Từ Nam Phong tới Bách Khoa- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

16/08/2025

  • Văn hóa và chính trị: thực chất hay huyền thoại

Chính trị là cái nhất thời của một thời kỳ. Văn hóa là cái tồn tại, kéo dài nhiều thế hệ.

Bài học trước đây với học giả Trương Vĩnh Ký, với Nguyễn Trường Tộ. Nay cái gì nơi họ còn để lai, cái gì còn, cái gì mất.

Sau này với Văn Cao, với Trịnh Công Sơn, với Phạm Duy cũng cùng một lẽ ấy. Cái gì còn đọng lại sau họ? Cái gì người ta còn nhớ và cái gì người ta đã quên?

Tóm lại cái gì là thực chất và cái gì chỉ còn là huyền thoại.

Phạm Quỳnh nằm trong giai đoạn những vòng xoáy lịch sử bắt buộc có những chọn lựa, hướng đi cho riêng mình và cho đồng loại và đâu là nỗi oan khiên?

Học giả Phạm Quỳnh vốn sinh thời cộng tác với Pháp với rất nhiều huyền thoại vây quanh như: huyền thoại khai hóa , huyền thoại  Pháp-Việt đề huề, trong đó đâu là sự thật đâu là giả?

Chúng ta cùng chờ xem.

Trong Nam Phong số 33 có đăng một bài luận thuyết dài của Tông đốc Thân Trọng Huề tri’ch đăng một lá thư  của Le Myre de Vilers, nguyên soái Nam Kỳ, gửi cho  Dục tôn để chứng minh người Pháp  không muốn xâm lăng Việt Nam. Nhưng vì triều đình Huế bất lực, trộm cướp hoành hành, quan lại tham ô, dân chúng thì lầm than nghèo khổ. Người Pháp dù không muốn chiến tranh, bắt buộc phải dùng những biện pháp thich nghi dùng võ lực chỉ vì bó buộc mà thôi”.

Cũng vậy, sở dĩ người pháp phải can thiệp qua những vụ sau này như Dupuis, Garnier, Rivière chỉ là ngẫu nhiên chứ nước Pháp không hề cố ý chiếm Việt Nam.

Phần De Courcy cho rằng sở dĩ Annam thua vì quân lính kém quá. Tây chỉ có 90 người mà lấy được thành Hà nội: “ Xưa nay chưa thấy ai đến nước người ta, có ít quân mà lấy được thành dễ như vậy. Nghĩ đến lúc đánh giặc ở Bắc Kỳ như trò chơi trẻ con, kẻ học sử không hiểu lúc bấy giờ tổ chức thế nào mà yếu đến thế.

Cũng vậy, Việc Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi đi trốn đêm mồng 4 tháng 7 là rất dở. Nước Nam đã ký hòa ước với Pháp sang bảo hộ nước Nam mà khi Toàn quyền De Courcy chưa kịp yết kiến vua thì vua đã bỏ chạy…

Phải chăng tất cả đây chỉ là những huyền thoại được người Pháp dựng lên?

Muốn hiểu thêm nhiều chi tiết, nhiều thảm cảnh, nhiều dấu ấn xã hội, xin mời đọc Pierre Loty phơi ba`y tất cả tâm lý của người thực dân lúc sang xâm chiếm  VN…. Ông đã tham dự vào các trận đánh ở Đà Nẵng, đổ bộ ở cửa Thuận Hóa trong cuốn sách L’ésotisme( những cảm nghĩ về lưu đầy.)

Trong một bài viết của Phạm Quỳnh nhan đề:” Essai Franco-Annamites. Un problème d’éducation des races à l’académie des sciences morales, juillet, 1922, Phạm Quỳnh phát biểu: Toàn thể giới thượng lưu Annam tín nhiệm ở nước Pháp và hơn nữa còn giao phó hoàn toàn việc học vấn cho nước Pháp coi sóc. Thật là cảm động và độc nhất trong lịch sử nhân loại, cử chỉ của cả một dân tộc phó thác số phận của mình cho một dân tộc khác.”.

Đây là một nhận đinh thực tế hay một tâng bốc hùa theo kẻ mạnh?

Chỉ biết rằng, nhiều người đã đánh giá Phạm Quỳnh là “theo Tây”:.

Việt Minh sau này đã sát hại  Phạm Quỳnh cùng với cha con ông Ngô Đình Khôi tại Huế cũng nằm trong cái tinh thần ấy.

Phần bài viết này, xin phép để vào trong ngoặc những thái độ, những phát biểu chính trị của Phạm Quỳnh và chỉ chú tâm đến những đóng góp về sinh hoạt văn hóa của ông.

  1. CON ĐƯỜNG TỪ NAM PHONG

Trong số Nam Phong 154, tháng chín 1930,  Phạm Quỳnh có dịch lại một bài viết của chính ông nhan đề: Ce que sera l’Annam dans cinquante ans ( An Nam sẽ ra sao sau năm mươi năm nữa ? ) đăng trong France-Indochine. Trong những điều mà Phạm Quỳnh mong mỏi cho một nước Việt Nam tương lai là có một nền giáo dục không phải chỉ đào tạo ra một số thầy thông thầy ký. Một lối học chỉ để “đi làm mướn” hoặc đi làm quan tước mà ông vốn không ưa.

Ông viết: “Người thanh niên An Nam bây giờ bập bẹ nói chút tiếng Pháp có thật đã văn minh, đã hấp thụ được nhiều Văn hóa hơn các cụ nho ngày xưa chưa?”

Và tấm lòng mong mỏi của ông cũng như người đi trước ông là Nguyễn Văn Vĩnh (tạp chí Đông Dương chỉ tồn tại có ba năm từ 1913-l916) là làm báo để dạy tiếng mẹ đẻ, viết tiếng mẹ đẻ cho con dân Việt.

Đó là một cái nhìn viễn kiến về tiền đồ văn hóa Việt đáng được trân trọng!!!

Cái tương lai mà Phạm Quỳnh mong mỏi và tiên đoán về tiếng Việt đã đạt được ngoài sự mong đợi của Phạm Quỳnh và của nhiều người.. Không phải đợi đến 50 năm sau mà chỉ sau 30 chục năm, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ có chuẩn mực, được giảng dạy từ tiểu học, trung học và cả đại học.

Thành công đó có sự đóng góp rất nhiều của báo chí, trong đó có Nam Phong.

 Đó cũng là mục tiêu của bài viết này:

  • Hành trình từ báo Nam Phong đến Bách Khoa.
  • Và phải chăng Bách Khoa là điểm hẹn của con đường đi của chữ quốc ngữ, từ dạng thô sơ đến hoàn chỉnh? Ông Phạm Quỳnh ra làm báo Nam Phong từ 1917-1932 (Báo NP tiếp nối đến 1934), sau đó nhận chức Thượng thư bộ học ở Huế.

Trong vòng 15 năm làm báo, ông đã gây được một phong trào báo chí với một số cây bút như Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật và đặc biệt có hai người trẻ tuổi là Đông Hồ và Tương Phố.

Sau này Đông Hồ và Tương Phố là gạch nối từ Nam Phong đến Bách Khoa. Cả hai đều viết và cộng tác với tờ Bách Khoa.

Câu chuyện như thể phải được coi là kỳ thú.

Chỉ chưa đầy 30 năm sau câu hỏi trông đợi của Phạm Quỳnh trở thành sự thực hiển nhiên.

Chữ quốc ngữ đã đi những bước chân của người khổng lồ.

Cần phải nhắc nhớ nhau rằng, thời của Trương Vĩnh Ký trong Nam, thứ chữ gốc La Tinh này đã có mặt, nhưng không ai chịu học cả. Phải ra lệnh ép người ta mới chịu học. Con đường đi của chữ quốc ngữ cũng nhiều gian nan, đánh dấu bằng những cột mốc lớn như có Gia Định báo, rồi truyện Kiều, Lục Vân Tiên được phiên âm sang chữ quốc ngữ. Chưa kể chương trình của Đông Kinh Nghĩa Thục kêu gọi hô hào hai điều: Cắt búi tó củ hành và học chữ quốc ngữ vào những năm 1907.

Rồi đoạn đường tiếp nối Nam Phong với sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa, Ngày Nay 1932-1940.

Nếu Phạm Quỳnh xây dựng chữ quốc ngữ với sự “phát hành ra hàng ngàn tiếng mới”, mở đường, xây dụng thì TLVĐ làm “phong phú, đơn giản” chữ Quốc ngữ.

 Chỉ có một điều bất công là TLVĐ đã mang  Phạm Quỳnh ra chế diễu đủ kiểu một cách rất rẻ tiền. Vì thế sau này đến lượt TLVĐ lại trở thành nạn nhân của nhóm Sáng Tạo?

Sau đó, có một khoảng trống văn học từ 1940-1954. Khoảng trống vì có chiến tranh Việt-pháp.

Trong Nam, sau 1955, có một sự bùng nổ văn học. Không có cuộc di cư của một triệu người, thử hỏi có thể nào có một sự bùng nổ văn học như thế không? Chắc là không. Cuộc di cư ấy gắn liền vào định mệnh cũng như tương lai lịch sử chính trị kinh tế, học thuật của miền Nam sau 1955.

Trong đó có báo chí.

  • Bùng nổ thứ nhất là tiếng Việt được giảng dạy từ tiểu học, trung học và sau này cả đại học. Bùng nổ thứ hai là báo chí được hồi thịnh đạt với rất nhiều báo chí ra đời. Báo chí đã có những thay đổi lớn lao khác xa thời của Phạm Quỳnh với các nhóm Sáng Tạo, rồi Bách Khoa.

Nếu sự nghiệp Nam Phong với Phạm Quỳnh là làm giàu thêm về tiếng Việt, về dịch thuật, về phổ thông, về học thuật, về tư tưởng Tây phương và khảo cứu về văn minh, chính trị nước Pháp. Sự nghiệp ấy có thể được nối tiếp sau này với tờ Bách Khoa vào năm 1957 với đầy đủ các kiến thức đủ loại: Từ văn chương đến nghệ thuật, đến khảo cứu phê bình, đến sử học và triết học Đông Tây…

Và xin trích dẫn lời nhận định của Vũ Ngọc Phan, trích lại từ Thế Kỷ 21, số 122, về  Phạm Quỳnh như sau:

 “Một người chỉ biết đọc quốc ngữ mà có khiếu thông minh có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của mình. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ Bách khoa toàn thư bằng Quốc văn.”

Chính trong cái ý trên mà người viết bài này muốn nối kết lại con đường học thuật từ Nam Phong tới Bách Khoa.

 Phải nhìn nhận rằng con người Phạm Quỳnh đã làm được nhiều điều mà cộng chung tất cả những người cộng tác với ông cũng không thể so sánh bằng.

 Văn học, chính trị, chữ quốc ngữ thời Phạm Quỳnh giống như một cánh đồng với luống cầy vỡ đất. Phạm Quỳnh là người cầy xới mảnh đất đó lên và vun xới chăm sóc.

Và kể từ Phạm Quỳnh đến Bách Khoa, số phận văn học đã có những lúc nổi trôi cùng với số phận đất nước để sau cùng có được những điều như ngày hôm nay.

 Tôi chỉ biết kinh ngạc và cảm phục những nhà văn, nhà báo của thời kỳ Nam Phong cũng như Bách Khoa sau này.

Họ đã làm được những điều phi thường, đã đóng góp, xây dựng cho công việc này. Mặc dầu, những bài báo của Phạm Quỳnh còn nặng lối văn biền ngẫu, lý luận cũng  thiếu sắc bén mà cũng ngây ngô về những điều

mà bây giờ chỉ là những kiến thức khá sơ đẳng. Nhưng chúng vẫn có giá trị tinh thần của những người đi bước đầu. Khó lắm và cũng gian nan lắm.

  • CON ĐƯỜNG TIẾP NỐI CỦA BÁCH KHOA

Mục đích chính của bài viết này là nối kết chặng đường từ Nam Phong tới chặng đường Bách Khoa. Những gì Nam Phong chưa làm, Phạm Quỳnh chưa viết, hoặc chưa đủ điều kiện thực hiện, hoặc chưa phải lúc thì Bách Khoa và các tạp chí văn học khác đã làm được. Sau đây là những hiện thực đấng ghi lại

  • VỀ LÃNH VỰC TIỂU THUYẾT, THI CA

Phạm Quỳnh hầu như không để tâm mấy về lĩnh vực này. Trừ cuốn La Poesie Annamite ( Thơ An Nam ) xuất bản 1931. Từ cái thi ca

 Việt Nam trong Poésie Annamite này đến thứ thi ca của Nguyên Sa, Quách Thoại, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư là một cuộc vượt mốc. Chắc là khác xa nhau lắm.

 Đó là khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng.

 Phần Phạm Quỳnh, ông chỉ viết về những bài du ký như truyện đi dự Đấu xảo ở Paris với Pháp du hành trình nhật ký, Mười ngày ở Huế hay Một tháng tại Nam Kỳ.
Riêng một tháng ở Nam Kỳ xem ra ông chưa thấu đáo về văn học Nam Kỳ mà sau này Nguyễn Văn Trung đã có công sưu tầm và viết cuốn sách: Lục Châu học.

 Sau này, theo sự tiết lộ của gia đình, ông đang viết dang dở một bản văn tìm thấy trên bàn viết sau khi ông bị Việt Minh bắt dẫn đi và được coi như tùy bút với nhan đề: Hoa Đường tùy bút. Thật ra gọi là tùy bút, nhưng đọc nội dung cho thấy đó chỉ là những Meditations (thiền định ), những suy niệm về cuộc đời, về lẽ sống ở đời hay về thế thái nhân tình hơn là thứ Tùy Bút theo nghĩa bây giờ.

 Nó không giống thứ tùy bút của một Nguyễn Tuân, của Mai Thảo, của Vũ Bằng và nhất là tùy bút hay tạp bút của Võ Phiến.

Thật ra, muốn làm giầu và phong phú cho tiếng Việt thì không thể không viết và đọc truyện, đọc thi ca, đọc tùy bút. Những công việc này không nhất thiết chỉ Bách Khoa đã làm mà hầu hết cáp tạp chí trong Nam, sau 1955 chú trọng đến phần Văn học, nghệ thuật dưới nhiều dạng thơ, văn, truyện, tùy bút.

Họ đã bỏ xa cái thời của Phạm Quỳnh.

Nhưng thơ văn, truyện, trong Bách Khoa cũng không hẳn là “mặt mạnh” của tờ báo, mặc dầu sau này, có các nhà văn như Phan Văn Tạo và trẻ như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Thế Uyên v.v… Đặc biệt dưới dạng gọi là Tạp bút và tùy bút thì có sự đóng góp của Võ Phiến khá nhiều coi như thành công và xuất sắc của tờ Bách Khoa.

Ông có khoảng vài chục tùy bút như: Một ngày để tùy nghi, Cái còn lại, Mùa xuân con én, Nhớ làng, Những đám khói... Và Tạp luận như Vui buồn, Nhìn lại 15 năm Văn Nghệ Miền Nam, Đông Tây.

Võ Phiến có cái tỉ mỉ chi li từng sợi tóc, tế vi, nhẹ nhàng, không phấn son kiểu Mai Thảo. Nhưng có những nhận xét góc cạnh và sắc bén trong đó.

 Hay như Nguyễn Ngu Í, một trong những người viết nhiều cho Bách Khoa với nhiều bài viết, nhất là viết về những nhà văn, nhà báo. Sau này, ông tập trung tất cả những bài trên Bách Khoa in thành sách mang tựa đề Sống Và Viết. Khá là sinh động và trung thực. Viết có gói ghém một tấm lòng, dễ ưa mà đọc ông.

Nguyễn Hiến Lê thì đem ngôn ngữ Việt vào khắp chốn: từ giáo dục đến lịch sử đến văn chương, dịch thuật và cao chót là đến triết học.

  • VỀ MẶT BIÊN KHẢO

Thời kỳ Nam Phong đã có nhiều người cộng tác như quý ông Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lãng-(con rể phạm Quỳnh) Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục và các nhà văn nhà thơ như Phạm Duy Tốn ( thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy), Đông Hồ và Tương Phố.  Phạm Duy Tốn với truyện: Sống chết mặc bay..nổi bật về tính cách táo bạo và đạt tới hiện thực xã hội.)

Mặc dầu vậy, tên tuổi Phạm Quỳnh vẫn nổi bật trên tất cả những người cộng tác ở trên về mặt dịch thuật và biên khảo.

Theo nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, cái vốn liếng ấy, cái vốn liếng học thức hơn người ấy của Phạm Quỳnh chỉ có được với 9 năm Phạm Quỳnh làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ. Mặc dù đỗ đầu trường Hậu Bổ, năm 1908. Phạm Quỳnh đã không đi theo con đường hoạn lộ. Theo đường đó thì cụ Phạm Quỳnh sẽ rơi vào cái cảnh “sáng vác ô đi, tối vác về”. Hay tệ hơn như cụ viết, lối giáo dục của Tây chỉ đào tạo được các thầy thông, thầy phán ti toe mấy chữ tiếng Tây và “đi làm mướn”.

Và như lời nhận xét của Đoàn Văn Cầu về Phạm Quỳnh: “Kiến văn quảng bác của tiên sinh được hun đúc phần lớn ở trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác Cổ” (Trích Tạ Chí Đại Trường, thế kỷ 21, số 122, tháng sáu 1999, trang 42).

 Sau này, 15 năm làm báo, Phạm Quỳnh đã dùng cái sở học chín năm của trường VĐBC giúp Phạm Quỳnh đi sâu vào các lãnh vực triết học, văn học, văn chương kim cổ. Và rất nhiều người đọc thời ấy đã là học trò của Phạm Quỳnh theo nghĩa đọc Nam Phong để có cơ hội mở mang thêm kiến thức.

Dĩ nhiên, nếu so sánh với những hiểu biết bây giờ thì công việc của Phạm Quỳnh chỉ là giới thiệu tổng quát trào lưu tư tưởng Tây Phương như các học thuyết của Rousseau 1712-1778. Montesquieu, 1689-1755. Voltaire 1694-1778.

Tôi tự đặt vấn đề là tại sao Phạm Quỳnh lại chọn các nhà tư tưởng như Rousseau, Montesquieu, Voltaire của thế kỷ 18? Có cổ quá không? Phải chăng chỉ vì những tư tưởng chính trị, xã hội của các nhà tư tưởng này thích ứng được cho xã hội, chính trị Việt Nam lúc bấy giờ? Khảo luận về Rousseau hay Montesquieu là tự mình lùi về hai thế kỷ ở đằng sau? Trong khi đó thì sau cách mạng 1789, nước Pháp về mặt tư tưởng đã bỏ xa những nền tảng triết lý, chính trị, giáo dục của Rousseau hay Montesquieu rồi.

 Ngoài ra, ông còn giới thiệu tư tưởng Đông Phương như Phật giáo, Khổng giáo v.v… Những tư tưởng đó cả ngàn đời vẫn là thế nên chẳng có thể làm gì khác được.

Nhưng dù thế nào, đối với thời ấy, phải nhìn nhận rằng, cái mặt mạnh, trổi bật của Phạm Quỳnh và Nam Phong, chính là phạm vi biên khảo học thuật.

 Nó giới thiệu các tư tưởng học thuật ấy đối với đa số bạn đọc còn mù mịt về thế giới Tây Phương. Và coi như là những khám phá mới, những bước khai sáng mở đầu.

 Nhiều bạn đọc đã hẳn coi tạp chí Nam Phong cũng như cụ Phạm Quỳnh là thày dạy cho cả một thế hệ.

Đã có một thế hệ Nam Phong. Thế hệ Phạm Quỳnh.

Cũng theo con đường đó, cái mặt mạnh nhất của Bách Khoa sau này là phần biên khảo.

  • Tờ Bách Khoa

Những người có công đầu trong tờ Bách Khoa là Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh. Nhưng cũng để lọt một tay cộng sản nằm vùng lọt vào Bách Khoa. Tên y là Vũ Hạnh.

 Nhưng nay là biên khảo về những nhà tư tưởng, triết gia đương thời, thế kỷ 20 mà không phải thế kỷ 18 như trước đây nữa.

Cộng thêm là những biên khảo về đủ mọi mặt.

Có thể mặt trổi bật và mạnh nhất của Bách Khoa là lãnh vực triết học. Thứ triết học đã ảnh hưởng trên phạm vi tư tưởng, văn học một phần lớn thế hệ thanh niên thời ấy.

  • NGÀNH TRIẾT HỌC

Việc giới thiệu triết lý hiện sinh hay các thuyết cơ cấu luận, hiện tượng luận, tuy là rất mới mẻ đốí với Việt Nam, nhưng cũng đã kể là trễ so với bên Pháp. Vì những triết gia này đã nổi tiếng một thời ngay sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Trễ gần hai chục năm. Nhưng có sao? Cũ người, nhưng mới ta là được rồi.

Lần đầu tiên các danh từ như nôn mửa, phản kháng, tù đầy, hư vô, tự thân, en soi, pour soi, tha nhân, thân phận, hỏa ngục, lưu đày, hữu hạn, vô hạn tràn ngập văn chương tiểu thuyết, nơi cửa miệng thanh niên thiếu nữ.

 Hai tác giả đóng góp nhiều hơn cả trên Bách Khoa là Nguyễn Văn Trung và Trần Thái Đỉnh. Nguyễn Văn Trung, người viết khỏe, sung sức với 50 bài viết đủ loại và Trần Thái Đỉnh 30 bài. Tất cả những bài viết đó thường liên quan đến những triết gia đại diện hàng đầu nhu J.P Sartre, Heidegger và nhà văn như A. Camus.

 Cao hơn một chút, có mhững bài biên khảo về thuyết Hiện tượng luận và Cơ cấu luận. Nhưng để hiểu được nội dung những cơ sở lý thuyết này, chắc người đọc cần kinh qua ngưỡng cửa đại học.

Nội dung những bài viết của Nguyễn Văn Trung có tính cách tản mạn triết học như Tự tử, Cần lao, Tình yêu trong tác phẩm kịch của G. Marcel, Trường hợp F. Sagan hay vấn đề luân lý trong tiểu thuyết, Cái nhìn hay đám cưới với cuộc đời, Chủ nghĩa hiện sinh (Trả lời phỏng vấn của Trần Thái Đỉnh).

Nội dung các bài viết của Trần Thái Đỉnh có tính cách trường ốc, sư phạm. Ông đã viết đều đặn liên tiếp mấy chục bài trên Bách Khoa như:

 Siêu Việt thể của Jaspers từ số 125-126-127. Sartre hay là thuyết Hiện sinh phi lý, số 132. Kierkegaard, ông tổ của triết học hiện sinh chính thức, số 117, 118. Tổng kết về phong trào Hiện sinh, số 135- 136.

 Những bài viết của Trần Thái Đỉnh đã giúp ích rất nhiều cho bất cứ ai muốn mon men vào lãnh vực triết học, hiểu được những nét cơ bản về các triết gia hiện sinh. Công của Trần Thái Đỉnh không phải là nhỏ đối với đa số bạn đọc.

Về triết Đông Phương tương đối còn mới mẻ trong đại học nên phần đông là sự đóng góp phần dịch thuật hoặc chú giải.

Có một số tác giả như Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Hiến Lê… Sau này có Kìm Định viết rất nhiều về Triết Đông với một góc độ nhìn từ Triết Việt với các bộ sách khoảng 30 cuốn như: Cơ cấu Việt Nho, Nhân chủ, Những dị biệt giữa hai nền triết học Đông Tây, Sứ điệp trống Đồng và đặc biệt hai bộ Cửa Khổng và Chữ Thời. (Muốn đọc thêm thêm Kim Định, xin mời vào (dunglac.org)

  • VỀ KHOA NGÔN NGỮ

Chúng ta không thể ngờ rằng khoa ngôn ngữ học đã khởi xướng rất sớm với Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Trước Nam Phong của Phạm Quỳnh cũng vài chục năm. Cho đến bây giờ, tôi vẫn tự hỏi bằng cách nào, Truơng Vĩnh Ký đã trở thành nhà ngôn ngữ học, một nhà bác học của Việt Nam? Ông là người đồng thời với những nhà ngữ học tài danh thế giới như F. de Saussure. Dựa vào sự nghiệp trước tác của ông cho thấy có đến 52 công trình viết của ông về ngôn ngữ, chiếm 43% công trình trước tác của ông.

Bẵng đi một khoảng cách gần 100 năm, chúng ta không có những người kế tục Trương Vĩnh Ký.

Tờ Nam Phong thì không ai đá động gì đến ngôn ngữ học.

Đó là một lỗ thủng văn học về ngôn ngữ học từ Nam Phong, kéo dài qua nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Kể cũng là điều kỳ lạ.

Sau này, ở miền Nam, chẳng biết do duyên văn học nào mà có một số không nhỏ các tác giả đi sâu vào lĩnh vực ngữ học.

 Thoạt đầu có thể là linh mục Lê Văn Lý có bằng tiến sĩ với tác phẩm Le Parler Vietnamien ( Nói tiếng Việt ), thập niên 1940-1950, giáo sư Đại học văn khoa Sài Gòn. Các vị khác nối đuôi theo đều cũng tự học như Trương Vĩnh Ký.

Đó là các quý ông Nguyễn Bạt Tụy, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Lê Ngọc Trụ và  giáo sư Trần Ngọc Ninh, Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, nhà văn Bình Nguyên Lộc.

Không viết cho Bách Khoa, nhưng có công trình khảo cứu về ngữ học phải kể thêm linh mục Nguyễn Hưng, nhất là linh mục Nguyễn Huy Lai.( thuộc Dòng Tên)

Đa số họ viết cho Bách Khoa, rồi ra sách với các công trình nghiên cứu như Khảo luận về ngữ pháp, Ngôn ngữ học Việt Nam, Bàn về tiếng Việt, về chính tả tự vị.

Mặc dầu là những đề tài chuyên môn, nhưng chịu khó mầy mò thì cũng có thể hiểu được đôi phần. Nhờ những công trình khảo cứu như thế, có thể coi tờ Bách Khoa như một thứ bách khoa tự điển bỏ túi.

  • VỀ LÃNH VỰC SỬ HỌC

Đây là môn học lâu đời nhất của Việt Nam. Nhiều bộ sách sử được viết ra kể không hết như: Sử Quốc triều chánh biên toát yếu, Hoàng Lê nhất thống chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Phủ Biên tạp lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lực tiền biên, Gia Định thành thông chí, Đại Nam liệt truyện tiền biên…

 Có thể nói tắt một lời, sử học là ngành học lâu đời và phong phú với hằng trăm sách nghiên cứu, hằng trăm tác giả đủ loại. Chưa kể cũng đến hằng trăm sách sử mà tác giả phần lớn là người Pháp.

Phần sử học viết trong Nam Phong tạp chí cũng không nhìều. Quá ít nữa, gần như không được ghi chép lại. Nhưng tôi cũng tìm thấy được một số tài liệu trong phần phụ lục, viết bằng Hán Văn. Chẳng hạn viết về Ngọc Hân Công Chúa và qua Quang Trung trong Nam Phong số 103, số 177, số 111, năm 1926.

Sau này, ông Tạ Quang Phát đã phê dịch và được đăng trong Tập san Sử địa, số đặc biệt về Quang Trung.

Từ những tài liệu sử viết bằng chữ Hán, trong phần phụ trương của Nam Phong đến các sử liệu viết trên Bách Khoa có một khoảng cách lớn cả về số lượng bài vở lẫn số lượng tác giả.

Người đầu tiên tôi muốn nhắc tới là Nguyễn Thiệu Lâu, tốt nghiệp sử học ở Pháp, chuyên chú về nhà Tây Sơn. Sau này có những nhà sử học trẻ hơn mà tôi rất quý mến.

 Đó là truờng hợp Tạ Chí Đại Trường. Ông có trình luận án cao học với đề tài: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến 1802. Ông viết rất sắc bén, phân tích kỹ lưỡng. Ông viết chẳng những cho Bách Khoa mà còn cho Tập San sử địa cũng như tạp chí Đại Học.

Đây là mẫu điển hình của loại người có chân tài.

Xin được liệt kê một số bài của ông như: Vai trò cửa Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính, Chiến thắng Nguyễn Huệ trước viện binh Trung Hoa, Dân Đại Việt ở cuối thế kỷ 18, Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn và chân dung anh em họ.

Ngoài Tạ Chí Đại Trường không thể quên một tên tuổi có vẻ xa lạ đối với độc giả người Việt.

 Đó là ông Chen Ching Ho, tên Việt là Trần Kinh Hòa. Tôi không chắc là ông có viết cho Bách Khoa không? Ông viết rất nhiều dựa trên văn bản như: Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên, Kẻ chợ, Thành trì Chí của Trịnh Hoài Đức.

Đối với giới sử học miền Nam, chắc hẳn ông là người được kính nể không ít.

Tôi cũng nhận ra ở miền Nam, có một xu hướng viết sử trân trọng, cổ súy Quang Trung Nguyễn Huệ trong đó có các tác giả Hoàng Xuân Hãn với La Sơn Phu Tử, Hồ Hữu Tường, Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, Tạ Quang Phát, Đặng Phương Chi, Phạm Văn Sơn… Và sau này, tôi cũng thấy xu hướng viết về Tây Sơn tương tự như vậy ở miền Bắc.

Thứ đến, tôi có cảm tưởng môn sử học là nơi ra vào của bất cứ ai, không cứ là nhà sử học. Vì thế có thể thấy tên những tác giả như Nguyễn Đăng Thục, Vương Hồng Sển, Hoa Bằng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Kham, Lê Ngọc Trụ, Phan Văn Luận, Bửu Cầm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam va` ngay cả thi sĩ Quách Tấn, Đông Hồ.

Nhân tiện đây, chúng tôi xin được một lần nêu danh tính tất cả các tác giả đã một thời đóng góp cho ngành sử học ở Việt Nam, kể từ sau 1955, bất kể là họ đã viết cho Bách Khoa hay không? Có thể tên tuổi họ còn thiếu sót.

Đó là Tạ Chí Đại Truờng, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thế Anh, Bửu Cầm, Phan Khoang, Lâm Thanh Liêm, Phạm Văn Sơn, Thái Việt Điểu, Phạm Cao Dương, Trần Anh Tuấn, Quách Thanh Tâm, Nguyễn Khắc Ngữ, Đặng Phương Nghi, Nguyễn Huy, Phạm Long Điền, Trần Quốc Giám, Lê Thọ Xuân, Tô Nam, Lê Văn Ngôn, Bửu Kế, Nguyễn Văn Dương, Linh mục Nguyễn Phương, Nguyễn Khắc Xuyên, Mai Chưởng Đức, Nguyễn Sao Mai, Chen Chin Ho hay Trần Kinh Hòa, Hồ Hữu Tường, Nghiêm Thẩm, Ưng Trình, Phạm Văn Diêu, Nguyễn Như Lân, Tiên Đàm Nguvễn Tường Phượng, Nguyễn Như Lân, Thích Thiện Ân, Nguyễn Khắc Kham, Tạ Trọng Hiệp, Nguyễn Trần Huân, Lê Văn Hảo, Lê Hữu Mục, Tô Nam, Trần Nhân Thâm, Nhất Thanh, Lê Hương, Hãn Nguyên, Đào Duy Anh, Ưng Trình, Lê Thọ Xuân, Nguyễn Nhã, Nguyễn Văn Hầu, Phù Lang Trương Bá Phát, Nguyễn Bá Thế, Lưu Hải Nam, Trần Trọng Kim, Lãng Hồ, Lê Thanh Cảnh, Lê Thành Khôi, Trương Bá Cần.

Và có thể còn nhiều tác giả khác mà chúng tôi đã thiếu sót không ghi chép đủ. Một phần dựa vào Tập san Sử Địa. Cũng do khoảng cách chính trị, chúng tôi thực sự không được biết nhiều đến các người viết sử miền Bắc.

Sự liệt kê danh sách nhiều người viết sử như thế chứng tỏ rằng thời kỳ Nam Phong tạp chí đã bị bỏ qua rất xa đến không ngờ được.

  • VỀ LUẬT PHÁP

Đây cũng là ngành khá mới mẻ mà thời kỳ báo Nam Phong hầu như không có một ai có sách vở, tài liệu nghiên cứu. Xin được vắn tắt một vài vị như quý ông Trần Thúc Linh và đặc biệt là quý ông Lê Tài Triển và Nguyễn Toại. Hình như ngoài đời, chức vụ của họ đều là thẩm phán cả.

Riêng ông Lê Tài Triển là người mà tôi nhớ nhiều nhất với bài viết về vụ án cầu Rạch Hào liên quan đến vụ tai nạn lật xe chết người trên đường Sài Gòn đi Vũng Tầu, liên quan đến con gái của ông triệu phú Nguyễn Đình Quát. Ông còn viết các bài như: Cá nhân đứng trước pháp luật, Nạn nhân với tố quyền của nạn nhân.

  1. TỔNG KẾT BÀI THAM LUẬN TỪ NAM PHONG TỚI BÁCH KHOA

Con đường học thuật chẳng khác gì con đường Nam tiến. Từng bước, từng chặng đường lịch sử mà chúng ta đã đi qua. Nó đánh dấu những thăng trầm, những ngưng đọng cũng như những tiến bộ không ngừng.

Công khó là của nhiều người.

Nếu thời kỳ báo Nam Phong, xin mượn lời Thanh Lãng: ca tụng Nam Phong tạp chí là một bộ Bách Khoa tự điển, kết hợp được tất cả tư tưởng mọi ngành từ khoa học đến văn chương và là tờ văn học có ảnh hưởng lớn nhất từ trước đến nay. Và rồi còn quy tụ được tất cả những nhà văn hóa thời danh của đầu thế kỷ XX mà người đứng đầu là Phạm Quỳnh.

Tất cả những mỹ từ ấy chỉ cần chuyển hai chữ Nam Phong thành Bách Khoa thì đều đúng cả.

Vì thế, con đường từ Nam Phong đến Bách Khoa là con đường thẳng, một chiều. Cái gì ở Nam Phong không có thì Bách Khoa có hết, mà có hơn bội phần, có dồi dào và phong phú. Chỉ có vấn đề danh xưng là khi nói đến Nam Phong, người ta liên hệ trực tiếp ngay tới Phạm Quỳnh. Điều đó trở thành lúng túng và dè dặt hơn trong trường hợp của tờ Bách Khoa. Nhưng dù là một người hay nhiều người thì Bách Khoa vẫn là một thứ Bách khoa toàn thư cho bất cứ ai muốn mưu cầu mở mang kiến thức.

Bách Khoa là một bộ sách dạy cho bất cứ ai khi rời khỏi ghế nhà trường.

Nó là sự kéo dài từ trường học ra đến trường đời.

Nó là thứ trường học liên tục, cập nhật và bổ túc cho những gì còn chưa đủ của truờng học.

 Cái gì chưa học ở nhà truờng thì học ở đây.

Một người anh của tôi thú nhận rằng: ngoài vốn liếng chuyên môn dành cho một y sĩ mà ông học ở trường Y khoa, hầu như tất cả vốn liếng kiến thức đủ thứ còn lại, ông đều nợ tờ Bách Khoa cả.

Một thú nhận khiêm tốn mà không thiếu phần hãnh diện.

 Điều đó nói lên rằng, tờ Bách Khoa đã thực sự đóng góp cho nhu cầu văn hóa, học thuật cho tất cả tầng lớp thanh niên trí thức miền Nam như một hành trang giúp họ vào đời.

Miền Bắc đã không có được điều đó.

Cho nên sẽ không lấy gì làm lạ về sự tồn tại, có mặt lâu dài như thế của tờ Bách Khoa. Bởi vì hơn bất cứ tờ báo nào, nó đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu hiểu biết của một người.

Một điều nữa cần hiểu rằng sách vở chuyên ngành, sách vở khảo cứu của chúng ta chưa có đầy đủ, người viết cũng không có. Báo chí như Bách Khoa thay thế vai trò của sách vở, giải quyết tạm thời sự thiếu thốn ấy.

Vì thế, vai trò báo chí trong sự mở mang học thuật, kiến thức là điều cần thiết, cấp bách không có không được.

Hiểu được như thế mới thấy vai trò của Nam Phong cũng như Bách Khoa quan trọng như thế nào. Con đường học thuật đi từ Nam Phong đến con đường của Bách Khoa là con đường Nam tiến mà chúng ta nên hãnh diện.


 

Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào…- Cha Vương

Xin Chúa thay lòng đổi dạ những tâm hồn nguội lạnh để họ biết tìm đến Chúa đang mong đợi từng phút giây đó.

Cha Vương

Th 5: 21/8/2025 cn 22

TIN MỪNG: Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. (Lc 13:24)

SUY NIỆM: Tình yêu, lòng thương xót của Chúa và ơn cứu độ không bị lệ thuộc bởi “số lượng”.  Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng thì quả là không thích hợp, ơn cứu độ không lệ thuộc bởi đi bao nhiêu Thánh Lễ, đọc bao nhiêu kinh, giữ được bao nhiêu luật… Nếu tất cả mọi người đều được cứu rỗi thì bạn sẽ có thái độ ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu rỗi thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.

Do đó khi được đặt ra câu hỏi về “số lượng”, Chúa Giê-su không trả lời thẳng nhưng Ngài dùng hình ảnh “đi qua cửa hẹp” để giúp họ thay đổi thái độ của họ về việc cứu rỗi.

“Đi qua” diễn tả sự thay đổi cách sống, còn “cửa hẹp” diễn tả sự cố gắng. Vậy ai được cứu rỗi? Muốn được cứu rỗi thì bạn phải làm gì? Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào, cộng đoàn nào cả. Nhưng ơn cứu rỗi sẽ được ban cho những ai cố gắng thay đổi cách sống mỗi ngày của mình, biết sống đúng theo Lời Chúa và ứng xử với nhau phù hợp với tinh thần của Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời.

Thiên đàng không dành cho những ai ỷ lại hoặc biếng nhác. Hãy cố gắng chiến đấu để đi qua cửa hẹp nhé bạn!

LẮNG NGHE: … những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. (Hr 12:11b)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con không chỉ là những người Ki-tô hữu trên danh nghĩa nhưng thấm nhuần tinh thần Ki-tô hữu trong cả cuộc sống, trong mọi cách suy nghĩ, lời nói và việc làm của con hôm nay.

THỰC HÀNH: Có những người tự nguyện tăng ca làm việc 12g để được hưởng tiền lương cao hơn gấp đôi gấp ba nhưng lại thật biếng nhác trong việc cầu nguyện và đi Lễ hằng ngày. Tại sao vậy nhỉ? Có lẽ là vì họ có thái độ ỷ lại. Mời bạn thay đổi thái độ của mình trong việc này. Đừng chỉ có đi lễ Chúa Nhật mà thôi. Hãy cố gắng đi lễ thêm các ngày trong tuần vì Chúa luôn mong chờ được gặp bạn từng phút giây đó.

From: Do Dzung

*********************

Chúa Chờ Con Dưới Mưa (Sáng Tác: Thiên Phúc) – Angelo Band

YouTube player

NỖI BUỒN LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ !

Có một người con kể:

“Tôi mua cho mẹ một chiếc điện thoại thông minh. Mẹ nhờ tôi hướng dẫn. Tôi chỉ cho mẹ những chức năng cơ bản, rồi quay lại bàn làm việc.

Một lát sau, mẹ vào hỏi lại. Tôi chỉ tiếp.

Rồi khi tôi đang xoay xở với cả đống việc, mẹ lại hỏi thêm. Lần này, tôi bắt đầu khó chịu.

Cuối cùng, mẹ thở dài: ‘Điện thoại này phức tạp quá, chắc mẹ không dùng được đâu’.

Tôi đáp vội: ‘Tùy mẹ, mẹ muốn thế nào cũng được’.

Khuya hôm ấy, tôi nhận được tin nhắn:

‘Con à, mẹ đã già, hay quên lắm. Nhiều khi mẹ còn chẳng nhớ mình vừa nói gì. Con đừng trách mẹ nhé.’

Tôi đọc mà mắt cay xè. Mẹ không nói trực tiếp, chắc vì sợ tôi cáu. Mẹ sợ làm phiền, sợ tôi mệt.

Từ hôm ấy, mẹ không hỏi nữa. Bà tự mày mò, lặng lẽ, chậm chạp… và chắc hẳn gặp không ít khó khăn.”

Người con ấy chợt nhận ra: thái độ nóng nảy của mình đã vô tình gửi đi một thông điệp đau lòng – rằng mẹ đã già, đã lẩm cẩm, đã phiền hà, đã vô dụng.

Khi chúng ta còn bé, cha mẹ là người biết tất cả, mạnh hơn tất cả. Họ như hai ngọn núi sừng sững, che chở con khỏi bão giông.

Nhưng rồi một ngày, những ngọn núi ấy bắt đầu lùi thấp xuống – không phải vì họ muốn, mà vì sức lực không còn như xưa.

Tuổi già đến, trí nhớ hao mòn, tay chân chậm chạp, mắt mờ tai kém. Những việc đơn giản với chúng ta – với họ lại trở thành thử thách.

Nhưng điều làm họ buồn nhất không phải là sức khỏe, mà là cảm giác mình đang dần “làm phiền” chính những đứa con mà cả đời mình đã nuôi lớn.

Họ bắt đầu ngại hỏi, ngại nhờ, ngại than phiền.

Ngại cả việc gọi điện lâu vì sợ con bận.

Ngại kể chuyện buồn vì sợ con lo.

Ngại hỏi đi hỏi lại vì sợ con khó chịu.

Và rồi, họ chọn im lặng.

Nhưng im lặng đâu phải vì không có gì để nói.

Chỉ là họ sợ mình không còn đủ chỗ trong cuộc sống của con.

Người trẻ thường quên rằng, suốt bao năm thơ ấu, cha mẹ đã kiên nhẫn trả lời hàng trăm câu hỏi “vì sao” của mình – từ chuyện vì sao bầu trời xanh, cho đến vì sao mặt trăng theo con về nhà.

Họ không bao giờ thấy phiền, dù câu hỏi ngây ngô đến mức nào.

Vậy mà khi họ già đi, chỉ hỏi lại một điều đơn giản thôi, chúng ta đã thấy “phiền”.

Chúng ta quên mất rằng, câu trả lời của mình hôm nay không chỉ giải đáp một thắc mắc, mà còn cho họ biết: họ vẫn còn được lắng nghe, vẫn còn quan trọng.

Nếu hôm nay cha mẹ bạn vẫn còn, hãy kiên nhẫn hơn một chút.

Khi họ hỏi lại điều bạn đã nói, hãy nhớ: đó là cơ hội để bạn làm lại một điều tử tế.

Khi họ chậm chạp làm điều gì, hãy nhớ: từng bước đi đầu tiên của bạn cũng chậm chạp như thế, và chính họ đã kiên nhẫn chờ bạn.

Sẽ đến lúc, bạn muốn bị hỏi lại, cũng không còn ai để hỏi.

Sẽ đến lúc, bạn muốn dặn dò ai đó đi đường cẩn thận, cũng không còn người để dặn.

Và khi ấy, bạn mới hiểu, nỗi buồn lớn nhất của tuổi già không phải là bệnh tật, mà là cảm giác mình không còn chỗ đứng trong trái tim con cái.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh – Cha Vương

Ngày Thứ 4 tràn đầy Tình Yêu của Thiên Chúa nhé. Nếu bạn bước theo chân các Thánh, thế nào bạn cũng sẽ gặp Chúa Kitô và Đức Maria Mẹ Ngài. Hôm nay ngày 20/08, Giáo Hội mừng kính Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy, và mời bạn hãy noi gương ngài để đến gần với Chúa và Mẹ hơn.

Cha Vương

Thứ 4: 20/08/2025   Tht7-22

Bê-na-đô sinh năm 1090 tại Fontaines-les-Dijon, Burgundy, nước Pháp trong một gia đình quý tộc. Khi 20 tuổi, Bê-na-đô từ giã quê nhà ở Burgundy để gia nhập cộng đồng đan sĩ ở Citeaux. Năm người anh em, hai người chú của ngài và khoảng 30 người bạn theo ngài vào đan viện. Trong vòng bốn năm, một cộng đoàn đang tàn lụi đã phục hồi sinh lực đủ để khai sinh một đan viện mới trong thung lũng Wormwoods gần đó, với Bê-na-đô làm đan viện trưởng. Nhiệt huyết của người thanh niên trẻ tuổi này là một đòi hỏi thật khắt khe, nhưng đối với chính ngài hơn là người khác. Một cơn bệnh nặng đã khiến ngài kiên nhẫn hơn và thông cảm hơn. Không bao lâu, thung lũng này được gọi là Clairvaux, thung lũng ánh sáng. Ngài có tài phân xử và cố vấn. Do đó, càng ngày ngài càng phải xa đan viện để giải quyết các tranh chấp đã có từ lâu trong Giáo Hội. Thánh Bê-na-đô là người đã can thiệp vào một vụ li giáo đang bùng nổ mạnh và đã đứng về phía đức giáo hoàng ở Rôma để chống với phe ngụy giáo hoàng.

     Theo truyền tụng, những lời than thở “Ôi khoan thay, nhân thay, diệu thay, Trinh Nữ Maria!” đã được thánh Bê-na-đô ứng khẩu thêm vào cuối câu kinh Chào Kính Nữ Vương. Thánh nhân đã có công phổ biến thánh thi ấy trong các cộng đoàn tu trì và các đền thánh. Năm 1220, dòng Citeaux đã quyết định buộc mọi phần tử trong dòng phải đọc thánh thi ấy hàng ngày. Kinh Hãy Nhớ, một bản kinh Thánh Mẫu rất được yêu chuộng cũng được cho là của thánh Bê-na-đô ở Claiveaux, mặc dù xác quyết này thỉnh thoảng cũng bị phản đối.

   Thánh Nhân qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1153 tại đan viện Clairvaux. Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux được Đức Giáo Hoàng Alexander III tôn phong hiển thánh năm 1170. Đức Giáo Hoàng Pius VIII đã tuyên xưng Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1830. (Tóm tắt từ Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những lời nói của Thánh Bê-na-đô:

(1) Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

(2) “Đấng chiếm đoạt những con tim” là tước hiệu mà thánh Bê-na-đô đã yêu tặng Mẹ.

(3) Ơn chiêm niệm chỉ được ban cho khát vọng thao thức và nài nẵng. 

(4) Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người.

(5) Tôi biết các binh lính phải khổ sở rất nhiều và phải chịu đựng trong âm thầm. Giả như mỗi sáng khi thức giấc, họ chịu khó thân thưa với Thiên Chúa lời than thở đơn sơ này: “Lạy Thiên Chúa của con, con ước ao làm và chịu đựng mọi sự trong ngày hôm nay vì yêu mến Chúa.” Họ sẽ tích lũy được nhiều vinh quang muôn đời.

(6) Khi hiểm nguy, khi do dự, khi khó khăn, hãy nghĩ đến Ðức Maria, hãy kêu cầu Ðức Maria. Liên lỉ kêu cầu danh ngài, hễ có đau khổ thì hãy chấp nhận trong lòng vì danh ngài. Có như thế, bạn mới chắc chắn được sự trợ giúp của lời ngài cầu bầu, đừng sao nhãng theo bước chân ngài. Với sự dẫn dắt của ngài, bạn sẽ không bao giờ lạc lối; khi cầu khẩn ngài, bạn sẽ không bao giờ nhát đảm; một khi có ngài trong tâm trí, bạn sẽ không bị lừa dối; khi được ngài nắm tay, bạn sẽ không thể vấp ngã; với sự phù trì của ngài, bạn không còn gì để sợ hãi; nếu theo ngài, bạn sẽ không mệt mỏi; nếu được ngài ưu đãi, bạn sẽ đạt được mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 5 đánh động mình nhất.

Thánh Bê-na-đô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

**********************

Trên Con Đường Về Quê (Nguyễn Khắc Xuyên) – Hoàng Oanh

https://www.youtube.com/watch?v=qCRiHC7-oNk

CON ĐẾN -Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài!”.

“Vâng lời tức khắc là vâng lời thật nhất; vâng lời trì hoãn là không vâng lời!” – Thomas Kempis.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa và Thánh Vịnh đáp ca hôm nay – “Này con xin đến!” – cho thấy những con người vâng lời tức khắc và những con người trì hoãn – không vâng lời. Đó là những con người sẵn sàng thưa ‘Con đến!’ và những người lần lữa, ‘Con không thể đến!’.

Bài đọc một ghi lại chiến công của Gíptác – người thề với Chúa – nếu Chúa cho ông thắng trận, thì khi trở về, người nào đón ông trước nhất, sẽ là của lễ toàn thiêu dâng Ngài. Thương ôi! Đó là con gái một của ông. Cô xin cha hai tháng để cùng bạn bè than khóc tuổi xuân; đến hẹn, cô về nhà, hiến mình làm của lễ dâng Chúa. “Vâng phục chính là bàn thờ nơi tình yêu được minh chứng!” – Fulton Sheen. Như vậy, cùng cha, quý nữ của Gíptác đã thưa lên ‘Con đến’ làm lễ dâng trên bàn thờ vâng lời!

Dụ ngôn Tin Mừng kể ra những người được mời trì hoãn và cuối cùng, từ chối tiệc cưới hoàng tử. Ở đây, thể hiện ‘hai mức độ’ từ chối Phúc Âm trong thế giới. Trước hết – sự thờ ơ! Nhịp sống ngày nay khiến con người quá bận rộn, bận nhiều thứ không đâu vào đâu: bận lướt điện thoại, bận chầu ‘quái vật một mắt’ – tivi, bận ‘nghiện việc’. “Nếu ma quỷ không làm chúng ta nên xấu, nó sẽ làm chúng ta bận rộn!” – Corrie ten Boom. Từ đó, chúng ta dành quá ít thời giờ cho những việc quan trọng nhất như gia đình, cầu nguyện và phục vụ. Kết quả, con người trở nên thờ ơ với các vấn đề đức tin, thờ phượng, dấn thân mà nhờ đó, làm điều Chúa muốn và có thể thưa lên, ‘Con đến!’.

Một ngăn cản khác khiến Kitô hữu ngại dấn thân, từ chối niềm tin chính là sự thù địch Giáo Hội ngày càng tăng; thế giới ‘ít Chúa’ liên tục cổ vũ một nền ‘văn hoá nghịch Tin Mừng’. Bên cạnh đó, ở đây ở kia, xảy ra những ồn ào nổi cộm phân hoá sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đoàn chiên, giữa Linh mục với Giám mục. Từ đó, Kitô hữu hoang mang, nghi ngờ về một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và tông truyền vốn nay chỉ như một ‘cơ chế thế gian’. Hệ luỵ này còn tai hại hơn so với sự thờ ơ nói trên! Với những gì ‘tai tiếng’ như thế thì làm sao mỗi người có thể thưa lên ‘Con đến?’ và làm sao nói đến truyền giáo? “Chia rẽ trong Giáo Hội là kiệt tác của ma quỷ!” – Charles Spurgeon.

Anh Chị em,

“Này con đến!” phải là lời đáp đích thực của mỗi tín hữu. Bởi lẽ, trong khi nhiều người trì hoãn, để mình cuốn vào những bận rộn, thờ ơ hoặc nghi ngờ trước những chia rẽ, thì Thiên Chúa vẫn chờ một lời thưa trọn vẹn của bạn và tôi. Vâng lời không phải là mất mát nhưng là bàn thờ tình yêu. Chính nơi thái độ sẵn sàng ấy, chúng ta khám phá niềm vui và tự do sâu thẳm. “Vâng lời là con đường dẫn đến tự do, khiêm nhường là con đường dẫn đến niềm vui!” – C.S. Lewis. Vì thế, mỗi ngày, chỉ cần bạn và tôi thưa một lời đơn sơ, “Con đến!” cũng đủ làm đẹp lòng Chúa, đổi thay đời mình, đổi thay thế giới.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘con đến’, không để thưa điều con muốn, nhưng để lắng nghe điều Ngài muốn cho đời con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Gặp ai, anh em cũng mời hết vào tiệc cưới.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 22,1-14

1 Khi ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng : 2 “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ : ‘Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng : Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới !’ 5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi : kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, 6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ : ‘Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9 Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.’ 10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

11 ‘Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12 mới hỏi người ấy : Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?’ Người ấy câm miệng không nói được gì. 13 Nhà vua liền bảo những người phục dịch : ‘Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! 14 Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít’.”


 

Người mẹ “điên”- Truyện ngắn HAY

Cao Xuân Thanh Ngọc

Truyện ngắn: Người mẹ “điên” (Đọc đi đọc lại vẫn khóc)

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, không ngần ngại ngồi tè ra trước mặt mọi người.

Vì vậy , đàn bà trong làng khi đi qua chỗ cô gái thường nhổ nước bọt, có người chạy đến trước mặt dậm chân “ cút đi “, thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó cha tôi đã 35 tuổi, Cha làm việc ở bãi khai thác đá, bị máy chém cụt tay trái, nhà nghèo , mãi không cưới được vợ.

Bà nội thấy cô gái điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi “ đứa nối dõi” sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không mất đồng xu nào, nghiễm nhiên trở thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẳm cháu, miệng bà hóp không còn cái răng nào vui sướng nói” cái con mẹ điên này mà cũng biết sinh cho bà cái thằng chống gậy rồi”, có điều tôi được sinh ra chỉ có bà nội ẵm , không bao giờ mẹ được đến, Mẹ chỉ muốn được ôm tôi, bao nhiêu lần mẹ đứng trước mặt bà nội dùng hết sức và gào lên “Đưa , đưa tôi “ bà nội cũng mặc kệ. Tôi non nớt đỏ hỏn, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? dù sao mẹ cũng chỉ là con điên.

Mỗi lần mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội trợn mắt lên chửi: “mày đừng có hồng mà bế nó, tao phát hiện mày mà bế nó, tao đánh cái là chết, không chết, tao cũng đuổi mày đi”. Bà nội cương quyết chắc nịch, mẹ hiểu ra ,mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, chỉ dám đứng ở xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được ngụm sữa nào, bà nội đút từng thìa cháo nuôi tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có “ bệnh thần kinh”, nhỡ lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang trong cảnh nghèo đói, nhất là sau khi có thêm mẹ và tôi, nên bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại, mà còn thỉnh thoảng gây nên tiếng thị phi.

Một bữa nọ, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay bà xúc đầy bát cơm đưa cho mẹ bảo:” con dâu , nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô, cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà giàu có hơn mà ở, sau này cấm không quay lại đây nữa nghe chưa?

Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội hạ lệnh” tiễn khách “ liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đang ăn rơi lã tã ngoài miệng, nhìn sang tôi đang nằm trong lòng bà, kêu lên ai oán : ‘ Đừng , đừng …”

Bà nội đanh mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét :”Con dâu điên, mày ngang bướng cái gì, bướng thì chẳng tốt lành gì cho mày đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao bọc chở che mày hai năm rồi, còn đòi cái gì nữa, ăn hết bát đấy rồi đi, nghe chưa hả? ”

Nói đoạn , bà nội ra sau cửa lấy ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất – nghe phập một tiếng. Mẹ sợ gan như chết giấc, khiếp sợ rồi lại chậm rãi nhìn xuống bát cơm trước mặt, nước mắt đã tưới đầy bát cơm.

Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà nội một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẩn thờ, hóa ra mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ chỉ cần ăn ít hơn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ bề ngoài mà thôi.

Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn trên má, rồi quay lại sắt mặt nói:” ăn mau mau rồi còn đi, ở nhà này rồi cô cũng chết đói thôi”. Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm nhỏ nuốt cũng không nổi, mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu rồi thất thiểu bước ra khỏi cửa.

Bà nội dằn lòng đuổi : ‘’ cô đi đi, đừng có quay đầu lại, dưới bầu trời này còn nhiều nhà giàu lắm”. Mẹ tôi quay lại, mẹ đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tả lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẳm tôi vào lòng, môi mẹ nhắp nhắp cười, nụ cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội chằm chặp nhìn mẹ như quân thù, hai tay đã chuẩn bị đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơm điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ tôi chỉ được ba phút, bà nội không đợi thêm được giành tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu một chút, tôi mới phát hiện ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ.Tôi tìm cha đòi mẹ, tìm bà nội đòi mẹ, họ đều nói mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn nhỏ trong làng bảo:” mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi”.

Tôi đòi bà phải trả lại mẹ cho tôi, tôi còn nguyền rũa bà là “bà lang sói”, thậm chí còn hất tung mọi thứ bà đút cho tôi ăn. Ngày đó, tôi làm gì biết” điên “ nghĩa la cái gì đâu, tôi chỉ bíêt cảm thấy nhớ mẹ vô cùng, mẹ như thế nào nhỉ , mẹ còn sống hay không ?

Không ngờ năm tôi 6 tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó mấy đứa bạn chạy như bay tới báo: “Thụ, mau đi xem, mẹ điên mày về kìa: Tôi mừng quá co giò chạy vội ra ngòai, bà nội và cha tôi cũng chạy theo .

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đo áo quần vẫn rách nát, tóc tai còn dính những vụn cỏ khô vàng khè, làm sao ai biết mẹ tôi ở đâu ra.

Mẹ không dám vào nhà, mẹ ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, tay cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.

Khi tôi cùng lũ bạn đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám bọn tôi để tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi nhìn chòng chọc, nhếch mép bảo “ Thụ…. bóng .. . bóng ’.

Mẹ đứng lên, liên tục dơ lên quả bóng bay trong tay, cố dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ mà hằng đêm tôi nhớ thương mong đợi là cái hình người này đây!

Một thằng nhỏ đứng cạnh tôi kêu to ‘ Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa ? là mẹ mày đấy

Tôi tức tối đáp lại “ Nó là mẹ mày, mẹ mày mới là con điên ’,Tôi quay đầu chạy trốn, người mẹ điên này tôi không thèm. Bà nội và cha tôi lại đưa mẹ về nhà.

Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị ray rứt dày vò, bà ngày càng già, trái tim bà không còn sắt thép nữa, nên bà chủ động đưa mẹ tôi về, còn tôi thì bực bội, bởi mẹ làm mất thể diện tôi.

Tôi không bao giờ tươi cười với mẹ, không chủ động nói chuyện với mẹ, chưa bao giờ gọi ‘Mẹ’

Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội nghĩ cách huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi làm đồng bà dạy mẹ quan sát, một thời gian bà nội nghĩ rằng mẹ có thể tự đi cắt được cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong hai bồ cỏ lợn. Bà nội vừa nhìn thì tá hỏa sợ hải, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trổ bông trên ruộng của người ta, bà nội vừa lo vừa giận “ Con mẹ điên , luá và cỏ mà không phân biệt được”.

Bà nội chưa biết xoay xở ra sao thì chủ ruộng lúa bị cắt đã tìm tới mắng bà là cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta bà lấy gậy đánh vào lưng eo con dâu, vừa chửi” Đánh chết con điên, mày cút ngay đi cho bà”. Mẹ tuy điên nhưng biết đau, biết tránh né đầu gậy, miệng lắp bắp sợ hai “ Đừng… đừng…’. Sau cùng, nhà người ta thấy chứơng mắt,chủ động “ thôi chúng tôi không đòi nữa, giữ cô ấy chặt đừng để như thế nữa’

Sau cơn sóng gió, mẹ ỏai người khóc thúc thít. Tôi khinh khỉnh bảo “ cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn’. Vừa dứt lời, gáy tôi bị một tát mạnh của bà: bà trừng mắt bảo” Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy, mẹ mày đấy”, tôi vùng vằng “ cháu không có loại mẹ điên này’.

A, thằng này láo, xem tao có đánh mày không, bà nội giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dứơi đất lên, che giữa tôi và bà nội, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt : “ đánh tôi , đánh tôi”.

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, cánh tay bà nội từ trên không buông thõng xuống, bà lẩm bẩm : con mẹ điên biết thương con đấy.

Khi tôi vào lớp 1, cha tôi vẫn vất vã làm công việc canh hồ cá, mỗi tháng 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm đồng dưới sự chỉ bảo của bà , chủ yếu chỉ cắt cỏ lợn.

Nhớ mùa đông đói rét, năm tôi học lớp 3, trời đột ngột đổ mưa, bà sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường trơn ướt mẹ đã ngã ì ạch mấy lần, tòan thân như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ngòai cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng gọi tôi “ Thụ … ô”

Có mấy đứa bạn cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông , vừa óan hận mẹ không biết điều làm tôi xấu hổ vừa hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.Tôi tức lên chộp lấy hộp bút đập mạnh cho nó một phát, nhưng thằng Hỷ tránh được và nó xông tới bốp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau, nó to và mạnh nên tôi dễ dàng bị nó đè xúông đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng ‘vút ’ kéo dài từ bên ngòai lớp học, mẹ như một đại hiệp bay “ ào tới, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp.

Ai cũng bảo người điên rất khỏe, đúng như vậy, mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên không trung, nó kinh sợ khóc gọi bố mẹ. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, mẹ thản nhiên đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại họa, nhưng mẹ coi như không có gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, chỉ múôn lấy lòng tôi. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu mẹ vẫn tỉnh táo vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.

Lúc đó, tôi không kìm được, kêu lên “ Mẹ”, đấy là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sừng sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, mẹ như một đứa trẻ vui mừng, rồi cười ngớ ngẩn. Hôm đó lần đầu tiên hai mẹ con cùng che chung cái ô về nhà.

Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà sợ rụng rời ngã lăn trên ghế, vội vã nhờ người gọi cha tôi về. Cha vừa bước vào nhà, một đám thanh niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì , họ đập nát như tương các thứ trong nhà tôi.

Bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói : con trai tao sợ quá phát điên rồi, đang nằm nhà thương, nhà mày không mang 1.000 tệ trả tiền thuốc thang, tao đốt sạch nhà mày ra ’.

Một ngàn tệ? Cha tôi làm 1 tháng 50 tệ, nhìn họ đằng đằng sắt khí, mắt cha tôi đỏ lên, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt cha dỡ lấy thắt lưng da đánh tới tấp khắp người mẹ.

Trận đòn khủng khiếp, mẹ như con chuột , khiếp hải run rẫy, như con thú săn bị dồn vào đường chết, mẹ kêu lên thảm thiết .

Sau đó trưởng đồn cảnh sát phải đến can ngăn bàn tay bạo lực của cha, kết quả là : cả hai bên đều tổn thất , không ai phải bồi thường ai, nếu ai con gây sự sẽ bắt ngay người đó.

Đám người đi rồi cha tôi nhìn khắp nhà, mọi thứ tan tành, cha lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, bất ngờ cha ôm mẹ vào lòng khóc thảm thiết “ mẹ điên ơi, không phải tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như không đánh thì việc này không dàn xếp nổi, làm sao có tiền mà đền người ta, bởi nghèo khổ mà thành họa đấy thôi”.

Cha lại nhìn tôi” Thụ , con phải cố mà học lên đại học, không thì nhà ta cứ bị kẻ khác bắt nạt suốt đời”. Tôi gật đầu.

Mùa hè năm 2000 tôi đỗ trung học với kết quả xúât sắc, bà nội cực nhọc cả đời nên mất trứơc đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Gia đình tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, nên tôi được chính phủ trợ cấp cho tôi 40 tệ tháng, nhờ đó tôi được tiếp tục học. Gánh nặng tiếp tục đặt lên vai mẹ tôi..

Tôi học nội trú, cha tôi vẫn làm việc với 50 tệ tháng. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu thức ăn xong , thì đưa mẹ mang đến trường cho tôi, mỗi ngày 20 ki lô mét đường núi ngoằn ngòeo làm khổ mẹ tôi phai nhớ đường đi, có ngày gió tuyết mẹ cũng đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào, ngòai tình yêu mẫu tử ra , tôi không biết cách giải thích nào khác hiện tượng này.

Ngày 27 tháng 4 năm 2003, là ngày chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang thức ăn ,mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả cắn một miếng, cười hỏi mẹ” Ngọt quá, ở đâu ra ? mẹ nói: “ tôi …hái…”, không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: “ mẹ , mẹ càng ngày càng tài giỏi ” , mẹ cười hì hì.

Trứơc lúc về, tôi có thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong tôi bận rộn lo ôn thi cuối cùng thời phổ thông để thi vào đại học.

Ngày hôm sau , khi đang trong lớp học, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài. Thím hỏi , mẹ tôi có đến tiếp tế đồ ăn không ? tôi nói : hôm qua mẹ có đến và về rồi. Thím bảo “ không , mẹ mày đến giờ vẫn chưa về” Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không lạc đường, chặng đường này mẹ đã đi 3 năm rồi, không thể lạc được.

Thím hỏi “ mẹ mày có nói gì không ?” Tôi nói : không , mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi” thím đập hai tay” Thôi chết rồi, hỏng rồi có lẽ vì mấy quả đào dại rồi”.

Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi men theo đường núi về tìm. Đường về , quả thật có mấy cây đào dại, trên cây lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả, cùng lúc đó chúng tôi nhìn thấy trên cây đào có nột vết gảy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước.

Thím nhìn tôi rồi nói” chúng ta xuống khe vách đá tìm “, tôi nói “ Thím, thím đừng dọa cháu”, Thím không nói gì kéo tay tôi đi xuống vách núi.

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi chung quanh, tay mẹ nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành màu đen nặng nề.

Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi : “mẹ ơi , mẹ ơi… mẹ sống chẳng được sung sướng ngày nào.”

Tôi áp sát đầu vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá trên đỉnh núi như cũng rớt nước mắt theo.

Một năm sau ngày chôn cất mẹ, thư gọi nhập học của Trường Đại học Hồ Bắc bay thẳng vào nhà tôi.

Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào ngôi mộ cô tịch của mẹ: “Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi. Mẹ có nghe thấy không, mẹ có thể ngậm cười nơi chín suối”

(Đọc trên mạng)


 

Đến cuối cuộc đời còn gì để tiếc? – Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Đến cuối cuộc đời, khi tuổi tác đã xế chiều, hay nói như nhà văn Huy Phương đến “Ga cuối đường tàu” rồi, ngẫm nghĩ, soát xét lại đời mình, có mấy điều ghi nhận như sau:

Những khó khăn nào rồi cũng qua đi. Sau cơn mưa trời lại sáng. Sau đau khổ là có niềm vui. Hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai. Chuyện thánh Job trong kinh thánh, chuyện tái ông mất ngựa hay luật bù trừ an ủi chúng ta rất nhiều.

Xưa nay, người ta thường nói “thất thập cổ lai hy”, sống được đến 70 tuổi khó lắm. Nay nhờ ơn Trời, được 80 tuổi, thì quý lắm rồi. Tạ ơn Trời. Cám ơn đời. Sống thêm ngày nào đều phải được xem là ân phúc, là “bonus” của Trời ban cho mà thôi.

 Thi sĩ Nguyễn Du, tác giả truyện Kiều, đã từng nói:

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” còn tôi là người tầm thường, vô danh tiểu tốt, thì sao?

*1)Suy tư cuộc đời theo vận nước nổi trôi

Nhìn lại quãng đời đã qua từ lúc còn nhỏ, sinh ra ở làng Đông Thạnh, quận Cần Giuộc, nghèo nàn, đường sá trơn trợt mỗi khi trời mưa, có bao giờ dám nghĩ về một tương lai phải sống xa nơi chôn nhau cắt rún đến nửa vòng trái đất.

Nổ lực học tập, hết sức khó khăn, để qua được các kỳ thi ở trung học, ở trường Đại học, rồi hoạt động chính trị, đi tù cộng sản rồi ra tù, không được dạy học nữa, phải làm đủ các nghề linh tinh để sống. Qua Mỹ lại bắt đầu từ số không, lại làm việc cật lực-nghề không ưa thích- để sống và về hưu.  

Tôi vẫn thích câu nói như sau: “Giá trị của bạn chính là việc bạn đã làm được gì, đóng góp gì, chứ không phải vỏ bọc hình thức bạn tốt nghiệp trường nào, có bao nhiêu bằng cấp.”

*Gia đình: Tất cả kho tàng trên trái đất không thể nào so sánh nổi với hạnh phúc gia đình. (Calderon)

 Tôi cám ơn gia đình tôi vì đến ngày hôm nay- tháng 07 năm 2022- đã sống với bà xã tôi, vài tháng nữa, được 55 năm.  Sóng gió, gây gỗ, giận hờn, lục đục không biết bao nhiêu mà kể. Trong thời gian dài gần 8 năm tôi bị tù cộng sản, bà xã tôi một mình vừa đi dạy, vừa lo cái ăn, cái mặc cho bốn đứa con từ 8 tháng tuổi cho đến 7 tuổi. Khi đứa con gái út đi nằm nhà thương vì bịnh phổi có nước, cần săn sóc, mới là vấn đề nan giải. Làm sao sắp xếp thì giờ vừa đi dạy, vừa lo cho cháu nằm ở nhà thương, vừa lo cho các cháu còn lại ăn uống, tắm rửa, cơm nước, học hành?

Khi tôi bị đày ra Bắc, bà xã tôi phải vất vả thăm nuôi, mang đồ ăn từ trong Nam ra, lặn lội, gồng gánh, đem đến trại giam, ở trong thung lũng của rừng núi tỉnh Vĩnh Phú, gặp chồng được 15 phút rồi về. Tù chết quá nhiều nên trại mới cho thăm nuôi để gia đình của tù nuôi tù.

Cám ơn cha mẹ để gia đình vợ con cùng sống trong nhà, lúc tôi đi tù ở nơi rừng thiêng nước độc từ 1975 đến 1983. Để rồi sau khi tôi ra tù, qua thời gian dài 10 năm từ 1983-1993, gia đình tôi cũng nương tựa vào nhà ở của cha mẹ tôi mà làm ăn sinh sống.

* Sự nghiệp:

Thiên Chúa ban cho sức khỏe, khả năng, trí tuệ, sự hiểu biết; ta cần phải đem hết khả năng Thiên Chúa ban cho để kiếm tiền nuôi thân, nuôi gia đình và đóng góp cho xã hội càng ngày càng tốt đẹp hơn. Làm việc đàng hoàng, kiếm tiền lo cho gia đình, cũng là đóng góp cho xã hội rồi. 

*2)Đến cuối cuộc đời còn gì để tiếc?

Ôn lại cuộc đời đã qua tôi thấy gì?

Đau thương, đau khổ, vui mừng, đói khát, no đủ, đắng cay, ngọt bùi trong cuộc đời tôi nếm đủ cả.

-Tù đày: gần 8 năm trong các trại cải tạo miền Bắc, chịu nhục nhã, lạnh lẽo, đói khổ ở các vùng rừng núi âm u, sơn lam chướng khí, hy vọng sống còn để trở về gia đình rất mong manh. Địa danh Mai Côi, Thác Guồng ở K4 Vĩnh Phú là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với tôi cho đến ngày hôm nay.

-Con chết: Con trai mới 48 tuổi, tuổi đã học tập được nhiều kinh nghiệm trong công ăn việc làm, lương bổng bắt đầu khá lên … Nhưng bất ngờ, đã ra đi, mọi sự đều bỏ dỡ hết. Để lại hai cháu nội ông bà phải để ý, lo toan.

Bôn ba làm việc kiếm tiền, đem hết trí khôn, sức lực để tạo một ngôi nhà để trú ngụ, một số tiền để dành khi hữu sự như bịnh hoạn hay rủi ro khác, rồi đến lúc nào đó, với tuổi già, không còn sức khỏe nữa… cuộc đời sẽ ra sao?

 *Rồi 5, 10 năm na sau khi ta lìa đời, kẻ thương người ghét mình, chắc cũng chẳng ai còn nhớ đến mình đâu?

Con cái, cháu chắt, có thân phận của chúng nó, mình chỉ có thể làm việc hết khả năng của mình mà thôi. Thiên Chúa sẽ tiếp tục nâng đỡ, lo lắng cho các con cháu.

Tôi luôn tự nhủ rằng hãy cố gắng sống với tinh thần lạc quan, tích cực, vui tươi.

  Tôi cố quên đi – nhưng vẫn nhớ – những đau khổ, khó khăn mà mình đã chịu đựng thí dụ gần 8 năm tù bị bỏ đói, sống lê lết trong các trại tù Long Thành, Thủ Đức, Lào Cai, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh… vừa đói, vừa lạnh, đi không muốn nổi vì bị suy dinh dưỡng…

 *Con người có trí óc, khả năng để làm việc, để sống; nhưng con người còn có trái tim biết yêu thương, để biết phải quấy ở đời. Còn nợ ân nghĩa, ân tình làm sao mà trả được?

*Đã qua rồi những đau thương, khó khăn, khổ sở về vật chất và về tinh thần, gian nan, thử thách rất nhiều trong suốt thời gian đã qua. Vì vậy:

  Tạ ơn trời – hôm nay tôi còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được Emails…
Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu.
……

* – Cám ơn tất cả các bạn đã cho tôi biết bao kỷ niệm vui buồn, những món quà vô giá mà không sao tôi có thể mua được.

*. – Xin cám ơn tất cả … những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi từng biết mà chưa quen.
* – Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, để nhận ra cuộc sống này thật vô cùng ý nghĩa

  *Tôi vẫn thường xuyên tập luyện, suy nghĩ vui tươi, lạc quan mỗi ngày, nghe những lời nói vui vẻ, nói những lời nói tích cực, tránh nghe lời nói chê bai, chỉ trích, công kích người khác. Để chi vậy? Để tâm hồn được thanh thoát, vui tươi, hạnh phúc từng ngày. Khó lắm. Nhưng, tạ ơn Chúa. Nhờ Chúa giúp sức mỗi ngày. Để giữ gìn cho tâm bình an, giúp ngủ được, nhờ đó giữ gìn được sức khỏe, giảm sự suy sụp, mệt mỏi.

Sống lâu, có sức khỏe thì tốt. Nếu sống lâu mà nằm một chỗ, không nói năng gì được, cuộc sống thực vật, không còn biết gì nữa, không tự sinh hoạt hay tự ăn uống được, sống bằng “máy thở, ống thức ăn”, nếu con cháu thấy bịnh không thể phục hồi được, không nên duy trì sự sống mà làm gì?

*Vì vậy nên cứ để cho người thân ra đi từ từ, vì sự chết là qui luật tất yếu của trời đất. Đâu có ai thoát được chuyện sinh tử đâu.

Hằng ngày, mỗi buổi sáng, khi vừa thức dậy cần nói “Tạ ơn Chúa vì tôi còn sống”, sẽ làm cho tâm hồn ta vui vẻ, bình an. “Tạ ơn Trời mỗi sớm mai thức dậy, Cho con còn ngày nữa để yêu thương”.

*Mỗi ngày còn sống là một niềm vui

Tôi đã lo trước phần hậu sự. Con cái không phải lo lắng về chi phí cho đám tang. Khi chết, ở mộ bia nên ghi câu sau đây: “Chính lúc chết đi là khi sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi)

Mỗi tuần, chúng ta mất một giờ đi nhà thờ ca ngợi, chúc tụng Chúa, rồi khi chết, linh hồn được sống đời đời, được hưởng đời sống vĩnh cửu, thật tuyệt vời và đời sống chúng ta có ý nghĩa biết bao.

Khi còn sống, sinh hoạt cộng đồng hay ở nhà thờ, “sống cùng, sống với” bà con, bạn bè, người thân vẫn thú vị hơn. Kết thân, có thêm nhiều người bạn ở nhà thờ vẫn tốt hơn là kết thân với những người bạn ở Casino hay là kết thân với các bạn nhậu. Có phải như vậy không?

*Mặc dầu nước Việt Nam đã thống nhất sau 47 năm (gần nửa thế kỷ)

Lòng người vẫn ly tán, chưa có hòa hợp, hòa giải thực sự, vẫn phân biệt đối xử, vẫn chưa có tự do nghiệp đoàn, tự do bầu cử, tự do ngôn luận, chưa có đa đảng, đối lập chính trị; những quyền căn bản này đã được thực thi trước đây ở miền Nam Việt nam, cách nay 55 năm, dưới thời đệ nhị cộng hoà, với hiến pháp 01-04-1967.

              -Nơi nào có tình thương yêu, thì nơi đó luôn có những điều kỳ diệu. (Loilla Cather)

              -Yêu thương là cái gì đó vĩnh cửu. (Vincenl Van Gohg)

 Cùng đích của cuộc đời chúng ta là gì?

 Dân gian ta có câu “sống gởi, thác về”. Sự sống chỉ là tạm bợ. Chết mới là trở về. Trở về đâu? Trở về với cội nguồn, trở về với Thượng Đế, Đức Chúa Trời, đấng đã tạo dựng ra mình, rồi chúng ta sẽ gặp nhau ở nước Thiên đàng, gặp lại tất cả những người thân yêu, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân nhân, bạn hữu của chúng ta, những người mà ta đã gặp gỡ ở trên trần thế này, đã ra đi trước chúng ta.

Tác giả: Phùng Văn Phụng

11 tháng 07 năm 2022

Kỷ niệm ngày sinh thứ 80

Mời xem thêm:

*BỨC THƯ CUỐI CÙNG CỦA MARIA THẢO LINH gửi cho các soeur…

https://keditim.net/?p=101233

*Sống như thể mình không bao giờ chết – Lm Anmai, CSsR

https://keditim.net/?p=113109

*Tuổi Xế Chiều…!

https://keditim.net/?p=113098

Bài điếu văn tiễn biệt mẹ hiền thật cảm động

Nhuan Le is with AnhPhu VanLy.

(Hải, con chị Tiềm ở Mira Mesa hơn 10 năm trước .

Bài viết của Con HO-VN .

bài điếu văn thật cảm động,  thật khó cầm được nước mắt.

Điếu văn mẹ:

Con xin phép cúi đầu trước linh cữu Mẹ bày tỏ lòng tri ân sinh dưỡng và nói đôi lời tiễn biệt.

Tuần vừa qua, khi tiếng chuông trường vang lên báo hiệu một năm học mới, lòng con bỗng bồi hồi nhớ đến đoạn văn trong truyện ngắn Tôi đi học của nhà văn Thanh Tịnh — tác phẩm mà mỗi mùa khai giảng Mẹ vẫn ân cần đọc cho học trò nghe.

Câu văn ấy giờ lại vang lên trong ký ức:

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.”

Ngày ấy, không chỉ trên trang sách… Mẹ cũng đã nắm tay con như thế trong buổi đầu tiên đến lớp, rồi tiếp tục nắm tay con suốt bao năm tháng cắp sách đến trường.

Từ buổi đầu đời, bàn tay Mẹ đã nâng con trong vòng tay ấm áp; từ những bước chập chững đầu tiên, Mẹ dắt con qua từng con đường làng, qua cổng trường, qua tuổi thơ, qua những mùa nắng, mùa mưa.

Bàn tay ấy không chỉ dìu con qua những con đường, mà còn dắt con qua cả những tháng ngày thử thách; không chỉ nâng con dậy khi vấp ngã, mà còn âm thầm che chở khi giông gió bất chợt ập về.

Và rồi… đến giây phút cuối cùng, bàn tay Mẹ vẫn truyền hơi ấm, như sợ con chông chênh giữa dòng đời.

Ngày con cất tiếng khóc chào đời, Ba không thể ở bên vì còn bị giam cầm trong lao tù cộng sản.

Hơn một tháng tuổi, con đã theo Mẹ đến vùng đất Hội An lập nghiệp.

Xa gia đình, không người thân giúp đỡ, Mẹ một mình gồng gánh: vừa nuôi con, vừa dành dụm để thăm nuôi chồng suốt tám năm dài đằng đẵng.

Ngoài đồng lương ít ỏi của nghề giáo, lại luôn bị chèn ép vì là vợ của một sĩ quan chế độ cũ đang trong tù, Mẹ xoay xở đủ đường: nấu khoai, luộc sắn đem bán, tằn tiện từng đồng mua sữa, mua bột cho con, rồi gói ghém mang vào thăm Ba.

Bao nhiêu nước mắt Mẹ lặng lẽ nuốt vào lòng, bao nhiêu đêm Mẹ nhịn phần ăn, chỉ mong con được no lòng, ấm dạ.

Con vẫn nhớ chiếc xe đạp cũ kỹ, nơi yên sau là cả tuổi thơ con nép mình.

Mỗi buổi sớm, Mẹ chở con đến trường, đặt con ngồi một góc lớp, rồi quay vào bục giảng, vừa dạy trò, vừa liếc nhìn con bằng ánh mắt yên lòng.

Những đêm con bệnh, Mẹ thức trắng không rời nửa bước.

Khi con đau mắt, Mẹ lặn lội khắp nơi tìm thầy giỏi, thuốc hay; nghe ở đâu có người chữa được, dẫu đường xa mấy, dẫu nắng gió sương sa, Mẹ cũng đưa con đến, chỉ mong con mau khỏi bệnh.

Không chỉ là người mẹ hiền tận tụy, Mẹ còn là người vợ thủy chung, sắt son với Ba.

Suốt tám năm dài, Mẹ vẫn một lòng chờ đợi ngày Ba trở về, mặc cho đời đầy cám dỗ.

Có những năm tháng, hai mẹ con phải dời chỗ ở nhiều lần, chỉ vì Mẹ muốn giữ trọn lòng chung thủy với Ba, và gìn giữ phẩm hạnh của mình trước miệng đời dèm pha.

Mẹ chọn những nơi yên ổn để con lớn lên không sợ hãi, để gia đình chờ ngày đoàn tụ.

Những chuyến thăm nuôi Ba là những hành trình gian khổ: mẹ con vượt đèo, lội suối, đi hàng chục, hàng trăm cây số đường rừng núi.

Có nhiều lần đi giữa mưa gió, có khi phải ngủ tạm ven rừng, bên lề đường, chỉ để sáng kịp vào gặp Ba một chốc, trao nhau vài lời nhắn nhủ, mấy gói quà chắt chiu, rồi lại tất tả quay về.

Ngày Ba trở về, cả nhà mình lên vùng kinh tế mới Cây Trường.

Suốt mười một năm ở vùng heo hút ấy, sau giờ đứng lớp, Mẹ lại tất tả ra đồng dưới cái nắng trưa hè bỏng rát.

Mẹ cùng Ba dựng lại cuộc đời từ đôi bàn tay trắng, nuôi chúng con khôn lớn.

Những giọt mồ hôi Mẹ rơi xuống trên mảnh đất nứt nẻ trồng lúa mì, đậu phụng, đậu xanh…

Những bước chân rón rén sớm hôm nhóm bếp nấu ăn cho Ba đi làm sớm, chỉ để các con được ngủ ngon giấc, có bữa cơm no, có sách vở đến trường.

Ngay cả khi gia đình định cư ở Mỹ, Mẹ vẫn không ngừng làm việc vất vả, lo cho các con được ăn học nên người.

Mẹ không màng đến việc mình từng là giáo viên, từng giữ chức hiệu phó được nhiều người kính trọng, mà sẵn sàng ngày ngày làm việc chăm sóc trẻ em, người già từ sáng sớm đến chiều tối, chỉ mong kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống gia đình.

Tất cả cũng chỉ vì các con, vì tương lai của các con sau này.

Cuộc đời của Mẹ là chuỗi ngày thức khuya, nhịn đói, nhẫn nại, hy sinh — không một lời đòi hỏi cho riêng mình.

Rồi khi con yên bề gia thất, ổn định cuộc sống, Mẹ lại hóa thành bóng cây trước ngõ: chăm lo bữa ăn, giấc ngủ, đưa đón các cháu đến trường, dạy chúng lễ nghĩa, chữ nghĩa, hiền từ.

Vòng tay đã ôm ẵm con năm nào, nay lại êm ái đỡ nâng các cháu.

Bước chân đã dắt con qua những con đường làng nhỏ hẹp, nay lại dắt các cháu qua những ngã ba, ngã tư đường, bình thản và kiên nhẫn như chưa từng biết mỏi.

Mẹ ơi, nhìn lại đời Mẹ, chúng con chỉ thấy một chữ “Đủ”:

– đủ kiên cường để đứng vững trong bão tố;

– đủ bao dung để gom cả yêu thương vào lòng;

– đủ nhẫn nại để chắt chiu từng niềm vui nhỏ cho gia đình;

– đủ hiền hòa để đi qua mọi nỗi buồn mà vẫn giữ nụ cười.

Công ơn của Mẹ — như trời cao, như biển rộng — chúng con chưa kịp đền đáp.

Nay Mẹ đã thanh thản rời cõi tạm, để lại cho chúng con tấm gương sáng và di sản yêu thương không gì sánh nổi.

Trước linh cữu của Mẹ, chúng con xin cúi đầu tạ ơn: ơn sinh thành, ơn dưỡng dục, ơn dạy dỗ nên người.

Nếu đâu đó trong đời, chúng con từng vô tâm làm Mẹ buồn, xin Mẹ rộng lòng tha thứ.

Xin nhận nơi đây nén hương lòng và lời hứa chân thành: chúng con sẽ thương nhau nhiều hơn, sống tử tế hơn, dạy các cháu hiền lành như lời Mẹ dặn, để mỗi ngày trôi qua đều là một bông hoa đặt lên mộ Mẹ.

Rồi mai này, mỗi độ thu về, tiếng chuông tựu trường lại vang, đoạn văn năm cũ lại ngân:

“Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi…” — chúng con sẽ thấy bàn tay Mẹ ở đó, dịu dàng và ấm áp.

Dẫu thân xác Mẹ hòa vào cát bụi, tình Mẹ vẫn sống mãi trong tim chúng con;

Dòng máu Mẹ vẫn luân chảy trong huyết quản chúng con;

Bóng Mẹ vẫn là vệt nắng cuối chiều dẫn lối gia đình đi tiếp đoạn đường đời.

Mẹ ơi, thôi Mẹ yên nghỉ.

Con tin rằng ở nơi an lành, Mẹ sẽ mỉm cười nhìn chúng con lớn lên thêm một lần nữa — không còn lo toan, không còn nhọc nhằn.

Chúng con và các cháu mãi mãi biết ơn Mẹ, mãi mãi nhớ ơn Mẹ.

Con xin cúi đầu vĩnh biệt Mẹ.

Xin Mẹ phù hộ cho gia đình chúng con biết thương nhau, biết dìu nhau đi qua mọi mùa gió lạnh — như Mẹ đã từng, suốt cả một đời.

Chúng con xin thành kính cảm ơn


 

Tự Trọng – Mai Thị Mùi

Kimtrong Lam

Mai Thị Mùi

Không có một đất nước nào mà lại lắm ngày truyền thống như nước ta. Ban bệ, ngành nghề nào cũng có ngày riêng, quân đội, công an, luật sư, nhà giáo, nhà báo, nhà may, nhà thổ..Tất tật phải cố đặt ra một ngày nào đó để tự tôn và được tôn vinh. Ngày nhà giáo VN có lẽ là ngày dễ nhớ nhất vì ai trong đời cũng là học sinh, không thì cũng là phụ huynh để PHẢI nhớ mà cúng cô hồn cho yên thân cả cha mẹ lẫn con cái.

Tôi hỏi quý vị đồng nghiệp, quý vị hãnh diện và hân hoan chào đón cái ngày này để làm gì? Một năm 365 ngày, được “tôn vinh” một ngày rồi cả xã hội phỉ nhổ 364 ngày có đáng không quý vị? Tôi nhìn quý vị xúng xính váy áo, ôm những bó hoa mua bằng máu và nước mắt của phụ huynh nghèo, quý vị nghiêng vai nghiêng cổ cho ra những pô hình để up phây, rồi sau đó ngồi vào những mâm cỗ từ quỹ “tự nguyện” đóng góp của PHHS mà tôi thấy như ăn phải miếng thịt ôi, chỉ chực nôn ra cho bằng sạch.

– Một đất nước không cần có ngày Người Cao Tuổi, chỉ cần ở đất nước ấy người già không phải đi bán vé số, nhặt ve chai, xin ăn hay bươi rác.

– Một đất nước không cần ngày Trẻ Em, miễn là đừng có trẻ em bị ấu dâm, trẻ bỏ học đi kiếm sống, trẻ bị bạo hành, trẻ bị lạm dụng.

– Một đất nước văn minh không cần có ngày Phụ Nữ, chỉ cần họ không bị bạo hành, phân biệt đối xử.

– Một đất nước không nên có các bà mẹ Anh Hùng, ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ. Chúng mày có thương mẹ thì để mẹ sống yên bình bên các con mẹ. Chứ chúng mày tạo chiến tranh rồi bắt con mẹ lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, phi nhân làm gì. Để rồi con mẹ mất, mẹ sống với nỗi đau thắt ruột rồi chúng mày cấp cho cho mẹ cái bằng mẹ VNAH, Phụ nữ không cần anh hùng, phụ nữ chỉ cần cuộc sống an nhiên với chồng, với con thôi. Chúng mày không tạo ra chiến tranh tức là công đức vô lượng rồi.

– Một người thầy cũng không cần đến ngày tôn vinh nhà giáo. Chỉ cần cái ngành giáo dục trả lương cho họ đủ sống để họ không phải bắt học sinh đi học thêm, chỉ cần họ không dí học sinh đóng tiền học, chỉ cần họ không hối phụ huynh đóng quỹ lớp, chỉ cần họ không “vận động” phụ huynh đưa con đi chích VAC, họ chỉ cần chuyên tâm vào công việc chuyên môn thì tự khắc cả xã hội kính trọng họ, kính trọng từ ngày này sang tháng khác, từ năm này qua năm nọ, từ đời này đến đời kia. Chứ đâu chỉ có 1 ngày hoa trái, quà cáp, phong bì, hộp nơ, rồi những tháng còn lại trong năm nhìn nhau theo mối quan hệ mua bán con chữ, kinh doanh tri thức.   

Quý vị hiểu mình cần phải làm gì rồi chứ? Muốn người khác tôn trọng trước hết mình phải có tự trọng. Lòng tự trọng từ đâu mà có? Tự trọng là không đủ tri thức không đứng trên bục giảng, tự trọng là thấy nghề giáo không đủ sống mạnh dạn bước ra khỏi ngành chứ không phải cào cấu phụ huynh cho đầy hũ gạo nhà mình, tự trọng là thấy sai trái, bất công phải lên tiếng chứ không hùa theo lũ lãnh đạo bóp cổ PH và HS, tự trọng là bị cử đi làm “nhiệm vụ chính trị” phải biết phản đối, tự trọng là thấy trường lạm thu phải đứng về phía phụ huynh, tự trọng là không câm lặng nghe và làm theo những điều dối trá, sai quấy của cấp trên cốt để yên thân, vững ghế.

Chỉ cần quý vị làm được những điều trên, mỗi năm xã hội sẽ tôn vinh quý vị đủ 365 ngày với sự yêu kính chân thành, không phải bằng những tấm thiệp ghi những câu hoa mỹ do bố mẹ chúng nó mồi có kẹp mấy tờ bạc, những bó hoa tươi mua bằng những đoạn ruột héo, những cái hộp đựng vài mảnh vải áo dài, những coupon, những chai dầu thơm, sữa tắm… mà chỉ cần thêm nén nhang, nắm muối, nắm gạo là đủ bộ cúng mùng 2, 16 mỗi tháng.

Mai Thị Mùi.


 

CHƯA MUỘN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”.

John Sargent từng vẽ bức “Hoa Hồng” – một kiệt tác. Dẫu hội hoạ sĩ đã ra một giá rất cao, nhưng anh vẫn từ chối bán nó. Anh coi đây là tác phẩm tốt nhất của mình; để bất cứ khi nào nản lòng và nghi ngờ về khả năng sáng tạo của bản thân, anh nhìn nó và tự nhủ, “Tôi đã vẽ nó!”. Nhờ đó, anh luôn có cơ hội đi tiếp, tiến tới đỉnh cao sự nghiệp với danh hiệu “Hoạ sĩ vẽ chân dung hàng đầu cuối thế kỷ 19”.

Kính thưa Anh Chị em,

Như bức “Hoa Hồng”, Bí tích Rửa Tội là kiệt tác thầm nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa đã ban ân sủng dẫy đầy để mỗi người bắt đầu, rồi lại bắt đầu, hầu có thể tiến tới đỉnh cao sự nghiệp của mình: chu tất “kế hoạch yêu thương” Chúa định cho mỗi người. Vì thế, dẫu bao lần vấp ngã, bạn và tôi vẫn ‘chưa muộn’ để đứng lên. Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó.

Chủ vườn là hình ảnh một Thiên Chúa xót thương, quảng đại và hào hiệp. Ngài đón nhận bất cứ ai sẵn sàng vào làm ‘vườn nho’ nhà Ngài ở bất cứ thời điểm nào. Với Ngài, mọi người luôn có cơ hội! “Trong tình yêu Thiên Chúa, không ai bị bỏ lại; mỗi người đều có chỗ trong vườn nho Ngài!” – Phanxicô. Một trong những trải nghiệm tồi tệ nhất là bạn ‘chấp nhận’ đánh mất cơ hội để bắt đầu lại. Bởi lẽ Thiên Chúa ban cho mọi người một quỹ thời gian ‘đủ’ để đi về phía Ngài; vì thế, cả khi ngã quỵ, nhờ ơn Chúa, bạn vẫn ‘chưa muộn’ để chỗi dậy, tiếp tục hành trình. “Ân sủng không nhìn vào giờ giấc, nó nhìn vào con tim sẵn sàng đáp lại!” – Max Lucado.

Với Chúa, con người không chỉ luôn có cơ hội để tái khởi sự, nhưng còn có thể trải nghiệm những nghịch lý xót thương của Ngài. Dụ ngôn này là một bằng chứng: người làm ít, kẻ làm nhiều đều nhận một quan tiền! Chúng ta thường quên, với Chúa, mọi sự đều là quà tặng. Không ai có quyền đòi Ngài công bằng về ân sủng; những gì chúng ta làm cho Chúa không bao giờ là ‘ân huệ’ dành cho Ngài; nhưng là những nghĩa vụ ‘hiện sinh’, đó là lý do chúng ta có mặt trên đời. Ngài không mắc nợ ai! “Không phải ta làm được gì cho Chúa, nhưng chính Ngài đã làm tất cả cho ta!” – Dietrich Bonhoeffer.

Anh Chị em,

“Hãy đi vào vườn nho!”. Bức “Hoa Hồng” đã thúc giục Sargent “Hãy đi!”; Bí tích Rửa Tội thúc giục bạn và tôi “Hãy đi!”. Vì thế, mỗi khi mỏi gối chồn chân, hãy lặng thinh trước ‘kiệt tác ân sủng’ của mình – phép Thánh Tẩy – mà lấy lại nhiệt huyết! Cũng vậy, lời mời gọi này – biểu tượng của mọi lời gọi – nhắc chúng ta nhìn vào những con người đã được Chúa trao cơ hội. “Đấng không chọn kẻ xứng đáng; Ngài làm cho kẻ được chọn trở nên xứng đáng!” – Vance Havner. Họ không chỉ là các thánh hoặc các tâm hồn thánh thiện; nhưng còn là những người thu thuế, phong cùi, người nữ ngoại tình, biệt phái hay ngay cả anh trộm lành… Những con người này đã đi tiếp, và đi tận Nước Trời. Vì với họ, luôn luôn vẫn ‘chưa muộn!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cảm tạ Chúa vì ân sủng Ngài không bao giờ đóng cửa; sau mỗi thất bại, giúp con đứng lên và tiến thẳng, vì ‘vẫn còn kịp’, con luôn có cơ hội!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 20,1-16a

1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông cũng bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.’ 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ : ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?’ 7 Họ đáp : ‘Vì không ai mướn chúng tôi.’ Ông bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !’ 8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý : ‘Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.’ 9 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn chủ nhà : 12 ‘Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.’ 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : ‘Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?’ 16a Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.”


 

Tại sao chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa ?- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Chúa đang tìm bạn đó, bạn có bật điện thoại lên không vậy? Nhớ cầu nguyện cho nhau và những người đang đau khổ nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 19/08/2025  t5-21

GIÁO LÝ: Tại sao chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa ?

– Vì Thiên Chúa đã đặt trong lòng ta ước mong tìm Người và gặp được Người. Thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa đã dựng nên chúng con cho Thiên Chúa, và lòng chúng con không nghỉ yên cho tới khi được nghỉ yên trong Thiên Chúa.” Sự ước mong tìm Thiên Chúa đó ta gọi là tôn giáo. (Youcat, số 3)

SUY NIỆM: Con người đi tìm Thiên Chúa là chuyện tự nhiên. Mọi khát vọng sự thật và hạnh phúc rốt cuộc chỉ là đi tìm đến Đấng chứa đựng nó một cách tuyệt đối, đến thỏa mãn nó một cách tuyệt đối, và Đấng có trách nhiệm về nó một cách tuyệt đối. Một người chỉ hoàn toàn là chính mình khi họ đã tìm được Thiên Chúa. “Ai tìm sự thật là tìm Thiên Chúa, dù họ có ý thức hay không” Thánh Edith Stein.

❦ Nói đến “tôn giáo” ta thường hiểu rằng đó là chuyện quan hệ với thần linh. Một người có tôn giáo nhận biết rằng trong sức mạnh đã tạo dựng họ và tạo dựng thế giới có một cái gì là thần linh, một sức mạnh mà họ phải lệ thuộc vào và họ phải hướng tới. Trong lối sống của họ, họ sẽ tìm cách làm đẹp lòng thần linh và tỏ lòng tôn kính thần linh.

❦ Nguồn vui của Kitô hữu là biết chắc rằng họ được Thiên  Chúa yêu thương, yêu thương thân mật bởi Đấng Tạo hóa… yêu thương bằng một tình yêu đam mê và trung tín, một tình yêu lớn hơn là những bất trung và tội lỗi của ta, một tình yêu luôn tha thứ. (Đức Bênêđictô XVI) (Youcat, số 3 t.t.)

Trong cuộc đời theo lẽ tự nhiên, bạn tìm kiếm ý nghĩa, tình yêu, người tri kỷ, tình bạn, tình cảm, viên mãn tình dục, tầm quan trọng, sự công nhận, kiến thức, sáng tạo, vui chơi, hài hước và hoan lạc. Tất cả những sự tìm kiếm tự nhiên đều hướng về Chúa trừ khi bạn biến nó thành những gì không tự nhiên. Vấn đề cần phải đưa ra phân định là khi nào bạn biến những gì tự nhiên thành những gì không tự nhiên. Trong thế giới “vàng thau lẫn lộn” này, bạn dễ bị nhầm lắm. Khi bạn tìm kiếm Chúa trong mọi lãnh vực thì bạn sẽ tìm được Sự Thật thôi!

LẮNG NGHE: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. (Mt 6:33)

CẦU NGUYỆN: Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. (Tv 63:2)

THỰC HÀNH: Bỏ ra ít phút để tìm Chúa trong hơi thở, trong sự nghỉ ngơi vui chơi với người thân yêu.

Do Dzung

********************

Tìm Về Bên Chúa (Sáng tác: Jerome) – Đình Quynh


YouTube player

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đất đai Thủ Thiêm & đồ mã Ba Đình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/07/2019

Đề nghị chúng ta hãy làm dân thường một vài giờ thì sẽ thấy tính mạng, nhân phẩm và tài sản của người dân dễ bị xâm hại, dễ bị xúc phạm như thế nào.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa

Sinh lão bệnh tử là lẽ tự nhiên của kiếp người. Tuy thế, khi còn trẻ, tôi vẫn cứ tưởng rằng đó là chuyện của người nào khác (thôi) chớ không mắc mớ gì ráo tới mình. Tưởng vậy, tất nhiên, là Tưởng Tầm Bậy. Mấy năm nay, những năm cuối đời, tôi phát bệnh tùm lum (suyễn, thống phong, cao huyết áp …) nên mới chợt nhận ra là cái chết – ngó bộ – cũng không còn xa xôi mấy.

Từ đó, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện hậu sự với không ít âu lo. Dù gần cả đời sống ở Hoa Kỳ nhưng tôi nói tiếng Anh không được rành rẽ lắm. Cứ hình dung ra cảnh một đêm trăng ngà, trong cái nghĩa trang toàn là ma (Mỹ) đang chuyện trò rôm rả mà mình lại ngồi thu lu (ở một góc xa) thì buồn bã và cô đơn hết biết luôn.

Vậy là tôi lật đật hỏi thăm giá cả mộ phần ở quê nhà. Thằng con ông anh hồi đáp tức thì, qua email: “Hai mét vuông đất ở nghĩa trang Thánh Mẫu, phường 8, Đà Lạt hiện đang có giá là 300 triệu đồng. Chú nhắm có khả năng chôn thì hãy chết, bằng không thì thôi nhá.”

Thôi sao được, Trời. Sinh lão bệnh tử mà! Suy nghĩ cả buổi tôi mới tìm ra một giải pháp vẹn toàn. Đốt. Xong dặn con cái bỏ tro vô cái lon sữa bò mang gửi về VN đặt ké trong phần mộ của song thân.

Khoẻ!

Khỏi tốn kém cắc nào mà còn được hưởng lợi nữa nha. Lợi cái là khi tụi nhỏ đốt vàng mã cho ông bà thì làm gì mà hai người không chia cho tui chút ít. Con mà ai lại không thương chớ, kể cả cái thứ con cái hư đốn và tệ bạc như tui, đúng không?

Thiệt là một phát kiến thần tình. Ai cũng “chơi” kiểu đó thì xứ sở đỡ hao tốn đất đai, lại còn bớt được nạn ô nhiễm môi sinh vì số vàng mã mang đốt hàng năm sẽ giảm đi không ít. Cứ như thế, không chóng thì chầy, cái phố Hàng Mã ở Hà Nội sẽ  đi đong là cái chắc.

Vấn nạn nghìn tỷ vàng mã mang đốt hằng năm, như thế, kể như xong. Vấn đề còn lại, nan giải hơn, là phải giải quyết dứt điểm mớ đồ mã của Đảng Cộng Sản Việt Nam kìa – một đảng chuyên làm hàng giả và làm rất khéo.

Xin nói qua về vài ba mặt hàng tiêu biểu, đã được bầy bán khắp nơi:

Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (M.T.G.P.M.N) chả hạn. Nó được nặn ra vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, và nặn khéo đến độ khiến có người tưởng là đồ thật. Ðến khi được mang ra đốt, nó cháy như điên. Sự nghiệp cách mạng của nhiều người miền Nam cũng cháy theo (luôn) như đuốc! Đám tro tàn còn lại đã được Đảng bỏ vô Mặt Trận Tổ Quốc (M.T.T.Q) để khỏi vương vãi tùm lum.

Cái Mặt Trận này mới thực sự là một sản phẩm đặc sắc của dân làng Ba Ðình, có mặt từ tháng 9 năm 1955, tập hợp nhiều món đồ mã linh tinh khác (Hội Cựu Chiến Binh, Ủy Ban Tôn Giáo, Hội Nông Dân Việt Nam, Hội Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Công Ðoàn…) khác. So với mặt hàng chiến lược này thì những thứ đồ mã vớ vẩn như M.T.G.P.M.N, Mặt Trận Giải Phóng Tây Nguyên, Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ & Hoà Bình … đều là chuyện nhỏ, nếu chưa muốn nói là đồ bỏ, chỉ có tính cách giai đoạn mà thôi.

Điều 9 của mước C.H.X.H.X.N.V.N (2013) quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

Tất nhiên là nói chơi vậy chớ không phải vậy đâu. Ai mà tưởng vậy là Tưởng Tầm Bậy, và hậu quả rất khó lường. Trong một phiên họp của M.T.T.Q, vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, luật sư  Nguyễn Mạnh Tường lỡ góp ý với ĐCSVN (“Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất”) nên ông bị bị vùi dập thê thảm cho mãi đến khi nhắm mắt lìa đời.

Sáu mươi ba năm sau, sau hôm L.S Nguyễn Mạnh Tường đọc diễn văn trước M.T.T.Q, bà Nguyễn Thị Thùy Dương (một dân oan ở Thủ Thiêm) uất ức cho biết:

“Cả đêm 18 đến rạng sáng 19/6/2019, tôi thức trắng sau bao nổ lực cố gắng giành cho được 2 lá phiếu để phát biểu trong lần tiếp xúc cử tri. Mặt trận tổ quốc Quận 2 cho đến Mặt trận tổ quốc phường Bình Trưng Đông nơi tôi sinh sống nhất quyết không cho tôi đăng kí. Họ đổ lỗi lẫn nhau, họ chặn mọi con đường để tôi không thể nói.”

Nói cách khác kể từ năm 1955 cho đến nay, cái gọi là M.T.T.Q không làm gì khác hơn là mượn danh nhân dân để bịt mồm của chính họ bằng nhiều phương cách mà điển hình nhất là “tổ chức hiệp thương” (đảng cử dân bầu) – theo nhận xét của ông Hà Sỹ Phu:

“Anh nắm hết mọi sức mạnh trong tay, muốn bầy đặt cái gì cũng được, anh có dành cho nhân dân một hội đồng để giúp anh thu thập tiếng nói của dân, hay anh lại tìm cách đưa Bí thư tỉnh ủy, Bí thư thành ủy sang phụ trách luôn… cho nhất quán?”

Do sự “nhất quán” này mà bi kịch Thủ Thiêm đã kéo dài gần hai mươi năm qua  trong nín lặng. Cho đến khi sự việc không thể ém nhẹm được nữa, Đại Biểu Quốc Hội phải lộ diện thì họ hành sử trơ tráo đến độ khiến cho người dân phải ném giầy vào mặt.

Ảnh: báo Nghệ An

Blogger Trân Văn kết luận:

“Hệ thống công quyền như thế chính là hậu quả của một hệ thống chính trị ‘ưu việt’ hơn phần còn lại của nhân loại. Dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng, ba đại biểu của Quốc hội đại diện cho cơ quan đại diện ‘ý chí, nguyện vọng của toàn dân’ chỉ làm được một chuyện: Mỗi năm vài lần, trước và sau các kỳ họp Quốc hội phơi mặt để dân chửi như một cách giúp họ hạ hỏa, đồng thời cũng là để xiển dương thể chế ‘dân chủ gấp vạn lần thiên hạ’. Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) – tập hợp các tổ chức chính trị đại diện cho tất cả các giới, các thành phần khác nhau trong xã hội – cũng thế và cũng vì thế, mới bị cô Dương tố cáo: Cử tri muốn tiếp xúc với đại diện của mình tại Quốc hội phải… đăng ký với MTTQ và nỗ lực duy nhất của là… ngăn cản.”

Đã thế, người dân còn phải đóng thuế để nuôi dưỡng cái “lực cản vỹ đại” này. Trang Quản Lý Nhà Nước (State Management Review) tiết lộ:

“Nghiên cứu gần đây về ngân sách cho các hội, đoàn thể của Viện Nghiên cứu chính sách kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy, NSNN ước tính chi khoảng 14 nghìn tỉ đồng cho toàn bộ khối này, gấp đôi dự toán cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế và gấp 5 lần cho Bộ Khoa học và Công nghệ…  Nếu tính cả dự toán ngân sách cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thì tổng chi lên đến 1.615,710 tỷ đồng. Hầu hết các hệ thống hội đoàn, trong đó đặc biệt là các tổ chức CTXH, được tổ chức theo mô hình hành chính, có biên chế, trụ sở, xe…”

Thế còn Quốc Hội?

Đại biểu Trần Quốc Tuấn từ tỉnh Trà Vinh cho biết ông có được nghe một chuyên gia cung cấp thông tin rằng: “nếu mỗi một phút chúng ta ngồi tại hội trường này thì nhà nước phải bỏ ra khoảng 2 triệu đồng, bình quân mỗi một kỳ họp như thế một ngày chúng ta mất khoảng 1 tỷ đồng.”

Blogger Trân Văn chi tiết hơn xíu nữa: “Nếu cộng thêm khoản lương phải trả cho cả các đại biểu Quốc hội lẫn hệ thống tham mưu, giúp việc và chi phí kinh tế – xã hội (bao gồm: đất đai, nhà cửa, xe cộ, các tài sản khác) dành cho Văn phòng Quốc hội và 63 Đoàn Đại biểu Quốc hội, tổng chi phí hàng năm cho việc vận hành, duy trì hoạt động của Quốc hội Việt Nam có lẽ không dưới mức ngàn tỉ.”

Toàn là Đồ Mã không mà mắc dữ vậy, mấy cha? Mang đốt hết đi cho rảnh nợ. Mà dù không muốn đốt chăng nữa thì cũng đã đến lúc chúng phải cháy thôi.