Hai Tran and Maria Nguyen shared a link.

Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng and Nghia Xuan Nguyen.
Ngày mai toàn dân tộc sẽ xét xử các vị.
Luật sư Luân Lê đã ghi lại một số câu nói của các thành viên HAEDC tại phiên toà hôm nay:
Luật sư Nguyễn Văn Đài:
– “Khoan dung cho những người bất đồng chính kiến chính là khoan dung với chính mình ngày mai”.
Ký giả Trương Minh Đức:
– “Tôi không có gì hối tiếc cả. Hôm nay các vị xét xử tôi nhưng ngày mai có thể là các vị. Bất công nó xoay vòng không chừa một ai”.
Anh Nguyễn Bắc Truyển:
– “Tôi sẽ luôn đấu tranh và nếu phải ngồi tù thì những người khác ngoài kia vẫn sẽ tiếp tục đấu tranh cho tôi mà sẽ không bao giờ họ dừng lại”.
Hình ảnh:
Sau phiên tòa Hà Nội bất công và tàn bạo:
Giọt nước mắt vẫn còn vương trên khóe mắt của mẹ cô giáo Lê Thu Hà !
Các người vợ của các TNLT Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Bắc Truyển mắt đỏ hoe, dìu dắt nhau sang đường, những bàn tay gầy guộc và tâm trạng uất ức, đau khổ.
Họ đã gánh chịu đau thương cho cả dân tộc !.
Tại sao quan tâm Chúa Giêsu phục sinh?
Hằng ngày, càng ngày càng có nhiều người lưu tâm con người lịch sử là Giêsu Nadarét. Với một người bị người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết mà tại sao ngày nay người ta vẫn quan tâm tới cuộc đời và các giáo huấn của Ngài như vậy?
ĐIỀU PHÁT HIỆN
Mọi điều về Ngài đều xảy ra chính xác: Các lời tiên tri về việc Ngài đến, sinh ra, cuộc sống, giáo huấn, phép lạ, sự chết, và nhất là sự sống lại của Ngài. Đó là các sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Hiệu quả chính xác về chính Ngài đối với sự Phục Sinh – dù Ngài đã sống lại từ cõi chết hay vẫn còn trong mộ đá. Nhiều người đa nghi nói rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không gì hơn chỉ là “bước nhảy mù quáng của niềm tin vô căn cứ” (sic!).
Tuy nhiên, khi đối diện với các sự kiện này, những người chân thật một cách thông minh đã phải chân nhận rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử dựa trên các chứng cớ không thể bác bỏ.
Trên hành trình tâm linh từ không biết gì tới lúc tin vào Đức Kitô, người ta có vấn đề về sự phục sinh. Nhưng xét kỹ thì chúng ta thấy sức thuyết phục rằng sự sống lại về thể lý là lời giải thích duy nhất về ngôi mộ trống, nơi đã mai táng thi hài Đức Kitô.
Đây là vài chứng cớ lịch sử khiến tâm phục khẩu phục:
CHỨNG CỚ PHỤC SINH
• Đức Kitô đã báo trước việc Ngài phục sinh. Kinh thánh nói: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Mặc dù những người theo Ngài không hiểu Ngài nói gì với họ lúc đó, nhưng họ vẫn ghi nhớ lời Ngài.
Sự Phục Sinh làm cho Kitô giáo trở nên đặc biệt. Chưa có một vị lãnh đạo tôn giáo nào đập tan sức mạnh của Tử thần và chiến thắng tội lỗi như Đức Giêsu Kitô.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ PHỤC SINH
Sự Phục Sinh xác nhận rằng Chúa Giêsu là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố. Chúng ta hãy cân nhắc tầm quan trọng của sự kiện này:
Rồi sau đó, sách Công vụ nói: “Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:4-5, 7-8).
Ngay sau đó, Ngài lên trời và biến vào trong đám mây, để các môn đệ ngơ ngẩn nhìn theo, mắt chữ O mà miệng chữ A. Chúa Giêsu lên trời là hành động cuối cùng trong công cuộc cứu độ. Sứ vụ của Ngài hoàn tất, Đức Giêsu Kitô được tán dương và vinh quang. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là sự kiện cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại.
Người ta không thể từ chối rằng Ngài đã làm rung động thế giới khi Ngài làm người trên thế gian. Nhưng cuộc đời Ngài đã hình thành lịch sử cả trong thời đại chúng ta. Sự Phục Sinh là minh chứng cuối cùng rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng mà chính Ngài đã tuyên bố.
Nhân chứng sống của chàng trai trẻ Gioan, người luôn kề cận Chúa Giêsu và chứng kiến từ đầu tới cuối, ngay cả khi đứng dưới chân Thập Giá, đã viết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21:24-25).
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ ccci.com)
Xâm lăng Không Tiếng Súng: Trung Quốc Biến Nợ Thành Lãnh Thổ
Trong chiến lược xây dựng đế quốc của Trung Quốc, dựa theo mô hình của Hoa Kỳ là bằng kinh tế và dùng quân sự hậu thuẩn phía sau, nhưng lộ liễu và võ biền hơn, đó là hình ảnh anh thương gia mặc đồ vest tay xách chiếc cập đầy tiền nhưng trên vai có mang khẩu súng, TQ vừa muốn khai thác thị trường và tài nguyên thế giới vừa biến các nước cận biên thành chư hầu. Kế hoạch “Vành Đai và Con Đường” còn gọi là “Con đường tơ lụa của thế kỷ 21” (BRI – Belt Road Initiative), với số tiền tung ra khoảng 1,700 tỷ đôla mỗi năm và 26,000 tỷ đôla tính đến năm 2030 đang biến nợ của các quốc nghèo thành lãnh thổ của Trung Quốc (http://cnb.cx/2tWJJUV
Ở Brunei, TQ đang xây dựng một khu phúc hợp lọc dầu và hóa dầu và một cây cầu nối khu liên hợp với thủ đô Bandar Seri Begawan, trị giá 3.4 tỷ đôla trên đảo Muara Besar, đây là dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất từ trước đến nay ở Brunei. Nhưng đó chỉ là giai đoạn 1 và giai đoạn 2 trị giá khoảng 12 tỷ đôla (http://bit.ly/2tPxlWs).
Ở Sri Lanka, TQ cho vay khoảng 85% để xây cảng Hambantota trị giá 1.3 tỷ đôla, Sri Lanka không đủ sức trả nợ phải cho TQ thuê 99 năm, có nghĩa cảng này bây giờ là nhượng địa của TQ trong một thế kỷ. Hơn nữa, Sri Lanka cũng giao cho TQ vùng đất rộng lớn chung quanh cảng để làm khu Kinh Tế Đặc Quyền (Special Economic Zone), và cựu tổng thống Mahinda Rajapaksa thân TQ đang tái trổi dậy ở chính trường Sri Lanka (http://bit.ly/2FQx9YC).
Ở quần đảo Maldives, một quốc gia đảo quốc nhỏ bé, diện tích chừng 298 km2, tức chỉ bằng 1.7 thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có tổng sản lượng khoảng 7 tỷ đôla/năm và chỉ khoảng 393,000 dân (2017) thì việc TQ chi tiền tỷ đôla dễ dàng mua chuộc đảo quốc này.
Đầu tháng 2/2018 Maldives bị khủng hoảng chính trị mà nguyên nhân sâu xa là chính quyền của tổng thống Abdulla Yameen thân TQ đụng độ với đối lập thân Ấn Độ. Ông Yameen đảo chánh tổng thống dân cử thân Ấn Độ Mohammad Nasheed năm 2013 và ông Nasheed chạy qua Sri Lanka tỵ nạn. Hôm 6/2/18 ông Yameen ra lệnh bắt ông Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện và cựu TT Nasheed và tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Ông Nasheed cầu cứu Ấn Độ can thiệp quân sự. Ấn đã từng can thiệp quân sự vào Maldives năm 1988. Lâu nay Ấn giúp đỡ tài chánh cho Maldives để đổi lấy chính sách “Ấn Độ Trước Tiên” (India First) của Maldives.
TQ dùng Maldives trong chương trình BRI của họ, biến nó thành một vị trí chiến lược qua 2 công trình hàng đầu: Cây cầu từ thủ đô Male đến hòn đảo lân cận, và công trình mở rộng phi trường. Ngoài ra, Maldives cho TQ thuê hòn đảo Feydhoo Finolhu 50 năm để phát triển du lịch và ký hiệp ước tự do mậu dịch với TQ ngày 7/12/17. TQ chiếm 70% nợ quốc gia của Maldives. Hồi tháng 8/2017 TQ mang 3 tàu chiến cập cảng Maldives trong chương trình huấn luyện chung. Tháng 2/2018 trong khi Maldives khủng hoảng chính trị thì TQ cho 11 tàu chiến vào đông Ấn Độ Dương nhằm dằn mặt Ấn Độ không nên can thiệp (http://bit.ly/2FZP5Du).
Cũng như Ski Lanka, Maldives nằm ngay trên đường ra biển lớn của Ấn Độ, cho nên Ấn Độ không thể nào ngồi yên nhìn TQ bao vây. Xét theo địa chiến lược, hai nước này tựa như Cuba nằm ngay yết hầu của Hoa Kỳ, nếu nó tự đứng một mình thì không gây nguy hiểm cho HK, nhưng nếu liên minh quân sự với một cường quốc khác như Liên Sô thời thập niên 1960s trước đây thì HK không dung thứ.
Ở Nepal, ông Khagda Prasad Sharma OLI, Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Nepal nắm quyền trở lại vào tháng 2/2018 sau khi liên minh với lãnh tụ Maoist là Pushpa Kamal DAHAL (biệt danho”Prachanda”) tạo thành cánh tả cực mạnh, ông làm thủ tướng hồi 2015-2016, mà khủng hoảng giữa TQ-Ấn Độ gây ra vụ phong toả vùng biên giới Ấn-Nepal vào tháng 9/2015, khi lực lượng các đảng đối lập Madhesi thân Ấn đụng với ông OLI xảy ra. Ông OLI bây giờ càng thân TQ hơn. TQ đầu tư đường xe lửa nối Hy Mã Lạp Sơn và Nepal cũng như hệ thống thuỷ điện ở nuớc này (http://bit.ly/2tPIJla).
Ở Pakistan, trục Hành Lang Kinh Tế TQ-Pakistan (The China Pakistan Economic Corridor) đi qua vùng Kashmir (phần Pakistan chiếm giữ) cho phép TQ tiếp cận vùng nuớc ấm của cảng Gwadar ở Biển Á Rập. Đầu tư TQ từ 46 tỷ đôla đã tăng thành 60 tỷ và Pakistan không cách gì trả nỗi, cho nên cũng như Sri Lanka, TQ sẽ biến nợ thành lãnh thổ, kiểm soát cảng Gwadar và hành lang đi đến cảng này.
Thượng Viện Pakistan đã thông qua một nghị quyết nói rằng do nhu cầu gia tăng cộng tác giữa TQ và Pakistan để phát triển Hành Lang Kinh Tế China-Pak nên tiếng Mandarin được công nhận là ngôn ngữ “quốc gia” ở Pakistan, các lớp tiếng Tàu được cưỡng bách dạy ở các trường lớp để đào tạo nhân lực. Nghị quyết này khá kỳ cục vì thông thường người của nước đầu tư phải học ngôn ngữ của nước sở tại. Điều này cho thấy TQ không những biến nợ thành lãnh thổ mà còn muốn đồng hoá Pakistan, khống chế văn hoá xứ này (http://bit.ly/2GtUXTl).
Ở Miến Điện, cũng trong kế hoạch BRI, TQ đầu tư khoảng 85% (gần 10 tỷ đôla) vào cảng biển nước sâu chiến lược Kyauk Pyu phía tây bang Rakhine trong vịnh Bengal, làm nơi trung chuyển dầu khí từ Trung Đông bằng đường biển qua đường bộ để tránh qua eo biển cổ chai Malacca. Ngoài ra TQ còn phát triển khu kỹ nghệ và vùng đặc quyền kinh tế ở Rakhine. TQ cũng đầu tư 3.6 tỷ đôla cho đập thuỷ điện Myitsone ở phía bắc Miến Điện gần Vân Nam (http://reut.rs/2FSgnZq).
TQ có quan hệ chặt chẽ với quân đội Miến Điện. Người Rohingya ở phía bắc bang Rakhine bị quân đội Miến Điện đàn áp hầu như đến độ diệt chủng để chiếm đất là nhằm mục đích phục vụ cho TQ trong vấn đề cảng biển BRI. Bà Aung San Suu Kyi tuy trị vì nhưng vô quyền đối với quân đội, bà bị Tây Phương lên án vi phạm nhân quyền.
Ấn Độ đang bị TQ bao vây bằng cách dùng tiền đầu tư để biến thành nợ, và từ nợ biến thành lãnh thổ ở những tiểu quốc ven biên và những đảo quốc ở Ấn Độ Dương.
Cam Bốt và Lào, sườn tây của Việt Nam, cũng đang bị TQ biến nợ thành lảnh thổ. Hai nước này, về địa chiến lược quá quan trọng cho an ninh của VN nên sẽ dành riêng cho một bài viết sau.
Việt Nam nằm ngay thềm cửa phía nam của TQ nên chẳng những không ngoại lệ mà còn thê thảm hơn. Bởi lẽ TQ bị thất thế về địa chính trị, nằm chéo ngoe bên ngoài các đường vận chuyển quốc tế và trong 4 mặt đông-tây-nam-bắc thì có đến 3 mặt bị thất thế: phía bắc là Mông Cổ và Siberia là những vùng khô cằn hay băng giá, ít dân, kinh tế gần như không có gì, phía tây là sa mạc và các quốc gia nghèo có đuôi -stan, phía đông là Thái Bình Dương mà Nhật và Đại Hàn đã án ngữ. Chỉ còn phía nam là đường tiến về một Đông Nam Á đông dân, trù phú, tấp nập các sinh hoạt kinh tế. Nhưng muốn tiến về vùng này thì đường bộ hay đường thuỷ đều phải bước qua ngưỡng cửa Việt Nam. Cho nên VN là cái gai phải nhổ, phải khống chế của TQ.
Thế là TQ chẳng những muốn biến nợ thành lãnh thổ mà còn muốn đồng hoá về văn hoá và diệt chủng về môi trường hay thực phẩm.
Formosa Vũng Áng với 70 năm nhượng địa, TQ thuê đất rừng đầu nguồn ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum, Bình Dương… 50 năm, những cơ sở đầu tư của Trung Quốc ở thành phố địa đầu Móng Cái-Quảng Ninh được TQ thuê 50 năm…
Mối hiểm nguy của VN, ngoài việc cho thuê đất 50-70 năm ở các vùng an ninh chiến lược, còn là sự mất thăng bằng quá to về mậu dịch với TQ và nó cứ chất chồng từ năm này qua năm khác, tích luỹ thành nợ khổng lồ, không cách gì trả được, đưa đến việc có thể biến nợ thành lãnh thổ cho TQ, thí dụ như năm 2015 thâm hụt là 32 tỷ đôla (http://bit.ly/2FSnbpB).
Chính trị với hai đảng cộng sản đàn anh và đàn em là đã lệ thuộc, kinh tế với thâm hụt mậu dịch và nợ đầu tư không trả được là đã lệ thuộc, quân sự với quân đội tuyệt đối trung thành với đảng và đảng lệ thuộc đảng nên quân sự không bảo vệ được biên cương, cũng vậy an ninh với công an lệ thuộc đảng nên công an không bảo vệ được an sinh của dân chúng trước sự xâm thực của thực dân mới.
Trong khi TQ biến nợ thành lãnh thổ ở các nơi khác thì thê thảm hơn, họ có thể biến nợ thành con đường mòn tiến nam Tập Cẩn Bình của TQ ở Việt Nam!
Lê Minh Nguyên
17/3/2018
From: KimBằngNguyễn gởi
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B
Phanxicô Xaviê
Chuyện “Nghìn lẻ một đêm” của người Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau :
Có hai người anh em ruột nọ bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng thế răng. Kẻ sát nhân dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã qui định… Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết :”Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế cho hắn”.
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố :”Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói : chữ tín không còn trên mặt đất này nữa”.
Sau lời phát biểu của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố :”Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, vì tôi không muốn để cho người ta nói : lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì cao quí nhất trong lòng người. Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa :”Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không nói : lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.
Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nắng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, một xã hội mà những giá trị tinh thần bị bóp nghẹt và đạo đức thì suy đồi, chứng từ của người Kitô hữu cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chơi vơi đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ… Người Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói : Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và con người vẫn có thể yêu thương nhau. Cả ba bài đọc Thánh kinh cùng với đáp ca của Chúa nhật XXIV thường niên như đan quyện vào nhau, sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào cung lòng yêu thương từ đời đời của Thiên Chúa đã sớm dành cho nhân loại.
Thiên Chúa đã xót thương Israel tội lỗi và tha thứ cho họ. Người đã đoái thương Phaolô khi biến đổi một con người hung hăng lùng bắt các tín hữu trở nên vị Tông đồ nhiệt tâm của Tin mừng cứu độ. Và Đức Giêsu trong bài Tin mừng không những cho chúng ta thấy Người đã xuống thế để đi tìm các chiên lạc là loài người tội lỗi, mà còn khẳng định điều đó biểu lộ lòng thương xót của chính Thiên Chúa.
Khởi đầu, bài Xuất hành (32,7-11.13-14) thuật lại một câu truyện thời Môsê : Bấy giờ ông đã ở trên núi Sinai lâu ngày với Thiên Chúa. Dân chúng ở dưới sốt ruột. Họ xin Aharôn đúc cho họ một tượng thần là con bò vàng, để họ có một tôn giáo như mọi dân tộc khác. Tâm lý của loài người ở cách chúng ta trên dưới ba ngàn năm, khó giữ vững được tinh thần trong một tôn giáo không có hình tượng nào cả. Mọi dân chung quanh đều có thần tượng của họ. Vì sao con cái Israel lại không có tượng để thờ ? Do đó, việc xin Aharôn đúc cho họ một tượng, chẳng qua cũng vì yếu đuối… nhưng vẫn là một xúc phạm tới Thiên Chúa và là một bội phản Giao ước. Thiên Chúa đã buộc họ không được đồng hóa, hình dung Người dưới bất cứ biểu tượng nào, vì Người là Đấng Thánh, tức là Đấng khác hẳn mọi sự hữu hình. Việc này làm Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và muốn giáng phạt dân nổi loạn. Nhưng nhờ lời van xin của Môsê, Người đã quên tội lỗi của dân và không giáng phạt nữa. Thiên Chúa đã tha thứ cho họ.
Thiên Chúa luôn yêu thương muốn cứu độ tất cả mọi người, Chúa Giêsu qua các dụ ngôn trong bài Tin mừng Lc 15,1-32 đã nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài yêu thương cứu độ từng người, chủ động tìm kiếm và vui mừng khi một người tội lỗi quay trở về. Các dụ ngôn đều nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa : người mục tử đi tìm con chiên lạc, người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị mất và người cha nhân hậu chờ đón, vui mừng tha thứ cho người con hoang đàng quay trở về. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là người mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc cho từng con người. Mỗi người trước mặt Chúa cho dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn luôn được hưởng trọn tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha đã sai Chúa Con đến tìm kiếm và cứu vớt tất cả nhân loại tội lỗi. Lòng thương xót được thể hiện khi không trách phạt mà lại yêu thương cứu độ những con người luôn quay lưng phản bội Ngài.
Kết thúc của các dụ ngôn là kết thúc vui mừng. Người mục tử vui vẻ vác con chiên lạc trên vai khi tìm thấy, người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu tràn đầy sung sướng khi người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi ăn năn trở lại. Thánh Phaolô qua cuộc đời của mình đã minh chứng điều ấy. Nếu Thiên Chúa không thương xót ông, thì suốt đời Phaolô sẽ là Saul, một kẻ thông thái nhưng chẳng hiểu biết Chúa và do đó cũng chẳng hiểu biết anh em, nên đã lùng bắt sát hại đồng bào của mình. Saul đã xử sự như vậy vì không biết. Ông không biết Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, mà cứ nghĩ là đấng hay thưởng phạt. Nhưng Saul cũng đã nhận được lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ cho Phaolô mà còn trao phó cho ông sứ mạng công bố lòng thương xót của Thiên Chúa cho muôn dân.
Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc tha thứ, mà còn phải chủ động tìm kiếm và vui mừng thực sự khi một người anh em trở về.
TIN VÀ YÊU
Niềm tin vừa là hồng ân nhưng cũng vừa là sự dấn thân của bản thân. Niềm tin có điểm xuất phát từ tình yêu và cũng từ niềm tin để dấn thân trong tình yêu. Hai khía cạnh tin và yêu cùng hòa nhịp với nhau để mỗi ngày thêm xác tín hơn.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và Toma, chính Toma đã xác tín niềm tin của mình bằng một tình yêu mãnh liệt: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).
Tin là một sự dấn thân.
Cuộc đời người môn đệ từ ba năm trước, khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai. Chúa đã gọi các ông từ nơi đang làm việc, họ bỏ mọi sự để đi theo Người. Điểm hẹn đầu tiên của người môn đệ với Thầy luôn là một nơi ghi dấu ấn tượng đầu đời của dấn thân. Như đôi bạn đầu tiên gặp nhau một nơi điểm hẹn, rồi lần lượt thời gian nhắc lại điểm hẹn đầu tiên ấy, sống lại kỷ niệm của thưở đầu quen nhau, yêu nhau. Ký ức ấy sống động cùng tình yêu. Chúa Giêsu cũng hẹn các môn đệ nơi gặp gỡ sau Phục Sinh ở nơi điểm hẹn đầu tiên của ba năm về trước ở Galilê. Từ điểm hẹn đầu tiên, người ta có thể trắc nghiệm về lòng tin vào nhau. Người ấy có đúng hẹn không, người ấy có biết và nhớ sở thích của mình không? Những quan tâm đầu tiên đến nhau đủ mạnh để xây dựng niềm tin không? Tất cả những điều ấy sẽ dẫn tới một quyết định, dấn thân, sống cùng nhau, chia sẻ cuộc đời với nhau. Đó là một tình yêu đủ mạnh để tin vào người mình yêu để dấn thân vào chặng đường mới.
Chân thành về khiếm khuyết.
Tin là một tín thác, chân thành nói về khiếm khuyết cũng như thiếu sót của mình. Toma không ngần ngại nói về sự thiếu lòng tin của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin” (Ga 20, 25). Là một tình yêu thật sự, điều thiếu sót của bạn sẽ được lắng nghe chân tình, và còn được chia sẻ lại về những vấp váp của người kia. Tình yêu là thật thà, là sẻ chia những vui buồn, những vấp ngã và cả những thành công để thêm niềm tin vào nhau.
Gặp gỡ và đối thoại.
Gặp gỡ nhau thường xuyên là một điều nói lên tình yêu hướng về nhau. Tình yêu có thể làm mờ đi tiếng nói của lý trí; thế nên, lý trí đòi hỏi trong tình yêu luôn luôn cần có một sự thức tỉnh qua đối thoại. Đời sống tin yêu của các môn đệ cũng qua chặng đường ấy. Sự kiện hai môn đệ trên đường Emmau, họ nghe và thuật lại câu chuyện về Chúa Giêsu, chết, an táng, rồi sống lại, một cách nghi ngờ. Chúa Giêsu giải thích cho họ về Kinh Thánh, rồi bẻ bánh là một trong những điều Chúa Giêsu làm trườc khi tử nạn. Họ nhận ra Người.
Tình yêu đủ lớn nhưng khối óc cũng cần đủ lớn để hiểu biết lẫn nhau, nhận ra nhau từ trái tim chân thành và lý trí lành mạnh. Tin không bị lừa, yêu không gặp dối.
Tin yêu là một dấn thân liên tục.
Niềm tin không đủ lớn một lần cho tất cả và yêu cũng không đủ một lần cho trọn vẹn. Tin luôn luôn là một đòi hỏi thực hiện lời hứa một cách trung tín. Cam kết đi trong tình yêu để xây dựng niềm tin, đó là một tình yêu đã đi đến kết ước vĩnh viễn. Niềm tin trao cho nhau để không phải là nắm giữ tim nhau, nhưng là để sống trong niềm vui của nhau. Đi bên nhau mà không nghi kỵ nhau, sống bên nhau mà không kiểm soát lẫn nhau, nói với nhau mà không giả dối nhau…
Với các môn đệ một khi đã tin vào Chúa là dám sống chết cho điều mình tin, trở nên nhân chứng cho điều mình tin.
Tin yêu là một đòi hỏi không ngừng dấn thân. Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện: Yêu mến Chúa hơn để trọn niềm tin vào Chúa hơn, thêm niềm tin vào Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn qua những năm tháng đời sống, chúng con nên chứng nhân Phục Sinh của Người.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
****************************** *********
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen!
From Langthangchieutim
Ba giá trị làm nên nước Mỹ
Mỗi quốc gia trên thế giới đều đặc biệt ở khía cạnh nào đó, có thể là về văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ hay địa lý. Nhưng điều làm nên sự thành công độc đáo của nước Mỹ mà cả thế giới ngưỡng mộ là hệ thống giá trị của họ.
Nếu sống ở Mỹ bạn có lẽ quen thuộc với các đồng xu kim loại. Nhưng một điều có lẽ khiến bạn ngạc nhiên rằng hệ thống 3 giá trị xây dựng lên một xã hội Hoa Kỳ tự do, cởi mở và giàu có nhất thế giới đều được in trọn trên những đồng xu nhỏ bé này.
3 giá trị làm nên nước Mỹ là:
E Pluribus Unum: từ rất nhiều, một; có nghĩa là người Mỹ không quan tâm đến việc bạn đến từ đâu, không quan tâm đến dòng máu đang chảy trong người bạn là gì, nguồn gốc sắc tộc, tôn giáo của bạn của bạn như thế nào. Miễn là bạn tới Mỹ (một cách hợp pháp) và sẵn sàng làm việc để làm cho cuộc sống của bạn và những người xung quanh trở nên tốt đẹp hơn thì bạn được coi là người Mỹ, là một thành viên chính thức và trọn vẹn trong xã hội.
Nước Mỹ là một quốc gia trẻ hình thành bởi dân nhập cư, và bây giờ vẫn vậy. Một điểm khác biệt so với các quốc gia Châu Âu, Á và Úc là người nhập cư vào Mỹ hoà nhập rất nhanh vào các cộng đồng dân cư ở Mỹ và sự kỳ thị đối với những người mới đến là rất ít nếu so với các quốc gia khác. Chẳng hạn nếu bạn là người Thổ Nhĩ Kỳ và tới Đức nhập quốc tịch, bạn sẽ được coi là người Thổ sống ở Đức trong rất nhiều thế hệ, còn nếu bạn tới Mỹ mà sẵn sàng hoà nhập vào cộng đồng, chỉ trong vài tuần không ai sẽ có cái nhìn khác biệt về bạn. Đó chính là sự độc đáo của nước Mỹ, một quốc gia nhập cư.
Chúng ta tin vào Chúa : nghĩa là nước Mỹ thành lập trên niềm tin rằng Chúa là nguồn gốc của mọi giá trị trên đời. Đó chính là lý do tại sao trong Tuyên ngôn độc lập, các vị Quốc phụ công thần tuyên bố “chúng ta có quyền không ai có thể tước đoạt được”. Tại sao không ai có thể tước đoạt được? Vì những quyền này không đến từ con người, chúng được trao cho con người từ Chúa trời, do đó không thể bị con người tước đoạt. Chúa đã, đang là trung tâm của xã hội Mỹ.
Thứ 3, là Tự do . Tất nhiên sẽ có người nói: “Trong cuộc Cách mạng Pháp, họ cũng tuyên ngôn Tự do, Bình đẳng, Bác ái, thì sao? Người Mỹ đâu phải là quốc gia duy nhất tôn trọng Tự do”. Đúng là như vậy, còn rất nhiều xã hội phương Tây và phương Đông tiến bộ hiện cũng rất tôn trọng quyền Tự
do, nhưng Mỹ là xã hội duy nhất đặt Tự Do cùng với ‘Chúng ta tin vào Chúa’ và E Pluribis Unum. Tự do ở Mỹ khác với Tự do mà người Pháp hiểu trong cuộc cách mạng – họ nhấn mạnh vào Công bằng. Công bằng không phải là một giá trị của người Mỹ, nó là giá trị của Châu Âu. Vì nếu đặt công bằng lên trước tự do, thì chắc chắn tự do cá nhân sẽ bị nhỏ lại. Người Mỹ yêu thích tự do đến mức bị ám ảnh bởi việc tự quyết định vận mạng của mình.
Vậy ở Mỹ không có công bằng sao? Không phải vậy, công bằng ở điểm khởi đầu là giá trị ở Mỹ, nhưng đòi hỏi công bằng ở kết quả là giá trị Châu Âu. Ở Mỹ, bạn có thể học bất cứ thứ gì bạn thích, khởi nghiệp kinh doanh hay làm chính trị, nhưng kết quả cuối cùng là do nỗ lực, tài năng và may mắn của bạn.
Ở một số nước Châu Âu, chẳng hạn Đức, đến cả việc bạn mở cửa hàng sớm hơn cửa hàng đối diện một chút cũng không được, vì như thế sẽ không công bằng với ông chủ cửa hàng kia. Người Châu Âu bị ám ảnh bởi công bằng đến như vậy.
Cố Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge vào những năm 1920 đã nói “Công việc của nước Mỹ là làm ăn kinh doanh”. Tự do ở Mỹ cho phép bạn đạt được mọi thứ mà bạn xứng đáng có được với công sức, tài năng và cả may mắn nữa. Người Mỹ không tin vào công bằng như người Châu Âu, bởi vì tự do và công bằng là có mâu thuẫn. Nếu bạn cưỡng ép công bằng lên người khác thì chính là đã tước đoạt tự do khỏi họ.
Chính vì vậy, E Pluribus Unum (từ rất nhiều, một), In God we trust (Chúng ta tin vào Chúa) và Liberty (Tự do) là 3 giá trị khiến nước Mỹ khác biệt, giúp Mỹ trở thành một xã hội tự do, cởi mở, giàu có và nhiều cơ hội nhất trong lịch sử hiện đại của nhân loại.
Trọng Đức
XÉT XỬ HỘI ANH EM DÂN CHỦ
Hôm nay ngày 5-4-2018 toà án HN đưa 6 người trong Hội Anh Em Dân Chủ ra xét xử.
1- LS Nguyễn Văn Đài
2- Ký giả Trương Minh Đức
3- Nhà hđ Nguyễn Bắc Truyển
4- Mục sư Nguyễn Trung Tôn
5- Kỹ sư Phạm Văn Trội
6- Thư ký Lê Thu Hà
Được biết các đại sứ và truyền thông quốc tế xin được tham dự phiên toà “công khai” này đều bị từ chối tham dự hoặc không được ngồi trực tiếp tại toà vì lý do an ninh.
Một số nhà hoạt động tham dự phiên toà bên ngoài bị bắt khá đông. 5 bà vợ và một người mẹ cuối cùng đã được cho vô toà nghe xử chồng và con mình.
Các luật sư bào chữa gồm: Nguyễn Văn Miềng, Lê Văn Luân, Đoàn Duyên Hải, Ngô Anh Tuấn and Trịnh Vĩnh Phúc.
Các nhà hoạt động tại Sài Gòn và một số nơi bị an ninh đến canh tại gia từ hôm qua.
Tuy nhiên TTXVN có bài về phiên toà này không im lặng như các phiên toà chính trị khác trước giờ, đã có những tấm hình về phiên toà này. Nhưng luận điệu vẫn là “ chống phá nhà nước” với những chứng cứ mơ hồ suy đoán. Trong khi những người này chỉ làm những việc mà Hiến Pháp Việt Nam điều 25 ghi rõ: Mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận và thông tin.
* Do cải cách tư pháp, bắt đầu từ năm 2018 các bị cáo không đứng sau vành móng ngựa. Bắt đầu từ vụ án Đinh La Thăng đã áp dụng.
Sương Quỳnh
Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.
Khuôn mặt của các anh tự tại, đanh thép, hiên ngang và bất khuất. Hai vị thiếu tá công an tỏ vẻ mệt mỏi, suy nghĩ, chán trường.
Tấm hình là sự phản chiếu rõ nét giữa cái thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa công lý và tội ác. Những người bị xét xử là những người đang nắm giữ chính nghĩa, công lý và sự thiện, những kẻ nhân danh Pháp luật để xét xử người yêu nước lại là kẻ thuộc về cái ác, bất nghĩa.
Yêu mến các anh chị trong HAEDC, hôm nay là ngày các anh chịu nạn để phục hồi sức sống cho cả dân tộc Việt Nam.
CHO GIẶC MƯỢN ĐƯỜNG
— by Đỗ Ngà
Năm 1127, người Kim đánh Tống, Tống thua nên phải bỏ phía bắc Trung Hoa và lùi về co cụm phía nam sông Dương Tử. Nhà tống mất nửa phía bắc nên người ta hay gọi triều đại này là nam Tống. Đến năm 1234 quân Mông Cổ tiêu diệt nhà Kim chiếm bắc Trung Hoa. Đến năm 1253, quân Mông Cổ lại muốn đánh luôn nam Tống để thâu tóm toàn bộ Trung Hoa. Đại Hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha đã lên kế hoạch, rằng phải chiếm lấy nước Đại Lý phía tây, tiếp theo chiếm Đại Việt phía nam. Khi thôn tính xong Lý – Việt thì xem như nhà Tống lọt vào thế bao vây của quân Mông Cổ. Cuối cùng là tiêu diệt nam Tống để chiếm hoàn toàn Trung Hoa rộng lớn và làm cỏ luôn 2 nước nhỏ Lý- Việt.
Năm 1254 với lý do mượn đường diệt Tống. Mông Kha đã tiêu diệt Đại Lý phía tây. Sau khi diệt Đại Lý xong, Mông Kha nhiều lần phái sứ giả sang yêu cầu vua Trần “cho mượn đường” để quân Mông đi vòng lên đánh nam Tống. Tất nhiên vua Trần cự tuyệt vì biết chắc cho quân Mông mượn đường sẽ mất nước. Và kết quả, năm 1258 quân Nguyên tiến đánh Đại Việt lần thứ nhất. Nhà Trần phải chiến đấu với bao hy sinh mất mát mới đẩy lùi được quân Mông Cổ hung hãn. Sau đó quân Mông 2 lần nữa tiến đánh Đại Việt nhưng đều bị nhà Trần đẩy lùi. Và nước Đại Việt được cứu thoát khỏi họa diệt vong.
Không biết khi đó vua của nước Đại Lý có cho Mông Kha mượn đường hay không? Có thể họ cho quân Mông mượn đường rồi mất nước mà cũng có thể Đại Lý đã chiến bại. Nhưng nếu nhà Trần cho quân Mông mượn đường thì chắc chắn đất nước Việt Nam đã bị xóa sổ như Đại Lý rồi. Đấy là sự sáng suốt của cha ông ta đã bảo vệ được đất nước. Lịch sử đã dạy, Không cho giặc mượn đường dù bất cứ lí do gì. Nếu năm đó vua Trần gật đầu thì nay chúng ta đã không hiện diện trên đời này.
Xa xưa, vào thế kỷ thứ 7 trước CN, thời Xuân Thu, nước Ngu cho nước Tấn mượn đường để diệt nước Quắc. Kết quả, sau khi diệt Quắc xong, Tấn diệt luôn Ngu. Gian kế này được Tôn Tử đưa vào làm 1 trong 36 kế của cuốn Binh Pháp nổi tiếng của ông. Và như ta biết, cuốn binh pháp này được người Tàu, đặc biệt là những trùm quyền lực ở Bắc Kinh sử dụng đầy biến hoá. Bài học nước Ngu và Đại Lý còn đó. Trước đây nhà Trần đã hành động đúng, nhưng ngày nay CS đang làm ngược lại. Rất nguy hiểm.
Hôm nay, tại Quảng Ninh, lửa thiêu cháy nhà máy sợi Texhong Ngân Long. Nhiều xe PCCC của TP Đông Hưng (Trung Quốc) được huy động tới KCN Hải Yên chữa cháy. Thế là hàng đoàn xe đặc chủng từ bên kia biên giới kéo vào nước ta như chốn không người. Thế là một bằng chứng rõ nét rằng, đường biên giới đã được mở toang. Đoàn xe cứu hoả sẽ là một tiền trạm cho thử nghiệm cho xe đặc chủng khác thì sao? Tại sao mở cửa cho xe đặc chủng Trung Cộng vào tự do? Tại sao “nhờ” phía Trung Cộng chữa lửa? Vậy chữa lửa Việt Nam đâu? Chả nhẽ từ xưa đến giờ các tỉnh biên giới không có vụ cháy lớn nào à? Mà nếu lúc trước có cháy lớn thì sao PCCC Việt Nam chữa, nhưng hôm nay tại sao để xe Trung Cộng vào đây? Nếu mai kia xe cứu hoả chứa súng đạn và quân lính trong đó thì sao? Chẳng phải “tàu đánh cá” Trung Cộng cũng trang bị đủ thứ vũ khí trên biển Đông đấy sao? Và rất nhiều cái “tại sao” nữa cần phải có câu trả lời thỏa đáng.
Nhìn lại khắp lãnh thổ Việt Nam xem? Người Trung Quốc tràn ngập. Tại Nha Trang và Đà Nẵng là nơi người Tàu dày đặc. Tại Quảng Ninh và Lào Cai đoàn xe của Tàu tấp nập nhập cảnh vào không cần visa. Khắp nơi hình thành các khu dân cư của Tàu nổi lên như những vết đốm trên da con báo. Thêm nữa, bên này biên giới và bên kia biên giới, quân đội và công an 2 nước được mặt chung một bộ đồng phục. Sự giống nhau ở quân phục là có ý gì? 2 đội bóng trên sân không thể mặc chung một màu áo. Và quân đội 2 nước cũng không thể mặc chung bộ đồng phục được. Quân phục giống hệt nhau để làm gì? Là để đánh lừa nhân dân Việt Nam hay để chuẩn bị cho kế hoạch sáp nhập? Thế đấy! Những hiện tượng rất bất thường và mức độ ngày một đáng ngại.
Cả sử ta và sử Tàu đã được dọn lên mâm cho chúng ta chọn. Một món tồn tại và món diệt vong, nhưng CS đang chọn món diệt vong của vua Ngu. Tất cả quan chức CS đều có chỗ ở xứ “tư bản giãy chết” nếu có biến cố. Còn chúng ta? Chạy đi đâu? Nếu cứ mãi ù lì né tránh chính trị thì số phận nước Việt sẽ bị khai tử, đó là con đường rất rõ ràng khó tránh khỏi.