BÁN LƯỢC CHO SƯ!

 BÁN LƯỢC CHO SƯ!

Ở một công ty nọ, để thử việc nhân viên, họ đưa ra tiêu chí: mỗi nhân viên thử việc đều phải bán được 1000 chiếc lược cho một nhóm khách hàng được chỉ định – là các nhà sư – trong vòng một tuần.

Thử thách kỳ quái này khiến cho hầu hết người xin việc đều nghi ngờ: Bán lược cho nhà sư ư? Sao có thể làm được?

Đa số đều từ bỏ, chỉ có ba người dám chấp nhận thử thách. Một tuần thử thách kết thúc, người thứ nhất bán được một chiếc, người thứ hai bán được 10 chiếc còn người thứ ba đã bán hết sạch.

1000 chiếc, cùng một hoàn cảnh, song kết quả lại khác xa, công ty bèn mời ba người thuật lại quá trình bán hàng của mình.

Người thứ nhất kể, anh ta đến một ngôi chùa, phải chịu các nhà sư mắng mỏ mà vẫn nhẫn nại, cuối cùng, một hoà thượng động lòng, mua cho anh ta một chiếc lược.

Người thứ hai kể, anh ta lên một ngôi chùa trên núi, do gió núi mạnh, khiến cho tóc của thiện nam, tín nữ lên chùa rối tung hết cả. Anh ta liền tìm đến sư trụ trì chùa và nói “Người dâng hương tóc tai bù xù, trông không được thành kính với Đức Phật lắm, Trước mỗi toà hương, nhà chùa nên đặt một chiếc lược cho thiện nam tín nữ chải tóc”. Thấy có lý, sư trụ trì liền mua lược giúp anh ta, vì chùa có 10 toà hương nên anh ta đã bán được 10 chiếc lược.

Còn người thứ ba tìm đến một ngôi chùa có tiếng, hương khói quanh năm không dứt. Anh ta nói với phương trượng: “Phàm những người dâng hương ai cũng có lòng thành, chùa ta nên có vật phẩm tặng lại để khuyến khích người đời làm việc thiện. Tôi có một số lược, ngài có thể dùng thư pháp hơn đời của mình, khắc lên đó ba chữ “Lược Tích Thiện” làm tặng phẩm”. Phương trượng nghe có lý liền mua cho anh ta 1000 chiếc.

Công ty nọ đánh giá ba người đến thử việc tiêu biểu cho ba mẫu người điển hình:

* Người thứ nhất thuộc mẫu bán hàng cổ điển, có ưu điểm chân thành, nhẫn nại.

* Người thứ hai có năng lực quan sát, suy đoán sự vật, dám nghĩ, dám làm.

* Còn người thứ ba, anh ta nghiên cứu, phân tích nhu cầu của đám đông, có ý tưởng táo bạo, có kế hoạch khả thi nên đã mở ra một nhu cầu mới của thị trường. Điều kỳ diệu là sau khi “Lược Tích Thiện” của anh ta ra đời, một đồn mười, mười đồn trăm, người đến chùa dâng hương ngày càng nhiều, hương khói trong chùa ngày càng thịnh. Phương trượng bèn ký hợp đồng dài hạn với anh ta. Về phía công ty, thu hoạch lớn nhất không phải là có được hợp đồng lớn mà có được người tài năng. Nhờ có trí tuệ hơn người đó mà anh ta đã được công ty quyết định tuyển dụng và quyết định bổ nhiệm làm giám đốc marketing.

Như vậy, hiểu được nhu cầu của khách hàng, phân tích tính quy luật của sự hình thành và tác động chuyển hoá nhu cầu tiềm tàng thành sức mua chính là chìa khoá để mang lại thành công.

 TU-PHUNG gởi

Cộng sản tấn công Huế

Cộng sản tấn công Huế

Trần Gia Phụng (Danlambao) – Do quyết định sửa đổi âm lịch của nhà cầm quyền Bắc Việt Nam (BVN), ngày mồng Một Tết Mậu Thân ở BVN theo âm lịch mới là ngày 30 tháng Chạp ở Nam Việt Nam (NVN). Trong ngày nầy, bài thơ của Hồ Chí Minh dùng làm lệnh tổng tấn công của cộng sản (CS) vào các thành phố ở NVN, đã được đài phát thanh Hà Nội truyền đi suốt ngày, nhưng các đơn vị bộ đội CS ở NVN, vẫn không nổi dậy cùng một lần vào tối hôm đó, mà có nơi sớm, có nơi trễ.

  1. Toàn cảnh

Cuộc tấn công diễn ra sớm nhứt tại Nha Trang đúng 0 giờ đêm Giao thừa rạng mồng Một Tết Mậu Thân theo lịch NVN, tức đêm 29 rạng 30-1-1968. Sau đó nửa giờ xảy ra tại Quảng Nam, Bình Định… Tại Quảng Nam, CS pháo kích vào trại định cư Trà Kiệu, ở phía Nam thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số. Cộng sản rút lui trễ nhất tại Huế vào ngày 25-2-1968. 

Như vậy cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của CS diễn ra trong gần một tháng. Trong suốt tháng nầy, CS tấn công 44 địa điểm tại các thị trấn, tỉnh lỵ và thành phố sau đây:

Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín (Tam Kỳ), Quảng Ngãi. (Vùng I Chiến thuật) 

Bình Định, Bình Thuận, Tuyên Đức (Đà Lạt). (Vùng II Chiến thuật) 

Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Biên Hòa, Long Bình, Bình Dương, Bà Rịa. (Vùng III Chiến thuật) 

Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Long, Kiến Hòa, Định Tường, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Gò Công, Bạc Liêu. (Vùng IV Chiến thuật) 

Trong số những nơi bị CS tấn công, hai địa điểm quan trọng nhứt mà CS nhắm tới là hai thành phố Sài Gòn và Huế. 

Sài Gòn là thủ đô của VNCH. Bộ máy chính quyền trung ương đóng tại đây. Sài Gòn còn là nơi tập trung trụ sở các tòa đại sứ, các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước. Cộng sản quyết tấn công Sài Gòn mạnh mẽ để gây tiếng vang lớn trên thế giới. 

Vì tầm quan trọng của mặt trận Sài Gòn, CS tung vào đây bộ chỉ huy cao cấp nhứt như Nguyễn Văn Linh (bí thư mặt trận Sài Gòn), Võ Văn Kiệt (phó bí thư), Trần Văn Trà (chỉ huy phó Lực lượng võ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP), Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh… (Chính Đạo, Mậu Thân 68: thắng hay bại, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr. 173).

Cộng sản mở cuộc tấn công Sài Gòn vào lúc 2 giờ sáng mồng 2 Tết, tức rạng ngày 31-1-1968, đánh vào Dinh Độc Lập, tòa đại sứ Hoa Kỳ, đài Phát thanh Quốc gia, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, và nhiều vị trí vùng phụ cận. 

Lúc đó, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về Mỹ Tho nghỉ Tết tại quê vợ. Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã nhạy bén chỉ huy chận đứng được mũi đánh chiếm đài Phát thanh Quốc gia của CS (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 183), vì nếu CS chiếm được đài nầy, phát thanh trên toàn quốc lời kêu gọi tổng khởi nghĩa, thì tai hại về ngoại giao và nội trị không thể nào lường được. 

Tuy bị bối rối lúc đầu, nhưng quân đội VNCH phản ứng kịp thời, làm chủ tình hình ngay trong ngày mồng 3 Tết. Các đơn vị CS thất bại, phải lần lượt rút ra khỏi vòng đai thành phố Sài Gòn trong vòng một tuần lễ. 

  1. Huế trước Mậu Thân

Thành phố bị CS chiếm lâu nhứt và bị thiệt hại nặng nhứt về nhân mạng cũng như tài sản là thành phố Huế. Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên, cách sông Bến Hải, ranh giới Bắc và Nam Việt Nam, khoảng 80 cây số về phía nam. Các khuynh hướng chính trị của dân chúng Huế lúc đó có thể sơ lược như sau:

Huế là kinh đô của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn (1802-1945). Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945), bị Việt Minh áp lực và phải thoái vị vào tháng 8-1945. Tuy vậy, ảnh hưởng của triều Nguyễn ở Huế vẫn còn khá mạnh, do con cháu của hoàng gia cũng như con cháu của những quan lại triều đình cũ còn sống ở Huế khá đông. Hội đồng Nguyễn Phúc tộc, hậu thân của Tôn nhơn phủ, dưới sự lãnh đạo tinh thần của cựu hoàng thái hậu, tức Đức bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại, vẫn tiếp tục sinh hoạt. Vào thời điểm năm 1968 (mậu thân) những người nầy hy vọng cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó cư ngụ ở Pháp, có thể đóng một vai trò quan trọng đáp ứng giải pháp hòa giải giữa các bên lâm chiến ở Việt Nam.

Huế là trung tâm Phật giáo lâu đời với những ngôi chùa danh tiếng như Báo Quốc, Từ Đàm, Thiên Mụ, Từ Hiếu, Tường Vân… Chùa Báo Quốc còn là một Phật học viện lớn nhứt và lâu đời nhứt miền Trung, nơi đào tạo nhiều tu sĩ Phật giáo sau nầy đi hoằng pháp và trụ trì các chùa trên toàn VNCH. Các tăng sĩ Phật giáo xuất thân từ các chùa ở Huế như hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Trí Thủ, giữ những chức vụ cao cấp trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, được thành lập theo Hiến chương ngày 4-1-1964, và được chính phủ thừa nhận bằng sắc luật số 14/5 ký ngày 14-3-1964. Một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu thường khuyến khích sinh viên học sinh biểu tình chống chính phủ, đòi hỏi hòa bình, trung lập. 

Huế cũng là nơi có Tòa Tổng giám mục, một địa phận Ky-Tô giáo La Mã được thành lập vào năm 1850. Đại chủng viện Kim Long, thường được gọi là chủng viện Xuân Bích, do các linh mục tu hội Saint Sulpice (phiên âm là Xuân Bích) giảng dạy, chuyên đào tạo các linh mục. Tổng thống Ngô Đình Diệm, gốc người Quảng Bình nhưng sinh sống từ nhỏ tại làng Phủ Cam, một vùng Ky-Tô giáo La Mã nổi tiếng ngoan đạo ở cố đô. 

Huế là địa bàn hoạt động khá mạnh của các đảng Việt Quốc và Đại Việt. Đại Việt đã từng tổ chức chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), gần Huế để chống chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm vào các năm 1954-1955.

Huế là chốn cựu đô, nên hệ thống giáo dục ở đây lâu đời và rộng rãi. Ngoài trường Quốc Học được thành lập từ năm 1898, các trường trung học khác cũng khá lâu đời và đông học sinh, kể cả các tư thục. Hơn nữa, phải kể thêm các trường do các tu sĩ đảm trách như hệ thống trường Bồ Đề của Phật giáo, và các trường Ky Tô giáo La Mã như trường Thiên Hựu (Providence), trường Bình Linh (Pellerin), và trường Jeanne d’Arc (nữ trung học của dòng Thánh Phaolô thành Chartres.) 

Tại Huế, tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập viện đại học năm 1957. Viện đại học nầy là trung tâm văn hóa thu hút sinh viên khắp các tỉnh miền Trung về đây theo học. Sinh viên càng ngày càng đông, và thường tham gia cũng như tổ chức các cuộc biểu tình tại Huế chống chính phủ từ 1963 đến 1967. 

Cũng tại Huế, “Hội đồng Nhân dân Cứu quốc” ra đời năm 1964 trong đó có một số giáo sư và giảng viên Viện đại học Huế như Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần, Hoàng Văn Giàu… Báo Lập Trường của nhóm nầy ủng hộ những quan điểm hòa bình và trung lập của một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu miền Trung. Hội đồng nầy được xem là đã góp tay vào việc kích động các cuộc biểu tình dữ dội tại Huế chống Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh năm 1964.

Những cuộc biểu tình ở Huế thường do Tổng hội sinh viên Huế tổ chức. Sinh viên luôn luôn hăng hái và bồng bột. Trong giới sinh viên, có thể có sự trà trộn các phần tử thân cộng, hay CS trá hình, mà sinh viên lúc đó không nhận chân được. Cao độ của các cuộc biểu tình nầy là cuộc đốt phá Phòng Thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S. = United States Information Services) tại Huế ngày 1-6-1966 trên đường Lý Thường Kiệt. 

Trong vụ “biến động miền Trung” sau đó, một số nhà lãnh đạo Phật giáo ở Huế chống đối chính phủ bằng cách kêu gọi Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường để cản trở lưu thông trong thành phố. Tuy nhiên, hành động quá khích nầy không được đồng thuận trong giới Phật tử, nên it người hưởng ứng tuy bề ngoài rầm rộ. 

Trật tự tại Huế và các tỉnh miền Trung được vãn hồi vào cuối tháng 6-1966 khi chính phủ trung ương gởi Thủy quân lục chiến và Cảnh sát dã chiến tăng viện, thẳng tay dẹp tan các cuộc rối loạn. Sau sự kiện nầy, một số trí thức, thanh niên, sinh viên lo sợ bị chính quyền VNCH bắt giam, đã “nhảy núi”, bỏ trốn lên rừng chạy theo CS. Những người nầy sẽ có mặt trong đoàn quân CS tấn công Huế vào dịp Tết Mậu Thân.

Cũng sau vụ “biến động miền Trung”, chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh thuộc Quân đoàn I tại Vùng I Chiến thuật quân đội Việt Nam Cộng Hòa, bị thuyên chuyển. Đại tá Ngô Quang Trưởng, thuộc Sư đoàn Nhảy dù, được bổ nhiệm thay thế. 

Bộ tư lệnh Sư đoàn I BB đóng ở Mang Cá, phía bắc hoàng thành Huế. Ngày 4-2-1967, đại tá Trưởng được vinh thăng chuẩn tướng. Chính trong thời gian chuẩn tướng Trưởng đang chỉ huy Sư đoàn I BB, thì CS mở cuộc tấn công vào thành phố Huế nhân dịp Tết Mậu Thân (1968).

Do tình hình Huế phức tạp sau vụ “biến động miền Trung”, phía CS hy vọng Huế đủ chín mùi cho một cuộc tổng khởi nghĩa nếu cuộc tổng tấn công xảy ra. Từ đó, CS chuẩn bị khá kỹ lưỡng mặt trận Huế không khác gì mặt trận Sài Gòn.

  1. Cuộc tổng tấn công

Trước Tết Mậu Thân, chỉ huy đặc khu Trị-Thiên-Huế (tức Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế) của CS là thiếu tướng Trần Văn Quang. Trần Văn Quang cử Lê Minh, bí thư tỉnh uỷ đảng Lao Động (Cộng Sản) tỉnh Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Trị-Thiên. 

Minh chia mặt trận Trị-Thiên thành 3 khu vực: mặt trận Quảng Trị giao cho Hồ Tú Nam phụ trách; mặt trận Phú Lộc (phía nam Thừa Thiên) giao cho một cán bộ tên Chi chỉ huy; còn mặt trận Huế, quan trọng nhất, do Lê Minh đích thân đảm nhận. Minh lại chia Huế thành hai điểm để tấn công: phía bắc Huế (tả ngạn sông Hương), và phía nam Huế (hữu ngạn sông Hương Huế)

Cánh quân phía bắc Huế do một người tên Thu chỉ huy, Trần Anh Liên làm chính uỷ. Lực lượng gồm có trung đoàn 6 (gọi là E-6, gồm có 3 tiểu đoàn), thêm 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội pháo và du kích hai quận Hương Trà và Hương Điền. Cánh quân nầy xuất phát đúng vào tối Giao thừa (29-1-1968) từ rừng núi tây Huế, chia làm 4 mũi đánh vào cửa Chính Tây (nằm về tay trái hoàng thành từ Kỳ đài nhìn vào), cửa An Hòa (cửa Tây Bắc), Kỳ đài (cột cờ trước Ngọ môn), sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Cộng quân làm chủ ngay được cửa Chính Tây, cửa An Hòa và Kỳ đài, nhưng thất bại ở sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Đồn Mang Cá lúc đó là nơi đặt bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng đứng đầu. Đồn Mang Cá là điểm tựa vững vàng để quân đội VNCH cũng như Đồng minh tổ chức phản công trở lại.

Qua cửa Chính Tây, CS tiến chiếm Đại nội. Cộng sản dùng bờ thành Đại nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), CS treo một lá cờ lớn của MTDTGPMNVN. (Don Oberdorfer, TET, New York: A Da Capo Paperback, 1971, tr. 230.) Theo tài liệu của CS thì đây là cờ của Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam (Chính Đạo Mậu Thân, sđd. tr. 126). Trong bài tham luận trình bày tại Huế ngày 15-12-2007, tác giả Nguyễn Đắc Xuân, theo tài liệu của đảng bộ Huế, cũng cho rằng đây là cờ Liên minh. Không ai lạ gì việc những người trong nước đều phải nói theo đảng CS. 

Tuy nhiên, cần chú ý rằng ngày 31-1, tức là ngày CS treo cờ ở Kỳ đài, Liên minh nầy chưa được thành lập, làm sao có cờ ? Ở những nơi khác, Sài Gòn hay bất cứ thành phố nào ở miền Nam, không ai thấy hay biết gì về lá cờ Liên minh. Liên minh nầy chỉ là một mặt trận chính trị, giống như Mặt trận Tổ Quốc của Hà Nội, không thể được quân đội cộng sản treo cờ. 

Từ Kỳ đài, CS tiến quân theo mé bờ tả ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc), chiếm đồn Cảnh sát chợ Đông Ba, bắt tay với một cánh quân CS khác cũng của E-6, làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia Hội.

Cánh quân phía nam Huế, hay bên hữu ngạn sông Hương, tức bên có tòa tỉnh trưởng, các trường Đồng Khánh, Quốc Học, do Thân Trọng Một chỉ huy, Nguyễn Vạn làm chính uỷ. Lực lượng gồm có trung đoàn E-9 của sư đoàn 309, trung đoàn 5 (4 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn pháo, và 4 đội đặc công. (Chính Đão, Mậu Thân…,sđd. tr. 108-110. Chính Đạo trích dẫn từ tài liệu của Thành uỷ CS Huế, Huế, Xuân 1968.)

(Võ Hương An trình bày.)

Cánh quân nầy dự định xuất phát tối Giao thừa (29-1), nhưng vừa xuất phát thì bị phi cơ thám thính Mỹ phát hiện và bị pháo kích, phải lẩn tránh, nên tiến chậm. Sáng mồng 1 Tết (30-1) cánh quân nầy mới tiếp tục tiến về phía thị xã Huế. 

Sau 4 ngày giao tranh, CS chiếm gần hết vùng hữu ngạn thành phố Huế cho đến lao xá Thừa Phủ (gần sát tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên). Cộng sản thả khoảng 2,000 tù nhân đang bị giam trong lao xá. Những người nầy liền được CS võ trang để tiếp tay cho CS. 

Quân đội VNCH chỉ còn giữ đài Phát thanh, tiểu khu Thừa Thiên, bản doanh MACV (Hoa Kỳ) đặt ở khách sạn Thuận Hóa, và Bến tàu Hải Quân, bên bờ nam sông Hương (hữu ngạn). Nếu đi từ phía chợ Đông Ba (tả ngạn), theo cầu Trường Tiền qua bờ phía hữu ngạn, đi thẳng là đường Duy Tân dẫn đến An Cựu. Ngay tại chân cầu, đầu đường Duy Tân, phía tay mặt là đài Phát thanh, phía tay trái, cách khoảng trên 500 thước là Bến tàu Hải quân (gần khách sạn Hương Giang). 

Đi thẳng từ cầu Trường Tiền về An Cựu, dọc theo đường Duy Tân (trước 1975) phía bên trái, cách cầu khoảng 500 thước là Tiểu khu Thừa Thiên và khách sạn Thuận Hóa, nơi đóng trụ sở của MACV, viết tắt của chữ Military Assistance Command, Vietnam, tức Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam.

  1. Tổng khởi nghĩa thất bại

Về phương diện chính trị, ngay sau khi chiếm vùng tả ngạn (phía bắc Huế, vùng Thành nội, chợ Đông Ba…), ngày mồng 2 Tết (31-1), CS liền tổ chức cầm quyền. Uỷ Ban Nhân Dân (danh xưng của CS) trong Thành nội gồm hai quận, do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư âm nhạc), làm chủ tịch quận 1, và Nguyễn Thiết (sinh viên Đại học Luật khoa), làm chủ tịch quận 2. Phía hữu ngạn, CS không lập kịp các uỷ ban nhân dân, chỉ chú tâm vào việc lùng bắt và kiểm soát tù hàng binh.

Ngày mồng 3 Tết (1-2-1968), đài phát thanh Hà Nội loan báo thành lập tổ chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Và Hòa Bình tại Huế do Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, làm chủ tịch, và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký. (Chính Đạo, Mậu Thân…sđd. tr. 131. Thụy Khê, “Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế”, phỏng vấn trên đài RFI, 12-7-1997, đăng lại trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 36, tháng 8-9-1997, tt. 197-200.) 

Cần phân biệt ở đây, Lê Văn Hảo làm chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ…tại Huế. Còn trên toàn miền Nam, Liên Minh nầy do Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch. Đài phát thanh Hà Nội cũng thông báo ngày 14-2-1968, Lê Văn Hảo được đưa lên làm chủ tịch chính quyền cách mạng Huế. Phó chủ tịch là bà Đào Thị Xuân Yến (còn gọi là bà Tuần Chi), và Hoàng Phương Thảo (Thường vụ Thành uỷ CS). (Chính Đạo, Mậu Thân,sđd. tr. 131.)

Nguyễn Đắc Xuân, khi còn là sinh viên sống tại Huế, đã từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” vào năm 1966 để chống chế độ “Thiệu Kỳ”, rồi bỏ trốn theo CS, nay trở lại Huế, phụ trách đội “Công tác Thanh niên”. Xuân được CS giao nhiệm vụ tổ chức “đoàn Nghĩa binh”, gồm những quân nhân Cộng Hòa bị kẹt trong vùng CS tạm chiếm, gọi là “Quân nhân Sư đoàn 1 ly khai”.

Ngày 4-2-1968 (mồng 6 Tết), đoàn nầy ra thông cáo đả kích chế độ “Thiệu Kỳ”, nhưng sau đó đoàn bị CS phân tán ngay, vì sợ các quân nhân trong đoàn nầy quay lại chống CS. Nguyễn Đắc Xuân còn tổ chức đội “Nghĩa binh Cảnh Sát”, giữ nhiệm vụ ngăn chận không cho dân di tản khi quân đội VNCH và Đồng minh phản công.

Những đơn vị an ninh của CS hoạt động mạnh sau khi cộng quân tạm chiếm Huế. Những đơn vị nầy do một người tên Lê (Tư) điều khiển chung, còn Tống Hoàng Nguyên phụ trách tả ngạn, và Nguyễn Đình Bảy (Bảy Khiêm) lo phía hữu ngạn. Những đơn vị nầy truy lùng và bắt giết tất cả những nhân viên chính quyền VNCH và nhân viên làm việc tại các cơ quan Hoa Kỳ, hoặc những người cộng tác với Cơ quan tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA: Central Intelligence Agency). Chính những đơn vị an ninh nầy là tác giả của những cái chết thê thảm tại Huế, nhứt là lúc CS chuẩn bị rút lui.

Trái với dự đoán của CS, tuy dân chúng bị ép buộc phải dự những cuộc hội họp, mít tinh do CS tổ chức, nhưng dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa do CS đề ra. Rõ nét nhứt là dân chúng không đi theo du kích CS, mà bỏ chạy qua các vùng do quân đội VNCH kiểm soát ở khu vực Mang Cá, hay trường Kiểu Mẫu gần trường Đại Học Sư Phạm, hoặc khu vực phi trường Phú Bài, cách Huế khoảng trên 10 cây số về phía nam. 

Đặc biệt, chỉ trừ những quân nhân về thăm nhà bất ngờ bị du kích CS bắt được, hầu hết các quân nhân nghỉ Tết ở Huế đều kiếm cách liên lạc hay gia nhập các đơn vị tác chiến gần nhứt để cầm súng chống CS, chứ không gia nhập hay chạy theo du kích CS. Các đơn vị hành chánh nhỏ cũng kiếm cách phòng thủ để chận đứng sự thâm nhập của du kích CS.

Như thế, cuộc tổng khởi nghĩa theo dự tính của CS hoàn toàn thất bại và không xảy ta.

(Toronto, 12-2-2018)

Trần Gia Phụng

danlambaovn.blogspot.com

Tác giả Mỹ: ‘Có một sự kiểm duyệt kỳ dị ở Việt Nam’

Tác giả Mỹ: ‘Có một sự kiểm duyệt kỳ dị ở Việt Nam’

Bởi   AdminTD

Thomas Bass, tác giả “The Spy Who Loved Us” và “Censorship in Vietnam: Brave New World”. Courtesy photo

Những chỉ trích của tướng Võ Nguyên Giáp đối với dự án khai thác bauxite của Trung Quốc và tình yêu nước Mỹ của điệp viên Cộng sản Phạm Xuân Ẩn bị cắt bỏ hoàn toàn khỏi một cuốn sách của một nhà văn Mỹ, qua sự kiểm duyệt của chính quyền Việt Nam.

Cả tướng Giáp và ông Ẩn đều chỉ trích Đảng Cộng Sản, theo nhà văn Thomas Bass – hiện là giáo sư Báo Chí và Văn Chương Anh tại Đại học Albany, New York; và những điều đó đều biến mất khỏi tác phẩm của ông (“The Spy Who Loved Us” – Người Điệp Viên Yêu Chúng Ta) khi nó được dịch sang tiếng Việt và xuất bản ở trong nước dưới cái tên “Điệp viên Z21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ.”

Đây là cuốn sách thứ 2 trong 3 cuốn về Việt Nam của nhà văn chuyên viết về văn hóa và lịch sử. “The Spy Who Loved Us” được xuất bản năm 2009 bằng tiếng Anh và 5 năm sau được ra mắt trong nước, bằng tiếng Việt, với tựa đề “Điệp viên Z21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ.”

Sự méo mó của phiên bản tiếng Việt về điệp viên Phạm Xuân Ẩn so với nguyên bản tiếng Anh đã khiến tác giả tìm hiểu và viết thêm một cuốn sách khác: “Censorship in Vietnam: Brave New World” (Kiểm duyệt ở Việt Nam: Thế giới can đảm mới).

Tướng Giáp cũng biến mất

Hãy bắt đầu với “The Spy Who Loved Us”. Đầu những năm 1990, nhà văn Bass gặp người điệp viên Phạm Xuân Ẩn, nổi tiếng với vỏ bọc một phóng viên của tạp chí Time trong thời gian chiến tranh Việt Nam, nhiều lần trong suốt thập kỷ ‘90 cho đến những năm 2000.

Trong những lần nói chuyện riêng tại nhà ông Ẩn ở thành phố HCM có cảnh sát túc trực bên ngoài, ông Ẩn cho nhà văn người Mỹ biết ông được đọc 2 bức thư của tướng Giáp viết trước khi mất để phản đối vụ khai thác mỏ bauxite của Trung Quốc ở Tây Nguyên.

“Tướng Giáp gần như biến mất (khỏi cuốn sách). Ông ấy không được sủng ái vì có thể ông ấy được cho là quá thân phương Tây và có quan điểm chống lại khai thác bauxite của Trung Quốc và bởi vì ông ấy chỉ trích Đảng Cộng Sản. Nên vào thời điểm ông ấy qua đời, ông bị coi là ‘political hot potato (vấn đề chính trị gây tranh cãi) theo cách nói của người Mỹ.” Theo lời Giáo sư Bass.

Những phần ông Ẩn, người bị nằm dưới sự theo dõi của chính phủ Việt Nam trong thời gian gặp gỡ ông Bass và nhiều vị khách nước ngoài khác tới thăm, đưa ra quan điểm về Đảng Cộng sản và tham nhũng cũng bị cắt bỏ khỏi cuốn sách.

“Phạm Xuân Ẩn chỉ trích nặng nề Trung Quốc và vai trò của họ trong nền văn hóa Việt Nam. Tất cả những cái đó biến mất khỏi cuốn sách. Và tất nhiên bất cứ chỉ trích nào đối với Đảng Cộng sản đều bị kiểm duyệt trực tiếp. Và những thảo luận của ông về ý định đưa dân chủ hay bất cứ dạng quyền lực chính trị nào vào Việt Nam cũng bị trực tiếp cắt bỏ.” Vẫn theo lời tác giả Thomas Bass.

“Ẩn không được phép yêu nước Mỹ”

Mặc dù hoạt động tình báo cho chính phủ Cộng sản Bắc Việt nhưng Phạm Xuân Ẩn lại “cởi mở với văn hóa Mỹ và đề cao sự tự do của nền dân chủ Mỹ,” theo nhà văn Bass, người mất 10 năm để viết về ông Ẩn trong cuốn “Người điệp viên yêu chúng ta.”

Ông Bass phân tích: “Phạm Xuân Ẩn không được phép yêu nước Mỹ. Ông ấy không được phép ngưỡng mộ nước Mỹ hay tôn trọng nước Mỹ theo bất cứ cách nào. Tất cả những cái đó bị cắt bỏ. Cắt hết.”

Phạm Xuân Ẩn, người được coi là một trong những điệp viên giỏi nhất trong lịch sử thế giới, theo lời của giáo sư Bass, được đào tạo đầu tiên bởi điệp viên người Mỹ lừng danh, Edward Lansdale, và sau đó theo học tại một trường ở California nên ông ấy “rất yêu văn hóa Mỹ.”

Đó là lý do vì sao Thomas Bass đặt tên cho cuốn sách là “Người điệp viên yêu chúng ta,” và “chúng ta” ở đây là Mỹ.

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, ông Ẩn đã rất hy vọng được chuyển sang Mỹ sinh sống nhưng bị Bộ Chính trị ngăn cản. Đó là phần bị kiểm duyệt trong một cuốn sách khác về Phạm Xuân Ẩn do Larry Berman, một giáo sư người Mỹ của Đại học tiểu bang Georgia, viết.

Theo những tài liệu của WikiLeaks, cuốn sách của Berman có tên “Perfect Spy” (Điệp viên hoàn hảo) cũng bị kiểm duyệt gắt gao và quyết định có nên xuất bản cuốn sách của Berman hay không đã lên đến tận Thủ tướng chính phủ. Nhưng ông Berman phủ nhận điều đó, theo giáo sư Bass.

Theo ông Bass, những nỗ lực kiểm duyệt này “nhằm làm bình thường hóa hình ảnh ông Phạm Xuân Ẩn.”

“Có những nỗ lực để loại bỏ sự hài hước dí dỏm trong ông ấy, loại bỏ tình yêu nước Mỹ của ông ấy hay công việc làm báo của ông ấy. Những nỗ lực nhằm loại bỏ tất cả những điều đó để làm cho ông ấy trở thành một đảng viên Cộng sản tốt mà thực tế ông ấy chưa bao giờ là vậy.”

Nhưng nhà văn Bảo Ninh đã nhận ra những kiểm duyệt trong cuốn sách của ông Bass xuất bản ở Việt Nam. “Bảo Ninh biết chính xác đoạn nào đã bị can thiệp,” ông Bass nói.

Kiểm duyệt ‘kỳ dị’

Kiểm duyệt đang trở nên tệ hại hơn ở Việt Nam, theo giáo sư Bass. Ông cho rằng điều này đang làm hủy hoại nền văn hóa Việt Nam bởi nó “làm thụt lùi lịch sử và thời gian.”

Sự kiểm duyệt ở Việt Nam thật là “kỳ dị” khi chính quyền kiểm duyệt tất cả mọi thứ, ông Bass nói.

Sau khi phiên bản tiếng Việt cuốn sách của ông ra mắt với cái tên “Điệp viên Z21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ,” một cái tên mà ông nói “không biết họ lấy đâu ra và dường như Z21 là bí danh của ông Ẩn,” giáo sư Bass quyết định quay về Việt Nam để tìm gặp những người đã “kiểm duyệt” sách của ông và tìm hiểu quá trình kiểm duyệt ở Việt Nam diễn ra như thế nào và tại sao phải mất đến 5 năm để biên dịch cuốn sách của ông.

Cuốn sách của ông bị cắt đến hơn 400 đoạn và nhiều cái tên đã biến mất khỏi cuốn sách, trong đó nhà báo Bùi Tín, hiện đang sinh sống ở Paris, Pháp, đã hoàn toàn không còn trong đó nữa.

Nhã Nam và Hồng Đức là hai công ty chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách này.

VOA đã không nhận được phản hồi yêu cầu bình luận về việc kiểm duyệt cuốn sách của giáo sư Bass trong quá trình xuất bản.

Nhã Nam là một nhà xuất bản độc lập và trong con mắt của tác giả Bass là “tốt” nhưng vì “họ hoạt động trong nền văn hóa Việt Nam nên không có lựa chọn nào khác là phải kiểm duyệt sách.”

Hình bìa tác phẩm “Censorship in Vietnam: Brave New World” của giáo sư Thomas Bass. Ảnh: VOA

“Ông Thomas Bass là một nạn nhân tại vì ông đã bị kiểm duyệt khá nhiều với những cuốn sách của ông in ở Việt Nam. Khi người ta cắt gọn bản thảo thì ông không còn nhận ra cuốn sách của mình nữa.” Đó là nhận định của Tiến sỹ và nhà báo độc độc lập Phạm Chí Dũng, một trong 5 người mà ông Bass gặp gỡ và đưa những nhận định của họ vào cuốn sách thứ 3 của ông về kiểm duyệt ở Việt Nam ra mắt năm 2017 với tên “Censorship in Vietnam: Brave New World” (Kiểm duyệt ở Việt Nam: Thế giới can đảm mới)

Sau khi tìm hiểu để viết cuốn sách “Kiểm duyệt ở Việt Nam”, giáo sư Bass nhận thấy “Việt Nam có một mạng lưới chỉ để làm những công việc kiểm duyệt” nhưng ông “không thể biết có bao nhiêu người đã tham gia kiểm duyệt cuốn sách” của mình.

Nhà văn Phạm Thị Hoài, người giúp giáo sư Bass xuất bản phiên bản tiếng Việt không bị kiểm duyệt của cuốn “Người điệp viên yêu chúng ta” bên ngoài Việt Nam qua mạng internet, cho rằng cuốn sách thứ 3 của ông là “chân dung truyền thần sinh động về bộ mặt kiểm duyệt ở Việt Nam” và nó “thật đến mức khó chịu.”

Nhà văn bị cấm xuất bản ở Việt Nam và đang sinh sống ở Berlin, Đức, cho rằng cuốn sách này “bao quát hiện tượng kiểm duyệt, phác họa cấu trúc và các hình thái của kiểm duyệt, tìm hiểu bối cảnh của kiểm duyệt và miêu tả chi tiết kiểm duyệt diễn ra như thế nào.

“Vấn đề kiểm duyệt ở Việt Nam đã tồn tại từ rất lâu và đó là một vết hằn của chế độ, đặc biệt là chế độ độc tài, chế độ một đảng. Việc này cho tới nay không những không giảm đi mà lại còn có chiều hướng gia tăng.” Nhận định của ông Phạm Chí Dũng.

Chế độ kiểm duyệt đã ăn sâu vào bản chất của chế độ này và gần đây còn có một hiện tượng đáng lo nữa là không những kiểm duyệt hệ thống báo chí quốc doanh và văn học nghệ thuật quốc doanh mà chính quyền còn lấn sang kiểm duyệt đối với các nhà mạng của nước ngoài có hoạt động ở Việt Nam, theo nhà báo Phạm Chí Dũng.

Giáo sư Bass nhận định “Việt Nam thực chất đã hủy nền văn hóa của họ và hạn chế rất lớn đến sức tưởng tượng và tiềm năng văn hóa thông qua sự kiểm duyệt. Tôi nghĩ nó ảnh hưởng tệ hại tới nền văn hóa Việt Nam.”

Có bao nhiêu người trên thế giới đang chú ý đến sự kiểm duyệt. Nó là một vấn đề đang trở nên nghiêm trọng. Nó là một vấn đề đối với bất kỳ nền văn hóa nào và khu vực nào trên thế giới.

Giáo sư Bass hy vọng cuốn sách về “Kiểm duyệt ở Việt Nam” sẽ là một chút đóng góp của ông vào việc lưu tâm đến mọi người rằng “kiểm duyệt” là một lực lượng nguy hiểm không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.

Blogger Mẹ Nấm bị chuyển trại tù xa nhà trong ngày cận Tết

Blogger Mẹ Nấm bị chuyển trại tù xa nhà trong ngày cận Tết

Hai người con của blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh cầm bảng ghi những dòng chữ bày tỏ cảm xúc khi hay tin mẹ bị đày đi trại tù khác ở Thanh Hóa, rất xa nhà. (Hình: FB Nguyễn Thị Tuyết Lan)

NHA TRANG, Việt Nam (NV) – Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – người đang bị CSVN cầm tù với bản án 10 năm, đã bị chuyển trại tù từ Khánh Hòa ra trại tù số 5 ở miền núi tỉnh Thanh Hóa, cách nhau hơn 1,100 km, đúng vào ngày 27 Tháng Chạp, khi Tết Mậu Tuất cận kề.

Bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, mẹ của blogger Mẹ Nấm đến trại tù tỉnh Khánh Hòa để thăm nuôi theo lịch thì mới biết con gái bị chuyển trại chứ bà không hề được báo trước.

 

Bà Nguyễn Thị Tuyết Lan cho hay trên trang facebook cá nhân rằng sáng Thứ Hai, 12 Tháng Hai, 2018, (tức ngày 27 tết) bà mang các thứ đã chuẩn bị trước đó đến nhà tù tỉnh Khánh Hòa thăm con gái Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nhưng con gái bà đã bị đày tới nhà tù khét tiếng dữ dằn, trại tù số 5 tại huyện miền núi Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, nơi từng giam cầm nữ Luật Sư Lê Thị Công Nhân, cô Phạm Thanh Nghiên và nhiều nữ tù nhân lương tâm nổi tiếng khác.

“Tôi nhận được tin Quỳnh đã bị đày ra tận trại 5, Thanh Hóa. Không một văn bản giấy tờ, công an trại giam Khánh Hòa chỉ thông báo bằng miệng khi tôi đến. Hôm nay đã là 27 Tết rồi, họ có cần phải tàn ác thế với gia đình chúng tôi?” Bà Tuyết Lan viết trên trang facebook.

Trước đó một tuần, cũng ngày Thứ Hai, 5 Tháng Hai, 2018, bà Tuyết Lan đi thăm Quỳnh nhưng công an không một lời thông báo. “Họ cố tình chờ đến sát Tết, sau khi đã đưa mẹ của Nấm Gấu đi thật xa chúng nó rồi mới cho gia đình tôi được biết.” Bà Tuyết Lan viết.

Phẫn uất vì sự cư xử độc ác của nhà cầm quyền, bà Tuyết Lan cho hay bà đã lớn tuổi, vừa phải nuôi nấng hai cháu nhỏ, lại còn phải săn sóc bà mẹ già trong khi phải thăm nuôi con gái trong tù và lại còn bị đày đi rất xa nhà. “Chính quyền này biết rõ điều đó hơn ai hết, nhưng họ vẫn cố tình đầy Quỳnh ra tận ngoài Bắc sau khi đã giáng lên cả gia đình chúng tôi bản án 10 năm tù.”

“Trại 5 Thanh Hoá khét tiếng về sự heo hút, mới đây tôi đọc báo còn thấy tin nó bị cô lập trong dòng nước lũ, với sức khỏe của con tôi hiện nay làm sao để chống chọi và chịu đựng được ở một nơi như thế? Chẳng phải họ đang muốn giết con tôi mà không cần dùng dao súng, muốn nó chết dần trong tù đày khổ ải hay sao? Bản án 10 năm không đủ khiến họ hả hê, nước mắt chia lìa mẫu tử không khiến họ cảm thấy một chút dao động, vào ngày 27 Tết họ tiếp tục đâm thêm nhát dao cho chúng tôi bằng chết,” bà Tuyết Lan viết trên Facebook.

Blogger Mẹ Nấm tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30 Tháng Mười Một, 2017, khi bị tuyên y án 10 năm tù. (Hình: Getty Images)

Blogger Mẹ Nấm nổi tiếng với những bài viết sắc xảo về các vấn đề thời sự tại Việt Nam trên trang facebook cá nhân. Bà tham gia vận động nhân quyền, tranh đấu cho tự do ngôn luận suốt nhiều năm qua không ngừng nghỉ nên đã từng bị công an CSVN cô lập, khủng bố, hành hung rất nhiều lần. Bà từng biểu tình một minh mỗi khi hay tin có một người nào tham gia vận động dân chủ hóa đất nước bị bỏ tù. Cả bà cũng không thoát.

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, năm nay 39 tuổi, là thành viên điều hành của nhóm “Mạng Lưới Blogger Việt Nam,” thành viên của các tổ chức “Người Việt Yêu Nước” và “Tuyên Bố Công Dân Tự Do.” Bà tích cực tham gia bày tỏ chống đối công ty gang thép Formosa xả chất thải độc hại làm chết một vùng biển rộng lớn suốt 4 tỉnh miền Trung. Bà cũng từng soạn tổng kết một tài liệu tố cáo công an CSVN đã tra tấn nhục hình bức cung chết hàng chục người mỗi năm.

Bà bị bắt ngày 10 Tháng Mười, 2016, rồi bị kết án 10 năm tù hồi năm ngoái mà có luật sư phát biểu một thứ bản án “nặng hơn án giết người” của người khác. Năm 2012, Trung Tá Công An CSVN Nguyễn Văn Ninh chỉ bị kết án có 4 năm tù dù ông ta dùng gậy cao su đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng ở bến xe Giáp Bát, Hà Nội, chỉ vì ông ta cự cãi chuyện đội mũ bảo hiểm.

Các tù nhân lương tâm thường bị chế độ Hà Nội đày đi rất xa nơi sinh sống của gia đình họ, gây khó khăn và tốn kém rất lớn cho sự thăm viếng. Tù nhân bị kết án ở miền Bắc thì bị đày xuống miền Trung hay miền Nam. Tù nhân miền Nam thì bị đày ra Bắc hay miền Trung.

Sau khi bị y án 10 năm tù qua phiên xử phúc thẩm cuối Tháng Mười Một, năm 2017, cũng như sau phiên xử sơ thẩm mấy tháng trước đó, Liên Âu, chính phủ Mỹ cũng như các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế lên án mạnh mẽ việc bỏ tù blogger Mẹ Nấm.

Gần 40 trí thức trên thế giới, nhiều người rất nổi tiếng đã cùng đứng tên trên một lá thư kêu gọi chế độ Hà Nội trả tự do cho bà cũng như bà Trần Thị Nga (bị kết án tù 9 năm) và các tù nhân lương tâm khác. Chế độ Hà Nội không coi những can thiệp như thế có tác dụng trừ phi có sự trao đổi đem lại lợi lộc gì cho họ.

Năm 2010, bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) trao giải Hellman Hammett vì những hoạt động bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Năm 2015, Tổ Chức Bảo Vệ Quyền Dân sự trao cho cô Giải Thưởng Của Năm. Bà cũng được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng giải “Những Người Phụ Nữ Quốc Tế Can Đảm” trên thế giới vào Tháng Ba, năm 2017, khi đang ở trong tù. (TN)

Lời của cụ Phan Chu Trinh 100 năm trước:

 
 
Image may contain: 1 person, text
Bình Vương Gia

 

Lời của cụ Phan Chu Trinh 100 năm trước:

1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước, thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.

2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề, thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.

3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc, thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.

4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.

5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có, thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.

6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết, thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.

7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo, thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.

8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.

9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân, thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.

10. Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm, thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v…
BVG.”Sưu tầm”

Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ, Nước Úc hay Quốc Gia Bạn Đang Sống…

 Van Pham‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people and text
Image may contain: one or more people and people standing
+2

Van Pham added 6 new photos.

 

Đảng CSVN luôn mồm rêu rao, ra rả suốt bao thập niên qua. :”Yêu Nước là yêu chủ nghĩa Xã hội”.

Thực chất, những lời tuyên truyền bịp bợm, xảo trá của những người CS chỉ lôi kéo được những kẻ cuồng tín vì quyền lợi và lừa bịp người dân quê ít học, thiếu hiểu biết.

Gần 5000 năm dựng nước và giữ nước. Tổ tiên, ông bà chúng ta có bao giờ kêu gọi hãy yêu chế độ là yêu nước không? Nhưng biết bao conngười đã chết vì quêhương trong suốt chiều dài lịch sử ấy. Để ngày nay giang sơn gấm vóc dần dần bị đảng CSVN bán đứng cho Tàu…

Bạn chẳng cần tuyên bố tôi yêu nước Việt. Nhưng hãy hành động cứu lấy quê hương, kẻo đảng CSVN sẽ bán đứng cho Tàu trong nay mai. Trong đó có ông bà, cha mẹ, vợ con, bạn hữu của bạn. Đó mới thực là lòng Yêu Nước…
****************

Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ, Nước Úc hay Quốc Gia Bạn Đang Sống…

A. Bạn đến nước Mỹ, Úc…. vì bất cứ một lý do nào đó. Tỵ nạn CS. Vượt biên. HO. Đoàn tụ gia đình. Anh chị em bảo lãnh vv…và vv…và ngay cả giả chồng giả vợ nữa, bạn đều được nước Mỹ đối xử nhân đạo và hào phóng với bạn. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ hay Úc….

B. Sống ở nước Mỹ, Úc…. bạn được giúp đỡ theo nhu cầu: Cần nhà, bạn có housing. Đau ốm, sinh nở bạn được nhà thương trị liệu. Cần thức ăn bạn có foodstamp. Nếu bạn có con nhỏ mà không đi làm được thì mỗi tháng, ngoài food stamps, bạn còn được nhận một số tiền gọi là Welfare. (nhiều người gọi là tiền phước thiện.) Tiền này tuy không nhiều nhưng cộng với housing và những sự trợ giúp quan trọng khác, giúp bạn đủ sống trong giai đoạn cần thiết để vượt qua những khó khăn (ở đây, người viết không nói đến trường hợp những người không bao giờ đi làm, hay đi làm thì chỉ lấy tiền mặt và nhiều chục năm dài sống bằng welfare.).

Nếu nhà bạn có cha mẹ già đau yếu hay chẳng may có người tàn tật, chính phủ sẽ trả tiền cho người đến săn sóc, tắm rửa nấu ăn, mỗi ngày ít nhất là 4 giờ hay nhiều hơn, tùy tình trạng. Mỗi tháng nếu bạn không có tiền trả tiền điện, tiền heat, bạn sẽ được giúp trả. Bạn hay con cái bạn cần học thì được đến trường, không có tiền đóng học phí, nước Mỹ đóng cho bạn và còn cho thêm tiền bạn mua sách vở, tiêu xài từng học kỳ. Và ngay cả khi chết, nếu không có tiền lo hậu sự, chính phủ Mỹ cũng giúp bạn chu toàn. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

C. Tại Việt Nam bạn ở nhà với cha mẹ, lúc còn bé và nếu cha mẹ bạn khá giả, bạn mới được học hành, chu cấp đầy đủ. Nếu cha mẹ nghèo, bạn không được đi học mà còn phải đi làm để góp vào với gia đình mà sống. Đúng không? Nhưng khi bạn vào nước Mỹ rồi thì dù bạn chưa đóng góp được chút gì cho sự hưng thịnh của nước Mỹ, bạn cũng vẫn được hưởng mọi dịch vụ và phúc lợi, công bằng như mọi người công dân Mỹ đã từng đóng góp mà người viết đã nói ở phần trên. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

D. Bạn có biết những khoản tiền đó từ đâu mà có không? Là từ những người đến đây trước bạn, họ ý thức được lòng nhân đạo và sự hào phóng của những người đến trước họ, đã giúp họ cơ hội để họ được là họ hôm nay và họ tri ân bằng cách làm việc không lãnh lương chui, họ sẵn sàng và vui vẻ đóng thuế để góp công xây dựng nước Mỹ được giàu mạnh, cho nước Mỹ có đủ ngân khoản mà tiếp tục giữ được truyền thống tốt đẹp này để lúc bạn đến, chính phủ Mỹ sẽ chu cấp cho bạn và cho gia đình bạn. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

E. Khi bạn đi làm, dù bất cứ hãng xưởng nào và bất cứ tiểu bang nào trên toàn quốc, tùy theo khả năng, chuyên môn và nhu cầu công việc, không kể màu da, tiếng nói, bạn được lãnh lương như đồng nghiệp và được đối xử công bằng như đồng nghiệp. Nếu bạn bị bức hiếp, bạn được pháp luật che chở để lấy lại công bằng cho bạn. Không có tiền trả luật sư, bạn được quan toà chỉ định luật sư bào chữa miễn phí. Và ngay cả những tội phạm đang bị giam cầm cũng được luật pháp Mỹ che chở. Như thế, nước Mỹ tốt đẹp và tình người cao cả quá. Đúng không? Nhưng bạn không phải yêu nước Mỹ.

G. Còn nhiều chuyện khác nữa cho lợi ích của bạn nhưng người viết chỉ kể ra đây những điều căn bản cần thiết. Qua những điều vừa kể ra, bạn có đồng ý với tôi là không nhiều nơi trên thế giới, chính quyền lại đối xử với người nhập cư tốt như nước Mỹ và bạn đã may mắn được nhập cư vào Mỹ và sống trên nước Mỹ. Đúng không? Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.

H. Người viết nhắc nhiều lần câu: “Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ.”.Bởi vì, dù sai hay đúng, tốt hay xấu, tình cảm của con người là những cảm nghĩ rất riêng, rất độc lập, bất khả xâm phạm và xuất phát tự trái tim của họ. Nhất là với tình yêu thiêng liêng mỗi người dành cho nơi họ sanh hay nơi họ sống. Đó là MỘT TÌNH YÊU TỰ HIẾN VÀ TỰ NGUYỆN DO BẢN CHẤT, DO Ý THỨC, DO SỰ TRƯỞNG THÀNH, DO LÒNG BIẾT ƠN, DO LƯƠNG TÂM, DO ĐẠO ĐỨC, GIÁO DỤC VÀ LIÊM SỈ CỦA MỖI CON NGƯỜI, KHÔNG AI CÓ THỂ YÊU NƯỚC GIÚP AI HAY BẮT BUỘC AI YÊU NƯỚC CẢ.

Vì thế, dù bạn sống ở Mỹ, ở Úc hưởng mọi phúc lợi của công dân Mỹ, Nhưng bạn không cần phải yêu nước Mỹ, nước Úc… TRỪ KHI BẠN TỰ NGUYỆN VÀ TỰ HIẾN.
**************

Tình Yêu là gì? Không ai nhìn thấy TÌNH YÊU nó hình thể gì, màu sắc gì nhưng người ta lại dễ dàng nhận ra Tình Yêu khi nó được thể hiện bằng hành động. Người mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, săn sóc con cái chu đáo, hy sinh cả đời mình cho con vì bà YÊU CON bà. Người Lính can đảm xông lên trước mũi súng quân thù, dù biết rằng đó là phút giây sinh tử nhưng để bảo vệ từng tấc đất quê hương, người lính ấy đã không ngần ngại vì Người Lính đó YÊU QUÊ HƯƠNG.

Lại có những người hy sinh mạng sống mình trên đất nước của dân tộc khác để ngăn chặn những tai họa, những chết chóc, bất công cho người không cùng chủng tộc. Vì một mục đích nhân bản hay lý tưởng tốt đẹp, họ đã làm thế và gọi chung là TÌNH YÊU NHÂN LOẠI. Như Mẹ TERESA, Mẹ đã đem TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ TÌNH YÊU GIỮA CON NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI đến những căn nhà ổ chuột, những nơi nghèo hèn dơ dáy, đã dùng bàn tay bác ái của Mẹ an ủi, thương yêu săn sóc bao nhiêu người ốm đau, thương tật, thân thể đã bốc mùi hôi thúi mà ai cũng sợ nhìn vào. Những TÌNH YÊU ấy không ai bắt buộc hay xin xỏ mà chỉ được thể hiện bằng TÌNH YÊU TỰ NGUYỆN VÀ TỰ HIẾN.

Ở đây, mục đích của bài viết này, người viết chỉ mong rằng, bạn không cần phải yêu nước Mỹ, nước Úc. Nhưng xin bạn đừng vô tình hay cố ý làm tổn thương một đất nước đã cưu mang bạn, giúp cho bạn mọi phương tiện, mọi cơ hội để bạn vươn lên sống cuộc đời tươi đẹp mà nhiều người trong nhiều quốc gia trên thế giới ước ao.

BẠN HỎI : TẠI SAO ĐẢNG CS LÃNH ĐẠO YẾU HÈN NHƯ THẾ MÀ HỌ LẠI NẮM ĐƯỢC CHÍNH QUYỀN LÂU NHƯ VẬY .

V Phung Phung shared Nguyễn Thanh‘s post.
 
 
 
Image may contain: outdoor
Nguyễn Thanh

 

BẠN HỎI : TẠI SAO ĐẢNG CS LÃNH ĐẠO YẾU HÈN NHƯ THẾ MÀ HỌ LẠI NẮM ĐƯỢC CHÍNH QUYỀN LÂU NHƯ VẬY .

Đáp : 
Vũ khí giúp CS nắm được chính quyền gồm 3 vũ khí cực kỳ lợi hại
1 . Vũ khí tuyên truyền dày đặc
2 . Nói láo ,xảo trá ko biệt ngượng mồm và họ biết vẽ ra 1 xhcn tốt đẹp đầy hứa hẹn .
3 . Họ dùng bạo lực cai trị

Nguyên nhân giúp Việt Minh lên nắm được chính quyền vào năm 1945 là do : 
– Có một khoảng trống về quyền lực 
– Chính quyền vua Bảo Đại đang suy yếu và xin rút lui ,nhường quyền cho Việt Minh lãnh đạo để giành độc lập ( vì giai đoạn này ảnh hưởng của đảng Việt Minh lớn và được sự ủng hộ lớn từ nhân dân )
– Nạn đói 1944 – 1945 đã làm gần 2 triệu đồng bào chết đói .Làm cho nhân dân tức giận chính quyền ,và căm thù phát xít Nhật . Họ khát khao thay đổi chính quyền ,và đuổi Nhật ,Pháp để dành độc lập . 
– Ngày 14- 8 – 1945 Nhật đã đầu hàng đồng minh .

Trong thời kỳ chống Pháp ,chống Nhật chỉ có Đảng Việt Minh là hoạt động mạnh nhất ,có kỷ luật ,có kỷ cương ,và đường lối chiến lược rõ ràng . Họ sẵn sàng đạp đổ ,tiêu diệt các đảng phái khác để giành vị trị lãnh đạo chủ chốt .( tham khảo hồi ký 1 cơn gió bụi của Trần Trọng Kim ) .Nhưng năm 1945 Việt Minh chỉ thống nhất được Bắc kỳ và Trung Kỳ ,Nam kỳ vẫn bị Pháp cai trị .

Chủ thuyết của CS họ chỉ phục vụ cho lý tưởng của CS quốc tế ,cho 1 XHCN đại đồng chứ không có tinh thần Dân Tộc quốc gia ,cho nên họ sẵn sàng tiêu diệt các đảng phái khác để phục vụ cho lý tưởng cs . Cho nên người CS ko có hòa hợp và liên kết với đảng phái khác ,vì vậy CS họ tìm cách tiêu diệt những đảng phái chống lại họ ,ko theo họ . Ông Lê Duẩn từng phát biểu tại Nga rằng ” VN đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và TQ ” .

Cải cách ruộng đất 1954 ở Miền Bắc ,với chiêu bài dành đất lại cho người nghèo chỉ qua là 1 chiến lược tiêu diệt tận gốc tầng lớp tri thức tiến bộ ,tàn dư phong kiến để xây dựng 1 XHCN hoàn toàn mới ,ko có vật cản con đường đi lên XHCN của họ . Lấy tầng lớp nông dân ,bần cố nông ít chữ ,ít hiểu biết để dễ mị dân ,dễ cai trị ,dễ nhồi sọ .Triết lý của Mao Trạch Đông là ” Tri thức là cục phân ” đã minh chứng cho chính sách tiêu diệt tận gốc tri thức .

Sau khi dànhđược chính quyền phía bắc ,họ bắt đầu tẩy não người Dân bằng những chiêu bài triết lý Mác – Lê vĩ đại ,sáng suốt ,tài tình và tư tưởng Mao trạch Đông .Họ xây dựng hình tượng cụ hồ vĩ đại ,thật đẹp thật hoàn hỏa để Nhân Dân tôn thờ và thần tượng như 1 vị thánh .Chủ nghĩa CS họ chỉ xem Mác – Lê là ông cụ tổ tiên của họ thôi.

Để thực hiện âm mưu cướp được Miền Nam VN ,người CS tiếp tục dùng tuyên truyền dày đặc và nhồi sọ người Dân rằng ” Miền Nam đang bị Mỹ xâm lăng ,đồng bào đang bị Ngụy kiềm kẹp và kéo lê máy chém khắp Miền Nam tàn sát đồng bào của mình ” . Vì vậy đồng bào Miền Bắc phải lên đường giải phóng MN thống nhất đất nước để đi lên XHCN tươi đẹp. Thông tin không có ,đất nước đang chia cắt ,họ dùng bạo lực cai trị và gắn trên đầu người Dân cái vòng kim cô khống chế não người Dân bằng chính sách giáo dục ngu dân ( ko biết tư duy ,chỉ theo và nghe đảng như những con robot ) .Cho 1 lực lượng nằm vùng bên trong để chống phá ,ép Mỹ dùng quân sự can thiệp vào Miền Nam để có lý do đi giải phóng MN .

Sau khi cướp được MN ,phía CS tiêu diệt tận gốc thể chế chính quyền chế độ cũ bằng chiêu bài đi tù cải tạo hòng che mắt Thế giới . Tù cải tạo thực chất dùng để trả thù và đày đọa họ làm cho họ ko còn ý chí đấu tranh ,kháng cự lại . Chiến dịch đánh tư sản, đẩy đi vùng kinh tế mới chỉ là chiêu bài được cướp tài sản công khai ,làm suy yếu lực lượng này trỗi dậy trong tương lai .Kiềm kẹp người MN bằng kinh tế làm cho họ trở thành giai cấp vô sản hoàn toàn .Kiềm kẹp về lý lịch để họ ko thể bước chân vào chốn quan trường .

– Người CS vẫn tồn tại vững chắc là nhờ kênh truyên tuyền mạnh suốt hơn 70 năm cầm quyền .
– Nền giáo dục ngu dân giúp người Việt không có khả năng tư duy độc lập ,bị họ điều khiển và dắc mũi như những con bò ngu xuẩn . 
– Họ dùng bạo lực để khống chế tranh đấu người Dân 
– Họ bóp ghẹt người Dân bằng thuế phí nặng nề 
– Họ sử dụng lãnh đạo ngu dốt dễ sai bảo 
– Thể chế độc tài giúp mỗi ông quan là 1 ông vua cai trị 1 vùng đất .Và sẵn sàng dùng bạo lực đàn áp Dân để bảo vệ quyền lợi cho họ .
– Sau khi chính sách tuyên truyền mất tác dụng để mị Dân ,họ chuyển sang kế sách vô cảm hóa người Dân. Làm cho Dân thờ ơ trước thực trạng của XH .

Người CS tuy họ không có khả năng lãnh đạo đất nước phát triển kinh tế đất nước mạnh .Nhưng họ có khả năng mị dân ,khống chế tư tưởng tranh đấu của Dân và biết cúi đầu luồn cúi ,nịnh bợ Trung cộng để được nâng đỡ .

Đôi Dòng Với Anh Gia Quốc.

 
 
Van Pham shared Phạm Thành‘s post.

Muốn đấu tranh kiểu gì cũng được…. miễn đó là công việc chủ lực của người dân quốc nội…. đừng trông ngóng hải ngoại, vì thực ra họ chỉ có thể yểm trợ cho quốc nội. Bởi họ không có nhu cầu tranh đấu dân chủ, tự do cho chính họ…. Một khi không phải là mục tiêu sống còn, thì ai đòi hỏi hay bắt buộc họ phải lao vào sống chết để đấu tranh?!!!

 
Image may contain: 6 people, people smiling, people sitting and indoor
Image may contain: 6 people, people smiling, people sitting and indoor
Phạm Thành added 2 new photos — with Trần Thị Thảo and 14 others.

 

Đôi Dòng Với Anh Gia Quốc.

Anh Gia Quốc từ nước Mỹ xa xôi đến chơi nhà. Chúng tôi nói, Việt kiều có 4 triệu người ở xứ sở tự do mà chưa hình thành được một thể lực đủ mạnh để đối trọng với cộng cầm quyền Việt Nam. Ấy mà các bạn thường xuyên có bài phê phán phong trào đấu tranh cho dân chủ ở trong nước rằng: chưa có thủ lĩnh, chưa liên kết và rất dễ vỡ. Anh Quốc nói, ở nước ngoài cũng có thế lực đó, nhưng cũng chưa mạnh và cũng chưa đoàn kết được. Chúng tôi nói với anh Quốc rằng, nhóm chúng tôi đấu tranh, mục tiêu xa cũng là đấu tranh cho dân chủ, nhưng trước hết phải bấng cái gốc độc tài, toàn trị của đảng cộng sản đi cái đã. Cái gốc ấy mà còn, chẳng có mầm mống dân chủ nào có thể phát triển đươc. Còn lấy mục tiêu dân chủ ra để khai dân trí và đợi cho trí của người dân được mở ra thì có lẽ phải trăm năm nữa, cách mạng dân chủ ở Việt Nam mới xảy ra.

Cộng sản Việt Nam sụp đổ là tự nó sụp đổ do hết nguồn lực, đời sống người dân khó khăn, chẳng hạn; hoặc là có biến động lớn của thế giới tác động đủ mạnh buộc nó phải sụp đổ, hoặc là cả hai tạo ra áp lực dẫn đến nó phải sụp đổ. Những người đấu tranh chỉ góp một phần nhỏ tạo nên sự sụp đổ đó mà thôi. Vấn đề quan trọng là khi cộng sản sụp đổ thì những người đấu tranh giải thể cộng sản cầm quyền có đủ lực lượng để cướp chính quyền từ tay cộng sản hay không? Nhóm tôi quan tâm nhiều đến vấn đề này, dồn tâm trí cho mục tiêu này, vì chúng tôi tin rằng, sự sụp đổ của độc tài cộng sản Việt Nam tất yếu sẽ dẫn đến dân chủ cho Việt Nam. Vì rằng, dân chủ là cở sở để bảo toàn mạng sống, của cải và quyền sống của bất kỳ ai.

Vì vậy, đầu tư cho công cuộc đấu tranh giải thể cộng sản cầm quyền cần thiết và mạng giá trị hiện thực hơn đầu tư cho khai trí về dân chủ.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Ngày Cuối Năm Ở Chiêu Nam Đảo

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Ngày Cuối Năm Ở Chiêu Nam Đảo

Ảnh của tuongnangtien

 tuongnangtien

RFA

Quê nhà xa lắc xa lơ đó

Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Nguyễn Bính

Khoảng cách từ Kuala Lumpur đến Singapore, có lẽ, cũng chỉ bằng đoạn đường Sài Gòn/Đà Lạt là cùng. Bởi vậy thay vì chạy ra phi trường, tôi phóc đại lên một cái xe đò cho nó đỡ hao xu.

Chuyến đi tuy hơi lâu nhưng thú vị. Đã quen với những con đường chật hẹp của Cambodia, hoặc lỗ chỗ ổ gà (cùng với bụi mù) của Myanmar nên quốc lộ thênh thang và phẳng lì ở Malaysia khiến tôi ngạc nhiên không ít. Trông cũng tân kỳ y như hệ thống freeway của California vậy. Chỉ có điều khác là xe lao vun vút qua những cánh rừng nhiệt đới thâm u, hoang dại, hay những rừng kè ngút ngàn mà nhìn từ trên không tôi cứ ngỡ là dừa.

Tuyệt nhiên không thấy bóng một cha nội cảnh sát, hay công an giao thông nào cả nhưng BOT thì có chớ. Qua ba trăm KM đường dài, tài xế phải trả phí hai lần – mỗi lần 5 RM, gần 2 U.S.D – nhưng họ chà thẻ nên không có cái vụ đếm tiền lẻ, và dựng bảng (“Cấm Ngừng Quá 5 Phút”) như ở quê mình.

Tính ra thì cứ trung bình 100 KM quốc lộ thì giới xe đò phải trả thêm cho nhà nước Mã Lai thêm 65 xu (theo đơn vị Mỹ Kim) dù đã đóng thuế lưu hành. Tuy nhiên, số tiền phụ thu này đã được chi dùng hết sức đàng hoàng và rõ ràng nên không có gì để phàn nàn cả.

Quốc lộ rộng đến sáu làn. Dải phân cách mọc đủ thứ loài hoa nhưng tôi chỉ nhận ra được hoa phượng đỏ, chen lẫn với phượng vàng, và hoa giấy. Hoa giấy tuy không tàn nhưng trông có nét buồn buồn ngay từ khi vừa hé nhụy. Giữa nắng chiều vàng hanh mà nhìn mầu xác pháo thì ngay đến cả tôi – một anh già ham chơi và nát rượu – cũng thoáng bâng khuâng vì nỗi nhớ nhà.

Mẹ cha ơi đừng đợi

Chiều nay con chưa về

Chị ơi thôi đừng đợi

Chiều nay em không về

(tnt – 1980)

Không thấy cổng chào (“WELCOME TO SINGAPORE”) nên chả rõ là xe đã thực sự đi vào phần đất của Tân Gia Ba tự lúc nào nhưng tôi vẫn cảm được là không khí Tết mỗi lúc một gần thêm – sau từng cây số. Khác với ở Kuala Lumpur, phần lớn dân Singapore là người Hoa (hoặc gốc Hoa) nên Chinese New Year được chuẩn bị kỹ càng và rình rang hơn hẳn.

China Town, tất nhiên, đỏ rực. Chùa Tầu mầu mè hoa hoè và khói hương nghi ngút, đã đành; chùa Chà (kế đó) cũng trưng bầy đèn lồng, cùng với hàng chữ chúc mừng –  “Wishing All A Happy & Properous Lunar New Year” –  và cũng đông đúc tín đồ không kém.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sri Mariamman Temple, ngôi chùa Chà cổ nhất trong khu Phố Tầu ở Tân Gia BaẢnh chụp tháng 2 năm 2018

Thế mới biết là người Ấn có một không gian tâm linh rất rộng, và rất “sính” chuyện hội hè đình đám. Tết Nguyên Đán lại hay trùng hợp với Lễ Hội Ngày Mùa (Pongal Festival) kéo dài đến bốn ngày của họ: từ 14 đến 17 tháng Giêng.

Khác với Little Sài Gòn ở California, Little India ở Singapore lúc nào cũng lúc nhúc người. Bombay hay New Delhi, tôi đoán, chắc cũng đông đúc đến vậy là cùng. Ngó mà chóng mặt luôn.

Đã vậy, tôi còn lạc bước đến “thánh địa” này đúng vào lúc người ta đang làm lễ tạ ơn Mẹ Thiên Nhiên (Mother of Nature) hay Thần Mặt Trời (The Sun God) gì đó. Họ bầy ra những cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy. Nguyên cả một tập thể người rồng rắn vừa đi vừa thực hành những nghi lễ truyền thống vô cùng lạ mắt, và hơi kỳ dị. Thêm cái đám du khách hiếu kỳ bao quanh, hay rùng rục theo sau, tạo nên cả một rừng người.

Đây không phải là lần đầu tiên tôi có mặt ở Singapore nhưng chưa bao giờ thấy cảnh sát của Đảo Quốc này xuất hiện nhiều đến vậy. Dù vậy, họ phải vô cùng chật vật mới giữ cho đám đông không làm tắc nghẽn giao thông.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ảnh chụp tháng 1 năm 2018

Đ…mẹ, ở Việt Nam mà tràn ra đường lễ lạc kiểu này thì chắc chết, chết chắc. Súng nổ như không. Những kẻ sống sót – tất nhiên – sẽ đều phải ra toà về tội “gây rối trật tự công cộng,” chớ chả phải chuyện đùa đâu. Cái chính phủ của Đảo Quốc Sư Tử này – rõ ràng – đã không “quản lý” được cái đám dân ngụ cư (chỉ chừng vài trăm ngàn người) gốc Ấn. Dường như có sự tỷ lệ thuận giữa tự do dân chủ và phồn thịnh. Nhờ vào sự “buông lỏng quản lý” nên Singapore có lợi tức đầu người cao nhất/nhì thế giới, còn xứ sở của tôi thì ngược lại!

Dù mới cuối tháng Giêng nhưng cái nóng nhiệt đới và cái đám đông hừng hực hơi người vẫn khiến tôi hơi ngột ngạt. Thay vì đón xe buýt, tôi vẫy Taxi về nhà trọ cho nó đỡ phiền. Tôi về khu Đèn Đò Geylang nên  bác tài nheo mắt:

  • Đi kiếm gái hả?

“Đang mệt thấy bà đây, gái với gú cái gì – cha nội?” Tôi chỉ nghĩ (thầm) vậy thôi chứ cũng ráng gượng cười cho nó qua chuyện, khỏi phải giải thích lôi thôi. Đến tuổi tôi thì có lẽ không ai còn đủ can đảm cho một cú sexual adventure nữa. Đây là cách phiêu liêu hứa hẹn rất nhiều phiền toái mà (chắc chắn) cũng chả hứng thú gì.

Theo cách nhìn của những kẻ cầm quyền thì khu vực đèn đỏ nào cũng đều là nơi … phức tạp, cần phải được canh chừng. Với riêng tôi thì Khu Đèn Đỏ Quốc Tế Geylang chỉ là nơi tập trung của những cô gái kém may mắn nhất ở Đảo Quốc giàu sang này. Giữa một trung tâm thương mại phồn thịnh mà họ lại không có gì để bán, ngoài thân xá. Tôi cũng “đứng về phe nước mắt” nên chỉ quen sống kề cận với những kẻ bất hạnh mà thôi.

Không phải mọi phụ nữ Việt Nam trôi dạt đến Geylang đều làm gái cả. Không ít người vì tuổi tác, hay vì không đủ “vốn liếng trời cho” nên phải làm công việc nặng nhọc hơn, và lợi tức cũng khiêm tốn hơn nhiều. Họ đi bán giấy chùi miệng và lau tay.

Thực khách ở Singapore không ai cần giấy nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy (rất lương thiện này) quả một là phát kiến thần tình, rất đáng được hoan nghênh.

Điều đáng tiếc là đồng bào của tôi lại không được “hoan nghênh” mãi mãi – theo như ghi nhận gần đây của nhà báo Huy Phương:

“Báo chí lại loan tin, những người Việt Nam, đồng bào của chúng ta, từ Sài Gòn đến phi trường Changi, Singapore, bị từ chối nhập cảnh, nói rõ ra là bị đuổi về.

Singapore là một trong 48 quốc gia mà người mang thông hành Việt Nam vào không cần thị thực, nhưng lần này mặc dù có đầy đủ giấy tờ tùy thân, nhiều hành khách Việt Nam, phần lớn là phụ nữ, vẫn bị nhà chức trách Singapore từ chối cho vào xứ của họ…

“Chính quyền Singapore cũng không hề nói lý do họ không cho những người Việt này vào nước họ, nhưng cái lý do này thì những người trong cuộc, hay toàn thể ‘khúc ruột ngàn dặm’ trên khắp thế giới đều biết rõ, đều cảm thấy xấu hổ và đau lòng.”

Dân Tân Gia Ba, rõ ràng, đã oải. Họ không còn đủ kiên nhẫn và bao dung với những kẻ khốn cùng (không vốn liếng, không ngoại ngữ, không nghề nghiệp) cứ tiếp tục đến mãi từ một nước (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) láng giềng!

Thảo nào mà khác hẳn với hồi tôi đến khu đèn đỏ Geylang vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015, bây giờ người Việt ở đây gần như chả còn ai cả. Đợi ngày mai đỡ mưa và đỡ mệt, tôi phải đi kiếm đồng bào mình với được. Có thể là những đứa cháu gái của tôi đã di chuyển qua một khu vực khác chăng? Chớ không lẽ tôi phải ăn tết mình ên ở Chiêu Nam Đảo hay sao?  Mà Tết thì tới nơi rồi!

27 TẾT ĐI THĂM – NHẬN ĐƯỢC TIN CON ĐÃ BỊ CHUYỂN TRẠI XA

Hoa Kim Ngo shared Tuyet Lan Nguyen‘s post.
 

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã bị chuyển đi trại 5 Thanh Hoá mà không thông báo cho gia đình.

Sự tàn ác của nhà cầm quyền ngày càng tàn độc.

 
Image may contain: 2 people, people standing and outdoor
Tuyet Lan Nguyen

 

27 TẾT ĐI THĂM – NHẬN ĐƯỢC TIN CON ĐÃ BỊ CHUYỂN TRẠI XA

Sáng nay theo lịch thăm nuôi tôi mang theo đồ đạc đã chuẩn bị trước đó đến trại giam để thăm con. Khi đến Trại giam tỉnh Khánh Hoà thì tôi nhận được tin Quỳnh đã bị đầy ra tận trại 5, Thanh Hoá. Không một văn bản giấy tờ, công an trại giam Khánh Hoà chỉ thông báo bằng miệng khi tôi đến. Hôm nay đã là 27 Tết rồi, họ có cần phải tàn ác thế với gia đình chúng tôi?

Thứ hai ngày 05/02/2018 . Tôi đi thăm Quỳnh họ không một lời thông báo. Họ cố tình chờ đến sát Tết, sau khi đã đưa mẹ của Nấm Gấu đi thật xa chúng nó rồi mới cho gia đình tôi được biết.

Nếu như tôi là tôi của chục năm về trước, nếu như tôi cần phải lo cho các cháu tôi, Nấm và Gấu, thì dù họ có chuyển con tôi đi đến đâu tôi cũng không quan tâm, tôi có thể đi bất cứ nơi nào để thăm nom con mình. Nhưng bây giờ tôi đã hơn 60, không chỉ có cháu nhỏ con tù mà trên vai còn có mẹ già phải gánh. Chính quyền này biết rõ điều đó hơn ai hết, nhưng họ vẫn cố tình đầy Quỳnh ra tận ngoài Bắc sau khi đã giáng lên cả gia đình chúng tôi bản án 10 năm tù.

Trại 5 Thanh Hoá khét tiếng về sự heo hút, mới đây tôi đọc báo còn thấy tin nó bị cô lập trong dòng nước lũ, với sức khỏe của con tôi hiện nay làm sao để chống chọi và chịu đựng được ở một nơi như thế? Chẳng phải họ đang muốn giết con tôi mà không cần dùng dao súng, muốn nó chết dần trong tù đày khổ ải hay sao?

Bản án 10 năm không đủ khiến họ hả hê, nước mắt chia lìa mẫu tử không khiến họ cảm thấy một chút dao động, vào ngày 27 Tết họ tiếp tục đâm thêm nhát dao cho chúng tôi bằng chết.