Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử

Thu Doan 

  1. Nhà văn Tiểu Tử :

Họ tên : Võ Hoài Nam

Sanh năm : 1930

Nguyên quán : Gò Dầu Hạ (Tây Ninh )

Bút hiệu : Tiểu Tử

Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.

– Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955.

– Dạy lý hoá trung học Petrus Ký : 1955/1956.

– Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm tháng 10 năm 1956 đến 30/04/1975.

– Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.

– Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d’ Ivoire ( Phi Châu ) 1979/ 1982.

– Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d’ Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.

– Trước 1975, giữ mục biếm văn ” Trò Ðời ” của nhựt báo Tiến.

– Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d’Ivoire.

– Tập truyện ” Những Mảnh Vụn ” ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.

Bài ca vọng-cổ

Cái Loa

Cái mặt

Cái miệng

Chị Tư Ù

Chiếc khăn mu-soa

Chợ trời

Chuyện Bình Thường

Chuyện chẳng có gì hết

Chuyện di tản 1975

Chuyện Giả Tưởng

Chuyện ở quê tôi

Chuyện thuở giao thời

Cơm nguội

Con Mẹ Hàng Xóm

Con Mén

Con số 3

Con rạch nhỏ quê mình

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Đám cưới ngày xưa

Đạp xích lô

Đèn Trung Thu

Đi Xe Đò, Đi Xe Ôm

Giọt mưa trên tóc

Làm Thinh

Lẫn

Made in Việt Nam

Mài Dao Mài Kéo

Mũ “bảo hiểm”

Mùa Thu Cuộc Tình

Ngày nầy, năm 1975 …

Người Bán Liêm Sỉ

Người Viết Mướn

Ngụy

Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử – Tường An, thông tín viên RFA

Những chuyện nho nhỏ…

Những hình ảnh đẹp

Nói

Nói: Hết rồi!

Nói Láo

Nội!

Ông già ngồi bươi đống rác

Ông Năm Từ

Tấm vạc giường

Thằng Chó Đẻ của Má

Thằng dân

Thằng đi mất biệt

Thằng Khùng

Thầy Năm Chén

Thèm

Tiết Nhơn Quí

Tóc Trắng

Tô cháo huyết

Tôi đi bầu

Tôi nằm gác tay lên trán

Tôi … xém làm kép cải lương

Vẫn Còn Cái Gốc

Viết một chuyện tình

Vọng cổ buồn …

Xíu.

  1. Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử

Người ta hay hỏi tôi: “Quê ông ở đâu? – Câu hỏi nghe giản dị, mà trả lời thì… khó hơn đi thi vô Petrus Ký. Bởi lẽ, cái quê của tôi, cái chỗ chôn nhau cắt rún, tôi đã bỏ ra đi từ lâu, từ cái thuở biển dâu, thời cuộc cuốn người ta ra khỏi vòng tay của ngõ xóm, của hàng dừa, hàng cau, của mái nhà lợp lá. Ấy thế mà, mỗi đêm khi nằm trên chiếc giường ấm áp, tôi vẫn thấy quê hương trở lại, rõ mồn một, như một bức tranh khắc sâu trong ký ức: nghèo trớt mùng tơi, mà vẫn thương, vẫn nhớ đến xót xa.

Có anh bạn văn thường nhậu nhẹt với tôi, hay hỏi vặn:

– Khi nào ông “dìa” quê?

– Muốn “dìa”, nhưng đâu biết quê đâu mà dìa!

Ảnh cười khề khà:

– Thôi thì ông tấp về quê tui đi, ngay đất Tân Định nè.

Nghe vậy mới ngớ người ra. Té ra, đối với ảnh, quê không phải là xứ khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, mà chính là mảnh đất Sài Gòn nơi mình cất tiếng khóc chào đời. Cái quê ấy có mùi khói thuốc rê, có tiếng guốc mộc của các bà, có những con hẻm nhỏ mà tuổi thơ rong chơi

đánh lộn tới u đầu sứt trán.

Tân Định – cái đất ấy đã nuôi lớn bao thế hệ. Từ đường Trần Quang Khải, quẹo qua Trần Nhật Duật, thẳng tới bờ kinh Nhiêu Lộc, những con đường nhỏ như Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quý Khoách, Trần Khánh Dư, đã in dấu chân của học trò trường Văn Lang, của những giấc mộng tuổi trẻ. Và cũng từ nơi ấy, bao nhiêu phận đời đã bước ra, đi khắp năm châu, mà khi tóc bạc vẫn còn ngoái lại, nhớ da diết từng mái hiên, từng ngọn đèn đường.

Trong số những người đi qua đất Tân Định, có một người đặc biệt: nhà văn Tiểu Tử.

Ông sinh năm 1932, tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, rồi về dạy tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký vào những năm 1955–1956.

Sau biến cố 1975, ông vượt biên, định cư ở Pháp, và từ đó, văn chương trở thành cách để ông bắc nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

Tôi biết đến Tiểu Tử qua truyện ngắn “Tô cháo huyết”. Và khi nghe tin ông qua đời trên đất Pháp, lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại.

Câu chuyện ông kể tưởng như vụn vặt, mà hóa ra thấm đẫm tình người, tình quê. Hình ảnh một người ngày xưa, trên đường đi làm về ghé xe cháo huyết của bà xẩm già ở gần rạp Casino Đa Kao. Bà bày cái nồi cháo nghi ngút khói, với vài miếng huyết vuông vức nổi lên trên. Ông múc một muỗng, vừa có cháo vừa có huyết, thổi cho nguội rồi cho vào miệng. Hương vị ấy, dân dã mà ấm áp, như gói cả hồn Tân Định.

Nhưng đời dân Sài Gòn sau cuộc đổi đời từ nghèo sang mạt sau tháng Tư năm 1975 đâu phải lúc nào cũng có tiền. Có khi cả tháng rỗng túi, ông né luôn cái xe cháo của bà xẩm, chỉ vì sợ mình thèm.  Cho đến một hôm, bà mời:

– Vô ăn đi thầy Hai, lâu quá mà…

– Tôi không có tiền! – Ông đáp, thật thà đến bật khóc.

– Không có thì cũng vô ăn, chừng nào trả cũng được. Mình quen mà!

Ông viết: “Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghẹn ngang ở cổ, làm tôi ứa nước mắt.”

Chao ôi! Một tô cháo huyết mà chan chứa nghĩa tình. Nó không còn là món ăn của bụng đói, mà là của tình người nơi xóm cũ. Để rồi hơn nửa thế kỷ sau, ở tận trời Âu, ông vẫn còn nhớ như in, nhớ đến nhói tim, nhớ đến mức viết thành một truyện ngắn để gửi gắm nỗi lòng.

Tôi đọc truyện ấy mà thấy mình rưng rưng buồn trong tấc dạ. Bởi mỗi người tha hương đều có một “tô cháo huyết” riêng trong ký ức. Với nhà văn Tiểu Tử, đó chính là xe cháo huyết của bà xẩm Tân Định. Và khi ông kể lại, không phải chỉ kể một món ăn, mà là kể về một

quê hương đã mất, kể về cái tình người Sài Gòn xưa, kể về một thời mà “ăn chịu” không phải chuyện đáng xấu hổ, mà là biểu hiện của tin cậy, của chia sẻ, của đồng bào.

Tin ông mất khiến tôi buồn như mây chiều trôi. Hình dung nơi nghĩa trang lạnh lẽo ở Pháp, có một nấm mộ mới của một người từng viết: “Tôi đi để lại đường xưa.” Đường xưa ấy chính là Trần Quang Khải, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Giai, Bùi Hữu Nghĩa… những con đường quanh Tân Định, đã nuôi dưỡng tâm hồn và văn chương của ông.

Có lẽ, trong giây phút cuối đời, ông vẫn còn nhớ tô cháo huyết năm nào. Và chúng tôi, những kẻ hậu sinh, đọc văn ông mà thấy trong cổ họng mình cũng nghèn nghẹn, như chính ông đã nghẹn ngày xưa.

Giờ ngồi viết những dòng này, tôi nhớ tới bạn bè, nhớ tới những buổi nhậu lai rai mà kể chuyện quê xưa. Tôi nhớ tới cảnh học trò chen chúc thi vào Petrus Ký nơi dạy của nhà văn Tiểu Tử với cái tên Võ Hoài Nam tiền định sống phải xa quê.

Tôi nhớ tới nhà văn Tiểu Tử, một kiếp người long đong phiêu bạt, nhưng đã kịp để lại cho đời những trang văn chan chứa tình quê, tình người. Cái tên “Tiểu Tử” nghe thì nhỏ nhoi, mà văn ông lại lớn lao, bởi ông đã nói hộ cho cả một thế hệ lưu lạc: quê hương không bao giờ mất, nó sống mãi trong từng mùi vị, từng ký ức, từng khói bốc lên từ nồi cháo huyết chiều nào.

Thưa Thầy, ở phương trời xa ấy, xin Thầy an nghỉ. Trần gian này thiếu vắng Thầy, nhưng những dòng chữ Thầy để lại, những ký ức về một tô cháo huyết bình dị, sẽ còn sống mãi. Để cho những đứa con xa quê, mỗi lần nhớ Sài Gòn xưa, lại tìm thấy bóng dáng mình trong câu văn mộc mạc mà rưng rưng của Thầy.

Hu hu… Tôi viết mà mắt cứ nhòa đi.

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

 


 

BỆNH MẤT TRÍ NHỚ: ALZHEIMER VÀ DEMENTIA – Lại Thị Mơ

BỆNH MẤT TRÍ NHỚ: ALZHEIMER VÀ DEMENTIA

Lại Thị Mơ

Có 2 loại bệnh mất trí nhớ: ALZHEIMER và DEMENTIA

ÔB Tổng Thống Reagan

Loại nặng là Alzheimer. Hoàn toàn mất hẳn trí nhớ, như trường hợp Tổng Thống Reagan (kéo dài 10 năm mới chết).

Loại nhẹ gọi là Dementia lúc nhớ lúc quên, như trường hợp nhà Bác Học Albert Einstein.

Cho tới bây giờ khoa học cũng vẫn chưa tìm ra phương pháp phòng ngừa hay chữa trị. Chỉ biết khi trời kêu ai nấy dạ.

Các bác sĩ thì khuyên bắt đầu óc làm việc chút chút mỗi ngày, cũng là một cách tập thể dục cho cái đầu (não) của mình vậy thôi.

Đọc sách, viết bài, viết thư… cũng là một cách tập thể dục đầu. Tức là bắt cái não của mình không được “nhàn cư vi bất thiện” rảnh quá rồi nghĩ chuyện linh tinh than mây khóc gió.

Hoặc như Mỹ nói “use it or lose it”

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.

Quả thật từ khi có internet, thì mọi thứ tin tức và hình ảnh được lan tràn trên khắp thế giới chỉ sau vài tích tắc. Người dân trên toàn thế giới (ngoại trừ Bắc Hàn và các nước độc tài) có thể theo dõi đủ mọi biến chuyển ngay khi xảy ra.

Ngay cả ở Mỹ, khi có World Cup về đá banh, đâu phải trận banh nào quí vị cũng được coi hết đâu. Nhất là khi Mỹ đã thua rồi, là coi như dẹp bớt, ông chồng tôi (chuyên gia TV 24/7 & 20 hour/ day) bảo thế.

Trong khi VN nghèo mà chơi bảnh cho coi líp ba ga, thức đêm thức hôm xem miệt mài suốt gần 2 tháng. Mỗi lần có World Cup là công việc tê liệt, quan thì ngủ bù ở nhà, lính thì vào sở lớt phớt cho có lệ, vì còn ngáp ngắn ngáp dài.

Mặc dù bệnh mất trí nhớ không làm tổn thương tới thân xác bệnh nhân như các bệnh nhiễm trùng, hay bệnh ung thư tàn phá cơ thể rất nhanh.

Không ảnh hưởng tới physical, vì chỉ có não không còn làm việc, chứ tim gan phèo phổi vẫn bình thường. Bệnh nhân vẫn có thể sống rất lâu, nếu không muốn nói là thọ.

Không tổn thương về thể chất (của bệnh nhân), nhưng tổn thương rất nặng về tinh thần cho người chăm sóc

Biết bao câu chuyện não lòng khi có người thân bị bệnh mất trí. Nhất là khi người ấy lại là ông bà cha mẹ của mình.

Trong các triệu chứng của bệnh mất trí nhớ nhẹ Dementia (lúc khởi đầu) có một triệu chứng đã làm tổn thương tới tình cảm gia đình. Đó là người bệnh lúc nào cũng nghi ngờ bị mất cắp tiền bạc hay nữ trang của mình.

Họ có thể nói (y như thật) người này người kia đã lấy cắp của họ. Nếu chỉ có một người chăm sóc người bệnh (ông bà cha mẹ), thì ráng giữ bình tĩnh bỏ ngoài tai, coi như không chấp. Nhưng khổ nỗi vì cuộc sống khó khăn, rất nhiều người ở VN, sau khi lập gia đình vẫn phải ở chung theo kiểu ngũ đại đồng đường. Cháu dâu con dâu, cháu rể con rể là người không cùng máu mủ hay bị hàm oan.

Có một điều không hiểu nổi, đó là họ có thể không nhận được tất cả mọi người. Nhưng bà mẹ chồng vẫn biết đây là thằng con yêu quí của mình. Bà đợi con đi làm về, để than thở bị bỏ đói cả ngày. Còn ai ở nhà cả ngày với bà, ngoài người vợ của mình, tức là con dâu của bà. Oan Thị Kính làm sao giải bày, nuốt bồ hòn làm ngọt. Nếu gặp người chồng vũ phu không có từ tâm hiểu biết, thì chuyện gì sẽ xảy ra? 

Từ đó xảy ra biết bao thảm cảnh gia đình, từ xô xát cãi vã, có khi đưa đến chia tay.

Ngoại trừ đổ thừa bị mất đồ, không nhớ đã ăn cơm hay chưa. Những người bị Alzheimer, dù không còn minh mẫn, nhưng họ vẫn có thể nhận ra những người vô cùng đặc biệt với họ. Bà Nancy bảo rằng ông Tổng Thống Reagan quên hết tất cả mọi người, chỉ còn nhớ duy nhất một mình bà. Ít ra cũng còn có một người để cho ông nghe lời.

Căn bệnh mất trí còn nguy hiểm hơn cả bệnh điên. Vì bệnh điên tuy vậy vẫn có thuốc chữa hay chế ngự. Khi người điên nổi cơn người ta cho uống thuốc, cơn điên sẽ bị chế ngự. Sau đó người ta cho chạy điện vô não. Sau một thời gian thì não của người bệnh trở lại bình thường. Đó là do não bị xáo trộn vì một nguyên nhân gì đó, chứ không có hư hại. Trái lại ở bệnh Alzheimer và bệnh Dementia não đã bị thoái hóa, bị hư hại. Đó là lý do tại sao chưa có cách phòng ngừa và chữa trị.

Chăm sóc cho người bệnh lãng trí là một điều vô cùng khó khăn.

Một con vật bình thường như con chó con mèo, dù không nói được, nhưng chúng vẫn nhận ra và nghe lời người nuôi dưỡng nó. Bởi vì chúng vẫn còn bộ não. Trong khi người bị lãng trí, chúng ta sẽ cảm thấy đau lòng khi một cụ già bị nhốt trong chuồng, hay bị xích tay xích chân.

Những hình ảnh đó không thể dùng cho con người. Nhưng chúng ta phải làm sao, khi người bị lãng trí gây ra đủ thứ vấn nạn, làm đảo lộn cuộc sống của những người trong nhà. Giữa đạo đức và hạnh phúc, chúng ta sẽ chọn bên nào.

Chỉ có thánh hay bồ tát mới giữ cho mình khỏi nổi cơn điên khi bị buộc tội oan ức. Cũng chỉ có thánh mới giữ cho mình được bình tĩnh, khi mỗi ngày thấy đủ thứ xáo trộn xảy ra trong căn nhà của mình.

Ông bà cha mẹ là những người ta phải tương kính theo đạo làm con.

Nhưng khi làm sao giữ được vẹn toàn, khi ông bà cha mẹ bị mất trí. Một bệnh nhân trong thân xác của người trưởng thượng. Có nhiều cô con dâu đã phải gào lên nói dối như cuội, khi nói về bà mẹ chồng. Hoặc khi không còn bình tĩnh họ có thể buộc tội điên điên khùng khùng. Thật tình họ không muốn mang tiếng hỗn láo, chẳng qua cơn giun xéo mãi cũng quằn! Khó có ai giữ cho mình sống trọn đạo làm con.

Bản thân tôi có cha mẹ bị Dementia, nghĩa là những gì các cụ nói cần phải xét lại, thế mà cũng vẫn bị lừa đều đều. Lần nào cũng vì sốt ruột khi nghe bố gọi với giọng thều thào “có gì ăn không, bố đói quá”. Lúc ông đang ở trong rehab gần nhà, cổ tay luôn luôn đeo một cái vòng có ghi số điện thoại của tôi, để bất kỳ có chuyện gì xảy ra, ai cũng có thể gọi ngay cho con cháu.

Hôm đó bố tôi ra dấu cho có người giúp. Đầu tiên một giọng nữ gọi, bảo ông muốn nói chuyện với cô. Nghe bố nói muốn ăn cháo (kiểu VN), dạ dạ thưa thưa, cuống quýt đi hâm cháo. Chưa được 10 phút, lại nghe điện thoại gọi, lần này là giọng nam, lại dạ dạ thưa thưa con mang vào ngay. Chạy hộc tốc tới (rehab chỉ cách nhà có 10 phút), tôi chưng hửng, vì bố tôi đang ngồi trước mặt mâm cơm của nhà thương, còn y nguyên.

Không hiểu tại sao người bị lãng trí, lại “thông minh” đến thế. Không biết tiếng Anh, nhưng bố tôi biết ngoắc một cô y tá nhờ gọi dùm. Sau đó lại nhờ một người y tá khác (đàn ông) gọi tiếp. Nói chuyện bằng tiếng Việt nên họ không hiểu mình nói gì. Từ đó có kinh nghiệm, tôi không quýnh quáng, mà hỏi lại caregiver. Tuy vậy cũng vẫn chạy vào thăm, nếu không ông cụ sẽ giận hờn bỏ ăn.

Người ta nói khi già, người ta sẽ trở thành con nít (chướng). Họ sẽ bướng bỉnh khó chiều, nếu thành con nít ngoan thì đâu có chuyện gì xảy ra.

Một triệu chứng kinh khủng cho người chăm sóc người bị mất trí, đó là họ không còn phân biệt được đúng sai, họ có thể ăn ngay phân của họ, nghĩa là chúng ta không thể rời mắt khỏi họ.

Điều này đã làm đau lòng con cái vô cùng.

Có nhiều gia đình khi đi làm, họ phải khoá cầu dao điện, nếu nấu bằng bếp điện. Vì các cụ già khi muốn ăn bánh mì, họ đút luôn cả ổ bánh vào lò nướng, vẫn còn giấy gói và dây thun cột. Có người còn tinh nghịch đốt cả thảm lót nhà.

Nói chung là khi trong nhà có người bị bệnh mất trí, thì ngay cả người chăm sóc cũng mệt nhoài, vì mắt phải luôn luôn ngó chừng. Đôi khi ngay cả người lành cũng không ngờ được những phản ứng bất thường của bệnh nhân.

Bà Nancy vợ của Tổng Thống Reagan chăm sóc ông bị bệnh Alzheimer (nặng) suốt 10 năm trời. Không thể dùng một chữ nào khác hơn chữ “ độc ác” để diễn tả bệnh này. Thông minh hóm hỉnh, tài giỏi, ăn mặc luôn luôn lịch sự. Tất cả không còn nữa, bà Nancy chẳng còn cho ai nhìn thấy ông trong bộ dạng thê thảm thiểu não, quần áo xộc xệch, bộ mặt ngây ngô, không còn ra hình dáng của một chính khách được ngưỡng mộ ngày nào. Thôi thì hãy để mọi người coi như ông đã chết.

Biết bao câu chuyện đau lòng của người thân, khi có ông bà cha mẹ bị bệnh mất trí nhớ. Dù cho bạn có thông minh như nhà Bác Học Albert Einstein cũng vẫn mắc bệnh như thường. Dù cho bạn có học cao hay giàu có đến đâu, bạn cũng vẫn nghẹn ngào khi thấy người thân yêu của mình tàn tạ hay có những hành động làm đau nhói con tim. Điều này có thể hiểu được tại sao có nhiều người bình thường đã đem nhốt người bệnh vào những cái cũi như cũi chó. Họ quá nghèo khổ, phải lo bươn chải cho miếng cơm manh áo.

Họ phải làm liều, dù thật sự trong lòng họ không muốn. Gặp thời thế thế thời phải thế. Cái khó bó cái khôn. Ở trong chăn mới biết chăn có rận.

Một cô gái thượng (ở VN) bị xích trong rừng vì mất trí cả mấy năm trời, cho tới khi được một Linh Mục giải cứu mang về nhà thờ.

Không thể nào kể siết về những hoàn cảnh thương tâm của những người bị căn bệnh độc ác này. Hành hạ bệnh nhân thì ít (vì họ không còn nhận thức), nhưng hành hạ gia đình người bệnh thì nhiều.

Cách đây 20 năm, có một thanh niên ở phía Đông Bắc Mỹ, đã bỏ cha già bị bệnh mất trí vào lò sưởi đốt. Vì anh ta là con một, lương không trả nổi cho nursing home (hạng bét 200dollar/ ngày).

Người không mất trí chăm sóc cho người bệnh, cũng mất trí luôn, đó là trường hợp của anh này. Những khó khăn đã dồn họ đến chân tường tuyệt vọng.

Chúng tôi đã nhiều lần dặn dò con cháu, nếu bố mẹ bị bệnh lãng trí, cứ mạnh dạn đưa vào nursing home, đừng lo phiền áy náy. Vì lúc này bố mẹ chỉ còn kéo dài cuộc sống trong vô thức. Không còn biểu lộ được tình cảm với con cháu. Trái lại khi cho ở chung, những biểu hiện của căn bệnh sẽ làm mất cả tình thân. Chẳng thà để bố mẹ hành hạ quấy phá người dưng. Khi bố mẹ còn tỉnh táo dặn dò con cháu, đó là ý nguyện của bố mẹ, các con không có lỗi gì cả. Tất cả mọi người trong gia đình bố mẹ đều yêu quý vô vàn. Hãy có từ tâm đừng nghĩ xấu nghĩ ác, rồi nguyền rủa người khác. Bởi vì tục ngữ có câu chẳng ai nắm tay được từ sáng đến tối. Một ngày nào đó rồi chúng ta cũng sẽ già, như lời Phật dạy. Sinh trụ hoại diệt, hoàng hôn tàn để nhường chỗ cho bình minh ló dạng.

Các con tôi cũng rưng rưng nước mắt. Cũng như ngày xưa chúng tôi cũng đau xé lòng khi thấy cha mẹ mình lú lẫn, bỏ cả đồ dơ vào miệng. Hay ngơ ngác đi lạc ngoài đường.

Người ta không sợ chết, mà chỉ sợ bệnh. Quan niệm bên Phật giáo, cho rằng bệnh tật là cái nghiệp của chúng sinh. Không tôn giáo nào cho phép tự tử. Phật bảo rằng khi tự tử có nghĩa là chưa trả hết nghiệp. Đời sau cũng phải trả tiếp. Luật pháp cũng không cho phép người ta xin chấm dứt sự sống. Bạn thấy điều này có đúng không? Kéo dài cuộc sống trong vô thức, không còn tận hưởng được mọi vui thú của cuộc đời, thì có còn ích lợi gì cho xã hội và cho chính người bị bệnh.

Nếu bạn cổ vũ cho ý tưởng đó, bạn sẽ bị lên án. Vì xã hội không chấp nhận mạng con người như một món đồ vật, để có thể vứt bỏ dễ dàng.

Bạn có biết con số bệnh viện dành cho người mental behavior nhiều gấp mấy con số bệnh viện chữa những bệnh khác. Và người ta đã tránh dùng những chữ điên crazy, hạ giá nhân phẩm. Chỉ dùng chữ những chung chung mental behavior.

Lại Thị Mơ

From: TU-PHUNG


 

Tự sướng với lòng yêu nước?- Nguyễn Hoàng Văn

Ba’o Tieng Dan

19/09/2025

Nguyễn Hoàng Văn

Tìm kiếm tài liệu liên quan đến “diễn ngôn Đoàn Hương”, tôi bắt gặp một clip của nhà khoa bảng gây tranh cãi này trên trang Youtube: “Hiếm có dân tộc nào mang tinh thần yêu nước trong GEN như người Việt Nam!” [1]

YouTube player

Nghĩa là, không chỉ yêu nước hạng nhất, nhì nhân loại, người Việt còn hơn hẳn những dân tộc khác với tình yêu nước bẩm sinh, yêu ngay từ… đại phân tử DNA chứa mật mã di truyền chứ không tầm thường như thứ tình yêu… nhân tạo, chỉ yêu do bị nhồi sọ, do tác động của bộ máy tuyên truyền. Lời bà này làm tôi nghĩ ngay đến câu thơ của Bảo Sinh:

Tự do là sướng nhất đời

Tự lừa còn sướng bằng mười tự do

Tự lừa để sướng thì cũng có nghĩa là “tự sướng”, nên nói theo Nguyễn Huy Thiệp, đó cũng chẳng khác nào một hình thức “thủ dâm chính trị”, hệ quả từ một cái nhìn hẹp hòi, thiển cận [2].

Để hiểu sự hẹp hòi này thì tốt nhất, hãy lắng nghe ông Václav Havel (1936-2011), một trí thức khả kính, từng là Tổng thống Tiệp Khắc rồi Tổng thống Tiệp, xuất thân là một nhà thơ, nhà soạn kịch và là nhà bất đồng chính kiến kiên cường. Trong cuộc phỏng vấn đăng tải trên báo New York Times vào ngày 30/12/1989, chỉ một ngày sau khi trở thành Tổng thống Tiệp Khắc, ông bày tỏ:

Tôi là người Tiệp. Đây không phải là chọn lựa mà là số phận của tôi. Cả đời tôi sống trên đất nước này. Đây là ngôn ngữ, là nhà của tôi. Tôi sống ở đây như bất cứ ai khác. Tôi không cảm thấy tôi là người ái quốc bởi vì tôi không cảm thấy rằng làm người Tiệp là cái gì đó hơn hẳn người Pháp hay người Anh, người Âu hay bất cứ ai khác. Tôi không hiểu tại sao Thương Đế lại muốn tôi làm người Tiệp. Đó không phải là chọn lựa của tôi. Nhưng tôi chấp nhận điều đó và vì tôi đang sống ở đây, tôi phải cố làm điều gì đó cho đất nước tôi” [3].

Ông Havel không huênh hoang là mình yêu nước. Ông cũng không ưỡn ngực “tự hào quá Tiệp ơi” với ngụ ý rằng làm người Tiệp thì cao quý hơn là làm người Anh, người Pháp người Đức hay người Nhật v.v… Tuy nhiên, với tư cách là một nhà cầm bút sống giữa sức ép của chế độ toàn trị mà không hề thỏa hiệp, không bán rẻ lương tâm mà, hơn thế nữa, còn ngẩng cao đầu như một nhà bất đồng chính kiến quả cảm, ai cũng phải thừa nhận rằng ông, như một cá nhân, đã thể hiện một nhân cách cực kỳ cao quý và với những gì đã “cố làm cho đất nước” thì lại là một nhà ái quốc vĩ đại.

Từ một nhân cách cao quý nhưng hết sức khiêm cung như thế mà quay trở lại với trò tự sướng trong clip nói trên, sẽ thấy có cái gì đó kỳ kỳ, lố bịch, sống sượng. Nhưng lố bịch hay sống sượng đến mấy thì cũng không có gì là lạ bởi, ít nhất, đó là cách mà bộ máy giáo dục của chúng ta dạy dỗ cho bao nhiêu thế hệ, theo đó thì lòng yêu nước là một “bản sắc” của người Việt Nam.

Tôi thử Google ý niệm “bản sắc dân tộc” và tìm ra ngay một định nghĩa ngắn gọn, chắc nịch như đinh đóng cột:

“Nền văn hóa Việt Nam mang những bản sắc dân tộc đặc trưng: Yêu nước, tự cường, đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị” [4].

Bao nhiêu năm qua, chúng ta rót vào tai nhau, dạy đi dạy lại cho bao thế hệ trẻ về “bản sắc dân tộc” những điều như thế, nhưng nếu nhìn lại để đặt nó trong mối quan hệ tương liên với các dân tộc khác thì, thực tình mà nói, chúng ta chẳng khác nào hạng trẻ con, mà cũng chẳng khác lũ ếch ngồi sâu trong đáy giếng.

Nếu “yêu nước” là “bản sắc” của dân tộc Việt Nam thì hóa ra người Nga, người Pháp, người Anh, người Trung Hoa hay người Lào, người Nhật không hề yêu nước của mình?

Và nếu “tự cường” là bản sắc dân tộc thì tại sao chúng ta vẫn lẹt đẹt, thua xa những láng giềng hay những nước Á châu khác từng ngang hàng hay kém xa mình?

Mà không chỉ là lòng “yêu nước”, là tính “tự cường”, toàn bộ những yếu tố kể trên đều cần phải xem lại [5].

Đã gọi là “bản sắc” thì đó phải là những đặc điểm khiến mình khác biệt so với người khác, không phải là những yếu tố chung chung mà hầu như dân tộc nào cũng có. Để tiện, thử so sánh với “bản sắc Úc” mà giới nghiên cứu nước này đã đưa ra vào thập niên 1990, với bốn đặc điểm: Lười biếng, kỳ thị, thế tục và nam tính.

Về sự lười biếng thì, trên thực tế, người Úc không hề lười biếng, họ lao tâm lao lực ra trò. Vấn đề là sự “lười biếng” này được ghi nhận qua một mô thức kinh tế… lười biếng. Úc là một quốc gia phát triển nhưng hoạt động kinh tế, phần lớn, chỉ ở mức… đang phát triển, chỉ đào quặng mỏ lên bán cùng với các sản phẩm canh nông, chẳng khác gì mấy các quốc gia đang phát triển Á, Phi. Nếu Úc không “lười biếng” thì các quặng mỏ và sản phẩm canh nông kia phải được chế biến mà ngôn ngữ kinh tế gọi là thêm phần “giá trị gia tăng”.

Thứ hai là sự kỳ thị. Dù đang theo đuổi chính sách đa nguyên, Úc vẫn bị mang tiếng là kỳ thị do chính sách “White Australia” áp dụng từ năm 1901, theo đó chỉ nhận di dân da trắng. Dẫu chính sách này đã bị bãi bỏ từ năm 1966 nhưng người Úc vẫn ghi nhận là “ấn tượng” về sự kỳ thị vẫn còn đó nên, trong bang giao quốc tế, cần phải “ý tứ” đến yếu tố này.

Thứ ba là chủ nghĩa thế tục, secularism, thể hiện rất rõ ở các chính trị gia Úc nếu so với Mỹ. Ra ứng cử, bất cứ ứng cử viên nào ở Mỹ – từ cấp dân biểu, nghị sĩ đến tổng thống – ai cũng cố bày tỏ lòng mộ đạo, ngọt xớt dẫn chứng Thượng Đế và, khi kết thúc bài diễn văn, luôn luôn lập lại câu kinh nhật tụng “God bless America”. Nhưng các chính trị gia Úc không hề đếm xỉa đến chuyện này và, trên phương diện xã hội, những lãnh tụ tôn giáo thường bị báo chí mang ra nhạo bang, không chút nể nang!

Thứ tư là chủ nghĩa nam tính, masculinism, thể hiện qua sự tôn sùng cũng như đòi hỏi cao ở nam giới. Có thể thấy điều này trong môn thể thao bóng bầu dục, khi các cầu thủ Úc chỉ trang bị duy nhất dụng cụ bảo vệ ở bộ răng, khác với các các cầu thủ bóng bầu dục Mỹ bảo vệ hầu như toàn thân. Hay thói tục trọng thể thao: Dàn nhạc giao hưởng trẻ của Úc trình diễn tại Âu châu đạt thành tích vang dội nhưng truyền thông hầu như chẳng để ý, trong khi đó một cầu thủ quần vợt, một tay bơi đạt giải nào đó là được tán dương tận mây xanh.

Những điều này được phân tích trong môn học mang tính địa lý – chính trị tại các đại học Úc vào thập niên 1990, chuyên về quan hệ giữa Úc và Á châu. Đó là thời điểm mà Úc đang cố gắng hội nhập vào Á châu và “bản sắc” này không chỉ là nỗ lực tự phán, mà còn được đúc kết từ cảm nhận của các láng giềng Á châu về Úc: Muốn hội nhập vào Á châu thì nước Úc phải hiểu rõ Á châu nhìn mình và hiểu về mình như thế nào.

Đó, có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta phải áp dụng trong nỗ lực gọi là “Tiến ra biển lớn”. Nếu những thế hệ đi trước như Nguyễn Văn Vĩnh từng “xét tật mình” như một cách tự phán thì thế hệ hiện tại phải làm hơn thế nữa: Ngoài việc tự phán còn phải lắng nghe và ghi nhận những phán xét chẳng mấy hay ho và, thậm chí, cực kỳ tồi tệ của người khác về mình.

Trong Chuyện Tử Tế, đạo diễn Trần Văn Thủy đã dựng hai cảnh trái ngược. Một là cảnh một lớp học rách nát tại Việt Nam và những học trò suy dinh dưỡng quàng khăn đỏ trên cổ, trên bục cô giáo giảng bài về niềm tự hào của một đất nước anh hùng, rừng vàng biển bạc v.v… Một là cảnh một lớp học hiện đại tại Nhật nhưng bài học lại là sự bất hạnh của một đất nước nghèo tài nguyên lại bị thua trận trong chiến tranh: Tương lai của đất nước hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực học hành của các em.

Để “tự cường” thì cần phải dạy sao cho thế hệ trẻ biết nhục về những cái yếu kém của mình, thay vì ê a những bài học vinh quang và tự hào, mà nói theo Vũ Trọng Phụng, là “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”. Hãy dạy để học trò biết đau trước những tấm biển “Cấm vào đây ăn trộm” bằng tiếng Việt tại các siêu thị ở Thái Lan, ở Nhật, ở Úc hay lời tuyên bố lạnh tanh “Không được đến đây làm đĩ” tại Singapore [6].

Đừng nên dạy chúng tự sướng, đẩy chúng lên những đám mây xanh tự hào, huênh hoang rằng, chỉ có người Việt mới yêu nước như thế, hay yêu nước nhất nhì thế giới.

Mà không chỉ dạy cho thế hệ trẻ. Phải nhồi vào tai, phải nhét vào đầu của người lớn, cả những kẻ đầu đã hai thứ tóc, rằng nếu thực sự yêu nước thì đừng có làm nhục đất nước mình, đừng có biến đất nước mình thành trò cười của nhân loại.

__________

Chú thích:

  1. https://www.youtube.com/watch?v=eAYsm6xq2rI
  1. “Bệnh nhược tiểu, thói hủ nho và thủ dâm chính trị”: https://vanviet.info/van-de-hom-nay/benh-nhuoc-tieu-thi-hu-nho-v-thu-dm-chnh-tri/
  2. I am Czech. ‘This was not my choice, it was fate. I’ve lived my whole life in this country. This is my language, this is my home. I live here like everyone else. I don’t feel myself to be patriotic, because I don’t feel that to be Czech is to be something more than French, or English, or European, or anybody else. ‘God – I don’t know why – wanted me to be a Czech. It was not my choice. But I accept it, and I try to do something for my country because I live here.”

http://www.nytimes.com/1989/12/30/world/upheaval-east-new-president-man-master-irony-humor-vaclav-havel.html

  1. “Những giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam”: https://baodongnai.com.vn/vanhoa/202001/ban-sac-van-hoa-nam-bo-nhung-gia-tri-ben-vung-cua-van-hoa-viet-nam-2984578/
  2. Thí dụ như “đoàn kết”, ngay trong truyền thuyết “trăm trứng trăm con” đã thấy sự chia rẽ rồi: Sau khi đã có một trăm mặt con, Lạc Long Quân phải thú nhận với Âu Cơ là không thể tiếp tục ăn ở, phải cắt đôi gia đình, năm mươi về núi, năm mươi về xuôi. Và càng phải xem lại những “bản sắc” như “lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị”.

Lấy thí dụ yếu tố “ứng xử tinh tế và giản dị”. “Tinh tế” là ý niệm phải đặc biệt chú ý trong quan hệ ngoại giao nhưng cứ xem cách bà Nguyễn Thị Kim Ngân, khi còn là chủ tịch quốc hội, “tinh tế” như thế nào khi cùng cho cá ăn với nguyên Tổng thống Mỹ Barrack Obama, khiến ông này, một người rất tinh tế, cũng phải cũng phải bộc lộ ra ánh mắt ngỡ ngàng!

Hay cảnh các quan chức chúng ta tán gẫu như thể là đang uống trà đá vỉa hè, giữa lúc đang chờ làm việc chính thức với Bộ Ngoại giao Mỹ, với câu chốt khét tiếng “Rõ ràng, sòng phẳng. Mẹ nó, có sợ gì đâu!”

Về giản dị thì từ “văn hóa cổng chào” cho đến “lễ” nhậm chức, có thể nói là người Việt Nam hiện tại tỏ ra rườm rà và lãng phí vào hạng nhất nhì thế giới. Tại Úc, mỗi lần thay đổi nội các, chính phủ chỉ đơn giản đến Dinh Tổng Toàn Quyền làm lễ tuyên thệ nhưng tại Việt Nam chỉ quyết định bổ nhiệm một quan chức cấp tỉnh thôi cũng rềnh rang ban bệ từ trung ương về, treo băng rôn, cờ, hoa v.v… lãng phí bao nhiêu thời gian, công sức, tiền bạc.

  1. Khoảng mười năm trước, một tiệm sách tại một trung tâm thương mại ở Sydney treo bảng bằng tiếng Việt: “Ăn trộm là tội phạm, sẽ bị truy tố theo luật hình sự”. Tôi thắc mắc thì người quản lý, một phụ nữ rất cởi mở, giải thích là thời gian qua tiệm bị mất khá nhiều sách và đã theo dõi, sau đó đã bắt quả tang một số sinh viên Việt Nam “không có quốc tịch Úc” trộm sách, đã giao cho cảnh sát. Trung bình mỗi học kỳ một sinh viên tại Úc theo học bốn môn và ít nhất mỗi môn phải mua một cuốn sách tham khảo chính, có môn phải mua đến ba cuốn, mỗi cuốn như vậy, vào thời điểm đó, có giá từ $70 đến $120.

 

THÁCH ĐỐ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai có tai nghe thì nghe!”.

Frank Lloyd Wright – kiến trúc sư vĩ đại người Mỹ – từng đối diện một thách đố: thiết kế Imperial Hotel tại Tokyo, nơi thường xuyên động đất. Ông kiến tạo một nền móng “nổi” trên lớp bùn dày hơn 20m, trải dài hàng vạn mét vuông. Khi hoàn tất, khách sạn đã đứng vững sau một trận động đất khốc liệt, đang khi nhiều toà nhà chung quanh sụp đổ.

Kính thưa Anh Chị em,

Như Frank L. Wright từng đối diện một thách đố, Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta trước một ‘thách đố!’: tâm hồn bạn và tôi là loại đất nào cho Lời Chúa sinh hoa kết quả – đất đường, đất sỏi, đất gai hay đất tốt? Và Chúa Giêsu kết thúc, “Ai có tai thì nghe!”.

‘Đất đường’ là đất đã biến chất khi tâm hồn chúng ta hoá cứng. Chúa Thánh Thần luôn soi dẫn làm điều đúng đắn, nhưng chúng ta lờ đi; và rồi, ma quỷ, như chim chóc sà xuống cướp lấy. ‘Đất đá!’ – Vui nhận Lời và bước theo Chúa trong ‘thời bình’, nhưng đến ‘thời chiến’, chúng ta mất kiên nhẫn, chán nản và ngã lòng. ‘Đất gai!’ – Vướng víu và cảm thấy ngột ngạt trong đời sống tâm linh vì quá lo lắng sự đời và bận tâm các thú vui đời, chúng ta quên rằng, Lời ân sủng của Chúa đòi hỏi hy sinh các thú vui thế gian. Ngoài thập giá, không sự thánh thiện nào có thể tăng trưởng! “Tâm hồn như khu vườn – không vun xới, cỏ dại sẽ tràn lan!” – Voltaire.

Sau cùng, ‘Đất tốt!’ – Đó là mảnh đất giàu, màu mỡ, tinh tuyền; một vùng trũng luôn thấm đẫm mưa móc. Ở đó, hạt Lời đâm rễ, mọc lên tươi tốt, “hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm”, hứa hẹn ‘một mùa bội thu!’. “Tấm lòng quảng đại tựa đất phì nhiêu – càng cho đi, càng trổ sinh, cho đến khi dư tràn không thể đếm được!” – Leo Tolstoy.

Phaolô nhắc nhở Timôthê, “Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách!” – bài đọc một. Điều răn của Chúa là luật Chúa, Lời Chúa, là soi dẫn của Thánh Thần. ‘Thời chiến’ hay ‘thời bình’, Lời vẫn vươn lên! Được như thế, ngày các thiên thần hô to, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!” – Thánh Vịnh đáp ca – chúng ta ắt cũng có thể hoà nhập với “đoàn người sống lại” vang khúc khải hoàn!

Anh Chị em,

“Ai có tai nghe thì nghe!”. Khó khăn lớn nhất không nằm ở việc nghe và đón nhận Lời, nhưng ở sự gìn giữ, vun xới cho hạt mọc lên. Chúng ta đang ở trong ‘thời chiến!’, thời mà đức tin phải đối diện vô vàn thử thách của thuyết tương đối, của ‘trí tuệ nhân tạo’, bao hàm ‘động đất’ và ‘bão tố’ thuộc mọi loại hình. Hãy đi xuống khu vườn bí mật của lòng mình, thiết lập một lớp ‘nệm bùn khiêm tốn’ trong nguyện cầu, sám hối và phân định. “Trong bạn có một miền tĩnh lặng và một thánh điện, nơi bạn có thể trở về bất cứ lúc nào!” – Hermann Hesse. Hãy nhìn lại các mối tương quan của bạn với Chúa, với người và với mình để kịp điều chỉnh. Chính trong sự lặng lẽ đó, Lời sẽ âm thầm đâm rễ, lớn lên và sinh trái. hứa hẹn một ngày mùa hân hoan!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giữa động đất của công nghệ và bão tố của thời đại, xin giữ con kiên vững, trung thành cho đến mùa gặt bội thu!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ

Hạt rơi vào đất tốt : đó là những kẻ nghe Lời Chúa và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.        Lc 8,4-15

4 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng :

5 “Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. 6 Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. 7 Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. 8 Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm”. Nói xong, Người hô lên rằng : “Ai có tai nghe thì nghe.”

9 Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. 10 Người đáp : “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa ; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.

11 “Đây là ý nghĩa dụ ngôn : Hạt giống là lời Thiên Chúa. 12 Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. 13 Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. 14 Hạt rơi vào bụi gai : đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. 15 Hạt rơi vào đất tốt : đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng


 

Tại sao chỉ có Linh mục mới được tha tội? – Cha Vương

Ngày bình yên trong yêu thương và thương cảm nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 19/09/2025.  t3 – 23

GIÁO LÝ: Tại sao chỉ có Linh mục mới được tha tội? Không ai có thể tha tội, nếu Thiên Chúa không ban quyền và năng lực để tha tội nhân danh Người. Giám mục là người ưu tiên được chỉ định để tha tội. Còn linh mục là người cộng tác với giám mục trong việc tha tội này. (YouCat, số 236)

SUY NIỆM: Sự thật thà mà ta chứng tỏ với một người anh em không liên quan gì tới chuyện xưng tội. Việc xưng tội được thực hiện đối với Chúa trên trời, và ở dưới đất đối với một người đã nhận được một sứ mệnh. (Thầy Roger Schutz)

Có người nói rằng: tôi cứ trực tiếp với Chúa không cần linh mục. Nhưng Chúa lại muốn khác. Chúa biết rõ ta, vì ta thường lấy những lý lẽ tốt để biện minh cho mình, và chúng ta dễ bỏ qua tội của mình coi như chỉ là chuyện lỗ lã mà thôi. Vì thế Chúa muốn ta phải nói với Chúa về tội của ta, và xưng thú ra trước mặt Chúa. Nên Chúa trao quyền này cho linh mục: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.”

LẮNG NGHE: Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:22-23)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin tha thứ cho con vì con đã xúc phạm đến Chúa.

THỰC HÀNH: Có bao giờ bạn nghi ngờ ơn tha thứ của Chúa trong toà giải tội chưa? Nếu không có bí tích hoà giải thì không có sự tha thứ. Nếu không có sự tha thứ thì cuộc sống chẳng khác như là một nhà tù.

From: Do Dzung

***************************

Xót Thương Người

Elena Goliakova – Từ nữ hoàng sân băng đến người phụ nữ lang thang trên phố

Anh Chi -Tâm Thức Việt 

 Vào những năm 1990, cái tên Elena Goliakova từng sáng rực như một vì sao trên bầu trời thể thao châu Âu.

Cô gái trẻ người Nga với gương mặt dịu dàng đã lướt trên sân băng như cánh bướm, thanh thoát như thiên nga – mê hoặc khán giả bằng những chuyển động kết hợp giữa sức mạnh và sự uyển chuyển. Mỗi lần Elena xuất hiện, cả khán đài như nín thở, bởi cô không chỉ là vận động viên trượt băng nghệ thuật – cô là thơ, là nhạc, là ánh sáng giữa mùa đông giá lạnh.

Nhưng số phận lại dẫn cô đi theo một con đường không ai ngờ tới…

Năm 2000, Elena rời Nga, mang theo tình yêu với người chồng kiêm huấn luyện viên – Nikolaï Svitov – và một giấc mơ lớn hơn: mang trượt băng nghệ thuật đến một nơi hầu như chưa từng biết đến môn thể thao này – Mexico.

Tại thành phố Monterrey, họ mở một học viện nhỏ. Những đứa trẻ Mexico lần đầu chạm chân lên băng, lần đầu nhìn thấy một thế giới kỳ ảo qua từng vòng xoay của Elena. Cô đã thắp lên một tia sáng mới cho một vùng đất chưa từng có mùa đông.

Thế nhưng, giấc mơ dù đẹp đến mấy cũng có thể vỡ vụn.

Học viện đóng cửa sau vài năm. Năm 2006, cuộc hôn nhân tan vỡ. Elena chìm dần trong nỗi buồn, rồi đến năm 2010, bi kịch thật sự ập tới: chẩn đoán tâm thần phân liệt thể hoang tưởng.

Căn bệnh cướp đi sự tỉnh táo, phá vỡ những cân bằng nội tâm mà cô từng giữ được trên sân băng. Cô không còn là nhà vô địch được tung hô nữa, mà là một người phụ nữ yếu đuối, đang vật lộn với những tiếng nói vô hình trong đầu.

Giờ đây, người ta có thể bắt gặp Elena lang thang trên đường phố Tepatitlán, một thị trấn nhỏ ở bang Jalisco – nơi cô đẩy một chiếc xe cũ kỹ chứa vài món đồ lặt vặt và những con vật nhỏ – những người bạn cuối cùng trong hành trình lặng lẽ này.

Người dân ở đó quen mặt cô. Họ thấy cô đi bộ mỗi ngày, tóc rối bời, ánh mắt mơ hồ, thỉnh thoảng nói tiếng Nga hoặc tiếng Anh – mà hầu hết mọi người không hiểu được. Có người từng muốn giúp, nhưng cô từ chối – vì rào cản ngôn ngữ, hoặc vì nỗi sợ hãi đã ăn sâu do căn bệnh kéo dài nhiều năm.

Câu chuyện của Elena – từ một nữ hoàng sân băng đến người phụ nữ vô gia cư – không chỉ là một bi kịch cá nhân. Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh:

Ánh hào quang có thể vụt tắt.

Sức khỏe tinh thần là kho báu vô giá.

Và ranh giới giữa đỉnh cao vinh quang và vực sâu đổ vỡ… đôi khi mong manh đến không tưởng.

Một giấc mộng băng giá, nay tan thành sương sớm. Một đời người – từ ánh đèn sân khấu, giờ chỉ còn ánh mắt lạc lõng giữa phố thị xa lạ.

St


 

 XƯNG HÔ ĐÚNG CHẤT NGƯỜI MIỀN NAM…

Việt Luận – Viet’s Herald

Dân Miền Nam nào mà xưng hô đồng trang lứa là “cậu” vậy thím Tám?

Bực mình quá xá, phim truyền hình khung cảnh Nam Kỳ, nhà Nam rặc ròi mà cứ “nước dùng”, “chần thịt”, “thịt ba chỉ”, “nửa lạng thịt” rồi học trò Miền Nam mà cứ “cậu” và “tớ”, nhé, ấy, đằng ấy, cô ấy, anh ấy, thế ấy….

Người Miền Nam đâu có cậu và tớ. Bạn bè học chung mày tao hết. Có tin 80 tuổi gặp nhau còn mày tao không?

Mày tao là cách xưng hô rất thông dụng và thân thiết ở Miền Nam. Bạn bè mày tao, anh em mày tao, chú bác cũng mày tao với con cháu, vợ chồng đồng tuổi cũng mày tao tuốt.

“Dí dầu chồng thấp vợ cao

Qua kinh, nước lớn cõng tao bớ mầy!”

Người Miền Nam trang lứa còn xưng “tui” và “bạn”, “tui” và “ông”, “tui” và “bà”, “mình” và “bạn”, rồi xưng tên, thí dụ “Hòa” nói cho “Ngọc nghe nè!

Nam Kỳ khi chỉ ngôi thứ ba là “ổng”, “bả”, “chỉ”, “ảnh”, “cổ”, “con nọ”, “thằng kia”, “ông đó”, “bà kia kìa”, “con nhỏ kia”, “thằng đó”.

Không phải bực mình khi coi phim đâu, trên FB, trên những trang Miền Nam nữa. Vài bạn thiếu kinh nghiệm sống, nó dám khẳng định Nam Kỳ bạn bè gặp nhau xưng “cậu”.

Cậu cái đầu mày! Bạn bè Miền Nam xưng “cậu” khác gì lấy mắm tôm bỏ vô tô hủ tíu Mỹ Tho.

Chữ “cậu” chỉ được người Miền Nam xài trong ngôi xưng hô với người là anh trai hoặc em trai của mẹ mình. Có cậu ruột và cậu họ, cậu bà con.

“Nắng hạ đi mây trôi lang thang cho hạ buồn

Coi khói đốt đồng để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng

Ai biết mẹ buồn vui khi mẹ kêu cậu tới gần

Biểu cậu ngồi, mẹ nhổ tóc sâu

Hai chị em tóc bạc như nhau”

 

Khi mẹ nói chuyện với những người mà mẹ cho là em thời mẹ cũng kêu “cậu” và xưng chị. Thí dụ “Chị nói cho cậu út nghe nè”

Người Miền Nam rất thích xưng hô với người đồng tuổi, đồng lứa mà mới quen là “bạn” và “mình”, không có kiểu “tui nói cậu nghe”.

Thí dụ gặp người mới quen ở chỗ cafe mà phát hiện ra đồng hương sẽ hỏi: “Bạn quê ở Mỹ Thuận hả? Tui dân Cái Vồn nè”.

Nếu hỏi “Cậu ở Mỹ Thuận hả?” là lai Bắc rồi.

Chữ “bạn” cũng là chữ dân Nam Kỳ hay xài, người giúp việc xưa kêu là “bạn ở”, kiếm người ở đợ kêu là “kiếm bạn ở”.

Người Miền Nam lớn tuổi hồi xưa hay xưng “qua” và kêu người nhỏ hơn là “chú em”. Thí dụ: Chú em làm ơn chỉ cho qua nhà ông bảy thiến heo.

Người Miền Nam lớn tuổi thích xưng “con” và “tui”, “con” và chú hay bác.

Thí dụ:

-Con mới ở trển về hả con? Con đi lên trển nhớ mua dùm chú hộp thuốc bổ.

Người Miền Nam lớn tuổi mà xưng “tui” và “cậu” cũng là bị lai Bắc rồi.

Chuyện của Sơn


 

BẤT ĐỘNG SẢN – XỨ THIÊN ĐƯỜNG VÀ CÁI BẪY PHÁT TRIỂN

Nguyễn Quốc Chính

————- *** Góc nhìn Gã Khờ

 Hai lát cắt thời gian

Nếu gom gọn hơn ba mươi năm phát triển của xứ ta thành hai lát cắt, thì thấy ra một bi hài kịch không kém gì chèo làng:

– 1994 – 2010: Thời hậu cấm vận. Người lao động từ chỗ chỉ lo đủ cơm áo đã bắt đầu có đồng dư. Mảnh đất Biên Hòa lúc ấy 30–40 triệu/100m², chừng mười năm lương là gom được. Dù nghèo nhưng vẫn còn mơ ước, vẫn tin rằng con cái mình sau này có thể khá hơn.

– 2010 – 2025: Thời “bất động sản phong thần”. Lương công nhân từ 4 triệu lên 5 triệu sau 15 năm. Còn mảnh đất Biên Hòa? Vọt 15–20 tỷ. Tức là từ 10 năm làm việc biến thành… 300 năm.

Một xã hội văn minh hơn, lao động cực nhọc hơn, mà đời sống số đông lại thụt lùi trước miếng đất.

Ấy vậy mà hình như các nhà quản trị quốc gia… không thấy? Hay là thấy nhưng cứ giả vờ lơ đi cho nó “hợp quy hoạch”?

. Bất động sản – thánh thần hút máu

Ở những xứ đàng hoàng, bất động sản chỉ là chỗ ở, chỗ làm, hạ tầng. Chiếm vài phần trăm GDP thôi. Ở Mỹ khoảng 3%.

Còn thiên đường của ta? Đất đai chiếm tới 60–70% GDP. Cả quốc gia biến thành sòng bạc đất đai.

Hậu quả nhãn tiền:

– Giá đất leo như ngựa vía, chi phí sản xuất – kinh doanh đội lên nóc.

– Người lao động cả đời nai lưng trả nợ nhà, còn tiền đâu mà tích lũy, học hành, sáng tạo.

– Doanh nghiệp bỏ nghiên cứu chế tạo, rủ nhau đi buôn đất cho nhanh giàu.

Bất động sản ở ta chẳng sinh ra giá trị mới. Nó chỉ chuyển tiền từ túi số đông sang túi số ít. Thế mà vẫn có người gọi đó là “động lực tăng trưởng”. Ừ thì… tăng trưởng máu mồ hôi của dân đen cũng là tăng trưởng cả thôi!

. Thế giới và xứ ta: hai cách làm giàu

Nhìn ra thế giới: Gates làm Microsoft, Musk làm Tesla – SpaceX, Bezos làm Amazon… Họ tạo công nghệ, sản phẩm, hàng triệu việc làm, đóng thuế, nâng tầm quốc gia.

Còn ở ta? Tỷ phú giàu nhất lên từ… bán đất. Rồi khi mở sang dịch vụ – siêu thị, taxi, giáo dục, y tế – thì đè bẹp luôn sinh kế nhỏ bé của dân: xe ôm, taxi truyền thống, quán tạp hóa.

Tóm lại: ở nơi khác, người giàu mở lối mới. Ở ta, giàu là… chặn lối cũ.

Các nhà quản trị quốc gia liệu có so sánh bao giờ, hay cũng bận… đi cắt băng khánh thành dự án đất vàng?

. Không gian sống và tương lai con người

Một xã hội văn minh cần không gian rộng rãi để con người thở, học hỏi, sáng tạo. Nhà phương Tây có sân vườn, gara, phòng đọc sách, sân chơi cho trẻ.

Còn xứ ta, căn hộ 50m² giá 10–30 tỷ. Người dân sáng đi tối về, chui rúc trong bốn bức tường. Không gian sống nghèo nàn kéo theo nghèo nàn sáng tạo, sức khỏe và tâm hồn.

Một dân tộc bị “nhốt” trong căn hộ khép kín thì mong gì sinh ra thế hệ bứt phá khoa học – công nghệ?

Hay là các nhà quản trị quốc gia cho rằng: sáng tạo không cần không gian, miễn có nghị quyết chỉ đạo?

. Cái bẫy phát triển

Hơn 15 năm “thời kỳ vàng” bất động sản, Việt Nam đạt được thành tựu vẻ vang:

– Giá nhà đất tăng 400–500 lần.

– Thu nhập người lao động chỉ nhích 25%.

– Khoảng cách giàu nghèo rộng như vực thẳm.

– Kinh tế lệch hẳn sang đầu cơ, bỏ mặc sản xuất.

Một quốc gia không thể giàu bằng cách bán lại đất cho chính dân mình. Muốn phát triển, phải dựa vào giáo dục, khoa học, công nghệ, sản xuất, xuất khẩu.

Nếu không, cái gọi là “thiên đường bất động sản” chỉ là nhà tù cho số đông.

Và câu hỏi cuối cùng: phải chăng các nhà quản trị quốc gia không nhìn thấy điều này?

Ảnh internet

VẪN TUYỆT VỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ”.

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của Irving Berlin là “Mơ Về Một Giáng Sinh Tuyết Trắng” – “I’m Dreaming of a White Christmas”. Ngày kia, Berlin được hỏi, “Có câu hỏi nào – chưa từng được hỏi – ông muốn ai đó đặt ra?”. Berlin trả lời, “Có chứ!”; đó là, “Bạn nghĩ sao về nhiều ca khúc không là những ‘điểm nhấn’ nổi tiếng?”. “Tôi sẽ trả lời – tôi chỉ nghĩ – chúng vẫn tuyệt vời!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong cái nhìn của Chúa Giêsu, bất cứ ai theo Ngài, dẫu không là những ‘điểm nhấn’, họ ‘vẫn tuyệt vời!’. Tin Mừng hôm nay tiết lộ, trên bước đường rao giảng của Ngài, “Có Nhóm Mười Hai” và “mấy phụ nữ!”.

Đó là những cộng sự viên tuy khác biệt, nhưng có Chúa Giêsu, họ trở nên đặc biệt! Bởi lẽ, khác biệt của từng người lại trở thành điểm mạnh. Việc chọn các môn đệ đầu tiên từ nhiều hoàn cảnh khác nhau cho thấy Chúa Giêsu là một lãnh đạo bậc thầy. Họ sẽ không là bạn của nhau, càng không là những người làm việc với nhau nếu không vì Ngài. Với Ngài, họ hợp tác, trân trọng và đánh giá cao khả năng của nhau. Có Ngài, khác biệt không còn là dị biệt, nhưng là những ưu thế để họ ‘vẫn tuyệt vời’. “Những điều vĩ đại trong công việc không bao giờ được thực hiện bởi một người; chúng được hoàn thành bởi một nhóm người!” – Steve Jobs.

Không chỉ các ông đi theo Chúa Giêsu; nhưng còn có các bà. Các phụ nữ này tuy khác nhau nhưng việc Ngài cứu chữa và biến đổi họ xem ra giống nhau. Và một khi chọn theo Ngài, họ trở thành những điểm mạnh; ít nữa, đã hy sinh của cải và thời giờ cho sứ vụ. “Phụ nữ nâng đỡ một nửa bầu trời!” – Mao Zedong.

Chúa Giêsu có khả năng truyền cảm hứng cho bất cứ ai. Chúng ta được mời gọi xây dựng Vương Quốc ở mọi cấp độ trong vị trí đấng bậc mình. Vấn đề là Ngài có trở nên trung tâm cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có thuộc về Ngài không? Hay đi theo Chúa, chúng ta lại tính toán theo thói đời, rán thành những ‘điểm nhấn’, để rồi không biết mình thuộc về ai, làm gì! Phaolô lưu ý, “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” – bài đọc một – Giuđa Iscariôt là một ví dụ. Thánh Vịnh đáp ca thật thâm trầm, “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!”. Nước Trời ở đây là Chúa Giêsu, trái tim của mọi ơn gọi, để mỗi người tuy ‘không nổi trội’ mà ‘vẫn tuyệt vời!’.

Anh Chị em,

“Có Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ”. Là những môn đệ Giêsu – nam hay nữ – chúng ta đừng bao giờ coi thường một ai, dù người ấy không nổi bật. Lấy Chúa Giêsu làm điểm quy chiếu, chúng ta trở nên những cộng sự viên của Ngài và của nhau; bằng một đời sống yêu thương, chúng ta đón nhận nhau. Với ơn Chúa, chúng ta trở thành môn đệ và anh chị em. ‘Khác biệt’ không làm phân hoá, có Chúa Giêsu, chúng ta trở nên những ‘điểm nhấn’ cho nhau và cho thế giới. Không cần nổi bật, không cần là ‘điểm nhấn’, chỉ cần thuộc trọn về Ngài, chúng ta vẫn có thể tuyệt vời.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho từng việc nhỏ bé của con thành viên gạch xây Nước Trời – dù viên gạch hơi méo, xin Ngài vẫn vui nhận!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXIV Thường Niên, Năm  lẻ:

Các bà cùng đi với Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai, đã lấy của cải mình mà giúp đỡ các ngài.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 8,1-3

1 Khi ấy, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.


 

Tôi có được xưng tội, nếu không có tội nặng không? – Cha Vương

Con cưng của Chúa ơi! Lời chúc hôm nay là Bạn có được 1 quả tim giàu lòng từ bi và nhân hậu để mang yêu thương tha thứ vào nơi oán thù nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 18/09/2025  t2-23

GIÁO LÝ: Tôi có được xưng tội, nếu không có tội nặng không? Không có tội nặng thật thì không buộc xưng tội. Nhưng xưng tội là một ơn lớn để được chữa lành, và làm cho người ta được kết hợp chặt chẽ hơn với Chúa. (YouCat, số 235)

SUY NIỆM: Ở các cuộc hội họp hoặc ngày giới trẻ thế giới, người ta thấy đâu đâu cũng có giới trẻ tìm đến bí tích Hòa giải. Các Kitô hữu coi trọng ước muốn theo Chúa Kitô thì tìm nơi bí tích này niềm vui lại lên đường với Chúa. Ngay các vị thánh cũng thường đi xưng tội. Khi có thể, các ngài cần để lớn lên trong khiêm tốn và bác ái, và để được ánh sáng tốt lành của Chúa chiếu soi tận góc nhỏ của tâm hồn. (YouCat, số 235 t.t.)

   Người Kitô hữu có buộc phải xưng các tội nhẹ không? Không, các tội nhẹ không buộc phải xưng. Nhưng có nên xưng không? Có. Phải nên thường xuyên xưng các tội nhẹ để:

 – Giúp rèn luyện lương tâm: lương tâm sẽ nhậy bén đối với tội lỗi hơn.

 – Giúp chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu nơi ta.

 – Càng ngày càng thăng tiến trong đời sống ơn thánh và nên giống Chúa Kitô hơn.

   Khi xưng các tội nhẹ, điều quan trọng vẫn là lòng thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Đừng cố xưng thật nhiều tội nhẹ nhưng lại không chủ tâm chừa tội nào. Những tội nhẹ ta cần xưng là những tội ta đang quyết tâm sửa mình.

❦ Mặc dù đôi khi có vụng về, việc xưng tội là dịp quyết định để ta tìm lại được vẻ tươi mát của Tin Mừng nhờ đó ta được tái sinh. Ở đó ta học biết loại bỏ những hối hận của mình bằng một hơi thổi, như đứa trẻ thổi vào chiếc lá mùa thu đang quay cuồng. Ta tìm được ở đó hạnh phúc của Thiên Chúa, khởi đầu của niềm vui hoàn hảo. (Thầy Roger Schutz)

❦ Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa. (Thánh Gioan Kim Khẩu).

LẮNG NGHE: Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. (1 Ga 1:9)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, lòng thương xót của Chúa luôn lớn hơn tội lỗi của con. Xin giúp con biết siêng năng lãnh nhận Bí tích Giao Hòa và biết thành thực thú nhận tội lỗi của mình mỗi khi lãnh nhận Bí tích này để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn.

THỰC HÀNH: Tội nhẹ nào mà bạn hay lập đi lập lại? Hãy quyết tâm thay đổi và loại bỏ nhé. 

From: Do Dzung

**********************

Bước Chân Tìm Về (Sáng tác: Sr. M. Tigon) – Angelo Band

Nghĩ về sự liêm sỉ của người cầm bút – Lê Nguyễn

Ba’o Tieng Dan

Lê Nguyễn

16-9-2025

Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, sự xung đột giữa tài năng và nhân cách, sự song hành giữa công và tội là cả một bi kịch.

Trong lịch sử thời Pháp thuộc, đó là những Hoàng Cao Khải, Cao Xuân Dục ở miền Bắc, là Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lộc ở miền Nam. Hai vị trước vừa tích cực ra tay đàn áp, sát hại nghĩa quân kháng chiến chống Pháp, vừa để lại cho đời nhiều công trình văn hóa lịch sử quan trọng còn lưu giá trị đến ngày nay. Hai ông sau cũng lập nhiều “đại công” với Pháp, trong đàn áp các cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân, Mai Xuân Thưởng, được thăng đến hàm Tổng đốc, đến cuối đời cũng làm được đôi điều ích nước lợi dân.

Ông họ Trần ra sức huy động người đào con kênh Tổng đốc Lộc, giúp mở mang sự vận chuyển của cả một vùng rộng lớn, ông họ Đỗ ra sức mở cuộc lạc quyên để xây dựng cho thành phố Sài Gòn ngôi trường Con gái bản xứ (École des filles indigènes), sau là trường Áo tím, trường Gia Long, nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai.

Đến giữa thế kỷ XX, bên cạnh những tác phẩm của Tự lực văn đoàn, cả một thế hệ học sinh, sinh viên miền Nam còn khao khát nền văn học tiền chiến với những Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư…, mà vì lý do chia cách hai miền, tác phẩm của họ không được phép xuất bản ở miền Nam. Bản thân người viết bài này khi cầm được những Thơ Thơ, Gửi Hương Cho Gió của Xuân Diệu, Lửa Thiêng của Huy Cận, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân từ một ông “Bắc kỳ di cư” chuyên cho thuê sách cũ, lòng rưng rưng xúc động như bắt gặp của quý tự nghìn đời.

Thế rồi, sau năm 1954, sự kiện Nhân văn – Giai phẩm như một quả bom nổ giữa trời quang, lột trần trụi nhiều sự thật, làm sụp đổ những thần tượng của thế hệ chúng tôi. Bi kịch đó đeo đẳng cuộc đời mỗi nhà văn, nhà thơ cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, đồng thời cũng tạo nên một bài học về liêm sỉ của người cầm bút.

Những năm trước 1975, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc biến tuyên truyền thành vũ khí sắc bén nhất để giành lấy thắng lợi về các mặt tinh thần, tâm lý, kể cả mặt ngoại giao. Đó là thời kỳ hoàng kim của Hòn Đất (Anh Đức), Người Mẹ Cầm Súng (Nguyễn Thi), thơ Tố Hữu …, những “tác phẩm” vẽ lên hình tượng những người cầm súng bảo vệ mảnh đất mình đang sống không còn là những con người, mà là một loài ngạ quỷ hút máu người, ăn thịt người, lấy sự chém giết làm lẽ sống.

Sau tháng 4.1975, tưởng như với sự thống nhất về địa lý, giang sơn thu về một mối, một quá khứ với bao nhiêu “sự thật” bị vẽ vời, phóng đại sẽ được xếp vào tàng cổ viện, không ngờ nó vẫn tiếp diễn với quán tính cũ, với một thế hệ nhà văn kế thừa sự bịa đặt của lớp đàn anh.

Lần này, văn chương còn được sự chắp cánh của phim, kịch, tạo nên những Ván Bài Lật Ngửa, Ông Cố vấn, Biệt Động Sài Gòn,… và nhiều lúc hình ảnh những kẻ bại trận còn được miêu tả ghê rợn hơn, như cảnh người lính miền Nam moi tim gan đối phương, nướng ăn và còn chia nhau hai hạt… tinh hoàn. Sự tưởng tượng cao siêu đến mức ghê tởm!

Xét cho cùng, so với Hòn Đất của Anh Đức, Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi và “tác phẩm” của nhiều người cùng thời khác, thì Mưa Đỏ của Chu Lai chẳng là cái đinh gì. Không may cho ông, quyển tiểu thuyết được chuyển thể thành phim trong một thời điểm mà lương tri con người và tinh thần yêu chuộng sự trung thực và công bằng đang được mạng xã hội dành cho những điều kiện tốt nhất để phát huy. Vì thế, thay vì phùng mang trợn mắt, cãi chầy, cãi cối như nhiều người khác, sự bối rối của ông Chu Lai cũng còn ẩn chứa một chút liêm sỉ của người cầm bút, ta nên thông cảm phần nào với ông để nhà văn còn có dịp ngẫm lại mình.

Nhà văn Chu Lai và tiểu thuyết Mưa Đỏ của ông đang gây tranh cãi. Nguồn: CAND

Thân phận một nhà văn quốc doanh lắm trái ngang, không dễ gì nói được hết những suy nghĩ của mình. Đến như Phùng Quán, vang danh một thời với Lời Mẹ Dặn, mà còn có lúc tự thú rằng ông đã ngồi ở Hà Nội để tưởng tượng nên một Vượt Côn Đảo “địa ngục trần gian”.

Cũng xin đừng như ai kia, đánh tráo khái niệm bằng cách so sánh tính hư cấu của bộ phim lừng danh Titanic với phim Mưa Đỏ, qua cảnh mô tả anh lính miền Nam thiêu sống anh tù binh phương Bắc. Sao nỡ lòng so sánh như vậy? Trong Titanic, sự hư cấu nâng giá trị nghệ thuật lên một tầm cao mới, còn trong Mưa Đỏ, sự hư cấu mang tính bịa đặt nhằm vùi lấp danh dự của người bại trận xuống bùn đen, và ghi đậm trong tâm hồn thế hệ trẻ sự ngộ nhận và thù hận đối với thế hệ cha anh của họ.

Ngày nay, nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, đã là xa xỉ chưa? Mình nghĩ là chưa. Vẫn còn đó những tiếng nói của lương tri đang ngày càng nở rộ trên mạng xã hội, đặc biệt của những người từng lớn lên dưới mái trường XHCN, nay vừa qua một thời tuổi trẻ và đang nhìn lại xã hội mình đang sống với cái nhìn trung thực, thẳng thắn và nhân văn. Đọc bài viết và bình luận của những bạn đó, mình rưng rưng xúc động, hy vọng vào một thế hệ kế thừa đang ngày càng sáng suốt, nhiều tình người hơn.

Nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến nhà thơ Hữu Loan, con người đã coi khinh nghịch cảnh, đạp bằng trở lực, dành quãng đời còn lại đi đập đá và thồ đá để nuôi sống gia đình. Con người đó xứng đáng được tạc thành một tượng đài bất tử, và tên được đặt cho nhiều con đường để vinh danh cho tiết tháo và liêm sỉ ở đời.

Chừng nào xã hội chưa làm được điều đó, nhiều người trong chúng ta vẫn còn bất an cho tương lai của những thế hệ đến sau mình.


 

CHÚA GIÊSU DẠY TA CÁCH TIÊU TIỀN – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hằng ngày trong cuộc sống đó là “tiền.”  Kết quả của việc làm, tương quan đổi chác là “tiền.”  Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ.  Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.  Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta cách sử dụng đồng tiền khi kiếm được.

Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã được chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng ta quá nhiều.  Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn.

 Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10).  Vì ham thích tiền mà một số người từ bỏ đức tin.  Lòng tham lam và thái độ tôn thờ tiền bạc khiến người ta trở thành kẻ bất lương.  Bất lương đưa đẩy người ta đến hành động bất chấp và bất chính, khiến anh em gia đình bất hòa, làm xã hội bất công.  Hậu quả là, mọi người chịu cảnh sống bất an, bất mãn, bất bình và bất hạnh, rồi nhanh bị… bất tỉnh!    

     Bài đọc trích sách tiên tri Amos cho thấy vì tiền mà người ta bất chấp tốt xấu.   Người ta sẵn sàng làm ăn bất chính lừa gạt mua thừa bán thiếu, coi thường giá trị con người, hạ xuống chỉ như món hàng, sánh bằng đôi giầy đôi dép, thậm chí có người còn coi tiền hơn cả những giá trị tôn giáo cao quí nên họ chỉ mong cho ngày lễ mau qua để còn kiếm tiền (x. Am 8, 4-7).

 Bài Phúc Âm cho thấy vì tiền mà viên quản lý được chủ tín nhiệm đã trở thành kẻ bất lương, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, bất chấp sự thật, gian giảo đổi trắng thành đen, viết sai văn tự, miễn là có lợi cho mình. Đến ông chủ cũng phải thốt lên tay này thật khôn ngoan quỷ quyệt!

Cách sử dụng của cải gian dối

 Chúa Giêsu đưa ra ví dụ này chắc chắn không phải để khuyến khích sự xảo quyệt hay bất lương, không cần sống trung thực.  Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Hãy khôn ngoan và trung thực, biết chọn điều tốt và không xấu.  Chúa muốn mời gọi chúng ta hãy sống khôn khéo!  Với trí thông minh và sự khôn khéo giúp chúng ta chiếm hữu được nước trời bằng những đồng tiền gian dối.

 Anh quản lý có phần thông minh nhưng lại bất lương, anh bị tố cáo là đã phung phí tài sản của chủ, và sắp bị sa thải.  Ðối mặt với một tình cảnh bị đuổi việc, ý thức mình không thể làm được các việc khác, về nhà “cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” anh tìm ra một lối thoát.  Với sự khôn ngoan nhưng xảo quyệt, anh quyết định lấy cắp lần cuối.  Anh đã làm gì?  Anh gọi các con nợ của chủ lại và giảm các khoản nợ mà họ đã nợ ông chủ trước đó.  Chính điều này giúp anh biến họ thành bạn bè và vì thế mà được đền ơn.  Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9).

 Có người hỏi, khi Chúa Giêsu nói: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè” có nghĩa là gì, và việc sử dụng của cải mà Chúa Giêsu đã nói liên quan gì đến “đời sống vĩnh cửu”?  Thưa, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta kết bạn bằng tiền của.  Chúa chỉ cho chúng ta biết dùng tiền của để thương giúp tha nhân vì con người thì quí hơn mọi thứ mà chúng ta có thể chiếm hữu, dùng tiền mà mua lấy bạn hữu để chính họ sẽ đền ơn mà mời đón chúng ta vào nước trời, dùng tiền của sang giàu mà xây dựng tình huynh đệ và đoàn kết, thì sẽ không chỉ chiếm hữu được Thiên Chúa mà còn nối kết được với tha nhân trong tình sẻ chia những gì Chúa đặt để trong tay chúng ta.

 Câu hỏi tự vấn lương tâm của viên quản lý bất lương “Mình phải làm gì đây?” (Lc 16, 3) khiến chúng ta suy nghĩ.  Ðối diện với những thiết sót, sai lầm và thất bại của chúng ta, Thiên Chúa bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta luôn có thời gian và cơ hội để sửa điều ác bằng cách làm điều thiện.  Ai đã từng làm cho người khác phải đau khổ, hãy làm cho ai đó hạnh phúc.  Ai đã từng chiếm đoạt hoặc tham ô, hãy giúp đỡ người thiếu thốn.  Làm như vậy, chúng ta sẽ được Chúa ca ngợi, bởi vì chúng ta đã hành động khôn khéo, nghĩa là với sự khôn ngoan của người nhận biết mình là con cái Thiên Chúa và dám đánh liều đời mình vì Nước Trời.

 Vì thế, chúng ta hãy xin Ðức Trinh Nữ rất thánh cho chúng ta biết trở nên khôn ngoan lựa chọn những bảo đảm của sự sống đời đời, chứ không phải thành công thế trần; để đến ngày phán xét chung cục, những người đã từng cần đến sự giúp đỡ của chúng ta chứng thực rằng chúng ta đã chiêm ngưỡng và phục vụ Thiên Chúa.  Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim