Kim Jong-un và Hội nghị Thượng đỉnh Nam – Bắc Triều Tiên.

 
 
 
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit
Image may contain: 4 people, people smiling, people standing
Image may contain: 2 people, people sitting and outdoor
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
+2

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and 4 others.

Việc trong nước viết không hết, nhưng cũng xin góp chút xíu quan điểm về việc nhà cai trị tối cao của cộng sản Triều Tiên – kể từ năm 1953 – lần đầu tiên bước chân qua vĩ tuyến 38.

Hôm nay 27/4/2018, nhiều hình ảnh “thân thiện”, những cái bắt tay “nồng ấm”, những nụ cười “cởi mở”, những lời nói “chân thành” vang lên ở làng Hòa bình Bàn Môn Điếm trong một khu phi quân sự Hàn quốc – Triều Tiên.

Báo chí cả thế giới lên tiếng chúc mừng và ca ngợi.

Tôi cảm thấy rất vui và sung sướng cho một cơ hội hòa bình cho đất nước Nam-Bắc Triều Tiên (!?).

Tự thưởng cho mình một niềm vui êm ái, giơ bàn tay nhỏ vuốt mái tóc sau gáy, tôi bổng giật mình kinh hoàng cho sự “ăn mừng” quá sớm của cả thế giới.

Thông báo chung: Chỉ toàn là những lời HỨA HẸN và SẼ GIẢI TRỪ, mà – chúng ta – ai cũng biết: Cộng sản hứa hẹn thì cũng như nước đổ lá môn.

Một nguồn tin ngoại giao riêng, báo chí Nhật cho biết: Trong chuyến gặp gỡ với Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, Kim Jong Un đã tuyên bố Bắc Hàn có thể cân nhắc xem xét việc từ bỏ vũ khí hạt nhân, với điều kiện Hoa Kỳ chấp thuận 3 yêu cầu sau:

1- Hoa Kỳ giúp Kim Jong Un bảo vệ chế độ cộng sản hiện tại, bảo vệ vị trí lãnh đạo hiện tại của cộng sản Bắc Triều Tiên.
2- Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Hàn và bán đảo Triều Tiên.
3- Hoa Kỳ bỏ cấm vận và viện trợ cho Bắc Hàn cũng như ký kết các hiệp định thương mại song phương.

Điều này cho thấy Kim Jong-Un – Chủ tịch Bắc Triều Tiên – chỉ muốn duy trì chế độ độc tài và bảo vệ ngôi vi lãnh tụ độc tôn của mình. Kim Jong-Un – một tên cai trị tàn ác – không hề có thiện chí hòa bình hay tấm lòng vì sự thống nhất đất nước, dân tộc dân chủ, tự do cho đất nước bán đảo Triều Tiên !

Chẳng có gì bảo đảm là vài năm sau Kim Jong-Un – Chủ tịch Bắc Triều Tiên – lại không lật lọng ra lệnh cả nước chuẩn bị chiến tranh, tiếp tục khôi phục và thử nghiệm hạt nhân.

Kim Jong-Un đã từng 2 lần không giữ lời cam kết, lật lọng chữ ký của chính mình. Nếu thêm một (hay vài lần lật lọng nữa) thì cả thế giới cũng chỉ biết bản chất nó là cộng sản, tự trách mình chứ không làm gì được tên cộng sản độc tài và man rợ !

Tên cộng sản Kim Jong-Un mặt dày, cộng sản nói chung, tất cả bọn chúng đều quen thói dối trá, không có lòng tự trọng ! Người cộng sản luôn sẵn sàng nói láo, lừa bịp, lật lọng mà không một chút ngại ngùng !

Xin ghi lại vài lời nhắc nhở của của những người cộng sản đã từng nắm giữ các cấp lãnh đạo tối cao:

*Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên xô Mr. Gorbachev: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”

*Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin: ” Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.”

*Tổng thống Nga Putin: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim“.

Phan Thị Hồng

Quốc Hận!

 
 
 
Image may contain: water and nature

Van Pham

Quốc Hận!

Nước đã mất, nhà đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu dấu.

Trên đường trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những người vượt thoát bằng đường bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít người đã chết đói vì lạc đường, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng (tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.

Thảm cảnh đó đã làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT PEOPLE” (Thuyền Nhân).

Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.
Cái hận đã mất nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ đấy, chúng ta, những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.

Không có từ ngữ nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.

Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi người nhớ đến nó một cách khác nhau.

Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bi kềm hãm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm muớn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày lẫn đêm, bằng những lời chửi bới,hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất thế.

Những người tù lương tâm đó là ai?

Họ là những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cường, có phần trội hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan.

Họ là những nhà tư bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.

Họ là những người trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.

Những người tù lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân” (sic).

Ngoài những người đã bị bắt đi tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng bị đày đọa không kém. Họ đa bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.

Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vuờn đó, được thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.

Tóm lại, sau khi bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhuợng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.

Tình cảnh của người dân Việt Nam hiện nay, năm 2018, đã qua 43 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian manh hơn, ác độc hơn.

Đã là người Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc, giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của mình.

Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tưởng niệm đến quê hương đã mất đi, tưởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tưởng nhớ đến những người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đường đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.

Nhìn cái hình đủ các quan văn võ hai Miền Triều Tiên hôm nay tôi bật khóc.

Thái Hòa Lê shared a post.

Vn không có cha già dân tộc thì đã sánh vai với Nam Hàn rồi!

 
Image may contain: 17 people, including Minh Le, people smiling, people standing, suit and wedding

Nguyễn Tấn ThànhFollow

Nhìn cái hình đủ các quan văn võ hai Miền Triều Tiên hôm nay tôi bật khóc.

Nó làm cho tôi liên tưởng tới hai Miền Việt tưởng như cùng cảnh ngộ, bởi hai dân tộc bị chia đôi sau Thế chiến 2.

Tôi khóc vì nước Việt không may mắn để có thằng trẻ con như Ủn lãnh đạo, mà lại là một cha già lãnh đạo, để rồi đem súng đạn Nga, Tàu về tàn phá dân tộc Việt này.

Đau hơn khi rất nhiều người dân Việt còn nghĩ cha già dân tộc đó là có công lớn lắm mà không biết đích thị là nhận lương Quốc tế cộng sản, đem súng đạn về điêu linh nước Việt.  

Cái bắt tay lịch sử của hai nhà lãnh đạo Nam Bắc Triều

Hoa Kim Ngo shared a post.
 
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
Image may contain: 1 person, standing

Lê Công ĐịnhFollow

Cái bắt tay lịch sử của hai nhà lãnh đạo Nam Bắc Triều khiến hàng triệu gia đình người Việt thêm đau lòng vì chúng ta đã phải tổn thất sinh mạng quá lớn mới chấm dứt được một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vào năm 1975. Đó là một sai lầm khó tha thứ.

Tuy vậy lịch sử không có chữ NẾU. Cách đối diện với sai lầm quá khứ hay nhất là hành động khôn ngoan ở hiện tại nhờ vào các bài học lịch sử trong và ngoài nước.

Vì vậy, nhà cầm quyền và đảng cầm quyền ở Việt Nam ngày nay nên nhìn vào Nam Bắc Triều ngõ hầu sớm hòa giải với đồng bào bất đồng chính kiến của mình, lắng nghe và làm việc với họ, để cùng mở ra một trang sử mới cho quốc gia, thay vì mở thêm cổng nhà tù cho đồng bào mình hôm nay và cho chính mình ngày mai.

Một vài trích dẫn phát biểu của Lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong Un và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in trong phiên hội đàm buổi sáng ngày 27 tháng 4:

Hoang Le Thanh and 2 others shared a post.
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit

VOA Tiếng Việt

Một vài trích dẫn phát biểu của Lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong Un và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in trong phiên hội đàm buổi sáng ngày 27 tháng 4:

(Trong lúc cùng nhau duyệt binh danh dự của Hàn Quốc)

Ông Moon: “Tôi có thể cho ông xem những cảnh tượng đẹp hơn thế này nhiều nếu ông tới Dinh Ngói Xanh (dinh tổng thống Hàn Quốc).”

Ông Kim: “Vậy hả? Tôi sẽ tới Dinh Ngói Xanh bất cứ khi nào ông mời tôi.”

Ông Moon: “Tôi chưa bao giờ tới thăm Núi Paektu (ở Triều Tiên)…Tôi rất muốn đến thăm.”

Ông Kim: “Thật tình tôi lo là hệ thống vận tải của chúng tôi tệ lắm, có thể làm ông khó chịu… Tôi sẽ mất mặt nếu ông tới thăm Triều Tiên sau khi sống trong môi trường của Hàn Quốc.”

Ông Kim nói đùa với ông Moon về những vụ phóng phi đạn vào sáng sớm của Triều Tiên:

“Tôi nghe nói ông mất ngủ nhiều lần vào sáng sớm bởi vì ông phải dự các cuộc họp hội đồng an ninh quốc gia vì chúng tôi…Tôi sẽ bảo đảm giấc ngủ buổi sáng của ông không bị quấy nhiễu nữa.”

(Trong hình, ông Kim và ông Moon đứng cho báo giới chụp hình bên trong Nhà Hòa bình tại làng biên giới Panmunjom trong Khu Phi quân sự

Lời Chúa

 Phúc Âm: 1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.

2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.

3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.

4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? “

6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”

30 Tháng Tư ‘cho ta sáng mắt, sáng lòng’

30 Tháng Tư ‘cho ta sáng mắt, sáng lòng’

Tạp ghi Huy Phương

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 chia đôi hai miền Nam-Bắc. (Hình: Wikipedia)

Từ sau ngày Hiệp Định Geneve năm 1954 lấy sông Bến Hải làm ranh giới chia cắt hai miền Nam Bắc Việt Nam, cả hai phe Quốc-Cộng đều tranh thủ nhân tâm đồng bào, lấy thông tin tuyên truyền làm vũ khí hàng đầu để tố cáo tội ác và nêu lên sự đau khổ lầm than của đồng bào bên kia giới tuyến.

Minh chứng sự tốt đẹp của việc “đất lành chim đậu,”thực tế là trong thời gian 30 năm chia cắt, chỉ thấy người miền Bắc vượt vĩ tuyến 17 vào Nam, chứ không thấy ai ở miền Nam ra miền Bắc tìm tự do.

Sau ngày 30 tháng 4-1975, nhờ thông thương đi lại, nhờ mắt thấy tai nghe, người Việt Nam của cả hai phe, đã thấy rõ sự tuyên truyền, tố cáo của chế độ bên này đối với phía kia là đúng hay sai.

Sự tuyên truyền và những thông tin của miền Nam đưa ra chưa thấm vào đâu so với sự thật tàn tệ và thảm cảnh của đồng bào miền Bắc. Sau này, chuyện đấu tố trong đợt cải cách ruộng đất năm 1949 còn kinh hoàng gấp trăm lần những gì miền Nam đã biết qua các tác phẩm của các nhân chứng miền Bắc được viết sau ngày “thống nhất” như “ Ngày Long Trời, Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân, “Une Voix dans La Nuit” (Tiếng vọng trong đêm,) của Hoàng Văn Chí – Mạc Định, “Chuyện Làng Ngày Ấy” của Võ Văn Trực và rải rác hầu hết trong các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Đĩnh… mà khả năng của người viết không đếm hết.

Một cuốn phim “Tố Cộng” của miền Nam như “Chúng Tôi Muốn Sống” không nói đủ 1/10 sự thật. Sau này, trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, nhà văn Dương Thu Hương đã kể: “Tôi còn nhớ lúc xảy ra chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, ngay trước cửa nhà tôi là một người bị chết treo và lúc 8 tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến các cuộc đấu tố địa chủ. Sau lưng nhà tôi, ngay đường xe hỏa, một người khác bị vu là địa chủ nên tự tử bằng cách đặt cổ vào đường ray cho xe lửa cán chết.”

Về chuyện đói nghèo của dân miền Bắc, dù giàu tưởng tượng, tôi không bao giờ nghĩ ra được cái cảnh đói của ngay gia đình của chị ruột tôi ở vùng Đức Thọ, Nghệ Tĩnh. Chị tôi đi lấy chồng trước năm 1954, sau này làm hộ sinh nông thôn, đi đỡ đẻ về, đói quá, có lần bị té xỉu dọc đường. Anh rể có thời gian làm Trưởng Ty Thương Binh- Xã Hội tỉnh Quảng Bình, sau về làm ở Ủy Ban Nhân Dân huyện Đức Thọ. Trong bốn năm chị tôi mất ba đứa con trong thời gian chỉ có vài tháng tuổi, vì mẹ thiếu ăn, không có sữa, nhà nhiều lúc phải ăn lá bí ngô nấu với sắn mốc qua ngày.

Ở miền Bắc, chế độ Cộng Sản tuyên truyền nói xấu miền Nam thì quá cường điệu, lếu láo, không có nổi 1% sự thật. Khi vào được để “tham quan” miền Nam và thăm bà con, dân miền Bắc còn ngây thơ mang vào Nam cứu trợ mấy ký gạo đỏ và chục chén ăn cơm. Sự thật thì miền Bắc đã mang về từ vùng đất “được giải phóng” hàng chục tấn vàng, kim cương cho Bộ Chính Trị đảng và cho hàng vạn xe gắn máy, đồng hồ, radio, quạt máy và vàng bạc đủ xây lại nhà cửa khang trang từ những thân nhân mà họ đã “khai tử” trên bản lý lịch trích ngang, vì không muốn liên hệ gì với những người đã di cư vào Nam năm 1954.

Bà chị tôi sau ngày “giải phóng” thương nhớ quay quắt cha già, nhưng chỉ có nước mắt làm quà cho cha. Phía Nam, gia đình tôi toàn là thầy giáo theo nghề sư phạm, không giàu có gì, nhưng lúc nào gạt lệ trước khi ra Bắc, chị cũng được cô em dâu dúi vào tay bà một hai chỉ vàng làm quà “thất trận!” Anh tôi, mỗi lần đi thăm bà chị “bên thắng cuộc” cũng kho một nồi cá lớn, khi cá sòng, khi cá thu vì gia đình chị tôi vẫn thường “thiếu chất!”

Sự nhồi sọ đến mù quáng, khó tưởng tượng nỗi, khi một thằng cháu, con bà chị tôi đã dẫn ở đoạn trên, tốt nghiệp kỹ sư Hà Nội, từng du học Liên Xô, khi vào gặp tôi sau năm 1982 tại Sài Gòn, đã thắc mắc:

– “Cậu mang quân hàm Đại Úy mà nhà cửa chỉ thế này sao?” (Nó được tuyên truyền sĩ quan miền Nam, cắt cổ mổ bụng, bóc lột nhân dân nên ai cũng có đời sống vương giả, nhà lầu xe hơi!)

Một hôm, có vẻ sau một hồi ngần ngại, “ông kỹ sư Hà Nội” này đã rụt rè hỏi tôi một câu rất mâu thuẫn với câu hỏi trước.

– “Thế Mợ có bị cảnh sát… không?” (Miền Bắc được tuyên truyền ở Miền Nam bị cảnh sát Ngụy kìm kẹp, cảnh sát muốn hiếp dâm ai cũng được, kể cả vợ… Đại Úy Ngụy!)

Biết là “Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin” – Nếu một lần ta đã làm người khác mất lòng tin thì những lần sau không ai tin mình nữa! Nhưng trong vòng cương tỏa của đảng, bị bịt mắt che tai, đồng bào miền Bắc không có dịp để biết sự thật, chỉ biết nghe chuyện hoang đường. Từ chuyện Nguyễn Văn Trỗi bị trói tay vào cột, còn dùng tay giật băng vải đen bịt mắt, sau khi nhận một tràng đạn vào ngực còn dõng dạc hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm!” đến chuyện hồi chánh viên Nguyễn Văn Bé còn sống sờ sờ, đã miền Bắc dựng thành liệt sĩ sau khi cầm quả mìn Claymor đập vào một chiếc xe tăng, làm chết 69 binh sĩ Mỹ và VNCH, phá hủy nhiều xe tăng. Từ chuyện Kim Đồng xa xưa tẩm xăng vào mình cho nổ kho đạn ở Thị Nghè, đến chuyện ngày nay “Hercule” Bùi Minh Kiểm tay không níu càng trực thăng chúi đầu xuống đất cho đồng đội bắn, máy bay nổ tan xác. Rồi chuyện đồng bào ở bờ Nam Bến Hải nghe tiếng loa đài phát thanh Vĩnh Linh vang lên, đã chạy ào ra bờ sông mừng rỡ reo hò: “Bà con ơi, o Nhạn, anh Tích (xướng ngôn viên) chưa chết. Đài Vĩnh Linh còn. Quốc gia nói láo.”

Rõ ràng quốc gia nói chưa được 1% sự thật của miền Bắc, trong khi cộng sản nói láo từ suốt 30 năm cho tới ngày cả nước được sáng mắt, sáng lòng.

Ai cũng nghĩ rằng nhà nước cộng sản dù chính sách ngu dân, làm cho dân càng ngày càng ngu, để tuyên truyền được hữu hiệu, nhưng ngu là đối với nông dân thất học, quanh quẩn trong rặng tre làng. Ở đây một kỹ sư có học, từng đi ngoại quốc lại nghe và tin sự tuyên truyền như vậy, thì không còn chỗ nói nữa.

Quả là nghệ thuật tuyên truyền của Cộng Sản Bắc Việt quá hay, nhưng không may Việt Nam có cái ngày 30 Tháng Tư đã làm rơi cái mặt nạ giả dối, phơi bày một sự thật trần truồng khiến người có lòng tự trọng thấy xấu hổ. Miền Bắc cảm thấy nếu được sống 1/10 cuộc đời bị đàn áp bóc lột của người dân miền Nam thì cũng đã sung sướng chán. (Huy Phương)

Hành trình của một tù nhân chính trị hay cộng hưởng tiếng vọng lương tâm

 
 
Image may contain: 1 person, standing, tree and outdoor
Image may contain: 1 person, sky and outdoor

Van Pham

Điều tôi muốn thào luận ở đây không phải là bàn chuyện “Nên Đi hay Nên Ở”, mà là ảnh hưởng của những người này hay nói khác đi tiếng nói vang vọng của họ ngày nào, nay có còn bên tai những đồng bào quốc nội… những người đã từng một thời ngưỡng vọng họ?!!!

“……………………
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.

*************

Hành trình của một tù nhân chính trị hay cộng hưởng tiếng vọng lương tâm

“Chúng tôi sẽ làm hết mình để ông Liêm thoát khỏi ngục tù.” Bà Kristin Jones nói một cách nghiêm túc khi ghé thăm nhà tôi vào một ngày cuối năm 1995.

Nhìn vào ánh mắt, tôi tin vào sự chân thành của bà. Nhưng, thú thật, lúc ấy tôi nghi ngờ về một kết quả khả quan. Chẳng là trong suốt nhiều năm trước đó, nhiều nước, nhiều hội đoàn, tổ chức, cá nhân kể cả các nhân vật tai to mặt lớn lên tiếng tranh đấu cho bố tôi.

“Chính phủ Đức rất quan tâm đến nhân quyền. Chúng tôi đang vận động cho ông Liêm cũng như nhiều nguời tù lương tâm khác được tự do.” Một vị đại diện toà Đại Sứ Đức nói.

Trong buổi họp bàn về bang giao, thương mại, cũng như việc gia nhập WTO của Việt Nam, Thượng Nghị Sĩ Tom Harkin đã đề cập đến trường hợp của bố tôi với ông Lê Đức Anh, Chủ Tịch nước.

“Nhà nước Việt nam sẽ thả nếu như ông Liêm cải tạo tốt.” Ông Tom Harkin thuật lại lời nói của ông Lê Đức Anh.
***********

“Bố bị bắt rồi” mẹ thảng thốt nói với tôi khi vừa đi học về.

Cảnh nhà bừa bộn như bãi chiến trường.

“Tôi già thế này, chúng cũng không tha” bác Nguyên, người chị họ ở miền Bắc của bố, rầu rĩ tâm sự.

“Tôi là mẹ liệt sĩ, các ông cho tôi đi” bác Nguyên nói với công an khi họ ập vào nhà khám xét. Bác hy vọng có con là bộ đội chết ở chiến trường miền Nam sẽ được công an thả đi. Thật ra bác chỉ là khách tình cờ đến thăm nhà tôi.

“Bà ở lại đây!” viên công an trẻ măng, đáng tuổi con cháu, quát lớn với bác Nguyên. Lực luợng công an bị tẩy não, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù phản động, kể cả mẹ liệt sĩ. Vậy là bác bị giữ lại để thẩm vấn.

Tiếng máy rà kim loại kê rò rò. Công an khám nhà, khám người, khám cả khe tường lẫn lỗ…tò vò.

“Tiền bạc chúng lấy cả!” mẹ nói, giọng khản đặc, mắt đỏ hoe. Mẹ lo lắng cho cuộc sống tương lai.

“Lo gì mẹ, có Chúa gìn giữ.” tôi an ủi mẹ.

Không hiểu sao lúc ấy tôi lại cười. Một cái cười không đúng lúc.

Bắt người, lấy của, công an còn cẩn thận gạch thẵng tên bố trong sổ hộ khẩu rồi ghi thêm “phản cách mạng”. Cuồng phong đỏ kéo đến, thời kỳ đen tối của gia đình tôi bắt đầu.

“Trần Sơn, Phó Giám Đốc Công An Đà Nẵng, là người chỉ huy trực tiếp bắt bố.” Bố tôi kể lại. Ngay sau khi bắt bố tôi tại sân bay Đà Nẵng vào tháng 4 năm 1990, công an tổ chức qui mô khám nhà tôi, căn nhà nhỏ bé với kích thước 4 x 20 mét tại Sài Gòn.

“Công an bố ráp tứ phía” chú Lương Văn Tròn, người hàng xóm cạnh nhà, kể lại. Cả trăm công an “chìm, nổi” đủ loại bao vây khu xóm. Họ đi xe nhà binh, súng ống đầu đủ, dùng bộ đàm liên lạc với nhau. Cứ như là hành quân đánh trận lớn. Chiến thuật của chế độ là bắt một người, muôn ngàn người phải lo sợ nơm nớp.

“Mới bắt được một ổ phản động lớn lắm. Trong đó có Đoàn Thanh Liêm sống ở xóm này.” chú Nguyễn Cảnh, ở đầu xóm , kể lại lời của viên công an an ninh sống cạnh nhà chú.

Đúng là vụ bắt lớn bao gồm Mike Morrow, doanh gia Mỹ, Đỗ Ngọc Long, chuyên viên kinh tế, Nguyễn Tấn, nhà báo, Nguyễn Mộng Giao, tiến sĩ Vật lý, Trương Hùng Thái, nhà thơ, và cả các đảng viên cao cấp như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Hồ Trung Hiếu, …

Trong bối cảnh thế giới thay đổi. Các chế độ cộng sản tại Đông Âu lần lượt sụp đổ. Biến cố sinh viên Trung Quốc biểu tình đòi tự do dân chủ tại Thiên An Môn đã làm cho đảng thực sự lo ngại. Trong cung đình Hà Nội, ông Trần Xuân Bách, Uỷ viên Bộ Chính Trị, lên tiếng đòi hỏi đa nguyên đa đảng. Lo sợ cho sự tồn vong của mình, chế độ độc tài toàn trị ra tay trấn áp người dân bằng nhiều vụ bắt bớ.

“Bằng vụ bắt bớ này, cánh bảo thủ Mai Chí Thọ muốn dằn mặt cánh cấp tiến Võ Văn Kiệt.” Chú Dick Hughes nhận định.

Theo báo The New York Times, giới bảo thủ Hà Nội vẫn một mực cho rằng cả Mike Morrow lẫn Dick Hughes là điệp viên CIA.

Trong cuộc chiến Việt Nam, Mike Morrow là nhà báo đã đưa ra công luận vụ thảm sát Mỹ Lai. Năm 1990, với tư cách là doanh gia, ông quay lại Việt Nam tìm cơ hội đầu tư kinh tế. Chú Mike mời bố tôi làm luật sư cố vấn kinh tế.

Dick Hughes, là nhà hoạt động xã hội, qua Việt Nam năm 1968, sáng lập chương trình Shoeshine Boys Project nhằm giúp trẻ em mồ côi. Chú Dick, bố tôi và chú Long cùng nhau xây dựng các trại mồ côi ở Sài Gòn và Đà Nẵng. Năm 1976, dưới áp lực của chính quyền, chú Dick buộc phải rời Việt Nam.

Sài Gòn rúng động sau cuộc trấn áp. Mọi người rỉ tai nhau về các tin tức liên quan đến vụ bắt bớ.

“Nghe nói vụ này liên quan tới Xịa (CIA)? chú Trịnh Thanh Hoàng, người em họ của bố, nói. Dính tới “trùm Xịa” Mike Morrow và Dick Hughes, coi như là tù mọt gông.
“Chị mơ bố bị tử hình!” Chị tôi kể về giấc mơ dữ đêm qua.

“Dám lắm.” Tôi ngập ngừng trả lời. Báo Công an đăng nhiều kỳ về vụ án. Qua báo chí quốc doanh, nhà nước định hướng dư luận rằng đây là ổ phản động câu kết với thế lực trong đảng và nước ngoài để lật đổ chính quyền.

“Không tổ chức, không vũ khí , không giết người, làm sao mà tử hình được.” chị tôi lập luận.

Không cam lòng việc bạn mình bị tù oan ức, chú Dick đã tận lòng tranh đấu cho bố tôi và chú Đỗ Ngọc Long.

“Tôi chỉ ngủ mỗi ngày vài tiếng” chú Dick kể rằng dành rất nhiều thời gian để viết hàng ngàn lá thư, hàng ngàn cuộc điện đàm, lẫn hàng trăm cuộc gặp để vận động hai người bạn Việt nam được tự do.

“Chiến thuật của tôi là kêu gọi giới báo chí liên tục hỏi về ông Long và ông Liêm mỗi khi gặp phái đoàn Việt Nam.” chú Dick kể.

“Gia đình mình ra sao?” Bố tôi, với mắt thâm quầng, mặt tái xanh sau nhiều tháng biệt giam, hỏi trong kỳ gặp đầu tiên tại trại giam đường Cường Để.

Nhờ sự giúp đỡ tinh thần lẫn vật chất của thân bằng quyến thuộc, gia đình tôi vượt qua mọi khốn khó.

“Cầu mong bố con sớm về.” bác Huỳnh Thị Hoa, mẹ bạn Thái Tường, an ủi sau khi đãi tôi một bữa tai heo quấn bánh tráng thật ngon.

“Đây là quà cô gửi cho bố.” cô Trần Thị Thức, vợ người tù lương tâm Đoàn Viết Hoạt, vui vẻ nói. Lúc ấy, tôi vô cùng cảm động trước tấm lòng của cô. Chú Hoạt vẫn đang trong tù. Hoàn cảnh gia đình cô Thức cũng khó khăn. Vậy mà cô vẫn nhớ đến bố tôi.

Cô Thức cũng như nhiều người bạn khác vẫn âm thầm gửi quà cho bố tôi. Nhận được những món quà ân tình này, bố tôi lại san sẻ cho các người tù khác. Trong gọng kiềm khắc nghiệt của chế độ Cộng sản, người vẫn thương người, giúp nhau qua cơn khốn khó.

“Ông Liêm có thể phải cải tạo dài hạn.” một vị đảng viên cao cấp bắn tiếng với gia đình tôi.

“Cải tạo không án hay phải ra toà?” Chẵng ai có thể đoán được ý định của nhà nước lúc nào cũng mờ ám.

Ngay buổi tối trước hôm xử án vào tháng 5 năm 1992, gia đình tôi bất ngờ nhận được giấy báo của một viên chức toà. Tôi vội vã đi báo tin cho bà con và bạn bè của bố.

Lần đầu tiên tôi vào tòa án Sài Gòn, một công thự kiến trúc Pháp tuyệt đẹp. Nhìn thấy tượng Nữ Thần Công Lý bám bụi và màng nhện trong sảnh tòa, tôi đoán là lành ít dữ nhiều.

Chánh Án Lê Thúc Anh, Công Tố Viên Nguyễn Văn Bông, hai vị Hội Thẩm Nhân Dân, và thư ký toà đều ngồi bàn có chiều cao bằng nhau. Riêng luật sư biện hộ Nguyễn Đăng Trừng ngồi cạnh thư ký tòa trên chiếc bàn phụ, thấp hơn khoảng nữa mét.

“Tòa có mời ông Vũ Sinh Hiên làm nhân chứng. Ông Hiên có mặt?” chánh án nói.

“Thưa toà, tôi hoàn toàn không nhận được thư mời.” chú Hiên, bạn của bố, giải thích rằng chú đến đây là do tin từ gia đình tôi.

“Chắc là bên bưu điện làm thư thất lạc.” Chánh án nhanh nhẩu đáp

Công Tố Bông luận tội đầu tiên. Bằng chứng chính là bản”Thoả Thuận Năm Điểm” do bố tôi viết với nội dung xây dựng nhà nước dân chủ, công bằng, tôn trọng nhân quyền. Công tố viên kết luận rằng bị can đã phạm tội “tuyên truyền chống phá Cách mạng”.

Luật Sư Trừng, người duy nhất trong phòng xử án mặt áo veston, đeo cà vạt, tóc chải láng mượt, chăm chú lắng nghe công tố viên luận tội. Do ngồi ở vị thế thấp hơn, Luật Sư Trừng phải ngước đầu lên nhìn về hướng công tố viên.Trông giống như học sinh nhìn lên bục giảng thầy giáo.

Luật Sư Trừng biện hộ rằng đương sự là trí thức đưa ra quan điểm với mục đích xây dựng đất nước tốt hơn. Chiếu theo Hiến Pháp về quyền tự do ngôn luận, bị can vô tội.

“Tôi yêu cầu tòa xét lại lập trường, tư tưởng cách mạng của luật sư biện hộ.” Công Tố Bông lớn giọng tại tòa.

Mặt Luật sư Trừng mặt đỏ tía, bàn tay trái run run từ từ nắm chặt, đứng lên nói lớn,”Thưa tòa, tôi theo cách mạnh từ khi công tố viên còn mặc quần thủng… đít”

Công tố viên Bông, da đen xám, đeo kính mát vàng chóe, nhếch môi thâm xì cười lộ hàm răng vàng màu khói thuốc lá.

Ông hội thẩm đầu bạc trắng đang lim dim ngủ, chợt mở bừng đôi mắt, đưa tay ra dấu như muốn bảo hãy bình tĩnh nào…

“Lịch sử sẽ phán xét việc làm của tôi.” Bố bình thản nói trước vành móng ngựa,”Tôi vô tội. Tôi không xin khoan hồng.”

“Anh là con cáo già chính trị.” Quan toà cau mày lên giọng sắt như dao,”Anh ngoan cố.”

Mấy viên công an trừng trừng nhìn với ánh mắt căm thù, thủ thế nhào tới bị can.

Sau đó, ông tòa chăm chú đọc bản án dầy hơn 10 trang đánh máy từ trước. Toà tuyên án phạt 12 năm từ vì tội”tuyên truyền chống phá cách mạng”.

Chú Phạm Văn Thực, em họ mẹ, mon men đến gần xe tù.

“Anh ráng giữ gìn sức khỏe.” chú Thực nói khi công an áp giải bố vào xe tù.

“Cám ơn chú. Cho tôi gửi lời thăm bà cụ.” Bố mỉm cười đáp lại ngay trước khi cửa xe đóng cái sầm.

Cả nhà buồn tê tái, chị tôi khóc tức tưởi.

Vụ án làm xôn xao dư luận thế giới

Theo nhà báo Malcolm Browne, Hội Ân Xá Quốc Tế, Văn Bút Hoa Kỳ, Hội Nhân Quyền, Bộ Ngoại Giao Mỹ, các tổ chức Công Giáo, Phật Giáo, cùng nhiều tổ chức khác lên tiếng tố cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền.

Trong một buổi phỏng vấn, ông Lê Mai, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam, nói, “Việt Nam không tiếp nhận những tư tưởng về nhân quyền một cách áp đặt”. Khi được yêu cầu gặp tù nhân lương tâm Đoàn Thanh Liêm, một viên chức ngoại giao đáp rằng “vấn đề nhân quyền rất phức tạp và yêu cầu này không được chấp nhận.”

Dư luận thế giới nghi ngờ về sự khả tín của chính phủ Việt Nam. Trong lúc tuyên bố “dân chủ gấp triệu lần tư bản” và kêu gọi đầu tư, giới lãnh đạo Hà Nội lại bắt bớ những người kêu gọi nhân quyền, dân chủ.

Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton gửi lời thăm đến bố tôi.

“Cái này gửi bà Clinton.” bố dúi vội lá thư vào tay tôi trong lúc thăm nuôi tại trại Hàm Tân. Trong thư, bố cám ơn vì đã nhớ đến người tù lương tâm và tin tưởng “cuộc tranh đấu bất bạo động sẽ đem lại tự do, dân chủ cho Việt Nam”.

Nhiều vị dân cử Hoa Kỳ như Thượng Nghị Sĩ John McCain, John Kerry… liên tục kêu gọi chính quyền Hà Nội thả bố tôi.

Giới trí thức và nghệ sĩ đã gửi thư cho Tổng Bí Thư Đỗ Mười đòi thả tự do bố tôi và chú Long. Giới phản chiến như Ed Asner, Noam Chomsky, Jane Fonda, Oliver Stone,.. ký tên vào bức thư với lời cảnh báo,” Việc bắt giam này ánh hưởng nghiêm trọng đến nổ lực hội nhập vào thế giới của Việt Nam.”

Qua “cải tạo,” ” đánh tư sản,” và “vượt biên,” thế giới đã nhận thức rõ bản chất của chế độ Hà Nội. Nay vụ bắt giam này làm giới phản chiến thức tỉnh. Từ thiên cảm, ủng hộ, giới phản chiến quay sang nghi ngờ, chống đối việc vi phạm nhân quyền. Đây là thiệt hại chính trị lớn của công sản trên trường quốc tế. Tính chính danh của chính quyền Việt Nam đã mất, ước mơ “phân hóa nội bộ Mỹ” tiêu thành mây khói.

Chi phí tài chánh cho việc vận động là gánh nặng quá sức của chú Dick. Riêng tiền điện thoại, điện thư hàng tháng là vài ngàn dollar.

“Lương của tôi không đủ trả tiền lời của các thẻ tín dụng.” chú Dick kể, “Sau khi tư vấn với luật sư, tôi tuyên bố phá sản.”

”Daddy, cái này cho Long và Liêm.” bé Tara, 6 tuổi, rút trong gối 2 dollar đưa cho bố. Ôm con vào lòng, chú Dick cảm thấy hạnh phúc dâng trào.

Hiểu được tình cảnh của chú Dick, nhiều nhà hảo tâm đã đóng góp vào quỹ vận động. Trong danh sách có Robert De Niro, Paul Newman,… Đặc biệt, ngôi sao Tom Cruise góp 10 ngàn dollar.

Trời thương người hiền. Bao công lao vận động nay đã có kết quả. Tin vui đến trong bất ngờ. Sau buổi họp, một viên chức Việt Nam kẹp mẩu giấy trong cuốn sách rồi đưa cho Thượng Nghị Sĩ John McCain. Mẩu giấy ghi “Thả Đoàn Thanh Liêm và Đỗ Ngọc Long”.

Sau khi bàn bạc với các bạn đồng nhiệm, Thượng Nghị Sĩ John McCain trình vấn đề lên Văn Phòng Tổng Thống. Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Anthony Lake là người trực tiếp dàn xếp việc thả bố tôi. Ông nhờ bà Kristin Jones, chủ tịch một tổ chức doanh nghiệp tư nhân, đứng ra làm trung gian đàm phán giữa hai chính phủ.
*************

Lời nói của bà Kristin Jones hiệu nghiêm cấp kỳ. Cỡ một tuần sau, một viên thiếu uý công an đến nhà tôi và mời gia đình tôi lên Phòng Xuất Nhập Cảnh.

“Lệnh trên giao cho chúng tôi lo giấy tờ xuất cảnh cho gia đình anh. Xin anh giúp chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.” Đại tá Nê nói với tôi tại trụ sở đường Nguyễn Du.

“Bố quyết định đi Mỹ.” Bố tôi nói tại Trại Cải Tạo Hàm Tân. Bố đành chấp nhận kiếp sống lưu vong.

Nếu ở tù, không chắc gì bố tôi còn mạng để trở về. Ông nội tôi đã chết trong ngục tù Việt Minh.

Mọi thủ tục xuất cảnh hoàn thành nhanh chóng. Trước ngày đi, bà Kristin trao cho chị tôi lá thư của giám đốc Cục Di Trú Hoa Kỳ yêu cầu các giới chức quan thuế cho gia đình tôi nhập cảnh Hoa Kỳ.

Tối ngày 11 tháng 2 năm 1996, gia đình tôi thu xếp ra phi trường Tân Sơn Nhất. Đang ngồi chờ tại phi trường, bố bỗng xuất hiện với một dàn công an đi kèm. Công an còn cẩn thận cho người theo quay phim chụp hình.

“Sợ bay đầu cả lũ!” một nữ nhân viên la toáng lên.

“Tất cả theo lệnh trên mà.” Viên trung tá an ninh tháp tùng gia đình tôi đáp lại trong lúc làm thủ tục xuất cảnh.

“Xin chúc mừng ông và gia đình.” một nữ nhân viên đại diện Đại Sứ Mỹ nói với bố tôi. Bà ra phi trường để giám xác việc thả bố tôi.
***********

Từng là nạn nhân của chế độ Cộng sản, tôi rất hiểu hoàn cảnh khó khăn của các nhà tranh đấu dân chủ và gia đình. Nhưng tôi tin rằng các bạn không cô đơn bởi lẽ rất nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước luôn ủng hộ các những tiếng nói lương tâm.

Hơn 25 năm trước, bố tôi lên tiếng gọi lương tâm trong cô đơn. Ngày nay, hàng trăm hàng ngàn người Việt cùng nhau đứng lên kêu gọi dân chủ cho đất nước. Nhiều dòng nước nhỏ hợp lại thanh dòng thác cuốn trôi độc tài, bạo lực, dối trá, và tham nhũng. Rồi một ngày hàng triệu cánh chim én xuất hiện báo hiệu mùa Xuân của dân chủ, hòa bình, sự thật, và công lý.
***********

Tài liệu tham khảo:
– Hanoi Jails Lawyer For Links With American. Barbara Crossette. The New York Times. June 7, 1992.
-Security Tactics In Vietnam Still Inspire Widespread Fear. Malcolm W. Browne. The New York Times. May 23, 1994.
-At Lunch With: Richard Hughes; An Actor Prepares;Vietnam Interrupts.Ralph Blumenthal. The New York Times. July 20, 1994

HÌNH: – Luật sư Đoàn Thanh Liêm (thứ 8 từ trái qua) trong lần họp mặt cựu học sinh Chu Văn An Sài Gòn, ngày 16 Tháng 2, năm 1974. (Hình: Tư liệu gia đình)

https://www.nguoi-viet.com/…/hanh-trinh-cua-mot-tu-nhan-ch…/

Hòa Hợp Hòa Giải?

Hòa Hợp Hòa Giải?

Bạn nghĩ rằng chính phủ Hà Nội có thể tới một lúc sẽ chìa tay ra để hòa hợp hòa giải với mọi thành phần dân chúng để củng cố sức mạnh trong khi quân Trung Quốc tăng áp lực? Hình như  chuyện đó là nằm mơ…

Bởi vì, ngay tự nội bộ của họ, hòa hợp hòa giải đã là một cái gì rất khó xảy ra.

Mới đây, một người  bạn gửi một bản tin của Báo Tiền Phong cho biết họ đã xử oan một trường hợp nội bộ, nhưng rồi cứ lờ đi. Đây không phải chuyện dân oan hay đất oan. Đây là chuyện công an xông vào tòa nhà Quốc hội CSVN ở Hà Nội vào năm 1980, bắt và áp giải một “đaị biểu quôc hội”…  Người bị bắt nổi tiếng ở Huế nhiều thập niên trước 1975, là tình báo VC, toàn gia hoạt động cho VC… và bây giờ vân lặng thinh.

Ông cụ oan ức là Nguyễn Thúc Tuân, 101 tuổi vào năm 2016. Tòa án Huế đã cho xóa án, nhưng ông cụ vẫn chưa được minh oan…

Hồ sơ được báo Tiền Phong viết qua bản tin ngày 24/03/2016 nhan đề “’Vụ án gián điệp’ 35 năm trước: Cụ già 101 tuổi kêu oan…”

“Ông Nguyễn Thúc Tuân (sinh năm 1914, hiện sống ở thành phố Huế) đã kêu oan suốt mấy mươi năm nhưng hầu như vô vọng. Tội danh “gián điệp” CIA của Mỹ “chui sâu, leo cao” nặng như đá núi đeo đẳng ông Tuân cùng với cả gia đình qua bao nhiêu năm tháng.

Ngày 11/12/1980, tại hội trường Ba Đình, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, các đại biểu được nghe báo cáo về một vụ án gián điệp gây rúng động cả nước, mà tội phạm là một đại biểu Quốc hội, một đảng viên, cán bộ cách mạng lâu năm, Trưởng ty Thể dục Thể thao tỉnh Bình Trị Thiên.

Người đó tên là Nguyễn Thúc Tuân, “can tội gián điệp, đã bị tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên kết án 18 năm tù.

Vì vậy, đương nhiên Nguyễn Thúc Tuân mất tư cách đại biểu Quốc hội” (theo biên bản ngày 11/12/1980, tài liệu lưu trữ của Quốc hội khóa 6, kỳ họp thứ VII).

Từ đó đến nay đã hơn 35 năm, ông Nguyễn Thúc Tuân vẫn nhất mực kêu oan.

Bức thư ông Tư Minh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế , cấp trên ông Tuân, đề nghị minh oan cho ông Tuân.

Theo bản án ngày 22/1/1980 về vụ án “Nguyễn Thúc can tội gián điệp” của phiên tòa sơ thẩm TAND tỉnh Bình Trị Thiên: Bị cáo sinh năm 1914, quê quán thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên, trú quán TP Huế.

Nguyễn Thúc Tuân vốn là cán bộ Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp, sau 1954 tiếp tục hoạt động bí mật trong vùng hậu địch ở địa bàn Thừa Thiên-Huế.

Năm 1958 chế độ Ngô Đình Diệm mở đợt bắt bớ nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng, trong đó có những người kháng chiến cũ từng tham gia Việt Minh trước 1954. Nguyễn Thúc Tuân bị cảnh sát chế độ Ngô Đình Diệm bắt giam.

Bản án nói rằng dù chưa bị tra tấn nhưng Nguyễn Thúc Tuân đã khai báo và hợp tác với địch trở thành nội gián trong hàng ngũ cách mạng, làm điệp viên nhị trùng, chui sâu leo cao, đánh phá cách mạng.

Bản án còn nói thêm: “Ngoài việc khai cho địch những bí mật của cách mạng, bị cáo Tuân đã giúp cho chúng tìm cách đối phó, y còn thường xuyên theo dõi, thu thập, cung cấp nhiều tin tức tình báo về những hoạt động chính trị của những cá nhân, tổ chức xã hội đối lập với Mỹ-ngụy như học sinh, sinh viên, hướng đạo sinh, Phật giáo v.v… đã cho chúng tìm cách đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng yêu nước…

Trong quá trình khai báo cũng như tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Thúc Tuân có những điểm nhìn biện bạch cho mình.

Y thừa nhận có đầu hàng, khai báo, nhận một số nhiệm vụ do địch giao giai đoạn đầu, còn về sau thì không liên hệ với chúng nữa và đã thực sự trở về với đội ngũ cách mạng… và nói chung y tự cho mình là người có công nhiều hơn có tội”.

Phiên tòa không hề có nhân chứng các bên, không có những người từng là cấp trên hoặc đồng chí đồng đội của ông Tuân (đã được cơ quan chức năng liên hệ làm việc để làm rõ nội dung liên quan đến vụ án này).

Ông Tuân cũng không có luật sư bào chữa.

“Mẹ tôi kiên cường sống qua những năm tháng khổ đau, tồi tệ nhất. Còn chúng tôi thì không kể hết những cay đắng cuộc đời khi ba tôi lâm vào vòng lao lý”. Bà Nguyễn Thị Tầm Dương, con gái ông Tuân nói.

Kết thúc, phiên tòa sơ thẩm tuyên Nguyễn Thúc Tuân phạm tội “gián điệp” và phạt 18 năm tù giam. Sáu năm sau, ngày 16/11/1986, ông Tuân được ra khỏi trại cải tạo.

Đến ngày 29/11/2001, Chánh án TAND Thừa Thiên-Huế ra quyết định (số 02/QĐ/XA) “xóa án” cho ông Nguyễn Thúc Tuân. Đây là hình thức xóa án tích của tòa án, căn cứ Điều 63, 65 Bộ luật hình sự (1999), và Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đến nhà ông Nguyễn Thúc Tuân những ngày này, sẽ thấy một ông lão nhỏ nhắn đã ngoài trăm tuổi, người bị buộc tội làm gián điệp CIA, phản bội cách mạng.

Ông còn khá minh mẫn, nói trong đau xót: “Tôi bị oan, hãy giúp tôi minh oan”. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Thuyền, một cơ sở cách mạng trung kiên, cựu tù chính trị Côn Đảo đang dưỡng bệnh.

Trên bàn thờ, di ảnh con trai ông, liệt sĩ Nguyễn Thúc Lư như đang nhìn xuống những người đang sống.

Chưa kể em ruột, cháu ruột, cháu dâu của ông đều tham gia cách mạng, có người là liệt sĩ. Bà Nguyễn Thị Tầm Dương, con gái ông Tuân nói trong tiếng thở dài: “Mẹ tôi kiên cường sống qua những năm tháng khổ đau, tồi tệ nhất.

Còn chúng tôi thì không kể hết những cay đắng cuộc đời khi ba tôi lâm vào vòng lao lý”.

Vợ ông Tuân, bà Nguyễn Thị Thuyền – cựu tù chính trị Côn Đảo, dù bệnh tật vẫn gắng chờ ngày chồng được giải tiếng oan.

Tường trình với cơ quan điều tra, ông Nguyễn Thúc Tuân khẳng định việc ông viết cam kết làm việc cho địch chỉ là một thủ tục để sớm thoát ra khỏi nhà tù của địch mà thôi.

Sau khi ra tù, ông đã trở lại hoạt động cách mạng và được tổ chức móc nối với phong trào đô thị Huế, vào năm 1965. Ông làm nhiệm vụ giao liên đưa đón cán bộ lãnh đạo ra vào hoạt động nội thành, tham gia khuôn hội Phật giáo…

Lãnh đạo trực tiếp của ông Tuân giai đoạn này là ông Nguyễn Hữu Hường (thường gọi là Hường Thọ), cán bộ Thành ủy Huế. Ông Tuân cam đoan chưa hề làm điều gì có hại cho cách mạng và nhân dân.

Trong đơn kêu oan, ông nói rằng có thể kiểm chứng điều này từ những người từng là cấp trên hoặc đồng chí, đồng đội biết rõ ông như ông Lê Minh, ông Hường Thọ, ông Lê Phương Thảo, ông Nguyễn Đắc Xuân…

Những điều này ông cũng đã nói rõ trước tòa.

Ông Lê Minh (còn có tên Lê Tư Minh), người lãnh đạo trực tiếp của ông Tuân trong nhiều năm, nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên thời kỳ 1945-1950, Bí thư Thành ủy Huế 1954-1973; sau ngày thống nhất, ông là Phó trưởng ban Nông nghiệp trung ương cho đến khi nghỉ hưu 1978.

Ông Minh đã viết tờ xác nhận ông Tuân là cơ sở cách mạng, không phải là nội gián của địch.

Trong lá thư ngày 19/10/1988 gửi cho ông Tuân, ông Tư Minh cũng nói rõ: “Tôi đã nhận được thư anh do anh Hường chuyển, nói về việc kêu oan về vụ án của anh.

Theo tôi thấy thì anh nên viết tờ trình kiện lên Tỉnh ủy, Quốc hội và Viện kiểm sát tỉnh, gởi cho tất cả những nơi cần gởi. Tôi hứa với anh là một trong những người làm chứng anh không phải là người của địch mà là của ta.

Chú ý trong tờ trình anh viết, có thể viết cả tên tôi và anh Hường Thọ là người biết sự việc. Mọi công việc anh làm trong tờ trình phải nói rất thật, kể cả việc anh đã hứa với địch mà không làm cho nó, mục đích chỉ để thoát khỏi nhà lao”….”

Thế đấy, toàn gia tộc đều hoạt động, vào tù ra khám, con liệt sĩ, tòa bảo xóa án… nhưng bản thân vẫn bị Đảng CSVN dìm hàng, cho lơ lửng.

Kêu oan cách mấy cũng thế… Bản tin năm 2016 nói ông cụ 101 tuổi, năm nay như thế là 103 tuổi rồi, vẫn bị Đảng CSVN làm ngơ chuyện kêu oan.

Nội bộ còn trù dập như thế, làm sao tin được CSVN sẽ hòa hợp hòa giải với người bên kia chiến tuyến Sài Gòn?

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ trưởng Công an Tô Lâm đã đích thân bay sang Slovakia để dàn xếp đưa Trịnh Xuân Thanh về nước?

 Thanh Hieu Bui shared a link.
THOIBAO.DE
 
3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc Bộ trưởng Công an Tô Lâm và Trung tướng Đường Minh Hưng có mặt tại Bratislava thủ đô Slovakia để gặp mặt nói chuyện với ông Robert Kalinak, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia. Các nhà điều tra Đức cho rằng có khả năng là trong thời điểm đó Trịnh Xuân Thanh vẫn còn ở châu Âu. Vì vậy, tại sao có cuộc họp, mà cùng lúc nhiều nghi phạm chính đến tham dự? Việt Nam và Slovakia có thảo luận cách đưa ông Trịnh ra khỏi châu Âu không? Trong tình huống như thế thì Slovakia có thể giúp đỡ không?

Cựu nhà báo thời chiến: “Tôi không nghĩ chiến tranh VN là chống Mỹ cứu nước”

Cựu nhà báo thời chiến: “Tôi không nghĩ chiến tranh VN là chống Mỹ cứu nước”

2018-04-26

Ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo RFA với bút danh Nam Nguyên, trò chuyện cùng RFA nhân sự kiện 30/4.

Ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo RFA với bút danh Nam Nguyên, trò chuyện cùng RFA nhân sự kiện 30/4.

 RFA
 Thưa quý vị, như vậy chỉ còn ít ngày nữa là đến ngày 30/4, ngày kỷ niệm chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc. Sự kiện này được nhắc đến với rất nhiều tên gọi khác nhau, tuy nhiên theo nhận định của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng chính phủ Hà Nội thì đây là ngày triệu người vui nhưng cũng triệu người buồn.

Mời quý vị cùng theo dõi buổi trò chuyện giữa RFA và ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo của RFA với bút danh Nam Nguyên, đồng thời ông cũng là một trong những phóng viên thời chiến tranh Việt Nam.

Xin chào nhà báo Nguyễn Mạnh Tiến, ông có thể chia sẻ những kỷ niệm đáng nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975?

Nhà báo Nam Nguyên: Trong tuần lễ cuối cùng, những sự kiện quan trọng gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, rồi phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng cũng chỉ được 5 ngày thì trao nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh với hy vọng Đại tướng Minh có thể hòa giải với phía bên kia để ngăn tình trạng sụp đổ của miền Nam và có thể là thành lập một chính phủ liên hiệp chẳng hạn.

Ngày 28/4/1975, tôi làm truyền thanh trực tiếp (live) từ dinh Độc Lập lễ trao nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh để lãnh nhiệm vụ Tổng thống. Các bạn chắc cũng lấy làm lạ lùng vì sao có thể trao nhiệm tại vì thường nếu Tổng thống xuống thì Phó Tổng thống lên, Phó Tổng thống xuống nữa thì người Phó của ông này sẽ lên, không có người đó thì Chủ tịch Thượng viện phải lên. Nhưng đây lại là trao nhiệm, có nghĩa là Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa rất minh bạch, rành rọt nhưng nó đã không được thi hành kể từ ngày 28/4.

Khoảng 5 giờ chiều hôm đó diễn ra lễ trao nhiệm, có vẻ như chính phủ của Đại tướng Dương Văn Minh coi chuyện này là nghiêm túc, không phải nhận công việc này để đầu hàng. Có thể Đại tướng Dương Văn Minh là một nhà quân sự nên ông ấy biết tình hình như thế nào. Phòng tuyến Xuân Lịch mất rồi, sư đoàn 18 vỡ, ông tướng Lê Minh Đảo đã giữ được 10 ngày rồi mà ông ấy rất anh hùng, báo chí thế giới cũng ca tụng ông ấy.

Cái nghề báo là không được xúc động. Phải nói là tôi đã rất cố gắng để dặn mình không được xúc động nhưng cuối cùng trong khi tường thuật live tôi đã bình luận một câu. Nhưng câu đó thành ra lại được nhiều người biết đến. Họ nhắc lại câu tôi nói: “Vào lúc này trời âm u đổ mưa, cũng giống như tình hình của đất nước vậy!”

Khi tôi về đến đài sau buổi chiều hôm đó là đã thấy lộn xộn lắm rồi. Máy bay đã bay vô oanh kích ở Tân Sơn Nhất. Ngay ở đài tôi nhìn ra, có những máy bay đi ngang đó thì ở dưới người ta bắn lên. Có thể bắn cả những máy bay tôi thấy không phải của bên kia. Tình hình lúc đó rất khó khăn.

Đó là dấu ấn ngày 28/4. Ông Tổng thống Dương Văn Minh thực tế chỉ tại chức 36 tiếng đồng hồ.

Tới ngày 30/4, trong đài tôi được ông Tổng trưởng Thông tin mới gọi điện yêu cầu cử người qua để thu thanh một bản hiệu triệu của Tổng thống Dương Văn Minh. Thu xong phải phát vào lúc 10 giờ, nếu không phát đúng giờ thì Sài Gòn sẽ biến thành một biển máu. Hôm đó tôi không ở trong đài, nhưng sau này tôi hỏi thì họ nói là ông Lê Phú Bổn, phóng viên trẻ tốt nghiệp trường báo chí Vạn Hạnh là người được cử đi thu thanh. Và người kỹ thuật viên đi cùng là ông Hồ Ổn. Hai người đi qua Phủ Thủ tướng ở đầu đường Thống Nhất thu và mang về phát. Những ngôn từ rất chững chạc, cũng với nội dung đầu hàng thôi, Đại tướng Dương Văn Minh nói rằng mọi người buông súng, quân đội ở đâu thì giữ nguyên ở đó để chờ người đại diện phía bên kia đến và bàn giao trong trật tự. Tôi thấy cách ông ấy đầu hàng như vậy cũng rất hợp lý. Khi bản thu thanh loan ra được một thời gian ngắn thì quân đội Bắc Việt mới tiến vào dinh Độc Lập. Câu chuyện đến đoạn này thì có nhiều điểm không rõ trong lịch sử, mỗi người nói một kiểu. Ông Bùi Tín thì nói rằng lúc đó vào trong dinh chỉ có cấp cao nhất là đại úy xe tăng, còn lại là nhỏ hơn, chưa có ông Chính ủy của đoàn đó. Bây giờ báo chí người ta cũng nói ông Chính ủy này có thể đến lúc kéo cờ lên rồi ông ấy mới tới.

Họ nói không chấp nhận lời đầu hàng ban đầu, đòi rằng bây giờ ông phải nói ông đầu hàng vô điều kiện bởi vì chính quyền của ông tan rã rồi, không có gì để bàn giao. Tôi thấy điều này cũng hơi cay đắng, bởi vì không nhất thiết phải như vậy vì người ta đã chấp nhận đầu hàng rồi, bây giờ làm mọi việc có thể để tránh đổ máu thôi. Những người cán binh Cộng sản lúc đó đã rút súng và nói ông phải đọc lại bản mới và đi thu. Thế rồi họ chở ông ấy tới đài phát thanh để thu bản đầu hàng mới.

Trước khi ông Minh tới đài thì ông Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã tới rồi. Người hoàng viên (tên gọi người thu thanh lúc bây giờ) là một phụ nữ, đã quá sợ hãi, có lẽ vì lần đầu tiên trông thấy bộ đội nón cối, súng ống, trong khi ông Tổng thống gần như bị áp đảo. Cô ấy sợ hãi quá, chân tay run lẩy bẩy không thu được. Có một nhà báo ngoại quốc ở đó, đã dùng cát-sét để thu. Một lúc sau ở phòng thu phụ người ta trấn tĩnh lại và thu được bằng băng lớn.

Đó là lời đầu hàng vô điều kiện và có lời chấp nhận lời đầu hàng đó của phía bên kia. Sở dĩ tôi phải kể dài dòng như vậy là vì có hai bản tuyên bố đầu hàng. Lần thứ nhất do ông Dương Văn Minh soạn thảo và đi thu. Lần thứ hai ông ấy bị áp giải đi thu. Nhiều người thắc mắc tại sao phải kể những chi tiết đó làm gì, nhưng tôi nghĩ rằng đối với lịch sử, sự thật quan trọng hơn sự kiện. Trong cuốn sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của ông Văn Tiến Dũng, ông ấy nói đài Sài Gòn bỏ trống không còn một ai nữa. Quân ta (tức là quân Bắc Việt) đã vô thoải mái. Nhưng điều đó không đúng! Chính phủ không phải đã tan rã. Quân đội có thể mất phòng tuyến này hay phòng tuyến kia, nhưng đài tiếng nói quốc gia lúc đó vẫn còn.

Trong tháng 4 tôi còn có một kỷ niệm nữa không quên được. Khi Đà Nẵng mất, chắc khoảng 28/3, hôm đó tôi đang trực sở thời sự, thì ở dưới phòng kỳ thuật họ nói tôi xuống nói chuyện với đài Đà Nẵng. Ông quản đốc của đài Đà Nẵng, anh Huỳnh Quy, có vẻ mất bình tĩnh và giọng xúc động lắm.  Anh ấy hỏi “Tiến ơi mày có thể cứu được tao và các nhân viên của tao không?” Tôi cũng biết mình không thể giúp được gì, nên chỉ trấn an anh ấy thôi. Anh ấy bảo đang bị kẹt ở trong đài không thể ra được. Chúng tôi đang tìm cách giúp anh ấy, thì khoảng 15 phút sau anh ấy gọi lại bảo rằng “Tiến ơi không còn hi vọng gì nữa rồi, đã trông thấy họ ở ngoài hàng rồi.” Anh ấy chào vĩnh biệt, rồi về sau tôi không biết anh ấy như thế nào nữa. Đó là câu chuyện ám ảnh tôi hoài.

Họ muốn mở rộng chủ nghĩa Cộng sản ra toàn thế giới, đâu phải đánh Mỹ để cứu nước hay giải phóng miền Nam. 
– Nhà báo Nam Nguyên

RFA: Qua những cảnh tượng ông được chứng kiến khi làm những phóng sự chiến trường, ông suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến tranh Việt Nam?

Nhà báo Nam Nguyên: Đây là một câu hỏi lớn, tôi chỉ nêu ra suy nghĩ của một người phóng viên đã trải qua cuộc chiến thôi.

Tôi thấy rằng giá không có cuộc chiến này thì tốt hơn. Khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30/4, đã có tổng cộng khoảng 2 triệu người miền Bắc và miền Nam chết, hàng trăm ngàn người bị thương, không đếm xuể những người còn sống nhưng cụt tay, cụt chân của cả hai bên. Và cuộc chiến tranh đó mục đích là gì, giữa cùng là người Việt Nam với nhau? Bản thân tôi cũng có một phần gia đình ở miền Bắc. Tôi cũng sinh ra ở Hà Nội.

Nói không có thì tốt hơn là vì giả dụ ngay cả khi chưa có Điện Biên Phủ, cứ để nguyên thì chậm nhất đến thập niên 60, tất cả những nước có thuộc địa đều phải trả lại cho người ta hết, bang giao tốt đẹp, buôn bán làm ăn với nhau mà không bị chết người.

Trận chiến Điện Biên Phủ dành độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi như đã thành công, đưa đến Hiệp định Geneva chia hai miền đất nước. Giá mà dừng ở đó thì vẫn còn tạm ổn. Nhưng đằng này, chỉ vài năm sau, miền Bắc bắt đầu mang quân gây chiến, rồi chuyển vũ khí vào trong miền Nam với lý do Tổng tuyển cử đã không diễn ra như Hiệp định Geneva nên phải đánh. Miền Bắc đã chuẩn bị chiến tranh ngay từ lúc đó rồi.

Trên chiến trường khốc liệt quá! Những gì tôi được chứng kiến, nhận xét về quân sự cả hai bên, binh sĩ binh lính của cả hai bên rất can trường, anh hùng và sẵn sàng chết để phục tùng lệnh từ trên. Khi tôi và đồng nghiệp vào mặt trận An Lộc bằng máy bay, chưa kịp nhảy xuống thì khói đã bốc lên trên máy bay rồi. Trông thấy bãi đáp Khánh Ly rồi mà bị đánh bom phải lượn ra luôn. Tôi thấy bay được có một khúc là may bay bị rớt rồi, và ngay lập tức họ bắn hủy máy bay đó. Thế là chúng tôi vẫn chưa vào được An Lộc. Nhưng cuối cùng kiên trì tôi và một người phóng viên tên Dương Phục cũng đã vào được.

Đi đến đó thì thấy thành phố An Lộc không còn một căn nhà nào nguyên vẹn hết. Toàn bộ là gạch vụ và một vài bức tường. Chúng tôi đến bộ chỉ huy của ông tướng Lê Văn Hưng, là vị tướng tử thủ ở đó để phỏng vấn, và coi như thành công.

Khi về lại không về được, cứ đi ra bãi đáp, máy bay cứ đáp xuống là phía bên kia họ pháo kích máy bay không xuống được. Chúng tôi không có cách gì để lên được, cứ đi ra đi vô mấy lần rồi lại phải quay lại. May mắn cuối cùng đài truyền hình họ đi trực thăng vào quay. Ông sĩ quan báo chí của ông Lê Văn Hưng, là ông đại úy Qúy, nói ông ấy sẽ đưa bọn tôi ra ngay khi máy bay truyền hình tới, chờ sẵn ở đó, máy bay hạ cánh là nhảy lên liền. Tôi cũng làm như vậy, và đội truyền hình đã cứu mạng tôi. Nếu không, tôi sẽ phải ở lại trong đó không biết đến bao giờ.

Đến ngày 6/7 tôi được lệnh chuẩn bị kỹ càng để đi công tác đặc biệt, nhưng không nói đi đâu. Đến ngày hôm sau họ chở tôi vào dinh Độc Lập, và chỉ tôi lên một chiếc máy bay. Trên đó chỉ có tôi, một người bên truyền hình, còn lại toàn các ông lớn. Tôi nghĩ chắc phải đi đâu ghê gớm lắm. Có một chiếc máy bay có ông Tổng thống và cả ông Hoàng Đức Nhã. Máy bay bên bọn tôi có ông đại tướng Cao Văn Viên là Tổng tham mưu trưởng. Tới nơi, tôi thấy rừng cao su và đất đỏ, tôi linh cảm là vào An Lộc. Tôi nghĩ ông Tổng thống này gan thiệt, vì An Lộc tới lúc này chưa có giải phóng. Đằng xa mình nhìn thấy bom đạn nổ dữ lắm, phi cơ oanh tạc các vùng cao điểm để hộ tống máy bay này. Câu chuyện này cũng để lại nhiều dấu ấn, và ông Tổng thống Thiệu cũng thành công trong việc thực hiện chuyến đi này.

RFA: Với nhiều người trẻ sinh sau năm 1975, thậm chí sau đến 20 năm, đã được mái trường Xã hội Chủ nghĩa dạy là cuộc chiến tranh Việt Nam này là để chống Mỹ cứu nước. Không biết nhà báo suy nghĩ như thế nào về quan điểm này của Chính phủ Việt Nam?

Nhà báo Nam Nguyên: Tôi nghĩ là trong lúc học các bạn tin vào những câu chuyện như vậy. Tôi không nghĩ là chống Mỹ cứu nước, Việt Nam Cộng Hòa khi đó được thành lập và được viện trợ từ Hoa Kỳ để xây dựng lại đất nước. Khi chưa có chiến tranh, miền Nam trù phú, sung túc lắm, xuất cảng rất là khá, đời sống rất cao, được ví là hòn ngọc Viễn Đông. Đến ông Lý Quang Diệu cũng từng nói thời đó chúng tôi cũng chỉ mong được như miền Nam Việt Nam thôi. Đời sống rất sung túc mà không hề có quân Mỹ ở đó. Sở dĩ người ta giúp Việt Nam Cộng Hòa là vì theo chủ thuyết Domino, nếu cứ để Cộng sản tràn dần thì sẽ mất hết, tất cả sẽ là Cộng sản hết nên họ muốn chặn lại theo ý nghĩa Việt Nam Cộng Hòa sẽ là tiền đồ của thế giới tự do. Chiến tranh bên kia quá lớn thì người Mỹ mới đem quân vào vì họ sợ mất.

Bên kia từ thời trước đã tuyên truyền nhiều, đặc biệt những năm xưa không phải giống như giới trẻ được biệt về miền Bắc sau này, thời trước miền Bắc khép kín không khác gì Bắc Hàn bây giờ. Người trong Nam chúng tôi không bao giờ được biết ngoài Bắc có cái gì, cũng không có hình ảnh luôn vì họ không cho người ngoài vào thăm, chỉ số ít những người thân chế độ mới được vào. Hình ảnh mà tôi biết được là khi ông Phạm Huấn ra Hà Nội công tác một ngày với một số phóng viên, họ có chụp một số hình ảnh và viết bài Một ngày tại Hà Nội. Hình ảnh rất nhiều và tôi cũng được xem. Khi xem, cảm giác Hà Nội y nguyên như hồi gia đình tôi di cư năm 1954. Không có thay đổi, không cất nhà thêm, trông nghèo nàn lắm. Ngoài đường phố ô tô không có, toàn xe đạp không à, và rất nghèo khổ rách rưới. Tôi hiểu miền Bắc họ dồn hết viện trợ vào chiến tranh và đời sống của người dân với họ không quan trọng. Một bên quan trọng đời sống của người dân, một bên làm sao thắng chiến tranh và tất cả dồn cho chiến tranh. Giáo dục từ nhi đồng, đều là tinh thần yêu tổ quốc, chiến đấu theo gương Bác Hồ vĩ đại. Đối với những người miền Nam nghe rất sáo rỗng và buồn cười, nhưng tôi hiểu người miền Bắc lúc đó tinh thần họ như một và họ tin cái đó. Và nhờ những cái dối trá đó đã đưa đến chiến thắng. Mục đích của họ là muốn đánh chiếm miền Nam thì tiền vào súng đạn hết. Dân đói, ăn độn, dùng tem phiếu một tháng được mua mấy lạng thịt hay một năm được mua mấy mét vải. Trong khi miền Nam là một thế giới khác. Bây giờ lại nói đi giải phóng miền Nam, cả những gia đình không phải Cộng sản và Cộng sản, đều có lấn cấn trong đầu bởi vì trong Nam họ sống quá sung sướng, đời sống cao. Phương tiện có rất nhiều, tất cả những tân tiến đã có rất sớm ngay trong thập niên 60.

Nói chống Mỹ cứu nước thì họ phải nói vậy vì họ rất nhất quán. Nghe mới đầu có thể không tin còn ngờ vực nhưng nghe hoài rồi cũng tin. Ông Hồ Chí Minh còn nói đại khái là nếu đánh thắng sẽ giàu mạnh gấp 10 lần năm xưa nên họ càng muốn đi đánh. Nhưng tôi không thể tin được họ có thể nói ra những điều như đi giải phóng miền Nam vì 20 năm người dân miền Nam sống dưới ách nô lệ của thực dân mới Hoa Kỳ, rồi chế độ ngụy,…mà toàn dân vẫn tin. Nên tôi phải bái phục người Cộng sản họ có những lý thuyết như vậy, nhưng trình độ người dân lúc đó không thoát ra được vì họ phải sống khép kín.

Nói đánh Mỹ cứu nước, nhưng ông Hồ Chí Minh là Cộng sản quốc tế từ thời ông qua bên Nga, bên Pháp. Và ông Lê Duẩn thì nói chúng ta đánh Mỹ là đánh luôn cho cả Trung Quốc và Liên Xô. Tức là họ muốn mở rộng chủ nghĩa Cộng sản ra toàn thế giới, đâu phải đánh Mỹ để cứu nước hay giải phóng miền Nam.

RFA: Sau năm 1975, có một khoảng thời gian nhà báo vẫn sống ở Sài Gòn dưới sự điều hành của Chính phủ Hà Nội. Vậy ông nhận thấy điểm khác biệt gì nổi bật ở thời kỳ đó so với trước năm 1975?

Nhà báo Nam Nguyên: Chúng tôi thấy mình ở dưới địa ngục. Những người giàu, kha khá thì ở tầng đầu địa ngục, còn những người nghèo thì ở tầng giữa, hay tầng đáy. Tôi khổ lắm. Khi giải phóng là tôi mất hết nghề nghiệp, rồi bị bóc lột lấy luôn tiền bạc bằng các trận đổi tiền giới hạn số tiền đổi. Nhiều người mất nhà mất cửa, và nền kinh tế suy sụp hoàn toàn vì áp dụng chính sách xã hội chủ nghĩa. Lúc đó ông Đỗ Mười bảo rằng kinh tế quốc doanh theo đúng xã hội chủ nghĩa là tốt nhất, ngăn sống cấm chợ. Lý thuyết của ông ấy là quốc doanh hết, tỉnh này xài không hết thì trung ương sẽ lấy mang đi tỉnh khác chia. Đại khái là kinh tế không có sự lưu thông. Thành ra miền Nam trong 10 năm đầu tiên tan hoang luôn. Nếu họ áp dụng kinh tế thị trường của miền Nam có kiểm soát ngay từ đầu, và đừng có đánh tư sản hay cướp giật của người ta để giải phóng, thì có lẽ không đến nỗi tệ. Về sau ông Võ Văn Kiệt nói rằng có sự tự kiêu của Cộng sản và đã bỏ phí những cơ hội mà để cho mãi đến khi đổi mới 1986 nhưng thực tế phải đến 1990 thì đời sống mới khá lên. Nhưng nó sẽ đến một ngưỡng nào đó thôi, bởi vì vẫn còn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó nửa nạc nửa mỡ giống như độc tài chuyên chế nhưng do tổ chức của Đảng Cộng sản làm.

Những câu chuyện này xảy ra sau giải phóng thật đáng tiếc. Tôi muốn nêu thêm một ví dụ nữa, ở miền Nam năm 1965 dưới thời ông Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, tức là Thủ tướng. Ông ấy có Chính phủ vì người nghèo, ông ấy đã làm một điều mà tôi thấy đến bây giờ Nhà nước Cộng sản vẫn chưa làm được. Ông ấy đã mở Tổng cục Tiếp tế và ở đó bán những thứ mà những người công chức quân đội có thể đến mua với giá rẻ, không có quota hay tem phiếu gì hết. Đặc biệt nữa là hữu sản hóa xe lam cho những người chạy xe lam, bán trả góp. Ông ấy đã thành công điều đó. Đối với cá nhân gia đình quân đội hay công chức, họ được mua trả góp hoặc trả hết. Chính phủ bây giờ còn chưa làm được điều đó cho quân đội hay công chức của mình. Và hữu sản hóa những cái như xe lam tôi thấy lại càng khó. Bây giờ thì họ đã thay đổi, nhưng lại nhiều vấn nạn sinh ra theo kiểu tư bản hoang dã, như lợi ích nhóm,…Cho nên tôi vẫn còn thương người Việt Nam mình lắm!

RFA: Xin chân thành cám ơn những chia sẻ của nhà báo!