Tôi viết tên anh trên lá trên hoa,

Chuyện phiếm đọc trong tuần sau lễ Chúa Ba Ngôi 27-5-2018

 “Tôi viết tên anh trên lá trên hoa,”

Tôi viết tên anh trong trái tim tôi

Tôi viết tên anh trên đá, trên vôi.

Tôi viết tên em ngập nẻo đường đi ngàn lối.”

(Hoàng Thi Thơ – Tôi Nhớ Tên Anh)

(Mc 15: 40-41)

Trần Ngọc Mười Hai

Nhớ tên anh, tên em hay tên người nào khác cũng vẫn là nỗi nhớ nhung hoài, nhiều vương vấn. Nhớ tên anh, đến độ viết cả “trên gấm, trên nhung”, cũng là điều ít thấy ở nhạc bản, có những lời ca thêm thắt rất như sau:

“Tôi viết tên anh trên gấm, trên nhung.

Tôi viết tên anh trên trán, trên tay.

Tôi viết tên anh trong gió, trong mây.

Tôi viết tên anh vào lòng biển lớn sông dài.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Vâng. Có thể là như thế. Cứ viết tên anh/tên em cho thật nhiều ở đây đó, rồi cũng có lúc nhớ đến tên ấy với tên này cả vào khi mưa gió , lúc “trăng thanh”, “có tiếng tơ ngàn” để rồi “đi vào lòng thời gian đầy sắc tím” như câu ca còn hát tiếp:

 “Tôi nhớ tên anh khi gió khi mưa. 
Tôi nhớ tên anh khi nắng lưa thưa.
Tôi nhớ tên anh qua ánh trăng thanh.
Khi tiếng tơ ngân vào lòng thời gian màu tím.
Tôi nhớ tên anh như nhớ tương lai.
Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai.
Tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai.
Tôi chắc trong tôi đời đời còn nhớ nhung hoài.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Thế đó, là tên của người mà anh hoặc em những thương và nhớ suốt đường dài cuộc đời người. Thế đây, lại là nhà Đạo, người người còn nhớ đến tên ai chăng? Tên, của Đấng thánh hiền đạo-hạnh một thời được mọi người nhắc nhớ, tựa hồ để đề-cao/vinh-danh như câu truyện kể ngăn ngắn có ý-nghĩa.

“Truyện rằng:

 Có phóng viên đài truyền-hình nọ bất chợt đến phỏng-vấn cặp vợ chồng nổi tiếng là hòa-thuận, vì chòm xó/láng giềng chả thấy hai người to tiếng với nhau bao giờ hết.

Phóng viên bắt đầu hỏi:

-Xin anh chị cho biết bí kíp nào từng giúp anh chị có cuộc sống gia thất hạnh phúc đến như vậy?

Ông chồng nghe hỏi bèn đáp vội:

-Có gì đâu. Chẳng qua là, mỗi lần vợ chồng chúng tôi có chuyện hục hặc, cơm chẳng lành/canh chẳng ngọt là cứ đưa nhau ra công viên xa vắng ở đó giải-quyết cho xong, mới về nhà. Thú thật với quí vị là: bọn tôi e ngại chòm xóm biết chuyện riêng tư gia đình mình thật không tiện.” (Truyện kể lại cũng trích từ mạng vi tính, rất lền khên).

Vâng. Mạng vi-tính hay vi-sinh đều thấy rất nhiều. Cả đến các chuyện riêng-tư/đạo đời cũng không thiếu. Chẳng hạn như, câu truyện riêng tư của một thừa-tác-viên/tông-đồ thời tiên-khởi cũng được truyền-thông đưa lên mạng hoặ làm thành phim.

Đây, cũng là trường-hợp của đấng bậc tông-đồ phái nữ có tên là Maria Magđalêna được đề-cao, đưa lên báo điện có tên là MercatorNet hôm 26/3/2018 đã kể rằng:

“Cuốn phim mới, có nói bà là vị “Tông-đồ của các tông-đồ”, tức một thần-tượng thuộc phái nữ.

 Đây, là Tin Mừng về nhân-vật Maria Magđala theo tầm nhìn của đạo-diễn phim-ảnh người Úc có tên là Garth Davi. Phim bản này, trình-bày về một nữ-phụ trổi-bật của Tin Mừng xuất-hiện trên màn hình lớn, cũng rất sớm.

 Maria Magđala, là một nữ-phụ quả cảm từng thách-thức nam-nhân trong gia đình bà được coi là “thày tư-tế” duy-nhất và được phép tháp-tùng các tông-đồ. Đức Giêsu và Maria Mẹ Ngài đã có hiểu biết và tình thương-yêu theo cách đặc-biệt, Mẹ hiểu biết Tin Vui An Bình và tình thương yêu rất mực, trong khi Nhóm Mười Hai chỉ nghĩ về chuyện đánh đổ đám người La Mã mà thôi.

 Đức Giêsu đã ban cho bà ơn trổi-bật, kể cả chỗ ngồi bên phải trong bữa Tiệc Tạ Từ (như cuốn The Da Vinci Code từng nói đến) và cũng công-khai để cho bà làm nhân-chứng đầu tiên cho Ngài. Thế nhưng, sau ngày Phục Sinh, ông Phêrô và các người khác đều coi nhẹ vị-thế cũng như quà tặng của bà. Và ngay khi đó, bà đã vượt qua khỏi mọi sự để tham-gia một thứ “lên-đường” của phụ-nữ bằng quyết tâm như thể bảo: “Tôi sẽ không giữ im lặng, nhưng sẽ loan-báo cho mọi người biết.”

 Phim trên còn ghi-chú, bảo rằng: dù hồi năm 591 Đức Grêgôriô Cả lại diễn-giải trong một bài giảng bảo rằng: Bà là cô gái điếm, được đề-cập ở Tin Mừng. Nhưng vào năm 2016, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khẳng-định rằng: Bà là vị “Tông đồ của các tông-đồ”, tức có nghĩa: Bà ngang hàng với các tông-đồ của Chúa…

 Thật tình mà nói, phim ảnh về Bà Maria Magđalêna do Đạo-diễn Davis dàn dựng, đã khẳng-định vai trò của phụ nữ trong Giáo-hội khiến ta đi xa hơn các bằng chứng có được từ Tin Mừng. Những gì ta biết về Bà qua Tin Mừng cũng đánh động đủ. Bà là một trong các nữ-phụ được chữa lành “khỏi các thần dữ và các bệnh-tình khác nhau” rồi quyết-định theo chân Đức Giê su và nhóm 12 tông đồ cung-cấp đủ mọi thứ giúp các vị thực-hiện sứ-vụ cao cả ấy. (Lc 8: 1-3; Mc 16: 9)

 Bà là một trong ba nữ-phụ được ghi chép là đã đứng dưới chân khổ-giá treo mình Đức Giê su trên cqao trên đồi Calvariô, và hai vị kia là Maria Mẹ Ngài và Maria vợ của Clopas (Gioan 19: 25). Bà Maria Magđala và các nữ-phụ kia vội chôn cất Đức Giêsu vào buổi chiều ngày Sabát rồi sớm trở lại sáng hôm sau dự định thoa thoa dầu thơm lên xác Ngài, thì mộ phần trống vắng, ngay lúc ấy sứ thần Chúa báo cho các bà biết Đức Giêsu đã trỗi dậy, các ngài phải ra đi kể cho đồ đệ Ngài biết. Nhưng họ vẫn chẳng tin…

 Đó là những gì ta biết về bà Maria Magđala được nêu cao cùng với nữ-phụ khác và thân-mẫu Đức Giêsu ở Tin Mừng. Và, đó cũng là điều mà nhiều bậc hiển-thánh nay vẫn coi thánh-nữ Maria Magđala là mẫu-mã/thần-tượng để nói về vai-trò của các nữ-phụ trong Giáo hội.” (X. Carolyn Moynihan, MercatorNet 26/3/2018)                 

Nói cho cùng, đề-cao vai-trò người nữ tên Maria Magđala từng xuất-hiện trên Tin Mừng như một tông-đồ năng-nổ, có nghĩa là: từ nay, Giáo-hội sẽ không còn coi thường vai-trò của phụ-nữ, dù trên lãnh-vực nào đi nữa; nhưng ngược lại, đã đặt cùng hàng với các tông-đồ nổi-bật xưa nay.

Cuối cùng ra, bằng vào công-cuộc thừa-tác đắc-lực của các tông-đồ nữ như Maria Magđala, Giáo hội nay cũng sẽ cất cao lời hát vang vọng của người đời mà rằng: 

  “Anh, lớp trai ngày nay 
Đắp xây ngày mai.
Đem tự do cho người
Mang niềm vui cho đời.

Và, cũng từ đó, sẽ lại ghi nhớ tên anh/tên em, tên các đấng-bậc năng nổ, cả nam lẫn nữ, rằng:

“Tôi nhớ tên anh khi gió khi mưa. 
Tôi nhớ tên anh khi nắng lưa thưa.
Tôi nhớ tên anh qua ánh trăng thanh.
Khi tiếng tơ ngân vào lòng thời gian màu tím.
Tôi nhớ tên anh như nhớ tương lai.
Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai.
Tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai.
Tôi chắc trong tôi đời đời còn nhớ nhung hoài.”

 Vâng. “Đời đời còn nhớ nhung hoài”, vẫn cứ là câu hát nhắc nhở mọi người hãy “nhớ nhung hoài” về nhiều chuyện. Những chuyện, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc con dân đi Đạo bằng một động-thái hơi khang-khác nhưng cũng vẫn là nhắc nhở, như tin-tức trên báo/đài ở Úc cũng đã ghi:

 “Mới đây ĐTC Phanxicô đã cập nhật hoá vị thế của Thánh Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống, ngoài những trách nhiệm đã có được bổ túc thêm vai trò cổ xuý việc suy nghĩ sâu xa hơn về vị trí của phụ nữ trong giáo hội và xã hội, đặc biệt nhấn mạnh đến “tính chất thiên tài” của phụ nữ để kêu gọi sự đóng góp của họ.

 Vai trò mới được ĐTC phê chuẩn trên căn bản thử nghiệm và đượng Toà Thánh phổ biến hôm 8 tháng 5 và sẽ bắt đầu có hiệu lực kể tử chủ nhật 13 tháng 5, ngày Hiền Mẫu. Thánh Bộ hiện do Đức Hồng Y người Mỹ là Kevin J Farrell cầm đầu. Quy chế mới, đòi Thánh Bộ phải có ít nhất hai thứ trưởng là giáo dân, mới được.

 Thánh Bộ cần duy trì các mối dây liên lạc với các Hội Đồng Giám Mục Đia Phương, với các giáo phận và các tổ chức khác trong giáo hội để khuyến khích sự hợp tác giữa họ. Quy chế mới cũng kêu gọi Thánh Bộ đưa ra những chỉ dẫn trong các chương trình đào tạo hôn nhân và cho các đôi vợ chồng mới cưới.

 Ngoài ra Thánh Bộ còn có trách nhiệm khác cho thấy “việc chăm sóc mục vụ cho các trường hợp hôn nhân bất thường, kể cả trường hợp sống chung chưa có giấy chính thức, hoặc trường hợp ly dị, tái-giá theo luật đời, thánh Bộ cũng có trách nhiệm chăm sóc giới trẻ, khuyến khích họ tham gia các sinh-hoạt của giáo hội cũng như xã hội.” (X. Cindy Wooden,Pope asks Vatican group to examine role of women in the Church, catholicherald 8/5/2018 Vũ Nhuận chuyển ngữ)

 Về vai-trò của nữ-phụ trong cơ-chế Giáo-hội, là chuyện không thể kể cho hết trong đời người đi Đạo. Nói và nhắc nhớ nhiều lần, còn là khẳng định của đấng bậc vị vọng nọ từng viết về phong-trào phụng thờ Mẹ và Con của Ralph Woodrow, như sau:

“Một trong các ví-dụ thấy rõ nhất về đạo ngoại-thần của văn minh Babylon đã xâm-nhập vào với Giáo-hội La Mã đến nỗi Đạo Chúa ở đây đã sáng-chế ra lối phụng thờ Đức Nữ Trinh Maria thay thế cho việc thờ-phụng các nữ-thần làm mẹ.

 Chính vào lúc, chúng dân người Babylon tản mát khắp nơi trên trái đất, họ họ đem theo đủ mọi chuyện về nữ-phụ trong đó có việc thờ thánh mẫu và người con nhỏ của Bà. Điều này cắt nghĩa tại sao nhiều quốc gia trên thế-giới lâu nay đã thờ kính Mẫu-thần và Con của Bà theo cách này hay cách khác suốt nhiều thế-kỷ trước khi Đấng Cứu Thế đích-thực là Đức Giêsu sinh ra đời!

 Tại nhiều nước trên thế-giới, việc sùng kính “Mẫu thân và Con của Bà” được lan rộng  và được đặt theo tên gọi của mỗi quốc-gia, mỗi phong-tục/tập-quán của địa phương, do bởi ngôn-ngữ của con người phàm đã thay-đổi xảy từ sự kiện ngọn tháp Babel. Người Hoa gọi Mẫu-thần của họ là “Shingmoo” hoặc “Đức Thánh Mẫu”.

 Người Đức cổ lại cũng tôn-thờ Nữ Trinh Hertha bồng trẻ bé trên tay Bà. Người Scanđinavia cũng tôn-thờ thần Disa của họ theo hình thù bà mẹ bế con. Người Êtruscan gọi vị ấy là Nutria và người Druids gọi Nữ Trinh Patitura của họ là “Mẹ của Đức Chúa”… (X. Ralph Woodrow, Babylon Mystery Religion, Ralph Woodrow 1981 tr. 13)    

     Nói về người nữ, luôn có nhiều điều để nói và để kể. Nói, là nói về triết-lý, thần-học và pháp-lý, ôi thôi chẳng bao giờ hết. Cũng hệt thế, kể các truyện có liên-quan đến sự khéo léo/tế-nhị hoặc cá-tính riêng biệt của phụ-nữ, sẽ không bao giờ cạn.

Thôi thì, hôm nay, bần đạo bầy tôi đây chỉ xin nói và ghi lại một truyện đã được kể từ nhiều tháng ngày vào buổi trước rất nhiều lần để minh-họa cho bài viết, như sau:

“Một người đàn ông hôm ấy đến gặp bác sĩ tâm-lý than-phiền về những khó khăn mình gặp, rằng:

-Thưa bác sĩ, không biết tại sao đêm nào tôi cũng mơ chuyện vớ vẩn như quái vật mang hình đàn bà ngồi cạnh giường khiến tôi không ngủ được, cả tháng nay.

Bác sĩ suy nghĩ một hồi, rồi từ tốn nói:

-Được rồi. Tôi nghĩ bệnh của anh có thể trị dứt ngay lập tức. Nhưng có điều là chí phí điều-trị sẽ khá cao và dao-động khoảng từ 20 đến 30 ngàn đô, chứ chẳng chơi.

Người bệnh bèn kêu thất thanh lên rằng:

-Ấy chết Làm gì dữ vậy bác sĩ, 30 ngàn đô sao mắc dữ vậy? Tự dưng, tôi thấy không cần-thiết phải xua đuổi quái vật đội lốt đàn bà nữa. Suy cho kỹ, thì: gọi là quái vật chứ nó cũng có điểm đáng yêu, đấy chứ. Thôi, để tôi về nhà và cố gắng làm bạn với quái-vật ấy, là xong ngay. Có điều, hơi lấn cấn với bà vợ ở nhà một chút, bác sĩ nhỉ?

Bác sĩ nghe vậy, chẳng biết nói sao cho người bệnh an lòng.” (Lại một truyện kể rút trên mạng)

 Kể truyện vui vui hoặc nói với nhau nhiều điều, cũng chỉ để nhắc nhau nhiều điều bằng ca-từ ở trên, cứ hát tiếp:

“Tôi viết tên anh trên lá trên hoa,

Tôi viết tên anh trong trái tim tôi.

Tôi viết tên anh trên đá, trên vôi.

Tôi viết tên em ngập nẻo đường đi ngàn lối.

Tôi nhớ tên anh khi gió khi mưa. 
Tôi nhớ tên anh khi nắng lưa thưa.
Tôi nhớ tên anh qua ánh trăng thanh.
Khi tiếng tơ ngân vào lòng thời gian màu tím.
Tôi nhớ tên anh như nhớ tương lai.
Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai.
Tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai.
Tôi chắc trong tôi đời đời còn nhớ nhung hoài.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Tôi nhớ tên anh/tên em” và/hoặc tên các nữ-tông đồ ở Tin Mừng, tức: vẫn còn nhớ lời đấng thánh hiền từng nói ở Kinh/Sách như sau:

“Có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn,

trong đó có bà Maria Magđala,

bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Giôxết,

cùng bà Salômê.

Các bà này đã đi theo

và giúp đỡ Đức Giêsu khi Ngài còn ở Galilê.

Lại có nhiều bà khác

đã cùng với Ngài lên Giêrusalem,

cũng có mặt tại đó.”

(Mc 15: 40-41)

Các đấng tông-đồ vị vọng phái nữ có mặt nhiều lần, nhiều nơi bên cạnh Chúa. Các bà có mặt ở đó, không chỉ để chiêm-ngắm những việc Chúa làm bằng mắt thịt người phàm mà thôi, nhưng vẫn là công-việc thừa-tác các bà từng làm còn đắc-lực hơn các tông đồ phái nam, nữa.

Thế đó, là chuyện không chỉ để phiếm đại cho xong mà thôi; nhưng, còn là niềm vui nhắc nhớ để ta lại sẽ viết tên nhau trên lá/trên hoa, trên tất cả mọi thứ ở đời, khiến người người cứ viết hoài viết mãi, rất không ngơi.

Trần Ngọc Mười Hai

vẫn cứ viết nhiều điều để phiếm.

Phiếm rất nhiều.

Phiếm lai rai, dài dài

Không biết chán.     

TRƯỢT CHÂN, TÉ NGÃ TRONG TUỔI VÀNG

TRƯỢT CHÂN, TÉ NGÃ TRONG TUỔI VÀNG


Nguồn: Internet
Chỉ một cú vấp ngã là cuộc sống con người có thể thay đổi hoàn toàn, cuộc thay đổi không thể kềm hãm xoay chuyển. Sự đau đớn thể xác đi kèm với nỗi vật vã tâm thần. Đây là mối ưu tư, ám ảnh của tuổi vàng khắp chốn.

Con người sống lâu hơn, ít bệnh tật hơn nhưng tuổi thọ lâu dài kia có những khúc quanh không như ý. Cơ thể trải qua những biến chuyển cần sự thích nghi và chấp nhận từ mỗi cá nhân. Ôi chao, biết bao nhiêu là biến chuyển trong cái thân thể mong manh kia sau 70 – 80 năm dãi dầu với thời gian?

Mắt nhìn không còn tinh anh. Tai nghe không còn tỏ tường, có vị còn chịu chứng ù tai, tinnitus, những âm thanh tai quái u u trong đầu suốt ngày đêm. Khứu giác chẳng còn “cảm” được một mùi hương nhẹ nên vị giác hầu như mòn mỏi. Khoảng 70% khả năng “nếm” đến từ khả năng “ngửi”. Rượu [ngon] không còn giữ được hương vị cũ dù vẫn mang lại cảm giác lâng lâng và đôi khi còn gây chuếnh choáng nhanh chóng không ngờ. Bắp thịt không mạnh mẽ như trước, khuân vác một món gì cũng khó khăn. Khớp xương ê ẩm khiến việc xê dịch chậm chạp… Chưa kể sự thăng bằng, balance, kết hợp từ khả năng nhìn thấy, sức mạnh của bắp thịt, và khả năng cảm nhận vị trí của thân thể (proprioception) trong môi trường chung quanh, cũng sút giảm qua thời gian. Và cuộc sống có thể đến khúc ngoặt không ngờ khi trượt chân, vấp ngã.

Năm 2012, trên 2.4 triệu người té ngã, NGUỒN: CONSOLEANDHOLLAWELL.COM

Tại Huê Kỳ, số người cao niên (65+ tuổi) té ngã và chịu biến chứng nặng nề mỗi ngày một gia tăng. Nha Thống Kê của cơ quan Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Tật (CDC) công bố một con số đáng ngại, chỉ trong năm 2012, trên 2.4 triệu người té ngã, trong số ấy trên 200 ngàn người tử vong vì biến chứng trong cùng năm.

Theo Hội Chuyên khoa về Tuổi vàng, Geriatrics, tai nạn gia tăng khi con người quá lạc quan quá tự tin, không lượng sức mình; người có tuổi cũng không ngoại lệ nhưng chịu ảnh hưởng của tai nạn nặng nề hơn. Những thứ bình thường trước đây bỗng dưng trở thành chướng ngại vật trong một phút không ngờ: các bậc thang, tấm thảm trên sàn nhà, bồn tắm trắng bóng, vồng u trong chỗ đậu xe, rễ cây ngoài vườn…, và ngay cả con chó con mèo quanh quẩn bên chân hằng ngày. Những món thuốc trị chứng cao huyết áp, chữa trầm cảm…có thể gây chóng mặt, choáng váng khiến việc vấp té, trượt chân xảy ra dễ dàng hơn.

Trong số các cụ cao niên té ngã và gãy xương chậu xương đùi, 20% tử vong trong cùng năm, 80% còn lại chịu ảnh hưởng nặng nề. Họ không còn tự di chuyển nên việc nhàn tản trên một quãng đường ngắn trở nên bất khả. Nhiều người mất luôn khả năng lái xe vì chân ga chân thắng không còn nhậm lẹ nên dễ gây tai nạn.

Không thể tự di chuyển, các cụ này trở nên phụ thuộc vào người chung quanh, từ bạn bè, hàng xóm láng giềng đến con cái. Tuổi vàng sợ đau đớn thể xác thì ít nhưng họ lại hãi hùng trước viễn ảnh mất hết khả năng độc lập.

Một sự thật khó chấp nhận là việc càng cao tuổi, càng dễ té ngã. Theo Tiến Sĩ Judy A. Stevens, chuyên viên Dịch Tễ, epidemiologist, tại CDC, té ngã xem ra giản dị nhưng lại là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho tuổi vàng, không mấy ai muốn nhắc đến và ngay cả người bị té cũng không muốn đề cập đến. Lý do? Các cụ ngượng ngùng, bạn ạ, ngại bạn bè chê cười mình vụng về, nhưng lý do sâu thẳm nhất, các cụ sợ con cháu lo lắng quá lại khênh họ vào nhà dưỡng lão hầu được (bị) chăm sóc kỹ lưỡng hơn, và từ đó mất luôn cuộc sống độc lập riêng tư. Họ sợ hung thần té ngã còn hơn các trận đau ốm. Đau ốm khi hết bệnh còn có thể độc lập chứ té ngã thì lôi thôi lắm!

Phục hồi sau khi té ngã là một hành trình gian nan, chậm chạp. Với các ca gãy xương “bình thường”, sau khi bó xương, nối xương và vết thương tạm lành, bệnh nhân trải qua thời gian tập luyện để có thể tự di chuyển. Chương trình phục hồi kéo dài vài tháng, từ việc dùng xe lăn, khung cân bằng đến cách dùng gậy để chống đỡ thân mình và giúp thăng bằng. Nhiều cụ không còn leo thang được nữa vì cần dùng khung sắt để di chuyển, và từ đó phải lìa bỏ tổ ấm nơi có các bậc thang thân quen, gần gũi. Thay đổi chỗ ở là cả một cú sốc trong tuổi vàng. Cụ nào chấp nhận và chịu thích nghi thì vết thương “lìa tổ ấm” sớm lành, cụ nào rầu rĩ vật vã với chỗ ở mới thì nhanh chóng rơi vào nỗi trầm cảm u uất và không thiết sống!

alt
Emergency button trên dây đeo cổ – NGUỒNVOLTUM.COM

Ngược lại, được sinh sống trong khung cảnh quen thuộc là nỗi ấm áp, thoải mái trong tuổi vàng ngay cả khi các cụ không còn có thể tự chăm sóc thân thể.

Như mọi loại bệnh tật, phòng ngừa là phương cách tốt nhất. Té ngã cũng thế. Phòng ngừa té ngã để tránh thương tật và các biến chứng thay đổi đời sống của bệnh nhân.

Để phòng ngừa té ngã, bà Judy Stevens cho rằng thể dục là yếu tố quan trọng nhất. Khi thân thể khỏe mạnh, bắp thịt cứng cáp, thì ít bị té ngã; và nếu bị té ngã thì ảnh hưởng cũng bớt trầm trọng so với các cụ ít động đậy, đi lại.

Các lớp thể dục, nhất là các buổi dạy về thăng bằng, như tập đứng một chân, lăn trái banh Bosu cho quen với sự chông chênh. Môn Thái Cực với các động tác co duỗi thong thả, chậm chạp giúp thân thể phối hợp hoạt động của bắp thịt và hai lá phổi thở hít nhịp nhàng. Sự phối hợp này cần thiết cho việc hô hấp, thăng bằng và dáng đi đứng của thân thể.

Hiệu quả cụ thể nhất của sự tập luyện thân thể là việc có thể tự đứng dậy từ ghế ngồi mà không cần vịn tay: bắp thịt hai chân và bắp thịt bụng, lưng cứng cáp đủ để chống đỡ và thăng bằng thân thể khi thay đổi vị thế.

Những yếu tố khác không kém quan trọng là việc dùng các món thuốc. Thuốc trị cao huyết áp, khoảng 70% các cụ tuổi thất thập dùng món thuốc này, gây chóng mặt khi huyết áp xuống nhanh và dễ té ngã nếu không cẩn thận. Chưa kể các thứ dược thảo lợi tiểu, giảm đường giảm mỡ (?) hầm bà lằng khác bán tự do trên thị trường mà các cụ Á Đông dùng thường xuyên như uống trà.

Xin mở ngoặc để nhắc đến dược thảo một chút: Dược thảo là con dao hai lưỡi rất sắc, có thể vô cùng hiệu quả trong việc chữa trị một bệnh tật nào đó, nhưng dược chất trong dược thảo có liều lượng bao nhiêu lại là một điều bí mật. Bí mật thứ nhì là món dược thảo tuy có cùng tên nhưng mức khác biệt về dược chất [và dược tính] lại là khoảng cách mênh mông… chưa kể các phụ chất có dược tính khác.

Các cụ dùng thuốc trị cao huyết áp có tỷ lệ té ngã cao gấp đôi những người không dùng. Đặc biệt là loại thuốc lợi tiểu, diuretic, [dùng để giảm cao huyết áp và suy tim]. Nếu cần dùng, các cụ nên uống thuốc ban ngày để tránh những chuyến vào nhà vệ sinh trong đêm tối. Món thuốc khác, món thuốc trị mất ngủ, có thể gây mất thăng bằng, và nếu có thể, nên thay thế bằng một ly sữa ấm, một cuốn sách dễ đọc hoặc một vài bản nhạc êm dịu.

Cách phòng ngừa té ngã khác là cách xếp đặt vật dụng trong nhà, loại bỏ tấm thảm đặt hờ hững trên sàn nhà, bàn ghế nằm gọn ghẽ trong một góc khuất, dẹp giày dép, đồ chơi… trên lối đi.

Các cụ trong tuổi vàng cần đi khám mắt hàng năm và đeo kính để duy trì thị lực. Dùng kính đơn tròng khi đi bộ và chỉ dùng kính hai tròng, ba tròng (bifocal, progressive lenses) khi đọc sách, ngồi tại chỗ vì loại kính này có thể gây vấp té.

Trong nhà cần có đèn đủ sáng để thắp rõ vật dụng chung quanh. Và món vật dụng cần thiết nhất, với các cụ sống đơn chiếc, có lẽ là món “gọi cấp cứu”, emergency button, electronic alert, có thể trong dạng vòng đeo trên cổ tay có nút bấm, có thể là dây đeo trên cổ.

Mùa thu của cuộc đời không nhất thiết chỉ là mùa tàn úa, mùa lá vàng; với sự chấp nhận, sửa soạn và sẵn sàng cho tinh thần, mùa thu có thể trở thành…vàng lá, vàng ròng với các chuyến du ngoạn thong thả để tận hưởng sự thanh nhàn khi tâm tư không còn vướng bận với sinh kế nhọc nhằn và bổn phận dưỡng dục khó khăn?

Tập với trái banh Bosu – NGUỒN DIRECTORSBLOG
From: Anh chi Thu & Mai

BỨC TRANH MIÊU TẢ MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI CỦA CHÍNH THỐNG GIÁO NGA

BỨC TRANH MIÊU TẢ MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI CỦA CHÍNH THỐNG GIÁO NGA

 “Đó là điều vô lý nhất và không thích hợp khi miêu tả Chúa Cha với hình tượng người đàn ông có bộ râu màu xám, và Người con duy nhất của Ngài có hình ảnh chim bồ câu ở giữa, bởi vì không ai đã nhìn thấy Chúa Cha vì thiên tính của Ngài, và Chúa Cha không có xương có thịt […] và Chúa Thánh Thần bản chất không phải là chim bồ câu, nhưng bản chất là Thiên Chúa.”  (Đại Thượng Hội Đồng Moscow, 1667)

 Đối với Giáo Hội Chính Thống Nga, việc miêu tả Thiên Chúa Ba Ngôi trong nghệ thuật là một vấn đề gây tranh cãi trong hàng ngàn năm qua.  Mặc dù Công Đồng Nicaea năm 787 cho phép các họa sĩ vẽ về Thiên Chúa, tuy nhiên Giáo Hội Chính Thống Nga vẫn không hài lòng với những bức họa phổ biến về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Họ cảm thấy hình tượng người đàn ông với bộ râu màu xám và chim bồ câu (thường được dùng để mô tả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong hội họa) không thể xứng với mầu nhiệm khôn thấu về về Thiên Chúa Ba Ngôi.  Thay vì sử dụng những hình ảnh phổ biến này, họ đã chọn bức tranh (icon) Chúa Ba ngôi của Andrei Rublew như cách diễn tả thích hợp về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. 

Rất khó để những người bên ngoài Chính thống giáo hiểu được những bức tranh icon của Chính thống giáo Nga, và với cái nhìn đầu tiên, bức tranh có vẻ không diễn tả hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi.  Bối cảnh trung tâm của bức ảnh xuất phát từ sách Sáng Thế, khi ông Abraham tiếp đón ba vị khách lạ vào lều của mình, “Và Đức Chúa hiện ra với Abraham tại cụm sồi Mamre … Ông ngước mắt lên và … kìa, ba người đàn ông đứng gần ông.  Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất và nói … [Ông Abraham] đã lấy [bánh, sữa chua, sữa tươi, và thịt bê đã làm] mà đãi khách; và ông đứng hầu dưới gốc cây trong khi họ dùng bữa” (Sáng thế ký 18: 1-8).

Bức ảnh của Rublev miêu tả cảnh tượng trên với hình ảnh ba thiên thần, có giáng vẻ giống nhau, ngồi quanh một chiếc bàn.  Phía sau là ngôi nhà của Abraham và một cây sồi phía sau ba vị khách.  Trong khi bức ảnh này mô tả một sự kiện trong Cựu Ước, thì Rublev đã sử dụng đoạn Kinh Thánh này để phác họa hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, phù hợp với các nguyên tắc nghiêm ngặt của Giáo Hội Chính Thống Nga. 

Các biểu tượng của hình ảnh phức tạp và có ý nghĩa tổng quát niềm tin thần học của Giáo Hội trong Thiên Chúa Ba Ngôi.  Trước hết, ba thiên thần giống hệt nhau về hình dạng tương ứng với tín điều Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy nhất.  Tuy nhiên, mỗi thiên thần trong bức trang mặc một trang phục khác nhau, diễn tả sự riêng biệt của mỗi ngôi vị.  Trên thực tế, việc Rublev mô tả Thiên Chúa Ba Ngôi trong hình ảnh thiên thần cũng là một lời nhắc nhở về bản tính của Thiên Chúa, Đấng là thần linh thuần túy.

 Các thiên thần được sắp xếp từ trái sang phải theo thứ tự như khi chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

 Thiên thần đầu tiên mặc áo màu xanh, tượng trưng cho bản tính thần linh của Thiên Chúa và áo choàng màu tím, chỉ vương quyền của Chúa Cha.

Thiên thần thứ hai và là vị quen thuộc nhất, là người mặc loại quần loại đặc trưng của Chúa Giêsu trong truyền thống icon.  Màu đỏ tượng trưng cho nhân tính của Chúa Kitô, trong khi màu xanh là biểu hiện thiên tính của Người.  Cây sồi phía sau nhắc nhở chúng ta về cây sự sống trong Vườn Eden cũng như thập giá mà trên đó Chúa Kitô đã cứu thế giới khỏi tội lỗi của Adam. 

Thiên thần thứ ba mặc một chiếc áo màu xanh (thiên tính), và áo choàng xanh lá cây.  Màu xanh lá chỉ trái đất và nhiệm vụ đổi mới địa cầu của Chúa Thánh Thần.  Xanh lá cũng là màu phụng vụ trong lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo truyền thống Chính thống giáo và Byzantine.  Hai thiên thần bên phải bức tranh đầu hơi cúi, diễn tả một thực tế là Chúa Con và Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha. 

Trung tâm của bức tranh là chiếc bàn, tượng trưng cho một bàn thờ.  Đặt trên bàn là một chiếc bát hoặc chén bằng vàng, có chứa thịt bê mà Abraham đã chuẩn bị cho khách.  Thiên thần ở giữa có lẽ đang làm phép bữa ăn.  Tổng hợp các điều đó nhắc nhở chúng ta về bí tích Thánh Thể. 

Tuy bức tranh không minh họa trực tiếp mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng đây là một trong những bức tranh uyên thâm nhất từng được vẽ.  Truyền thống Chính thống giáo và Byzantine vẫn dùng nó như cách miêu tả chính về Thiên Chúa Ba Ngôi.  Bức tranh thậm chí được đánh giá cao trong Giáo hội Công giáo La Mã, và thường xuyên được các giáo lý viên sử dụng để dạy người khác về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. 

Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm, và sẽ luôn là như vậy khi chúng ta đang còn hiện diện trên trái đất.  Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thấy được cái nhìn thoáng qua về sự sống thần linh của Thiên Chúa, và bức tranh của Rublev đã giúp chúng ta có được giây phút ngắn ngủi để nhìn vào phía sau bức màn mầu nhiệm.

 Cát Trắng

The Russian Icon that Reveals the Mystery of the Trinity

Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly

Phúc Âm: Mc 10, 1-12

9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình ;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam trả tự do cho Mẹ Nấm và thành viên Hội Anh Em Dân Chủ

Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam trả tự do cho Mẹ Nấm và thành viên Hội Anh Em Dân Chủ

RFA
2018-05-25

Đối thoại nhân quyền Việt Nam và Hoa Kỳ lần thứ 22 tại Washington DC

Đối thoại nhân quyền Việt Nam và Hoa Kỳ lần thứ 22 tại Washington DC

State Department

Trong đối thoại nhân quyền thường niên lần thứ 22 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vừa diễn ra hôm 17/5 tại Washington DC, Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục nêu quan ngại về tình trạng nhân quyền Việt Nam và nêu một số trường hợp đặc biệt, yêu cầu phía Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức. Nhân dịp này, Đài Á Châu Tự Do có cuộc phỏng vấn với ông Scott Busby, Phó Trợ lý Ngoại Trưởng Mỹ thuộc văn phòng phụ trách vấn đề dân chủ, nhân quyền, và lao động, về đối thoại lần này.

———————————

Scott Busby: đây là đối thoại nhân quyền thứ 22 mà chúng tôi có với Việt Nam, một trong những đối thoại dài nhất so với bất cứ nước nào khác trên thế giới. Trong đối thoại, chúng tôi tái khẳng định cam kết của chúng tôi là thắt chặt hơn mối quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam. Nói vậy, nhưng chúng tôi vẫn có nhiều quan ngại về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Chúng tôi đã nói với họ như đã nói trước kia rằng nếu không có sự tiến bộ và hợp tác trong vấn đề nhân quyền, bao gồm tự do tôn giáo và quyền của người lao động, mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam không thể đạt được triển vọng toàn bộ. Chúng tôi có nêu ra một số trường hợp cụ thể. Chúng tôi có chia sẻ với họ danh sách các cá nhân này. Có hai trường hợp đặc biệt mà chúng tôi nhấn mạnh là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hay còn được biết là blogger Mẹ Nấm, người đã nhận giải Phụ Nữ Quả Cảm từ Bộ Ngoại giao năm ngoái. Chúng tôi cũng nêu trường hợp luật sư Nguyễn Văn Đài và những người cùng cộng tác trong Hội Anh Em Dân Chủ. Họ vừa bị nhận những án tù nặng nề. Chúng tôi nói với đại diện Việt Nam là những bản án này không công bằng và đòi hỏi Việt Nam phải trả tự do cho họ và Mẹ Nấm. Trên thực tế, chúng tôi đòi hỏi họ phải trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm mà chúng tôi chia sẻ danh sách với họ.

RFA: Hoa Kỳ đã nhiều lần yêu cầu Việt Nam phải trả tự do cho các tù nhân lương tâm nhưng phía Việt Nam đã không thực hiện. Những tù nhân lương tâm được trả tự do, trong một số trường hợp là được yêu cầu phải sang Mỹ. Vậy ông có thể cho biết đây có phải là những gì đang xảy ra đối với danh sách các cá nhân phía Mỹ đưa ra không? Phía Việt Nam có hứa hẹn gì?

Scott Busby: Tôi không thể đi vào chi tiết cụ thể những gì mà chúng tôi bàn với phía Việt Nam nhưng tôi có thể nói là chúng tôi đã đàm phán với họ và yêu cầu họ phải trả tự do cho những tù nhân lương tâm. Không có một lời hứa nào (của Việt Nam) được đưa ra trong đối thoại.

Chúng tôi nói với đại diện Việt Nam là những bản án này không công bằng và đòi hỏi Việt Nam phải trả tự do cho họ và Mẹ Nấm. Trên thực tế, chúng tôi đòi hỏi họ phải trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm mà chúng tôi chia sẻ danh sách với họ. – Scott Busby

RFA: Trước đối thoại, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã có báo cáo về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, Ủy Hội tự do tôn giáo quốc tế trước đó cũng có báo cáo về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về tình hình nhân quyền Việt nam trong năm qua so với năm trước đó và khi phía Mỹ đưa ra đánh giá như vậy thì phía Việt Nam nhìn nhận thế nào?

Scott Busby: Chúng tôi cho rằng đã có sự gia tăng bắt bớ và đàn áp đối với những người thực hiện các quyền cơ bản. Chúng tôi đã nêu ra quan ngại về vấn đề này. Chúng tôi cũng nêu quan ngại về những bản án nặng nề mà những người này phải chịu. Phía Việt nam giải thích rằng những người này đã vi phạm luật pháp và đó là lý do họ bị bắt và bỏ tù.

RFA: Các tổ chức nhân quyền quốc tế vừa qua đã có những chỉ trích chính phủ Mỹ hiện nay đã không cứng rắn trong vấn đề nhân quyền với Việt Nam và đó là lý do khiến Việt Nam gia tăng đàn áp nhân quyền. Ông có nhận xét gì về điều này.

Scott Busby: Chúng tôi thường xuyên nêu quan ngại của chúng tôi về vấn đề nhân quyền với phía Việt Nam bất cứ khi nào có cơ hội. Tôi gần đây có gặp Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam là ông Daniel Kristenbrink và ông ấy thừa nhận là vấn đề nhân quyền nằm trong phần lớn các đối thoại giữa ông ấy với phía Việt Nam. Tôi cũng lưu ý là trong thảo luận của Hội đồng Nhân quyền ở Geneva (UN Human Right Council), chúng tôi đã nêu quan ngại về tình trạng đàn áp đối với những người Việt Nam thực hiện các quyền căn bản của họ.

RFAHoa Kỳ có những mặc cả nào cụ thể để gây sức ép lên Việt Nam?

Scott Busby: Việt Nam muốn có quan hệ gần gũi hơn với Mỹ. Họ có lo ngại về bạn láng giềng phương Bắc như bạn đã biết. Việt Nam muốn có quan hệ tốt hơn với Mỹ. Chúng tôi nói với họ rằng là nếu họ muốn có quan hệ tốt hơn với Mỹ thì họ cần phải cải thiện tình trạng nhân quyền.

RFAMới đây, Phó Đại diện Thương Mại Mỹ Jeffrey Gerrish có gặp Phó Thủ tướng Việt Nam Vương Đình Huệ và nêu quan ngại về luật an ninh mạng mà Việt Nam đang đề xuất. Ông đánh giá luật này nếu được thông qua sẽ ảnh hưởng thế nào tới quan hệ hai nước?

Scott Busby: Chúng tôi rất lo ngại về luật này. Chúng tôi có cùng mối quan ngại như Phó Đại diện Thương Mại Mỹ Jeffrey Gerrish đã nói đến khi ông ấy ở Việt Nam. Chúng tôi nghĩ là luật này được viết để hạn chế hơn nữa quyền tự do bày tỏ ý kiến, tự do tụ tập, và cũng cản trở sự phát triển và sáng tạo của nền kinh tế số trong nước. Trong suốt đối thoại, chúng tôi cũng thúc giục Việt Nam hoãn lại việc thông qua luật này để có thêm thời gian cho quá trình tư vấn để xem xét những quan ngại của những bên sẽ bị ảnh hưởng bởi luật này.

RFA: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn này

Interpol ra lệnh dẫn độ trung tướng CA Đường Minh Hưng sang Đức trị tội

Duy Vinh Cao

YouTube

Một quốc gia mà dám làm trái luật quốc tế,một chính phủ mà dám nói dối dân thì làm sao đối mặt với nhân dân đây?

Tòa án Đức truy tố trung tướng công an CSVN Đường Minh Hưng vì cầm đầu vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
YOUTUBE.COM

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Nhân kỷ niệm 14 năm linh mục 22/5/2004 – 22/5/2018, mình muốn chia sẻ với cả nhà một trong những kỷ niệm của thời thơ ấu, mà khi nghĩ đến thì cảm xúc vui buồn lẫn lộn, đó là công việc buổi sáng của mình.

Trước tiên, cho mình xin cám ơn tất cả những ai đã cầu nguyện, gửi lời chúc mừng kỷ niệm 14 năm linh mục cho mình nhe, và nhất là những ai đã gửi quà cho mình nữa!

Lúc còn bé, mình không được may mắn như bao bạn trẻ khác. Sáng sớm 4 giờ phải dậy đi chợ sáng mua hàng tươi về bán. Nhiều lúc không muốn dậy vì mê ngủ mà, và là con nít nữa, nhưng cũng vì hoàn cảnh gia đình, phải cố dậy, mắt nhắm mắt mở, đi bộ đến chợ sáng, tranh dành hàng hoá với những con buôn khác để mua hàng như bánh bò, bánh tiêu, bánh cam, da lợn, ba chỉ, chả giò, chuối chiên, bánh đúc, bánh bèo và vv…. nói chung là đồ tươi mua về bán lại kiếm ăn. Chưa kể là mỗi sáng phải đi ngang nghĩa địa với bụi tre già, “sợ ma muốn chết”, khi gió thổi mạnh hay mưa rơi lác đác, mình luôn có cảm tưởng như ma đi theo mình. Con nít mà, ai không nhát ma????

Chợ về, lo kéo nước, cả mấy chục cặp thùng nước kéo từ cái giếng kế nhà, cho cả người và thú vật dùng, như con heo nái và đàn heo con mà nhà nuôi kiếm ăn.

Kế đến học bài chuẩn bị đi học.

Vào Chúa nhật, công việc cũng thế, nhưng thay vì học bài thì đi giúp lễ sáng và ngay sau lễ, mình đội một mâm bánh đủ loại đi bán cho người đi lễ ở trước cửa nhà thờ Mẫu Tâm, nhà thờ tôn sùng Trái Tim Cực Thanh Cực Tịnh Đức Bà Maria.
Nghĩ đến mà tủi, vì ngồi ở cổng nhà thờ, khi có người đi ra lễ là rao to: “mua đồ ăn sáng đi anh… đi chị… đi em… đi ông… đi bà… đi chú… đi bác…” hay “làm ơn mua giùm em… con… cháu… đi” nghĩ đến đây, mình rơi nước mắt!!!!

Có người cười nói cám ơn không mua. Có người nhìn mặt mình rồi liếc một cái đi. Có người la vào mặt, “không có mua đừng réo!” Có người làm ngơ. Tủi ghê luôn!!! Mới ra lễ mà chẳng có tình yêu, nhất là mới đón nhận bí tích Thánh Thể, bí tích Tình Yêu. Sao họ lại đối xử với mình như thế??? Mình buồn nhưng chịu thôi, biết làm gì??

Rao khan cổ, lâu lâu mới có người mua bánh cho. Ngồi bán mấy ván lễ mới hết nếu hên. Không may mắn thì ôm bánh về nhà bán tiếp hay ăn trừ cơm luôn. Không may nữa thì thấy mẹ mình buồn than thở!!!

Chắc vì Mẹ Mẫu Tâm (tên nhà thờ nơi mình bán bánh mỗi Chúa Nhật) đã nhìn thấy và thấu hiểu đời mình, nên đã âm thầm và trong sự quan phòng mầu nhiệm của Mẹ, đã cầu bầu và cùng đồng hành với mình “vượt biên” qua Thái rồi đến Mỹ, để rồi với Mẹ trải qua bao gian nan thử thách, cuối cùng được chịu chức linh mục theo gót chân Con của Mẹ.

Ngày nay, tôi vẫn ở nhà thờ, vẫn reo to, không phải reo mời người mua bánh, mà “reo mời người nghe Lời Chúa trong các bài giảng”.

Ngày nay, tôi không bán bánh ăn sáng cho cơ thể, mà là “làm Bánh Thánh” tại chỗ nuôi dưỡng linh hồn và cả thể xác (hoá bánh thành Mình Thánh qua và trong chức linh mục) rồi ban phát dân chúng mà không lấy đồng nào!

Cậu bé bán bánh trước cửa nhà thờ năm nào ở Việt Nam giờ trở thành linh mục cho giáo xứ ở Mỹ

Cám ơn Mẹ Maria đã cầu bầu che chở con trong hành trình ơn gọi bao nhiêu năm qua. Xin Mẹ luôn ở bên con mãi mãi.

Bạn thấy đó, Đức Mẹ của ta tuyệt vời như thế đó. Có nhiều việc Mẹ làm ta không biết liền được, mà đến lúc mọi sự đã hoàn tất tốt đẹp, ta mới nhận ra sự yêu thương và quan phòng của Mẹ trong cuộc sống.

Mời cả nhà xem hình kỷ niệm mình chụp ở cái góc trước cửa nhà thờ năm nào. Bây giờ có xe nước mía ở đó. Một kỷ niệm vui buồn của đời tôi ở đây!!!

Hoàng Nhật Tuấn

ĐỪNG DẬP TẮT NGỌN NẾN CỦA CON

Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé!

Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ , tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.

Một hôm, người cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gái bé bỏng của mình.

Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: ” Tại sao nến của con lại không cháy?”. Bé gái đã đáp rằng: ” Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những gịot nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con”.

Đến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hi vọng của con ông.

Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười. Đừng bao giờ để nước mắt che mờ con đường bạn đang bước đi…

(Nghethuatsong)

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Phân tích của Nguyễn Quang Duy Melbourne Úc

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Nguyễn Quang Duy

I. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956
II. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 (Ấn bản chánh)

Nền Cộng Hòa non trẻ của miền Nam Việt Nam đã chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975, nhưng giá trị tinh thần cộng hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Nhân kỷ niệm 60 ngày bản Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26-10-1956 xin được ôn lại các giá trị có thể học hỏi từ tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa.

I. HIẾN PHÁP 1956

Ngày 26/10/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức thông báo kết quả Trưng cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng hòa, với Hiến ước Tạm thời làm cơ sở pháp lý điều hành quốc gia.

Tháng 3/1956 một Quốc hội Lập hiến với 123 dân biểu được bầu. Đến tháng 7-1956 Quốc Hội bỏ phiếu thông qua bản Hiến Pháp. Ngày 26/10/1956 Hiến Pháp được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm ban hành.

1- Tinh thần lập hiến và dân chủ chưa đủ

Chiếu điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc Hội Lập Hiến tự động trở thành Quốc Hội Lập Pháp và Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hòa.

Lẽ ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác Quốc Hội Lập Hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc Hội Lập Pháp và một Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Điều 3 “Tổng thống lãnh đạo Quốc dân” mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 “Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp.”, Nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2 “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác quyền lực tuyệt đối đã được Hiến Pháp trao cho Tổng Thống do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.

Trong khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của địa phương phải được đặt hàng đầu, Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào Trung ương không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.

Thiên thứ 9, quy định việc sửa đổi Hiến pháp, với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.

2- Tam Quyền Phân Nhiệm

Vai trò và nhiệm vụ của Tổng Thống, của Quốc Hội và của Thẩm phán được nêu rõ trong các Thiên (Chương) ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp 1956.

Thiên thứ sáu dành cho Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo Hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.

Thiên thứ bảy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống là Chủ tịch có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.

Thiên thứ tám về Viện Bảo Hiến nhằm phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.

3- Kinh Tế Tự Do

Chương hai nêu rõ việc Quốc gia (chính phủ) công nhận và bảo đảm tất cả các quyền tự do cá nhân.

Đặc biệt Điều 20: “Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.” Cùng với việc khuyếch trương kinh tế tự do, chiếu theo điều 20 này chính phủ đã có những chính sách vô cùng tích cực.

Lấy thí dụ, chính phủ quy định các loại xe chuyên chở công cộng như xe taxi, xe lam, xe xích lô… cho nhập cảng xe mới và đem bán trả góp cho tài xế. Các loại xe này nhanh chóng trở thành những phương tiện di chuyển thông dụng nhất tại miền Nam.

Chương trình Người cày có ruộng, chính phủ mua lại ruộng đất của điền chủ đem bán lại cho tá điền qua phương cách trả góp.

Ngoài một số hoạt động công ích xã hội, như điện, nước, hàng không,… sinh hoạt kinh tế hoàn toàn tự do. Chính phủ không cạnh tranh với tư nhân. Chính phủ chỉ giữ vai trò khuyết trương kinh tế và bảo đảm tư nhân cạnh tranh một cách công bằng và hợp pháp.

Ngay trong giáo dục Chương trình tư thục được chính phủ khuyến khích và nâng đỡ. Nhờ đó chia sẻ gánh nặng với chính phủ và đã đào tạo nhiều thế hệ thanh niên sẵn sàng đóng góp cho quốc gia dân tộc.

Chính phủ còn cho thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn, … nhiều nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn…

Các quốc gia khác sau khi giành được độc lập đều có khuynh hướng bảo vệ thị trường, chính phủ trực tiếp làm kinh tế, quốc hữu hóa công xưởng, đề ra các chính sách bảo vệ thị trường.

Trong khi miền Nam lại theo kinh tế tự do nên kinh tế và kỹ nghệ đã phát triển nhanh hơn các quốc gia trong vùng.

4- Hòa giải tranh chấp lao công

Thiên thứ bẩy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia mà hội viên gồm các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.

Chính phủ cũng đề ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ, giảm thiểu các tranh chấp lao công, khiến cho xã hội hài hòa cùng nhau phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Đây là một điểm son của của xã hội miền Nam, nhờ đó cộng sản không thể lợi dụng biến các cuộc biểu tình đình công đòi hỏi quyền lợi của giới thợ thuyền thành những cuộc biểu tình chính trị.

5- Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc

Trong lời mở đầu Hiến Pháp nêu rõ: “…dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.”

Nhìn chung Hiến Pháp 1956 xây dựng trên tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc, tinh thần này được tiếp tục duy trì trong Hiến Pháp 1967.

II. HIẾN PHÁP 1967

Sau đảo chánh 1-11-1963, miền Nam bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng chính trị. Các chính phủ quân sự và dân sự liên tiếp được thành lập. Để có cơ sở pháp lý mỗi chính phủ đã ban hành Hiến Chương riêng.

Mãi đến tháng 9/1966, một Quốc Hội Lập Hiến gồm 117 Dân biểu được bầu ra. Một Ủy ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập rút ưu khuyết điểm Hiến Pháp 1956, nghiên cứu và tham vấn nhiều bản Hiến pháp các quốc gia khác, đặc biệt là Pháp, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.

1- Hiến Pháp 1967 tam quyền phân lập, dân chủ và phân quyền

Ngày 01/04/1967 Hiến Pháp 1967 được công bố theo đó nguyên tắc kiểm soát và đối trọng giữa các nhánh quyền lực được triệt để tuân thủ.

Lập pháp gồm lưỡng viện, hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Vai trò và nhiệm vụ của lập pháp, của hành pháp và của tư pháp được nêu rõ trong các Chương ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp.

Để tránh nguy cơ độc tài, Hiến pháp 1967 đặt ra chế độ Tổng thống với Lưỡng viện Quốc Hội và với chức vụ Thủ Tướng nhằm chia sẻ trách nhiệm và quyền hành của Tổng thống.

Đặc biệt, Chương 5 Điều 70 nêu rõ: “Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.” Các Điều 65, 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 114 tạo cơ sở pháp lý cho các chính quyền địa phương.

Chương 6 về vai trò và nhiệm vụ của các Định Chế Đặc Biệt bao gồm Đặc Biệt Pháp Viện, Giám Sát Viện, Hội Đồng Quân Lực, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội, Hội Đồng các Sắc Tộc.

Vai trò chống tham nhũng của Giám Sát Viện được nêu rõ: “Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.”

2- Chính Đảng và Đối Lập

Chương 7 về Chính Đảng và Đối Lập, nền Đệ Nhị Cộng Hòa khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng đối lập như sau:

Điều 99

1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.

2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.

Điều 100 – Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

Điều 101 – Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.

Điều 102- Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.

Sinh hoạt chính trị ở miền Nam cho đến 30-4-1975 đã chiụ nhiều ảnh hưởng chủ trương lưỡng đảng đối lập, các đảng Khối hay chính trị gia đã hình thành những liên kết đối lập về đường lối và chánh sách quốc gia.

Thêm vào đó để tránh tình trạng Quân Đội cấu kết với các đảng phái chính trị làm đảo chánh, Chương 2, Điều 23 cấm “Quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái”.

3- Hữu sản hóa nhân dân

Điểm mạnh nhất của mô hình Đệ Nhất Cộng Hòa là phát triển kinh tế tự do, điểm mạnh này đã được tiếp tục trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Về Công Nghiệp, Khu Kỷ Nghệ Biên Hòa là một thành tựu phát triển vào bậc nhất trong vùng Đông Nam Á. Mặc dù chiến tranh kinh tế và kỹ nghệ miền Nam vượt hẳn các quốc gia trong vùng.

Điểm đặc biệt của Hiến Pháp 1967 Điều 19 phần 2 “Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân” và Điều 22 “Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.” Sự thành công của chánh sách Người Cày Có Ruộng và Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp chính là nhờ các điều khoản nói trên.

4- Hiến pháp nhân bản, khai phóng và dân tộc

Thừa kế tinh thần Đệ Nhất Cộng Hòa, Hiến pháp 1967 lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm quốc sách. Điều 11 ghi rất rõ “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.”

Điều 2 phần 2 nêu rõ tinh thần cộng hòa “Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.”

5- Các điểm nổi bật

Nhìn chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. So với các quốc gia trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bực của Việt Nam Cộng Hòa.

Còn so với thực tế Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật như:

1. Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;

2. Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân nhiệm, phân lập và phân quyền;

3. Xây dựng thành công một nền văn hóa giáo dục, lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm căn bản;

4. Tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển;

5. Báo chí tự do;

6. Theo kinh tế thị trường tự do;

7. Nhưng vẫn bảo đảm được công bằng xã hội và dân sinh như y tế đại chúng hay thực hiện luật Người Cày Có Ruộng;

8. Một xã hội dân sự phát triển.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ vượt trội hơn nước người.

Tinh thần lập hiến và thượng tôn pháp luật pháp thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó và sẽ được học hỏi kế thừa khi Việt Nam có tự do dân chủ.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Australia (Úc).
25-10-2016

No automatic alt text available.
Image may contain: text
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, sunglasses and text

7 dấu hiệu cho thấy bạn là người có chỉ số EQ cao

7 dấu hiệu cho thấy bạn là người có chỉ số EQ cao

1. Không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc của người khác

Người có chỉ số cảm xúc EQ cao thường cũng có sự đồng cảm, cảm thông với mọi người xuất hiện hay thậm chí là không xuất hiện trong cuộc đời họ. Nhưng họ luôn đủ tỉnh táo để không bị chi phối bởi cảm xúc hay sự đồng cảm của họ đối với tất cả, kể cả bạn bè hay người thân yêu.
 

2. Không phàn nàn

Người có EQ cao thường không bao giờ để bản thân trở thành nạn nhân hay bị bế tắc nên họ thường chẳng bao giờ phải phàn nàn về cuộc sống, công việc hay mọi thứ xung quanh họ. Họ sẽ không than vãn hay níu kéo một mối quan hệ đổ vỡ mà sẽ học yoga, ngồi thiền định hoặc vui chơi giải trí để lấy lại cân bằng.
 

EQ
Ngưng phàn nàn về mọi thứ – Ảnh: brandsvietnam

3. Biết kiềm chế bản thân

Chỉ số EQ cao giúp bạn có sự quyết đoán và giữ vững lập trường. Họ biết tiết chế bản thân, biết từ chối lời mời hay những cuộc vui tự phát để không phá hỏng mục tiêu và dự định của họ.
 

4. Không nói xấu sau lưng

Người có EQ cao không thích kể lể về sai lầm của người khác. Họ sẽ động viên, giúp đỡ trong việc giải quyết vấn đề. Việc nói xấu sau lưng sẽ làm xấu hình ảnh của họ, đó là một việc làm mà theo họ là thiếu khôn ngoan và chỉ gây ảnh hưởng không tốt mà thôi.
 

EQ
Đừng nói xấu sau lưng người khác – Ảnh: vitalk

5. Không dựa dẫm

Tự lập là khả năng quan trọng của người có chỉ số cảm xúc cao. Nếu trông mong người khác khi kết quả xấu, họ càng thất vọng và trì trệ. Thay vào đó, họ làm mọi thứ bằng chính đôi bàn tay của mình, để có thể hoàn thành tốt hơn và tìm được giá trị cũng như khả năng của bản thân.
 

6. Không suy nghĩ tiêu cực

Chỉ số EQ cao không phải không bao giờ suy nghĩ tiêu cực. Nhưng họ luôn tìm được cách riêng để gạt những suy nghĩ đó đi. Việc này giúp họ tích cực hơn trong suy nghĩ, giúp bản thân bớt trì trệ và mất niềm tin vào công việc cũng như cuộc sống.
 

EQ
Học cách loại bỏ sự tiêu cực – Ảnh: gandex

7. Không nhìn lại quá khứ

Nhìn mãi thất bại rồi hối tiếc và tự dằn vặt không làm mọi thứ tốt hơn. Thay vì sống trong quá khứ, hãy rút ra bài học kinh nghiệm để nếu mọi thứ có xảy ra lần nữa bạn sẽ có giải pháp ứng phó kịp thời, như cách những người có chỉ số EQ cao vẫn làm.
 

Nguồn: cafebiz

Viện lý do ‘chưa chuẩn bị xong,’ CSVN tiếp tục hoãn Luật Biểu Tình

HA HA HA.
CHƯA CÓ LUẬT LÀ NHIỆM VỤ CỦA NHÀ NƯỚC.
BIỂU TÌNH LÀ VIỆC LÀM CẦN CÓ CỦA NHÂN DÂN.
CHƯA CÓ LUẬT THÌ CHÚNG TA CỨ LÀM MỖI KHI CHÚNG TA MUỐN THÔI.
CÒN THẰNG NÀO BẮT NGƯỜI BIỂU TÌNH LÀ CHÚNG SAI CHỨ DÂN KHÔNG HỀ SAI.

Một dự luật được đa số người dân trông chờ nhất là Luật Biểu Tình thì “tiếp tục trì hoãn” và “bị loại ra khỏi chương trình nghị sự” của kỳ họp Quốc Hội CSVN.…
NGUOI-VIET.COM