Lời của cụ Phan Chu Trinh 100 năm trước:

 
 
Image may contain: 1 person, text
Bình Vương Gia

 

Lời của cụ Phan Chu Trinh 100 năm trước:

1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước, thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.

2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề, thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.

3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc, thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.

4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.

5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có, thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.

6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết, thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.

7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo, thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.

8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.

9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân, thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.

10. Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm, thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v…
BVG.”Sưu tầm”

Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ, Nước Úc hay Quốc Gia Bạn Đang Sống…

 Van Pham‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people and text
Image may contain: one or more people and people standing
+2

Van Pham added 6 new photos.

 

Đảng CSVN luôn mồm rêu rao, ra rả suốt bao thập niên qua. :”Yêu Nước là yêu chủ nghĩa Xã hội”.

Thực chất, những lời tuyên truyền bịp bợm, xảo trá của những người CS chỉ lôi kéo được những kẻ cuồng tín vì quyền lợi và lừa bịp người dân quê ít học, thiếu hiểu biết.

Gần 5000 năm dựng nước và giữ nước. Tổ tiên, ông bà chúng ta có bao giờ kêu gọi hãy yêu chế độ là yêu nước không? Nhưng biết bao conngười đã chết vì quêhương trong suốt chiều dài lịch sử ấy. Để ngày nay giang sơn gấm vóc dần dần bị đảng CSVN bán đứng cho Tàu…

Bạn chẳng cần tuyên bố tôi yêu nước Việt. Nhưng hãy hành động cứu lấy quê hương, kẻo đảng CSVN sẽ bán đứng cho Tàu trong nay mai. Trong đó có ông bà, cha mẹ, vợ con, bạn hữu của bạn. Đó mới thực là lòng Yêu Nước…
****************

Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ, Nước Úc hay Quốc Gia Bạn Đang Sống…

A. Bạn đến nước Mỹ, Úc…. vì bất cứ một lý do nào đó. Tỵ nạn CS. Vượt biên. HO. Đoàn tụ gia đình. Anh chị em bảo lãnh vv…và vv…và ngay cả giả chồng giả vợ nữa, bạn đều được nước Mỹ đối xử nhân đạo và hào phóng với bạn. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ hay Úc….

B. Sống ở nước Mỹ, Úc…. bạn được giúp đỡ theo nhu cầu: Cần nhà, bạn có housing. Đau ốm, sinh nở bạn được nhà thương trị liệu. Cần thức ăn bạn có foodstamp. Nếu bạn có con nhỏ mà không đi làm được thì mỗi tháng, ngoài food stamps, bạn còn được nhận một số tiền gọi là Welfare. (nhiều người gọi là tiền phước thiện.) Tiền này tuy không nhiều nhưng cộng với housing và những sự trợ giúp quan trọng khác, giúp bạn đủ sống trong giai đoạn cần thiết để vượt qua những khó khăn (ở đây, người viết không nói đến trường hợp những người không bao giờ đi làm, hay đi làm thì chỉ lấy tiền mặt và nhiều chục năm dài sống bằng welfare.).

Nếu nhà bạn có cha mẹ già đau yếu hay chẳng may có người tàn tật, chính phủ sẽ trả tiền cho người đến săn sóc, tắm rửa nấu ăn, mỗi ngày ít nhất là 4 giờ hay nhiều hơn, tùy tình trạng. Mỗi tháng nếu bạn không có tiền trả tiền điện, tiền heat, bạn sẽ được giúp trả. Bạn hay con cái bạn cần học thì được đến trường, không có tiền đóng học phí, nước Mỹ đóng cho bạn và còn cho thêm tiền bạn mua sách vở, tiêu xài từng học kỳ. Và ngay cả khi chết, nếu không có tiền lo hậu sự, chính phủ Mỹ cũng giúp bạn chu toàn. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

C. Tại Việt Nam bạn ở nhà với cha mẹ, lúc còn bé và nếu cha mẹ bạn khá giả, bạn mới được học hành, chu cấp đầy đủ. Nếu cha mẹ nghèo, bạn không được đi học mà còn phải đi làm để góp vào với gia đình mà sống. Đúng không? Nhưng khi bạn vào nước Mỹ rồi thì dù bạn chưa đóng góp được chút gì cho sự hưng thịnh của nước Mỹ, bạn cũng vẫn được hưởng mọi dịch vụ và phúc lợi, công bằng như mọi người công dân Mỹ đã từng đóng góp mà người viết đã nói ở phần trên. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

D. Bạn có biết những khoản tiền đó từ đâu mà có không? Là từ những người đến đây trước bạn, họ ý thức được lòng nhân đạo và sự hào phóng của những người đến trước họ, đã giúp họ cơ hội để họ được là họ hôm nay và họ tri ân bằng cách làm việc không lãnh lương chui, họ sẵn sàng và vui vẻ đóng thuế để góp công xây dựng nước Mỹ được giàu mạnh, cho nước Mỹ có đủ ngân khoản mà tiếp tục giữ được truyền thống tốt đẹp này để lúc bạn đến, chính phủ Mỹ sẽ chu cấp cho bạn và cho gia đình bạn. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

E. Khi bạn đi làm, dù bất cứ hãng xưởng nào và bất cứ tiểu bang nào trên toàn quốc, tùy theo khả năng, chuyên môn và nhu cầu công việc, không kể màu da, tiếng nói, bạn được lãnh lương như đồng nghiệp và được đối xử công bằng như đồng nghiệp. Nếu bạn bị bức hiếp, bạn được pháp luật che chở để lấy lại công bằng cho bạn. Không có tiền trả luật sư, bạn được quan toà chỉ định luật sư bào chữa miễn phí. Và ngay cả những tội phạm đang bị giam cầm cũng được luật pháp Mỹ che chở. Như thế, nước Mỹ tốt đẹp và tình người cao cả quá. Đúng không? Nhưng bạn không phải yêu nước Mỹ.

G. Còn nhiều chuyện khác nữa cho lợi ích của bạn nhưng người viết chỉ kể ra đây những điều căn bản cần thiết. Qua những điều vừa kể ra, bạn có đồng ý với tôi là không nhiều nơi trên thế giới, chính quyền lại đối xử với người nhập cư tốt như nước Mỹ và bạn đã may mắn được nhập cư vào Mỹ và sống trên nước Mỹ. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

H. Người viết nhắc nhiều lần câu: “Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.”.Bởi vì, dù sai hay đúng, tốt hay xấu, tình cảm của con người là những cảm nghĩ rất riêng, rất độc lập, bất khả xâm phạm và xuất phát tự trái tim của họ. Nhất là với tình yêu thiêng liêng mỗi người dành cho nơi họ sanh hay nơi họ sống. Đó là MỘT TÌNH YÊU TỰ HIẾN VÀ TỰ NGUYỆN DO BẢN CHẤT, DO Ý THỨC, DO SỰ TRƯỞNG THÀNH, DO LÒNG BIẾT ƠN, DO LƯƠNG TÂM, DO ĐẠO ĐỨC, GIÁO DỤC VÀ LIÊM SỈ CỦA MỖI CON NGƯỜI, KHÔNG AI CÓ THỂ YÊU NƯỚC GIÚP AI HAY BẮT BUỘC AI YÊU NƯỚC CẢ.

Vì thế, dù bạn sống ở Mỹ, ở Úc hưởng mọi phúc lợi của công dân Mỹ, Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ, nước Úc… TRỪ KHI BẠN TỰ NGUYỆN VÀ TỰ HIẾN.
**************

Tình Yêu là gì? Không ai nhìn thấy TÌNH YÊU nó hình thể gì, màu sắc gì nhưng người ta lại dễ dàng nhận ra Tình Yêu khi nó được thể hiện bằng hành động. Người mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, săn sóc con cái chu đáo, hy sinh cả đời mình cho con vì bà YÊU CON bà. Người Lính can đảm xông lên trước mũi súng quân thù, dù biết rằng đó là phút giây sinh tử nhưng để bảo vệ từng tấc đất quê hương, người lính ấy đã không ngần ngại vì Người Lính đó YÊU QUÊ HƯƠNG.

Lại có những người hy sinh mạng sống mình trên đất nước của dân tộc khác để ngăn chặn những tai họa, những chết chóc, bất công cho người không cùng chủng tộc. Vì một mục đích nhân bản hay lý tưởng tốt đẹp, họ đã làm thế và gọi chung là TÌNH YÊU NHÂN LOẠI. Như Mẹ TERESA, Mẹ đã đem TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ TÌNH YÊU GIỮA CON NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI đến những căn nhà ổ chuột, những nơi nghèo hèn dơ dáy, đã dùng bàn tay bác ái của Mẹ an ủi, thương yêu săn sóc bao nhiêu người ốm đau, thương tật, thân thể đã bốc mùi hôi thúi mà ai cũng sợ nhìn vào. Những TÌNH YÊU ấy không ai bắt buộc hay xin xỏ mà chỉ được thể hiện bằng TÌNH YÊU TỰ NGUYỆN VÀ TỰ HIẾN.

Ở đây, mục đích của bài viết này, người viết chỉ mong rằng, bạn không cần phải yêu nước Mỹ, nước Úc. Nhưng xin bạn đừng vô tình hay cố ý làm tổn thương một đất nước đã cưu mang bạn, giúp cho bạn mọi phương tiện, mọi cơ hội để bạn vươn lên sống cuộc đời tươi đẹp mà nhiều người trong nhiều quốc gia trên thế giới ước ao.

BẠN HỎI : TẠI SAO ĐẢNG CS LÃNH ĐẠO YẾU HÈN NHƯ THẾ MÀ HỌ LẠI NẮM ĐƯỢC CHÍNH QUYỀN LÂU NHƯ VẬY .

V Phung Phung shared Nguyễn Thanh‘s post.
 
 
 
Image may contain: outdoor
Nguyễn Thanh

 

BẠN HỎI : TẠI SAO ĐẢNG CS LÃNH ĐẠO YẾU HÈN NHƯ THẾ MÀ HỌ LẠI NẮM ĐƯỢC CHÍNH QUYỀN LÂU NHƯ VẬY .

Đáp : 
Vũ khí giúp CS nắm được chính quyền gồm 3 vũ khí cực kỳ lợi hại
1 . Vũ khí tuyên truyền dày đặc
2 . Nói láo ,xảo trá ko biệt ngượng mồm và họ biết vẽ ra 1 xhcn tốt đẹp đầy hứa hẹn .
3 . Họ dùng bạo lực cai trị

Nguyên nhân giúp Việt Minh lên nắm được chính quyền vào năm 1945 là do : 
– Có một khoảng trống về quyền lực 
– Chính quyền vua Bảo Đại đang suy yếu và xin rút lui ,nhường quyền cho Việt Minh lãnh đạo để giành độc lập ( vì giai đoạn này ảnh hưởng của đảng Việt Minh lớn và được sự ủng hộ lớn từ nhân dân )
– Nạn đói 1944 – 1945 đã làm gần 2 triệu đồng bào chết đói .Làm cho nhân dân tức giận chính quyền ,và căm thù phát xít Nhật . Họ khát khao thay đổi chính quyền ,và đuổi Nhật ,Pháp để dành độc lập . 
– Ngày 14- 8 – 1945 Nhật đã đầu hàng đồng minh .

Trong thời kỳ chống Pháp ,chống Nhật chỉ có Đảng Việt Minh là hoạt động mạnh nhất ,có kỷ luật ,có kỷ cương ,và đường lối chiến lược rõ ràng . Họ sẵn sàng đạp đổ ,tiêu diệt các đảng phái khác để giành vị trị lãnh đạo chủ chốt .( tham khảo hồi ký 1 cơn gió bụi của Trần Trọng Kim ) .Nhưng năm 1945 Việt Minh chỉ thống nhất được Bắc kỳ và Trung Kỳ ,Nam kỳ vẫn bị Pháp cai trị .

Chủ thuyết của CS họ chỉ phục vụ cho lý tưởng của CS quốc tế ,cho 1 XHCN đại đồng chứ không có tinh thần Dân Tộc quốc gia ,cho nên họ sẵn sàng tiêu diệt các đảng phái khác để phục vụ cho lý tưởng cs . Cho nên người CS ko có hòa hợp và liên kết với đảng phái khác ,vì vậy CS họ tìm cách tiêu diệt những đảng phái chống lại họ ,ko theo họ . Ông Lê Duẩn từng phát biểu tại Nga rằng ” VN đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và TQ ” .

Cải cách ruộng đất 1954 ở Miền Bắc ,với chiêu bài dành đất lại cho người nghèo chỉ qua là 1 chiến lược tiêu diệt tận gốc tầng lớp tri thức tiến bộ ,tàn dư phong kiến để xây dựng 1 XHCN hoàn toàn mới ,ko có vật cản con đường đi lên XHCN của họ . Lấy tầng lớp nông dân ,bần cố nông ít chữ ,ít hiểu biết để dễ mị dân ,dễ cai trị ,dễ nhồi sọ .Triết lý của Mao Trạch Đông là ” Tri thức là cục phân ” đã minh chứng cho chính sách tiêu diệt tận gốc tri thức .

Sau khi dànhđược chính quyền phía bắc ,họ bắt đầu tẩy não người Dân bằng những chiêu bài triết lý Mác – Lê vĩ đại ,sáng suốt ,tài tình và tư tưởng Mao trạch Đông .Họ xây dựng hình tượng cụ hồ vĩ đại ,thật đẹp thật hoàn hỏa để Nhân Dân tôn thờ và thần tượng như 1 vị thánh .Chủ nghĩa CS họ chỉ xem Mác – Lê là ông cụ tổ tiên của họ thôi.

Để thực hiện âm mưu cướp được Miền Nam VN ,người CS tiếp tục dùng tuyên truyền dày đặc và nhồi sọ người Dân rằng ” Miền Nam đang bị Mỹ xâm lăng ,đồng bào đang bị Ngụy kiềm kẹp và kéo lê máy chém khắp Miền Nam tàn sát đồng bào của mình ” . Vì vậy đồng bào Miền Bắc phải lên đường giải phóng MN thống nhất đất nước để đi lên XHCN tươi đẹp. Thông tin không có ,đất nước đang chia cắt ,họ dùng bạo lực cai trị và gắn trên đầu người Dân cái vòng kim cô khống chế não người Dân bằng chính sách giáo dục ngu dân ( ko biết tư duy ,chỉ theo và nghe đảng như những con robot ) .Cho 1 lực lượng nằm vùng bên trong để chống phá ,ép Mỹ dùng quân sự can thiệp vào Miền Nam để có lý do đi giải phóng MN .

Sau khi cướp được MN ,phía CS tiêu diệt tận gốc thể chế chính quyền chế độ cũ bằng chiêu bài đi tù cải tạo hòng che mắt Thế giới . Tù cải tạo thực chất dùng để trả thù và đày đọa họ làm cho họ ko còn ý chí đấu tranh ,kháng cự lại . Chiến dịch đánh tư sản, đẩy đi vùng kinh tế mới chỉ là chiêu bài được cướp tài sản công khai ,làm suy yếu lực lượng này trỗi dậy trong tương lai .Kiềm kẹp người MN bằng kinh tế làm cho họ trở thành giai cấp vô sản hoàn toàn .Kiềm kẹp về lý lịch để họ ko thể bước chân vào chốn quan trường .

– Người CS vẫn tồn tại vững chắc là nhờ kênh truyên tuyền mạnh suốt hơn 70 năm cầm quyền .
– Nền giáo dục ngu dân giúp người Việt không có khả năng tư duy độc lập ,bị họ điều khiển và dắc mũi như những con bò ngu xuẩn . 
– Họ dùng bạo lực để khống chế tranh đấu người Dân 
– Họ bóp ghẹt người Dân bằng thuế phí nặng nề 
– Họ sử dụng lãnh đạo ngu dốt dễ sai bảo 
– Thể chế độc tài giúp mỗi ông quan là 1 ông vua cai trị 1 vùng đất .Và sẵn sàng dùng bạo lực đàn áp Dân để bảo vệ quyền lợi cho họ .
– Sau khi chính sách tuyên truyền mất tác dụng để mị Dân ,họ chuyển sang kế sách vô cảm hóa người Dân. Làm cho Dân thờ ơ trước thực trạng của XH .

Người CS tuy họ không có khả năng lãnh đạo đất nước phát triển kinh tế đất nước mạnh .Nhưng họ có khả năng mị dân ,khống chế tư tưởng tranh đấu của Dân và biết cúi đầu luồn cúi ,nịnh bợ Trung cộng để được nâng đỡ .

Đôi Dòng Với Anh Gia Quốc.

 
 
Van Pham shared Phạm Thành‘s post.

Muốn đấu tranh kiểu gì cũng được…. miễn đó là công việc chủ lực của người dân quốc nội…. đừng trông ngóng hải ngoại, vì thực ra họ chỉ có thể yểm trợ cho quốc nội. Bởi họ không có nhu cầu tranh đấu dân chủ, tự do cho chính họ…. Một khi không phải là mục tiêu sống còn, thì ai đòi hỏi hay bắt buộc họ phải lao vào sống chết để đấu tranh?!!!

 
Image may contain: 6 people, people smiling, people sitting and indoor
Image may contain: 6 people, people smiling, people sitting and indoor
Phạm Thành added 2 new photos — with Trần Thị Thảo and 14 others.

 

Đôi Dòng Với Anh Gia Quốc.

Anh Gia Quốc từ nước Mỹ xa xôi đến chơi nhà. Chúng tôi nói, Việt kiều có 4 triệu người ở xứ sở tự do mà chưa hình thành được một thể lực đủ mạnh để đối trọng với cộng cầm quyền Việt Nam. Ấy mà các bạn thường xuyên có bài phê phán phong trào đấu tranh cho dân chủ ở trong nước rằng: chưa có thủ lĩnh, chưa liên kết và rất dễ vỡ. Anh Quốc nói, ở nước ngoài cũng có thế lực đó, nhưng cũng chưa mạnh và cũng chưa đoàn kết được. Chúng tôi nói với anh Quốc rằng, nhóm chúng tôi đấu tranh, mục tiêu xa cũng là đấu tranh cho dân chủ, nhưng trước hết phải bấng cái gốc độc tài, toàn trị của đảng cộng sản đi cái đã. Cái gốc ấy mà còn, chẳng có mầm mống dân chủ nào có thể phát triển đươc. Còn lấy mục tiêu dân chủ ra để khai dân trí và đợi cho trí của người dân được mở ra thì có lẽ phải trăm năm nữa, cách mạng dân chủ ở Việt Nam mới xảy ra.

Cộng sản Việt Nam sụp đổ là tự nó sụp đổ do hết nguồn lực, đời sống người dân khó khăn, chẳng hạn; hoặc là có biến động lớn của thế giới tác động đủ mạnh buộc nó phải sụp đổ, hoặc là cả hai tạo ra áp lực dẫn đến nó phải sụp đổ. Những người đấu tranh chỉ góp một phần nhỏ tạo nên sự sụp đổ đó mà thôi. Vấn đề quan trọng là khi cộng sản sụp đổ thì những người đấu tranh giải thể cộng sản cầm quyền có đủ lực lượng để cướp chính quyền từ tay cộng sản hay không? Nhóm tôi quan tâm nhiều đến vấn đề này, dồn tâm trí cho mục tiêu này, vì chúng tôi tin rằng, sự sụp đổ của độc tài cộng sản Việt Nam tất yếu sẽ dẫn đến dân chủ cho Việt Nam. Vì rằng, dân chủ là cở sở để bảo toàn mạng sống, của cải và quyền sống của bất kỳ ai.

Vì vậy, đầu tư cho công cuộc đấu tranh giải thể cộng sản cầm quyền cần thiết và mạng giá trị hiện thực hơn đầu tư cho khai trí về dân chủ.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Ngày Cuối Năm Ở Chiêu Nam Đảo

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Ngày Cuối Năm Ở Chiêu Nam Đảo

Ảnh của tuongnangtien

 tuongnangtien

RFA

Quê nhà xa lắc xa lơ đó

Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Nguyễn Bính

Khoảng cách từ Kuala Lumpur đến Singapore, có lẽ, cũng chỉ bằng đoạn đường Sài Gòn/Đà Lạt là cùng. Bởi vậy thay vì chạy ra phi trường, tôi phóc đại lên một cái xe đò cho nó đỡ hao xu.

Chuyến đi tuy hơi lâu nhưng thú vị. Đã quen với những con đường chật hẹp của Cambodia, hoặc lỗ chỗ ổ gà (cùng với bụi mù) của Myanmar nên quốc lộ thênh thang và phẳng lì ở Malaysia khiến tôi ngạc nhiên không ít. Trông cũng tân kỳ y như hệ thống freeway của California vậy. Chỉ có điều khác là xe lao vun vút qua những cánh rừng nhiệt đới thâm u, hoang dại, hay những rừng kè ngút ngàn mà nhìn từ trên không tôi cứ ngỡ là dừa.

Tuyệt nhiên không thấy bóng một cha nội cảnh sát, hay công an giao thông nào cả nhưng BOT thì có chớ. Qua ba trăm KM đường dài, tài xế phải trả phí hai lần – mỗi lần 5 RM, gần 2 U.S.D – nhưng họ chà thẻ nên không có cái vụ đếm tiền lẻ, và dựng bảng (“Cấm Ngừng Quá 5 Phút”) như ở quê mình.

Tính ra thì cứ trung bình 100 KM quốc lộ thì giới xe đò phải trả thêm cho nhà nước Mã Lai thêm 65 xu (theo đơn vị Mỹ Kim) dù đã đóng thuế lưu hành. Tuy nhiên, số tiền phụ thu này đã được chi dùng hết sức đàng hoàng và rõ ràng nên không có gì để phàn nàn cả.

Quốc lộ rộng đến sáu làn. Dải phân cách mọc đủ thứ loài hoa nhưng tôi chỉ nhận ra được hoa phượng đỏ, chen lẫn với phượng vàng, và hoa giấy. Hoa giấy tuy không tàn nhưng trông có nét buồn buồn ngay từ khi vừa hé nhụy. Giữa nắng chiều vàng hanh mà nhìn mầu xác pháo thì ngay đến cả tôi – một anh già ham chơi và nát rượu – cũng thoáng bâng khuâng vì nỗi nhớ nhà.

Mẹ cha ơi đừng đợi

Chiều nay con chưa về

Chị ơi thôi đừng đợi

Chiều nay em không về

(tnt – 1980)

Không thấy cổng chào (“WELCOME TO SINGAPORE”) nên chả rõ là xe đã thực sự đi vào phần đất của Tân Gia Ba tự lúc nào nhưng tôi vẫn cảm được là không khí Tết mỗi lúc một gần thêm – sau từng cây số. Khác với ở Kuala Lumpur, phần lớn dân Singapore là người Hoa (hoặc gốc Hoa) nên Chinese New Year được chuẩn bị kỹ càng và rình rang hơn hẳn.

China Town, tất nhiên, đỏ rực. Chùa Tầu mầu mè hoa hoè và khói hương nghi ngút, đã đành; chùa Chà (kế đó) cũng trưng bầy đèn lồng, cùng với hàng chữ chúc mừng –  “Wishing All A Happy & Properous Lunar New Year” –  và cũng đông đúc tín đồ không kém.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sri Mariamman Temple, ngôi chùa Chà cổ nhất trong khu Phố Tầu ở Tân Gia BaẢnh chụp tháng 2 năm 2018

Thế mới biết là người Ấn có một không gian tâm linh rất rộng, và rất “sính” chuyện hội hè đình đám. Tết Nguyên Đán lại hay trùng hợp với Lễ Hội Ngày Mùa (Pongal Festival) kéo dài đến bốn ngày của họ: từ 14 đến 17 tháng Giêng.

Khác với Little Sài Gòn ở California, Little India ở Singapore lúc nào cũng lúc nhúc người. Bombay hay New Delhi, tôi đoán, chắc cũng đông đúc đến vậy là cùng. Ngó mà chóng mặt luôn.

Đã vậy, tôi còn lạc bước đến “thánh địa” này đúng vào lúc người ta đang làm lễ tạ ơn Mẹ Thiên Nhiên (Mother of Nature) hay Thần Mặt Trời (The Sun God) gì đó. Họ bầy ra những cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy. Nguyên cả một tập thể người rồng rắn vừa đi vừa thực hành những nghi lễ truyền thống vô cùng lạ mắt, và hơi kỳ dị. Thêm cái đám du khách hiếu kỳ bao quanh, hay rùng rục theo sau, tạo nên cả một rừng người.

Đây không phải là lần đầu tiên tôi có mặt ở Singapore nhưng chưa bao giờ thấy cảnh sát của Đảo Quốc này xuất hiện nhiều đến vậy. Dù vậy, họ phải vô cùng chật vật mới giữ cho đám đông không làm tắc nghẽn giao thông.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ảnh chụp tháng 1 năm 2018

Đ…mẹ, ở Việt Nam mà tràn ra đường lễ lạc kiểu này thì chắc chết, chết chắc. Súng nổ như không. Những kẻ sống sót – tất nhiên – sẽ đều phải ra toà về tội “gây rối trật tự công cộng,” chớ chả phải chuyện đùa đâu. Cái chính phủ của Đảo Quốc Sư Tử này – rõ ràng – đã không “quản lý” được cái đám dân ngụ cư (chỉ chừng vài trăm ngàn người) gốc Ấn. Dường như có sự tỷ lệ thuận giữa tự do dân chủ và phồn thịnh. Nhờ vào sự “buông lỏng quản lý” nên Singapore có lợi tức đầu người cao nhất/nhì thế giới, còn xứ sở của tôi thì ngược lại!

Dù mới cuối tháng Giêng nhưng cái nóng nhiệt đới và cái đám đông hừng hực hơi người vẫn khiến tôi hơi ngột ngạt. Thay vì đón xe buýt, tôi vẫy Taxi về nhà trọ cho nó đỡ phiền. Tôi về khu Đèn Đò Geylang nên  bác tài nheo mắt:

  • Đi kiếm gái hả?

“Đang mệt thấy bà đây, gái với gú cái gì – cha nội?” Tôi chỉ nghĩ (thầm) vậy thôi chứ cũng ráng gượng cười cho nó qua chuyện, khỏi phải giải thích lôi thôi. Đến tuổi tôi thì có lẽ không ai còn đủ can đảm cho một cú sexual adventure nữa. Đây là cách phiêu liêu hứa hẹn rất nhiều phiền toái mà (chắc chắn) cũng chả hứng thú gì.

Theo cách nhìn của những kẻ cầm quyền thì khu vực đèn đỏ nào cũng đều là nơi … phức tạp, cần phải được canh chừng. Với riêng tôi thì Khu Đèn Đỏ Quốc Tế Geylang chỉ là nơi tập trung của những cô gái kém may mắn nhất ở Đảo Quốc giàu sang này. Giữa một trung tâm thương mại phồn thịnh mà họ lại không có gì để bán, ngoài thân xá. Tôi cũng “đứng về phe nước mắt” nên chỉ quen sống kề cận với những kẻ bất hạnh mà thôi.

Không phải mọi phụ nữ Việt Nam trôi dạt đến Geylang đều làm gái cả. Không ít người vì tuổi tác, hay vì không đủ “vốn liếng trời cho” nên phải làm công việc nặng nhọc hơn, và lợi tức cũng khiêm tốn hơn nhiều. Họ đi bán giấy chùi miệng và lau tay.

Thực khách ở Singapore không ai cần giấy nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy (rất lương thiện này) quả một là phát kiến thần tình, rất đáng được hoan nghênh.

Điều đáng tiếc là đồng bào của tôi lại không được “hoan nghênh” mãi mãi – theo như ghi nhận gần đây của nhà báo Huy Phương:

“Báo chí lại loan tin, những người Việt Nam, đồng bào của chúng ta, từ Sài Gòn đến phi trường Changi, Singapore, bị từ chối nhập cảnh, nói rõ ra là bị đuổi về.

Singapore là một trong 48 quốc gia mà người mang thông hành Việt Nam vào không cần thị thực, nhưng lần này mặc dù có đầy đủ giấy tờ tùy thân, nhiều hành khách Việt Nam, phần lớn là phụ nữ, vẫn bị nhà chức trách Singapore từ chối cho vào xứ của họ…

“Chính quyền Singapore cũng không hề nói lý do họ không cho những người Việt này vào nước họ, nhưng cái lý do này thì những người trong cuộc, hay toàn thể ‘khúc ruột ngàn dặm’ trên khắp thế giới đều biết rõ, đều cảm thấy xấu hổ và đau lòng.”

Dân Tân Gia Ba, rõ ràng, đã oải. Họ không còn đủ kiên nhẫn và bao dung với những kẻ khốn cùng (không vốn liếng, không ngoại ngữ, không nghề nghiệp) cứ tiếp tục đến mãi từ một nước (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) láng giềng!

Thảo nào mà khác hẳn với hồi tôi đến khu đèn đỏ Geylang vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015, bây giờ người Việt ở đây gần như chả còn ai cả. Đợi ngày mai đỡ mưa và đỡ mệt, tôi phải đi kiếm đồng bào mình với được. Có thể là những đứa cháu gái của tôi đã di chuyển qua một khu vực khác chăng? Chớ không lẽ tôi phải ăn tết mình ên ở Chiêu Nam Đảo hay sao?  Mà Tết thì tới nơi rồi!

27 TẾT ĐI THĂM – NHẬN ĐƯỢC TIN CON ĐÃ BỊ CHUYỂN TRẠI XA

Hoa Kim Ngo shared Tuyet Lan Nguyen‘s post.
 

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã bị chuyển đi trại 5 Thanh Hoá mà không thông báo cho gia đình.

Sự tàn ác của nhà cầm quyền ngày càng tàn độc.

 
Image may contain: 2 people, people standing and outdoor
Tuyet Lan Nguyen

 

27 TẾT ĐI THĂM – NHẬN ĐƯỢC TIN CON ĐÃ BỊ CHUYỂN TRẠI XA

Sáng nay theo lịch thăm nuôi tôi mang theo đồ đạc đã chuẩn bị trước đó đến trại giam để thăm con. Khi đến Trại giam tỉnh Khánh Hoà thì tôi nhận được tin Quỳnh đã bị đầy ra tận trại 5, Thanh Hoá. Không một văn bản giấy tờ, công an trại giam Khánh Hoà chỉ thông báo bằng miệng khi tôi đến. Hôm nay đã là 27 Tết rồi, họ có cần phải tàn ác thế với gia đình chúng tôi?

Thứ hai ngày 05/02/2018 . Tôi đi thăm Quỳnh họ không một lời thông báo. Họ cố tình chờ đến sát Tết, sau khi đã đưa mẹ của Nấm Gấu đi thật xa chúng nó rồi mới cho gia đình tôi được biết.

Nếu như tôi là tôi của chục năm về trước, nếu như tôi cần phải lo cho các cháu tôi, Nấm và Gấu, thì dù họ có chuyển con tôi đi đến đâu tôi cũng không quan tâm, tôi có thể đi bất cứ nơi nào để thăm nom con mình. Nhưng bây giờ tôi đã hơn 60, không chỉ có cháu nhỏ con tù mà trên vai còn có mẹ già phải gánh. Chính quyền này biết rõ điều đó hơn ai hết, nhưng họ vẫn cố tình đầy Quỳnh ra tận ngoài Bắc sau khi đã giáng lên cả gia đình chúng tôi bản án 10 năm tù.

Trại 5 Thanh Hoá khét tiếng về sự heo hút, mới đây tôi đọc báo còn thấy tin nó bị cô lập trong dòng nước lũ, với sức khỏe của con tôi hiện nay làm sao để chống chọi và chịu đựng được ở một nơi như thế? Chẳng phải họ đang muốn giết con tôi mà không cần dùng dao súng, muốn nó chết dần trong tù đày khổ ải hay sao?

Bản án 10 năm không đủ khiến họ hả hê, nước mắt chia lìa mẫu tử không khiến họ cảm thấy một chút dao động, vào ngày 27 Tết họ tiếp tục đâm thêm nhát dao cho chúng tôi bằng chết.

Tịch thu sách ‘nhạy cảm chính trị’ gửi về từ nước ngoài!!!

Van Pham

Tại sao chế độ đảng cướp mafia HCM sợ sách báo & các mạng xã hội từ nước ngoài??? Bởi chế độ sống sót dựa trên dối trá, lừa bịp và bạo lực!!!

**************

Tịch thu sách ‘nhạy cảm chính trị’ gửi về từ nước ngoài!!!

Cục Hải quan Đà Nẵng vừa tịch thu 4 bưu kiện gửi từ nước ngoài về, trong đó có một số cuốn sách mà cơ quan này cho rằng nếu để lưu hành, sẽ tạo ra “nhận thức sai lệch về lịch sử cuộc chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam, cũng như các vấn đề dân chủ, nhân quyền của Nhà nước Việt Nam hiện nay”.

Những cuốn sách bị tịch thu vì lý do “nhạy cảm chính trị” bao gồm: Cuốn “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family” của nhà báo, nhà văn, dịch giả nổi tiếng Nguyễn Quí Đức; cuốn “Chính Trị Bình Dân” của nhà báo Phạm Đoan Trang; cuốn “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” của tác giả Mark Bowden, theo báo Tin Tức.

Tất cả ba cuốn sách trên đều được xuất bản tại Mỹ và được bán trên trang mạng Amazon.

Trong cuốn “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family”, nhà báo từng làm việc cho nhiều cơ quan truyền thống quốc tế ở Mỹ kể lại câu chuyện của chính gia đình ông trong thời Chiến tranh Việt Nam. Theo giới thiệu của Amazon, cuốn sách “cho chúng ta nhìn thấy cuộc chiến Việt Nam qua đôi mắt của một đứa trẻ, sự túng quẫn sau khi Cộng sản lên cầm quyền, và những chật vật, gian khổ của di dân”. Cuốn sách được tổ chức Words Without Border đề cử là một trong 8 cuốn sách cần đọc để hiểu về Việt Nam và cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Cuốn “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” là cuốn sách đầu tiên của tác giả Mark Bowden kể từ khi cuốn Black Hawk Down của ông trở thành cuốn sách bán chạy nhất trong danh sách uy tín của New York Times. “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” kể về cuộc tấn mang tính bước ngoặt trong cuộc chiến Việt Nam, Tết Mậu Thân 1968.
Bìa sách cuốn “Chính Trị Bình Dân” của tác giả Phạm Đoan Trang.
Bìa sách cuốn “Chính Trị Bình Dân” của tác giả Phạm Đoan Trang.

Trong khi đó, “Chính Trị Bình Dân” là cuốn sách mà nhà báo Phạm Đoan Trang viết với mong muốn đánh tan định kiến tai hại “chính trị là xấu xa, thủ đoạn” đã bám rễ vào nhận thức của nhiều người dân Việt Nam. Tác phẩm được giới trí thức hoạt động xã hội đánh giá cao về cả nội dung, phong cách viết và mức độ cần thiết của nó trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam.

“[Sách] Chính trị mà Việt Nam xuất bản sau năm 1975 phần lớn là viết về quan điểm của Đảng Cộng sản và dành cho các đảng viên. Còn xuất bản sách về chính trị thì hoàn toàn vắng bóng. Chính vì vậy, tôi đánh giá đây là một tác phẩm rất quan trọng. Nó mở ra một lối cho chính trị đi vào tầng lớp bình dân. Ai cũng có thể tiếp cận nó qua những câu chuyện bình dân và thực tế”. Blogger Phạm Lê Vương Các nhận định với VOA.

Tin cho hay các cuốn sách trên được gửi về Hà Lan, Ba Lan và Mỹ trong 4 bưu kiện, mỗi bưu kiện chỉ có một cuốn sách, tới các địa chỉ cá nhân ở Đà Nẵng và Huế.

Hải quan Đà Nẵng cho biết đã báo cáo lãnh đạo và phối hợp với cơ quan chức năng để có các bước xử lý tiếp theo.

Những cuốn sách bị tịch thu gồm: “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family”, “Chính Trị Bình Dân” và “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam”
VOATIENGVIET.COM
 

Chúa là Tình Yêu

 Chúa là Tình Yêu 

 

Elisabeth Nguyễn

 

Chúa là tình yêu. Thánh Gioan nói thế. 

Chúa yêu tôi, Ngài sinh ra tôi, ban Thần Khí vào tâm hồn tôi.

Ngài cho tôi thông phần siêu nhiên là bản tính Thiên Chúa.

Thật vậy, Đức kitô đã lấy thần lực của Người mà ban cho chúng ta tất cả những gì được sống và sống đạo đức, …….. Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phẩn bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.(2Pr 1, 3a-4).

Như vậy bản chất của tôi sinh ra đã là Thánh. Thật hãnh diện quá đi chứ.

Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa (Ep 2, 19).

Các bạn thấy hạnh phúc sung sướng chưa!?

Hãy ngẩng cao đầu mà ca tụng tôn vinh Thiên Chúa nhé. Còn niềm vui nào hơn khi chúng ta là đồng hương với các thánh, là người nhà của Thiên Chúa.

Đây là điều quan trọng  chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với danh hiệu vinh quang này. Vì „

Tôi đã được tạo dựng bởi tình yêu…vì thế, trong bản chất cao quý của tôi,

không thụ tạo nào có thể làm tôi nên sung túc và được sáng suốt,

 ngoại  trừ một mình Thiên Chúa (Thánh Mechtild Magdeburg).

Thiên Chúa của tôi là một Thiên Chúa nội tại.

Ngài hiện diện trong tôi từ khi tôi được nhận Phép Thanh Tẩy.

Khi tới tuổi hiểu biết, được học hỏi về đức tin, tôi mới nhận ra Chúa là tình yêu.

Đúng thế, Chúa yêu tôi vô vàn, tình yêu đó hiện diện trong từng hơi thở,

trong từng nhịp tim, trong từng những sự việc xảy ra hằng ngày trong cuộc đời tôi và những người xung quanh.

… chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta (1Ga 4,13)

Dĩ nhiên Ngài đã hiện diện trong vũ trụ thiên nhiên từ ngày Ngài khai thiên lập địa.

Ngài hiện diện trong núi cao, đồi thấp, sông dài, biển cả với hằng hà sa số thú vật trên đất, trên trời, trong nước, trên rừng… ân sủng của Ngài ẩn mình trong từng tàng cây, bông hoa, ngọn cỏ…trên những cánh đồng trải dài đến tận chân trời…

Ngài ban cho loài người được làm chủ và hưởng dùng tất cả tạo vật Ngài tạo dựng nên trong vũ trụ.

Ngài hiện diện trong mặt trời chiếu sáng, sưởi ấm ban ngày, trời trong cao xanh, lượn lờ bao đám mây… đôi khi những đám mây vui vẻ đùa giỡn tạo ra những hình thù thú vật thật diệu kỳ…

Lộng lẫy chốn cao vời, một khung trời trong vắt. Nhìn ngắm cả bầu trời: cảnh tượng xán lạn thay (Hc 43,1).

Ngài hiện diện trong mặt trăng ban đêm, luân chuyển mỗi tháng cho chúng ta trăng khuyết trăng tròn…

Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn, làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian. Trăng đánh dấu các thời kỳ đại lễ, có khi khuyết, có lúc lại tròn (Hc43,6-7),

thật thơ mộng với ánh sáng dịu dàng… khiến không gian, thời gian tươi mát.

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm (Tv 19, 18)

Ngài hiện diện trong sự thay đổi thật kỳ diệu của từng cây cỏ hoa lá qua từng mùa… khi đông đến với khí trời lạnh lẽo, những tàng cây khô trơ cành, tuyết trắng phủ đầy  mà vẫn ẩn chứa sức sống bên trong.

Người rải tuyết như chim sa, tuyết rơi xuống như cào cào, vẻ đẹp trắng ngần khiến mắt kinh ngạc. Thấy tuyết rơi lòng trí sững sờ (Hc 3,18). 

Mùa hè nóng cháy mà cây cỏ hoa lá vẫn tươi tắn, xanh um hiến dâng cho loài người bao nhiêu là rau trái hoa quả nuôi sống nhân loại.

Sau cơn nóng nực, sương xuống làm cho cảnh vật vui tươi

Mùa thu khí trời mát mẻ, gió nhẹ mơn man và lá cây đổi màu từ xanh ra úa vàng, hay đỏ rực thật đẹp, rồi lặng lẽ theo những làn gió rơi rơi lìa cành thật lãng mạng, thật thơ mộng. Mùa xuân ấm áp, nồng nàn, dịu dàng với muôn hoa nở rộ…

Kể sao cho xiết những gì muốn nói; tắt một lời: Ngài là tất cả (Hc 43,27).

Nhà thiên văn Hoa Kỳ, Allan Sandage (1926-2010). Ông là người tính toán độ giãn nở của vũ trụ và tính tuổi của nó bằng cánh quan sát các vì sao, đã thốt lên:

 Thuở thiếu thời tôi là một kẻ vô thần. Khoa học đã đưa tôi đến kết luận rằng thế giới này phúc tạp hơn tôi tưởng. Tôi chỉ có thể giải thích mầu nhiệm hiện hữu bằng cách nại vào ĐẤNG SIÊU NHIÊN.

Bất cứ ai nhìn ngắm thiên nhiên, ngắm muôn ngàn bông hoa nở với muôn màu muôn sắc muôn loài muôn vẻ hay chiêm ngưỡng bầu trời đêm với những chuyển động của ngàn ngàn tỷ tỷ thiên hà lấp lánh, đều không thể không lên tiếng ca ngợi quyền năng siêu nhiên của Đấng Tạo Hóa.

 Chúng ta, người Kitô hữu tin Ngài hiện diện trong tấm bánh từ hơn hai ngàn năm, tấm bánh nhỏ bé được các vị tư tế hiến dâng trong Thánh Lễ để nuôi sống linh hồn tôi và những ai tin vào Ngài..

Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy

 Chúa Giêsu nhắc nhở: Như Chúa Cha đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha như thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy (Ga 6,57) 

Mục đích của Kitô hữu là sống hiệp nhất với Ngài. Ngài hiệp nhất những sự khác biệt, vì phải có cái khác biệt thì mới có hiệp nhất. Phải có ba ngôi mới có sự hiệp nhất thành Một Thiên Chúa.

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng các sự khác biệt và sống với các khác biệt đó dưới sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa, chừng đó chúng ta có hiệp nhất.

Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí

thì chúng ta cũng nhờ Thần Khí mà tiến bước (Gl 5,25)

nên tôi mới có thể vượt qua được những khó khăn, những vấn nạn, những khổ đau, những cám dỗ và biết tha thứ cho kẻ mất lòng ta.

Như vậy chúng ta mới đi đúng con đường mà Ánh Sáng Mầu Nhiệm của Chúa Ba Ngôi soi dẫn.

Thật vậy, chính ở nơi Người

mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu (Cv 17,27)

để được sống hạnh phúc ở đời này  và hưởng nước Thiên Chúa đời sau

Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống,

nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (Rm 14,17).

Elisabeth Nguyễn

Tha thứ không phải là ban ơn cho người khác mà là tạo phúc cho chính mình

Tha thứ không phải là ban ơn cho người khác

mà là tạo phúc cho chính mình

Cuộc sống phức tạp với những va chạm, mâu thuẫn khiến ta khó tránh khỏi những lúc không hài lòng với nhau, gây tổn thương cho nhau. Tuy nhiên, người xưa vẫn dạy rằng “lùi một bước biển rộng trời trong”. Vậy sức mạnh nào có thể cho ta dũng khí để “lùi một bước” trong những va chạm như thế?

Vào một ngày cuối tuần, hai mẹ con tôi quyết định ra ngoài ăn tối để chào mừng sự kiện con gái tôi tốt nghiệp về nước. Trong một quán ăn nhỏ nhưng vô cùng ấm cúng và thanh lịch giữa Thượng Hải phồn hoa, mỹ lệ, một cô gái trẻ phụ trách mang đồ ăn tới cho chúng tôi.

Cô gái trẻ tập trung bê đĩa thức ăn, cẩn thận len qua lối đi chật hẹp trong quán. Nhưng khi vừa đến chỗ chúng tôi, đĩa cá hấp không may bị nghiêng và nước sốt cá đổ cả lên chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Vừa tiếc chiếc cặp da đắt tiền, vừa bực mình vì cách làm việc vụng về và không chuyên nghiệp, tôi ngay lập tức nhăn mặt khó chịu và nổi giận, chuẩn bị la mắng cô bé ấy.

Thế nhưng khi tôi chưa kịp hành động gì thì con gái tôi đã nhanh chóng đứng dậy, ngay lập tức nở một nụ cười dịu dàng và tươi tắn nhìn cô gái. Vỗ vai cô phục vụ bàn, con bé nói để cô gái bình tĩnh trở lại và không quá lo lắng: “Chuyện nhỏ thôi, không sao đâu. Chị làm việc tiếp đi”.

Những đường nét trên khuôn mặt cô gái chuyển từ hoảng hốt, lo lắng sang ngỡ ngàng và lúng túng, cô bé nhẹ nhàng và lịch sự nói với chúng tôi: “Tôi thực sự xin lỗi. Tôi sẽ đi lấy khăn để lau”.

Nhưng con gái tôi lập tức đáp lại: “Không có vấn đề gì đâu. Chúng tôi mang về nhà lau sạch là được. Chị cứ tiếp tục công việc của mình đi, không cần phải đặt nặng tâm vào chuyện này đâu”.

Mọi cử chỉ, ngôn hành của con gái khiến tôi không thể lý giải được. Tôi cảm thấy mình như một quả khí cầu chứa đầy sự khó chịu, tức giận, oán trách, một quả khí cầu được bơm căng tới mức muốn phát nổ nhưng lại không thể nổ được. Tôi ngồi ăn tối trong hậm hực, kìm nén và tất cả những món ngon lành và đắt đỏ trên bàn bỗng trở nên đắng ngắt trong miệng tôi.

Rời khỏi quán ăn, con gái đề nghị chúng tôi đi bộ trở về nhà. Con gái một tay cần chiếc túi đã dính bẩn của tôi, một tay nắm tay tôi. Đã từ lâu tôi không cho mình những giây phút thanh thản để nhìn ngắm, để hòa mình vào nét cổ kính yêu kiều của Thượng Hải. Đã từ lâu tôi quẩn quanh trong những bức tường nơi làm việc, trong tính toán sổ sách và những lo toan cho cuộc sống của tôi, cho sự sung túc của cả gia đình. Những nụ cười của tôi cũng héo tàn dần, những cái nhăn mặt, nhíu mày ngày càng nhiều hơn.

Chúng tôi bước đi trên con phố dài rộng và không quá tấp nập. Con gái bắt đầu kể cho tôi nghe về cuộc sống ba năm là du học sinh tại Anh của nó. Từ nhỏ, con gái được cả nhà cưng chiều và bao bọc, chưa từng phải làm một công việc gì, cũng không bao giờ chịu đựng thua thiệt so với bạn bè trang lứa. Tuy vậy, nó lại luôn là một cô bé ngoan ngoãn và rất tự lập, luôn có những mục tiêu phấn đấu cho riêng mình, không muốn dựa dẫm vào tình thương của cha mẹ để hưởng thụ.

Ba năm du học tại London, con gái chỉ về nhà một lần duy nhất, vì con bé dành toàn bộ thời gian trong các kỳ nghỉ đi làm thêm, đi du lịch và khám phá. Lần trở về này, tôi hoàn toàn bất ngờ với vẻ hoạt bát nhanh nhẹn và trưởng thành của con. Nhưng có lẽ những điều con gái chia sẻ vào đêm hôm ấy đã thay đổi tất cả những quan niệm và tính cách bấy lâu nay của tôi, là điều tôi hoàn toàn không thể ngờ tới nhất.

Bước từng bước thong dong, con gái vừa nhìn những bông hoa hồ điệp đang trở màu vàng óng bên đường, vừa bắt đầu kể chuyện:

“Những ngày đầu trải nghiệm cuộc sống ở nước Anh thật sự là một thử thách lớn đối với con mẹ ạ. Con làm thêm tại một nhà hàng sang trọng, nơi luôn có những yêu cầu rất cao và quy định chặt chẽ dành cho nhân viên. Mỗi ngày, con đều phải rửa rất nhiều ly rượu, ly uống nước. Đó không phải loại như ở nhà mình, loại ly ấy rất mỏng và cao, chỉ cần lơ đãng một chút là có thể khiến chúng thành một đống thủy tinh vụn.

Thái độ nghiêm túc và tinh thần tập trung cao độ luôn luôn là yêu cầu và cũng là điều kiện hàng đầu. Có một lần, con vừa thả lỏng người một chút liền va vào một chiếc ly. Sau đó liên tục những tiếng xoảng, xoảng và cuối cùng, một hàng dài ly xếp trên bàn biến thành một đống vụn thủy tinh trên mặt đất.

Mẹ biết không, thời khắc đó con vô cùng hoảng loạn, sợ hãi và nghĩ mình sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa. Nhưng người quản lý ca trực hôm ấy đã ngay lập tức chạy tới chỗ con, cô ấy lo lắng rằng con có thể bị mảnh vụn nào đó làm cho chảy máu. Cô ấy không những không trách móc, không quát mắng mà ngược lại còn nhờ những người khác tới giúp con dọn sạch đống thủy tinh ấy.

Lúc đó con đã bật khóc, nỗi hoảng sợ của con nhanh chóng chuyển sang sự cảm ân sâu sắc. Hành động ngày hôm đó của các đồng nghiệp đã giúp con có thêm can đảm để đối mặt với sai lầm của mình, một sự việc tồi tệ đã biến thành cơ hội để con nhận ra ý nghĩa to lớn của việc chân thành giúp đỡ và bao dung với sai lầm, với những thiếu sót của người khác.

Một lần khác, con không may đánh đổ cà phê lên chiếc váy trắng của một vị khách. Cô ấy đang ngồi đợi đối tác của mình, và không gì bất tiện hơn việc váy áo dính bẩn trong hoàn cảnh ấy. Nhưng cô ấy đã an ủi con bằng những lời rành rọt, dịu dàng: “Không vấn đề gì, cà phê mà, không khó giặt”. Và cũng giống như những gì ngày hôm nay con đã làm, cô ấy không một chút khó chịu, không một chút phàn nàn, chỉ lặng lẽ vào nhà vệ sinh và gột sạch chiếc váy.

Mẹ à, bởi vì người khác đã bao dung với lỗi lầm của con, cho con cơ hội sửa chữa nên con mới có thể trở thành một người tốt đẹp hơn, trưởng thành hơn, sâu sắc hơn như bây giờ. Vậy nên mẹ hay coi những người khác như con gái của mẹ, hãy tha thứ cho những sai lầm của họ mẹ nhé”.

Có người vẫn cho rằng tha thứ quả là việc khó khăn trong đời, nhất là khi bản thân đã phải chịu tổn hại, chịu thiệt thòi. Chính vì vậy, bản thân những người không thể tha thứ luôn mang theo rất nhiều oán giận, buồn đau dù sự việc thực sự làm họ tổn thương đã lui vào quá khứ.

Chúng ta cũng luôn có suy nghĩ rằng tha thứ là thái độ, là cách hành xử ta dành cho người khác, nhưng thực chất tha thứ là hành động ta làm cho chính mình, là cách ta đối đãi với bản thân mình.

Tha thứ không đồng nghĩa với việc chúng ta nói lời tha thứ nhưng trong tâm vẫn cất giữ rất nhiều trách móc, oán giận, ôm giữ sự không hài lòng, khó chịu mãi không thôi. Sự tha thứ thực sự xuất phát từ tấm lòng chúng ta, xuất phát từ sự thông cảm và biết suy nghĩ cho người khác, suy nghĩ vì người khác.

Có thể tha thứ cho những sai lầm của người khác khi chúng ta đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của họ, suy nghĩ theo những quan điểm sống, chuẩn tắc sống của họ. Ngược lại, không thể tha thứ là một biểu hiện của sự ích kỷ, hẹp hòi, chỉ thuận theo cảm xúc và suy đoán của bản thân mà không cho mình cơ hội hiểu người, lắng nghe người khác.

Tha thứ không phải là nhu nhược, bỏ cuộc, chấp nhận đầu hàng hay buông xuôi. Tha thứ là khi có dũng khí đặt mình vào vị trí người khác để bao dung họ, là lùi một bước để nhìn nhận sự việc một cách thấu đáo và từ những khía cạnh khác nhau.

Hơn nữa, khi ta có thể thật tâm tha thứ cho người khác, có thể vứt bỏ mọi khúc mắc trong tâm và đối diện với tất cả bằng tâm thái an hòa, thuần tịnh, cũng là ta đang chăm sóc và yêu thương chính mình, là tự cởi trói sợi dây vô hình đang thắt chặt trái tim và tâm hồn mình.

Dùng đức hạnh để xoa dịu tức giận, dùng từ bi để cảm hóa kẻ thù, đó mới là hành vi cao thượng nhất trên thế gian này.

Rốt cuộc thì ánh sáng của tâm thuần thiện, của tấm lòng bao dung chính là vũ khí hiệu quả nhất để hóa giải mọi oán hận trên cuộc đời, là phương thuốc hữu hiệu để chữa lành mọi vết thương, là cây cầu ngắn nhất đưa những trái tim đến với trái tim.

From Nguyen Tan Hung & Kim Bang Nguyen

AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ QUA PHÂN TÍCH CỦA MỘT HỌC GIẢ MỸ

Hoang Le Thanh added 5 new photos — with Phan Thị Hồng.

AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ QUA PHÂN TÍCH CỦA MỘT HỌC GIẢ MỸ

Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn

– “Đây là một bản đồ hiếm hoi về Việt Nam vào thế kỷ 19, là một trong những dẫn chứng ủng hộ cho tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, nhưng ý nghĩa của nó còn vượt xa giá trị chứng lý của Việt Nam trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc về chủ quyền trên quần đảo này”. 
Học giả HAROLD E. MEINHEIT (Hoa Kỳ).

* Tấm bản đồ nổi tiếng

An Nam đại quốc họa đồ là tờ bản đồ có kích thước 84 x 45 cm (ảnh 1), phụ bản của cuốn Dictionarium latino-anamiticum (Từ điển Latin-An Nam), do Oriental Lith. Press xuất bản ở Calcutta (Ấn Độ) vào năm 1838.

Tác giả cuốn từ điển này là Jean-Louis Taberd (1794 – 1840), Giám mục đại diện Tông tòa ở Nam Kỳ dưới triều vua Minh Mạng (1820 – 1841).

Đây là một bản đồ đặc biệt, trước tiên là bởi tên của nó. Bản đồ do một giám mục người Pháp thực hiện, nhưng tên của bản đồ được viết bằng 3 ngôn ngữ: 安南大國畫圖 (chữ Hán), AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ (chữ Quốc ngữ) và TABULA GEOGRAPHICAIMPERII ANAMITICI (chữ Latin), trong khi tất cả địa danh trên bản đồ, kể cả các địa danh thuộc Trung Hoa, Lào và Campuchia, đều được viết bằng chữ Quốc ngữ, còn Chú dẫn (Legenda) thì sử dụng cả chữ Quốc ngữ, chữ Latin và chữ Pháp.

Điều đặc biệt thứ hai là trên bản đồ có vẽ hình một cụm đảo ở giữa biển Đông, nằm ở phía bắc vĩ tuyến 16oBắc, phía đông kinh tuyến 110oĐông, có dòng tiêu danh: “Paracel seu Cát Vàng” (Paracel hoặc Cát Vàng). Dòng chữ này đã khẳng định nhóm đảo Paracel theo cách gọi của người phương Tây chính là (nhóm đảo) Cát Vàng (hay Hoàng Sa) theo cách gọi của người Việt đương thời.

Ngoài dòng chữ “Paracel seu Cát Vàng” ghi trên An Nam đại quốc họa đồ, trong bài viết Note on the Geography of Cochin China (Ghi chép về địa lý Nam Kỳ) in trên The Journal of the Asiatic Society of Bengal (vol. 6, part II, p.745), xuất bản tại Calcutta vào năm 1837, Giám mục Jean-Louis Taberd còn chỉ rõ:

“The Pracel or Paracels is a labyrinth of a small islands, rocks, and sand-banks… The Cochin Chinese called them Cón Váng… In 1816, he (king Gia Long) went with solemnity to plant his flag and take formal possess of these rocks, which it is not likely any body wil dispute with him”.

[Pracel hay Paracels là một mê cung của những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát… Những người dân xứ Cochin China (Đàng Trong) gọi là Cồn Vàng… Năm 1816, vua (Gia Long) đã (cho người) đến long trọng cắm cờ và chính thức tuyên bố chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc chắn là sẽ không có một ai tìm cách tranh giành với ông].

Dòng chữ “Paracel seu Cát Vàng” ghi trên An Nam đại quốc họa đồ cùng với những chú giải trong bài nghiên cứu nói trên của Giám mục Jean-Louis Taberd đã khiến cho tờ bản đồ này trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đó chính là bằng chứng chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, được một giáo sĩ phương Tây công bố với thế giới từ nửa đầu thế kỷ XIX.

Tuy nhiên, học giới Việt Nam từ trước đến nay dường như chỉ mới chú ý đến khía cạnh “chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa” được phản ánh trên An Nam đại quốc họa đồ, mà bỏ qua những chi tiết quan trọng và thú vị khác có trên tờ bản đồ lừng danh này.

***

An Nam đại quốc họa đồ qua phân tích của một học giả người Mỹ.

Mới đây, The Portolan, tạp chí của Hội bản đồ Washington (Mỹ), số 97, ấn hành cuối năm 2016 (ảnh 2) đã đăng tải bài khảo cứu rất công phu về An Nam đại quốc họa đồ có tựa là The Bishop’s Map Vietnamese and Western Cartography Converge (Tấm bản đồ Việt Nam của vị Giám mục và sự hội tụ ngành bản đồ học phương Tây).

Tác giả bài khảo cứu này là Harold E. Menheit, cựu viên chức ngoại giao Mỹ, người đã dành phần lớn sự nghiệp của mình ở châu Á, trong đó có Việt Nam, hiện là thư ký của Hội bản đồ Washington.

*

Trong bài khảo cứu dài 13 trang với nhiều hình ảnh minh họa, học giả Harold E. Menheit đã phân tích và đánh giá toàn diện về An Nam đại quốc họa đồ. Mượn lời tự nhận xét của chính của Giám mục Jean-Louis Taberd về bản đồ này:

– “Mặc dù bản đồ này không phải là không sai sót, nhưng tôi nghĩ rằng nó là, và có thể… là tốt nhất và chi tiết nhất mà trước nay chưa hề xuất hiện”

Để làm đề dẫn cho bài khảo cứu của mình, Meinheit khẳng định:

– “Đây là một bản đồ hiếm hoi về Việt Nam vào thế kỷ 19, là một trong những dẫn chứng ủng hộ cho tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, nhưng ý nghĩa của nó đã vượt xa giá trị chứng lý của Việt Nam trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc về chủ quyền trên quần đảo này”.

Theo ông, bản đồ này là một thành tựu nổi bật trong sự kết hợp giữa bản đồ hành chính truyền thống của Việt Nam với bản đồ học phương Tây. Không chỉ là một bản đồ hành chính đơn thuần, An Nam đại quốc họa đồ đã cung cấp một “bản chụp nhanh” (snapshot) về toàn xứ Đông Dương trong những thập niên đầu của thế kỷ 19, khi mà vương triều Nguyễn đã xác lập vị thế của mình trong một đất nước Việt Nam thống nhất, trước khi đương đầu với cuộc xâm lược của người Pháp.

Bài khảo cứu của Meinheit đề cập nhiều nội dung: lai lịch tấm bản đồ; thân thế của tác giả bản đồ là Giám mục Taberd và chính sách “cấm đạo” dưới triều Minh Mạng; quá trình mở rộng lãnh thổ Việt Nam và chính sách của triều Nguyễn đối với hai láng giềng là Campuchia và Lào; đánh giá của Taberd về kỹ thuật vẽ bản đồ của người Việt và nỗ lực sử dụng chữ Quốc ngữ để định danh và chú giải trên tấm bản đồ vẽ theo kỹ thuật phương Tây của mình; dịch các địa danh bằng chữ Hán sang chữ Quốc ngữ trên các bản đồ hành chính thời Nguyễn để định danh cho các địa điểm ở Việt Nam, Lào, Campuchia và vùng lãnh thổ phía nam Trung Hoa; định vị các khu vực cư trú của các sắc dân thiểu số ở Việt Nam lúc bấy giờ trên bản đồ này, như người Hrê ở phía tây Quảng Ngãi, người Stiêng ở miền đông Nam Kỳ và các bộ tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Meinheit đánh giá đây là “một bản đồ nhiều mục đích” (a map of many purposes) và cho rằng dù Giám mục Taberd đặt ra mục đích cao nhất là “phục vụ cho lợi ích khoa học”, thì dù muốn hay không bản đồ này cũng được các giáo sĩ phương Tây coi là một phương tiện trong hành trình truyền giáo ở Đông Dương.

Tiếp đến, bản đồ này đã được các nhà thực dân người Pháp coi là nguồn thông tin chính về địa lý và hành chính của toàn xứ Đông Dương, với độ chính xác và tin cậy cao nhất.

Do vậy bản đồ đã được tái bản tại Paris vào năm 1862, khi người Pháp ký với triều đình Huế bản Hòa ước Nhâm Tuất, buộc nhà Nguyễn công nhận sự hiện diện của người Pháp ở Nam Kỳ.

Sau đó, nó được tái bản theo chỉ thị của Prosper de Chasseloup-Laubat, Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp, để phục vụ cho các doanh nghiệp thuộc địa ở Đông Dương.

Và bây giờ, “trong thế kỷ 21, bản đồ của Giám mục Taberd lại đảm nhiệm một vai trò chính trị mới trong các cuộc đụng độ triền miên bởi các tuyên bố về tranh chấp chủ quyền ở biển Đông” như nhận định của Harold E. Meinheit về An Nam đại quốc họa đồ.

Harold E. Meinheit cho rằng:

– “Các cuộc xung đột về chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông đã mang lại một danh tiếng mới cho bản đồ của Đức Giám mục, mà hiện nay được coi là bằng chứng củng cố yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974”.

Ông đã mô tả vị trí của quần đảo Paracel trên bản đồ, cùng với dòng chữ “Paracel seu Cát Vàng” khẳng định người Việt đã đặt tên cho quần đảo này là Cát Vàng từ rất sớm, đồng thời trích dẫn những đoạn quan trọng trong bài Note on the Geography of Cochin China của Giám mục Taberd in trên The Journal of the Asiatic Society of Bengal vào năm 1937, cũng như dựa vào hồi ký Le mémoire sur la Cochinchine của Jean-Baptiste Chaigneau xuất bản ở Paris năm 1820 để xác thực việc vua Gia Long đã cho người ra Hoàng Sa cắm cờ và tuyên bố chủ quyền vào năm 1816.

Đó chính là bằng chứng chứng minh yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, và là một giá trị “không được tính đến” khi Giám mục Jean-Louis Taberd thực hiện bản đồ này.

Ngoài ra, theo Harold E. Meinheit, tấm bản đồ này còn có một giá trị vô cùng quan trọng là nó đã khẳng định cương vực lãnh thổ của một nước Đại Nam hùng mạnh dưới triều Minh Mạng, thống nhất từ Bắc chí Nam, quản lý từ vùng rừng núi phía tây đến vùng biển và các đảo xa về phía đông, và cho thấy “đế chế Việt Nam” (An Nam quốc seu Imperium Anamiticum) đã kiểm soát những phần lãnh thổ bên ngoài cương giới chính thức của Việt Nam đương thời, bao gồm một nửa Campuchia, các tiểu quốc thuộc Lào và phần lãnh thổ đáng kể trong lưu vực sông Mekong mà ngày nay thuộc vùng đông bắc Thái Lan.

Trong bức thư gửi kèm cuốn tạp chí The Portolan có in bài viết của mình cho người viết bài này, học giả Meinheit cho biết tại Hội chợ bản đồ quốc tế Chicago diễn ra vào tháng 10/2016, một ấn bản của An Nam đại quốc họa đồ (in năm 1838) đã được bán với giá 13.000 dollars Mỹ.

Có lẽ đó cũng là một “giá trị khác” mà Giám mục Jean-Louis Taberd cũng “không nghĩ đến” khi xuất bản tấm bản đồ này vào năm 1838.

Ts. Trần Đức Anh Sơn. Anh Son Tran Duc

***

Ảnh 1: An Nam đại quốc họa đồ do giám mục Jean-Louis Taberd xuất bản năm 1838. Bản đang lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris – Ảnh: Trần Đức Anh Sơn.

Ảnh 2: The Portolan, tạp chí của Hội bản đồ Washington (Mỹ), số 97, ấn hành cuối năm 2016 (ảnh 2) đã đăng tải bài khảo cứu rất công phu về An Nam đại quốc họa đồ có tựa là The Bishop’s Map Vietnamese and Western Cartography Converge (Tấm bản đồ Việt Nam của vị Giám mục và sự hội tụ ngành bản đồ học phương Tây).

Ảnh 3: Bài khảo cứu công phu của học giả Harold E. Meinheit “The Bishop’s Map – Vietnamese and Western Cartography Converge” (Tấm bản đồ của vị giám mục – Sự hội tụ của ngành bản đồ học Việt Nam và phương Tây).

Ảnh 4&5: Học giả Harold E. Meinheit và tác giả – Ts. Trần Đức Anh Sơn – tại Mỹ – Ảnh do Trần Đức Anh Sơn cung cấp

[Bài đăng trên Tuổi Trẻ ngày 10/2/2017]
https://tuoitre.vn/an-nam-dai-quoc-hoa-do-duoi-mat-hoc-gia-…

No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: text
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 2 people, people sitting and indoor
 
 

Chúc Mừng Năm Mới

Kính gởi quý đọc giả thân mến,

Chỉ còn vài ngày nữa đến Tết Mậu Tuất 2018.

Ban Biên Tập “Kẻ Đi Tìm” kính chúc bà con xa gần được nhiều Sức khỏe và luôn Bình An.

Hy vọng trong thời gian sắp tới đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta sẽ tìm thấy Dân Chủ-  Tự Do- Nhân Quyền thực sự.

Mong lắm thay.

Ban Biên Tập “Kẻ Đi Tìm”

Ngày 11 tháng 02 năm 2018