Cà Mau: Dân đi quá đông làm sập cầu Hòn Đá Bạc

 

Cà Mau: Dân đi quá đông làm sập cầu Hòn Đá Bạc

Cầu dẫn ra khu du lịch Hòn Đá Bạc. (Hình: Báo Người Lao Động)

CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Cầu dẫn ra khu du lịch nổi tiếng Hòn Đá Bạc ở huyện Trần Văn Thời, bị sập ngay trong ngày mùng 1 Tết, do người đi quá đông buộc chính quyền địa phương phải cho rào lại chờ sửa chữa.

Chiều 20 Tháng Hai, xác nhận với báo Người Lao Động, ông Nguyễn Quốc Đoàn, chủ tịch xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, cho biết đã rào phần cầu bị sập lún và cấm xe cộ chạy qua cầu dẫn ra Hòn Đá Bạc.

“Nguyên nhân cầu bị lún là do dịp Tết lượng du khách chen lên cầu quá đông, trong khi khả năng chịu lực của chân cầu yếu vì trước đó cầu đã bị tàu biển va đập vào,” ông Đoàn nói.

Trước đó, khoảng 7 giờ ngày 16 Tháng Hai (mùng 1 Tết), nhiều người dân phát hiện chiếc cầu bắc từ đất liền ra Hòn Ông Ngộ, nằm trong cụm Hòn Đá Bạc, một địa điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Cà Mau bị sụp lún một đoạn khoảng 30 mét, lún sâu khoảng 10 cm. Ngoài ra, hai cây cầu sắt bắc từ Hòn Ông Ngộ sang Hòn Đá Bạc cũng bị xuống cấp, không bảo đảm cho việc qua lại.

Ngay khi phát hiện cầu lún, ủy ban xã Khánh Bình Tây đã cử lực lượng trực tại điểm sụp lún và xuống cấp để hướng dẫn người dân và du khách đi ra khu du lịch Hòn Đá Bạc an toàn. “Chúng tôi cho rào lại, đồng thời không cho khách và người dân chạy xe qua cầu ra hòn. Do có hai cầu từ đất liền dẫn ra Hòn Đá Bạc nên việc đi lại của khách du lịch không trở ngại nhiều,” ông Đoàn cho biết thêm.

Tin cho biết, cách đây đúng 12 năm, vào trưa ngày 30 Tháng Giêng, 2006 (mùng 2 Tết Bính Tuất), chiếc cầu nối từ đất liền ra Hòn Đá Bạc dài khoảng 600 mét đã bị sập 2 nhịp gần bờ khiến gần 50 du khách bị rơi xuống nước. Rất may, không có ai thương vong và tất cả đều được cứu kịp thời. (Tr.N)

CUỘC “BẮT CÓC” ĐẦU NĂM.

Hoa Kim Ngo is with Sương Quỳnh and 5 others.

CUỘC “BẮT CÓC” ĐẦU NĂM.

Hạ Đình Nguyên.

Bắc cóc là một từ phổ biến ở Việt Nam.

Nó không chỉ dành riêng cho giới giang hồ khốn khổ.

Nó có tổ chức và hành sự công khai, lại có tiếng vang tầm quốc tế. Nó đang là một biện pháp chính thức và hữu hiệu trong cách cai trị của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức là một điển hình lớn, nó đem lại tiếng tăm cho người cầm đầu đất nước, dù có gây nên cái nhìn kém văn minh và thiệt hại đến mấy trong bang giao quốc tế cũng không quan trọng, miễn là được việc của mình. Đó là cách nghĩ của người cầm đầu, thể hiện cái gọi là “bản lĩnh”.

Chuyện bắt cóc trong nước đối với công dân đã trở nên chuyện bình thường. Bắt cóc trẻ em, bắt cóc con gái, để tống tiền, hoặc để bán sang Trung Quốc, để buôn nội tạng…là cách của bọn giang hồ. Chúng hành sự lén lút, và bị nhân dân lên án, theo chuẩn mực đạo lý bình thường, có khi bị pháp luật trừng trị. Còn cách bắt cóc ngang nhiên, công khai, hợp với luật pháp xã hội chủ nghĩa, là một cách bắt cóc “có lý tưởng”…Ít ra, những người đang hành sự nghĩ thế. Họ đang bảo vệ chế độ. Nếu bạo lực đã tạo nên chế độ, thì bảo vệ chế độ cũng phải bằng bạo lực, cũng là hợp lý.

Sáng mồng một Tết, tôi thong thả mặc quần áo tươm tất, ăn vội bửa sáng, nhấp chút cà phê, chuẩn bị đi đến điểm hẹn – quán “cà phê Cộng”, gần tượng đài Trần Hưng Đạo. Dự định sẽ thắp hương ở đấy, để tưởng nhớ đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh, vì mai là ngày Trung quốc khởi đầu cuộc tấn công Việt Nam, với 60 vạn quân ào sang chém giết, tàn sát, đốt phá 6 tỉnh miền Bắc…Đứa cháu gái vội mách với tôi, có 3 an ninh và 3 chiếc gắn máy chắn ngang phía trước cổng nhà mình. Tôi nhìn ra, thấy đúng như vậy.

Tôi phân vân chẳng nên đi, thì cánh cửa sực mở, 2 người bước xộc vào, mấy con chó kêu lên phẫn nộ, chặn họ lại. Họ đứng lại. Tôi bước ra. Họ cất tiếng chào năm mới. Tôi nhả nhặn nói, xin lỗi, tôi không tiếp các anh, mong là các anh trở ra cho. Họ quay ra, tôi đóng chốt cửa.

Lòng tôi không vui, tự hỏi, vì sao họ có thể bất chấp mọi thứ, và có quyền làm mọi thứ?

Họ chà đạp mọi giá trị truyền thống dưới chân mình. Chuyện nầy không còn là chuyện nhỏ của riêng ai, nó bao trùm cả đất nước nầy lâu nay. Suy nghĩ một lát, tôi quyết định phải đi, thử một chuyến du xuân với chế độ. Tôi trèo rào, đi quanh vài khu vườn thì ra tới lộ. Tôi đón xe ôm. Chú tài chở tôi phom phom trên đường nhựa, phố xá thong dong sạch đẹp, rồi tôi đến được điểm hẹn ở trung tâm thành phố. Một số bạn đã có mặt, họ đã đến đây từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, đều giống như những chuyện đùa. Tôi hỏi một em phục vụ quán. Sao gọi là quán “Cộng”, nó nghĩa là gì? Trả lời, là cộng lại, cọng thêm, để ngày càng đông, chứ không phải là trừ, nó sẽ ngày càng ít. À ra thế, thật nôm na đơn giản, thế mà tôi bị ám ảnh chữ “Cộng”, chứ nó tuyệt nhiên không liên quan gì đến cnxh hay ông Tổng Trọng. Các bạn tôi, đều nhẹ nhàng, vui vẻ, cho rằng đây là một cuộc xuất hành đầu năm có ý nghĩa, thay vì đi viếng mộ người thân, đi thăm ông bà, đến chùa thắp hương, thì đi viếng tượng đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng dân tộc, chống Tàu xâm lược 3 lần đều thắng lợi vẻ vang, và nhắc lại sự kiện lịch sử năm 1979 không thể nào quên. Hàn huyên xong, nhóm người bắt đầu đi bộ đến tượng đài – cách chừng vài chục mét – tôi nán lại một khoảng cách, và đi sau cùng, dìu một lão đồng chí 82 tuổi băng qua đường. Những chiếc gắn máy chở hai, mặt bít kín khẩu trang, chạy lòng vòng một cách bất thường ở ngã ba, bổng áp sát bên tôi, nhảy xuống, nhanh chóng áp hai bên, đẩy tôi lên xe, cùng tiếng nói nhỏ rót vào tai, nhưng có âm sắc của một thứ mệnh lệnh lạnh lùng chứa đựng sự bất lương: “chú lên xe! lên xe!”. Người ngồi sau ôm cứng tôi như một kẻ bạo dâm. Chiếc xe chở 3, kẹp tôi ở giữa, không mũ bảo biểm, phóng trên con phố đông người, vượt cả đèn đỏ khi con lộ chưa kịp bị bít kín bởi dòng người. Và một chiếc nữa đi kèm sát. Lòng tôi bình thản, không gợn lên một ý tưởng hận thù hay bạo động nào. Nhìn sang anh đi kèm, anh ta lùn, lưng dài và chân thì rất ngắn, mang dép không quai sau, (trường học cấm học trò đi dép lê kiểu nầy), cái bộ dạng ấy hẳn là không đắt đào mấy. Anh chàng cầm lái ở xe tôi, và người ngồi sau ôm tôi, tôi đều không rõ mặt và hình dạng. Tôi hỏi, các anh ở cấp Thành hay Quận. Họ im lặng. Nhìn sang dòng xe đang chảy êm trên con phố đầy hoa xuân, thấy một đấng nữ nhi lướt xe qua, tôi nói, ô, ăn mặt rất đẹp, nhất là đôi chân, nhỉ?. Im lặng. Tôi biết hai anh ta đang gồng mình mác-lê trong lòng khi đang thi hành nhiệm vụ bắt cóc thiêng liêng. Có tiếng điện thoại reo, người ngồi sau nghe máy, trả lời vội vã “đang bận ôm hàng, đang bận ôm hàng”. Tôi là hàng hóa của nhóm anh ta sáng hôm nay. Một nghề bán buôn thật đặc biệt. Tôi nghĩ thầm, tụi nó chở mình về trụ sở công an nào đó, hoặc là chở về nhà, về đâu thì cũng vậy! Ta thuộc về cái lứa tuổi ông Trọng, cái tuổi ăn rồi mà nói chưa ăn ấy, chẳng sao cả!. Ta cũng đã một thời tuổi trẻ trôi theo giòng nước. Khoảng 50 năm trước, một lần bị tóm theo kiểu nầy, nhưng không thể gọi là bắt cóc. Người bắt ta có mang sắc phục cảnh sát hẳn hoi, xe cộ đàng hoàng, hú còi inh ã, đâu có thế nầy!. Có tiếng qua lại gì đó trên điện thoại, thì xe hướng về ngã cầu Bình Triệu. Có lẽ là chở về nhà, ta khỏi tiền một cuốc xe ôm. Đến ngã ba HB, xe rẽ trái, chạy ngược chiều 20 mét, quẹo trái vào hẻm, dừng lại trước cổng nhà, họ thật rành đường! Xuống xe, tôi nói, anh lấy khẩu trang ra chứ, để thế là không lịch sự. Lịch sự ra phết, họ gỡ ngay khẩu trang ra, và “cười”. Cái cười khó biết giả thật. Tôi thấy họ đều trẻ. Họ còn “chúc Tết” tôi nữa! Tôi không ngại khi họ dùng bạo lực với tôi lúc nảy, nay bỗng dưng kinh hãi về nụ cười kia và lời chúc Tết nọ. Chỉ 30 phút trước, họ không khác những tay chuyên trấn lột, một loại người có thể giết người, bây giờ thì họ giống người tử tế, ra vẻ hiền lành, lương thiện có dư. Làm sao họ có thể chứa cả hai điều mâu thuẩn ấy trong một con người, trong một khuông mặt, trong cái cười ghê răng ấy? Cách nay khá lâu, có một tu sĩ Tin Lành nói với tôi, trong đời chỉ có một trong hai loại, hoặc là thiên thần, hoặc là quỹ dữ, không thể có hai trong một. Tôi thì không đồng tình với niềm tin trên. Nhưng tôi biết, có sự tròng trành điên đảo giữa lương thiện và bất lương qua mỗi khoảnh khắc của đời người. Cái bất lương có thể ẩn trốn nhất thời trong lớp vỏ lương thiện để hành sự. Tôi biết họ bị che lấp, họ lớn lên và trưởng thành, trọn vẹn là sản phẩm đặc biệt được nhồi nặn riêng của một thời kỳ cũng đặc biệt, gọi tên là thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Họ là một binh chủng riêng, là mũi nhọn, là tia chớp, là một loại công cụ rất đáng tư hào. Họ có nhiệm vụ rất trá ngụy – mà họ cho là thiêng liêng – là bảo vệ chế độ, là trung thành với “ở trên”. Một chế độ bí hiểm và lòng trung thành cũng bí hiểm nốt. Ở “trên” là trên nào, là những ai, rất nhiều và vô hình vô dạng. Họ né tránh nói đến con người cụ thể, dù họ rất mơ hồ. Họ có cái riêng để tôn thờ, để trung thành, để nhân danh, để tồn tại, không cần thiên thần hay qủy dữ, lương thiện hay vô lương, có thể gọi đó là một thứ Thượng Đế bí hiểm của riêng mình: “Thượng Đế xã hội chủ nghĩa”. Giáo sư Đào Công Tiến trong một bài viết mới đây, gọi chủ nghĩa ấy đã chết rồi mà chưa chịu chôn. Họ cùng nhau phục chế và nhang khói như kẻ giữ đền đề ăn oản. Nghệ thuật ăn oản cao đến mức không còn nghệ thuật, như chuyện đá bóng, đội U 23 giành được cúp Á quân, thì chủ nghĩa xã hội xun xoe xuất hiện náo nhiệt để ăn oản, trơ trẻn chường mặt che lấp hàng cầu thủ, nhưng nếu đội bóng thua thì chúng cũng vắng bóng.

Chuyện bắt cóc đầu năm là một thắng lợi vẻ vang trên đường phố của những thiên thần xhcn. Họ không học theo cách nghĩ của quán “Cà phê Cộng”. Họ đang xây những “Cà phê Trừ”. Trừ càng nhiều càng tốt, để chỉ giữ vai trò độc tôn trơ trụi của mình.

Con gái tôi nghe tin chuyện tôi bị bắt cóc, nó gọi điện và cười ngất: “Ba ơi, buồn cười quá!” nó lại tiếp tục cười nứt nẽ. Hỏi, sao buồn cười ?. Nó bảo, nầy nhé, ba như đứa trẻ choi choi, trốn nhà đi chơi, bị người ta bắt đưa về nhà…, sao không buồn cười được! Tôi hỏi, chỉ buồn cười thôi sao?. Nó bảo, biết rồi, họ làm chuyện kỳ cục, quá kỳ cục!. Con gái tôi thuộc loại thiên thần thật, cực kỳ lương thiện, ngôn ngữ nó chỉ chừng ấy. Nó không quan tâm chuyện chính trị. Nó không biết Thượng đế xhcn, nó không rõ Tổng Trọng là ai, bí thư thành ủy của thành phố mà nó đang sống có tên là gì. Nhưng nó biết khái quát nhà nước qua hình ảnh thu gọn, rất biểu trưng, chỉ như một khái niệm, là cảnh Công an nằm ngồi canh gác suốt đêm ngày trước cổng nhà, và hôm nay có bổ sung thêm một chút kiến thức về chuyện bắt cóc “buồn cười quá” hôm qua. Nó chỉ quan tâm chuyện giá cả ngoài chợ đang lên cao, chuyện chăm sóc vệ sinh cho mấy cháu nhỏ, và nhất là đề phòng chuyện “mẹ mìn” bắt cóc con nít.

Nó đột ngột chấm dứt đường dây nóng với tôi trước khi cúp máy: Ba ơi, con đi thay… bím cho em bé đã. Tôi hiểu, như vậy là nó chấm dứt hoàn toàn câu chuyện về các thứ đang diễn ra. Lành thay cho một công dân! Và cũng bi đát thay cho một xã hội!

Hôm nay, mồng ba Tết, nhóm quạ đen đã biến mất, 3 chiếc gắn máy chắn ngang trước cửa không còn, bầu trời trở lại trong xanh. Họ nghĩ là họ đã hoàn thành nhiệm vụ “trên giao”, và bày tỏ đủ sự trung thành nham nhở với “giáo chủ” của mình.

Tôi nhớ câu thơ của Bùi Minh Quốc, từng viết: “Một thời khốn nạn đã lên ngôi”

Mồng 3 Tết Con Chó Vàng. Năm thứ 7, Triều Nguyễn Phú Trọng.
HĐN.(19/2/2018)

Việt Nam tham nhũng thứ hai châu Á?

Tạp chí Forbes hôm 13/3 đăng bài của cộng tác viên Tanvi Gupta dựa trên phúc trình về tình trạng tham nhũng ở Á châu của tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) đặt Việt Nam vào vị trí số hai trong danh sách 5 nước tham nhũng nhất châu lục, chỉ sau Ấn Độ. 

 
 
About this article

 
Phúc trình về tình trạng tham nhũng ở Á châu của tổ chức Minh bạch Quốc tế đặt Việt Nam vào danh sách 5 nước tham nhũng nhất.
 
BBC.COM
 

ĐÓN COI: PHIM ‘’ILE DE LUMIÈRE’’

Huỳnh Phi Long and 3 others shared Từ Thức‘s post.
Image may contain: outdoor

Từ Thức

 

ĐÓN COI: PHIM ‘’ILE DE LUMIÈRE’’

Cuốn phim ‘’ Ile de Lumière ‘’ về chiếc tầu được đặt tên là Đảo Ánh Sáng, đã cứu vớt hàng trăm ngàn boat people Việt Nam sẽ được trình chiếu trên đài truyền hình quốc gia Pháp France 2 ,23H05 tối hôm nay, thứ ba 20/02/2018.

Cuốn phim của điện ảnh gia Nicolas Jallot đã gây xúc động lớn khi trình chiếu trong Đại hội Quốc Tế Phim Ảnh Lịch Sử ( Festival International du Film d’Histoire ) tại Pessac ( Pháp ) tháng 11 vừa qua.

Trong 65 phút, cuốn phim đã thuật lại cuộc vượt biển hãi hùng của hàng triệu người Việt đi tìm tự do khi Cộng Sản xâm chiếm miền Nam VN và phong trào cứu trợ lớn nhất trên đất Pháp

Nhiều khán giả tại đại hội đã không cầm được nước mắt, nhưng cũng đã hãnh diện vì dân tộc Pháp, trong dịp này, đã bày tỏ tinh thần quảng đại, nhân đạo đáng cảm phục.

Nicolas Jallot nói, trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Frnce Inter, có nưóc Pháp trước và sau Ile de Lumière.

Trước Ile de Lumière, người Pháp thường chia rẽ, tranh cãi về mọi vấn đề. Ile de Lumière là trường hợp hy hữu: tất cả xã hội Pháp đã ủng hộ hết lòng một chương trình nhân đạo.

Trước Ile de Lumière, nước Pháp chia ra hai phe, tả và hữu. Những gì phe tả ủng hộ, phe hữu chống , và ngược lại. Với Ile de Lumière, hai lãnh tụ trí thức , hai triết gia hàng đầu của Pháp, Jean Paul SARTRE, lương tâm của tả phái, và Raymond Aron, lương tâm của hữu phái, sau 30 năm bút chiến gần như hận thù, đã bắt tay nhau, vào điện Elysée để yêu cầu tổng thống Valéry Giscard d’Estaing đón nhận boat people. Sartre trước đó đã từ chối giải Nobel văn chương, từ chối gặp gỡ bất cứ một chính trị gia nào bị ông ta cho là phản động.

Lần đầu tiên tất cả báo chí thuộc mọi khuynh hướng đều nồng nhiệt ủng hộ một chương trình nhân đạo. Trừ một bài báo rụt rè trên tờ L’Humanité của Đảng Cộng Sản Pháp – tờ báo vốn bênh vực ngưòi anh em Cộng Sản Việt Nam một cách nhiệt thành hơn- chỉ trích các đảng phái chính trị khác đã lợi dụng một thảm kịch để bôi nhọ cuộc chiến đấu của người Cộng Sản VN. Nhưng đó chỉ là tiếng nói lẻ loi trong sa mạc.

Trước một phong trào nhân dân nhất trí chưa từng có, tổng thống Pháp đã quyết định đón nhận, giúp an cư lạc nghiệp cho 130.000 boat people, mặc dù chính sách của ông lúc đó là hạn chế tối đa di dân, vì nước Pháp đang gặp khó khăn kinh tế và vấn đề di dân đã bắt đầu rắc rối trong xã hội Pháp.
Nicolas Jallot nói sau đó, nước Pháp đã đón nhận 300. 000 thuyền nhân, và họ đã hội nhập , thành công, đóng góp cho xã hội Pháp, không gây một vấn đề gì.
Nicolas Jallot là một điện ảnh gia, một tác giả chuyên về những vấn đề hậu Cộng Sản. Ông đã viết hàng chục cuốn sách và nhiều phim tài liệu về Nga, Đông Âu, nhất là giai đoạn sau khi bức tường Berlin sụp đổ.

Ông nói lần đầu, thực tế phũ phàng về thiên đường Cộng Sản đã đập vào mắt người Pháp.

Trước đó đã có những tác phẩm tố cáo, như những tác phẩm của Soljénitsyne, nhưng không có gì gây ấn tượng mạnh hơn là những hình ảnh.

Mỗi ngày, trong mỗi gia đình, người ta theo dõi hoạt động của con tàu Ile de Lumière, không cầm được nước mắt trước địa ngục trần gian và hãnh diện thuộc một dân tộc đã đứng ra cứu vớt người tỵ nan.

Hình ảnh boat people lần đầu đến với người Pháp đầu tháng 11/ 1978 với phóng sự về tàu Hải Hồng, một con tàu chờ 2500 thuyền nhân bị chặn ở biển, không được phép vào hải phận Malaysia.

Hai ngàn 500 người đói khát, bịnh tật giữa trùng dương. Từ đó, các phóng sự liên tiếp trên các đài truyền hình nói về thảm cảnh của hàng triệu người Việt Nam bất chấp sóng biển, hải tặc cướp bóc, hãm hiếp đã vượt biển tìm tự do, chạy trốn một xứ sở mà trước đó báo chí thiên tả nói vừa được giải phóng.
Cả một thế hệ người Pháp, chứng kiến trực tiếp cuộc chạy trốn kinh hoàng của người Việt, đã coi như được chích ngừa vĩnh viễn giấc mộng ‘’xã hội chủ nghĩa ‘’ kiểu Mars, Lénine.

Hình ảnh bi thảm của thuyền nhân tàu Hải Hồng đã khiến Bernard Kouchner, một ‘’ French doctor ’’ nổi tiếng về những chương trình nhân đạo ở Phi và Á Châu, nghĩ đến việc tạo con tàu Ile de Lumière đi cứu vớt thuyền nhân lênh đênh ngoài biển cả.

Sáng kiến của bác sĩ Kouchner được cả nưóc Pháp ủng hộ , khởi đầu là các nhà trí thức, nghệ sĩ tên tuổi như Michel Foucault, André Gluckmann, Yves Montand, Simone Signoret. Ile de Lumière đã tuần tiễu cả vùng biển Đông Nam Á để cứu, chăm sóc và định cư hàng trăm ngàn thuyền nhân, mở đầu cho nhiều con tàu khác, nhiều chương trình nhân đạo lớn lao khác.

Nicolas Jallot nói cuốn phim nói về một bi kịch lớn nhất trong lịch sử cận đại, nhưng cũng nói về một nước Pháp mà chúng ta yêu quý : nưóc Pháp nhân bản

Sau khi Công Sản chiếm miền Nam VN, đã có hàng triệu người vưọt biển. Ít nhất một phần ba đã bỏ mình trên biển cả

https://www.facebook.com/TransparencesProductions/videos/1297210497067353/

Thu dư ngân sách hơn 7 tỷ USD, Singapore ‘lì xì’ toàn dân

Dien Hong Tran
SINGAPORE THU DƯ THÌ HỌ LÌ XÌ CHO TOÀN DÂN/

CÒN Ở VIỆTNAM THÌ MỖI NGÀY THẤY THUẾ TĂNG, RÒI LẠI THÊM MỤC THU PHÍ.

Tất cả công dân Singapore từ 21 tuổi trở lên sẽ nhận được một khoản tiền “lì xì” từ chính phủ, tối đa 228 USD, sau khi tiền thu ngân sách vượt đến hơn 7 tỷ USD.
NEWS.ZING.VN
 

Ý đảng vẫn luôn ngược với lòng dân!

Song Chi
2018-02-19
 

Người dân tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung ở tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội ngày 17/2/2018

Người dân tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt Trung ở tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội ngày 17/2/2018

 Courtesy FB Nguyễn Thuý Hạnh
 

Chỉ trong vòng một tuần, trước và sau Tết Âm lịch Mậu Tuất 2018, có đến mấy sự kiện lịch sử mà qua đó, thái độ của nhà nước cộng sản VN thêm một lần nữa, đã tự bộc lộ họ là ai, những quan niệm về bạn-thù, sự đánh giá về lịch sử của họ có minh bạch, tiến bộ, thay đổi chút nào sau bao nhiêu năm và họ có lý do gì để tiếp tục lãnh đạo đất nước này, dân tộc này.

Sự kiện lịch sử thứ nhất là 50 năm biến cố Tết Mậu Thân 1968 mà nhà nước này bao lâu nay vẫn trí trá gọi tên là “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968”. Đã nửa thế kỷ trôi qua, bao nhiêu tư liệu, thông tin của thời đại internet đã chứng minh cuộc tổng tấn công đó thực sự là thành công hay thất bại về mặt quân sự, mục tiêu, cái giá phải trả trên sinh mạng con người lẫn các cơ sở vật chất là quá đắt ra sao. Nghiêm trọng hơn, biến cố Mậu Thân luôn luôn để lại một ký ức kinh hoàng của một trong những trang sử đẫm máu nhất, man rợ nhất về cuộc thảm sát hàng ngàn thường dân tại Huế của phe tấn công hay phe “nổi dậy”. Cho dù nhờ những oái ăm, trớ trêu của lịch sử, mà sự thất bại nặng nề về quân sự đó cuối cùng lại biến thành sự “chiến thắng” về mặt chính trị cho Miền Bắc, dẫn đến sự chuyển hướng của cuộc chiến tranh và sự rút lui của Mỹ, bỏ rơi đồng minh VNCH về sau này, nhưng rõ ràng, đó vẫn là một sự kiện đẫm máu, một sự tráo trở, lừa dối, không chính danh đứng về phía đảng cộng sản.

Lẽ ra sau 50 năm, một quãng thời gian đủ dài để nhìn nhận lại, đánh giá lại lịch sử, nếu đảng cộng sản vẫn chưa đủ dũng cảm để công khai, minh bạch những sai lầm, tội ác cùa mình và có một thái độ thành khẩn sám hối trước nhân dân, trước lịch sử thỉ cũng không nên nhắc lại nhiều biến cố này. Vinh quang gì khi người Việt giết người Việt? Đàng này, “non sông dễ đổi, bản tính/ bản chất khó dời”, đảng và nhà nước cộng sản lại ra sức tổ chức kỷ niệm sự kiện Mậu Thân một cách rình rang, lịnh cho báo chí truyền thông tiếp tục dối trá, bóp méo lịch sử, tiếp tục “tẩy não” các thế hệ trẻ như họ đã làm bao năm qua, khoét sâu thêm vết thương chưa lành của bao nạn nhân cùng gia đình họ. Hệ quả là những nhân chứng, những người có lương tri lại buộc lòng phải lên tiếng. Sự chia rẽ trong lòng dân tộc lại trỗi dậy và lời kêu gọi hòa giải hòa hợp lậu nay từ phía đảng cộng sản, thêm một lần nữa cho thấy chỉ là đầu môi chót lưỡi, không bao giờ có thể thực hiện được.

Việc ăn mừng sự kiện Mậu Thân chứng tỏ đảng cộng sản hoàn toàn không thay đổi từ nhận thức đến thái độ, hành động và hoàn toàn “thất nhân tâm” đối với đại đa số người dân Việt ở cả hai miền, trong và ngoài nước.

Sự kiện lịch sử tiếp theo là ngày 17.2, đúng mùng hai Tết, là ngày tưởng niệm 39 năm nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung-17.2.1979-17.2.2018, tuy ngắn ngủi nhưng tàn khốc, với sự dã man từ phía binh lính Trung Cộng khi quyết chí giết hại càng nhiều càng tốt dân Việt Nam, bất kể già trẻ lớn bé, quyết chí đốt sạch, phá sạch các cơ sở vật chất, trường học, nhà máy…tại những nơi mà chúng tấn công. Cuộc chiến tranh tuy trện danh nghĩa là kết thúc sau 1 tháng khi Trung Cộng tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế những xung đột giữa hai bên vẫn tiếp tục kéo dài cho đến tận năm 1988.

Thế nhưng, kể từ sau khi vội vàng xin “bình thường hóa quan hệ” giữa hai nước, đảng và nhà nước cộng sản hầu như không muốn nhắc đến cuộc chiến này. Trong nhiều năm báo chí truyền thông được lịnh “câm lặng”, sách giáo khoa bỏ trống những trang lịch sử bi hùng, những tấm bia, dấu tích cuộc chiến bị đục bỏ bớt chữ…Có một giai đoạn người dân chỉ cần lên tiếng “Hoàng Sa-Trường Sa là của VN” hay có những hành vi tưởng niệm cuộc chiến này và việc mất Hoàng Sa, Trường Sa là bị xách nhiễu đủ kiểu, và bị bắt vào tù. Mấy năm gần đây trước sự phẫn nộ của dư luận, báo chí đảng được phép có một số bài viết, sách giáo khoa có được chừng mươi dòng về cuộc chiến…

Nhưng nhà cầm quyền vẫn tìm mọi cách ngăn cấm sự biểu hiện lòng yêu nước của người dân. Chẳng hạn, những khu vực như phía trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, nơi nhiều nhà hoạt động hay tổ chức tưởng niệm những sự kiện lịch sử này thì họ cho công nhân ra đục đá ầm ỹ hoặc cho người ra khiêu vũ để “chiếm chỗ”. Năm nay cũng vậy, họ lại cho một đám người ra dìu nhau khiêu vũ giữa ban ngày ban mặt!

Tất cả chỉ nhằm một mục đích ngăn chặn, bóp nghẹt lòng yêu nước, căm thù bọn giặc phương Bắc tàn ác, dã man của người Việt, và nhằm xóa mờ những ký ức về một giai đoạn lịch sử. Thật trái ngược với sự công khai, ầm ỹ ăn mừng năm nào cũng vậy đối với những gì liên quan đến cuộc chiến tranh chống Mỹ và VNCH. Và đó là chủ trương, chính sách xuyên suốt bao nhiêu năm nay không hề thay đổi của đảng cộng sản.

Đối với VNCH, cùng chung một giòng máu, chung một tổ tiên nguồn cội, chung một quê hương nhưng khác ý thức hệ, thì từ sau khi chiến thắng và cho tới tận bây giờ nhà cầm quyền vẫn luôn luôn đối xử vô cùng khắc nghiệt, nhỏ nhen. Từ cách đánh giá về chính quyền VNCH vẫn không thay đổi, nghĩa trang Biên Hòa của bao nhiêu binh lính MN vẫn bị bỏ hoang phế, những người thương phế binh VNCH với cuộc sống khổ cực lắt lay qua ngày nhưng nếu có các tổ chức thiện nguyện nào đó muốn tập họp gửi tặng họ chút quà để an ủi thì bị chính quyền địa phương ngăn trở, cấm đoán; bất cứ cái gì dính dáng tới chế độ VNCH từ một lá cờ hay bộ quân phục đều trở thành “điều cấm kỵ” mà người nào cầm, mang lá cờ ấy hay bộ quân phục ấy sẽ bị tống vào tủ như Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Viết Dũng tức “Dũng Phi Hổ” v.v…

Đối với Mỹ, mặc dù hai bên đã “bình thường hóa quan hệ” (năm 1995, mất hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc) nhưng mọi sự tiến triển đều rất chậm chạp, ù lì, khiến VN bỏ lỡ nhiều cơ hội trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên, vì quyền lợi của cả hai, nhất là của VN. Trong nhiều năm, đảng cộng sản tiếp tục chơi trò “đu dây” giữa Trung Quốc và Mỹ, cứ khi nào bị Bắc Kinh lấn lướt, thiệt hại quá thì VN lại quay sang ve vãn Hoa Kỳ, khi Bắc Kinh bớt hung hăng thì VN lại “nồng ấm” với họ, nhưng dù thế nào thì cũng vẫn không quên hàng năm tổ chức ăn mừng chiến thắng, lên án “giặc Mỹ”.

Chính sách “đu dây”, hai mặt đó của VN chỉ là trò khôn vặt, câu giờ và không có lợi gì cho dân tộc, cho đất nước, như chúng ta thấy. Không có một quốc gia nào thực sự tin tưởng vào một nhà cầm quyền không đáng tin như vậy. Và giờ đây, VN thực sự không có đồng minh trong khi Trung Cộng đã kịp trở nên hùng mạnh hơn rất nhiều về kinh tế lẫn quân sự và là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của VN, còn thế giới, từ Hoa Kỳ cho tới châu Âu thì chẳng còn quan tâm gì đến số phận của VN nữa!

Như đã nói, so với Mỹ và VNCH, chủ trương, chính sách của đảng cộng sản VN đối với Trung Cộng hoàn toàn khác. Dù bị Trung Cộng “dạy cho một bài học” về quận sự và vô số bài học về kinh tế, đảng cộng sản vẫn nhắm mắt quỵ lụy dựa vào Bắc Kinh hòng được yên thận và kéo dài tuổi thọ của chế độ. Các đời lãnh đạo cấp cao nhất của VN càng về sau càng trở nên hèn hạ, bạc nhược trước Bắc Kinh, và càng công khai rước voi về dày mả tổ, khi mở toang của rước giặc vào nhà trên mọi lĩnh vực, suốt từ Nam ra Bắc. Nhờ “công lao” của đảng cộng sản mà chưa bao giờ VN bị lún sâu đến thế trong mối quan hệ Việt-Trung bất xứng, đầy thiệt thòi và rủi ro này.

Sau hơn 40 năm, tin rằng đại đa số người VN không muốn khoét sâu thêm những vết thương của cuộc nội chiến, muốn lịch sử phải được viết lại một cách minh bạch, sự thật phải được trả lại để người Việt có thể học được những bài học đắt giá và tiến về phía trước. Đại đa số người dân Việt trong và ngoài nước muốn VN thay đổi theo xu hướng tự do dân chủ, bắt tay làm bạn, làm đồng minh với những cường quốc dân chủ, hùng mạnh trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…và hết sức thận trọng với Trung Quốc, từng bước tìm cách thoát ra khỏi sự kìm tỏa, chi phối, can thiệp quá sâu vào nội bộ chính trị cũng như lũng đoạn về kinh tế VN của Trung Cộng v.v..

Thì đảng và nhà nước cộng sản lại hoàn toàn làm ngược lại.

Ngay từ đầu, đảng cộng sản đã luôn luôn lựa chọn sai đường, sai đồng minh, nhầm lẫn bạn-thù, luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trện hết, bất chấp lợi ích của đất nước, dân tộc.

Và cho đến tận bây giờ, ý đảng vẫn luôn luôn ngược với lòng dân.

Một đảng cầm quyền như vậy có lý do gì để vẫn tiếp tục là vật cản ngăn trở mọi sự thay đổi, phát triển theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn của VN?

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa

Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa

 (Bài 23)

  Tin Mừng Gioan

 Việc trình-bày Đức Giêsu theo ngôn-ngữ của khôn-ngoan còn đáng kể hơn lời gợi ý ở cuối sách Tân Ước, tức: Tin Mừng của ông Gioan.

Lời nói đầu ở Tin Mừng ông Gioan (có thể coi đây như có nguồn gốc rút từ các bài ca/vịnh tín-hữu thời đầu từng hát) và tác-giả Gioan lại đã áp-đặt vào đoạn đầu Tin Mừng do ông soạn.

Bài vịnh, được khởi đầu bằng những ý/lời mà mọi người đều đã gặp ở Thánh Kinh Do-thái-giáo (*44).

Như tôi có lần báo trước là sẽ thay thế tự-vựng Logos tiếng Hy-Lạp và tiếng Anh dịch thành “Word” và tiếng Việt là “Ngôi Lời” vỏn vẹn chỉ với chữ “Lời”, mà thôi.

“Lúc khởi đầu đã có Lời.
Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Ngài vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Ngài,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành
nơi Ngài là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại…

Ngài ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Ngài mà có,
nhưng lại không nhận biết Ngài.

Lời đã trở nên người phàm
và cư-ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Ngài,
là Con Một đầy tràn ân-sủng và sự thật
.

(Ga 1: 1-4, 10, 14)

Điều quan trọng ở câu đầu Tin Mừng không phải để ta suy nghĩ về “Lời” hoặc “Logos” như để nói về Đức Giêsu, nếu hiểu Đức Giêsu đây là “Giêsu thành Nadarét”.

Đọc và hiểu đấy là “Đức Giêsu”, tức vô hình chung ta đã chịu ảnh-hưởng từ nền thần-học Kitô-giáo thời sau này, khi Giáo-hội nói về Ba Ngôi Đức Chúa qua cách sử-dụng các đại-danh-từ “giống đực” tiếng Hy-Lạp gốc và bản dịch tiếng Anh.

Nhưng, các đại-danh-từ giống đực được sử-dụng là bởi từ-vựng logos là danh-từ chung giống đực tiếng Hy Lạp, chứ không vì tự-vựng ấy qui về “Ngài” đây, là “Đức Giêsu”.

Ông Gioan không có ý nói: “Lúc khởi đầu đã có Đức Giêsu” như ta vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu đã có đó vào buổi tạo-dựng trời đất. Đúng hơn, Lời ấy đã mặc xác phàm nơi Đức Giêsu  – nay được gọi là logos – có ở đó vào lúc tạo-dựng.

Chính logos này (chứ không phải Đức Giêsu) đã có đó với Thiên-Chúa và Thiên-Chúa (*46).   

Các học-giả lâu nay từng ghi nhận là có mối tương-quan gần-gũi giữa những điều do ông Gioan viết về “logos” và về Khôn ngoan Sophia trong truyền-thống Do-thái-giáo. Khôn ngoan Sophia từng có đó với Thiên-Chúa ngay từ buổi đầu đã năng-động thời tạo-dựng, và cũng có đó cả khi thế-giới gian-trần được tạo-thành nữa (*47).

Tính tương-đương có hoạt-động giữa logos và Khôn-ngoan Sophia cho thấy tính hợp-pháp thay thế Khôn ngoan Sophia bằng logos, “Khôn-ngoan” thay cho “Lời” ở phần mở đầu Tin Mừng Gioan. Thêm nữa, do bởi Sophia là danh-từ riêng giống cái ở tiếng Hy-Lạp, nên đại-danh-từ đây cũng trở-thành “giống cái”:

“Lúc khởi đầu đã có “Khôn ngoan”, và “Khôn-ngoan” ở nơi Thiên-Chúa, và Khôn-ngoan là Thiên-Chúa. Ngài đã có lúc khởi-nguyên nơi Thiên-Chúa. Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì thành sự.

Điều đã thành sự là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân-loại… Ngài có trong thế-gian và thế-gian đã nhờ Ngài mà được có

mà thế-gian đã không biết Ngài.”

Và rồi, đỉnh cao chót vót đã đạt được, khi Tin Mừng viết:

Và Khôn-ngoan đã thành xác-phàm và đã lưu-trú nơi chúng tôi.” (*49)

Đức Giêsu là sự việc Sophia thần thánh mặc lấy xác-phàm, Khôn-ngoan Sophia trở-thành xác-phàm.” (*50)

Bổ-sung các ảnh-hình Kitô-học   

Ta khám-phá ra vai-trò của Sophia coi như Khôn-ngoan trong truyền-thống Do-thái-giáo và cả trong Tân Ước, điều này mở ra một số sự việc.

Điều đó giúp ta thấy được sự cân-đối tuyệt đẹp giữa Đức Giêsu như Bậc Thày dạy Khôn-ngoan và ảnh-hình về Ngài trong phong-trào tín-hữu thời đầu như mối tương-quan mật-thiết với Khôn ngoan Sophia.

Bằng vào tư-cách của tiếng nói của Khôn-ngoan thay-thế,

Đức Giêsu cũng là tiếng giọng của Khôn ngoan Sophia nữa.

Điều này lại cũng giúp ta nhìn thoáng qua những gì có thể là môn Kitô-học sớm sủa nhất của tín-hữu thời tiên-khởi. (*51). Sử-dụng ngôn-ngữ của Khôn-ngoan Sophia để nói về Đức Giêsu sẽ đưa ta về lại với lớp vỏ bọc sớm-sủa nhất nơi truyền-thống đang khai-triển. Như ta đã thấy, điều này lại cũng trải rộng cùng khắp với truyền-thống. Theo Tin Mừng Nhất Lãm, cũng như lập-trường của ông Phaolô và Gioan cũng công-nhận rằng điều đã có đó nơi Đức Giêsu là Khôn ngoan Sophia của Thiên Chúa.

Quan-điểm này không chỉ là trọng-tâm ngôn-ngữ của Sophia trong việc hình-thành phong-trào đạo-giáo Đức Kitô thời sớm sủa nhất, nhưng còn là bổ-sung về phái-tính của các bộ môn Kitô-học nữa. Bởi, với Đạo Chúa thời đầu, thì Đức Giêsu là Người Con của Cha và là sự việc Sophia mặc lấy xác phàm làm người, là người con trẻ của Abba chí thân, và là con trẻ của Sophia. Hiểu biết như thế cũng giúp ta rất nhiều ở vào thời nhạy bén dâng cao để trở thành vấn-đề của ngôn-ngữ rất can-dự.

Lại nữa, điều này cũng nhấn mạnh sự việc có khả-năng diễn-đạt ngôn-từ Kitô-học nữa. Các hình-ảnh nhân rộng thành nhiều ấn-bản để nói về mối tương-quan giữa Đức Chúa với Thiên-Chúa (như logos, Sophia, Người Con, và các danh-hiệu khác phải làm cho rõ nghĩa để bảo rằng không một danh-hiệu nào được hiểu theo nghĩa đen triệt để hết. Chúng chỉ mang tính ẩn-dụ mà thôi.

Đây còn là điểm quan-trọng để hiểu được ngôn-ngữ Kitô-học đầy sủng-mộ do ảnh-hình bậc cha/chú tạo ra. Ngôn-từ Chúa Ba Ngôi và các công-thức kinh-kệ phụng-vụ nói về “Cha và Con” là dễ-dàng kiến-tạo nên cảm-giác nghĩ rằng đây là cung-cách do tín-hữu Đạo Chúa dứt khoát nói về Thiên-Chúa và Đức Giêsu, là như thế.

Thế nhưng, cũng là điều bổ-ích để nhận ra rằng ảnh-hình Cha và Con cũng phản-ánh sự thể về lề lối suy-tư về Ba Ngôi Đức Chúa có được định-hình trongvănhoá tộc-trưởng và tập-trung phụ-hệ. Nhằm giúp ta có thể tưởng-tượng điều này là lúc Ba Ngôi Đức Chúa trở-thành công-thức trong nền văn-hoá mẫu-hệ,Đức Giêsu vẫn được gọi là “người con”, nhưng ta đều đoan-chắc rằng mọi người nói về Ngài trước nhất như Người Con của Cha vậy (*52).

Thành thử, đây không là trường-hợp để ta nói lên rằng Đức Giêsu làNgười Con của Thiên-Chúa hiểu theo nghĩa đen, dù Ngài vẫn được nói đến theo nhiều cách khác nữa, như Khôn ngoan Sophia của Thiên Chúa. Thật ra thì, cả hai điều đó đều mang tính ẩn-dụ hết.

Mẫu số chung ở cả hai trường-hợp, đó là: cả hai cùng nói về Đức Giêsu như Đấng có tương-quan mật-thiết với Thiên-Chúa đậm đà và sâu-sắc đến độ Ngài còn được gọi là người con của Abba  và là người con của Khôn ngoan SophiaTa không hề biết và không thể hiểu làm sao mà kiểu nói này có thể bắt đầu nói ra được cả vào lúc Đức Giêsu còn sống, hoặc làm sao các hình-ảnh như thế lại hiện-diện trong tâm-thức của chính Ngài được.

Quả nhiên, thật là điều hợp lý để thấy được sự liên-kết giữa ngôn-từ này và những gì ta có thể giả-định về kinh-nghiệm Ngài từng trải. Tính mật-thiết của các ẩn-dụ lại cũng kiên-định trong việc nhìn nhận Đức Giêsu-trước-ngày-Phục-Sinhnhư một nhân-vật đầy tính linh-thiêng, thần-khí.

Là Đấng hiểu/biết rõ Thần Khí Chúa, Đức Giêsu có lẽ cũng đã suy-tưởng và/hoặc trải-nghiệm Thần Khí như Abba và Sophia.

Thế nhưng, thêm vào đó, vấn-đề là:

Ngài có nghĩ về chính mình Ngài như “người con” (theo nghĩa đặc biệt) của Đấng mà Ngài gọi là Abba không?

Đức Giêsu có nghĩ về chính mình Ngài như con trẻ hoặc như người đại-diện của Sophia thần thánh không?

Bằng vào bản-chất của các nguồn ta đạt được, bản thân tôi thấy cũng khó mà tưởng-tượng nổi để có thể phán-đoán về tính khả-thi lịch-sử ta đạt được trong vấn-đề đặc-biệt này (*53).

Cho dù ta không thể biết được là các ảnh-hỉnh này là một phần trong việc Đức Giêsu tự biết về Ngài, có điều thấy rõ rằng việc tượng-hình ra Đức Giêsu như “người Con của Chúa” và như “Khôn-ngoan của Thiên-Chúa” lại có trong giai tầng cổ xưa nhất thuộc truyền-thống phát-triển nên phong-trào tín-hữu thời đầu được.

Thành thử, hỏi rằng các hình-ảnh đây có cho ta biết bất cứ thứ gì về nhận-thức của Đức Giêsu, thì các hình-ảnh ấy sẽ giúp ta tiếp-cận với tầng/lớp sớm nhất của tiến-trình thành-hình môn Kitô ở cộng-đoàn để thiết-lập và suy-tư không?

Có điều đáng nể là, hình-tượng “người Con của Chúa” và “Sophia của Thiên-Chúa cả hai đều gặp thấy ở giai-đoạn mới sớm này.

Sự hiện-hữu của bộ môn Kitô-học bàn về “người con” và “Sophia của Thiên-Chúa” trong cao-trào mới sớm của tín-hữu Đức Kitô đã ảnh-hưởng lên ảnh-hình bình-dị của Đức Giêsu, Đấng mà ta từng gặp vào lúc trước.

Sự hiện-hữu của các hình-ảnh này lại đã đưa ta hướng về việc bổ sung phái-tính khi suy-tư về Đức Giêsu, là điều còn rất mới đôi với nhiều người.

Vượt ra ngoài những chuyện như thế, các ảnh-hình này lại cũng chuyển-đổi lối suy-tư Kitô-học ra khỏi khuôn-khổ văn-chương chữ nghĩa vẫn thường song hành với hình-tượng của người dân thường vốn có trong đầu. Việc nhân rộng ảnh-hình Kitô-học thời ban đầu như –“người con” và “khôn-ngoan” và các thứ khác–  lại đưa ta vào nhận-thức hiểu rằng đây chỉ mang tính ẩn-dụ mà thôi.  

Hiểu biết này đã lật đổ cảm-giác thông thường vẫn nghĩ rằng niềm tin của tín-hữu Đức Kitô                 

Lại cũng kéo theo niềm tin cho rằng Đức Giêsu thực sự là “người Con của Chúa” hiểu theo nghĩa đen. Đây là một lật đổ giúp ta cũng rất nhiều.

Việc hiểu cụm-từ “người Con của Chúa” hoàn toàn theo nghĩa đen lại đã khép chặt tầm hiểu biết của ta về Kitô-học bằng cách chỉ mở ra có một ảnh-hình ưu-tiên làm tiêu biểu, thôi. Thật ra, cũng khó mà tin như thế, một phần do bởi tính-chất không chắc-chắn khi ta khẳng-định rằng Đức Giêsu là người Con của Chúa, hiểu theo nghĩa đen.

Thế nhưng, khi “người Con của Chúa” khi được coi như một trong các ẩn-dụ, thì ẩn-dụ ấy cũng mở ra khả-năng hiểu biết một cách phong-phú hơn ý-nghĩa về Đức Giêsu như Đấng từng trải-nghiệm và diễn-tả vào thời tiên-khởi.

Vấn đề là, một khi ta không còn tin rằng Đức Giê-su thật sự là “người Con của Chúa” theo nghĩa đen, nhưng lại cảm-kích ý-nghĩa giàu có do có nhiều hình ảnh mang tính Kitô-học được nhân rộng.

Ngài là “người Con của Chúa”. Vâng đúng là như thế.

Nhưng, Ngài còn là Lời mặc lấy xác phàm đồng thời là Khôn-ngoan của Chúa.

Quả có thế, Đức Giêsu đích-thực là “người Con của Chúa”,

là logos của Thiên-Chúa

và là Khôn ngoan Sophia của Thiên-Chúa, nữa (*54).

                                                                                                (còn tiếp)

 

Gs Marcus J Borg biên-soạn

Mai Tá lược-dịch.    

Tamlinhvaodoi gởi        

ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ

ĐẦU NĂM TẠ ƠN VÀ KHÁM PHÁ

 Đầu năm là mốc thời gian trọng đại.  Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời.  Một việc không thể thiếu là tạ ơn Cha.

Trong tâm tình tạ ơn thường có cảm nhận tình thương của Chúa.  Cảm nhận sẽ trở thành khám phá, khi linh hồn được đưa vào một cõi tình yêu mênh mông êm đềm, mà Chúa dành riêng cho họ.

  1. Bài học tạ ơn và khám phá

Khám phá riêng tư ấy không luôn xảy ra trong việc tạ ơn.  Khám phá đó là do Chúa ban.  Không phải bất cứ ai cũng được ơn riêng ấy.  Vậy những người được Chúa ban ơn đặc biệt đó là ai?  Chúng ta tìm được câu đáp ở lời sau đây của Chúa Giêsu: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.  Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha’” (Lc 10,21).

 Như vậy, những người được Chúa ban ơn khám phá thấy tình xót thương Chúa chính là những kẻ bé mọn.  Để hiểu thế nào là kẻ bé mọn, mà Chúa Giêsu đề cao ở đây, trước hết chúng ta nên đọc lại đoạn Phúc Âm sau đây:

 “Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con’, Chúa Giêsu bảo các ông: ‘Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống.  Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp trên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.  Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời’” (Lc 10,17-20).

 Đoạn Phúc Âm trên đây cho chúng ta thấy: Những kẻ bé mọn Chúa Giêsu muốn đề cao chính là nhóm Bảy Mươi Hai.  Họ đã được Chúa sai đi.  Họ đã đến với những người nghèo hèn, cùng khổ để tiếp cận, để cứu giúp, để loan báo Tin Mừng, để giúp sám hối, để xua đuổi quỷ dữ.  Họ làm những việc bác ái đó nhân danh Chúa Giêsu với nhận thức tự mình chẳng có gì.  Đang khi họ vui mừng vì những thành công đó, Chúa Giêsu đã cho họ khám phá thấy tình xót thương Chúa dành cho họ còn cao quý hơn nhiều, đó là tên họ được ghi trên trời.  Nói tóm lại, nhóm Bảy Mươi Hai được Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn, vì hai lý do:

Họ đã đến với những kẻ nghèo hèn, cùng khổ, để cứu giúp và chia sẻ.  Họ khiêm tốn trở thành bé mọn với bất cứ kẻ bé mọn nào.  Họ khiêm tốn nhận mình đã cho đi những gì mình đã nhận từ lòng xót thương Chúa.  Họ chỉ làm theo ý Chúa và nhân danh Chúa, Đấng đã sai họ đi.  Họ luôn bé mọn, nghèo khó.

 Chúa dạy họ không nên vui vì những thành công trước mắt, nhưng hãy vui vì phần thưởng cao quý Chúa dành riêng cho họ, đó là tên họ được ghi trên trời.  Nghĩa là họ được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa tuyển chọn.  Khám phá đó sẽ cho họ thấy tình thương Chúa là vô biên, vô bờ, đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đời đời, không gì sánh kịp.  Chúa Giêsu đã hớn hở vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha, vì những lạ lùng đã xảy ra cho những kẻ bé mọn.  “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì… đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé mọn” 

  1. Thực hiện bài học tạ ơn và khám phá

 Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trên đây, nên được coi là bài học quý giá cho chúng ta mọi ngày, nhất là những dịp tạ ơn Chúa.  Bài học đó có thể thực hiện bằng những việc sau đây:

 Chúng ta khiêm tốn nhận mình hèn mọn, yếu đuối, bé nhỏ.  Nếu ta có điều gì tốt, làm được việc gì lành, thì đều do Chúa ban ơn.  Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta.  Tôi được Chúa ban ơn trở về, tôi được Chúa cứu độ, tôi được Chúa kêu gọi, tôi được Chúa tha thứ, tôi được Chúa sai đi, tôi được Chúa ban ơn chia sẻ tình Chúa cho người khác, tôi được Chúa yêu thương đặc biệt.

 Chúng ta khiêm tốn vui mừng trong tình yêu của Chúa, theo gương Chúa và Đức Mẹ.  Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng, ca ngợi Chúa Cha.”  Tình cảm đó cũng được thấy nơi Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng thăm bà chị họ Isave.  Mẹ đã khám phá thấy tình Chúa xót thương Mẹ là hết sức lạ lùng, nên lòng Mẹ trào dâng lên những lời cảm tạ đầy hớn hở, vui mừng, ca ngợi Chúa: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.”  Tình cảm vui mừng cảm tạ Chúa có hương sắc thiêng liêng siêu thoát, có sức nâng tâm hồn lên với Chúa.  Không một chút vẩn đục bởi bất cứ tư tưởng thế tục nào.  Chúng ta khiêm tốn để lòng mình nghỉ ngơi trong sự chiêm niệm ngắm nhìn Chúa, với hết lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa.  Chúa là nguồn mọi sự tốt lành.  Chúa là cùng đích cuộc đời của ta.

  1.  Tỉnh thức trong tạ ơn và khám phá

Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2).  Lời khuyên trên đây của thánh Tông đồ nên được áp dụng thường xuyên trong tạ ơn và khám phá.

 Trước hết, cần tỉnh thức về phương diện khiêm tốn.  Khiêm tốn thực chất, khiêm tốn luôn luôn, khiêm tốn trong mọi sự.  Có thể nói, cái làm cho việc tạ ơn và khám phá đẹp lòng Chúa chính là sự khiêm tốn.  Đức Mẹ Maria suốt đời khiêm tốn, nên suốt đời Mẹ là lễ tạ ơn và khám phá tình xót thương của Chúa.

Khiêm tốn, nên luôn giữ tự do tâm hồn.  Tỉnh thức không để mình bị áp lực do bất cứ quyền lực nào của ma quỷ, thế gian và xác thịt.  Tâm hồn nhờ vậy sẽ rất nhẹ nhàng vâng phục thánh ý Chúa.  Thánh ý Chúa là muốn chúng ta sẵn sàng phục vụ.

 Vì thế, cũng cần tỉnh thức trong việc phục vụ.  Mỗi nơi ta ở, mỗi thời ta sống, đều có những dấu chỉ về thánh ý Chúa.  Ta sẽ nghe được tiếng gọi của Chúa trong các dấu chỉ đó, để phục vụ.  Không thể tạ ơn, nếu phục vụ sai thánh ý Chúa. 

Nhờ tỉnh thức, chúng ta sẽ khám phá thấy tình Chúa thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta sống trong muôn vàn đau khổ.  Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chúng ta cũng sẽ khám phá thấy Chúa ban cho chúng ta vẫn có khả năng phục vụ các linh hồn bằng nhiều cách hiệu nghiệm.

 Nếu không tỉnh thức, việc gọi là tạ ơn Chúa có thể sẽ trở thành dịp phô trương cái tôi, và việc gọi là khám phá tình yêu Chúa cũng dễ là dịp khoe khoang thành tích.  Tệ hại nhất là vô ơn và lạm dụng ơn Chúa cũng như danh  nghĩa Chúa.

 Cúi xin Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết noi gương Mẹ mà tạ ơn Chúa và khám phá tình Chúa xót thương.

 ĐGM GB. Bùi Tuần

Langthangchieutim gởi

ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH

V Phung Phung shared Nguyễn Vô‘s post.
 
Image may contain: one or more people, eyeglasses and text

Nguyễn Vô added a new photo to the album: ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH.

ĐỌC PHÁT NGÔN BIẾT TƯ CÁCH

BÀI 019: NHÀ BÁO HỮU THỌ

Anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường đợi đến gần hết cuộc đời mới giãi bày và xin lỗi nhân dân Huế về vụ thảm sát năm Mậu Thân. Còn ông Nhà Báo Hữu Thọ cũng vội bộc bạch tâm sự cùng nhân dân ta! Thôi kệ muộn còn hơn không!  

Hội chứng ếch luộc, chúng ta đang bị “nấu chín” mà không hay biết!

Hi chng ếch luc, chúng ta đang b “nu chín” mà không hay biết!

Nếu thứ gì đó không gây chết người ngay khi tiếp xúc, chúng ta thường cho rằng nó không có gì đáng ngại. Chúng ta thiết lập liều lượng “an toàn” cho các chất độc khác nhau dù đó là trong thực phẩm, nước uống, các chất ô nhiễm môi trường hay trong cả vắc-xin nữa.

Rốt cuộc, nếu lượng chất độc không đủ để phá hủy sức khỏe chúng ta trong vài phút, thì có nghĩa là sẽ không có vấn đề gì, phải vậy không? Nếu bạn đồng ý với quan điểm này, thì bạn sẽ dễ dàng trở thành một nạn nhân nữa của “hội chứng ếch luộc”.

 

Hội chứng ếch luộc là gì?

Khá đơn giản, nó dựa trên giả thuyết rằng nếu một con ếch được quẳng vào nước sôi, nó sẽ cố nhảy ra ngay lập tức, nhưng nếu bạn cho nó vào nồi nước lạnh và đun nóng lên từ từ, nó sẽ không nhận ra sự nguy hiểm và sẽ bị nấu đến chết.

Một số người cảm thấy rằng điều này không đúng nếu nhìn từ góc độ khoa học. Tuy nhiên, đã có những thí nghiệm chứng minh rằng khái niệm này rất đáng lưu tâm và có cơ chế rất khó nhận ra:

“Goltz đã tăng nhiệt độ nước từ 17.5 °C đến 56 °C trong 10 phút, tương đương 3.8°C/phút, trong thí nghiệm của ông con ếch nhanh chóng cố gắng tìm cách để trốn thoát. Trong khi đó, Heinzmann đã làm nóng những con ếch từ 21 °C to 37.5 °C trong 90 phút, mỗi phút tăng lên 0,2°C. Một nguồn dữ liệu khác từ năm 1897 nói “trong một thí nghiệm nhiệt độ được tăng lên 0.002°C mỗi giây, và con ếch đã chết sau 2,5 giờ mà không có phản ứng gì.”

Năm 1888 William Thompson Sedwikch đã giải thích sự mâu thuẫn giữa các kết quả thí nghiệm thu được là do tốc độ tăng nhiệt khác nhau trong các thử nghiệm này:

“Sự thật là nếu nhiệt độ được tăng lên một cách từ từ, thì một con ếch bình thường sẽ không có phản ứng nào; nhưng nếu nhiệt độ tăng lên nhanh hơn, nhưng vẫn đủ để được gọi là tăng lên một cách từ từ, thì không có gì đảm bảo là con ếch sẽ ngồi yên.”

Cho dù tính khoa học của hội chứng ếch luộc là như thế nào, thì câu chuyện này vẫn có tác dụng cảnh tỉnh về các vấn đề sức khỏe trong xã hội ngày nay.

Từ từ, nhưng chắc chắn, chúng ta bị đầu độc từ nhiều phương diện một cách liên tục mỗi ngày. Tuy nhiên, nó rất từ từ nên có ít người hiểu được mức độ nguy hiểm thực sự.

Chúng ta trở nên yên tâm với các liều lượng an toàn và tiêu chuẩn giới hạn mà các cơ quan chính phủ hay cơ quan chức năng cung cấp, và tin một cách sai lầm rằng chúng ta đang ở trong các giới hạn và như vậy sức khỏe của mình hoàn toàn không bị ảnh hưởng xấu gì.

>> Xã hội ta đang sống không cho phép ta được chọn “không biết”

Xin chào, chú ếch luộc!

Sự thật là hàng ngày chúng ta phải nạp vào cơ thể nhiều loại hóa chất từ thực phẩm, không khí, nước, các sản phẩm chăm sóc cơ thể, các đồ gia dụng, đồ nội thất, các công cụ, kết hợp với chế độ ăn nghèo nàn dinh dưỡng vì những thực phẩm “chết” do đã qua chế biến công nghiệp. Rốt cuộc, chúng ta đang tạo ra một cái chết từ từ cho những tế bào trong cơ thể mình. Điều này trực tiếp dẫn đến sự lão hóa sớm, bệnh tật các loại và các hình thức tổn thương khác trên cơ thể.

Một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau nhưng chỉ trong điều kiện tối ưu và trong một môi trường hoàn hảo không bị ô nhiễm. (Olga_Danylenko/iStock)
Một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau nhưng chỉ trong điều kiện tối ưu và trong một môi trường hoàn hảo không bị ô nhiễm. (Olga Danylenko/iStock)

Hầu hết mọi người gọi nó là “bệnh tuổi già”. Còn tôi gọi nó là“ngày càng bị nhiễm độc và suy dinh dưỡng”. Cách hiểu này có sự khác biệt rất lớn.

Xem xét thực tế sẽ thấy rằng, hầu hết mọi người cảm thấy mình già hơn khi ở ngưỡng tuổi từ giữa cho tới cuối những năm tuổi 30. Tức là bạn đã có mặt trên trái đất này khoảng 12.000 ngày, và tiếp xúc với vô số hóa chất độc hại từ nhiều nguồn, một số thì độc hại hơn những thứ khác (như các sản phẩm chứa thủy ngân và vắc-xin). Nhưng các bác sĩ hay các dược sĩ sẽ khiến bạn tin rằng một lượng phơi nhiễm “thấp”, và do đó nó “an toàn”, không việc gì phải lo lắng. Họ không quan tâm đến việc chúng được tích lũy trong cơ thể. Họ nói rằng cơ thể của bạn có thể đào thải chúng.

Đúng là một cơ thể với các chức năng khỏe mạnh có thể loại bỏ nhiều loại độc tố khác nhau NẾU ở trong điều kiện tối ưu và NẾU chúng ta sống trong một môi trường tương đối lành mạnh. Đáng buồn thay, ngày nay cả hai điều này đều là trường hợp QUÁ HIẾM HOI, và chức năng gan của bạn trở nên thực sự bị tổn thương.

>> Bạn có thể làm theo những người sống thọ nhất thế giới này không?

Rồi một ngày nào đó, bạn phát hiện mình bị bệnh

Ung thư, viêm khớp, dị ứng, suy nhược tuyến giáp, đau cơ do xơ hóa, IBS (hội chứng ruột kích thích) và hàng ngàn các thể loại bệnh khác nữa… Chúng như từ trên trời rơi xuống bạn vậy, hoặc dường như vậy. Bạn không hít phải sơn có nhiễm chì, không hút thuốc, không uống quá nhiều rượu bia cùng một lúc. Bạn đã không nhiễm độc tố nào quá ngưỡng an toàn, và đáng lý ra tất cả phải ổn chứ?

 

Nhưng, xin lỗi bạn, chính sự dối trá đã tàn phá sức khỏe của rất nhiều người

Thực tế là cơ thể bạn bị ngấm độc một cách từ từ qua thực phẩm, không khí, nước và các sản phẩm chăm sóc cơ thể, cùng với sự thiếu hụt dinh dưỡng do các thực phẩm nghèo nàn dinh dưỡng, chúng đang dần dần phá hủy cơ thể bạn. Lệ thuộc vào các đơn thuốc, các ca phẫu thuật và các quá trình điều trị y tế khác, bạn sẽ thấy mình phải chịu các vấn đề sức khỏe ở độ tuổi khá sớm, và bạn đang nhanh chóng tiến đến những năm dài của sự đau khổ và chất lượng cuộc sống giảm sút.

Bạn và những người trong gia đình xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn, nhưng nó sẽ không xảy ra nếu bạn lờ đi cảnh báo này. Bạn sẽ kết thúc với các vấn đề về sức khỏe giống như người khác, và con cái bạn cũng vậy. Trong rất nhiều trường hợp, cha mẹ qua đời sớm bỏ lại con trẻ, và bạn không thể có cơ hội thứ hai với chúng.

Đó chắc chắn không phải là một gia sản mà bạn muốn để lại. Đừng lờ đi khi nhiệt độ trong nồi nước bị tăng lên, bởi khi đó bạn đang tiến một bước gần hơn đến bệnh tật và một cái chết không báo trước.