BÀI HỌC LỊCH SỬ

Đỗ Ngà

BÀI HỌC LỊCH SỬ

Champa và Đại Việt là 2 nước láng giềng. Đại Việt thì lúc nào cũng lăm le chiếm lấy Champa bằng nhiều cách, kể cả gả công chúa cho vua Champa đổi đất. Ranh giới giữa Champa và Đại Việt bị dịch chuyển dần về phía nam và Champa mất nước. Từng triều đại là mỗi cách lấn chiếm, có thể kể ra các cột mốc đau:

Trước năm 1069 ranh giới là dãy Hoàng Sơn, là ranh giới Quảng Trị- Quảng Bình ngày nay. Năm 1069 vua Lý Thánh Tông của Đại Việt đánh bại vua Chăm – Chế Củ. Thế là Đại Việt mở rộng lãnh thổ đến Quảng Trị. Đường ranh giới được dời về sông Thạch Hãn.

Năm 1306 vua Trần gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chăm Chế Mân, đổi lại vua Chăm giao cho Đại Việt vùng đất từ phía nam sông Thạch Hãn đến đèo Hải Vân. Thế là biên giới được dời về đây.

Năm 1402 Hồ Quý Ly tấn công Champa và lấy thêm từ đèo Hải Vân đến đèo Bình Đê, ranh giới giữa Bình Định và Quảng Ngãi ngày nay. Lúc này biên giờ biên giới đã tiến rất gần đến kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa, thuộc Bình Định ngày nay.

Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đánh chiếm thủ đô Đồ Bàn và mở rộng lãnh thổ đến đèo Cù Mông ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay. Thế là đường biên giới lại dời.

Năm 1597 chúa Nguyễn Hoàng cho đánh chiếm phía nam đèo Cù Mông, và đến 1611 chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ đến đèo Cả, ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngày Nay.

Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Chu đánh vào Champa và mở rộng bờ cõi đại Việt đến hết Khánh Hòa. Và năm 1692 chúa Nguyễn cho Nguyễn Hữu Cảnh lấy đến Bình Thuận. Và kết thúc vương quốc Champa.

Qua lịch sử vương quốc Champa ta thấy gì? Đấy là sự hòa thuận giữa 2 quốc gia láng giềng chỉ là tạm thời. Phía mạnh luôn truyền đời ấp ủ tham vọng xâm lấn bờ cõi phía yếu hơn. Từ có có những cuộc sáp nhập nhỏ làm một phía mở rộng dần và một phía teo dần. Rồi cũng có những cuộc thôn tính lớn dẫn đến khai tử một quốc gia. Đừng để mất nước nếu mất nước thì mình sẽ như con cá trên thớt, số phận mình do bên thắng cuộc quyết. Với lịch sử đánh nhau hàng ngàn năm, nếu không diệt phía chiến bại thì ngay trong lòng quốc gia chiến thắng sẽ muôn đời bất ổn. Vì thế khi thua trận, không đơn giản là mất chủ quyền, còn những mưu toan của quân chiến thắng mới đáng nói.

Trên thế giới, những quốc gia có lịch sử đánh nhau lâu đời thì chuyện thanh trừng sắc tộc khi thôn tính xong kẻ thù là điều khó tránh khỏi. Trung Hoa – Việt Nam hay Việt Nam – Champa cũng vậy thôi. Cũng là láng giềng đánh nhau hết thế hệ này đến thế hệ khác. Kết quả Champa đã bị khai tử bởi Đại Việt và dân tộc Chăm bị diệt gần hết.

Ngày nay dân số của người Chăm tại Ninh Thuận – Bình Thuận còn chỉ vỏn vẹn 98.000 người. Còn lại họ tản mác khắp thế giới khoảng 300.000 người nữa. Như vậy câu hỏi đặt ra là, đằng sau những lần thất thủ phải mất lãnh thổ thì kèm theo đó là gì? Tại sao dân tộc Chăm từng là một quốc gia trải rộng gần hết dải đất miền Trung, có lần họ đem quân đánh ra Thăng Long, nhưng sao nay họ biến đâu mất hết vậy? Điều đó chứng tỏ sau những trận chiến lấy bờ cõi, phải có những cuộc thanh trừng sắc tộc dai dẳng và kéo dài mới diệt gần hết một nòi giống một dân tộc như thế. Những cuộc thanh trừng này lịch sử đã không ghi lại nhưng chắc chắn có nó xảy ra. Đấy là cái khủng khiếp của kẻ thua cuộc phải gánh lấy.

Nhìn lại lịch sử, láng giềng Trung Hoa cũng đã có quốc gia bị khai tử và dân tộc của họ đã phải tản mác khắp nơi và cũng chỉ là dân tộc thiểu số. Vương quốc Đại Lý nằm phía Tây Bắc Đại Việt đã bị nhà Nguyên tiêu diệt và họ mất nước từ đó. Bây giờ tộc người Thái phía bắc Việt Nam chính là con cháu dân Đại Lý khi xưa. Họ phải tản mác khắp Đông Năm Á sống như một tộc thiểu số và quên hẳn cội nguồn của họ. Từ một quốc gia rộng lớn gồm tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, một phần lãnh thổ tây bắc Việt Nam, một phần bắc Myanmar, phần bắc Lào nhưng nay là đất của người Hán. Người Thái và người Chăm số phận chẳng khác nhau mấy.

Nay trong suy nghĩ không ít người, đã cho rằng Việt Nam là 1 tỉnh của Trung Hoa sẽ có lợi vì dân Việt Nam sẽ được hưởng những quyền lợi như người Hán. Không đâu, đừng có tin ngây thơ như vậy. Việc các bang trong Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ đứng chung trong một nhà nước liên bang hoàn toàn khác với trường hợp Việt Nam bị thôn tính bởi Trung Hoa, vì sao?

Để giải thích, tôi xin đi vào bản chất của nhà nước liên bang trong một thể chế tự do dân chủ. Trong nhà nước liên bang thì vai trò các bang là đồng làm chủ nhà nước liên bang. Nhà nước liên ban tựa công ty cổ phần, chính quyền bang tựa các cổ đông. Trong cơ cấu tổ chức này, nó luôn đảm bảo sự công bằng giữa các bang. Bất cứ người dân của bang nào cũng đều có quyền ứng cử tổng thống. Và bang nào cũng có 2 thượng nghị sĩ đại diện cho chính quyền bang, bang nào cũng có nhiều dân biểu đại diện cho nhân dân bang đó trong quốc hội liên bang. Chính vì ai là bang thành viên Hợp Chúng Quốc thì được làm chủ một phần chính quyền liên bang nên Porto Rico mới muốn trở thành bang thứ 51 của Hoa Kỳ. Làm một bang của Hoa Kỳ nghĩa là có tiếng nói trong chính quyền liên bang, là một trong các ông chủ của chính quyền liên bang thì ai mà không thích? Như vậy làm một tiểu bang của Mỹ không hề vong quốc, và cũng không hề bị tiêu diệt nòi giống, mà là được đứng chung cùng bang khác để hưởng sự thịnh vượng chung của một Hoa Kỳ giàu mạnh.

Nhà nước độc tài phương đông không bao giờ chịu đứng chung một cách dân chủ với nước khác. Mà đặc biệt, nước lớn bao giờ cũng mặc định mình mới là chủ của nó. Khi chưa chiếm Đại Việt, các hoàng đế Trung Hoa còn mặc định Đại Việt phải sang triều cống. Tức là trong mắt của các hoàng đế Trung Hoa, Đại Việt là thứ mọi rợ cho nên họ gọi ta là tộc man di. Nếu Trung Hoa chiếm Việt Nam thì số phận dân Việt sẽ bị diệt vong như dân tộc Chăm đã từng chịu dưới bàn tay Đại Việt. Cũng tựa như 800 năm trước,Trung Hoa đã thâu tóm Đại Lý. Giờ đâyđất vẫn Đại Lý cũ (tức tỉnh Vân Nam ngày nay) cũng sẽ là nơi người Hán ở, còn người chủ thực sự của Đại Lý hoặc bị tiêu diệt hoặc phải tản mác khắp nơi tránh sự thanh trừng sắc tộc. Đó là bài học lịch sử, ra chúng ta mất nước thì nòi giống cũng sẽ bị diệt vong bởi bàn tay Tàu. Ngày nay vị trí chủ tịch Trung Quốc ngang bằng với hoàng đế Trung Hoa trước đây. Vì vậy nếu Việt Nam bị Tàu thôn tính, Việt Nam sẽ bị diệt vong. Nếu con người nhận thức sai lầm về mối nguy thì sẽ mất mạng, nếu dân tộc nhận thức không đúng mối nguy thì dân tộc đó sẽ bị diệt vong.

Ngày xưa Champa nhượng đất cho Đại Việt nhiều lần và cuối cùng bị diệt vong. Ngày nay CS cũng đang nhượng đất cho Trung Cộng và co cụm dần. Thấy 2 hình ảnh hào hao. Dân Việt không thể lùi mãi trước Tàu. Vì vậy không kéo đổ CS thì đất nước sẽ cứ trượt thẳng về con đường vong quốc và khi vong quốc thì dân tộc sẽ trượt tiếp về điểm diệt vong. Chống Tàu là phản xạ đã giúp dân tộc này vẫn còn tồn tại trước răng nanh Trung Hoa, nếu buông xuôi thân Tàu thì kể như số phận của dân tộc dân tộc có nguy cơ bị diệt vong.

Ý NGHĨA VIỆC CHÚA LÊN TRỜI

Ý NGHĨA VIỆC CHÚA LÊN TRỜI

 “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)

 Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh.  Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ.  Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào.  Nhưng sau đó, các ông đã hiểu.  Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn.  Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người.  Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan, và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn.  Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông.  Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ.  Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui.”  Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế?  Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến.  Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17).  Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui.  Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc.  Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần.  Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy.  Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến.”  Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến.  Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống.  Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui, và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần.  Họ tín thác vào Chúa.  Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui.  Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau: 

1.Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha.  Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian.  Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại.  Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24).  Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

2.Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha.  Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).

3.Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở.  Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần.  Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

  1. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó.  Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn”(Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt.  Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy.  Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ.  Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài.  Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha.  Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để mời gọi chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng, và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao.  Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui, và niềm hy vọng.  Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ

Mất gì ở Thủ Thiêm?

Mất gì ở Thủ Thiêm? 
FB Quynh Huong ( báo tuoitre)

Ngồi dự buổi tiếp xúc cử tri quá nóng hôm nay, mình đã thử note trên sổ tay những gì mà những người dân Thủ Thiêm đã mất. 
Quá nhiều, gần như là tất cả. 
Tuy nhiên, mất nhiều không chỉ là người dân, mà chính quyền cũng đã và đang mất. Rất nhiều. Cũng gần như tất cả.

Mất gì? 
Khi một người nói: “Tôi nghe lời ông cựu chủ tịch Võ Viết Thanh nói ông đau không chịu nổi khi sang xem cảnh giải tỏa đường Lương Định Của, tưởng như vừa qua một trận B.52, tôi rớt nước mắt khi nhớ cảnh nhà mình, xóm mình”. Chính mình là người trực tiếp nghe ông Thanh nói, lúc ấy mình cũng thấy buồn, thấy đau, nhưng không sao có thể đau bằng hôm nay. Vì sao vậy? 
Vì tiếp lời là người thứ hai:
“Ông Thanh chia sẻ với dân, chúng tôi cảm ơn lắm, nhưng ông chưa hiểu hết rồi. Bom B.52 có dội xuống thì sau đó chúng tôi vẫn còn có thể bới gạch vụn để cắm lên một mái lều. Còn sau khi Q.2 giải tỏa, cả mấy khu phố, mấy phường của chúng tôi không còn đất, không còn nhà. Gia đình chúng tôi lang thang, vất vưởng”.

Mình đã giật mình. Quả vậy. Trước buổi tiếp xúc cử tri, mình đã gặp những người dân Thủ Thiêm trên bãi trống cỏ hoang, cắm túp lều nuôi gà nuôi vịt thả rông. Mình đã gặp bà lão còng lưng bứt cọng rau muống trên vũng nước mưa về nấu bữa trưa quấy quá. Những bãi những vũng trước đó vài năm còn là khu dân cư sầm uất…

Mất gì? 
Một người nói: “Nhà tôi mặt tiền đường Lương Định Của, giá thị trường 200tr/m2. Chính quyền bồi thường 18tr/m2, ưu tiên cho xuất mua chung cư tái định cư giá 20tr/m2. Vậy đó, tôi mất nhà, mất chỗ làm ăn buôn bán, lại phải mang nợ thêm 2tr/m2 nhà. Mà nhà tôi thì ở ngoài ranh qui hoạch, không tin thì mở bản đồ ra xem”. 
Hầu hết những người dân hôm nay đều khẳng định như vậy: “Nhà tôi ngoài ranh qui hoạch. Bản đồ chứng minh đây…”. Còn chủ tịch quận 2 thì nói: “Vấn đề trong hay ngoài ranh thì quận chưa trả lời được, chúng tôi chờ trả lời của Thành phố rồi mới giải quyết được khiếu nại của bà con”. Chưa trả lời được nhưng nhà của dân đã bị giải toả rồi. Giải tỏa trắng. Câu trả lời của chủ tịch quận chưa dứt, dưới các hàng ghế hội trường hàng loạt người đã bật dậy kêu khóc phẫn nộ…

Mất gì?
Hàng chục người, đàn bà lẫn đàn ông uất nghẹn, khóc nghẹn khi kể câu chuyện của mình. Cũng có người bình tĩnh: “Chúng tôi không quá khích, không bức xúc, không phản động, không mơ hồ. Chúng tôi chỉ muốn đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình bằng pháp lý, bằng văn bản, bản đồ, sơ đồ. Chúng tôi tự tin tranh luận với bất kỳ ai, cấp nào…”. Nhưng nhiều hơn là những người bức xúc: “Tôi đề nghị thanh tra lại toàn bộ quá trình qui hoạch và chỉnh sửa qui hoạch, xây dựng và đấu thầu, giải tỏa và cưỡng chế ở Thủ Thiêm, nhưng không được để thành phố làm, tôi không thể tin tưởng. Phải là trung ương vào làm, Quốc hội cùng với dân lập ban giám sát”; “Tôi không thể tin ai trong cấp chính quyền quận 2”; “Những điều oan sai đã diễn ra ở Thủ Thiêm này, đi tù không đủ để đền tội”…

Mất gì? 
Ngồi nghe những người đàn ông, đàn bà nối nhau thuyết trình việc riêng việc chung, văn bản, quyết định, bản đồ, sơ đồ rành rẽ hơn một luật sư, chợt nghe xót ruột. Bao nhiêu tâm sức, thời gian, mồ hôi, nước mắt, tiền bạc và máu của họ đã đổ để trở thành luật sư cho chính mình. Những tâm sức, thời gian đáng lẽ được dành cho sự nghiệp, gia đình, dành để tập thể thao, đi du lịch, để đọc sách, nghe nhạc, vẽ tranh. Cuộc đời bao người, cuộc sống bao gia đình đã phải thiệt thòi những ngày hạnh phúc. Cuộc sống xã hội đã phải thiệt thòi bao nhiêu con người tràn đầy năng lượng, tràn đầy những hành động tử tế, tốt lành, làm đẹp cho đời. Thay vào đó là những luật sư bất đắc dĩ đầy bức bối, những đoàn người khiếu kiện, biểu tình năm này tháng nọ…

Mất gì? 
Dẫu không lạ gì với việc tiếp những người dân đang uất ức vì cho rằng mình bị oan sai, nhưng buổi tiếp xúc cử tri ở Thủ Thiêm hôm nay quả là làm mình căng thẳng thần kinh. Thầm thán phục bà đại biểu Quốc Hội kiêm Phó Bí thư ngồi trên ghế nóng. Bao nhiêu câu cay đắng nhằm vào bà. “Bà đã từng khuyên dân chúng tôi nên hy sinh một chút đất để con cháu được hưởng một cuộc sống mới, tương lai mới trên đô thị mới. Thế rồi hôm nay thấy cả con cháu chúng tôi cũng đang vơ vất trong khu tạm cư, cũng phải hy sinh, bà có ray rứt không?”; “Hai nhiệm kỳ đại biểu Quốc hội ở Thủ Thiêm, bao nhiêu lời bà đã hứa, bao nhiêu cảnh khổ bà đã nghe, đã chứng kiến? Bà đã làm gì để xứng đáng với lá phiếu của chúng tôi?”; Và mạnh mẽ hơn nữa: “Bà có giải quyết cho dân được không? Nếu không, nghỉ đi cho người khác làm”… Người dân vừa nói vừa khóc. 
Và bà thì rất bản lĩnh: “Cô bác giận, bức xúc, nói nặng đến đâu tôi cũng nghe được. Chỉ lo cho sức khỏe cô bác, giận quá cũng mệt lắm…”.

Mất gì? 
Đất đai. Tài sản. Sinh kế. Yên bình. Tương lai. Hy vọng. Uy tín. Niềm tin…. 
Gần như tất cả
Với tất cả.

Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: 2 people, outdoor
Image may contain: 8 people
 

LỖI THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA DÂN

LỖI THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA DÂN

Có ai chỉ ai còn nhớ ngày 28/07/2017, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho thành lập tổ tư vấn kinh tế cho thủ tướng gồm 15 người. Nhìn bằng cấp thì toàn là học hàm học vị đầy mình, ai cũng là tiến sĩ, nhiều trong đó là giáo sư. Việc thành lập tổ này đến đây đã gần 1 năm nhưng có ai đã thấy có những hành động nào của chính phủ nới lỏng thuế phí cho dân không? Không.

Một trong các nhiệm vụ của tổ tư vấn này là tư vấn cho Thủ tướng các chiến lược, kế hoạch, đề án, chính sách phát triển kinh tế trong trung hạn và dài hạn; kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm. Những kế hoạch dài hạn thì quá sớm để nhận xét, nhưng kế hoạch ngắn hạn của nhóm này là gì? Không thấy. Vẫn tăng thuế, vẫn tăng phí, vẫn tiêu cực khắp nơi.

Người ta có thể ngăn chặn một sai lầm chứ không ai có thể ngăn chặn một kẻ ngu dốt và cố chấp. Năm 1986, CS mở cửa để làm ăn với thế giới. Trong các nhà cố vấn cho lãnh đạo CS thời ấy có tiến sĩ kinh tế tốt nghiệp Harvard Nguyễn Xuân Oánh. Các nhà hoạch định chính sách luôn hiểu rằng, với quy mô nền kinh tế phát triển hơn cơ cấu bộ máy quản trị phải khác đi. Kẻ điều hành một cửa hàng thành công khác với kẻ điều hành một tập đoàn kinh tế lớn thành công, bộ máy hoạt động trong một cửa hàng đơn giản hơn rất nhiều bộ máy hoạt động của tập đoàn kinh tế. Như vậy, nếu ai phát triển từ một cửa hàng thành một tập đoàn kinh tế như McDonald chẳng hạn, thì phải qua nhiều lần cải cách bộ máy quản trị.

Như vậy, với công ty có tầm vóc khác nhau thì đòi hỏi bộ máy quản lí khác nhau. Quốc gia cũng vậy, tầm vóc nền kinh tế khác nhau thì cũng cần bộ máy nhà nước thích hợp. Như vậy với bộ máy nhà nước Việt Nam có kết cấu là ĐCS, công việc của nó là học Marx Lenin và não trạng chỉ nhiễm đúng một thứ, đó là sự thù hằn giải cấp. Loại nhân sự kiểu đó thì ngoài chém giết đồng bào thì chẳng làm nên cơm cháo gì cả. Như ta biết, sức mạnh của bộ máy nó nằm ở cơ cấu tổ chức và chất lượng nhân sự. Với bộ máy nhà nước và bộ máy Đảng chồng chéo, chức năng của nó là rình mò hành động của dân để dập tắt tư tưởng nào Đảng không ưa và diệt trừ hành động nào Đảng không thích mà thôi. Đem bộ máy đó mà để quản trị nền kinh tế lớn mạnh thì làm sao nó làm được?

Cứ tưởng tượng, với nhân sự và cách tổ chức của bộ máy quản lý nhà nước CSVN mà áp vào nước Mỹ, thì đảm bảo vài năm sau, dân Mỹ sẽ nghèo rớt mồng tơi như dân Việt. Chắc chắn là vậy? Vì sao? Vì đơn giản như một công tác thu thuế, 2 bộ máy quản trị khác nhau thì suy nghĩ và hành động cũng khác. Nhà nước của Mỹ họ thu thuế để phát triển đất nước, họ đầu tư hạ tầng, họ đầu tư phúc lợi để làm sao dân được hỗ trợ tốt hơn, và đất nước ngày càng giàu có. Một trong những chức năng quan trọng của thuế là tái phân phối phúc lợi cho xã hội. Còn CSVN họ thu thuế để làm gì? Để bỏ túi, hết. Mà đã thu thuế để nhét túi tham thì chỉ có thu càng nhiều càng tốt. Đất nước nợ ngập đầu, dân khốn đốn, phúc lợi bị tước đoạt. Đó là lý do vì sao Việt Nam luôn bị vấn nạn cướp bóc nấp dưới màu sắc “thu thuế” là vậy.

Rõ ràng bộ máy có chức năng xây dựng khác bộ máy có chức năng cướp. Chính vì vậy mà 1999 TS Nguyễn Xuân Oánh cho Reuters biết, rằng chương trình cải cách kinh tế đã gặp bế tắc vì ĐCSVN đã từ chối cải cách chính trị. Và đến hôm nay, sau khi cải cách đã 32 năm mà chính quyền CS vẫn cứ trung thành với cách bù vào yếu kém quản trị bằng cách… tăng thuế, cách mà thằng bại não cũng có thể làm được đâu cần tới hội đồng tư vấn 15 giáo sư tiến sĩ? Vấn đề Việt Nam hiện nay là thể chế, cả về cách tổ chức bộ máy nhà nước lẫn nhân sự cần phải được thay máu cho đất nước phát triển. Nếu giữ nguyên thế này, nó sẽ nghiền nát mọi chính sách được đưa ra dù cho có là chuyên gia tài giỏi gì đi nữa.

Không thể đòi máy cày làm công tác của xe đua F1 được. Tương tự vậy, bộ máy ĐCSVN cũng chẳng biết làm gì để bù vào yếu kém ngoài việc tăng thuế. Đó là cách quan trọng nhất mà chính quyền CS đảm bảo nguồn thu, và sẽ mãi mãi như thế. Còn về nhân dân thì sao? Một khi CS xem dân là vịt để vặt lông cắt tiết rồi mần thịt để lên mâm lên cỗ cho chúng no bụng thì tiếng kêu cạc cạc của con vịt làm nó chùng tay sao? Vì dân đã chọn thân phận là vịt là cừu nên CS mới dám làm thế. Tại sao không đổi cách suy nghĩ, rằng phải quyết làm sói cho nó khỏi ức hiếp? Hiện trạng đất nước này, nhiệm vụ giải thoát cho mình và thế hệ tương lai là trách nhiệm của dân, ĐCSVN không có khả năng tự tốt.

Vậy nên khi CS nó tăng giá xăng, hay thêm loại thuế mới, hay tăng thuế suất của loại thuế cũ. Thì việc kêu gào của dân cũng vô tác dụng. Với CS, đó là tiếng kêu cạc cạc của con vịt khi bị cắt tiết mà thôi. Dân phải tính tới áp lực hành động chứ kêu gào không làm nó chùng tay. Hành động để loại trừ kẻ cướp là tất yếu, thế hệ này không làm thì đẩy nó sang thế hệ sau. Không có chuyện hèn sợ mà có thành quả.

Bản đồ Thủ Thiêm, tiếng súng Tây Nguyên

“Nước mắt rơi và tiếng khóc vang lên ở bến đò Đak Ngo.” – Mai Quốc Ấn/ANTGCT. (Ảnh: antgct.cand.com.vn)

1. Không có bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm, tức kẻ chủ mưu đã đẻ ra một quy hoạch ảo để “cướp” trắng đất của dân. Một tội ác có hệ thống đã được bưng đậy, che chắn đến bây giờ mới vỡ toác kinh khủng.

Sự xảo trá cổ cồn đã trở thành điểm tựa cho lâu la bên dưới, làm nên những cuộc trấn áp kinh động ở Thủ Thiêm. Nơi có người chết tức vì đất, có người á khẩu vì oan trái. Có những bàn thờ lập vội đêm trước, sáng hôm sau đã bị phá nát. Nơi có những nhà báo dấn thân vì dân cũng chịu lây những uất ức đè nặng, cho đến tận bây giờ.

Những kẻ cướp quyền lực đã dày công vẽ nên một kịch bản để lấy đất của dân với giá chai nước suối và hóa phép nó thành cao ốc triệu đô. Hốt dân đi nơi khác để tạo đất sạch, sau đó giao cho doanh nghiệp làm BT đổi hạ tầng. Mà thực chất hạ tầng ấy, dẫn vào dự án.

Chính sách đất đai, đã tạo cho quan chức một lưỡi hái tử thần, mặc sức múa gậy vườn hoang mà tội ác đó đã có thể vĩnh viễn bị vùi chôn cùng các dự án, nếu như không có cuộc can qua ngày hôm nay.

Nói về nhân quả. Hạt mầm man trá của quan chức, đã tạo ra biết bao nhiêu nỗi đắng cay ai oán cho dân. Dù bất kỳ ai vào lò lửa hay vạc dầu, thì 15 nghìn hộ, cũng đã như chim mất tổ, người chết người điên không còn trở lại được nữa.

2. Không có mốc thực địa, nghĩa là việc công ty Long Sơn giữa đêm “đánh úp” gia đình anh Đặng Văn Hiến là đánh cướp. Nghĩa là lãnh đạo UBND tỉnh Đắk Nông đã dựa trên ý chí và quyền năng của mình “ngắt” một miếng đất chỉ có giá trị quy ước cho Long Sơn, rồi sau đó điềm nhiên như không còn liên quan đến mình. Bằng chứng là không hay không biết việc Long Sơn tự tổ chức “cưỡng chế” trái luật, nhiều lần.

Đoàn cưỡng chế tự phát đang đêm hù dọa, ném đá vào căn nhà của Hiến giữa núi rừng hoang vắng, nơi anh cùng vợ con đang say giấc. Hiến bắn chỉ thiên, đoàn người vẫn ập vào. Hiến nhả đạn… 3 người chết.

Đoàn người hung bạo ấy, họ cũng là những con người chân chất. Họ làm thứ mà họ tin là nhiệm vụ, trong hiểu biết hạn hẹp của mình. Và vì thiếu hiểu biết, chỗ dựa duy nhất của họ là sự tham lam đến hung bạo của Long Sơn cộng hưởng với sự bàng quan đến tàn nhẫn của chính quyền.

Chó cùng rút dậu, thỏ cùng mọc nanh. Tiếng súng của Hiến, chát chúa thân phận của những người thấp cổ bé họng trong xã hội này. Lòng tham bặm trợn trộn với sự vô cảm thành hạt giống, quả của nó, là 3 mạng người. Và sẽ là 4, nếu phiên tòa ngày mai, bồi thẩm đoàn vẫn nhìn anh như một tên tội phạm nguy hiểm, thay vì nhìn vào một thân phận cùng đường.

……….

Đất đai chiếm gần 80% khiếu nại khiếu kiện cả nước. Thực tế quản lý đất đai lạc hậu duy ý chí, đã khiến đất trở thành ngòi nổ kích hoạt bao nhiêu cuộc xung đột và khai sinh nhiều mầm mống bất ổn cho xã hội, đe dọa cả sự tồn vong của chính thể. Thực tế ấy, không chỉ đẻ ra tham nhũng chính sách mà còn đẻ ra cả hình thức cướp bằng chính sách vô cùng bạo tàn. Cần phải nhìn thẳng vào thực tế ấy để thay đổi.

Để những oan dân không còn ai oán, bấu víu vào nhân quả để mà hy vọng. Nếu thật sự có nhân quả, Thủ Thiêm đã không thất thủ, và kẻ phải chết, không phải là những người như Đặng Văn Hiến !

Theo Facebook Nhà báo Nguyễn Tiến Tường

Phép lạ nhiệm màu: Sống lại sau khi cha mẹ ký giấy hiến tặng nội tạng

Phép lạ nhiệm màu: Sống lại sau khi cha mẹ ký giấy hiến tặng nội tạng

Em Trenton McKinley sống lại sau khi cha mẹ ký giấy hiến nội tạng. (Hình: ABC 7)

MOBILE, Alabama (NV) – Cha mẹ của một thiếu niên bị thương tích trầm trọng đã ký giấy hiến nội tạng của con họ, khi thấy không còn hy vọng gì, nhưng con trai của họ đột nhiên sống lại.

Bản tin của đài truyền hình KABC 7 cho hay các bác sĩ nói rằng em Trenton McKinley, 13 tuổi, coi như đã chết trong khoảng 15 phút.

Em Trenton cám ơn Thượng Đế về sự sống sót của mình, nói rằng không còn có giải thích nào khác.

Sau khi bé trai 13 tuổi này bị thương tích trầm trọng, cha mẹ em phải có quyết định khó khăn là hiến tặng nội tạng tiếp theo sau nhiều ngày coi như não đã chết.

Bà mẹ em, bà Jennifer Reindl cho đài truyền hình Fox 10 hay rằng, con bà coi như đã chết được 15 phút khi bà đến bệnh viện USA Medical Center ở thành phố Mobile. Các bác sĩ nơi đây cho hay nếu con bà sống lại cũng sẽ trong tình trạng thực vật vì não bị mất dưỡng khí trong thời gian dài.

Em McKinley nay đang dần phục hồi sau ba cuộc giải phẫu não, tập đi, và cũng biết nói giỡn với bà mẹ rằng nay bà không thể nào bắt em rửa chén nữa.

McKinley nói với đài Fox 10 rằng em cảm thấy như ở thiên đàng khi đang mê man bất tỉnh.

“Tôi ở cánh đồng trống với con đường đi thẳng tắp,” em nói  “Không có giải thích nào khác hơn là đây là nhờ Thượng Đế. Ngay cả các bác sĩ cũng phải công nhận như vậy.” (V.Giang)

Facebooker “Hieu Bui” bị án tù 4 năm rưỡi

2018-05-09
 

Ảnh minh họa ngăn cấm facebook.

Ảnh minh họa ngăn cấm facebook.

 AFP
 

Thêm một facebooker bị Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh kết án 4 năm 6 tháng tù giam trong phiên sơ thẩm diễn ra vào ngày 9/5/2018 với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’.

Theo cáo trạng, tài khoản facebook “Hieu Bui” thuộc ông Bùi Hiếu Võ, đăng những bài viết nói xấu đảng và nhà nước nhằm kích động khủng bố, phá hoại nề chính trị và kinh tế.

Theo truyền thông trong nước, xuất phát từ thảm họa môi trường Formosa, rồi vấn đề bồi thường đất đai tại Đồi Nhái, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mà bản thân ông này cho rằng chính quyền bao che, giải quyết không thỏa đáng nên ông bắt đầu tham gia bình luận, thu thập tài liệu trên mạng về xã hội rồi tổng hợp thành các bài viết đăng lên mạng xã hội facebook, bắt đầu từ tháng 9/2016.

Ông Bùi Hiếu Võ bị lực lượng chức năng tiến hành khám xét nơi ở tại Chung cư Hà Đô, Sài Gòn và bị bắt khẩn cấp vào ngày 17 tháng 3 năm ngoái.

Cũng tin liên quan, chiều 8/5/2018, công an tỉnh Thanh Hóa đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và bắt tạm giam anh Nguyễn Duy Sơn với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân…’

Anh Nguyễn Duy Sơn là chủ tài khoản facebook “Nguyễn Sơn”. Anh thường dùng mạng xã hội để chia sẻ những bài viết của mình nhưng chính quyền cho rằng anh đưa tin sai sự thật.

Tội ‘lợi dụng các quyền tự do, dân chủ vi phạm lợi ích của Nhà Nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…’ nay thuộc điều 331, Bộ Luật Hình sự sửa đổi năm 2015. Trước đây là điều 258, Bộ Luật Hình sự năm 1999.

QUÝ SOEURS DÒNG THÁNH PHAOLÔ XUỐNG ĐƯỜNG TUẦN HÀNH

Dien Hong Tran and Lê Hữu Nghiệp shared a live video.

 Additional Visual Settings

 
 

 
 
 
LIVE

QUÝ SOEURS DÒNG THÁNH PHAOLÔ XUỐNG ĐƯỜNG TUẦN HÀNH

Thái Hà (09.05.2018) – Nhằm các cơ quan có trách nhiệm phải ra quyết định yêu cầu chủ đầu tư dừng thi công và mang máy móc ra khỏi khu đất 5A-5B Quang Trung, Hoàn Kiếm thuộc sở hữu của Nhà Dòng, sáng nay, quý soeurs đã cầm băng rôn đến trụ sở UBND quận Hoàn Kiếm và UBND phường Trần Hưng Đạo.

Nhiều người đã chú ý đến đoàn người mặc tu phục cầm băng rôn với dòng chữ “Đề nghị dừng thi công trên mảnh đất Nhà Dòng – số 5 Quang Trung” và cả băng rôn ghi nội dung bằng tiếng Anh.

Không rõ các quan chức phường Trần Hưng Đạo và quận Hoàn Kiếm có lắng nghe yêu cầu của các nữ tu hay không. Chính các cơ quan này đã ra quyết định buộc chủ đầu tư dừng thi công vào giữa năm 2016, nhưng rồi vào ngày 08.05.2018, phường Trần Hưng Đạo lại ra một văn bản không thuộc quyền của mình cho phép chủ đầu tư thi công trên khu đất của Nhà Dòng.

Như tin chúng tôi đã đưa, tối thứ Hai, 07.05 và sáng thứ Ba, 08.0.2018, một nhóm người cố đưa máy xúc, các thiết bị vào khu đất 5A-5B Quang Trung, Hoàn Kiếm của Dòng Thánh Phaolô Hà Nội để thi công.

Khi quý soeurs ngăn cản đã bị một nhóm người ‘côn đồ’ nhục mạ, cầm dùi cui tấn công. Một soeur đã bị đánh ngất xỉu.
Quý soeurs cho biết, lực lượng công an có mặt nhưng làm ngơ để nhóm người này lộng hành và quyết thực hiện ý đồ.

Sau đó quý soeurs đã ra trụ sở UBND quận Hoàn Kiếm yêu cầu cơ quan này ra quyết định buộc chủ đầu tư dừng việc thi công trên mảnh đất nhưng dường như không có tác dụng. Điều đó buộc quý soeurs sáng này phải tiếp tục xuống đường kêu cứu.

Mong anh chị em quan tâm, chia sẻ tin tức, liên đới và cầu nguyện cho quý soeurs và Nhà Dòng.

Truyền Thông Thái Hà 

 

‘Làng’ Thủ Thiêm giữa lòng Hà Nội – VnExpress

Long Dinh DucFollow

VU HAI TRAN.

30 người dân oan dự án Thủ Thiêm và Trường Thịnh (quận 2 TPHCM) sống và “chiến đấu” giữa lòng Hà Nội để đấu tranh cho quyền lợi của họ trong mấy năm qua. Cám ơn báo VNE đã miêu tả chân thật cuộc sống của họ ở Hà nội, nhưng vẫn chưa hết vể những mảnh đời bi thảm của họ, trong đó có bà Lê Thị The. Mong báo chí tìm hiểu về trường hợp tiêu biểu của bà The, hơn 70 tuổi (chính xác là 75 tuổi), cựu cán bộ binh vận, gia đình đã ở quận 2 từ 1975, nhưng dự án đó đã làm tan tác họ, chồng bà uất ức mà chết, con bà tự tử sau một vụ chống lại một nhóm “thi công” ngay sát đất của gia đình họ. Số ĐT của bà The:01208660818. Hy vọng sẽ có những nhà hảo tâm giúp họ trang trải chi phí thuê trọ, đi lại..khi họ “quyết chiến” ở Thủ Đô.

VNEXPRESS.NET
 

‘Làng’ Thủ Thiêm giữa lòng Hà Nội – VnExpress

12 lần ra Hà Nội, đoàn người ở TP HCM tá túc trong những phòng trọ chật hẹp, hàng ngày đến nhà lãnh đạo, cơ quan chính quyền khiếu kiện.

NGƯỜI LÍNH MIỀN BẮC CÓ “ĐÁNH THUÊ” KHÔNG?

 
 
Image may contain: 2 people, outdoor
Image may contain: tree, outdoor and nature

Van Pham

NGƯỜI LÍNH MIỀN BẮC CÓ “ĐÁNH THUÊ” KHÔNG?

Trần Trung Đạo.

Các bạn trẻ tại Việt Nam nghe ba chữ “lính đánh thuê” từ khi mới tập đọc nhưng chắc không hiểu rõ định nghĩa quốc tế của ba chữ này.

Theo Nghị định thư (Protocol) 1977 được Liên Hiệp Quốc công bố ngày 8 tháng 6 năm 1977 để đính kèm theo Công Ước Geneva quy định các nguyên tắc hành xử trong một xung đột võ trang ra đời năm 1949, những điểm căn bản định nghĩa lính đánh thuê (mercenary) gồm (1) không thuộc quân đội chính thức của chính phủ, (2) được tuyển dụng tại địa phương hay nước ngoài để tham gia một cuộc xung đột võ trang chỉ vì ước muốn riêng tư và được hứa đền bù cao hơn một người lính cùng cấp trong lực lượng võ trang của chính phủ mướn người đó, (3) không phải thành viên hay đang cư ngụ trên lãnh thổ được kiểm soát bởi chính phủ.

Theo định nghĩa trong Nghị định thư 1977, người lính miền Nam không đánh thuê cho ai cả mà chỉ chiến đấu trong một cuộc chiến tranh tự vệ trên mảnh đất mà chính họ chọn làm quê hương và nhiều trong số họ đã chết trên mảnh đất đó. 
Nếu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa là lính đánh thuê cho Mỹ vì Mỹ trang bị vũ khí, tài trợ là không đúng với các định nghĩa quốc tế cũng như thực tế chiến tranh.

Trong Thế chiến Thứ hai, phần lớn trong khoảng 60 quốc gia trực tiếp hay gián tiếp đứng về phía đồng minh, trong đó có Liên Sô và đã nhận vũ khí của Mỹ qua đạo luật Lend-Lease Act nhưng không ai gọi họ là “lính đánh thuê” vì họ có kẻ đối đầu chung là Khối trục. Tương tự, từ khi bắt đầu cuộc chiến cho đến khi Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973, quyền lợi và mục đích chiến lược của Mỹ và VNCH giống nhau là ngăn chận làn sóng CS tràn xuống phía Nam Việt Nam. Sau khi Mỹ thay đổi trục chiến lược bằng việc thỏa hiệp với Trung Cộng, VNCH phải chiến đấu trong cô đơn và cô thế.

Nói rộng hơn, ngoại trừ các hoạt động gián điệp mà bất cứ cuộc chiến tranh lớn nào cũng có, Việt Nam Cộng Hòa không chủ trương đánh chiếm miền Bắc. Nếu CS miền Bắc, tính luôn các thành phần CS cài lại ở miền Nam sau 1954, để yên cho miền Nam ổn định và phát triển về mọi lãnh vực thì đã không có gì xảy ra.

Nếu áp đụng Nghị định thư 1977 trong Công Ước Geneva 1949, câu hỏi “Người lính miền Bắc có đánh thuê không?” lại có vẻ thích hợp hơn và đáng phân tích hơn.

Những người lính miền Bắc thỏa mãn các điều kiện căn bản của định nghĩa “lính đánh thuê” vì (1) “không thuộc quân đội chính thức” mà là các thành phần khủng bố, xâm lược, được lén lút đưa vào Việt Nam Cộng Hòa từ một quốc gia khác, trong trường hợp này là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), (2) vô thừa nhận, đảng CSVN có một thời không thừa nhận những thanh niên nói giọng Hà Nội, Nghệ An, Hà Tỉnh, Cao Bằng v.v.. bị quân đội VNCH bắt được là từ miền Bắc mà cho họ là “nhân dân miền Nam tự đứng dậy”, (3) chỉ phục vụ cho quyền lợi của những kẻ trả lương và cung cấp vũ khí trong đó gồm đảng CSVN, Liên Sô và Trung Cộng.
Không chỉ rút ra từ Công ước Geneva mà từ cấp cao nhất của đảng CSVN cho đến cấp cao nhất của nhà nước VNDCCH đều thừa nhận “lính miền bắc là lính đánh thuê”.
Lấy các phát biểu của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Mạnh Cầm để chứng minh.

Về phía đảng, Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN thừa nhận quân đội CSVN là quân đội đánh thuê.

Nhân dịp “40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam”, Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ trưởng Ngoại Giao CSVN, khi trả lời phóng viên Tuần Việt Nam đã nhắc lại câu nói của Lê Duẩn: “Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!” 
Để công bằng và trung thực cho câu nói của Lê Duẩn, xin lưu ý, một số tài liệu khi viết lại đã cố tình bỏ chữ “cả” để vạch ra bộ mặt đánh thuê của CSVN là “đánh cho Trung Quốc và Liên Sô”. Thật ra, trong câu đó có chữ “cả” nữa, nhưng “cả” gồm những ai, xin đọc tiếp.

Câu trả lời của Lê Duẩn có thể phân tích đầy đủ hơn gồm “cho ta”, “cho Trung Quốc” và “cho Liên Sô”:

(1) Quân đội CS miền Bắc “đánh cho ta” nhằm CS hóa toàn cõi Việt Nam. Nếu theo dõi dòng lịch sử đảng CS từ thập niên 1920 khi Hồ Chí Minh nước mắt chảy dài đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lenin viết ngày 5 tháng 6, 1920 cho đến hôm nay rồi đem so sánh giữa thực tế đất nước qua cách sống như vua chúa của tập đoàn cai trị CS bên cạnh những mái tranh nghèo của hơn 90 triệu dân còn lại, sẽ thấy “ta” trong câu của Lê Duẩn là đảng CSVN chứ không phải toàn dân Việt Nam.

(2) Quân đội CS miền Bắc đánh thuê cho Trung Cộng để bảo vệ vùng an toàn phía nam quan trọng của Trung Quốc và cửa ngõ ra Biển Đông. Chính sách bành trướng nhanh chóng của Tập Cận Bình ngày nay một phần do quan điểm Trung Quốc và Việt Nam như anh với em, như môi với răng, như nước với sữa mà CSVN đã lặp đi lặp lại từ lâu.

Nếu CSVN biết cứng rắn như Philippines hay kiên quyết như Bắc Hàn thì dù không chận đứng hẳn ít ra đã làm họ Tập chậm chân chứ không có những căn cứ, những phi trường quân sự trên đảo Chữ Thập của Việt Nam như ngày nay.
(3) Quân đội CS miền Bắc đánh thuê cho Liên Sô để giảm áp lực của Mỹ bằng một mặt trận nóng trong Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Sô. Giới lãnh đạo CS Liên Sô biết không sớm thì muộn Liên Sô sẽ nguy khốn nếu không làm chậm cuộc chạy đua võ trang với Mỹ.

Về phía chính phủ CS, Phạm Văn Đồng, thủ tướng CSVN, cũng thừa nhận quân đội CS đánh thuê cho Trung Cộng. 
Đoạn đối thoại dưới đây giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng trích trong tác phẩm On China của Henry Kissinger. Chu Ân Lai nói với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam.” Phạm Văn Đồng cam kết: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam.” Chu Ân Lai thỏa mãn: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí.”

Như vậy, cả đại diện cho đảng và nhà nước CS đều thừa nhận những người lính từ Bắc Việt và các thành phần cài lại ở miền Nam đều là lính đánh thuê, đúng theo tinh thần của Công ước Geneva 1949.

Quan điểm Mao Trạch Đông về chiến tranh tại Việt Nam phù hợp với cách giải thích của Lê Duẩn. Theo đó, giống như trong chiến tranh Triều Tiên, là tạo một vùng độn trong biên giới phía nam Trung Quốc. Để thực hiện chủ trương này, Trung Cộng đã chi dụng gần như hầu hết võ khí, đạn được cho CSVN. Trung Cộng là mẹ đỡ đầu của các chính sách và chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ 1949 đến 1954.

Giai đoạn đầu của chiến tranh, Mao chỉ muốn miền Bắc là phên giậu và thỏa mãn sau khi đạt được mục đích đó. 
Theo nghiên cứu của Chen Jian trong China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Bành Đức Hoài, 24 tháng 12, 1955 thông báo cho Võ Nguyên Giáp biết các đoàn cố vấn quân sự Trung Cộng sẽ rút về nước hết vào tháng 3, 1956. Tuy nhiên khi chiến tranh leo thang, Trung Cộng cảm thấy vùng an toàn phía nam lần nữa bị đe dọa nên đổi ý và gia tăng viện trợ cho CSVN cho đến khi chấm dứt chiến tranh.
Quan điểm Liên Sô về chiến tranh Việt Nam xác định chủ trương mướn người Việt đánh người Mỹ.

Mặc dù trước đó tỏ ra lạnh nhạt trong nhưng khi cuộc chiến leo thang, Liên Sô từng bước trở thành phe có lợi trong chiến tranh tại Việt Nam. Liên Sô vượt qua cả Trung Cộng trong việc cung cấp vũ khí, viện trợ kinh tế và các phương tiện tuyên truyền cho CSVN. Để làm gì? Ngày nay các tài liệu cho thấy, Liên Sô muốn (1) dùng người Việt để đánh Mỹ, (2) cố gắng nhận chìm bộ máy quân sự của Mỹ, (3) cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Cộng trong các nước thuộc phe “xã hội chủ nghĩa”, và (4) quan trọng nhất là giảm ưu thế của Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang.

Tóm lại, quan điểm của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trung Cộng và Liên Sô về lý luận lẫn thực tế đều giống nhau.
Nhưng nếu đem câu “người lính miền bắc có đánh thuê hay không?” để hỏi một cựu cán binh CS đã từng chiến đấu ở miền Nam trước 1975, chắc chúng ta sẽ nhận câu trả lời “không phải.”

Nếu ai đó tiến bộ về nhận thức chính trị thì nhiều lắm chỉ thừa nhận họ bị gạt, bị lừa nhưng vẫn cho khẩu hiệu “đánh bại chính sách thực dân mới của đế quốc Mỹ” là đúng và “thống nhất đất nước” là tình cảm tự nhiên. Tuy nhiên, cho tới nay, chắc không bao nhiêu người hiểu “chủ nghĩa thực dân mới” là gì và tình cảm “thống nhất đất nước” kia từ đâu mà có.
Một số khác cũng trả lời “không”, không có nghĩa là họ không thấy, không biết, không nhận ra sự thật sau nhiều nghìn đêm mất ngủ, nhưng chỉ vì không đủ can đảm để từ chối một phần đời trai trẻ của mình và nhất là mất đi những gì họ đang có hôm nay. /-