghép vào tội phản quốc bóc lột.

Còn 2 chiếc xe bus chở người vượt biên đến sau, khi thấy tàu Chi Mai bị phát nổ, bọn công an liền ra lệnh cho quay đầu lên hướng nhà tù Thủ Đức tạm trú qua đêm và sáng hôm sau chở thẳng lên Bù Đóp nhốt cho đến gần 4 tháng. Sau đó, chúng đưa xuống cù lao Rồng ở Mỹ Tho cho đi bán chính thức, với điều kiện thêm 3 cây một đầu người.

Ngoài ra, còn vụ cho chìm tàu khách Vũng Tàu tại ngã ba Thiềng Liềng năm 1979 để cướp tiền cướp của nữa. Vụ này VC bán bãi xong, trở giọng lật lọng bắt khách ra đi đa số là Bắc di cư năm 1954 và giáo dân ở giáo xứ Tân Định, Bà Chiểu, trong đó có con của nhạc sĩ Lê Văn Thiện, hòa âm cho ban nhạc Shootgun của ca sĩ Thanh Thuý.

Thuyền Trưởng Tàu CSG-92″

https://baomai.blogspot.ca/…/csvn-anh-chim-tau-chi-mai-e-cu…

Sân bay Hàng không “Tân Sơn Nhất” ở Việt Nam được xếp vào hạng “Trộm Cắp Nhất” thế giới.

Đến thằng em Kampuchia cũng biết sắp hạng để tán dương thằng anh VN lên hàng đỉnh cao khốn nạn!!!
*****************

Sân bay Hàng không “Tân Sơn Nhất” ở Việt Nam được xếp vào hạng “Trộm Cắp Nhất” thế giới.

Sân bay Hàng không “Tân Sơn Nhất” ở Việt Nam bị liệt vào 10 sân bay tệ nhất tại Châu Á và là một sân bay “Tệ Nhất” và được xếp vào hạng “Trộm Cắp Nhất” thế giới.

Theo trang web Sleeping In Airport đã được công bố gần đây là Sân bay Hàng không “Tân Sơn Nhất” ở thành phố Prey Nokor, Lãnh thỗ Kampuchea Krom nay là tp Hồ Chi Minh, Miền Nam –

50 NĂM CUỘC THẢM SÁT MẬU THÂN (1968-2018)

Trần Bang shared Lm. Lê Ngọc Thanh‘s post.

Sự kiện lịch sử đau thương Huế, VN cách đây 50 năm, đó là Thảm sát xuân Mậu Thân 1968 được viết bởi Lm Phan Văn Lợi, một người sinh sống tại Huế đã từng đối diện với sự kiện kinh hoàng đó.

 
Image may contain: 2 people, people sitting and crowd

Lm. Lê Ngọc ThanhFollow

50 NĂM CUỘC THẢM SÁT MẬU THÂN (1968-2018)

[Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi]

Toàn thể dân Việt đang bước vào thời điểm tưởng niệm 50 năm biến cố Tết Mậu Thân (1968-2018). Đây là sự kiện thuộc hạng đáng ghi nhớ nhất trong Việt sử vì nhiều mối liên hệ: ý nghĩa thiêng liêng của ngày Tết dân tộc, cuộc tấn công của Cộng sản VN bất chấp tuyên bố hưu chiến, sự thất bại thảm hại của cuộc tổng tấn công về mặt quân sự và chính trị, tội ác đã gây ra cho chính Đồng bào Việt Nam, thái độ cố chấp của Cộng sản không nhìn nhận sai phạm của họ, dù đã nửa thế kỷ.

1- Trước hết, xin nhắc lại những thời điểm then chốt: Ngày 19-10-1967, nhà cầm quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố: vào dịp Tết Mậu Thân, miền Bắc Việt Nam tự nguyện ngưng bắn từ 27-01 đến 03-02-1968 (tức 28 tháng Chạp đến 05 tháng Giêng Mậu Thân, 8 ngày). Ngày 17-11-1967, tới lượt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam –tổ chức chính trị mà trên danh nghĩa điều hành và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động “giải phóng miền Nam” nhưng thực chất chỉ là công cụ của Hà Nội– long trọng đưa ra tuyên bố tương tự.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dè dặt hơn nên mãi đến ngày 16-12-1967 mới tuyên bố cũng tự nguyện ngừng bắn từ 30-01 đến 01-02-1968 (3 ngày, mồng 1 đến mồng 3 Tết Mậu Thân). Sau tuyên bố vừa kể, đa phần quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa được nghỉ phép ăn Tết, lệnh giới nghiêm trên toàn miền Nam được bãi bỏ…

Thế nhưng đêm 29 rạng ngày 30-01-1968 –đúng thời điểm Giao thừa âm lịch– nhiều đơn vị quân đội và du kích Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lẫn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam các tỉnh từ Quảng Nam đến Khánh Hoà đồng loạt nổ súng, mở đầu cái gọi là cuộc “Tổng công kích–Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968”; ở các chiến trường còn lại –do hiểu khác– đã khởi chiến đúng vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức đêm 1 tết theo lịch miền Nam). Và chỉ trong vòng 2 ngày, chúng đã tiến vào 41 thành phố, thị xã, 72 quận lỵ, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế, nghĩa là đánh vào các khu dân cư. Cả miền Nam, từ chính quyền đến dân chúng đều choáng váng trước kiểu “tự nguyện ngừng bắn” này của Việt cộng.

Choáng váng là phải, vì Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay đều xem Tết có một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Bởi lẽ đó không những là thời điểm năm cũ chuyển sang năm mới theo định luật của trời đất, nhưng quan trọng hơn, trong văn hóa dân tộc, đó là thời gian dành cho đoàn tụ gia đình, yêu thương hòa giải, cầu mong an lành cho nhau và hy vọng tương lai tốt đẹp. Đó là lúc người ta đốt nén hương dâng lên tổ tiên và những người đã khuất trong niềm tưởng nhớ các kỷ niệm và lời giáo huấn; đó là lúc cha mẹ con cái sum vầy trong tinh thần xí xóa chuyện cũ, sống giây phút hiện tại cách đầm ấm, bên những thức ăn ngon lành và ý nghĩa hay qua những trò vui mang bản sắc văn hóa dân tộc; đó là lúc mọi người cầu chúc cho nhau và hứa hẹn với nhau những điều tốt đẹp trong 365 ngày sắp tới. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và lịch sử bao cuộc chiến tranh trên đất nước, Việt cộng đã tung ra một cuộc tấn công những người cùng da vàng máu đỏ tại các khu vực cư dân đông đúc vào chính những giờ khắc linh thiêng nầy. Tiếng pháo đã chen lẫn tiếng súng! Rượu hồng đã hòa vào máu đỏ! Bánh tét đã trộn lẫn với thịt người !

2- Nhằm kỷ niệm 50 năm biến cố ấy, đảng và nhà nước VC đã làm lễ ăn mừng sáng ngày 31 tháng 01 tại Hội trường Thống nhất, thành Hồ, với chủ đề “Bản hùng ca Xuân Mậu Thân 1968”. Trước đó họ đã đồng loạt tổ chức “Hội thảo khoa học cấp quốc gia” với đề tài “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, và tung ra 2 bài viết ca tụng cái gọi là “chiến thắng” trong chiến dịch này của Chủ tịch nước VC Trần Đại Quang và của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.

Mục đích của Hội thảo được Thượng tướng VC Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, xác định: “Góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang (LLVT) và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Dĩ nhiên đó chỉ là tuyên truyền xuyên tạc và nhồi sọ!

Tại cuộc Hội thảo do Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy HCM phối hợp tổ chức ngày 29-12-2017 tại Sài Gòn, nơi có các mục tiêu quan trọng bị tấn công như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ và Đài Phát thanh Sàì Gòn, các diễn giả đã tận lực khoe khoang cho cái gọi là “giá trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ; khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch HCM; tái hiện diễn biến và những nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc tổng tiến công, trình độ chỉ huy, khả năng cơ động và phối hợp chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường miền Nam…”. Ngô Xuân Lịch thì huênh hoang nhận định: “Thắng lợi của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã khẳng định sự phát triển cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam; đặc biệt là nghệ thuật nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, nghệ thuật tiến công bằng các phương thức tác chiến mới giành thế bất ngờ…”. Không chỉ có thế, ông Lịch còn bịa thêm rằng: “Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây dựng LLVT ba thứ quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát triển lớn mạnh. Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam đã phát triển lên 278.000 người, được tổ chức thành 190 tiểu đoàn chiến đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là một trong những nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT nhân dân trong chiến tranh giải phóng dân tộc.”

Làm gì có cái gọi là “Lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam” do chính người miền Nam lập ra để hình thành “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”! Thật ra đa số trong đội ngũ này là của miền Bắc được đào tạo đưa vào Nam, phối hợp với 30 đến 40 ngàn bộ đội VC được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo điều kiện của Hiệp định Geneve 1954, rồi nhập chung với du kích miền Nam để cùng đội mũ tai mèo, đi chân đất, mặc quần xà lỏn, bận áo bà ba đen và tới đâu cũng khoe là “quân giải phóng”. Chính đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nòng cốt để Hà Nội thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam tay sai ngày 10-12-1960. Ngô Xuân Lịch cũng không ngần ngại cho rằng VC đã chiến thắng dòn dã ở Huế như sau: “Đặc biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của LLVT ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng”. Trong “Lễ kỷ niệm 50 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” do Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức với Sở Giáo dục hôm 15-11-2017, VC còn khoe khoang một cách trâng tráo lố bịch: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại Cần Thơ chủ yếu tập trung tại vị trí lịch sử Lộ Vòng Cung, kéo dài trong 3 đợt, từ ngày 30-01 đến ngày 30-09-1968, loại khỏi vòng chiến 25.000 tên địch, phá hủy 228 máy bay, cùng nhiều đồn bốt, súng các loại ?!?

3- Điều lạ là tất cả nội dung VC dành tung hô biến cố MT đã không có một chữ hay con số nào nói lên sự tổn thất lớn lao của bộ đội miền Bắc và quân du kích trong Nam. Nhưng người ta còn nhớ khi bộ phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968” (đầy dối trá vì phủ nhận việc thảm sát thường dân và các hố chôn người) được bắt đầu chiếu trên đài Truyền hình VN từ ngày 25-01-2013, nữ đạo diễn Lê Phong Lan đã cho biết lý do làm phim trễ: nhà cầm quyền VC coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhậy cảm” chẳng ai muốn nói đến. Đó là vì -Lê Phong Lan nói- “sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”. Trên thực tế, cả quân miền Bắc lẫn du kích miền Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo ước tính của các chuyên gia quân sự thì trong cuộc tấn công ấy, VC đã vận dụng từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế hoạch chống lại khỏang 1 triệu 200 ngàn quân VNCH và Hoa Kỳ, với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ. Tuy nhiên kế hoạch lớn lao của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khỏang từ 85,000 đến 100,000 quân VC bị loại khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của bên kia là trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích. Theo báo chí của VC tiết lộ vào năm 1998, nhân kỷ niệm 30 năm Mậu Thân, đã có trên 100,000 lính VC mất tích hay vong mạng. Ngoài ra, suốt thời gian biến cố Mậu Thân và đặc biệt tại thành phố Huế bị chiếm đóng lâu nhất, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như VC tuyên truyền từ trước cho bộ đội, và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ phía Quốc gia chạy sang phía Cộng sản. Hà Nội quả đã thất bại thê thảm về mặt quân sự lẫn chính trị. Chính một sĩ quan cao cấp VC, thiếu tướng Huỳnh Công Thân, “anh hùng các Lực lượng vũ trang nhân dân”, tỉnh đội trưởng Long An, tư lệnh Phân khu 3 khi diễn ra cuộc “Tổng công kích–Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân”, trong hồi ký “Ở chiến trường Long An” (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 1994) đã cho thấy ai thắng ai thua trong kế hoạch vừa điên rồ, vừa phi nhân đó. Còn “độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì chỉ cần đọc lại những lời tuyên bố của trung tướng VC Trần Văn Trà nhìn nhận Bộ chỉ huy Cộng sản đã tính tóan sai lầm trong vụ tấn công quân sự Mậu Thân. Nhà văn Phạm Đình Trọng, trong bài viết “Về Với Dân, phần 3: Khắc khoải xuân Mậu Thân 1968”, https://nhatbaovanhoa.com/…/tet-mau-than-1968-nhin-tu-mot-n… có kể rằng khi nghe nhà văn quân đội CS, đại tá Xuân Thiều trình bày: “Tôi thấy Tết Mậu Thân 68 ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều..”. Mới nghe có thế, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: “Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!…” rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn. Phần Chế Lan Viên, một thi nô của VC (nhưng sám hối cuối đời) với chỉ một câu thơ, đã nói lên nhiều ý nghĩa. Ông đã mở đầu bài thơ “Ai? Tôi?” viết năm 1987 như sau: “Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng. Chỉ một đêm, còn sống có 30. Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?”

4- Nhưng phải nói trách nhiệm lớn lao nhất của Việt cộng trước Dân tộc, trước Lịch sử chính là cuộc thảm sát thường dân tại Huế trong 25/26 ngày chúng chiếm được thành phố này. Ông Nguyễn Lý Tưởng, nhà sử học, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên, người đã sống vào thời điểm xảy ra biến cố Tết Mậu Thân ở Huế và các nơi khác cũng như từng tiếp xúc với một số nhân chứng của cả hai bên (Quốc gia lẫn VC hồi chánh), đã kể lại trong “Cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Vietnam Center (Lubbock, Texas, Hoa Kỳ) từ 13 đến 15-03-2008 như sau: “Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài… tất cả 23 địa điểm tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích… không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!

Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên). VC đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa… để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (03-02-1968)”

Về cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài, người viết đã có may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn sống của biến cố đó, đã phỏng vấn đương sự và đã ghi lại tường thuật của đương sự trong bài viết dài 6 trang A4: “Biến cố Mậu Thân-Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài” phổ biến tháng 11-2007, nhân kỷ niệm 40 năm cuộc thảm nạn này. (http://www.duocviet.org/…/bien-co-mau-than-cuoc-tham-sat-t…/). Những giáo dân Phủ Cam bị thảm sát trong vụ này (công chức, thanh niên, học sinh hiền lành) là nạn nhân vô tội của việc Cộng sản trả thù những chiến binh (lính chính quy và nghĩa quân VNCH) đã cầm súng bảo vệ giáo xứ suốt mấy ngày nhưng sau đó phải rút về Phú Bài vì không được tiếp viện.

Sự tàn ác vô nhân tính của VC trong cuộc thảm sát tại Huế đã được nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, chứng nhân biến cố, mô tả như sau trong bài thuyết trình dịp tưởng niệm 40 năm biến cố tổ chức tại Paris ngày 02-03-2008: “Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân – tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội – trước khi rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng minh… Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như : Cột chùm lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống”.

Ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Cải táng Nạn nhân CS Tết MT nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008 : “Các hố cách nhau. Mỗi hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”

Trong bài nói chuyện tại buổi Tưởng niệm 40 năm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery ngày 29-3-2008, nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” đã tố cáo: “Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, CS khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân -không hề có người lính Cộng hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Giòi bọ… Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn… Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống… Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế” (Việt Báo ngày 31-3-2008).

5- 50 năm đã trôi qua. Nhiều chứng nhân vẫn còn sống (trong đó có kẻ viết bài này), nhiều chứng tích vẫn tồn tại (chẳng hạn ngôi mộ tập thể chôn cất xương cốt của hơn 400 nạn nhân khe Đá Mài tại núi Ba Tầng [núi Bân], phía Nam thành phố Huế, nhưng trong tình trạng bị bỏ hoang phế với trụ bia và hai bàn thờ bị VC phá hủy ngay sau tháng 4-1975), vô số tài liệu đã được công bố rộng rãi trên mạng về cuộc thảm sát cách đây nửa thế kỷ. Thế nhưng đảng và nhà cầm quyền VC vẫn quyết tâm không thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho Dân tộc và Đồng bào trong những ngày xuân năm 1968, vẫn không giải oan cho các nạn nhân vô tội bị giết bằng cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng nhớ các nạn nhân này, vẫn tiếp tục trình bày biến cố Mậu Thân như một chiến thắng lừng lẫy.

Tâm địa tàn ác ngay cả với đồng bào và thói bất hối lỗi đó đã ăn sâu trong con người Cộng sản, nhất là giới lãnh đạo. Nó bắt nguồn từ Hồ Chí Minh, với bài viết “Địa chủ ác ghê” (1953), bản cáo trạng vu khống và tuyên án tử hình vô tiền khoáng hậu đối với ân nhân của đảng là bà Nguyễn Thị Năm, với việc để cho Trần Quốc Hoàn giết chết người tình đã có con với mình là Nguyễn Thị Xuân; rồi từ bộ Chính trị đảng thời đầu với cuộc Cải cách Ruộng đất giết trực tiếp lẫn gián tiếp nửa triệu nông dân miền Bắc, với cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa làm vong mạng gần 4 triệu đồng bào hai miền đất nước (chết vì đánh trận, chết vì ám sát thủ tiêu, chết vì mìn nổ trên đường, vì lựu đạn ném vào rạp hát, chợ búa, nhà hàng, vì đạn pháo kích vào trường học…). Tâm địa tàn ác và thói bất hối lỗi đó tiếp tục sau năm 1975 với việc tàn sát hơn 100 ngàn quân nhân cán chính VNCH trong các trại tập trung cải tạo, với việc đẩy hàng triệu Đồng bào ra biển khơi hay vào rừng thẳm để chạy trốn chế độ mà một nửa đã vong mạng, với việc gây ra nạn dân oan hàng chục triệu người nay sống dở chết dở, với việc giết oan hàng trăm công dân bị bắt bắt vào đồn, với việc thản nhiên tuyên những bản án tử hình cho nhiều người vô tội như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh và mới đây nhất là cho Đặng Văn Hiến, anh nông dân tự vệ giữ đất…. Chưa thấy Việt Cộng hối lỗi bao giờ trước các tội ác đó! Đó là chưa kể tội ác đẩy đất nước vào cơn lụn bại mọi mặt, dân chúng vào cảnh điêu linh cuộc sống, Tổ quốc vào nguy cơ xóa sổ vĩnh viễn vì Tàu cộng xâm lăng như hiện thời.

Bài viết này là một nén hương lòng tưởng nhớ hàng vạn oan hồn biến cố Mậu Thân, trong đó có 5 thầy dạy, 5 bạn học và nhiều thân nhân của người viết, cũng như tưởng nhớ oan hồn của hàng triệu đồng bào nạn nhân từ khi đảng VC xuất hiện (1930). Ngoài ra, đây cũng là lời kêu gọi đảng và nhà cầm quyền CSVN hãy biết thành tâm nhận lỗi trước nhân dân, coi như một bước đầu cho việc hòa giải hòa hợp Dân tộc thực sự. Thêm nữa, đây cũng là lời cảm tạ Thiên Chúa đã giữ cho tôi được sống đến ngày hôm nay để làm chứng nhân cho cuộc thảm sát và cho nhiều chuyện khác trong xã hội VN cộng sản. Bởi lẽ như đầu bài đã nói, nếu không vì hiểu khác mà VC tấn công Huế đêm giao thừa Mậu Thân thì ắt hẳn sáng ngày mồng 1 Tết tôi đã phải chạy lên trú ngụ tại nhà thờ Phủ Cam (để sau đó bỏ thây tại Khe Đá Mài), thay vì về làng quê Dương Sơn (cách Huế khoảng 8km) ăn tết và đã khỏi chung số phận với hơn 400 thanh niên hiền lành của giáo xứ Phủ Cam, nơi tôi đã và đang sống.

Huế ngày 04-02-2018
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi.

Nhiều ý kiến phản đối dành 1400 tỷ cho “Nghĩa trang cán bộ cấp cao”

Nhiều ý kiến phản đối dành 1400 tỷ cho “Nghĩa trang cán bộ cấp cao”

Thông tin về việc công bố dự án xây dựng Nghĩa trang Yên Trung, huyện Thạch Thất cho cán bộ cấp cao của UBND Hà Nội và Bộ Xây dựng vấp phải nhiều ý kiến chỉ trích từ dư luận.

Nhà văn Võ Văn Tạo từ Nha Trang so sánh hình ảnh 4-5 bệnh nhi chen chúc nhau trên 1 giường bệnh với việc dành 35 m2/ 1 mộ phần ở nghĩa trang dự định xây.

Tài khoản Facebook Van Anh Vo thì bình luận: “Đất nước còn nghèo , người dân còn nhiều khốn khố đồng nghĩa với việc anh chưa hoàn thành trọng trách với dân với nước. Cán bộ càng cao càng cần có chút lòng tự trọng, dù là ít ỏi. Ham hố gì, vinh quang gì cái mồ to mả đẹp mà để cho dân chửi dân khinh!”

Nhà hoạt động xã hội dân sự – Tiến sĩ Nguyễn Quang A thì kêu gọi dừng ngay dự án này “Nợ như chúa chổm còn vẽ ra chuyện này thì bảo dân ai tin các vị vì dân? Chả có thế lực nào phá các vị cả, chính các vị đó!

Hãy hoả thiêu và rải tro xuống đất để không còn vết tích cho đời sau nguyền rủa, mả to rồi cũng như mả LĐT thôi, đơn giản vậy mà không hiểu à?”

Tài khoản Facebook có 40 ngàn người theo dõi được cho là của nhà báo Nguyễn Công Khế thì cho rằng “Hà Nội không nên tiến hành xây dựng một nghĩa trang dành cho cán bộ cao cấp tới 1400 tỷ” vì:

“Làm như vậy là có sự phân biệt giữa những người làm quan chức lớn và quan chức nhỏ, giữa quan chức với người dân thường khi nằm xuống.

Hãy tạo ra một thế giới bên kia bình đẳng và không phân biệt giai cấp, để cho thế giới đó được bình yên hơn những ngày ta đang sống tạm ở trên cuộc đời này vậy. Không nên làm một động thái gây phản cảm như vậy . Hãy để tiền ấy sử dụng vào việc khác hữu ích hơn cho dân.

Bao nhiêu người lính ngã xuống cũng nằm lại ở nghĩa trang Trường Sơn giản dị, nơi mà ông Tướng Đồng Sĩ Nguyên cũng di chúc là sau khi ông chết cũng muốn đến nằm ở đó.
Tôi nghĩ là các anh nên dừng lại dự án đó. Những người bà con lớn tuổi của dòng họ tôi đều dặn dò con cháu, khi chết nhớ đem họ về quê an táng!

“Anh nằm xuống sau một lần vào viễn du, đứa con xa đã tìm về nhà”.Có gì quan trọng lắm đâu sau cái chết mà mang tiếng để đời. Phải không các anh, các chị, các bạn của tôi?”

Theo VnExpress, sáng 1-2, UBND TP Hà Nội phối hợp với Bộ Xây dựng tổ chức lễ công bố Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Nghĩa trang Yên Trung, huyện Thạch Thất, Hà Nội.

Theo Quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt, nghĩa trang Yên Trung sẽ phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước; các anh hùng, danh nhân của đất nước.

Tổng diện tích nghĩa trang là 120 ha, gồm khu an táng 72 ha và khu đệm cây xanh cảnh quan trên 47 ha. Nghĩa trang Yên Trung sẽ có 2.200 – 2.500 ngôi mộ; mỗi ngôi có khuôn viên 25 – 35m2. Khu vực cảnh quan có sức chứa 5.000 người.

Thời gian thực hiện dự án khoảng 36 tháng, trong đó, giai đoạn một xây dựng đường kết nối, khu dịch vụ, nghỉ lễ, khu tưởng niệm và an táng. Các khu còn lại sẽ được đầu tư khi có nhu cầu.

Nguồn vốn dự kiến hơn 1.400 tỷ đồng sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.

Image may contain: 4 people, people smiling
 

HÀNH ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN LÀ THỂ DIỆN CỦA QUỐC GIA

 Luân Lê‘s post.
 
Image may contain: 2 people, text
Luân LêFollow

 

HÀNH ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN LÀ THỂ DIỆN CỦA QUỐC GIA, NÊN NỖI NHỤC CỦA NGƯỜI KHÁC LÀ NỖI NHỤC CỦA CHÍNH MÌNH

“Mỗi người dân là một bộ mặt của quốc gia, nếu không thể coi tổ quốc là niềm tự hào và thiêng liêng trong tâm khảm, thì chúng ta sẽ luôn để sẵn sàng thực hiện hoặc bỏ mặc người khác gây nên những điều tồi tệ”.

Tại sao tôi lại nói điều có vẻ nghịch lý này ở đây và với mục đích gì? Tại sao người khác hành động mà lại mang nhục cho bản thân mình là thế nào? Tôi thì có liên quan gì đến anh, anh thì liên quan gì đến người khác mà lại nghiêm trọng như vậy? Và mỗi cá nhân phải tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình chứ lôi chuyện thể diện quốc gia vào đây là cớ ra làm sao?

Nếu ai đó đặt ra câu hỏi kiểu như thế là vì từ trước đến nay anh ta chỉ có quan tâm đến chén cơm và xó nhà của mình thôi chứ chẳng để tâm thứ gì khác. Thực là một đất nước bất hạnh nếu mà lại tồn tại lắm loại người kiểu như vậy.

Chúng ta thử đặt giả dụ thế này. Một người ở đất nước chúng ta ra nước ngoài làm ăn, với tâm lý chụp giựt, không trung thực lại hay tắt mắt. Rồi một ngày người này ăn cắp đồ của siêu thị và bị bắt. Xin xỏ chính quyền sở tại không được, hối lộ để chạy tội không xong, vì luật pháp nước họ nghiêm minh và rõ ràng, không có nể nang hay phụ thuộc gì vào vị thế gia cảnh, địa vị chính trí của người nào mà xét xử. Thế là bị xử phạt thật nặng và trục xuất về nước. Các bạn là người Việt Nam có thấy chút xấu hổ nào không về một hành vi của một người cùng tổ quốc mình như thế? Tôi nghĩ là người có lương tâm thì có đấy. Nhưng chúng ta thử tưởng tượng rằng, chúng ta cứ tặc lưỡi và mặc kệ mà tự nhủ là “chuyện người ta hơi đâu mà lo”, thế thì một ngày khác có tới vài người cũng lại ăn cắp, vài kẻ khác thì lại thực hiện hành vi dâm ô với trẻ em và bị trục xuất về nước, hoặc số khác thì làm ăn gian dối mà giao hàng không đúng hợp đồng nên bị tẩy chay và xua đuổi. Lúc này, tôi nghĩ không chỉ những cá nhân đó thiệt hại đâu, mà hình ảnh quốc gia của chúng ta cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì bị nước ngoài cảnh giác, đánh giá không tốt. Mà đã như thế là mất đi lợi thế để làm ăn, sẽ bị hủy bỏ các hợp đồng mới và cơ hội đầu tư giữa hai quốc gia, nhiều người dân của chúng ta sẽ không được họ tiếp nhận hoặc nếu có thì hạn chế mà còn bị soi xét rất kỹ lưỡng. Mà mỗi khi nước người ta nhắc về chúng ta là người ta cứ chỉ nói “người Việt Nam” đã trộm cắp hay gian manh thế nào thôi chứ người ta đâu có nhắc ông này hay bà kia một cách cụ thể.

Thế thì chúng ta có nhục nhã và có đúng là đất nước chúng ta phải gánh hậu quả dù đó là hành động đơn lẻ của cá nhân hay không?

Thế nên, làm sao mà mỗi công dân của Việt Nam phải luôn coi hành động của mình là thể diện của quốc gia, nỗi nhục của mỗi cá nhân là nỗi nhục của quốc gia. Ra nước ngoài mà nghe được người khác chửi rủa hay khinh bỉ, miệt thị hoặc xua đuổi đồng bào mình thì chúng ta có thấy hổ nhục không? Có đau đớn và cảm thấy bị xúc phạm như chính mình bị tạt một xô nước bẩn vào mặt không?

Cũng giống như một cái làng mà gồm hầu hết những kẻ sống trong đó là quen thói làm ăn gian dối, trộm cắp, thế thì lúc đi ra ngoài giao du, khi người ta biết là chúng xuất thân từ cái làng đó thì người ta sẽ dè bỉu và đề phòng bằng sự khinh miệt mà không ngại nói rằng, cái làng đó toàn thằng lưu manh, cứ cẩn thận và chớ có làm ăn hay giao du gì với chúng. Quả là tủi nhục và xót xa.

Mà cũng chẳng chừa ra được người ta sẽ cũng đánh giá là cái bộ máy quản lý của cái quốc gia đó quả là kém cỏi, không có hữu dụng hoặc quá mức tệ hại thì mới tạo ra và tồn tại những con người, công dân như thế, chứ một chính phủ mạnh và nghiêm minh thì bói đâu ra lắm kẻ lưu manh và phường trộm cướp như vậy.

Thế nên, để quốc gia cường thịnh và văn minh, để được tôn trọng thì mỗi công dân chúng ta phải là một người luôn mang tâm thế là hành động của mình là thể diện của quốc gia, cũng như vậy, nỗi nhục của mình sẽ trở thành nỗi nhục của quốc gia. Có như thế thì chúng ta mới có thể ngẩng đầu lên với bạn bè quốc tế về sự đàng hoàng và tử tế được.

Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN
——————————————
http://baonhatban.net/truyen-hinh-nhk-nhat-ban-lam-phong-s…/

Lạc quan… tâm thần!

 

Lạc quan… tâm thần!

Tạp ghi Huy Phương

Người Việt Nam “lạc quan” hay “ngây thơ” với những hình ảnh như thế này? Cảnh đường phố cứ mưa là ngập ở Sài Gòn. (Hình: Zing)

Mấy lúc sau này, đọc những tin tức về Việt Nam, nhất là những nghiên cứu, đánh giá về cuộc sống tại Việt Nam, chúng ta thường vấp phải sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên… như có những nghiên cứu cho rằng người Việt Nam hiện nay có cuộc sống hạnh phúc nhất, nhì trên thế giới. Và mới đây, người Việt Nam lại được xếp hạng đứng đầu thế giới, về những thay đổi cuộc sống trong nửa thế kỷ qua, nghĩa là Người Việt Nam hiện nay đang đứng đầu thế giới về sự lạc quan.

Khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew thực hiện với hơn 40 ngàn người tại 38 nước, cuối cùng đã xếp Việt Nam ở vị trí số một với 88% người Việt được phỏng vấn đã cho rằng cuộc sống hôm nay tốt đẹp hơn 50 năm trước. Pew là tổ chức phi chính phủ chuyên cung cấp thông tin về các vấn đề xã hội, ý kiến công chúng và các xu hướng nhân khẩu học đang định hình Hoa Kỳ và thế giới và là một chi nhánh của Tổ Chức The Pew Charitable Trusts của Hoa Kỳ.

Trung Tâm Nghiên Cứu Pew cũng vừa bị Việt Nam “ném đá” vì vừa công bố các số liệu cho rằng Việt Nam đang vi phạm tự do tôn giáo với mức độ nhảy vọt.

Có phải chăng vì thái độ chính trị và những đối nghịch trong quan điểm với đường lối chính phủ trong nước, được thấy rõ qua các phản ứng của quần chúng, các bản án đàn áp chính kiến vẫn xảy ra khắp nơi, chúng ta thấy những công trình nghiên cứu, thăm dò dư luận trên đời sống Việt Nam, có vẻ như không sát với thực tế. Đôi khi hóa ra một sự giả dối đầy trò cười, chỉ có mục đích dùng như một tài liệu tuyên truyền cho chế độ.

Lẽ cố nhiên lạc quan là điều tốt. Nếu nói theo một nhà văn Hoa Kỳ, bà Helen Keller: “lạc quan là niềm tin mang đến thành tựu. Bạn chẳng làm gì được nếu thiếu hy vọng và lòng tự tin.”

Người lạc quan là người luôn luôn nghĩ rằng ngày mai sẽ khá, sẽ tốt hơn hôm nay, nên chẳng có gì phải lo lắng, đó là người bằng lòng với số phận. Người Việt Nam chúng ta ngày hôm nay thật sự phải là những người như thế sao?

Cũng có định nghĩa cho rằng, người lạc quan không bao giờ lầm tưởng cuộc sống này là sự hoàn hảo, vì điều đó là không tưởng. Thay vì chờ đợi một ngày “hoàn hảo” nào đó để làm việc gì đó, họ sẽ sống tích cực trong ngày hôm nay, mà không hề tỏ ra một thái độ bất mãn. Họ khám phá thế giới với con mắt tò mò và nhiệt tình thơ trẻ.

Thử tưởng tượng buổi chiều đi làm về đường phố ngập nước, xe chết mất cả tiếng đồng hồ mới về tới nhà, nhưng những người Việt Nam hôm nay vẫn không cho chuyện đó là khó chịu, đó là chuyện nhà nước đang bận tâm và đang lo cho dân. Chính quyền tìm mọi cách moi tiền của dân qua mọi thứ gọi là phí, thuế, lộ phí và huy động nhân dân với nhà nước cùng làm, nghĩa là dân è cố ra vì thuế rồi, còn gặp cảnh không đóng tiền sửa đường, nhân viên xã không chịu ký giấy tờ.

Tuy vậy, chuyện lạc quan là có thật.

Trong nước thiên hạ quá lạc quan, giờ rảnh rỗi, ngoài chuyện cầm micro hát hò thì nhiều người chẳng biết làm gì khác?

Hãng tin VNExpress đang có loạt bài độc giả phàn nàn bị hàng xóm “tra tấn” bằng phong trào karaoke, họ thích hát và thích ép người khác phải nghe mình hát.

“Đối với dân văn phòng, buổi chiều, tan sở, ‘tăng một’ sẽ đi lai rai vài chai với đồng nghiệp. Nếu cao hứng, tăng hai sẽ kéo nhau đi hát karaoke… Những người khác sẽ hát hò thoải mái tại quán nhậu lề đường thông qua sự hỗ trợ cơ động của dàn karaoke kẹo kéo.”

Không lạc quan sao được? Một người vừa trở lại Việt Nam cho biết, Sài Gòn bây giờ hình như không ai nấu ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập khách ăn? Bao giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa phương ngồi ăn, phần đông là giới trẻ, và trung niên. Trên bàn đầy ắp thức ăn và bia, nước ngọt.

Trên những chương trình truyền hình, gameshow cũng khai thác chuyện hát, và những hài kịch rẻ tiền, kể cả tên tuổi những “danh hài” Việt kiều, với những show thời trang dị hợm, mà khả năng dàn dựng, y phục, nói năng, tưởng không còn gì “hạ cấp” hơn. Tuy vậy người xem, phần lớn là tuổi đôi mươi, vẫn dễ dãi hài lòng bằng những nụ cười mở rộng, tâm đắc với những tràng pháo tay tán thưởng không ngừng, và diễn viên vẫn tiếp tục thành “siêu sao,” kiếm tiền dễ dàng.

Đó phải chăng là thái độ lạc quan ngây ngô, bất tận. Hàng trăm, hàng nghìn người, toàn là học sinh, sinh viên, trí thức, tương lai của đất nước, đang dễ dãi chạy theo những ngôi sao sân khấu cỡ Trường Giang và Trấn Thành ngoài đường phố và sẵn sàng “hôn ghế thần tượng,” thì chúng ta trông mong ở họ nỗi gì?

Mọi sự ngày nay đều dễ dãi, đơn giản như chuyện dẫn nhau vào “nhà nghỉ” hay buổi chiều ra “bãi nhậu” sau giờ làm việc.

Nếu kể từ ngày trong rừng ra, một cái “xắc cột” và một cái chén đôi đũa dắt bên lưng, thì hoàn cảnh ngày hôm nay quả là lạc quan. Ngoài những viên chức cấp cao như Ủy Viên Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng hiện đang nắm các chức Tướng Lãnh, Bí Thư Tỉnh Ủy, Bộ Trưởng, Thứ Trưởng, cán bộ trung cấp ngày nay là cán bộ đảng viên thì có lương bổng, có quyền lực. Chúng ta cũng hiểu rằng tầng lớp này hầu hết là những người xuất thân từ nghèo khổ, “đi làm cách mạng,” ngày nay là những người một bước lên xe, có biệt thự, nhà lầu, có đặc quyền và có cơ hội tham ô. Thành phần tiếp theo là công chức giáo viên, quân đội công an, tuy lương mỗi tháng cỡ vài trăm, nhưng trong các địa hạt như thuế vụ, quan thuế, công thương, y tế, ngân hàng, tư pháp… nếu không nói là trong tất cả các cơ chế, họ lại có những tròng tréo, móc ngoặc chia chác, nếu chúng ta chỉ tính trên đồng lương tháng mang về thì chưa đủ. Trong rất nhiều cơ quan XHCN ngày nay, rất nhiều viên chức lương ít mà lộc nhiều, lương một mà bổng mười.

Một phần ba công nhân ngày nay xuất thân từ nông dân đã bỏ ruộng đồng lên tỉnh. So với đời sống sống ngày trước, người công nhân thấy đời sống của họ đỡ vất vả hơn.

Tất cả thành phần dân chúng Việt Nam và tất cả họ hàng bên thắng cuộc, khởi đi từ chén bắp bo bo, cái tem phiếu, ở nhà tập thể, miếng thịt con cá phải xếp hàng, so với đời sống hôm nay, với tiện nghi điện thoại, chiếc xe, áo quần bảnh bao với nhà cao cửa rộng, ăn nhậu linh đình& thì lạc quan là phải.

Đó là những con người đã bị bóp cổ không thở được, ngày nay thấy dễ thở, so sánh để lạc quan là lẽ đương nhiên. Tất cả lạc quan vì đời sống của họ đã khá hơn thời ông cha họ, được hưởng thụ đời sống vật chất như nhà cửa, ăn nhậu, phương tiện di chuyển. Và những người đi từ thiếu thốn, nghèo khó, chỉ mong nhu cầu vật chất, khi đầy đủ vật chất rồi họ không còn thấy bận tậm gì bữa. Đó là một xã hội đầy hưởng thụ, đi đến chỗ đạo đức băng hoại.

Mỗi năm, Việt Nam có từ 250,000-300,000 ca nạo phá thai được ghi nhận chính thức, còn thực tế chưa thể thống kê được và hiện đang đứng đầu Châu Á về tỉ lệ nạo phá thai.

Báo chí Việt Nam ghi nhận, cùng với việc phát triển kinh tế, nhà nhà quần quật, người người lo làm ăn, cả nước thi đua làm giàu, trong khi nạn cướp giật càng ngày càng gia tăng.

Về mặt y tế, tình trạng sức khỏe của Việt Nam không đáng lạc quan: khoảng 44% dân số Việt Nam mang vi khuẩn lao trong cơ thể. Trong số này, ước lượng 126,000 người mắc bệnh lao mỗi năm, theo một phúc trình mới được đưa ra hôm 13 Tháng Mười Hai, 2017.

Trong khi đó, Việt Nam bị xếp hạng thứ 78/172 quốc gia có tỉ lệ mắc ung thư cao. Theo thống kê của dự án phòng chống ung thư quốc gia, mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 70,000 người chết và hơn 200,000 nghìn người mới nhiễm bệnh.

Theo nghiên cứu của Bộ Y Tế, 15% dân số Việt Nam tương đương 14 triệu người mắc các bệnh về rối loạn tâm thần, trong đó khoảng 3 triệu người rối loạn tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, sa sút trí tuệ, chậm phát triển và con số này vẫn không ngừng tăng. Chủ yếu do làm việc quá sức, áp lực công việc lớn, căng thẳng, khủng hoảng tiền bạc, dùng nhiều rượu bia, cách biệt giàu nghèo, ly hôn, thất nghiệp…

Vậy loại lạc quan này phải chăng là lạc quan… tâm thần!

Người Việt Nam được xếp hạng “lạc quan nhất thế giới,” nhưng trong khi dân số chúng ta có 94,970,597 người, thì mỗi năm có tới 1 triệu thanh thiếu niên chết vì tự tử, như vậy trong 100 người Việt Nam thì có một người thiếu lạc quan. Đáng tiếc là theo thống kê, số người tự tử là “thanh thiếu niên,” sinh viên, học sinh, đặc biệt trong giai đoạn thi lên lớp và thi đại học, trong đó có những vụ tự tử tập thể. Đây không còn là một chuyện nhỏ mà cả một vấn đề lớn của dân tộc.

Và câu hỏi là vì sao trong khi cả nước an tâm, hồ hởi, lạc quan như vậy, mà vẫn còn người vượt biển ra đi hay mong chuyện đổi đời bằng cách đi làm thuê, ở mướn, hay bán trinh tiết và tuổi xuân xanh, phó mặc cho số mệnh và cuộc đời đưa đẩy? (Huy Phương)

Bệnh viện Ung bướu TP.HCM: Bệnh nhân chen nhau dưới gầm giường, bác sĩ phải ngồi xuống tiêm

Dien Hong Tran shared a link.
 
 
Người bệnh chen nhau dưới gầm giường, nằm la liệt dọc các lối đi, hành lang, ghế đá là tình trạng quá tải trầm trọng đang diễn ra tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM.
BAOMOI.COM
 

Biết rồi mà sao cứ đem ra so sánh hoài !

Son Dang

Biết rồi mà sao cứ đem ra so sánh hoài !
——————

Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22).

TTO – Theo báo cáo “Chỉ số tự do kinh tế 2018”, đặc khu hành chính Hong Kong (Trung Quốc) tiếp tục giữ danh hiệu “nền kinh tế tự do nhất thế giới”. Bí…   

CẬP NHẤT MỚI NHẤT XOAY QUANH VẤN ĐỀ

 
Image may contain: 3 people, people sitting and indoor
Phạm Khánh Hiền

 

CẬP NHẤT MỚI NHẤT XOAY QUANH VẤN ĐỀ 

Đau Lòng : ‘Giá như đưa phong bì thì có lẽ Xuân sẽ không chết’

Đó là lời khẳng định của người nhà sản phụ Xuân bị tử vong bất thường ở bệnh viện đa khoa huyện Thiệu Hóa.

Vài ngày sau khi xảy ra sự việc sản phụ Nguyễn Thị Xuân (SN 1973, trú thôn Mật Thôn, xã Thiệu Phúc, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa) và thai nhi tử vong trước giờ sinh tại Bệnh viện Đa khoa huyện Thiệu Hóa, dư luận vẫn còn ồn ào. Bỗng chốc, trong ngôi nhà lụp xụp, chưa đầy 10m2 nghèo xơ xác phải đặt hai bàn thờ mẹ con chị Xuân trước sự đau đớn bất lực của những người ở lại.

Anh Nguyễn Văn Đông (42 tuổi, chồng sản phụ Xuân) nén đau thương, anh kể, sau khi trở dạ, chị Xuân được anh và 2 người thân đưa đến bệnh viện chờ sinh. Chị Xuân được các bác sĩ trực tiến hành cho nhập viện sau đó vài tiếng. Đến khoảng hơn 3 giờ sáng ngày 18/10, chị Xuân bắt đầu có biểu hiện đau dữ dội. Khoảng 30 phút sau, thấy chị Xuân hôn mê, bà Hoa đã chạy sang phòng trực cầu cứu thì bị bác sĩ T (cán bộ trực) tỏ thái độ quát tháo và văng lời mắng nhiếc bà Hoa: “Đẻ là phải đau chứ, răng mà phải làm loạn lên gớm rứa”.

Bắt đầu từ gần 4 giờ sáng, các bác sĩ mới lần lượt đến thăm khám cho chị Xuân. “Dù mấy bác sĩ đó có đến nhưng toàn chắp tay sau người, trong khi cái Xuân vẫn đang phải vật vã trong cơn đau. Tôi hỏi các bác sĩ thì họ chẳng thèm đáp, còn quát tháo chúng tôi”, bà Hoa cho biết.

Đến gần 6 giờ sáng, sau khi nhận thấy sức khỏe chị Xuân nguy kiệt, ê kíp trực mới tiến hành thăm khám và mổ. “Lúc đó thì sức khỏe cái Xuân đã yếu lắm rồi nhưng dù sao được mổ còn hơn là nhìn thấy nó vật vã trong đau đớn đến vậy”.

Đợi hàng tiếng đồng hồ, ca mổ kết thúc, các bác sĩ bước ra và đi thẳng ra ngoài, không thông báo kết quả cho người nhà chị Xuân. “Dù thấy chúng tôi đứng chầu chực hàng tiếng đồng hồ ngoài cửa ấy vậy mà khi mổ xong, bước ra ngoài các bác sĩ không thèm thốt lên một lời nào, thông báo kết quả mổ và động viên gia đình nếu có chuyện chẳng lành, mấy bác sĩ ấy cứ lẳng lặng đi, không nói lời nào”, bà Hoa nhớ lại.

Ngồi bên cạnh, anh Đông đỡ lời: “Nhà nghèo, ngày ngày lo chẳng đủ miếng ăn nên khi Xuân sinh chẳng có đồng nào trong túi. Xưa nay, vào viện sinh đẻ là phải có chút tiền phong bì bồi dưỡng cho cán bộ, lần này do không có nên tôi không đưa. Giá như tôi đưa phong bì cho họ thì có lẽ cái Xuân sẽ không chết…Sự thật thì có nói gì thì vợ con tôi đã chết rồi, chỉ mong sao công lý được thực thi, tìm hiểu rõ nguyên nhân để họ ra đi được thanh thản”

ai đi qua xin hãy để lại <3 là lời cầu nguyện cho chị
Nếu bạn mong muốn luật pháp sẽ trừng trị những người bác sĩ kia hy vọng hay chia sẻ bài viết này >.<

NGHĨA TRANG NGHÌN TỶ: CỦA X ĐẤY!

 
 
Image may contain: outdoor
Trương Duy NhấtFollow 

 

NGHĨA TRANG NGHÌN TỶ: CỦA X ĐẤY!

Thấy nhiều người “mắng” oan ông Phúc. Nghĩa trang 1.400 tỷ là dự án từ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Cái dở của ông Phúc và chính phủ hiện, là không dám xoá bỏ dự án mồ mả X khốn nạn này.

Khốn nạn hơn vạn lần khốn nạn ở chỗ: Nó qui hoạch cho cả vợ/chồng, khi chết cũng được vào đây, bất kể vợ/chồng họ là ai làm gì.

Nhiều người chưa chết, đã nghe thiên hạ đào mồ cuốc mả rồi.

Thêm một lần xin lỗi, như từng xin lỗi sau sự cố đoàn xe vào phố cổ, rồi xoá sổ, cho hoá… cứt cái dự án nghĩa trang X này- Tại sao không, thưa ông Phúc?
Cái sai từ triều Nguyễn Tấn Dũng, là của Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng ông Phúc là người có cơ hội để sửa chữa.

Lịch sử các triều Việt, đã quá nhiều phen đào mồ cuốc mả nhau rồi, thưa các vị!
__________________________
– http://truongduynhat.org/nghia-trang-nghin-ty-cua-x-day/

Hoàng đế mới của Trung Hoa

 

Hoàng đế mới của Trung Hoa

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: Chris Patten, “China’s New Emperor”, Project Syndicate, 25/10/2017.

Biên dịch: Nguyễn Lương Sỹ | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Một giai thoại về chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào năm 1972 từ lâu được xem như là sự chứng thực cho tầm nhìn dài hạn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về lịch sử. Chu Ân Lai, nhân vật số hai mẫn cán của Mao Trạch Đông, được cho là đã trả lời câu hỏi về các bài học của cuộc Cách mạng Pháp bằng cách nói rằng còn quá sớm để nói lên được điều gì. Nhưng thực tế, theo các nhà ngoại giao có mặt ở đó, Chu không tranh luận về cuộc cách mạng năm 1789, mà là về phong trào nổi dậy của sinh viên ở Paris năm 1968, do đó có lẽ đúng là vẫn còn quá sớm để có thể nói lên điều gì.

Sau sự hiểu lầm này, bài học từ cuộc Cách mạng Pháp đã trở lại với Trung Quốc. Ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 vào năm 2012, cuốn The Old Regime and the Revolution (Chế độ cũ và Cách mạng) của Alexis de Tocqueville viết năm 1856 đã trở thành cuốn sách “phải đọc” dành cho cán bộ cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Giá trị của cuốn sách được ca ngợi nhiệt tình nhất bởi Vương Kỳ Sơn, người chèo lái chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình và có lẽ là đồng minh thân cận nhất của chủ tịch Tập.

Toqueville lập luận rằng sự thịnh vượng ngày càng cao của nước Pháp thế kỷ 18 đã thực sự khiến cho việc quản lý đất nước này trở nên khó khăn hơn. Khi người dân trở nên giàu có, họ cũng đồng thời quan tâm nhiều hơn đến bất bình đẳng kinh tế và xã hội và do vậy sự bất bình đối với những người có quyền lực và giàu có ngày càng gia tăng. Những nỗ lực cải cách hệ thống chỉ làm nổi bật thêm tình trạng dễ tổn thương của chính nó. Cách mạng đã theo sau, quét sạch nền quân chủ và tầng lớp quý tộc. Đầu họ đã rơi.

Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 mới kết thúc của Trung Quốc đã cho thấy mức độ nằm lòng quan điểm của Toqueville trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Ông Tập đã khẳng định quyền lực không tranh cãi của mình đối với Đảng và quốc gia. Tập Cận Bình  củng cố vị thế của mình trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên, bằng cách đảo ngược phần lớn di sản để lại của Đặng Tiểu Bình, bao gồm việc mở cửa nền kinh tế, tách bạch Đảng ra khỏi chính quyền, và đường lối “giấu mình chờ thời” về chính sách đối ngoại và an ninh.

Tập cũng triệt tiêu các đối thủ tiềm tàng, chủ yếu dựa vào chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng nhắm đến các quan chức từng được xem là không thể đụng đến. Ông đã giám sát cuộc thanh trừng lớn nhất từ trước tới nay tại Ủy ban Trung ương Đảng. Ông thẳng tay đàn áp cả những chỉ trích và dấu hiệu bất đồng chính kiến dè dặt nhất, và thậm chí cấm truyện cười trên Internet, gồm cả những hình ảnh hài hước so sánh ông với chú gấu Winnie the Pooh.

Nếu ở một quốc gia khác, những phương thức như vậy có thể gây ra chỉ trích gay gắt, với những cáo buộc rằng hành vi của Tập đã đưa đất nước trở lại chế độ độc tài kiểu Leninist cũ kỹ. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, những phương thức này đã thu hút được những lời ca ngợi từ giới quan sát, những người tin rằng ông Tập đang dẫn dắt con đường hiện thực hóa “giấc mơ Trung Hoa” nhằm phục hưng đất nước.

Nhưng, đối với một vài người, giấc mơ đó đang trên bờ vực trở thành cơn ác mộc. Các xu hướng dân số đang đe dọa biến sự dư thừa lao động vốn mang lại tốc độ tăng trưởng cao cho Trung Quốc trong những thập niên vừa qua thành thiếu hụt lao động với tốc độ chưa từng có. Ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước, cùng với phát thải khí CO2 và mức độ ô nhiễm không khí gây chết người đang đe dọa sức khỏe người dân và hủy hoại sự bền vững của nền kinh tế Trung Quốc.

Ngoài ra, tăng trưởng GDP của Trung Quốc, mặc dù rất đáng hoan nghênh, lại đang được tiếp sức chủ yếu bởi sự kết hợp các khoản nợ đang tăng nhanh và bong bóng tài sản tràn lan. Thậm chí các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng thừa nhận rằng đất nước của họ đang có một trong những mức độ bất bình đẳng thu nhập lớn nhất trên thế giới. Khi mà người nghèo ngày càng nghèo đi, và người giàu mỗi lúc một giàu hơn, nhiều người đang đặt câu hỏi rằng liệu “chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc” thực sự nghĩa là gì.

Dĩ nhiên, luôn luôn có những người lạc quan mang lại những suy nghĩ tích cực. Phần lớn khoản nợ của Trung Quốc là nợ trong nước, bởi lẽ các ưu tiên chính trị đã định hướng việc vay mượn bên cạnh các cân nhắc về mặt thương mại. Trung Quốc ủng hộ các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Phần lớn người dân trở nên khá giả hơn, dù không đồng đều. Và chính quyền của Tập ít nhất cũng đang làm điều gì đó nhằm tiêu diệt tình trạng tham nhũng tràn lan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Chúng ta đều nên hy vọng rằng ít nhất cũng có một vài điều mà những người lạc quan về Trung Quốc nói là đúng; nếu sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sụp đổ, tất cả nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng.  Nhưng, ngay cả khi những người lạc quan đã đúng, thì tuyên bố của ông Tập rằng Trung Quốc đã tìm ra được con đường tốt hơn để vận hành một xã hội và nền kinh tế hiện đại dường như còn lâu mới đúng với thực tế.

Chắc chắn rằng, từ những trò hề ngớ ngẩn của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đến sự trỗi dậy đầy tàn phá của chủ nghĩa dân tộc dân túy ở châu Âu, các quốc gia dân chủ đang phải trải qua phần thử thách của mình. Nhưng các hệ thống dân chủ đều có các cơ chế ổn định hóa nội tại vốn cho phép chúng tự điều chỉnh mà không cần đến việc sử dụng bạo lực hay đàn áp.

Nhưng đó không phải là trường hợp của Trung Quốc dưới thời Tập Cần Bình. Có một tranh luận nghiêm trúc ở Trung Quốc suốt nhiều năm về vai trò đúng đắn của nhà nước trong quan hệ kinh tế. Một phe cho rằng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc nới lỏng sự kiểm soát nền kinh tế, họ sẽ không tránh khỏi việc mất kiểm soát đối với nhà nước. Những người khác biện luận ngược lại: trừ khi Đảng từ bỏ bớt việc kiểm soát nền kinh tế, họ sẽ mất quyền lực chính trị, vì các mâu thuẫn kinh tế sẽ nhân rộng và sự phát triển trở nên kém bền vững hơn. Ông Tập rõ ràng đã nằm trong nhóm ủng hộ vai trò lớn hơn của nhà nước.

Nhưng không chỉ có Đảng là đối tượng mà ông Tập làm gia tăng quyền lực, ông cũng gia tăng quyền lực cho cả chính mình. Thực tế, khó để biết được ai đang thăng cấp trong nấc thang quyền lực của Đảng và ai sẽ bị triệt hạ bởi bất đồng ý kiến với nhà lãnh đạo tối cao. Điều đó không ngăn cản được những người ngoài cuộc suy đoán, nhưng trò chơi phỏng đoán này cũng chẳng có ích gì. Tập, cũng giống như bất kỳ vị hoàng đế nào khác, sẽ tiếp tục bổ nhiệm những cận thần đi theo con đường mà ông dẫn dắt.

Nhưng quyền lực cao sẽ đi kèm với trách nhiệm lớn – và, ở điểm này, quyền lực của Tập gần như tuyệt đối. Đó sẽ là gánh nặng cho một người duy nhất. Tập có thể thông minh hơn nhiều so với Trump (vốn không phải là một đối thủ khó khăn để vượt qua), nhưng điều đó là không đủ để bảo đảm một tương lai ổn định và thịnh vượng cho Trung Quốc. Và, nếu mọi thứ chệch hướng, tất cả đều biết sẽ phải đổ lỗi cho ai. Đó là lý do tại sao các triều đại độc tài thường có chung một kết cục. Chẳng cần phải đọc Toqueville mới nhận ra điều này.

Chris Patten, Thống đốc người Anh cuối cùng của Hong Kong và cựu Ủy viên đối ngoại của Liên minh châu Âu, là Hiệu trưởng trường Đại học Oxford.