TẤM HÌNH LÀM RƠI NƯỚC MẮT

 
 
Hung Tran shared a post.

Đây chính là thành quả cách mạng của đảng và nhà nước.

 
Image may contain: one or more people and people sitting
Việt Tân

TẤM HÌNH LÀM RƠI NƯỚC MẮT

Có những tác phẩm mà chỉ cần nhìn vào, người xem biết được cả một câu chuyện và đây là tấm hình, không biết tác giả là ai nhưng nó đã cho chúng ta biết được nhiều điều.

Biết nhà em nghèo, em phải đi bán vé số. Nhưng em không nghèo bình thường mà nghèo tận mạng mới phải đi bán đến kiệt sức, ngã lăn ra đường mà ngủ thế này.

Biết được em đang sống trong một xã hội vô cãm. Bán vé số là phải bán chỗ đông người, ngay giữa đường phố nhưng em ngủ ngon lành thế, người qua lại vẫn để mặc em nằm đó mà ngủ, chẳng ai đưa em vào một nơi an toàn hơn, chỗ nằm dễ chịu hơn. Họ đều vô cảm hay cả xả hội đều khốn khổ như em?

Biết được nhà nước này chẳng màng đến chuyện trẻ em phải lao động kiếm miếng ăn, không được đến trường, cũng chẳng quan tâm gì đến tuổi trẻ là tương lai đất nước. Họ vô tâm hay họ không đủ khả năng, hay cả hai?

Dù là câu trả lời nào thì cái trách nhiệm lo cho dân cơm no áo ấm vẫn là trách nhiệm của nhà nước, của những người ôm chặt vị trí lãnh đạo từ nhiều chục năm nay không cho người dân có quyền chọn lựa.

Nguồn ảnh: Phương Nguyễn

“Tủ rượu” của người Việt và “tủ sách” của người Do Thái

“Tủ rượu” của người Việt và “tủ sách” của người Do Thái

 Để đất nước và con người Việt Nam phát triển về mọi mặt, bền vững, việc đầu tiên là phải làm sao để “văn hóa đọc” của người Việt lan tỏa và thăng hoa, tạo được thói quen đọc sách và yêu sách.

Hai câu chuyện về cái “tủ sách” và cái “tủ rượu”

Hôm rồi tôi có dịp ghé nhà một ông tá hải quân cùng quê chơi. Ông hiện phụ trách quân lực của cả một vùng. Ông vừa cất xong ngôi nhà (biệt thự thì đúng hơn) và sắm xe hơi mới. Bước vào phòng khách ngôi nhà, ập vào mắt tôi chính là chiếc tủ rượu hoành tráng được gắn sát chiếm diện tích gần nửa bức tường chính diện. Thôi thì đủ thương hiệu rượu danh tiếng: từ Chivas, Hennessy, Napoleon, Johnnie Walker cho tới Vodka xịn tận bên Nga… được gia chủ bày khá ngay ngắn trên kệ. Ông đi giới thiệu cho chúng tôi xuất xứ từng chai rượu: chai này thằng bạn đi nước ngoài về tặng, chai kia đồng nghiệp cho, chai nọ do cấp dưới biếu với giọng khá hào hứng cũng như thể hiện sự am hiểu về rượu ngoại.

Sau khi dẫn chúng tôi đi tham quan quanh khuôn viên nhà, cùng với mấy câu chuyện hỏi thăm nhạt thếch, ông tá nhanh chóng nhập sòng oánh “phỏm” với mấy “thằng đệ”. Trong lúc mấy vị đang say sưa sát phạt, chúng tôi cũng đang ngó nghiêng thứ này thứ kia của căn nhà thì xảy ra một chuyện. Thằng con đầu (con vợ hai, ông đã ly dị vợ cả, hiện đang sống với cô vợ hai kém mình cỡ vài chục tuổi) của ông, tầm 8 tuổi, tranh thủ lúc mọi người trong nhà đang tập trung chuyên môn, lén vào phòng lục túi bố nó lấy mấy tờ 500 ngàn và bị bà nội tóm cổ xách ra báo với phụ huynh.

Một điều khiến chúng tôi khá bất ngờ, đó là lòng “vị tha” của quý phụ huynh. Ông chỉ đánh nó mấy cái nhè nhẹ (chắc sợ thằng bé đau) và mắng nó mấy câu quen thuộc rồi lại tiếp tục lao vào sòng, cách xử lý của ông khiến tôi có lý do để tin thằng bé thực hiện hành động này không phải lần đầu và chắc chắn không bao giờ là lần cuối.

Câu chuyện thứ hai tôi muốn đề cập với các bạn thói quen đọc sách của người Do Thái.

“Trong mỗi gia đình Do Thái luôn luôn có 1 tủ sách được truyền từ đời này sang đời khác. Tủ sách phải được đặt ở vị trí đầu giường để trẻ nhỏ dễ nhìn, dễ thấy từ khi còn nằm nôi. Để sách hấp dẫn trẻ, phụ huynh Do Thái thường nhỏ nước hoa lên sách để tạo mùi hương cho các em chú ý.” 

Tác giả Nguyễn Hương trong bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện” (đăng trên trang tin điện tử Cinet.com của Bộ VH-TT-DL) kể với chúng ta như vậy.

“Mặc dù chỉ có 8 triệu dân nhưng ở Israel có tới hơn 1.000 thư viện công cộng với nhiều sách quý. Bên cạnh việc hình thành, xây dựng thói quen đọc sách từ khi nằm nôi cho trẻ nhỏ, người Do Thái hiện vẫn sử dụng hình ảnh con lừa thồ sách để dạy các con mình: nếu chỉ dừng ở việc đọc mà không biết ứng dụng thì trí tuệ đó cũng chỉ là trí tuệ chết. Và để có thể ứng dụng, trẻ em Do Thái không ngừng đọc sách và tích lũy kiến thức từ nhiều ngành, lãnh vực khác nhau.”

Đó là hai câu chuyện về “tủ rượu” của người Việt và “tủ sách” của người Do Thái, hay nói khác hơn là câu chuyện về “văn hóa đọc” của hai dân tộc cách xa nhau cả về địa lý lẫn khoảng cách văn minh.

Mối tương quan giữa “văn hóa đọc” và sự phát triển

Trong một lần nói chuyện với Giáo sư Chu Hảo, một học giả gạo cội của Việt Nam và đang là Giám đốc Nhà Xuất bản Tri Thức, tôi đưa ra câu hỏi:

“Trên cương vị một học giả và một người làm sách, ông có cảm nhận như thế nào khi người Việt hiện đang chuộng chưng ‘tủ rượu” hơn là ‘tủ sách’ cũng như xin ông cho nhận xét về văn hóa đọc của người Việt hiện nay?” 

Giáo sư trả lời:

“Đó là tư duy của ‘trọc phú’ – ham chuộng vật chất, khoe mẽ hơn là hiểu biết, tri thức,” – về văn hóa đọc của người Việt, ông nhấn mạnh hai chữ “đau lòng”.

Ông và nhà xuất bản Tri Thức hiện đang dịch và phát hành các đầu sách tinh hoa (Tủ sách tinh hoa) của nhân loại như: “Tâm lý học đám đông” (Gustave Le Bon), “Bàn về tự do” (John Stuart Mill)… nhằm giới thiệu và lan tỏa các giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại đến với người Việt. 

Thế nhưng, vị học giả cho biết, một đất nước 90 triệu dân như Việt Nam lại tiêu thụ chưa đầy 1000 cuốn sách dạng trên, trong khi đó tại Nhật Bản thời cải cách Minh Trị – Thiên Hoàng (1866-1869), 30 triệu dân Nhật lại tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách tinh hoa đó!!!

Ông nói thêm, thế nhưng các loại sách tình cảm hời hợt, thậm chí kích dục lại có số lượng tiêu thụ 5000 – 10000 cuốn ở Việt Nam. “Văn hóa đọc của người Việt hiện nay quá kém.” – giáo sư kết luận.

Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách mỗi năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn mỗi năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). 

Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”.

Ở một quốc gia gần hơn trong cộng đồng ASEAN, đó là Malaysia, số lượng sách được đọc trên đầu người là 10-20 cuốn/người/năm (2012, số liệu từ ông Trần Trọng Thành, công ty sách điện tử Aleeza).

Và ở Việt Nam, theo con số do Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công bố ngày 12/04/2013 ngay trước thềm sự kiện “Ngày hội Sách và Văn hóa Đọc”, số lượng sách một người Việt đọc trong một năm là… 0,8 cuốn, nghĩa là người Việt Nam đọc chưa đầy 1 cuốn sách trong 1 năm!!!

“Đọc sách là quá trình làm cho con người hòa hợp về mặt tinh thần với những khối óc vĩ đại của tất cả mọi thời đại, mọi dân tộc.”(M. Gorki) Sách là phương tiện chuyên chở những giá trị tiến bộ, tri thức, những luồng tư tưởng của nhân loại từ ngàn đời nay. Đọc sách giúp chúng ta hiểu biết về thế giới, về bản thân cũng như trang bị cho chúng ta công cụ quan trọng nhất để phát triển – tri thức. 

Đối với cá nhân, nó trang bị cho ta hiểu biết về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa… và nhất là trang bị nền tảng kiến thức cho mỗi cá nhân, trang bị những kĩ năng, lập luận chặt chẽ, thuyết phục, giúp chúng ta có được tư duy độc lập, biết phản biện. Sách giúp chúng ta có thể nhận ra các giá trị, phân biệt chân-giả, cũng như biết nhận định độc lập về một vấn đề, ý kiến nào đó.

Đối với một quốc gia, sách cung cấp nền tảng để phát triển mọi mặt: kinh tế, xã hội, bảo tồn văn hóa cũng như các giá trị tiến bộ và giúp đào tạo nên những con người có đầy đủ kỹ năng để cống hiến cho tổ quốc và xã hội. Bước vào nền kinh tế tri thức, với sự bùng nổ của công nghệ và “đám mây kiến thức”, khi kiến thức, tri thức là nguồn lực chính cho mọi sự phát triển, thì nâng cao và lan tỏa “văn hóa đọc” trong cộng đồng là nhiệm vụ mấu chốt trong chính sách của mọi quốc gia.

Có sự tương quan rõ ràng giữa văn hóa đọc và sự phát triển của một quốc gia. Với những con số ở trên, dễ hiểu vì sao nước Pháp lại có một nền kinh tế, văn hóa và nghệ thuật rạng rỡ như vậy. 

Và nước Nhật có thể đứng dậy thần kỳ sau Thế chiến 2 cũng như vươn lên quật khởi sau bao thiên tai liên miên, hiện đang là nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới với nền khoa học-công nghệ tiên tiến bậc nhất. 

Malaysia đang là ngôi sao mới ở khu vực ASEAN với những chính sách đổi mới và mở cửa đột phá gần đây. Và người Do Thái với câu chuyện ở đầu bài, 

“Một dân tộc 13 triệu dân nhưng sinh ra gần 40% chủ nhân của các giải Nobel; 
– 1/3 trên tống số các nhà triệu phú đang sống và làm việc tại Mỹ là người Do Thái; 
– 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu hiện nay;
– 3 nhân vật sau Công nguyên cho đến hiện tại có tác động lớn nhất đến lịch sử nhân loại là Chúa Jesus, Karl Marx và Alber Einstein…là người Do Thái.”

Mỗi người Việt chưa đọc nổi 1 cuốn sách/năm, ai có thể khẳng định không liên quan đến tình trạng suy thoái toàn diện từ kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội cũng như nhân cách con người hiện nay ở Việt Nam?

Thái độ của người trẻ Việt với “văn hóa đọc”

Thế hệ trẻ chính là những người kế thừa và phát triển, là tương lai của đất nước. Tuổi trẻ cũng là khoảng đời mà con người có tinh thần học hỏi và sáng tạo nhất, là thời kì hoàn thiện về chất, vì vậy là thời kì đòi hỏi con người phải đọc sách nhiều nhất. 

Với số liệu Bộ VH-TT-DL đưa ra ở trên, người trẻ Việt hiện đang làm gì? Xin thưa, phần lớn họ đang ngồi đồng suốt ngày nơi quán game, chém gió tại quán cà phê, để bình phẩm mông, ngực của hot girl này, người mẫu nọ, dành thời gian và “tâm huyết” quan tâm đến mấy vụ kiểu như “Kiều nữ Hải Dương”…

Tiến sĩ Alan Phan, người có hơn 25 năm làm việc ở nhiều quốc gia trên thế giới, người Việt đầu tiên đưa một công ty lên sàn chứng khoán, nhận xét: 

“Ở các nước Âu – Mỹ, thời gian rảnh sinh viên họ thường ngồi trước computer đọc tin tức, tìm thông tin hay đọc sách. Còn sinh viên Việt Nam, họ đang bận “ngồi đồng” chém gió tại các quán cà phê, trà đá.” Tại các nước phương Tây hoặc Nhật Bản, hình ảnh chúng ta thường thấy trên xe buýt, tàu điện ngầm hay ngay cả trên đường phố là hình ảnh các bạn học sinh, sinh viên say sưa với cuốn sách trên tay.

Mỗi lần theo dõi các cuộc tranh luận của giới trẻ Việt Nam về các vấn đề “hot” trên các diễn đàn, mạng xã hội, chúng ta sẽ thấy rõ sự thiếu hiểu biết, thiếu văn hóa cũng như trình độ… ngụy biện bậc thầy của các bạn trẻ. 

Các bạn không tự trang bị được cho mình một nền tảng kiến thức, tư duy độc lập, lập luận thuyết phục cũng như kĩ năng, văn hóa tranh biện. Tâm lý bầy đàn luôn thể hiện rõ nhất ở những sự kiện như vậy. Sự kiện cô bạn trẻ Huyền Chip và cuốn “Xách ba-lô lên và đi”, một trong những sự kiện nóng và được giới trẻ tranh luận nhiều nhất trong năm 2013, là một ví dụ điển hình.

Có hai luồng tranh luận chính trong sự kiện Huyền Chip, một luồng ủng hộ và một luồng phản đối. Tuy nhiên, với cả hai luồng, để tìm được những tranh luận văn minh, thuyết phục, dẫn chứng rõ ràng là vô cùng hiếm hoi. Chỉ toàn thấy comment (bình luận) mang tính “ném đá”, mạt sát, hạ nhục cá nhân.

Ngay cả những trí thức như Giáo sư Nguyễn Lân Dũng cũng bị các bạn trẻ chúng ta dọa “vả vỡ mồm”!!! Đâu đó cũng có những người học hành bài bản, như một chàng Fulbrighter nọ, tham gia cuộc tranh luận và lôi kéo đám đông mù quáng bằng những luận điệu rẻ tiền và vô văn hóa, nghe đâu đó là một chiêu PR trước khi anh ta ra cuốn sách mới của mình.

Trước mỗi sự kiện truyền thông đưa ra, các bạn trẻ không thể phân biệt được đâu là tin thật, đâu là tin giả, đâu là chiêu PR. Một bộ phận như những con cừu ngoan ngoãn, họ chỉ biết bám đuôi nhau và gật đầu. Bộ phận còn lại nghe cái gì cũng kêu “bậy” dù chẳng có dẫn chứng, cơ sở nào để phản biện lại.

Họ đang bị cuốn theo “cơn lốc thông tin” cũng như sự dắt mũi của một bộ phận giới truyền thông thiếu đạo đức và liêm sỉ, đang “nhồi sọ” người đọc với những tin tức dạng “sốc, hiếp, giết”, kiếm tiền dựa trên sự ngu muội của người khác.

Ai có thể phủ nhận đó không phải là hậu quả của việc lười đọc sách và học hỏi?

Kết

Câu chuyện về cái “tủ rượu” của ông tá hải quân trong câu chuyện đầu bài và cái “tủ sách” của người Do Thái, hay câu chuyện “văn hóa đọc” của người Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với khoảng cách phát triển hiện tại giữa chúng ta với thế giới. 

Để đất nước và con người Việt Nam phát triển về mọi mặt, bền vững, việc đầu tiên là phải làm sao để “văn hóa đọc” của người Việt lan tỏa và thăng hoa, tạo thói quen đọc sách và yêu sách. Muốn phát triển như Âu-Mỹ, Nhật hay người Do Thái, trước hết phải học hỏi văn hóa đọc từ họ. Phải làm sao nhà nhà đều có “tủ sách” để tự hào và gieo hạt, chứ không phải là “tủ rượu” để khoe mẽ vật chất và phô trương cái tư duy trọc phú. Mọi thay đổi phải bắt đầu từ thế hệ trẻ.

 

Theo “Triết Học Đường Phố”

DANH SÁCH NHỮNG QUÂN NHÂN QLVNCH ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VNCH

Dien Hong Tran shared a post.
 
No automatic alt text available.

Vinh Thach Le

1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975 
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat. 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
7- Đại Tá Lê Cầu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975 ?(Ghi chú của BVCV: xem tin cập nhậttại đây)
8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ – Cục An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh
12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975
13- Trung Tá Vũ Đình Duy, trưởng Đoàn 66 Đà Lạt 30/4/1975
14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu. Tự sát ngày 30/4/1975
15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. 30/4/1975 tự sát cùng vợ
18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75
20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
21- Đại Úy Tạ Hữu Di, tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
24- Trung Sĩ Trần MinhTrần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa 29/4/1975
27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt 30/4/1975
28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75
29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu,
(*) xem ý kiến độc giả tại đây trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM
31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, CS đặc biệt, 30/4/1975 tự sát tại Thanh Đa, Sài Gòn
32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa
35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975
36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu
39- ……………………………..

Và còn rất nhiều rất nhiều tấm gương sáng của những người anh hùng QLVNCH

Máy bay Vietnam Airlines ‘đáp lộn phi đạo’, chim va vào máy bay Vietjet

Máy bay Vietnam Airlines ‘đáp lộn phi đạo’, chim va vào máy bay Vietjet

Toàn bộ phi hành đoàn chuyến bay VN7344 của Vietnam Airlines bị đình chỉ sau vụ đáp lộn phi đạo. (Hình: Báo điện tử VietnamNet)

KHÁNH HÒA, Việt Nam (NV) – Đêm 29 Tháng Tư, tin cho hay, Cục Hàng Không Việt Nam thông báo đình chỉ công tác toàn bộ phi hành đoàn chuyến bay VN7344 của hãng hàng không quốc doanh Vietnam Airlines vì đáp lộn phi đạo ở phi trường Cam Ranh.

Theo truyền thông Việt Nam, chuyến bay này chở 203 hành khách từ Sài Gòn ra Cam Ranh, đã đáp xuống phi đạo số 2 “chưa được đưa vào khai thác” tại Cảng Hàng Không Quốc Tế Cam Ranh vào lúc 14 giờ 53 phút hôm 29 Tháng Tư.

Báo điện tử VietnamNet tường thuật rằng, vào thời điểm máy bay đáp, thời tiết tại phi trường Cam Ranh tốt, các hệ thống trang thiết bị liên quan hoạt động bình thường. Sau khi máy bay đáp, tất cả hành khách đều an toàn, không ai gặp vấn đề về sức khỏe. Toàn bộ hành khách, hành lý và phi hành đoàn được phục vụ bình thường và đưa vào nhà ga phi trường.

Động cơ chiếc máy bay đáp lộn phi đạo có nhiều ‘vật lạ’ kẹt vào. (Hình: Báo Pháp Luật)

Trong khi đó, báo Tuổi Trẻ cho hay, vụ này xảy ra vì phi trường không có biển báo rõ ràng về phi đạo đang sử dụng và phi đạo chưa sử dụng. Vụ việc đang được Cục Hàng Không Việt Nam điều tra.

Tờ báo tiết lộ động cơ của chiếc máy bay đáp lộn phi đạo “bám đầy mẫu vật nghi là đất, vật liệu xây dựng” làm dấy lên suy đoán rằng phi đạo này đang xây dựng và động cơ máy bay “có thể bị hư hại nặng.”

Việc đáp lộn phi đạo của máy bay Vietnam Airlines được cho là có thể ảnh hưởng xấu đến phiên đấu giá cổ phiếu của hãng này dự kiến diễn ra vào sáng ngày 22 Tháng Năm, 2018 tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội.

Theo báo Tuổi Trẻ, Bộ Giao Thông Vận Tải dự kiến “thu về 2,200 tỷ đồng ($97.1 triệu) từ phiên đấu giá này,” do Bộ đại diện sở hữu hơn 86.16% vốn điều lệ tại Vietnam Airlines trong lúc hãng “có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu ưu đãi cho cổ đông để tăng vốn.”

Ông Dương Trí Thành, tổng giám đốc hãng Vietnam Airlines được báo Tuổi Trẻ tháng trước dẫn lời: “Nếu Cục Hàng Không đạt chuẩn CAT 1, có thể Vietnam Airlines sẽ mở đường bay thẳng sang Mỹ ngay đầu năm 2019. Hãng cũng sẽ nỗ lực để có lợi nhuận trên các chuyến bay thẳng giữa Việt Nam và Mỹ.”

Hãng Vietjet nói họ phải hủy bảy chuyến bay trong ngày 29 Tháng Tư để bảo dưỡng máy bay bị ảnh hưởng. (Hình: báo Thanh Niên)

Trước vụ của Vietnam Airlines, một ‘trục trặc hàng không’ hy hữu khác xảy ra đêm 28 Tháng Tư tại phi trường Cát Bi ở Hải Phòng: Một máy bay của hãng hàng không Vietjet Air khi đang đáp xuống thì “bị chim va vào cánh máy bay.”

Chiếc máy bay này trong hành trình từ Cam Ranh (Nha Trang) đến Hải Phòng.

Theo báo Zing, vụ va chạm “không gây thiệt hại đáng kể,” nhưng Vietjet “phải hủy bảy chuyến bay trong ngày 29 Tháng Tư để kiểm tra, bảo dưỡng máy bay” và hơn 10 chuyến bay khác “bị ảnh hưởng dây chuyền.”

Hồi Tháng Hai, 2018, nhiều báo nhà nước ở Việt Nam cùng đồng loạt đưa tin về chuyến bay của hãng hàng không VietJet Air chở miễn phí 150 công nhân và sinh viên nghèo sinh sống ở Sài Gòn, Bình Phước và Đồng Nai, về quê nhà họ ở miền Bắc.

Việc làm này được cho là nhằm gỡ gạc hình ảnh thương hiệu sau vụ hãng bay bị công luận chỉ trích kịch liệt vì “chiêu đãi” đội tuyển bóng đá U23 Việt Nước về nước với màn trình diễn bikini “phản cảm” trên chuyến bay hồi Tháng Giêng, 2018. (T.K.)

USCIRF: Việt Nam cần được đưa trở lại vào danh sách CPC


Việt Nam năm nay tiếp tục bị xếp vào nhóm các nước mà ở đó chính phủ thực hiện hoặc dung chấp những vụ vi phạm tự do tôn giáo "đặc biệt nghiêm trọng," theo báo cáo năm 2018 của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế.
Việt Nam năm nay tiếp tục bị xếp vào nhóm các nước mà ở đó chính phủ thực hiện hoặc dung chấp những vụ vi phạm tự do tôn giáo “đặc biệt nghiêm trọng,” theo báo cáo năm 2018 của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế.

Báo cáo hàng năm của ủy hội độc lập và lưỡng đảng này của chính phủ liên bang Hoa Kỳ ghi nhận những vụ vi phạm tự do tôn giáo và tiến bộ ở 28 nước, trong đó có Việt Nam, và đưa ra khuyến nghị với chính phủ Hoa Kỳ.

Việt Nam năm nay tiếp tục bị xếp vào Nhóm 1 bao gồm các nước mà ở đó chính phủ thực hiện hoặc dung chấp những vụ vi phạm tự do tôn giáo “đặc biệt nghiêm trọng,” nghĩa là những vi phạm này có tính hệ thống, đang tiếp diễn và hết sức tệ hại, theo tiêu chuẩn của USCIRF.

Ủy hội nói Việt Nam cần được định danh là Nước Cần Được Quan tâm Đặc biệt (CPC) về tự do tôn giáo vì những vi phạm đó, một danh sách từng có tên Việt Nam cho đến năm 2006. Danh sách này hiện bao gồm Ả-rập Saudi, Eritrea, Iran, Myanmar, Sudan, Tajikistan Triều Tiên, Trung Quốc, Turkmenistan và Uzbekistan.

Dù ghi nhận một điểm sáng là Việt Nam tôn trọng sự đa dạng tôn giáo, báo cáo nhận định Việt Nam đã tăng cường sách nhiễu, bắt bớ, bỏ tù, và tra tấn những nhà hoạt động ôn hòa, những người bất đồng chính kiến, và các blogger, bao gồm những người có tín ngưỡng.

“Những diễn biến này không phải là dấu hiệu tốt đẹp cho Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo mới của Việt Nam,” có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2018, báo cáo nói.

“Sự sẵn lòng trước đây của chính phủ Việt Nam giao tiếp với các tác nhân quốc tế, bao gồm Hoa Kỳ, về tự do tôn giáo và nhân quyền có liên quan đã bị tổn hại đáng kể vì nước này không ngừng nhắm mục tiêu vào những cá nhân và tổ chức tôn giáo suốt cả năm 2017,” báo cáo nói thêm.

Trong số nhiều khuyến nghị đưa ra cho chính phủ Mỹ, USCIRF kêu gọi sử dụng “những công cụ có mục tiêu” nhắm vào các quan chức và cơ quan cụ thể của Việt Nam bị xác định là có tham gia hoặc chịu trách nhiệm về những vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo, bao gồm cả từ chối visa và phong tỏa tài sản theo Đạo luật Magnitsky Toàn Cầu.

Việt Nam khẳng định họ luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và nói rằng điều này được thể hiện trong đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn.

Xứ “Thiên đường” và “cuộc giải phóng”

Xứ “Thiên đường” và “cuộc giải phóng”

J.B Nguyễn Hữu Vinh
2018-04-28
 

Người lính Bắc Việt trên một chiếc xe tăng tiến vào khu vực dinh Độc Lập, Sài Gòn hôm 30/4/1975

Người lính Bắc Việt trên một chiếc xe tăng tiến vào khu vực dinh Độc Lập, Sài Gòn hôm 30/4/1975

 AFP
 

Ngày 27/4/2018, hai nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) đã bắt tay nhau, hứa hẹn một hiệp ước chấm dứt chiến tranh trong năm nay.

Hai kẻ thù địch đã từng không ngại ngần dành cho nhau những ngôn từ thù địch, gọi nhau bằng những hỗn danh không mấy đẹp đẽ và thể hiện cho thiên hạ biết họ có thể nhai tươi xé xác nhau nếu có thể.

Họ cũng đã từng nã súng vào nhau và đe dọa biến một nửa đất nước thành tro bụi, chi biết bao nhiêu sức dân, tiền của để diễu võ dương oai đe dọa lẫn nhau dù người dân Bắc Hàn đang chết đói.

Nay đã tươi cười bắt tay nhau hứa hẹn một sự hòa bình.

Sự kiện này trùng vào những ngày Việt Nam đang hô hào kỷ niệm “Chiến thắng 30/4, giải phóng Miền Nam” gợi lại cho người ta nhiều suy nghĩ.

Thiên đường và địa ngục

Khi thế giới chia phe, hệ thống cộng sản đang trên đà phát triển làm mưa, làm gió gây bao tại họa trên thê giới, nhiều đất nước đã là nạn nhân của nó.

Trừ những đất nước hứng trọn những cuộc chiến tranh, những đất nước đã hoàn toàn nằm trong cơn bão cộng sản, rồi thoát ra và từ bỏ nó sau khi đã thấm đòn đại họa ấy, thì vẫn có những đất nước bị chia cắt bằng những cuộc chiến tranh hoặc phân chia ranh giới, giới tuyến. Thế rồi những người đồng chủng, đồng huyết trở lại trở thành kẻ thù của nhau, và xương máu lại cứ vậy mà đổ theo năm tháng.

Những đất nước bị họa cộng sản chia cắt có thể kể đến như Đức, Triều Tiên, Việt Nam và Trung Cộng.

Sở dĩ chúng ta nói rằng việc chia cắt là do đại họa cộng sản, dù ở đó có đủ cả hai bên. Chỉ vì những sự chia cắt đó,có nguyên nhân là sự tồn tại của cộng sản. Bởi sau đó, khi người dân đã hiểu ra thế nào là cộng sản, thế nào là dân chủ, thì họ sẵn sàng vứt bỏ và bằng mọi cách để trốn khỏi “Thiên đường Cộng sản”.

Cộng sản bằng hệ thống tuyên giáo hùng hậu thường xuyên tuyên truyền về chế độ và đất nước Cộng sản như một “thiên đường nơi trần thế” với những chiếc bánh vẽ mang tên “Ngày mai”. Thế rồi họ lại đánh tráo khái niệm tạo nhầm lẫn giữa cái “Ngày mai” và cái hiện tại, để ca ngợi cuộc sống khốn khó ở các vùng cộng sản như là khuôn mẫu và là mơ ước của loài người.

Ngược lại, cũng qua hệ thống tuyên truyền cộng sản, thì tại các lãnh thổ khác không cộng sản, chỉ có nghèo đói, lạc hậu, man rợ và… không đáng sống.

Thế nhưng, thực tế được sáng tỏ hơn sau khi bức màn sắt vây kín những vùng cộng sản cách biệt thế giới bên ngoài được gỡ bỏ.

Khi đó, cả đất nước, cả dân tộc giật mình.

Điều có thể nhìn thấy trước mắt không thể chối cãi, là cùng một dân tộc, cùng một màu da, cùng điều kiện thiên nhiên, địa lý và con người. Nhưng hễ vùng nào theo cộng sản, thì ở đó hiện diện sự nghèo đói, khốn khổ, lạc hậu và con người không còn nhân phẩm bởi quyền con người không được hiện diện.

Cùng là người Hán, nhưng thử nhìn xem vùng đại lục của Trung Cộng và Đài Loan, Hong Kong, Ma Cao là những nơi mà “bọn tư bản giãy chết” đã “cai trị nhân dân lao động” thì cuộc sống kinh tế, xã hội cũng như đời sống người dân hai bên ra sao.

Thử nhìn xem, cuộc sống của người dân Đông Đức và Tây Đức như thế nào khi một bên theo Chủ nghĩa Cộng sản.

Và hãy nhìn xem, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, hai miền của một đất nước, cùng một dân tộc, cùng màu da và điều kiện địa lý thì ở đâu mới là địa ngục và ở đâu thật sự là thiên đường.

Và ước mơ của những vùng đó, khu vực đó của người dân là mong rằng sớm có ngày để được có cuộc sống như những người dân đồng chủng, đồng tộc của mình bên kia giới tuyến.

Tôi đã đến Thâm Quyến, một thành phố đặc khu mới xây dựng và phát triển bên cạnh HongKong, Con sông Thâm Quyến ngăn chia giữa hai khu vực chưa đủ, giữa sông có cả một bức tường bê tông rất cao và trên đó là hệ thống dây điện trần.

Người dân ở đây cho chúng tôi biết rằng: Khi đất nước Trung Quốc dưới thời Cộng sản sắt máu nhất lính Trung Quốc lập đồn dọc theo bờ sông, sẵn sàng xả đạn bất cứ ai vượt qua ranh giới.

Thế nhưng, hàng năm vẫn có hàng đoàn người từ các làng trong nội địa đại lục, di chuyển ra bờ sông và đổ bộ vượt sông bất chấp mọi nguy hiểm bởi sông sâu, bởi lính xả đạn, bởi điện cao thế. Họ công kênh nhau qua hàng rào để vượt sang “địa ngục” dù cho trăm người chỉ có một ít người thoát.

Cũng bức tường Berlin là nơi đã chứng kiến những người liều mình vượt qua cõi chết để chạy trốn khỏi “thiên đường cộng sản”.

Điều đó, hầu như ai cũng biết, kể cả hệ thống tuyên giáo.

Thế nhưng, cái thói dối trá thành bản năng, sự lỳ lợm cố hữu và tính kiêu ngạo cộng sản đã không để cho họ nhìn nhận lại, lấy lợi ích của người dân, của dân tộc và đất nước làm trọng. Họ chỉ giữ chắc cái “chính quyền” mà họ đã cướp được từ tay người dân bằng mọi giá.

Và họ càng không thể từ bỏ cái ngai vàng cướp được để lo cho đời sống xã hội và đất nước.

Và vì thế, họ đày đọa cả dân tộc, cả đất nước chìm vào sự khốn khó, cái chết, sự nhục nhã và tối tăm.

Mặt khác, những người cộng sản luôn mồm kêu gào sẽ tiến hành “giải phóng” người dân ở bên kia giới tuyến. Mới đây thôi, Bắc Triều Tiên còn hô hào toàn dân chuẩn bị “Giái phóng” miền Nam.

Những cuộc “Giải Phóng”

Thế rồi các vùng lãnh thổ, đất nước cũng dần dần được thống nhất, hòa nhập với nhau. Điển hình là giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức.

Hai nước Đức đã sáp nhập ngoạn mục mà không cần tiêu hao một viên súng đạn. Có điều, bên “địa ngục” CHLB Đức đã phải oằn mình để chấp nhận cưu mang và gánh đỡ cho bên “thiên đường” CHDC Đức vốn nghèo đói, lạc hậu và chậm phát triển hơn nhiều lần. Mấy chục năm đã qua, gánh nặng đó vẫn chưa được thanh toán hết.

Các vùng lãnh thổ như HongKong và Macao cũng dần dần được trả về cho Trung Quốc. Tuy nhiên, nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc buộc phải chấp nhận để các vùng lãnh thổ đó một chế độ hành chính khác biệt bởi người dân ở đó không chấp nhận sự thống trị của hệ thống Cộng sản.

Và dù nhiều lầ tuyên bố, dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa… nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc cũng không thể thuyết phục được Đài Loan “trở về” để thống nhất với đại lục. Chỉ bởi mọi người dân nơi đây sợ hãi chế độ “thiên đường cộng sản”.

Và giờ đây, Bắc và Nam Triều Tiên cũng bước đầu có những cái bắt tay hữu nghị để nói đến vấn đề hòa bình.

Tuy nhiên, để sáp nhập hay thống nhất làm một, thì chắc chắn bên “địa ngục” Nam Triều Tiên còn phải xem lại nhiều điều. Bởi những hệ lụy khi phải gánh cả một cái “thiên đường” mà ở đó, hàng triệu người dân chết đói thê thảm chỉ để cho cha con họ Kim đua nhau xây lâu đài tráng lệ và ăn chơi xa hoa rồi đổ tiền chế bom dọa cả thế giới cho xứng với danh hiệu “Côn đồ quốc tế” là vô cùng to lớn.

Thế mới hiểu là dù Bắc Triều Tiên có mời sang “xâm lược”, thì Nam Triều Tiên đâu dễ đồng ý.

Cho nên, những ngôn từ quen thuộc để tuyên truyền của hệ thống cộng sản như “Đế quốc Mỹ xâm lược” hay chế độ ngụy quyền, giải phóng… đã dần dần bị thực tế bác bỏ thẳng thừng.

Còn ở Việt Nam, sau khi “Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” mới ký ráo mực được 2 năm, thì miền bên “thiên đường miền Bắc” đã mở cuộc tấn công bằng đại bác, bom đạn, súng và xương máu người dân để… “giải phóng” một vùng lãnh thổ giàu có, văn minh và hiện đại hơn mình rất nhiều lần.

Và ngày 30/4/1975, đánh dấu một “chiến thắng” của bên “thiên đường” trong cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc mà mục đích là bảo vệ cho hai hệ thống tư tưởng khác nhau và đối tượng cũng chính là nạn nhân, là người dân Việt Nam cả hai miền đã phải bỏ mạng hàng chục triệu người.

Qua hệ thống tuyên truyền cộng sản, người dân cứ tưởng rằng, khi họ được “giải phóng” thì người dân sẽ được hưởng cuộc sống “độc lập – tự do – hạnh phúc” như người cộng sản rêu rao.

Nhưng, đã gần nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày được “giải phóng” người dân không chỉ miền Nam, mà cả đất nước đang đứng trước một tương lai mù mịt về số phận người dân.

Tài nguyên đất nước cạn kiệt bởi dưới sự lãnh đạo “thống nhất, tuyệt đối của đảng” cả hệ thống đua nhau đào lên bán, đua nhau tranh cướp tham nhũng và phá hoại.

Nợ nước ngoài chồng chất, hầu như công việc nhà nước có thể làm, là nghĩ ra đủ các loại thuế, phí, và cướp của dân bằng mọi cách để đổ cho đầy túi đám quan tham chỉ biết ăn tàn, phá hại.

Mỗi người dân được đảng và nhà nước chia đều và để lại cho món nợ nước ngoài hàng chục triệu đồng, tha hồ để làm hồi môn cho các thế hệ sau.

Con người bị tha hóa về mọi mặt, xã hội được “lãnh đạo” bởi hệ thống các “cháu ngoan của Bác” và là “con người mới XHCN” đưa đất nước sang lệ thuộc Bắc Kinh, lãnh thổ dần dần mất vào tay giặc, dân tộc lầm than và bị khinh miệt.

Môi trường sống về vật chất, chính trị, không khí cho đến văn hóa, tư tưởng và tâm hồn luôn bị đầu độc bằng mọi cách. Sự suy đồi được coi là chuyện bình thường, đạo đức xã hội chỉ là một khái niệm.

Đã gần nửa thế kỷ qua đi, nhưng, những thế lực “thắng cuộc” vẫn chưa hả hết cơn thù địch và tàn ác của mình với chính đồng bào ruột thịt chứ chưa nói đến cái bắt tay hoặc câu chào đối với bên “thua cuộc”.

Đó là tai họa của dân tộc này, khi sự thù địch vẫn được nuôi dưỡng hằng ngày một cách cực đoan thì đất nước, xã hội không thể tiến bộ.

Và tương lai đất nước, dân tộc mù mịt người dân lại tìm cách thực hiện “Cuộc bỏ phiếu bằng chân” lần thứ 3 với Chủ nghĩa Cộng sản – Chạy ra nước ngoài dù phải làm nô lệ.

Những ngày cuối cùng của VNCH

Những ngày cuối cùng của VNCH

Nam Nguyên, RFA
2015-04-20
 

Ảnh minh họa ngày 30 tháng tư năm 1975

Ảnh minh họa ngày 30 tháng tư năm 1975

 Files photos
Bốn mươi năm trước, vào ngày 30/4/1975, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 2 thập niên đã kết thúc. Cuộc chiến quốc-cộng đã làm 2 triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam-Bắc bỏ mạng cùng sự hy sinh của hơn 58 ngàn người thuộc lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh.

Nam Việt Nam lúc đó đã kết thúc sứ mệnh “tiền đồn của thế giới tự do” một cách nhanh chóng và cay đắng. Những ngày cuối cùng của VNCH đã diễn ra như thế nào?

Vỡ trận

Tháng 3/1975 trước thực tế tiềm lực quân sự suy yếu, đạn dược chỉ còn đủ dùng trong 30 ngày, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu quyết định tái phối trí lực lượng. Tuy vậy quyết định triệt thoái khỏi cao nguyên Trung phần tức Quân khu II và cách thức mà các tư lệnh chiến trường thực hiện nó là một sai lầm lịch sử. Sự hỗn loạn dẫn tới việc mất luôn cả khu vực Quân khu I ở phía Bắc Việt Nam Cộng Hòa, Huế rồi Đà Nẵng thất thủ và sự sụp đổ dây chuyền kéo dài tới quê hương của Tổng thống Thiệu là Phan Rang.

Trước áp lực từ nhiều phía, ngày 21/4/1975 Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu quyết định từ chức và rời khỏi Việt Nam hai ngày sau đó.

“Thưa đồng bào, anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo Hiến pháp, Phó Tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức Tổng thống…”

Khi nhà giáo Trần Văn Hương trở thành vị Tổng thống thứ ba của chế độ VNCH, thì cũng là lúc mặt trận Xuân Lộc tuyến phòng thủ cuối cùng của Saigon đã vỡ, các lực lượng của VNCH can trường chịu thiệt hại nặng và giữ vững được 12 ngày đêm.

Bàn giao – Diễn văn lịch sử

Giữ chức Tổng thống VNCH được 5 ngày và bất lực trước tình hình sụp đổ nhanh chóng, ngày 26/4/1975 Tổng thống Trần Văn Hương yêu cầu Quốc hội tìm người thay thế mình, một người mà theo ông có đủ khả năng tìm giải pháp vãn hồi hòa bình hòa giải dân tộc. Quốc hội VNCH ra nghị quyết chỉ định Đại tướng Dương Văn Minh vào chức vụ Tổng thống. Trên thực tế Hiến pháp VNCH đã không còn được thi hành từ thời điểm này.

Chiều 28/4/1975 lễ bàn giao giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương Văn Minh được tổ chức tại Dinh Độc Lập. Nam Nguyên của ban Việt ngữ RFA lúc đó là Đặc phái viên của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia đã thực hiện cuộc Trực tiếp Truyền thanh cuối cùng của mình từ Dinh Độc Lập. Đoạn ghi âm lịch sử mà quí thính giả sắp nghe là những lời của Tổng thống Trần Văn Hương đan xen với tường thuật của Phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến thuộc Hệ thống Truyền thanh Việt Nam:

Tổng thống Trần Văn Hương: “…Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của Đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng…(vỗ tay)

Phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến : “…Sau khi nguyên Tổng thống Trần Văn Hương đọc xong bài diễn văn trao nhiệm, chúng tôi nhận thấy một sĩ quan đã gỡ huy hiệu Tổng thống hai con rồng bay xuống…và thay thế bằng một huy hiệu Tổng thống mới với hình một hoa mai năm cánh…Đây là Phóng viên Hệ thống Truyền thanh Việt Nam, quí thính giả đang theo dõi Trực tiếp Truyền thanh lễ trao nhiệm chức Tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn Minh…Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài dinh Độc lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…”

Một trong hàng triệu thính giả đã nghe cuộc trực tiếp truyền thanh lịch sử ngày 28/4/1975 là ông Nguyễn Quốc Thái, một nhà báo thuộc nhóm tạp chí Hành Trình, Đất Nước và Trình Bầy. Ba tờ báo này do một nhóm trí thức công giáo được cho là thiên tả chủ trương và có khuynh hướng đối lập với chính phủ. 40 năm sau cuộc bàn giao lịch sử giữa hai vị Tổng thống Trần Văn Hương và Dương Văn Minh, từ Saigon ông Nguyễn Quốc Thái cho biết cảm nhận của ông vào thời điểm chiều 28/4/1975:

“Lúc đó tôi biết mọi chuyện đã xong rồi; có một hiển hiện rõ ràng là tất cả những người có thể giữ lại miền Nam thì đã rời khỏi miền Nam. Đây là một cuộc bàn giao theo sắp xếp, nhưng có người hoang tưởng rằng việc đảm nhận chức vụ đó có thể trao đổi thỏa thuận với phía bên kia là Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam… Nếu nhìn lại cuộc bàn giao đó thì thấy rằng đây là một cái gạch nối quá ngắn, mà chỉ làm một cái việc đã được sắp xếp, đã được hứa hẹn trong hoang tưởng của người nhận trách nhiệm lúc đó.”

Khí tiết Việt Nam: tướng chết theo thành

4 thập niên sau ngày sụp đổ của Miền Nam Tự do dưới danh xưng Việt Nam Cộng Hòa, nhiều tài liệu lịch sử đã được bạch hóa cho thấy Hoa Kỳ chỉ mong muốn việc rút quân của họ được an toàn trong một khoảng thời gian nhất định và thích hợp; tương lai của VNCH hầu như đã được quyết định trong Hiệp định Paris 27/1/1973. Nam Việt Nam rơi vào số phận nghiệt ngã vì bị đồng minh bỏ rơi, những mật ước của Tổng thống Nixon với TT Thiệu đã đi vào quên lãng. Hoa Kỳ đã không can thiệp quân sự khi phía Cộng sản vi phạm Hiệp định Paris lấn chiếm lãnh thổ với những cuộc tấn công qui mô.

Vào những ngày cuối cùng của Nam Việt Nam, Đại tướng Dương Văn Minh được xem là người thích hợp nhất để nhận trách nhiệm ra lệnh đầu hàng; mặc dầu bản thân ông Minh và bộ tham mưu của ông có thể có những người vẫn còn tin vào giải pháp chính phủ liên hiệp như Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Nhậm chức chưa đầy 48 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, tuyên bố của ông được phát đi trên hệ thống Truyền Thanh Quốc gia vào buổi trưa ngày 30/4/1975.

“Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận Lễ bàn giao Chính quyền trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào…”

Sau khi Đài Phát Thanh Saigon lập đi lập lại lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh, cũng như nhật lệnh tương tự của Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được bổ nhiệm làm phụ tá cho Trung tướng Vĩnh Lộc vị Tổng Tham mưu trưởng sau cùng, quân đội đã thi hành lệnh giao nạp vũ khí cho những người chủ mới của đất nước. Nhiều vị tướng lãnh, sĩ quan cao cấp đã tuẫn tiết sau lệnh đầu hàng như Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn tướng Trần Văn Hai…

Xe tăng Cộng sản Bắc Việt tiến vào khuôn viên Dinh Độc Lập, bộ đội xe tăng treo lá cờ của Mặt trận Giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11g 30 trưa ngày 30/4/1975, đánh dấu sự cáo chung của chế độ VNCH. Miền Nam tự do hay VNCH là một chế độ được xây dựng bởi những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản và được Hoa Kỳ hỗ trợ. Chế độ ấy trải qua hai nền cộng hòa và tồn tại được 21 năm. Cuộc chiến Quốc – Cộng giữa những người cùng chung giòng máu nhưng khác ý thức hệ đã làm thiệt mạng hơn hai triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam-Bắc. Phía đồng minh của VNCH, 58.000 quân nhân Mỹ tử trận cùng hàng ngàn binh sĩ khác của các nước đồng minh như Nam Hàn, Thái Lan, Úc và Tân Tây Lan.

Tiếp thu dinh Độc Lập

Thưa quí thính giả, cũng là một sự tình cờ lịch sử, khi cờ của Mặt trận Giải phóng đã tung bay trên Dinh Độc Lập, thì các đại diện chính trị của bên Cộng sản chưa vào tới Saigon để tiếp nhận Chính quyền. Do vậy ông Bùi Tín lúc đó là Trung tá trong vai trò một nhà báo Cộng sản Bắc Việt, cũng là người có cấp bậc cao nhất và được bộ đội xe tăng ủy quyền vào Dinh gặp Chính quyền Dương Văn Minh. Ông Bùi Tín hiện nay tỵ nạn chính trị ở Pháp. Năm 2005 từ Paris ông Bùi Tín kể lại giây phút lịch sử khi ông giáp mặt ông Dương Văn Minh và toàn thể nội các Vũ Văn Mẫu:

SB: “ Tôi là người đầu tiên tiếp xúc, ông Dương Văn Minh và tất cả đứng dậy…ông Minh nói là chúng tôi chờ quí vị tới từ sáng nay, đặng chuyển giao chính quyền….Tôi có trả lời là, tất cả chính quyền các ông không còn nữa qua cuộc tấn công của chúng tôi…cho nên không thể bàn giao cái gì đã không còn nữa…”

Do sự kiện cựu Đại tá Bùi Tín, Phó Tổng biên tập báo Nhân dân đã tỵ nạn chính trị khi sang Pháp dự Hội Báo L’humanité năm 1990, kể từ đó báo chí Hà Nội tường thuật những câu chuyện hoàn toàn khác với lời kể của ông Bùi Tín.

Vào những thời khắc sau cùng của chế độ VNCH, chuyện gì xảy ra ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ? Câu hỏi này đã được chúng tôi đặt ra với ông Robert Funsett, người vào thời điểm đó đang là Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Năm 2005 ông Funsett kể lại với Ban Việt Ngữ chúng tôi như sau:

“Ðúng giờ này, vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, giờ Washington tức rạng sáng 30/4 theo giờ Việt Nam, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ Trung Tâm Ðiều Hành ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuối cùng với ông Ðại Sứ Graham Martin.

Ðại Sứ Martin chưa muốn rời Việt Nam, vì ông ta muốn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị  ông đại sứ phải rời nhiệm sở. Ông đại sứ Martin nói chuyện với chúng tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo là sẽ lên sân thượng của Tòa Ðại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội. Không đầy một giờ đồng hồ sau đó, đại sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên.”

Đồng minh bội ước

Sau 4 thập niên từ khi chấm dứt chiến tranh các tài liệu hồ sơ của Tòa Bạch Ốc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã được bạch hóa. Số phận của Việt Nam Cộng Hòa đã được định đoạt và Nam Việt Nam sẽ chỉ tồn tại cho đủ thời gian để Hoa Kỳ rút chân khỏi cuộc chiến một cách an toàn. Đây là một thực tế phũ phàng của lịch sử. Việt Nam Cộng Hòa có cái giá phải trả khi hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ của Hoa Kỳ.

Bị Washington cắt viện trợ quân sự và kinh tế, VNCH đơn độc trong cuộc chiến chống cộng. Vào năm 1975 không có nhiều người ở miền Nam tự do thấy trước là số phận của mình đã được các siêu cường sắp đặt. Khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và ra đi, quân dân VNCH chịu nhiều nỗi thống khổ với muôn vàn oán hận ông. 15 năm sau sự sụp đổ của VNCH, xuất hiện tại California Hoa Kỳ năm 1990, cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đăng đàn trả lời chất vấn của cộng đồng người Việt. Sau đây là một trích đoạn những biện giải của ông Nguyễn Văn Thiệu:

“ Tổng Thống Nixon có nói nếu như không có vụ Watergate thì tình trạng Việt Nam không đến nỗi như vậy. Chúng ta tin hay không tin là quyền của chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ làm việc trên sự kiện người ta cúp viện trợ quân sự, cúp viện trợ kinh tế, ngoại giao thì áp lực và không có phản ứng mãnh liệt. Trong lúc đó Nga Xô và Trung Cộng thì tăng cường viện trợ cho cộng sản và họ thừa thắng xông lên để xâm chiếm miền Nam đặt thế giới và Hoa Kỳ trước một việc đã rồi. Cho nên tôi phải từ chức, cái hành động mà tôi từ chức ngay lúc đó chính tôi cũng đã thấy khó chịu rồi. Nhưng mà tôi không có một sự lựa chọn nào khác, nếu như tôi còn ngồi thì tôi mang tội với nhân dân, là vì ông còn ngồi mà Mỹ không viện trợ bởi vì ai nấy cũng được cho hiểu như vậy, vì ông còn ngồi mà Việt Cộng không thương thuyết, phải có Dương Văn Minh lên mới được thương thuyết vì ông còn ngồi mà chiến tranh còn triền miên chết chóc. Tôi thấy lịch sử sẽ chứng minh cái đó trúng hay trật, cái đó để cho lịch sử và nhân dân, nhưng bổn phận của tôi là một Tổng thống lúc đó tôi phải ra đi.”

Lịch sử đã sang trang từ 40 năm qua, những người chịu trách nhiệm hay là chứng nhân một giai đoạn lịch sử của VNCH đều đã khuất bóng. Việt Nam đã thống nhất từ năm 1976 nhưng 40 năm qua những người cộng sản chiến thắng đã tự ru ngủ mình, theo cách nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

4 thập niên sau chiến tranh, vào tháng 3/ 2015 Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận Việt Nam phát triển quá chậm, kém xa 6 nước sáng lập ASEAN, hiện nay có nhiều lãnh vực còn thua kém cả Lào và Campuchia.

Nước Việt Nam thống nhất đã 40 năm nhưng vẫn còn quá nhiều câu hỏi được đặt ra về sự tụt hậu cũng như vấn đề dân chủ, dân quyền và nhân quyền.      

Hàn-Triều cam kết ký Hiệp ước hòa bình, chấm dứt chiến tranh

Trùng Dương

DKN.TV
 
Trong tuyên bố chung kết thúc Hội nghị thượng đỉnh liên Triều ngày 27/4, hai nhà lãnh đạo Hàn Quốc v …

CUỘC THÁO CHẠY TRẦN AI, VÀ NGÀY TRỞ LẠI CÒN BỊ SÁT THÊM MUỐI VÀO VẾT THƯƠNG LÒNG

Đỗ Ngà

2 hrs

CUỘC THÁO CHẠY TRẦN AI, VÀ NGÀY TRỞ LẠI CÒN BỊ SÁT THÊM MUỐI VÀO VẾT THƯƠNG LÒNG

Sau 21 năm mang súng đạn và đàn em qua nhà em ruột mình bắn giết, cuối cùng cũng tàn sát được gia đình nhà em ruột mình. Sau khi đã giết chết thằng em, Bắc đã cho truy sát những đứa con còn lại của em trai mình để diệt tận gốc.

Thấy hết đường sống, con cái của Nam túa nhau tháo chạy ra biển, nhưng trong đầu chúng cũng chẳng biết đi về đâu. Chúng chỉ biết phải chạy khỏi bàn tay sắc máu của ông bác ruột mà thôi. Vì vậy, con cái của Nam nhiều đứa đã bị chìm xuống biển làm mồi cho cá mập. Có đứa thì lênh đênh trên biển đến nhiều ngày, lúc sắp chết vì đói và khát thì gặp phải tàu của bạn bố Nam ra tay cứu. Trong cơn đại hoạ, chỉ những đứa này vì quá may mắn nên sống sót và đến tá túc tại nơi đất mới.

Lại nói đến những đứa con chưa kịp tháo chạy, chúng nó ở lại và nghe bác Bắc bảo rằng “các cháu yên tâm, bác đưa các cháu vào một lớp học trong rừng để các cháu học tập và cải tạo thành người mới. Chỉ cần tuần lễ, học xong các cháu sẽ về”. Nghe bác nói với lời có vẻ rất thành tâm, thế là mâý đứa con nhà Nam vâng lời. Khi được dẫn tới bìa rừng, Bắc cho đám con mình dùng báng súng đập vỡ sọ chết tươi vài đứa và nói giằng giọng rằng “Đây là trại tù khổ sai, bọn bây phải chung thân ở đây chứ không phải 7 ngày. Nếu đứa nào dám lên tiếng thì số phận sẽ như thế như mấy đứa này, hiểu chửa?”. Nhìn thấy 2 đứa mằm bất động với hộp sọ vỡ toác máu chảy đỏ một vũng như cái nia, đám con nhà Nam sợ xanh mặt và chỉ biết “dạ” mà chẳng dám ý kiến ý cò gì nữa.

Làm trên “trại cải tạo” một thời gian, nhiều đứa mắc bệnh và phải nằm chết như con gà dịch mà chẳng được thuốc men hay chữa trị. Nhìn cảnh cái chết luôn rình rập, nếu không đến từ báng súng thì cũng đến từ họng súng, nếu không đến từ họng súng thì cũng đến từ bệnh tật. Thế là một số đứa trốn trại, bị lộ thế là đám cai ngục nổ AK quét, đạn bay xối xả như mưa và quá nửa trúng đạn chết tại chỗ. Số còn lại may mắn thoát làn đạn về được đến nhà. Thế là bí mật tổ chức vượt biên.

Trong nhóm này, có đứa tổ chức đi trong bí mật tuyệt đối, nếu bị lộ chấp nhận chết. Có đứa thì nghĩ rằng, để chắc ăn thì dùng vàng hối lộ cho đám con nhà Bắc. Thế là đám con nhà Bắc nhận vàng và gật đầu để cho đi. Khi ra khơi không xa, bọn con Bắc nháy nhau thế là chúng hiểu phải làm gì. Bọn chúng nhảy lên xuồng máy và rượt theo. Vì ỉ i rằng mới đưa hối lộ lẽ nào bọn con Bắc lật lọng? Vì thế mà con nhà Nam đã sập bẫy. Bọn con Bắc đuổi gần đến thuyền vượt biên, bọn họ xả súng, thế là những người đi trên thuyền không còn một mạng sống sót. Giết xong, chúng kéo thuyền và các nạn nhân về gặp bố Bắc của nó báo cáo thành tích để nhận thưởng. Đấy là cách làm giàu của con cái nhà Bắc.

Như vậy sau tầng tầng lớp lớp đường bố ráp và truy sát của bên thắng cuộc. Một số rất ít con cái nhà Nam cũng đến được bến bờ tự do, và hơn nữa là chúng đã giàu có. Đó Bắc chỉ biết chém giết, không biết làm ăn nên phải đi ăn mày lạy lục khắp nơi để xin ăn. Thấy con Nam giàu quá, Bắc trở giọng gọi con cái nhà Nam trốn chạy khi xưa là “khúc ruột ngàn dặm”. Thế là mỗi năm Bắc được tụi con Nam gởi về cho 10 tỷ để xài phung phí.

Được nạn nhân nuôi, thế nhưng, như đồ vong ân bội nghĩa, hằng năm Bắc còn cho tổ chức ăn mừng ngày “Đại thắng mùa xuân” rầm rộ. Để chi vậy? Để khoe công về thành tích đã tương tàn thằng em ruột. Như một thói quen ngạo mạn, 43 năm liên tục Bắc vẫn làm thế, vẫn cứ cố sát muối vào vết thương tinh thần của con cháu phương xa. Tay thì luôn sát muối vào vết thương, miệng vẫn cứ hô hào “hòa hợp hòa giải”, nhưng thực sự không bao giờ hòa hợp hòa giải được.

Mẹ Việt Nam bảo, chỉ cần thằng Bắc nhận ra lỗi lầm thay đổi là đủ. Nhưng dường như vô phương, vì Bắc quá hung hãn và bất chấp. Đụng đến quyền lợi của nó, nó sẽ giết tất bất kể ai, kể cả mẹ cũng không có ngoại lệ. Nếu cần, nó cũng sẽ bán luôn cả mẹ để lo riêng cho mình phận nó. Bất hạnh!

Ước muốn cuối cùng.

Ước muốn cuối cùng.

Một tử tù đang chờ thi hành án, anh cầu xin một điều ước cuối cùng là một cây bút chì và một tờ giấy. Sau khi viết cho một vài phút, anh nhờ nhân viên bảo vệ nhà tù gửi giúp bức thư này cho người mẹ ruột của mình.

Trong thư anh viết …

Mẹ, nếu có công lý trong thế giới này, con và mẹ nên bị kết án từ hình cùng nhau. Mẹ cũng có tội cũng như con vì những gì con đã làm.

Mẹ hãy nhớ lại đi, khi con ăn cắp chiếc xe đạp của thằng bé gần nhà. Mẹ đã giúp con giấu chiếc xe đạp đó đi để bố không nhìn thấy nó. 

Mẹ có nhớ lần con lấy trộm tiền từ ví của người hàng xóm không? Mẹ đã đi siêu thị mua sắm cùng với con.

Mẹ có nhớ ai đã bênh vực con khi con cãi lại bố đến nỗi bố phải bỏ đi không? Bố chỉ muốn sửa dạy con vì con đã gian lận trong bài thi và cuối cũng là con phải bị đuổi học.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ, không lâu sau con đã trở thành một thiếu niên hư nghịch và bây giờ con đang là một tử tù chờ thi hành án.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ con cần được bao biện, nhưng cái thực sự con cần là được sửa trị.

Nhưng thôi, con tha thứ cho mẹ! Con chỉ muốn viết thư này để nó có thể đến được nhiều người khác đang làm cha làm mẹ, với hi vọng rằng, họ có thể nhận ra điều tạo nên người tốt kẻ xấu trên thế giới này là sự giáo dục.

Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống và cũng đã giúp con đánh mất nó.

Đứa con tử tù của mẹ.

“Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” (Nelson Mandela)

MỌI VẬT ĐỀU VỀ PHE THIÊN CHÚA

MỌI VẬT ĐỀU VỀ PHE THIÊN CHÚA

Nếu đứng về phía Thiên Chúa, ta sẽ không ngã lòng vì phía mà ta đã chọn sẽ luôn luôn chiến thắng, không bao giờ bị chê cười.  Thiên Chúa là Đấng chiến thắng, và sự dữ là kẻ chiến bại.  Thực tại luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa.

Sự dữ nhất thiết là bất ổn, bởi lẽ nó đi ngược lại bản chất của mọi vật.  Mọi định luật về bản tính con người của ta thúc đẩy ta hướng về phía thánh thiện, tương tự như việc giữ gìn sức khoẻ vậy.  Nếu ta chăm sóc thân xác đúng cách, hợp vệ sinh, ắt chúng ta khoẻ mạnh.  Nếu ta không tuân thủ, ắt sẽ đau ốm bệnh hoạn… và hẳn ít người sẽ chịu khó săn sóc thân thể nếu chưa từng bị trừng phạt và nhắc nhở do việc vi phạm cố ý các quy tắc vệ sinh gây nên.

Ta hoàn toàn tự do, có thể phá vỡ lề luật Thiên Chúa đã thiết lập, ở lãnh vực này hoặc lãnh vực khác.  Nhưng ta sẽ không tránh né được sự trừng phạt do việc phá luật đó.  Nhảy từ cửa sổ xuống đất không hề phá được luật hấp dẫn, nhưng liệu đấy, coi chừng mất mạng đó!  Nên nhớ là bao giờ thiên nhiên cũng đứng về phía Thiên Chúa; nó có thể cưỡng lại ý muốn của ta, nhưng không khi nào chống lại Thiên Chúa.  Và điều này cũng đúng như thế trong lãnh vực luân lý lẫn vật lý.

Khi người ta phạm tội, Thiên Chúa không cần can dự ra tay trừng phạt, bởi lẽ ta không thể nào chống lại Thiên Chúa mà không tự chống lại mình.  Đó là bản chất con người được Thiên Chúa tạo ra như thế.  Nếu ta phá vỡ qui luật tiết độ, ta sẽ bị nhức đầu.  Thiên Chúa không phái cơn nhức đầu đó đến cho ta bằng một chiếu chỉ đặc biệt nào cả, Ngài đã thiết lập sẵn trong ta qui luật này: hễ làm điều xấu, sẽ nhận được hậu quả xấu xa.  Thi sĩ Francis Thompson diễn tả rằng ngay cả các đồ vật cũng chống lại ta khi ta không dùng chúng đúng với mục đích của Chúa.  Ông ta đã gọi các đồ vật đó là các “đầy tớ”:

“Tôi đã cám dỗ các đầy tới của Ngài,

Để rồi chỉ thấy tính kiên định của chúng phản lại tôi.

Bởi chúng trung thành với Ngài

Chúng hờ hững với tôi.

Ra chúng chân thật mà lại phản bội,

Chúng lừa dối mà lại chân thành.”

Khi thánh Phêrô chối Chúa, gà gáy làm ông đau khổ.  Cả đến con gà cũng chống lại Phêrô.  Thiên nhiên đứng về phe Thiên Chúa mà!

Khi ta chối bỏ lề luật luân lý, ta sẽ chịu đau khổ…  Không hẳn vì ta cố ý làm xấu cho bằng vì ta đã thách thức một sức mạnh dũng lực hơn ta: đó là thực tại.  Khi phạm tội, ta gây nên một hậu quả mà ta không định trước được; đối với các hành động thiện hảo thì lại không gây ra các hậu quả đó.  Ví dụ, nếu tôi dùng cây viết chì để viết, nó vô hại.  Nhưng nếu tôi dùng nó để đục lon sữa bò, nó sẽ gãy ngay thôi.  Tôi đã dùng cây viết chì ngược với mục đích của nó, thế là tôi phá huỷ nó.

Nếu tôi sống với mục đích cao thượng hơn… phù hợp với chân lý và tình yêu… tôi sẽ hoàn thiện cuộc đời tôi.  Nếu tôi chỉ biết sống theo bản năng thú vật, ắt tôi sẽ ê chề tựa như thể tôi dùng dao lam để gọt đá tảng vậy.

Sự dữ hằng tàn phá chính bản ngã ta.  Nếu tôi sống đúng như tôi phải sống, tôi sống thành nhân.  Nếu tôi sống tuỳ hứng, tôi trở thành thú vật, một con vật bất hạnh.  Đây chẳng phải là kết quả do tôi xếp đặt, thế mà tôi vẫn không thể nào thoát khỏi được.  Người ăn nhậu triền miên không hề có chủ tâm tàn huỷ sức khoẻ mình; nhưng thực sự kẻ ấy đang cố huỷ diệt mình.  Kẻ tham mê ăn uống không kể gì đến bệnh tật về tiêu hoá, nhưng thực sự kẻ ấy sẽ mắc loại bệnh ấy.  Tên ăn trộm không muốn bị bắt bỏ tù, nhưng rồi hắn sẽ vô tù.

Khi người lữ khách chối từ tuân theo các bảng chỉ dẫn đường đi, dĩ nhiên anh ta vẫn có thể tiếp tục dấn bước nhưng cuối cùng rồi sẽ thất vọng vì không đến được đích.  Sự vô trật tự là một ông thầy nghiêm khắc, chậm rãi nhưng chắc chắn.  Dân Tây Ban Nha có một câu tục ngữ “Ai phỉ nhổ Thiên Chúa là phỉ nhổ chính mình.”  Sự dữ có thể chiến thắng trong chốc lát.  Trận đầu nó thắng đấy, nhưng kết cục nó sẽ thua.

Caesar đã xây dựng đường xá hầu đánh thắng, chinh phục toàn thế giới bằng quân sự, nhưng trên những con đường này, thánh Phêrô và Phaolô đã đi rao giảng Tin mừng.  Bởi vậy, cuối thế kỷ này ta sẽ chứng kiến các nhà khoa học và triết gia sẽ lục lọi các giỏ rác trong các đại học hầu nhặt nhạnh những Chân lý thánh thiện mà thế kỷ 18 và 19 đã loại bỏ.

Bởi lẽ sự thiện thì trường tồn, còn sự dữ thì tiêu vong.

Đức cha Fulton Sheen

(Nguyên tác: Way to Happiness)

From Langthangchieutim