Hôm nay ngày 01.01.2020, ngày chính thức nói lên sự thất bại của đảng csVn trong kế hoạch đưa đất nước trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại.
Cách đây 14 năm (28.4.2006). Ông Nông Đức Mạnh khẳng định đến năm 2020 VN là một quốc gia công nghiệp? Như vậy, đây là chiêu trò cho dân ăn bánh vẽ của lãnh đạo nhà nước hay kế hoạch xây dựng quốc gia công nghiệp bị thất bại?
Chúng ta tìm xem trong suốt 2 nhiệm kỳ của ông Mạnh và ông Trọng, có thấy họ đầu tư chuẩn bị gì để hình thành một đất nước công nghiệp không? Với chủ trương của đảng, liên tục đưa công dân đi XKLĐ trên khắp thế giới, thì làm sao nói họ có thiện chí xây dựng đất nước thành nước công nghiệp? Một đất nước mà lãnh đạo chỉ chú tâm vào xây tượng đài, xây chùa, xây nghĩa trang cấp cao… thì làm sao tiến lên quốc gia công nghiệp?
Như vậy, lãnh đạo cho toàn dân ăn bánh vẽ để hy vọng theo thời gian và để suy nghĩ rằng, giới lãnh đạo cũng quyết tâm xây dựng đất nước! Đảng cũng có phương án, cũng đưa ra kế hoạch, cũng xây dựng các đề án, cũng triển khai những mô hình… Nhưng thật ra, tất cả đều là trò lừa đảo, mỵ dân của giới cầm quyền!
Nói về chiêu trò cho dân ăn bánh vẽ thì không ai giỏi hơn lãnh đạo đảng, nhà nước VN. Đây không phải là lần đầu tiên ông Nông Đức Mạnh vẽ ra miếng bánh quốc gia công nghiệp, mà trước đây gần nửa thế kỷ, ông TBT Lê Duẫn cũng hùng hồn tuyên bố trước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 diễn ra ngày 12.12.1976, rằng: “trong vòng 10 năm nữa, kinh tế ta sẽ đuổi kịp Nhật, khoảng 15 năm nữa ta sẽ vượt qua Nhật. Lúc đó, nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng”.
Những chiếc bánh vẽ được lãnh đạo vẽ ra để lừa dân hết lần này đến lần khác.
– Ông Nguyễn Thiện Nhân: “giải quyết dứt điểm vụ Thủ Thiêm trong năm 2019”.
– Ông Nguyễn Đức Chung: “tàu Cát Linh – Hà Đông chạy vào cuối tháng 12.2019”
– Ông Nguyễn Mạnh Hùng: “năm 2020 sẽ có 90 triệu người dùng Mạng Xã Hội Việt Nam”. …………..
Đó, là những chiếc bánh vẽ mà lãnh đạo cộng sản đã cho chúng ta gặm trong gần nửa thế kỷ qua. Và hiện nay, ông Nguyễn Xuân Phúc đang đưa ra chiếc bánh mà đến năm 2045 nếu chưa tắt thở thì chúng ta sẽ thưởng thức tiếp, còn không, thì nhường cho thế hệ mai sau. Bởi, sống với cộng sản, thì ai ai cũng có cơ hội ăn bánh vẽ và thế hệ nào cũng đều có phần. Ơn đảng!
*p/s: Năm mới, cầu chúc tất cả bạn bè, anh chị em làng fây được dồi dào sức khỏe, an lạc, thịnh vượng.
Tái cử Bộ Chính trị, chiếm được ghế Trưởng ban Tổ chức Trung ương, quyền hạn của Tô Huy Rứa cực kỳ lớn:
– Tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chính sách về tổ chức cán bộ, đoàn thể, nội chính, Mặt trận.
– Đánh giá, tham mưu điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, phê chuẩn, đình chỉ chức vụ cán bộ.
– Giới thiệu ứng cử, quy hoạch các chức danh thuộc diện Bộ Chính trị, Ban bí thư quản lý.
– Thường trực Tiểu ban nhân sư Đại hôi đảng.
Và Tô Huy Rứa đã “phát huy” hết sức mạnh quyền lực ấy như thế nào?
Quay lại những năm về trước, Tô Huy Rứa có một mối tình sâu nặng với một phụ nữ gốc Nghệ An lên Yên Bái dạy học, có tên Phạm Thị Thanh Trà, sinh 1964. Khi ấy Trà vừa qua tuổi bốn mươi, da trắng ngần, cao ráo và xinh đẹp. Giới quan chức Yên Bái gọi cô là “đoá hoa rừng”.
Năm 2006, khi là Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương, Rứa đưa “người tình” Phạm Thị Thanh Trà vốn xuất thân là một giáo viên cấp 2 Trường PTCS thị trấn Cổ Phúc – Trấn Yên – Yên Bái, vượt qua một số chức vụ để ngồi vào ghế Ủy viên Ban Thường vụ (khóa XVI), Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái. Từ đó leo lên Phó chủ tịch UBND tỉnh, Bí thư Thành uỷ TP Yên Bái, Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái.
Tô Huy Rứa và Phạm Thị Thanh Trà. Photo Courtesy
Năm 2016, với vị thế Ủy viên BCT, Bí thư Trung ương, Trưởng Ban tuyên giáo, Rứa đã giúp Phạm Thanh Trà dễ dàng kiếm một suất Uỷ viên Trung ương khoá XII và làm Phó Bí thư, kiêm Chủ tịch UBND tỉnh.
Sáng 18/7/2016, Chi cục trưởng kiểm lâm Đỗ Cường Minh nổ súng K59 bắn chết Bí thư tỉnh uỷ Phạm Duy Cường và Chủ tịch HĐND Ngô Ngọc Tuấn. Phạm Thị Thanh Trà được ngồi vào ghế Bí thư tỉnh uỷ Yên Bái.
Phạm Thị Thanh Trà là chị ruột Phạm Sĩ Quý, cựu Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường, xây biệt phủ ngàn tỷ bằng tiền “chạy xe ôm” và “buôn chổi đót”.
Về phần Nguyễn Phú Trọng, sau khi đắc cử Tổng Bí thư, ông cùng Chủ tịch nước Trương Tấn Sang quyết tâm tuyên chiến với phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng.
Ngày 31/12/2011, bế mạc Hội nghị trung ương 4 khóa XI. Ngày 16/1/2012, Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, tức NQTW 4: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng.
Văn bản nêu rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Và sau đó là một đợt rầm rộ kiểm điểm, phê bình và tự phê tất cả đảng viên trên cả nước. Đích đến chủ yếu vẫn là Nguyễn Tấn Dũng và các đồ đệ, bị gọi là “nhóm lợi ích”.
Sau đó là Hội nghị trung ương 5, “seri đòn” được phe Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang đưa ra, để cân bằng quyền lực, ghìm cương “con ngựa bất kham” và khống chế sự lộng quyền, tàn phá kinh khủng của Nguyễn Tấn Dũng và “nhóm lợi ích”.
Ông Trọng kích hoạt phương châm “nhốt quyền lực vào lồng luật pháp”. Hàng loạt văn bản của đảng được tung ra, như:
Quyết định số 68-QĐ/TW của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát trong Đảng (ngày 21/03/2012).
– Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí (25/05/2012).
– Quyết định số 158-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc thành lập Ban Nội chính Trung ương (28/12/2012).
– Quyết định số 160-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc thành lập Ban Kinh tế Trung ương (28/12/2012).
– Quyết định số 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (01/02/2013).
Tiếp theo là chỉ đạo QH ra nghị quyết 35, lần đầu tiên trong lịch sử VN, lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do QH bầu và phê chuẩn, tại kỳ họp 5, khoá 13, khai mạc vào ngày 20/5/2013.
Chưa hết, phe ông Trọng yêu cầu và thực hiện sửa đổi Hiến pháp 1992, tăng quyền hạn chủ tịch nước, rút quyền phong tướng của Nguyễn Tấn Dũng… tại kỳ họp 6, QH khoá 13, tháng 11/2013.
Tuy nhiên, “nhóm lợi ích” vẫn bảo đảm thành trì. Hội nghị 6 tháng 10/2012 không kỷ luật được Nguyễn Tấn Dũng, những giọt nước mắt phẫn uất đã lăn dài trên má ông Trọng. Mặc dù vậy, phe Trọng cũng buộc được Dũng đã cúi đầu nhận trách nhiệm của người đứng đầu Chính phủ và nhận lỗi trước Quốc hội, toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 13, ngay sau đó.
Ông Nguyễn Phú Trọng khóc tại bế mạc Hội nghị trung ương 6 và Nguyễn Tấn Dũng nhận lỗi trước QH.
Phần mình, Tô Huy Rứa cùng với Trần Đại Quang vận động và giới thiệu Nguyễn Bá Thanh với nhóm ông Trọng – Sang, để Thanh ngồi vào ghế Trưởng ban Nội chính, hòng giúp Nguyễn Bá Thanh kiếm một suất bổ sung Bộ Chính trị, nhưng thất bại tại Hội nghị 7, tháng 5/2013, khi cả Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ đều “out”.
Có điều, thế và lực bắt đầu nghiêng về nhóm hai ông Nguyễn Phú Trọng – Trương Tấn Sang. Tô Huy Rứa rất nhanh, ngả về bên mạnh hơn. Để lập công, Tô Huy Rứa cũng góp công giúp ông Trọng thực thi chủ trương và quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về luân chuyển cán bộ. Dịp này Rứa cũng nhanh chân đưa Trịnh Xuân Thanh về Hậu Giang, qua Văn bản số 6149, ngày 20/1/2014 của Ban Tổ chức Trung ương do Trần Lưu Hải, Phó Trưởng ban Thường trực nhiệm kỳ 2010-2015, ký. Toàn bộ là do chỉ đạo của Rứa, nhưng người “lãnh đạn” sau này là Trần Lưu Hải.
Việc luân chuyển 44 cán bộ Trung ương về địa phương, nằm trong kế hoạch xoay chuyển “bàn cờ” chính trị của ông Trọng.
Có người cho rằng Tô Huy Rứa là tác giả của Quy chế 244, ra đời tháng 6/2014. Nhận định thế là không đúng. Các “bộ não” cận thần tham mưu cho hai ông Trọng – Sang mới chính là tác giả của Quy chế 244, ra đời tháng 6/2914. Vì quá chủ quan, Nguyễn Tấn Dũng đã bị hạ “knoc-out” ngay trước thềm đại hội XII diễn ra tháng 1/2016, bởi “thiên la địa võng” mà bên tấn công giăng ra, và cũng bởi Quy chế lạnh lùng và tàn khốc mang bí số 244.
Bốn ngày trước khi khai mạc Hội nghị Trung ương 13, Nguyễn Tấn Dũng viết đơn gởi Nguyễn Phú Trọng, xin KHÔNG TÁI CỬ và rút lui khỏi cuộc đua quyền lực.
Là “kiến trúc sư” trong công tác nhân sự, cuối năm 2014, để đưa đàn em Trịnh Văn Chiến vào Uỷ viên Trung ương, Tô Huy Rứa kéo Mai Văn Ninh, Bí thư tỉnh uỷ Thanh Hóa ra Hà Nội để thay Cao Đức Phát làm Bộ trưởng. Sắp hết tuổi, nhưng Phát không chịu nghỉ, Rứa phải đưa Ninh về làm Phó Ban tuyên giáo nằm chờ. Tại đại hội XII, Ninh nằm trong danh sách tái cử Uỷ viên Trung ương, nhưng khi bầu lại rớt. Chỉ có Trịnh Văn Chiến, người tình của “hotgirl” Quỳnh Anh, vào BCH Trung ương. Mai Văn Ninh ngậm đắng nuốt cay, rời chính trường.
Còn nữa, trong suốt thời gian chuẩn bị đại hội 12, Tô Huy Rứa đã tiếp một tay, giúp Nguyễn Văn Bình, Đinh La Thăng, Hoàng Trung Hải lách qua khe cửa hẹp, để ngồi chung “ngai” với ông Trọng, trong Bộ Chính trị.
Với gia đình, Tô Huy Rứa sắp đặt vẹn toàn. Phu nhân Trương Thị Tuyết Nhung, sau khi rời chức vụ Trưởng phòng đào tạo Học viện Báo chí tuyên truyền, thì lập ngay “Quỹ từ thiện Bầu ơi” từ tháng 4/2913 để hoạt động. Quỹ của phu nhân Trưởng ban Tổ chức Trung ương tiền không bao giờ cạn. Hàng trăm doanh nghiệp nhà nước đổ tiền vào ủng hộ Quỹ.
Vợ chồng Tô Huy Rứa
Con trai cả của Rứa là Tô Huy Vũ, trong ba năm đổi hai chức. Từ Vụ trưởng Thống kê, nhảy sang Vụ trưởng Hợp tác Quốc tế Ngân hàng Nhà nước.
Con trai kế Tô Tử Hà, Bí thư đoàn thanh niên Vietnam Airlines, Trưởng phòng Tổ chức – Nhân sự Cảng HKQT Nội Bài.
Con gái út Tô Linh Hương, “công chúa” sinh ngày 14/2/1988 từng khuấy động dư luận khi về làm Chủ tịch HĐQT Cty Vinaconex-PVC, một cty liên doanh của “người tình” thành đạt Trịnh Xuân Thanh, vào tháng 4/2012 và rút lui sau đó hai tháng, vì cty này đang ngập nợ nần.
Các con của Rứa
Tô Linh Hương nhanh chóng được bố Rứa đưa về Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch, làm Ủy viên Ban chấp hành Đảng ủy Bộ VHTTDL, Ủy viên Ban thường vụ Đoàn khối các cơ quan trung ương, Bí thư Đoàn bộ VHTTDL. Rồi Hương làm Nghiên cứu sinh theo QĐ số 3204/QĐ- ĐHKT ngày 8/11/2013 của Hiệu trưởng Đại học Kinh tế- ĐHQG với đề tài “Chuỗi giá trị toàn cầu ngành hàng chè và sự tham gia của Việt Nam”, do đích thân Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ làm cán bộ hướng dẫn khoa học. Chiều ngày 7/2/2018, tại Phòng 801 nhà E4, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, trước hội đồng giáo sư chấm, Tô Linh Hương đã bảo vệ luận án tiến sĩ với số điểm tuyệt đối (!)
Hy vọng các “thiên tài” họ Tô đời thứ 14, sẽ thay bố Tô Huy Rứa, làm rạng danh “làng ăn mày” Đồn Điền, Quảng Thái.
Gần đây, báo chí và dư luận lại xôn xao với video clip xe Mercedes E250 có bảng số 30F-462.75 của bà Trương Tuyết Nhung, đăng ký năm 2018 lại mang thêm bảng số xe màu xanh 80B-4329 đăng ký năm 2009 trực thuộc Ban Tuyên giáo trung ương, để được hưởng những đặc quyền khi tham gia giao thông. Điều đó cho thấy rằng, dù nghỉ hưu đã 4 năm, máu đam mê công danh và uy vũ vẫn nóng hổi như ngày nào, trong huyết quản một chân dung quyền lực như Tô Huy Rứa.
Tô Huy Rứa – Chân dung quyền lực (Kỳ 3) Bởi AdminTD – 27/12/2019 Hồng Hà 24-12-2019 Tiếp theo kỳ 1 và kỳ 2 Tái cử Bộ Chính trị, chiếm được ghế Trưởng ban Tổ chức Trung ương, quyền hạn của Tô Huy Rứa cực kỳ lớn: – Tham mưu cho Bộ Ch…
Năm 2019 là năm mà nhiều bản án rất nặng được tuyên cho các nhà đấu tranh, những cây bút phản biện hay các bloggers… chỉ vì họ thẳng thắn trình bày chính kiến với mong muốn một xã hội tốt đẹp hơn, dân chủ và nhân quyền phải đư…
Năm 2019 là năm mà nhiều bản án rất nặng được tuyên cho các nhà đấu tranh, những cây bút phản biện hay các bloggers… chỉ vì họ thẳng thắn trình bày chính kiến với mong muốn một xã hội tốt đẹp hơn, dân chủ và nhân quyền phải đư…
“Theo quan điểm của tôi thì trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường bắt bớ là điều không có gì ngạc nhiên hết. Tuy nhiên nó lại cho tôi thấy sự hỗn loạn trong việc đánh giá và bắt bớ của chính quyền địa phương hơn là trung ương. Ví dụ, thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh chỉ dạy học trò hai bài hát của Nhạc sĩ Việt Khang mà bị kêu án lên tới 11 năm tù.
Thời gian cách đây khoảng 5 năm, tức thời gian tôi bị bắt, trước đó là Điếu Cày, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định… thì lúc đó họ có sự thống nhất và quy về một mối cho việc tăng cường đàn áp nhân quyền.
Nhưng giai đoạn sau này, đặc biệt năm 2018, 2019, tôi thấy nó không còn tính thống nhất mà mạnh địa phương nào địa phương đó tùy nghi bắt bớ và kết án mà không cần xin ý kiến của trung ương” – Blogger Nguyễn Ngọc Già nêu quan điểm.
Đêm nay là đêm giao thừa từ năm cũ 2019 bước sang năm mới 2020. Trong giờ linh thiêng nhất trong năm, với suy nghĩ làm sao cho đời sống của mỗi người chúng ta được BÌNH AN, VUI TƯƠI, HẠNH PHÚC, để trong cõi đời trần thế hiện tại này được nhẹ nhàng, thư thái, khoan dung, yêu thương và được yêu thương. Để sau này, lúc ra đi, linh hồn ta cũng nhẹ nhàng, êm ái, tràn đầy tình cảm yêu thương, thần thái vui tươi, hạnh phúc trong nước Trời.
Trong suy tư đó, xin gởi đến tất cả những người thân yêu lời kinh dưới đây. Mời đọc và suy ngẫm.
Phùng Văn Phụng
Kinh Tha Thứ
Lạy Chúa Giêsu, điều con xin hôm nay là ơn tha thứ.
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho chính con: những tội lỗi của con, những lỗi lầm của con, những sa ngã của con, những điều xấu trong con, những mê tín dị đoan của con, cầu cơ lên đồng, xem tử vi, coi chiêm tinh gia, coi thầy bói, đeo những bùa may mắn hộ mạng. Con từ bỏ tất cả những dị đoan đó. Con tin nhận Chúa là Chúa cứu thế duy nhất của con. Xin hãy ban Thánh Thần Chúa trên con. Con tha thứ cho con vì: đã làm đau khổ cha mẹ con, chè chén say sưa, sử dụng ma tuý, đeo đuổi hành động thiếu trong sạch, ngoại tình, những hành động tình dục về đồng tình luyến ái. Như Chúa đã tha thứ cho con, hôm nay con cũng tha thứ cho con. Ðồng thời những tội khác như: phá thai, ăn cắp, nói dối, lừa đảo… Con tha thứ cho chính con.
Con tha thứ cho người mẹ con qua những lần mẹ con: làm đau đớn con, phẫn nộ với con, giận dữ với con, trừng phạt con, thanh lọc con ra khỏi anh chị em, nói con đần độn, xấu xí, ngu dốt, hư hỏng nhất, hao tốn tiền của gia đình. Cho con là đứa con không được thừa nhận, là thiếu xót, là đứa con không được như ý muốn…
Con tha thứ cho cha con là người cha: thiếu nâng đỡ con, thiếu tình thương, thiếu cảm tình, thiếu sự trông nom, thiếu thời giờ, thiếu sự cảm thông dành cho con. Con tha thứ cho cha con là: người nghiện ngập, ẩu đả với mẹ con, ẩu đả với những người con khác, những sự trừng phạt nghiêm khắc, những bỏ bê, bỏ nhà ra đi, ly dị mẹ con, đi lang thang…
Con cũng xin tha thứ cho anh chị em con: những người xua đuổi con, nói dối con, ghét con, tranh dành tình yêu của cha mẹ con, ám hại con, nghiêm khắc với con, làm cho đời sống con khổ sở…
Lạy Chúa con xin tha thứ cho người phối ngẫu của con về: sự thiếu tình thương, thiếu cảm tình, thiếu thông cảm, thiếu sự chăm sóc, thiếu liên lạc trò chuyện với con. Con xin tha thứ cho những thiếu xót, vất ngã, yếu đuối, những lời nói hay hành động làm tổn thương và khó chịu cho con…
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho con cái của con: Thiếu kính trọng, Thiếu vâng lời, Thiếu yêu thương, Thiếu trông nom, Thiếu âu yếm, Thiếu hiểu biết, Những thói hư tật xấu, Bỏ đi nhà thờ, Những hành động làm phiền hà con…
Lạy Chúa con xin tha thứ cho gia đình bên vợ/chồng con, nhất là cha mẹ, anh chị em, bà con bên vợ/chồng con đã làm tổn thương đến gia đình con…
Lạy Chúa con xin tha thứ cho những họ hàng thân thiết của con, ông bà nội ngoại, cô cậu chú dì, những người đã can thiệp vào nội bộ gia đình con, cố gắng gây ảnh hưởng trên cha mẹ con, gây ra những hiểu lầm, xúi cha mẹ này đến cha mẹ khác…
Lạy Chúa, xin giúp con tha thứ cho người bạn cùng sở của con về những sự bất đồng ý kiến, là con phải sầu khổ, bắt con phải làm việc của họ, trêu trọc con, muốn dành công việc của con.
Lạy Chúa, những người hàng xóm của con cũng cần được tha thứ về: Những sự ồn ào, Những tiệc tùng về khuya, chó sủa làm con thức giấc, làm cho khu xóm mất giá trị…
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho những linh mục, cha sở họ đạo con, cộng đoàn con, Ðức Giám mục, Giáo Hoàng, Giáo hội công giáo về: Thiếu nâng đỡ, Nhàm chán, phục vụ tồi tệ, Thiếu niềm nở, Không xác nhận, Chẳng có điều gì khuyến khích con, Không sử dụng con vào những chức vụ chủ yếu, Không mời con phục vụ trong những tổ chức đông người, những đau đớn giáng xuống trên con, con thực sự tha thứ…
Con tha thứ cho những người trí thức (professionals) về những tổn thương xảy đến con như bác sĩ, ý tá, luật sư, quan tòa, chính trị gia, dân biểu…
Lạy Chúa con tha thứ cho những người phục vụ công quyền (service people): cảnh sát, nhân viên cứu hỏa, tài xế xe bus, nhân viên nhà thương và những nhân viên khác.
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho chủ hãng con về không trả xứng lương cho con, không biết ơn việc con làm, có thái độ thiếu lịch sự, thiếu công bình, nóng giận, thiếu hòa nhã, không thăng chức cho con…
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho thầy cô giáo, huấn luyện viên trong quá khứ và hiện tại, nhất là những người đã trừng phạt con, những người đã hăm dọa con, những người đã sĩ nhục con, đối xử thiếu công bình, những người chế diễu con, những người nói con là đồ ngu ngốc, dốt nát, những người phạt con ở lại sau giờ học.
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho bạn bè con về: Những người chà đạp con xuống, Những người không liên lạc với con trong lúc con cần sự giúp đỡ, mượn tiền mà không trả lại, tán gẫu về con…
Lạy Chúa Giêsu, con khẩn thiết cầu xin ơn tha thứ, cho một người trong cuộc sống của con đã làm con đau khổ nhất; cho những người là kẻ thù không đội trời chung của con; cho người rất khó tha thứ; cho người con thề không thể tha thứ cho họ. Lạy Chúa, con xin tha thứ những người này, cho những đau đớn con đã gây ra cho họ, đặc biệt là cha mẹ của con, người phối ngẫu của con. Con cám ơn Chúa về tất cả tình thương của Chúa đã đến trong cuộc đời con qua họ.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em con. Xin Cha tha thứ cho con và chúc lành cho đời sống mới của con. Amen.
Bác sỹ cho biết: Bí quyết ăn ít cơm đúng cách có thể sống thêm được 20 năm
Từ thời xa xưa, con người đã hy vọng vào một lọai thuốc có thể giúp họ trường sinh bất lão. Vị vua nổi tiếng của Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng thậm chí đã phái người đi tìm kiếm khắp thiên hạ. Sau hàng ngàn năm, các nhà khoa học cuối cùng đã thoáng thấy một vài gợi mở!
Julie Matheson và các đồng nghiệp thuộc Viện Lão hóa Quốc gia Hoa Kì (NIA), tin rằng chỉ cần giảm lượng thức ăn là bạn ăn có thể kéo dài cuộc sống của bạn.
Chuyên gia dinh dưỡng của Đại học Tufts, Susan B. Roberts và nhóm nghiên cứu của ông đã nghiên cứu 218 người tham gia ở độ tuổi 21-50 và nhận thấy trong số 25% người giảm lượng thức ăn của mình, lượng cholesterol trong máu đã tăng đáng kể, yếu tố hoại tử khối u (TNFs) giảm 25%, kháng insulin giảm 40% và huyết áp tổng thể cũng thấp hơn.
Nói một cách đơn giản, nghiên cứu này cho thấy bằng cách ăn ít hơn, bạn có thể dễ dàng kéo dài cuộc sống thêm 20 năm mà không để lại bất kỳ dấu hiệu lão hóa nào.
Giảm lượng thức ăn xuống 1/3, bạn có thể làm điều này
Một số người sẽ nói, nếu ngay cả ăn uống cũng không thể ăn một cách no nê, vậy thì cuộc sống còn có gì vui? Trên thực tế, nếu bạn có thể kiềm chế cơn thèm ăn và sống một cuộc sống lành mạnh, bạn sẽ có được niềm vui lâu hơn và liên tục hơn.
Thế nào là giảm 1/3 lượng thức ăn? Không phải nói mọi người không ăn, mà là chỉ ăn 7 phần no, tất nhiên tiền đề đó là: không được ăn quá nhanh.
Mỗi người có một lượng ăn khác nhau, vì vậy, việc ăn 7 phần no cần một quá trình cảm nhận và điều chỉnh không ngừng. Có một tiêu chuẩn cần ghi nhớ, đó là: nếu thời gian ăn cơm tương đối cố định thì khi bạn ăn 7 phần no, bạn sẽ không bị đói trước bữa ăn thứ 2.
1. Uống canh trước khi ăn
Uống canh trước khi ăn giúp giảm cảm giác thèm ăn, lượng thức ăn tự động sẽ giảm 1/3 bởi cảm giác no sẽ xuất hiện trước.
2. Nhai chậm
Ăn, nhất định phải chậm. Phải mất khoảng 20-30 phút để dạ dày truyền đạt thông tin no tới não, vì vậy, ăn chậm hơn để giúp não nhận ra rằng dạ dày đã đầy, và bạn sẽ tiêu thụ ít thức ăn hơn bình thường.
3. Nên rời khỏi bàn ăn sau khi ăn xong
Một vài người khi ăn đã khá no rồi vẫn cứ ngồi tại bàn ăn, nhìn mấy món ngon trên bàn ăn lại không kiềm chế được và lại ăn, vậy thì hiển nhiên là 10 phần no chứ không thể là 7 phần no.
4. Đừng tiếc thức ăn thừa
Có người ăn được 7,8 phần no rồi, nhưng nhìn thức ăn thừa trên bàn, sợ lãng phí, liền cố ăn nốt, vậy là 8 lại lên 10 phần no.
5. Chọn thực phẩm chứa nhiều chất xơ và nhiều nước
Rau củ, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt và súp, có thể lấp đầy dạ dày của bạn bởi chúng chiếm nhiều không gian trong dạ dày của bạn hơn.
Tránh thực phẩm khô ít chất xơ, chẳng hạn như bánh mì hoặc bánh quy. Những thực phẩm này có xu hướng dù bạn ăn quá nhiều thì vẫn sẽ không cảm thấy no.
Thông qua việc giảm thiểu lượng ăn lâu dài, hệ thống tim mạch, gan, thận và miễn dịch của mọi người có thể thoát khỏi “khu sai lầm” và bước vào một vòng tuần hoàn mới và cuối cùng đạt được các mục tiêu về tuổi thọ, trì hoãn lão hóa và chống lại bệnh tật.
8 nguyên tắc vàng khi ăn
Hai bữa cách nhau từ 4-6 tiếng
Nắm bắt thời gian trong ăn uống là việc vô cùng quan trọng, hai bữa ăn cách nhau quá gần sẽ gây ảnh hưởng tới chức năng tiêu hóa của dạ dày vì nó còn chưa kịp tiêu hóa hết bữa trước. Thời gian lý tưởng nhất giữa các bữa ăn với nhau là từ 4-6 tiếng, đây vừa hay là khoảng thời gian mà dạ dày ngừng việc trộn tiêu hóa thức ăn.
Không ăn ngấu nghiến
Thông thường, nên ăn sáng trong vòng 15–20 phút, bữa trưa và bữa tối khoảng 30 phút là thích hợp.
Mỗi ngày cố gắng ăn 12 loại thức ăn trở lên
Đa dạng thực phẩm là nguyên tắc cơ bản của một chế độ ăn uống cân bằng. Bữa ăn hàng ngày nên bao gồm các loại thực phẩm như ngũ cốc, rau, trái cây, thịt gia cầm, cá, trứng, sữa, đậu nành… Trung bình, hãy cố gắng ăn nhiều hơn 12 loại thực phẩm mỗi ngày và hơn 25 loại thực phẩm mỗi tuần.
Uống nước súp cũng cần ăn thịt
Nhiều người nói, bao nhiêu dinh dưỡng đều ở trong nước ngót thịt, thực ra thì dù là nước ngót gà, nước ngót lợn, nước hầm bò, hay canh cá thì hàm lượng dinh dưỡng cũng kém xa so với ở trong thịt, muốn dinh dưỡng cân bằng, uống canh cũng đừng quên ăn thịt.
Thay đổi thức ăn thường xuyên
Trong khi lựa chọn thực phẩm, có thể thay đổi các loại thức ăn cùng loại.
Ví dụ, nếu hôm nay bạn ăn cơm, thì ngày mai bạn có thể ăn cháo, ăn bún, ăn phở, ăn bánh mì…
Hay thịt lợn, thịt gà, vịt, thịt bò… có thể được hoán đổi cho nhau, cá, tôm, cua, … có thể thay đổi cho nhau, sữa, sữa chua, phô mai,.. có thể thay thế cho nhau để đảm bảo sự đa dạng và phong phú.
Đừng ăn cơm khi quá nóng
Nhiệt độ ăn thích hợp của thực quản là 10 ° C ~ 40 ° C, khả năng chịu đựng nhiệt độ cao không quá 60 ° C. Một khi nhiệt độ thực phẩm vượt quá 65 ° C, nó sẽ đủ để đốt cháy niêm mạc thực quản. Theo thời gian, sẽ gây ra tổn thương thực quản. Vì vậy, nên để thức ăn nóng, nước đun sôi và các thực phẩm khác nguội trong vài phút và ăn khi nhiệt độ xuống dưới 60 ° C.
Ăn ít món ngọt sau bữa ăn
Nhiều người đã quen ăn tráng miệng sau bữa ăn, nhưng món tráng miệng chứa nhiều ngọt, sẽ làm tăng năng lượng, dễ dẫn đến béo phì và không có lợi cho sức khỏe của chính họ.
Nghỉ ngơi nửa tiếng sau bữa ăn
Nhiều người thích đi dạo hoặc tập thể dục ngay sau bữa ăn. Thực tế, có nhiều việc không phù hợp để thực hiện ngay sau khi ăn, bao gồm hút thuốc, tắm rửa, tập thể dục, uống trà đặc và lái xe.
Trong vòng nửa giờ sau bữa ăn, hãy nghỉ ngơi. Chúng ta có thể thực hiện một số bài tập quy mô nhỏ, chẳng hạn như lau bàn và quét nhà.
Ngạn ngữ truyền thống Trung Quốc nói “ăn no bảy phần, sống khỏe tới già” và “muốn khỏe mạnh, ba phần đói và lạnh”. Các nhà khoa học đã dành hàng thập kỷ để chứng minh một điều rằng: giảm lượng ăn đi 1/3, bạn sẽ sống thêm được 20 năm. Đạo lý đơn giản, hiệu quả không ngờ!
Mười năm trước, “xã hội dân sự” còn là một khái niệm hết sức xa lạ và nhạy cảm. Mười năm đủ để bình thường hóa và đưa khái niệm này vào cuộc sống hàng ngày.
“Xã hội dân sự” xa lạ và nhạy cảm bởi hầu hết người Việt Nam đang sống ngày nay đều không có cơ hội được học và được trải nghiệm một xã hội bình thường với ba thành tố chính: chính quyền, thị trường và xã hội dân sự. Từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên cả nước, đảng Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách kiểm soát xã hội một cách toàn diện và không cho phép thị trường lẫn xã hội dân sự tồn tại. Cuộc cải cách kinh tế mang tên “Đổi Mới”, bắt đầu từ năm 1986, đã bình thường hóa khái niệm “thị trường”, nhưng “xã hội dân sự” thì phải chờ đến cuối những năm 2000 mới bắt đầu được nói đến. Các tổ chức phi chính phủ (NGO) dần đóng vai trò chính trị lớn hơn trong đời sống xã hội, tuy vậy, gần như chỉ mang tính chất phụ họa và tư vấn cho chính quyền nhiều hơn là gây được sức ép.
Bước ngoặt đến vào năm 2011, sau sự kiện tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của PetroVietnam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 26/5. Một làn sóng phẫn nộ lan khắp Internet, cả blog lẫn mạng xã hội Facebook. Nhật Ký Yêu Nước (một trang facebook thành lập ngày 12/4/2010, chính thức hoạt động ngày 16/4/2010) phát lời kêu gọi biểu tình phản đối Trung Quốc.
Và ngày Chủ nhật, 5/6/2011, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã nổ ra cả ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, thu hút hàng nghìn người tham dự. Phong trào biểu tình này sau cùng kéo dài tới 11 tuần lễ, kết thúc vào ngày 21/8. Đây không phải là phong trào biểu tình đầu tiên ở Việt Nam kể từ sau năm 1975, nhưng nó là một bước ngoặt lịch sử: Lần đầu tiên có một phong trào xã hội chấp nhận những rủi ro cao nhất để công khai thách thức sự kiểm soát của chính quyền đối với các sinh hoạt chính trị của người dân, vốn trước đó bị coi là cấm kỵ.
Phong trào biểu tình năm 2011 tạo đà cho sự ra đời của hàng loạt hội, nhóm độc lập, công khai đấu tranh đòi các quyền chính trị “nhạy cảm” như tự do ngôn luận, lập hội, tụ tập ôn hòa, bầu cử công bằng, v.v. Kể từ đây, các thiết chế phi chính phủ không còn thuần túy đóng vai phụ họa và tư vấn cho chính quyền nữa, mà trực tiếp huy động quần chúng gây sức ép buộc chính quyền phải thay đổi thái độ, hành vi và thể chế.
Không ai hiểu điều này hơn đảng Cộng sản, bởi họ đã thành công bằng chính phương pháp này trong suốt lịch sử đấu tranh của mình.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: kenhthoitiet.vn.
Thập niên qua đã xác lập một thực tế không thể phủ nhận: Môi trường không còn được coi là vấn đề thuần túy kỹ thuật nữa, nó đã biến thành (hoặc được thừa nhận là) một vấn đề chính trị hệ trọng.
Khi “đại dự án” khai thác bauxite ở Tây Nguyên được thông qua năm 2009, đã có hàng nghìn người Việt trong và ngoài nước lên tiếng phản đối, chỉ ra các tác hại của dự án trên nhiều mặt: quốc phòng, môi trường, kinh tế, văn hóa bản địa… Ô nhiễm môi trường chỉ là một trong các nguyên nhân – dường như không mấy ai khi ấy hình dung được rằng chỉ nửa thập niên sau, đó sẽ là một trong các vấn đề đau đầu nhất ở Việt Nam đương đại.
Mùa xuân 2015, chính quyền Hà Nội tiến hành “cải tạo và thay thế cây xanh” bằng cách chặt hạ 2.000 cây gỗ, cây lâu năm trên toàn thành phố. Đó cũng là năm mà mùa hè nắng nóng kỷ lục làm ít nhất một người dân chết vì cảm nắng ngay giữa vườn hoa thủ đô, và tới tháng Sáu, mưa bão làm cây đổ, giết chết thêm vài người. Nhiều cây bị bật gốc, cho thấy bộ rễ còn nằm nguyên trong bọc ni-lông buộc dây nhựa.
Năm 2016, cá chết hàng loạt nổi lên ven bờ ở một loạt tỉnh miền Trung: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng… Được ghi nhận từ ngày 3/4/2016, số cá chết phải lên đến hàng nghìn tấn, cả cá biển lẫn cá nuôi trong bè ở các nhà dân địa phương. Tháng Tư chính thức đánh dấu sự bắt đầu của một trong những thảm họa môi trường biển lớn nhất từ trước tới nay trong lịch sử Việt Nam. Không ai có thể biết chính xác tất cả các nguyên nhân dẫn tới thảm họa này, chỉ mơ hồ hiểu rằng nghi phạm chính là tập đoàn thép Formosa của Đài Loan, đối tượng bị cáo buộc xả chất thải độc hại vào thẳng đại dương.
Cách chính quyền đối phó với thảm họa và giải quyết hậu quả không hứa hẹn điều gì tốt đẹp, vì chỉ xoay quanh: (1) các cuộc họp kín và thông báo ra công luận sau đó rằng “biển đã tự làm sạch”, “đã an toàn”, ngư dân có thể yên tâm bám biển; (2) trấn áp các ý kiến chống đối, đặc biệt là đàn áp biểu tình và bỏ tù nhà hoạt động.
Bên cạnh nguyên nhân biến đổi khí hậu, nguyên nhân cực kỳ quan trọng (và nghiêm trọng) dẫn tới suy thoái môi trường là những đại dự án, những chủ trương lớn của đảng và nhà nước, trải dài suốt từ bauxite Tây Nguyên (2009) đến thủy điện, nhiệt điện và điện hạt nhân, lấn biển xây khu đô thị… Theo các dự báo khác nhau, đồng bằng sông Cửu Long có thể biến mất do chìm dưới biển trong vòng 30-50 năm tới. Cũng theo một báo cáo quốc tế, riêng trong năm 2017, có hơn 71.300 người chết ở Việt Nam do các nguyên nhân liên quan đến ô nhiễm môi trường; trong đó, số tử vong vì ô nhiễm không khí lên tới 50.232 người.
Năm 2019, hạn hán, cháy rừng xảy ra trên diện rộng. Bụi mịn trở thành nỗi ám ảnh của người dân ở các thành phố lớn. Chất lượng không khí ở Việt Nam đã lập kỷ lục thế giới về ô nhiễm, độc hại. Chính quyền vẫn vậy: vụng về trong ứng phó khẩn cấp, tùy tiện và luộm thuộm trong xử lý dài hạn, nhưng rất khẩn trương, mạnh mẽ, triệt để trong đàn áp tiếng nói phê phán, nhất là những trường hợp “có tổ chức”.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: RFA.
Đất đai luôn nằm ở trung tâm của mọi nghị trình chính trị và kinh tế Việt Nam. Xưa, sở hữu toàn dân về đất đai là viên ngọc đính trên chiếc vương miện ý thức hệ xã hội chủ nghĩa mà các nhà lãnh đạo của đảng đội vào. Nay, khi lý tưởng ý thức hệ đã sụp đổ, nó trở thành bổng lộc chính mà đảng phân phối cho các tín đồ của mình để đổi lấy lòng trung thành với chế độ. Chuyện cưỡng chế đất đai, do đó, không có gì mới. Cái mới của thập kỷ qua là bức tranh đất cát được phơi bày ở một quy mô lớn chưa từng thấy, nhờ một công cụ mới: mạng xã hội.
Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa. Cùng với đó là nhiều tên người, là những nạn nhân của bạo lực, gồm cả giết chóc, đánh đập lẫn tù tội, từ chính quyền: Đặng Ngọc Viết (nổ súng bắn chết cán bộ rồi tự sát), Đặng Văn Hiến (tử tù), Cấn Thị Thêu (hai lần đi tù), Nguyễn Mai Trung Tuấn (trẻ vị thành niên, bản thân và cả nhà đi tù), Vũ Thị Hải, Trần Ngọc Anh (bị bỏ tù và bị hành hung nhiều lần), Lê Thị Trâm (bị máy xúc đè, chấn thương sọ não nhưng thoát chết nhờ ruộng lún), v.v.
Tai vạ cho dân bắt đầu từ khi các tập đoàn “đỏ” xuất hiện, bắt tay với nhà nước thâu tóm đất đai nhân danh các dự án “phát triển kinh tế”. Dân chỉ nhận được mức bồi thường rẻ mạt, nếu có. Trong khi đó, một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của các quyền liên quan đến đất đai, theo luật quốc tế, là: đất đai chỉ được chuyển giao với sự đồng ý của người dân; sự đồng ý đó phải là đồng ý từ trước, tự nguyện, và trên cơ sở được thông tin đầy đủ. Nguyên tắc ấy đương nhiên bị vi phạm hoàn toàn trong thực tế ở Việt Nam.
Tất cả những điều này được các nhà lý luận của chế độ “tổng kết” đơn giản, đại loại thành: đất nước đang trên đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tạo áp lực lớn về sự phát triển, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, dẫn đến mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân diễn biến phức tạp, có mặt còn diễn ra gay gắt. Cách đối phó là “làm tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở”, đồng thời “chủ động đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu nại, tố cáo để tuyên truyền, kích động, lôi kéo quần chúng tham gia tập trung đông người, gây rối an ninh, trật tự…”.
Không có dấu hiệu gì cho thấy vấn đề đất đai sẽ bớt nhức nhối ở Việt Nam trong thập niên tới, chừng nào một đảng chính trị vẫn có độc quyền lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, quyết định giá đất, và có quyền dí súng vào đầu chủ đất bắt phải nhận tiền đền bù.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Reddit/Chưa rõ nguồn.
Ngày 20/8/2012, ông Nguyễn Đức Kiên – sáng lập viên Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), tên thường gọi là “bầu Kiên” – bị bắt giam. Sự việc được báo trước trên một trang blog có tên “Quan Làm Báo”, kéo theo một chiến dịch thông tin rầm rộ tiếp sau đó trên blog này, mang đầy màu sắc “thuyết âm mưu”. Có lẽ rất ít người hiểu được vụ án bầu Kiên, vì nó liên quan đến nhiều khái niệm kinh tế-tài chính-ngân hàng còn quá mới và phức tạp đối với dân chúng Việt Nam, nhưng quan trọng hơn cả, là vì về bản chất, nó là “chuyện cung đình”, chuyện của một thế giới mà dân thường không được phép đặt chân vào và không thể hiểu. Thế giới ấy là của riêng các tập đoàn “tư bản đỏ” và nhà nước.
Tuy không hiểu về từng vụ án, nhưng dần dần, người dân Việt Nam, nếu tỉnh táo quan sát, cũng nhận ra rằng các tập đoàn, công ty lớn đang nổi lên, trở thành những thế lực hùng mạnh có đủ khả năng lũng đoạn cả nền kinh tế lẫn chính trị Việt Nam. Bề nổi của tảng băng khổng lồ này là vụ án tập đoàn AVG, mà cựu chủ tịch là doanh nhân Phạm Nhật Vũ, đẩy hai cựu bộ trưởng vào tù, một trong hai người đó đã khai phạm tội theo “tinh thần chỉ đạo” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Dường như những “ông lớn” này muốn gì, đảng và nhà nước phải chiều nấy, từ đất đai đến tín dụng, đến việc gần như thành lập các “khu tự trị” bất khả xâm phạm. Nhưng cái quan trọng hơn cả mà họ nhận từ đảng và nhà nước chính là… bộ máy thể chế. Nói cách khác, những nhà tư bản đỏ đã sử dụng chính guồng máy chính sách làm công cụ phục vụ cho mình. Họ thường được gọi bằng cái tên chung chung là “nhóm lợi ích”.
Dĩ nhiên, họ cũng thao túng truyền thông – cả báo chí chính thống lẫn mạng xã hội – để bịt tất cả những thông tin bất lợi. Chẳng hạn, người dùng facebook Việt Nam lâu nay vẫn tự hiểu rằng: động đến chính quyền nhiều khi không sao, chứ động đến các tập đoàn lớn là có nguy cơ bị bịt miệng ngay lập tức, bởi đội ngũ “dư luận viên” của họ đông tới hàng ngàn, sẵn sàng “báo cáo vi phạm” (report abuse) tập thể để Facebook gỡ bài, hình ảnh, thậm chí đánh sập luôn trang facebook đăng tin hại đến uy tín của họ. Nặng hơn nữa, người đưa tin có thể bị công an bắt – đây là chuyện đã từng xảy ra không chỉ một lần.
Truyền thông chính thống dường như không có bất kỳ bản tin bất lợi nào cho các tập đoàn lớn như Vingroup, Sungroup, hay FLC, mặc dù mạng xã hội luôn có nhiều tin đồn và nghi vấn về các vụ tai nạn, hỏa hoạn hay các vụ thâu tóm đất đai của các tập đoàn này. Ấn tượng của xã hội về các tập đoàn này như là những thành trì bất khả xâm phạm là rất rõ ràng, nhưng gần như không thể có bằng chứng chứng minh. Báo chí quốc doanh tê liệt, còn báo chí độc lập thì bất lực, không điều tra nổi.
Nền chính trị Việt Nam đã chính thức bước vào chế độ tài phiệt (plutocracy). Đây là điều rất đáng lo ngại, bởi chống một nhà nước độc tài đã khó khăn, chống một nhà nước độc tài kết hợp chặt chẽ với tài phiệt còn khó khăn, nguy hiểm gấp bội.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Thanh Niên.
Các cuộc cạnh tranh quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam không phải là hiện tượng mới. Cái mới của thập kỷ qua là cuộc cạnh tranh này đã mang một hình hài khác. Nếu như trước đây, nội bộ đảng chỉ dàn xếp về mặt chính trị với nhau, thì nay, xu hướng xử lý về mặt pháp lý ngày càng gia tăng. Trước đây, nội chiến giữa các quan chức có căng lắm cũng chỉ có kết quả là một phe bị cho thôi chức vụ, hạ cánh an toàn (dĩ nhiên, chúng tôi hiểu bạn còn đang nghĩ đến chuyện thủ tiêu). Nhưng trong 10 năm qua, án tù, thậm chí là án tử hình được mang ra để xử lý những bất đồng nội bộ ở cấp cao nhất: Bộ Chính trị.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật trung tâm của chính trị Việt Nam thập kỷ qua, đã phơi bày một phần cuộc đấu đá quyền lực trong đảng ra trước mặt báo và pháp đình, thông qua chiến dịch chống tham nhũng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đảng. Chiến dịch này đã làm thay đổi hẳn cách nhìn về quan chức nhà nước và cơ quan nhà nước trong công chúng nước ta. Trước đây, người ta coi làm quan, làm nhà nước là một công việc ổn định, vừa màu mỡ vừa an toàn, “đến hẹn lại lên”. Nay, ấn tượng đó đã sụp đổ cùng với những Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, v.v.
Tuy vậy, bộ mặt mới của cuộc chiến nội bộ không làm bản chất của cuộc chiến thay đổi. Không có bất kỳ một cuộc cải cách thể chế nào được khởi xướng để chống tham nhũng một cách có hệ thống, chiến dịch chống tham nhũng sau cùng chỉ là bình mới của một thứ rượu cũ. Hai cái chết bí ẩn của Nguyễn Bá Thanh và Trần Đại Quang, cùng với vụ mất tích kỳ lạ của Đinh Thế Huynh, tiếp tục phủ bóng chính trường với nhiều màu sắc ma quái, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ trong công chúng về những phương pháp thanh trừng nội bộ cổ xưa. Pháp luật, suy cho cùng, vẫn chỉ là công cụ thanh trừng chứ không phải là nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Không có thứ công lý nào đạt được với một thứ pháp luật như vậy.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: AFP.
Nếu 10 năm đầu tiên của thế kỷ 20 có thể coi là thập kỷ WTO, khi chính trị Việt Nam xoay vần theo các vòng đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), rồi kể từ 2006 là ảnh hưởng của tổ chức này tới xã hội Việt Nam, thì thập kỷ tiếp theo mọi thứ lại xoay vần theo hai hiệp định thương mại đặc biệt quan trọng: TPP và EV-FTA.
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) có nguồn gốc từ một hiệp định thương mại giữa bốn nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore năm 2005. Đến cuối những năm 2000, Việt Nam chính thức tham gia các vòng đàm phán cùng với Mỹ, Nhật và nhiều nước khác ven bờ Thái Bình Dương. Khi chính quyền Barack Obama (Mỹ) quyết định xoay trục từ châu Âu và Trung Đông sang Đông Á thì TPP nằm ở trung tâm bàn cờ địa chính trị của Mỹ, mà một lý do lớn là cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc.
Suốt từ đó cho tới năm 2016, khi 12 nước chính thức ký kết hiệp định này, Việt Nam đã phải gật đầu với các yêu cầu thay đổi thể chế, mà đặc biệt nhất là công nhận quyền thành lập công đoàn độc lập của người lao động, cũng như phải đối mặt với các sức ép lớn về nhân quyền từ Mỹ và một số nước khác để đổi lấy những lợi ích về thương mại. Đến tháng 1/2017, Tổng thống Mỹ mới lên nắm quyền là Donald Trump rút Mỹ khỏi hiệp định này, các nước còn lại thay đổi nội dung hiệp định và biến nó thành CPTPP, với những ràng buộc lỏng lẻo hơn về thể chế.
Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EV-FTA) cũng chi phối chính trị Việt Nam gần như cả thập kỷ qua, bắt đầu từ năm 2012 và cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Mặc dù các cơ quan hành pháp của hai bên đã đàm phán và ký kết xong vào tháng 12/2015, tiến trình phê chuẩn hiệp định tại các cơ quan lập pháp lại diễn ra rất chậm chạp.
EV-FTA một mặt dỡ bỏ 99% các hàng rào thuế quan hai chiều, tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận thị trường rộng lớn của 28 nước Liên minh Châu Âu (EU), nhưng cũng ràng buộc Việt Nam vào hàng loạt vấn đề nhân quyền gai góc như công đoàn độc lập và bảo vệ môi trường. Kết quả là Việt Nam phải sửa đổi Bộ luật Lao động, ghi nhận quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động và cam kết sẽ phê chuẩn các hiệp định lõi của Tổ chức Lao động Quốc tế. Các nhóm nhân quyền cũng tranh thủ cơ hội này để vận động EU gây sức ép lên Việt Nam trong hàng loạt các vấn đề nhân quyền như án tử hình, xét xử công bằng, tự do biểu đạt, tự do Internet, v.v. Dự kiến, Nghị viện EU sẽ bỏ phiếu quyết định số phận của hiệp định này vào tháng 2/2020.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: TIME.
Là một nước không nhỏ về quy mô lãnh thổ và dân số, nhưng nhỏ về mọi thứ khác, số phận của Việt Nam không thể thoát ra khỏi cuộc chơi địa chính trị của các nước lớn. Trung Quốc và mối quan hệ Mỹ – Trung tiếp tục phủ bóng nền chính trị Việt Nam.
Suốt 10 năm qua, không một năm nào tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc không có chuyện. Ngày 25/8/2010, tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ông Nguyễn Phú Trọng – khi đó là Chủ tịch Quốc hội – đã nói là chưa cần báo cáo về tình hình Biển Đông vì “không có gì mới” so với một năm trước đó. Câu “không có gì mới” sau này được nhiều người đem ra chế giễu, cho rằng nó hàm ý là vẫn căng thẳng như thế.
Năm nào, người dân Việt Nam, nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn, cũng biểu tình phản đối Trung Quốc hoặc các chính sách có liên quan đến Trung Quốc. Gần như cuộc biểu tình nào cũng bị đàn áp, chưa tính những sách nhiễu “hậu biểu tình” mà lực lượng an ninh tiến hành đối với những gương mặt phản kháng.
Hậu quả là, sau nhiều lần bị đàn áp, dần dần dư luận Việt Nam có vẻ đã… quen với việc Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông, xâm phạm vào chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Nếu đó là sự thật thì chứng tỏ chiến lược “tằm ăn dâu” (phương Tây gọi là “salami slicing”, nghĩa là “cắt từng lát salami”) của Trung Quốc trên Biển Đông đã thành công: gây ảnh hưởng, lấn át, xâm phạm đối phương bằng từng hành động nhỏ, không đủ để gây chiến tranh, nhưng từng bước lấn chiếm, cho đến khi đối phương giật mình tỉnh ra thì đã muộn, chủ quyền đã mất hoàn toàn về tay Trung Quốc.
Hành xử của Bắc Kinh với Hà Nội thể hiện trong một loạt từ khóa: tằm ăn dâu, đàm phán song phương, gác tranh chấp cùng khai thác, giữ đại cục. Đáp lại, Hà Nội có “bốn không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. “Bốn không” này đã được nêu trong Sách trắng Quốc phòng 2019. Ngoài ra, còn một chiến thuật đã và vẫn đang được Hà Nội sử dụng vô cùng hiệu quả, nhưng không được nêu chính thức trong văn bản nào: đu dây.
“Đu dây” cũng là một cách ngoại giao khéo léo để “không liên kết với nước này để chống nước kia”, không làm bên nào mất lòng. Điều đáng nói là Hà Nội không chỉ “đu dây” giữa hai siêu cường Trung Quốc và Mỹ, mà còn đu dây với… chính nhân dân mình. Sự đu dây này thể hiện qua nhiều điểm:
Báo chí chính thống lúc thì đồng loạt đưa tin rầm rộ về việc Trung Quốc gây hấn, xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam; lúc lại im lặng, nghìn tờ như một.
Các trang mạng xã hội (của ngành tuyên giáo và công an) một mặt hô hào yêu nước, một mặt kêu gọi “theo sát chủ trương, đường lối của nhà nước”, một mặt nữa, công kích, lăng mạ những người biểu tình;
Hàng loạt cuộc biểu tình bị đàn áp khốc liệt, nhưng lại cũng có vài cuộc diễn ra an toàn. (Thường thì lần biểu tình đầu có thể sẽ được “bật đèn xanh”, nhưng đến lần thứ hai thì cơ quan công quyền có thái độ khác hẳn, cứng rắn, thô bạo hơn).
Trong ngắn hạn, cái sự đu dây này có thể mang lại hiệu quả. Nhưng một nhà nước chính danh thì phát ngôn và hành động phải minh bạch, nhất quán, không được “bóng gió”, “gửi tín hiệu” này nọ đến dân chúng và nhất là, tuyệt đối không được lừa dân, không được phép dùng bạo lực với dân.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Getty Images.
Một số khuynh hướng, biến động chính trị-xã hội được nhắc tới ở trên, như vấn nạn cưỡng chế đất đai, tranh chấp chủ quyền biển đảo, và cuộc đấu đá nội bộ đảng Cộng sản, thật ra vốn là những gì vẫn liên tục xảy ra trong nền chính trị Việt Nam hơn nửa thế kỷ nay. Tuy nhiên, điều khác biệt là, trong quá khứ, tất cả những mâu thuẫn, xung đột, biến động và khuynh hướng đó diễn ra âm thầm như sóng ngầm, bởi vì thời ấy chưa có Internet và mạng xã hội.
Hai sự kiện – Việt Nam nối mạng toàn cầu (Internet) vào cuối năm 1997, và mạng xã hội Yahoo! 360 ra đời vào giữa 2005 – đã thật sự tạo nên những bước ngoặt lịch sử. Dù vậy, xét về tính tương tác và khả năng kết nối, Yahoo! 360 không thể bằng Facebook. Và toàn bộ Việt Nam, trên mọi mặt kinh tế-văn hóa-xã hội-truyền thông, cả thể chế chính trị lẫn cuộc đấu tranh dân chủ để thay đổi thể chế ấy, đều đã biến đổi hoàn toàn từ khi Facebook lên ngôi vào đầu thập niên vừa qua.
Kể từ khi có mạng xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử, người Việt có thể viết ra những suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm của mình, và phổ biến cho nhiều người khác (đại chúng) đọc, mà không phải thông qua một tờ báo hay một nhà xuất bản nào, không bị ai kiểm duyệt. Lần đầu tiên, người Việt có thể tự chụp hình, tự làm phim, tự viết nhạc, tự biểu diễn, và phổ biến đến đại chúng, nhận tương tác, phản hồi ngay lập tức. Lần đầu tiên, người Việt có thể tự mình lập ra một trang báo, một nhà xuất bản, một kênh truyền hình/phát thanh. Lần đầu tiên, người Việt có thể mở diễn đàn, tổ chức thảo luận, tranh luận, thậm chí cãi vã nhau, mà không nhất thiết phải gặp mặt nhau. Lần đầu tiên, người Việt có thể kêu gọi tụ tập, tuần hành, biểu tình không xin phép nhà nước.
Về phía nhà nước, lần đầu tiên, họ phải đối phó với tình trạng thông tin về các sai phạm, tiêu cực của quan chức, cán bộ bị phơi lên mạng. Dân trở nên bạo dạn hơn và khôn ngoan hơn, không dễ bắt nạt, hà hiếp họ như thời chưa có mạng xã hội.
Hơn thế nữa, mạng xã hội lại còn có nhiều thông tin đa dạng hơn, nhanh chóng hơn và rất nhiều khi là thông tin “độc” hơn, tồn tại song song và cạnh tranh với các cơ quan báo đài chính thống.
Những người dân yếu thế cảm thấy được bảo vệ hơn, nếu họ biết cách tận dụng mạng xã hội. Và lực lượng đối lập, những người bất đồng chính kiến, người hoạt động dân chủ-nhân quyền, không còn là các nạn nhân bị chính quyền đàn áp trong câm lặng nữa. Họ đã có một công cụ, một diễn đàn hiệu quả để thể hiện mình trước công luận, công khai thu hút quần chúng trong cuộc chiến không cân sức với đảng cầm quyền.
Tóm lại, nhờ mạng xã hội, người dân Việt Nam lần đầu tiên được “mở miệng” và phần nào có được tiếng nói, ảnh hưởng trong tiến trình chính sách (dù vẫn còn vô cùng hạn chế).
Mạng xã hội, nhất là Facebook, đã trở thành “mặt trận truyền thông”, là nơi đảng Cộng sản và các xu hướng chính trị đối lập cạnh tranh để gia tăng ảnh hưởng, thu hút quần chúng. Cuộc chiến chống độc tài đã được dịch chuyển lên không gian mạng, nơi ấy người ta sinh sống, làm việc, mua bán, hưởng thụ, học tập, yêu thương nâng đỡ nhau hay căm ghét tiêu diệt nhau.
Không chỉ là mặt trận, mạng xã hội đã thực trở thành cuộc sống của người Việt Nam.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Reuters.
Bất chấp mọi báo cáo đẹp đẽ về sự phát triển của Việt Nam, dòng người đào thoát khỏi quê hương chưa bao giờ dừng lại, mà còn ngày một lớn hơn, ồ ạt hơn.
Có hai thứ đo được phẩm chất của một quốc gia: số nước miễn visa cho công dân nước mình và số người rời bỏ nước đó ra đi. Số nước miễn visa cho thấy người Việt Nam được thế giới tôn trọng và chào đón cỡ nào, còn số người bỏ nước ra đi cho thấy Việt Nam đáng sống ra sao.
Tiếc rằng, cho đến nay, trong thời đại toàn cầu hóa, công dân Việt Nam chỉ có thể tới thăm 51 trên tổng số hơn 200 nước mà không cần xin visa, trong đó hầu hết là các nước đang và kém phát triển. Còn số người rời Việt Nam ra đi nhiều đến mức người ta chỉ có thể cảm nhận, chứ không thể có con số, bởi không ai đếm được những người ra đi theo những con đường bất hợp pháp.
Sự kiện chấn động 39 người Việt Nam chết trong một chiếc container khi đang tìm cách nhập cư lậu vào Anh năm 2019 chỉ là phần nổi của một dòng chảy lớn suốt thập kỷ qua. Những tưởng nạn thuyền nhân vượt biển ra đi đã chấm dứt hơn 20 năm trước, nhưng vẫn có những đoàn thuyền đưa người Việt Nam vượt biên tới Úc, tới Đài Loan và không ai biết còn tới những nơi nào khác nữa.
Rời bỏ quê hương bằng đường máy bay đi xuất khẩu lao động, đi lấy chồng nước ngoài, đi đầu tư, đi du học vẫn là xu hướng ngày càng lớn. Các làng quê Việt Nam, đặc biệt là ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ ngày càng vắng bóng người trẻ hơn.
Khi những đứa con của một quốc gia lũ lượt rời bỏ nó, là lúc quốc gia đó phải bắt đầu suy nghĩ về sự tồn vong và tưởng tượng lại về tương lai của mình.
***
Bình minh vẫn sẽ đến trên mọi miền Việt Nam vào sáng ngày 1/1/2020, nhưng mặt trời thì không phải nơi nào cũng thấy.
Thời điểm Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 – Gang thép Thái Nguyên nợ nần chồng chất thì ông Trần Văn Khâm – Chủ tịch HĐQT, kiêm tổng grám đốc xây căn biệt thự được cho là to đẹp nhất vùng ở TP Thái Nguyên.
Lo ngại nào khi Trung Quốc mua và thuê nhiều đất khu vực biên giới Tây Nam?
RFA 2019-12-27
Sân bay quốc tế Dara Sakor dài nhất ở Campuchia do Trung Quốc xây dựng ở giữa rừng.
Courtesy: Ảnh chụp màn hình nytimes.com
Lo ngại nào khi Trung Quốc mua và thuê nhiều đất khu vực biên giới Tây Nam?
00:00/08:59
Mua và thuê nhiều đất để làm gì?
Tại Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), diễn ra vào ngày 26/12, Thiếu tướng Đặng Văn Hùng, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 7 được Báo Thanh Niên Online trong cùng ngày dẫn lời cho biết có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê diện tích lớn đất trên tuyến biên giới Tây Nam giữa Việt Nam và Campuchia; tuy nhiên lý do vì sao doanh nghiệp Trung Quốc chọn mua hoặc thuê đất trên tuyến biên giới Tây Nam lại không được báo giới đề cập tới.
Đài RFA ghi nhận trước thông tin vừa nêu, không ít người dân trong nước bày tỏ sự lo ngại rằng chiến lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc ngày càng lấn sâu vào Việt Nam không chỉ ở khu vực Biển Đông mà còn trong cả đất liền từ Bắc đến Nam.
Cựu Đại úy Võ Minh Đức, thuộc Quân đội Nhân dân đã giải ngũ, lên tiếng với RFA về quan điểm của ông:
“Nói về so sánh trên biển, về mặt quân sự, thì Việt Nam vẫn có những điều kiện thuận lợi hơn. Tôi nói về Trường Sa, quần đảo nằm ở phía dưới. Ví dụ tôi so sánh một cách đơn giản cho dễ hiểu là từ đất liền của Trung Quốc ra đến đảo Trường Sa của Việt Nam rất xa hoặc từ Đà Nẵng hay từ Bà Rịa-Vũng Tàu hoặc một số tỉnh dọc biển đi ra Trường Sa lại rất gần. Thế còn trên đất liền thì thật sự họ nắm giữ được các dải đất mà giáp ranh với Việt Nam thì họ quá thuận lợi và trong điều kiện mà Chính phủ hay những người cầm quyền ở Campuchia ủng hộ họ hay đồng ý cho họ làm như thế thì đúng là Việt Nam mình bất lợi rất nhiều thứ.”
Người Trung Quốc rõ ràng là họ nhìn rất xa, có thể bây giờ họ đã làm các căn cứ quân sự của họ ở Campuchia, nhưng phía Campuchia chối là không có. Vừa rồi họ có làm một đường băng rất rộng và dài gần 4000 mét ở trong rừng. Phía Campuchia nói là làm sân bay quốc tế cho Campuchia nhưng không rõ dùng vào việc gì bởi do tại sao lại làm ở giữa rừng mà không ở gần PhnomPenh hay gần các cảng biển. Tiếp theo nữa là hai cảng lớn gồm Shihanouk Ville và Koh Kong của Campuchia thì bây giờ giao cho người Trung Quốc, mà cảng ấy cách Việt Nam khoảng gần 300 cây số đường bộ, còn đường chim bay thì gần hơn rất nhiều, có nghĩa là chạy xe khoảng 3 tiếng đồng hồ là tới Tây Ninh và tầm 4 tiếng là vào tới Sài Gòn. Đương nhiên là Quân khu 7, Quân khu 9 đã để ý lâu rồi và người ta nói ra như thế để gây sự chú ý cho chính quyền, chứ người dân cũng đã biết về việc này
-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp
Để tìm câu trả lời liên quan thắc mắc của dư luận trong nước rằng các doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê đất với diện tích lớn trên tuyến biên giới Tây Nam để làm gì, Đài RFA, vào tối ngày 27/12 nêu vấn đề với Tiến sĩ Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu độc lập làm việc tại Singapore, và được ông cho biết thông tin Thiếu tướng Đặng Văn Hùng cho biết tại Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh TP.HCM không có gì mới mẻ và việc doanh nghiệp hay người Trung Quốc thuê đất dài hạn lên đến 50 năm dọc theo biên giới Tây Nam của Việt Nam đã diễn ra cách nay xấp xỉ dưới 1 thập niên và vẫn đang tiếp diễn. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp tiếp lời về ghi nhận của ông:
“Một là thuê đất rộng nhất để làm những trại điện mặt trời, bình thường rộng đến khỏang 100 hay 150 héc-ta. Phổ biến là những người quốc tịch Trung Quốc, các doanh nghiệp Trung Quốc vào mua các trại điện của người Việt Nam đã làm rồi dọc theo biên giới, đặc biệt ở vùng Tây Ninh và An Giang. Thế còn mua nhỏ hơn, một vài héc-ta thì để làm nhà xưởng, nhà máy chế biến thực phẩm hoặc là chế biến thức ăn gia súc và sản xuất…chứ không làm kinh doanh ở đấy.”
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp còn lưu ý, tình trạng tương tự diễn ra ở phía bên biên giới Campuchia mà ông gọi là “nhộn nhịp và sầm uất” nhiều lần hơn do giá đất ở Việt Nam đắt hơn so với ở Campuchia. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói rằng nhìn từ bên này biên giới của Việt Nam là có thể nhìn thấy các doanh nghiệp Trung Quốcmua và thuê hết tất cả đất của Campuchia dọc theo biên giới với Việt Nam để làm các nhà máy nhiệt điện, nhà máy điện mặt trời, trồng cây, trồng chuối…
Nhà nghiên cứu độc lập-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhấn mạnh:
“Người Trung Quốc rõ ràng là họ nhìn rất xa, có thể bây giờ họ đã làm các căn cứ quân sự của họ ở Campuchia, nhưng phía Campuchia chối là không có. Vừa rồi họ có làm một đường băng rất rộng và dài gần 4000 mét ở trong rừng. Phía Campuchia nói là làm sân bay quốc tế cho Campuchia nhưng không rõ dùng vào việc gì bởi do tại sao lại làm ở giữa rừng mà không ở gần PhnomPenh hay gần các cảng biển. Tiếp theo nữa là hai cảng lớn gồm Shihanouk Ville và Koh Kong của Campuchia thì bây giờ giao cho người Trung Quốc, mà cảng ấy cách Việt Nam khoảng gần 300 cây số đường bộ, còn đường chim bay thì gần hơn rất nhiều, có nghĩa là chạy xe khoảng 3 tiếng đồng hồ là tới Tây Ninh và tầm 4 tiếng là vào tới Sài Gòn. Đương nhiên là Quân khu 7, Quân khu 9 đã để ý lâu rồi và người ta nói ra như thế để gây sự chú ý cho chính quyền, chứ người dân cũng đã biết về việc này.”
Quang cảnh Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra vào ngày 26/12/19. Courtesy: Ảnh chụp màn hình vn.sputniknews.com
Quan ngại về an ninh quốc phòng
Vào ngày 22/12, tờ The New York Times đăng tải một bài xã luận của tác giả Hannah Beech có nhan đề tạm dịch là “Một phi đạo giữa rừng gây nghi ngờ về các kế hoạch của Trung Quốc ở Campuchia”.
Sân bay quốc tế Dara Sakor dài nhất ở Campuchia do Trung Quốc xây dựng ở giữa rừng, mà Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp vừa nói đến, được tác giả Hannah Beech dẫn lời của chuyên gia Sophal Ear, một nhà khoa học chính trị thuộc Đại học Occidental ở Los Angeles nhận định rằng “Phi đạo này sẽ là bàn đạp cho Không quân Trung Quốc triển khai sức mạnh ra toàn khu vực và thay đổi toàn bộ cuộc chơi”.
Trong một cuộc hội luận với RFA vào hạ tuần tháng 12, nhà báo Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải cũng nêu lên ghi nhận của ông rằng:
“Việc triển khai những căn cứ quân sự và những dự án lớn thuê của Campuchia ở ngã ba biên giới Thái Lan-Campuchia hay sử dụng một phần quân cảng Ream cho thấy việc quân sự hóa ở khu vực Vịnh Thái Lan cũng như phía bên kia Ấn Độ Dương, hai bên của bờ kênh đào Kra chứng tỏ là Trung Quốc sẽ có xu hướng mở một đường đi qua kênh Kra. Và nếu như Trung Quốc mở ra con đường đi qua kênh Kra thì sẽ gây ra những xung đột ngay trong khối ASEAN.”
Qua trao đổi với một số người dân trong nước, Đài RFA được nghe họ nhắc lại vấn đề rất đang lo ngại bên trong lãnh thổ của Việt Nam, là các doanh nghiệp Trung Quốc luôn nhắm vào những dự án kinh tế, hay đặt nhà máy ở hầu hết các địa phương của Việt Nam, nhất là tập trung tại các khu kinh tế trọng điểm, các tỉnh ven biển, biên giới…Bên cạnh đó, sự kiện xung đột căng thẳng ở Bãi Tư Chính tại Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2019 được giới chuyên gia đánh giá có thể tiếp tục kéo dài trong thời gian tới và trong bối cảnh như thế tình hình an ninh, quốc phòng của Việt Nam rất bị rủi ro.
Cựu Đại úy quân đội Võ Minh Đức đưa ra tình huống giả định:
Trong trường hợp mà gọi là chiến tranh quân sự, ở góc độ hiểu biết của tôi, thì rõ ràng đây là bất lợi rất lớn về mặt quân sự, chống đỡ rất khó khăn. Dọc biên giới mà gọi là bắt đầu từ ngã 3 Đông Dương (giáp ranh giữa Việt Nam-Lào-Campuchia) ở tỉnh Kon Tum và chạy dài về biên giới phía Tây của Việt Nam xuống tới Kiên Giang, Hà Tiên gần cả ngàn cây số. Ví dụ như người Trung Quốc làm doanh nghiệp, kinh tế ở đó mà cho công nhân của họ đến ở mỗi tỉnh, mỗi vùng từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn thì tôi cho rằng nguy cơ về mặt quân sự là những công nhân đó sẽ trở thành lính và rất bất lợi cho Việt Nam
-Cựu Đại úy Võ Minh Đức
“Trong trường hợp mà gọi là chiến tranh quân sự, ở góc độ hiểu biết của tôi, thì rõ ràng đây là bất lợi rất lớn về mặt quân sự, chống đỡ rất khó khăn. Dọc biên giới mà gọi là bắt đầu từ ngã 3 Đông Dương (giáp ranh giữa Việt Nam-Lào-Campuchia) ở tỉnh Kon Tum và chạy dài về biên giới phía Tây của Việt Nam xuống tới Kiên Giang, Hà Tiên gần cả ngàn cây số. Ví dụ như người Trung Quốc làm doanh nghiệp, kinh tế ở đó mà cho công nhân của họ đến ở mỗi tỉnh, mỗi vùng từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn thì tôi cho rằng nguy cơ về mặt quân sự là những công nhân đó sẽ trở thành lính và rất bất lợi cho Việt Nam.”
Trong khi đó, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp có cái nhìn lạc quan hơn qua lập luận:
“Chiến lược quốc phòng của Việt Nam, theo cách nhìn từ bên ngoài vào và nhìn từ bên trong ra, là ‘chống thâm nhập’, nghĩa là phòng thủ. Họ bằng mọi cách bao gồm bằng vũ khí, bằng chính trị, bằng truyền thông, bằng chiến tranh tâm lý…trước hết là không thể để xảy ra chiến tranh; thứ hai nếu xảy ra chiến tranh hay đụng độ nhỏ do các bên không kiềm chế được thì không để lan tỏa ra và thứ ba trong trường hợp lan tỏa ra thì phía đối thủ là kẻ thù của Việt Nam không thể thâm nhập vào được tất cả các vùng của Việt Nam, không vào được biển, không lên được bờ, mà có vào được bờ thì cũng không vào được các điểm quan trọng như là thành phố hay khu vực nhà máy hoặc khu vực quân sự. Việt Nam phòng thủ chắc chắn lắm.”
Mặc dù vậy, nhà nghiên cứu độc lập từ Singapore, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng Chính phủ Việt Nam phải hết sức cẩn trọng trước “sức mạnh mềm” của Trung Quốc để thực hiện giấc mộng bá quyền Trung Hoa qua văn hóa, tiền bạc, kinh doanh…
Trở lại thông tin Thiếu tướng Đặng Văn Hùng cho biết doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê đất số lượng lớn trên tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam, được đăng tải trên Báo Thanh Niên Online hôm 26/12, Đài Á Châu Tự Do, vào ngày 27/12 ghi nhận thông tin này không còn xuất hiện trên Báo Thanh Niên Online nữa.
Câu nói hay của Thánh nữ Bernadette: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì có giải thích cũng vô ích”. Điều đáng lưu ý là các nữ tu hồi đó được an táng trong một hòm gỗ thông và không được ướp hương thơm như n…
Hỏi: Mắt tôi vẫn thấy rõ, tại sao phải đi khám mắt định kỳ?
Hàn Lâm Viện Nhãn Khoa khuyên bịnh nhân 40-65 tuổi nên đi khám mắt ở bác sĩ chuyên môn (ophthalmologist) từ 2 đến 4 năm một lần dù không có bịnh. Trên 65 tuổi nên khám một lần mỗi năm là ít nhất, có thể thường hơn.
Lý do: Những thay đổi mắt ở người già xảy ra rất chậm, từ từ, làm bịnh nhân thích ứng với hoàn cảnh mà không để ý, không biết rằng mắt mình mờ hơn trước, hoặc thị trường (visual field) của mình bị thu hẹp lại, mình không còn thấy rõ những gì xảy ra ở ngoại biên tầm mắt mình, màu sắc các sự vật mình thấy không trung thực (ví dụ màu trắng mình tưởng là vàng), đêm tối lái xe, đèn phía trước chiếu vào mắt mình lóa không thấy rõ. Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ khám thấy những thay đổi đó và sẽ có những biện pháp thích hợp để chữa trị như cho đeo kính để điều chỉnh khúc xạ mắt (refraction correction), giải phẫu hay cho thuốc trị chứng cườm nước làm cao áp suất trong mắt, ngăn chặn những tổn thương có thể xảy tới cho mắt, giải phẩu lấy cườm và thay thế bằng thấu kính nhân tạo/artificial lens, giúp tránh tai nạn cho người lái xe.
*Hỏi: Tôi bị bịnh tiểu đường, mắt tôi không sao cả, tại sao bác sĩ bắt tôi đi khám mắt?
Bịnh tiểu đường (diabetes mellitus) không phải chỉ có triệu chứng đường được thải ra nước tiểu mà còn ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận trong cơ thể người bịnh. Mắt là bộ phận bị ảnh hưởng nặng do bịnh tiểu đường.
Bịnh võng mạc do tiểu đường (diabetic retinopathy), làm hư hại võng mạc (là màng phía sau tròng mắt, nơi nhận hình ảnh do ánh sáng từ ngoài mắt chiếu vào), là lý do hàng đầu gây ra bịnh mù ở người lớn.
Bịnh nhân cần được bác sĩ mắt nhỏ thuốc làm nở con ngươi và khám võng mạc kỹ lưỡng và chữa trị, theo dõi thường xuyên nếu bất bình thường. Ngoài ra, mổ cườm khô cho người tiểu đường dễ có biến chứng hơn ở người không tiểu đường.
Người bị tiểu đường cũng dễ bị cườm nước (glaucoma) hơn.
*Hỏi: Mắt tôi bị cườm khô (cataract), muốn mổ nhưng nhiều người bạn nói mổ xong vẫn thấy mờ, vẫn mang kính mà không rỏ. Vậy có cần mổ không?
Cataract, hoặc cườm khô, là trường hợp thấu kính (lens) của mắt bị vẩn đục, cản trở ánh sáng từ ngoài vào rọi trên đáy mắt (retina).
Muốn thị giác toàn hảo, ngoài việc thấu kính phải thông suốt, cần phải có một võng mạc (đáy mắt, retina) làm việc tốt (ví dụ không bị hư hoặc kém đi do đã bị thoái hóa vì tuổi già, hoặc hư vì bịnh tiểu đường như nói trên), và luôn những phần khác của hệ thần kinh phải nguyên vẹn. Cho nên, mổ mắt lấy cườm sẽ làm thị giác tốt hơn trước, thấy rõ hơn trước khi mổ, nhưng không nhất thiết là sẽ 20/20 (tối hảo) vì còn tùy thuộc các yếu tố khác của mắt và hệ thần kinh người bịnh.
Ngoài ra, nếu bị cườm khô (cataract), bác sĩ mắt không thể nhìn thấy rõ phần sau của mắt nên không theo dõi và chữa trị được những bịnh của võng mạc (retinopathy). Lấy cườm khô ra giúp cho công việc chăm sóc của mắt dễ dàng và tốt hơn.
*Hỏi: Thế tại sao mổ cườm khô rồi mà vẫn phải mang kính?
Ở người trẻ bình thường, không cần mang kính cũng thấy rõ vật ở thật xa (vô tận, infinity) cũng như vật ở gần (đọc sách chữ nhỏ). Sở dĩ được như vậy vì thấu kính (lens) trong mắt người trẻ có khả năng thích ứng (accommodation), thay đổi tính khúc xạ của nó (tựa như máy hình hiện đại có thể tự động zoom xa và gần).
Thấu kính nhân tạo (thế thấu kính bịnh đã đục) không có khả năng thích ứng theo nhu cầu nhìn xa nhìn gần này, nên phải lựa chọn giữa một loại thấu kính nhìn gần và một loại thấu kính nhìn xa. Thường thì khi mổ mắt cườm khô, một bên mắt thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn gần, mắt kia thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn xa để bịnh nhân có thể sinh hoạt bình thường mà không cần đeo kính. Tuy nhiên, những trường hợp như đọc sách chữ nhỏ, kéo dài, bịnh nhân cũng cần mang kính để mắt đỡ mệt và thấy rõ hơn.
Những tiến bộ trong vòng chừng mười năm nay của khoa giải phẫu chữa bịnh khúc xạ (refraction surgery) dùng laser để trị chứng cận thị, hay dùng thấu kính nhân tạo trong mắt (intraocular lens) để trị chứng viễn thị nặng giúp cho một số người cận thị (thấy gần mà không thấy xa) và viễn thị (thấy xa mà không thấy gần) khỏi cần mang kính nữa. Những tiến bộ này được áp dụng cho những người mổ mắt vì cườm khô cũng được hưởng những lợi ích đó, là thêm vào việc mắt họ sáng ra (vì hết bị đục), mắt họ còn được chữa các vấn đề khúc xạ (refraction errors), giúp cho họ khỏi nhờ cậy đến các kính dày cộm sau khi mổ, nhưng vẫn có thể cần mang kính một đôi khi.
*Hỏi: Mắt tôi hay bị “chèm nhem”, bác sĩ cho nhỏ thuốc là nước mắt nhân tạo, tôi nhỏ vài hôm thì khỏi, sau bây giờ vẫn bị lại như cũ?
Sở dĩ mắt chúng ta luôn luôn trong sáng vì nước mắt được tiết ra liên tục, giữ cho mắt ướt và có tác dụng ngăn chặn nhiễm trùng, đồng thời hệ thống ống dẫn thải nước mắt (tear duct) dư đi vào mũi ở phía dưới.
Người gìà, tuyến nước mắt làm việc kém đi, nhất là nếu mắc những bịnh làm giảm sút cơ năng hạch nước mắt, vì vậy mắt bị khô, nhất là lúc xem TV chăm chú, đọc sách lâu mà ít chớp mắt (“nhìn không chớp”). Do đó, mắt bị xốn, do phản xạ, nước mắt lại sản xuất tăng lên, chảy đi không kịp làm nhòa, nhòe mắt.
Dùng nước mắt nhân tạo có ích cho trường hợp này nhưng phải dùng thường xuyên, không phải bớt triệu chứng rồi ngưng.
Ngoài ra, nên nhớ chớp mắt thường xuyên lúc đọc sách, xem phim, mang kính mát hoặc tránh chỗ gió nhiều làm khô mắt nhanh hơn.
Một số trường hợp, bác sĩ chuyên khoa mắt có thể gắn một nút (plug) bằng plastic vào kênh dẫn nước mắt để giữ nước mắt lại cho mắt đở khô.
Một số người già mí mắt bật ra ngoài (ectropion) nên không giữ được nước mắt, phải chảy ra ngoài. Có thể giải phẫu nếu cần .
Phạm Tín An Ninh – Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu
Đỗ Trường (Danlambao) – Sau chiến tranh, tuy bị bức tử, nhưng Văn học miền Nam vẫn hồi sinh, phát triển, để bước sang một trang sử mới. Văn học Hải ngoại, một hình thức, hay tên gọi văn chương tị nạn, là sự nối dài của nền Văn học ấy. Và từ đó, ngoài các nhà văn tên tuổi, ta thấy, xuất hiện một loạt các cây viết mới. Họ xuất thân từ những người lính, tù nhân, thuyền nhân tị nạn, như: Cao Xuân Huy, Song Vũ, hay Phạm Tín An Ninh… Chiến tranh, con đường giải oan cho cuộc bể dâu ấy, là đề tài đã được các nhà văn đào sâu, tìm kiếm làm sáng tỏ một cách chân thực, sinh động. Và khi đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Phạm Tín An Ninh là một trong những nhà văn tiểu biểu nhất viết về đề tài này.
Nếu bút ký Phan Nhật Nam sắc nhọn, hừng hực khói lửa, thì vẫn nơi chiến trường ấy, ngòi bút, lời văn Phạm Tín An Ninh nhẹ nhàng, sâu lắng và trong sáng. Có thể nói, ngoài sự tài hoa, với bút pháp hiện thực, Phạm Tín An Ninh còn là một nhà văn đức độ, có sự cảm thông và tình yêu sâu sắc đối với tha nhân. Văn thơ Phạm Tín An Ninh như một luồng gió mới thổi vào hồn không chỉ những người lính đồng đội, bạn bè ông, mà còn cho cả những người lính một thời ở bên kia của chiến tuyến. Phải nói, ông là một trong những nhà văn mà tôi đã học được nhiều điều, khi đọc. Bút pháp, và tư tưởng ấy, Phạm Tín An Ninh đã gieo vào nhiều thế người hệ đọc, từ hải ngoại về đến quốc nội, dù cho đến nay, ông mới cho in ấn, phát hành 4 tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường, Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, Vẫn Còn Vương Tơ, và Sau Cuộc Bể Dâu. Bốn tập truyện ngắn, bút ký này, tôi đã đọc nhiều lần. Có thể nói, truyện nào của Phạm Tín An Ninh cũng sâu sắc, và cảm động. Kể cả truyện viết đầu tay. Một đặc điểm nổi bật nhất trong văn thơ Phạm Tín An Ninh ta có thể nhận thấy, không chỉ trong tư tưởng, bút pháp, mà lối hành văn, câu cú, chính tả cũng sáng, đẹp và chuẩn mực. Dường như, cho đến nay, không có nhiều nhà văn, trang sách hội đủ những đặc điểm này.
Nhà văn Phạm Tín An Ninh sinh năm 1943 tại Khánh Hòa. Thi đậu tú tài, ông nhập ngũ, khóa 18 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mười một năm lính chiến, để rồi sau tháng 4-1975, Phạm Tín An Ninh bị cải tạo, tù đày từ Nam ra đến Bắc. Năm 1984 ra tù, ông vượt biển, xin tị nạn ở Nauy. Hiện ông sống và viết văn tại Cali, Hoa Kỳ.
Chiến tranh với cái nhìn chân thực của người lính
Có thể nói, sau mười một năm cầm súng, và gần chục năm cải tạo tù đày, cùng những tháng ngày trốn chạy, tị nạn nơi đất khách, quê người, Phạm Tín An Ninh có đủ độ lùi thời gian để nhìn lại cuộc chiến đã qua, một cách sâu sắc và trung thực nhất. Và chỉ có cầm bút người lính Phạm Tín An Ninh mới có thể tìm lại linh hồn đồng đội và chính mình. Sự trả tính chất cuộc chiến về đúng vị trí, tên gọi của nó, như một món nợ đối với người lính, tù nhân, tị nạn còn sống sót vậy. Do đó, về mặt tâm lý, Phạm Tín An Ninh hoàn toàn không có sự chuẩn bị để trở thành nhà văn. Tuy nhiên, chính những điều không tưởng này, cho Phạm Tín An Ninh một tâm lý thoải mái, tự nhiên khi viết, và sáng tạo. Từ những đặc tính riêng biệt ấy, (hiển nhiên) làm nên tên tuổi nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Cũng như Song Vũ, nhà văn Phạm Tín An Ninh đi lên từ một sĩ quan trẻ chỉ huy cấp trung đội. Mười một năm dài đằng đẵng lăn lộn khắp các chiến trường miền Trung, Cao Nguyên và ông trở thành một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Những ngày tháng gian khổ, bi thương ấy, như nhát dao đâm nát hồn người. Bởi, hằng ngày, hằng giờ ông phải chứng kiến cái chết, không chỉ của những người lính (trẻ cùng một dòng máu) ở bên kia chiến tuyến, mà còn phải vuốt mắt cho đồng đội, người thân của mình. Nỗi ám ảnh ấy, thường trực đeo bám ông. Và chỉ khi ngồi đối diện với ngòi bút và trang sách, thì dường như gánh nặng tâm hồn ông mới trút bỏ. Do vậy, ta có thể thấy, tính hiện thực xuyên suốt những tác phẩm của Phạm Tín An Ninh.
Rời quân trường, Phạm Tín An Ninh ra đơn vị tác chiến, phải thế chỗ cho một trung đội trưởng vừa tử trận. Hiện thực ấy, tác động đến tâm lý, làm cho người sĩ quan trẻ không khỏi bùi ngùi giao động. Những Mùa Mưa Trong Ký Ức, tuy không phải là bút ký hay của Phạm Tín An Ninh, song đã nói lên phần nào cái không khí, cục diện mới của chiến tranh, cũng như tâm trạng chung của người lính lúc đó:
“Nghi thức ra mắt vừa xong, tất cả tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng đến Quân Y Viện Nguyễn Huệ để dự tang lễ của một ông thượng sĩ vừa qua đời do bị trọng thương trong cuộc hành quân tại Lâm Đồng tuần trước. Tôi bất ngờ và có cảm giác xốn xang khi biết ông thượng sĩ này là Trung đội trưởng Trung Đội 3/3 mà tôi là người đến thay thế ông…ngày đầu ra nhận đơn vị lại là ngày phải tiễn đưa người tiền nhiệm mà mình chưa hề biết mặt ra nghĩa trang, nên ít nhiều nghĩ tới phần số của mình trong nay mai và sớm bị ám ảnh bởi tiếng khóc than của người góa phụ”.
Nếu ta đã đọc bút ký, truyện ngắn nơi chiến trường của những: Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, hay Song Vũ… thì thấy được trước cái chết, sự hy sinh tình đồng chí, đồng đội, mới dừng lại ở sự miêu tả cái khoắc khoải, tàn khốc, đớn đau. Song đến Phạm Tín An Ninh đã có sự liên tưởng. Với phương thức liên tưởng này, cùng những ca khúc trữ tình, lãng mạn ấy, làm cho hình ảnh người lính dường như đi vào bất tử, và cái chết của họ nhẹ nhàng, dịu bớt nỗi đau trong lòng người đọc chăng?. Vẫn trích đoạn trong bút ký, Những Mùa Mưa Trong Ký Ức dưới đây, không chỉ chứng minh cho điều đó, mà còn cho ta thấy, nỗi đau và tình đồng đội của người lính:
“Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả nước mắt (cho người đồng đội thương binh không có chút hy vọng sống còn)… Khuya hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi, mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên người nhạc sĩ sáng tác bài Dư Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này, tôi lại nhớ đến anh…”
Có thể nói, Chuyện Người Lính Trinh Sát là một trong những truyện ký hay nhất của Phạm Tín An Ninh. Đọc nó, tôi cứ bị ám ảnh mãi, bởi câu kết: “Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được”. Dường như, đó là câu hỏi, một vấn đề buộc nhà văn, người lính Phạm Tín An Ninh phải đi tìm. Có lẽ, không một ai hiểu được tâm trạng của một người vợ có chồng theo Cộng sản, bị lính Việt Nam Cộng Hòa bắn chết, và người con trai duy nhất đi lính VNCH lại bị bộ đội giết?. Sự đau đớn ấy, không thể làm một phép tính so sánh, song cái giằng xé, đau đớn, âm thầm của bà nhân lên gấp bội, bởi không người xẻ chia, cảm thông. Thật vậy, thông qua bà, nhà văn Phạm Tín An Ninh đã cho ta thấy rõ, hình ảnh thu nhỏ của cuộc chiến hai mươi năm, anh em tương tàn này. Tuy nhiên, hơi bị tiếc, bởi tác giả dường như, chưa khai thác hết mâu thuẫn nội tâm của người vợ, người mẹ đau khổ này. Nếu tác giả khoét sâu vào khía cạnh này, tôi tin rằng, truyện hay lên gấp nhiều lần, và câu chuyện không dừng lại chỉ một người lính trinh sát can trường. Có thể, tác giả phải đặt lại tên “Chuyện Về Mẹ” thay cho truyện “Chuyện Người Lính Trinh Sát” không chừng.
Vâng! Và cuộc chiến hai mươi năm được đặt lên đôi vai gầy của mẹ. Có cái đau nào bằng nỗi đau nhìn chồng chết mà không dám nhận, không dám khóc, không dám vấn khăn tang? Và có những nỗi đau chồng lên nỗi đau, khi bà mẹ nhìn con trẻ chết tan xác, bởi hỏa tiễn đồng đội của chồng, khi nỗi đau mất chồng chưa kịp nguôi ngoai? Đọc xong Chuyện Người Lính Trinh Sát, tôi cứ phân vân tự hỏi: Nếu có ghi tên vào Trang sử của chiến tranh, người vợ, người mẹ này thuộc về những người lính chiến VNCH, hay là của những anh Bộ đội? Và có phải đó là nỗi đau chung, nỗi đau khó xóa nhòa?. Ta hãy đọc lại những lời thoại, với sự cảm thông, chia sẻ giữa người lính VNCH và người đàn bà trong: Chuyện Người Lính Trinh Sát dưới đây, để thấy rõ cái trớ trêu, cũng như bản chất của cuộc chiến, và nỗi đau tận cùng của con người, hay của cả một dân tộc này:
“Chờ cho người mẹ thắp hương và bớt xúc động, tôi hỏi nhỏ:
– Ở làng Long Giang, chị có biết bà Lê Thị Đúng, có người con chỉ huy du kích, bị chết cách nay khoảng tám năm?
Người mẹ ngạc nhiên nhìn tôi, thoáng dò xét rồi cúi xuống, nói thật nhỏ chỉ đủ tôi nghe:
– Bà là mẹ chồng tôi, và con tôi đây là đích tôn, cháu nội duy nhất của bà. Vừa nói chị vừa đưa tay chỉ vào nấm mồ mới toanh trước mặt.
Khi về lại đơn vị, tôi xin Ban Tài Chánh ứng trước nửa tháng lương. Trích ra một phần, bỏ vào bì thơ, tôi tìm đến đại đội trinh sát gặp và biếu cho bà mẹ của người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh. Bà thoáng một chút xúc động ngạc nhiên nhìn tôi, nói lời cám ơn…Chia tay bà, trên đường trở về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, tôi suy nghĩ mông lung. Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được.”
Tôi không nghĩ, ngòi bút của nhà văn Phạm Tín An Ninh đại diện chung cho người lính VNCH. Nhưng tư tưởng, sự cảm thông mang tính nhân văn có được trên những trang sách, bởi ông đã nhận ra bản chất của cuộc chiến này. Thật vậy, đọc Người Góa Phụ Giờ Thứ 25, ta có thể thấy, ngoài sự dũng cảm với những cái chết tang thương của người lính, cùng sự cảm thông, kính phục, nhà văn Phạm Tín An Ninh còn chỉ ra, bàn cờ chính trị bẩn thỉu đã quyết định số phận người lính ở nơi chiến trường. Tôi đã đọc nhiều bút ký, hồi ký của những nhà văn từ cả hai phía viết cuộc chiến này, song phải nói, rất ít gặp được những nhận định rạch ròi, mang tư tưởng sâu sắc như Phạm Tín An Ninh:
“Sau khi Mỹ bất chấp những phản đối của VNCH, đã tự cho mình ngồi ngang hàng với Cộng Sản Bắc Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều điều trong Hiệp Định Paris ký kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ý định sớm bỏ rơi đồng minh, phủi tay cuộc chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đã ồ ạt tung nhiều sư đoàn với lực lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn công qui mô vào các đơn vị phòng thủ của ta. Phước Long là tỉnh đầu tiên bị thất thủ vào ngày 6 tháng 1/1975 nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay phản đối CSBV vi phạm hiệp định. Điều này đã báo hiệu cho số phận của VNCH.” (Người góa phụ giờ thứ 25)
Có thể nói, đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức, cái nhìn (đa chiều) về cuộc chiến tàn khốc nhất của dân tộc mà ông, thế hệ ông đã đi qua. Tôi nghĩ, với lăng kính, cái nhìn khách quan như vậy, trang viết của ông không chỉ giá trị về mặt văn học, mà còn có giá trị về lịch sử. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Tính nhân bản, lòng vị tha vượt lên trên ngục tối tù đày
Đi sâu vào đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy, truyện của Phạm Tín An Ninh luôn mang tính điện ảnh, kịch tính với mâu thuẫn, tình tiết éo le được đẩy lên cao độ, và bất ngờ. Tuy thắt nút được mở, cái kết vỡ òa có hậu, song làm cho nguời đọc không khỏi bùi ngùi, xót xa. Đà Lạt Trời Mưa là một truyện hay, tiêu biểu cho đặc tính này trong truyện ký, văn xuôi của ông. Thật vậy! Chiến tranh kết thúc, nhà tù, cải tạo là nơi người lính thất trận phải đi đến. Ở địa ngục trần gian này, cái chết chưa phải là điều đáng sợ nhất đối với người lính cải tạo tù đày, mà cực nhọc, đói khát, đày đọa về vật chất, giam hãm tinh thần mới là nỗi ám ảnh thường trực, kể cả khi họ đã thoát ra khỏi nơi địa ngục ấy. Ta hãy đọc lại trích đoạn trong Đà Lạt Trời Mưa dưới đây, để thấy rõ, cái chết rẻ mạt và bất ngờ của họ, dẫn đến những bi kịch của con người ở một xã hội luật pháp, đạo lý đảo lộn tùng phèo này:
“Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ…Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc… Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.”
Tuy viết về chiến tranh, người lính, và cải tạo tù đày, song chất trữ tình là nghệ thuật đặc trưng nhất xuyên suốt truyện ngắn, văn xuôi của Phạm Tín An Ninh. Do vậy, đọc ông luôn cho ta cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng ăm ắp tình người. Ta có thể thấy, cùng với, Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, Ở Cuối Hai Con Đường là truyện ngắn hay nhất về tình người, lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Phạm Tín An Ninh. Nếu ở, Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, sự cảm thông của người mẹ, người dân miền Bắc đối với những người lính cải tạo tù đày, thì Ở Cuối Hai Con Đường, thì cái tình người ấy, thể hiện ngay trong tình cảm, hành động của người quản giáo (một cựu tù binh ở chiến trường Kontum, đã được những người lính VNCH đối xử nhân đạo). Có thể nói, tôi đã đọc rất nhiều bút ký, hồi ký của những cựu cải tạo, tù nhân từ Nam ra đến Bắc, song có rất ít nhà văn, người viết tìm ra khía cạnh này. Tôi nghĩ, đây là cái nhìn công bình, không mang tính định kiến, hận thù của một nhà văn có tình yêu và lòng vị tha cao cả. Cho nên, trong một lần điện đàm, bàn luận về nhà văn Phạm Tín An Ninh, nhà thơ Trần Trung Đạo cho rằng: Phạm Tín An Ninh chinh phục được độc giả như vậy, vì khi viết anh có cái tâm trong sáng.
Thật vậy, đoạn văn miêu tả tình cảm, tình người dưới đây, sẽ chứng minh cho chúng ta điều đó:
“Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
– Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên. Rồi đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác. Nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc giấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.” (Ở Cuối Hai Con Đường)
Nghỉ Hè Ở Mallorca là một truyện ký, tôi cho rằng, hay, và toàn bích nhất của Phạm Tín An Ninh. Cùng với Ra Biển Gọi Thầm của Trần Hoài Thư, Nghỉ Hè Ở Mallorca là truyện độc đáo nhất về tình yêu ở nơi cải tạo tù đày. Tính chất trữ tình tựa như cơn mưa đầu làm dịu mát cái nắng nóng hừng hực giữa hè của văn chương về chiến tranh, tù đày sau 1975, ở hải ngoại vậy. Vâng! Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, chập chờn ký ức của nhân vật lồng vào tác giả, Phạm Tín An Ninh đã đưa người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng tuyệt đẹp, giữa một nữ kỹ sư lâm trường và người tù cải tạo. Tình yêu, và sự cao thượng trong hoàn cảnh ấy, tuy nghiệt ngã, song nó đã mở ra một lối thoát, một nghị lực sống của con người:
“Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Bởi vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.” (Nghỉ Hè Ở Mallorca)
Dường như, càng bị đọa đày, thì Phạm Tín An Ninh càng tĩnh tâm hơn. Nhất là khi ông bước vào nghiệp viết. Lòng nhân bản, tình người giúp ông bước ra khỏi hận thù. Cho nên, mỗi trang viết của ông như một liều thuốc, lời ru làm xoa dịu nỗi đau của con người vậy.
Quê hương với nỗi đau và mất mát
Bước ra khỏi nhà tù nhỏ, nhưng con đường trước mặt Phạm Tín An Ninh còn bế tắc hơn nữa. Nỗi đau của đất nước, và gia đình như đám mây đen bao kín cả bầu trời. Và đi hết biển, con đường duy nhất, là nơi ông phải đến. Tâm trạng ấy, được Phạm Tín An Ninh ủ vào bài viết, mà tôi không thể gọi thành tên. Bởi, ông trộn tất cả các thể loại văn học vào trong đó. Vâng! Những Đám Mây Trên Đỉnh Núi Phổ Đà là bài viết như vậy. Có thể nói, đây là một trong những bài văn cảm động nhất của Phạm Tín An Ninh. Vẫn lối viết giản dị, lời văn mộc mạc, nhưng giàu hình tượng làm cho người đọc phải rưng rưng ngấn lệ. Những hình tượng so sánh ấy, trải ra, rồi cuộn tròn thành nỗi đau, nỗi u hoài trong lòng tác giả, trong lòng người đọc. Thành thử, tôi không thể lược bỏ bất cứ từ ngữ, câu cú nào trong đoạn trích dưới đây, dù có thể khá dài:
“Chỉ có dãy núi Phổ Đà vẫn còn đứng nguyên ở đó. Hôm đầu tiên ra cổng nhìn lên, tôi không còn thấy cánh đại bàng hùng vĩ ngày xưa. Cả đỉnh núi bị bao phủ bởi những đám mây đen buồn thảm, làm tối cả một vùng trời ảm đạm. Tôi hình dung đến cha mẹ tôi, hai ông chú và cả những đồng đội bạn bè, trong đó có Phan. Tất cả như đang ẩn hiện trong các đám mây mù buồn thảm ấy. Lòng tôi đau đớn như đang có trăm ngàn vết chém. Tôi thắp hương, nhắm mắt tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát trong một thế giới bình an, không còn có đau khổ, hận thù. Nghe tiếng sấm chớp, tôi giật mình mở mắt ra. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Nhìn mưa trút nước từ những đám mây đen trên đỉnh núi Phổ Đà, tôi có cảm giác như suối nước mắt của bao nhiêu người thân bất hạnh. Mưa dứt. Những đám mây đen biến mất. Tôi cũng vừa nhìn thấy cánh chim đại bàng trên vách núi vỗ cánh bay đi. Mất hút cuối chân trời.”
Và Phạm Tín An Ninh đã đi gần hết biển. Xứ lạnh Na Uy là nơi ông cập bến đỗ. Cuộc sống yên bình, hạnh phúc nơi đây càng làm cho ông day dứt khôn nguôi. Với đồng đội, với quê hương, một món nợ, buộc ông phải trả. Như một cánh chim biệt xứ, ông biết về đâu, khi thành phố xưa đã thực sự không còn, và những dấu tích, kỷ niệm xưa chỉ còn là cổ tích. Một nỗi đau, không thể giãi bày. Hoàn cảnh ấy, chỉ có trang viết mới làm ông nguôi ngoai nỗi nhớ thương. Và khi viết Chim Bay Về Biển, dường như Phạm Tín An Ninh đã vắt hết nỗi đau, và niềm nhớ thương nơi quê nhà vào trong đó. Thật vậy, Chim Bay Về Biển là những trang văn đẹp nhất, và cũng buồn nhất, mà tôi đã được đọc trong thời gian gần đây. Ta hãy đọc lại một trích đoạn trích dưới đây, để thấy rõ điều đó:
“Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.”
Có lẽ, thời gian đẹp, nhiều kỷ niệm nhất của Phạm Tín An Ninh là lúc mặc áo lính, nên truyện của ông chủ yếu viết về lính, viết về chiến tranh. Có điều đặc biệt, trên trang sách của ông, tôi ngửi thấy mùi khét của bom, nghe thấy tiếng súng, nhưng tôi không thấy có địch, có ta, không có hận thù và những cảnh khát máu giết người, mà chỉ thấy ngun ngút tình người trong đó. Và ước nguyện của Phạm Tín An Ninh, dường như cũng là ước nguyện chung cho tất cả những người lính đã đi qua cuộc bể dâu này. Chính vì vậy, tôi xin mượn một đoạn văn trong truyện ký: Tháng 4 Nhớ Bạn (của ông) nhằm làm sáng tỏ thêm chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh, cũng như để kết thúc bài viết này:
“Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ chúng tôi đã từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh và đau thương nhất của dân tộc.”