LỄ ĐẶT BIA TRI ÂN NGƯỜI SÁNG LẬP CHỮ QUỐC NGỮ

Image may contain: 3 people, people standing, tree, suit, flower and outdoor
Image may contain: 3 people, people standing, sky and outdoor
Image may contain: flower, plant, table and outdoor
Image may contain: 8 people, people smiling, people standing, tree, outdoor and nature

Phong SươngFollow

LỄ ĐẶT BIA TRI ÂN NGƯỜI SÁNG LẬP CHỮ QUỐC NGỮ

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2019

Chữ quốc ngữ, bộ chữ Việt với mẫu tự La tinh, theo đánh giá của các nhà khoa học, “đã đưa người Việt Nam đi trước hơn ba thế kỷ” so với các nước lân cận có ảnh hưởng văn hoá và dùng mẫu tự tượng hình Trung Hoa. Quan trọng hơn cả, chữ Quốc ngữ đã giúp Việt Nam thoát dần văn hoá Trung Hoa.

Hơn 300 năm qua, đã có nhiều việc làm ghi ơn người có công sáng tạo chữ Quốc ngữ cho dân tộc Việt, linh mục Alexandre de Rhodes, con đường mang tên ngài ở Sài Gòn, bia vinh danh ngài bên Hồ Gươm Hà Nội (đã bị thất lạc), nhiều sách vỡ ghi nhận công lao của ngài và các thừa sai Tây phương vẫn còn lưu truyền đến nay.

Gần đây, người Việt trong nước đặt vấn đề củng cố và làm trong sáng tiếng Việt, chữ Quốc ngữ, gợi lên tình cảm biết ơn người đã ban tặng bộ chữ Quốc ngữ. Nhiều người đã tìm đến viếng mộ linh mục Alexandre de Rhodes ở Isfahan – Iran để tỏ lòng tri ân.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, một nhà khoa học 40 năm giảng dạy đại học Liège – Bỉ, với ý thức và trách nhiệm một người dân Việt yêu nước, đồng thời là Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt – Đại học Duy Tân Đà Nẵng, đã làm một việc ghi dấu ấn tri ân. Tháng 5/2018 khi tìm đến viếng mộ ở Isfahan, giáo sư có ý định đặt bia tri ân. Chức trách sở tại các cấp quản lý mộ cổ rất nghiêm nhặt, giáo sư bằng uy tín cá nhân đã được cấp giấy phép đặt bia bên mộ.

Nhân ngày giỗ thứ 358 của cha Alexandre de Rhodes, giáo sư Hưng đã tổ chức một cuộc hành hương đến nghĩa trang Công giáo Armenia ở thành phố Isfahan – Iran để làm lễ tưởng niệm và khánh thành bia. Đoàn 20 người Việt Nam bao gồm nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, nhà sử học, doanh nhân và nhiếp ảnh đi từ Việt Nam. Buổi lễ có sự hiện diện của các nhà chức trách địa phương, ông Mazahenri đại diện cộng đồng Hồi giáo, ông Gestabian đại diện cộng đồng Cơ Đốc thành phố Isfahan, bà Gukasian Trưởng phòng quan hệ cộng đồng Nhà Thờ Vank thành phố Isfahan và gia đình ông Hojat, người trợ giúp giáo sư Hưng trong suốt quá trình làm việc.

Buổi lễ tưởng niệm và khánh thành bia tri ân đã diễn ra long trọng, trang nghiêm. Không khí thành kính và cảm động bao trùm buổi lễ khi giáo sư Nguyễn Đăng Hưng đọc khai mạc với những lời lẽ mạnh mẽ và dâng trào cảm xúc. Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu phát biểu nhìn nhận công lao của người sáng lập chữ Quốc ngữ. Nhà văn Hoàng Minh Tường cũng nói lên tình cảm tri ân nồng ấm. Các khách mời từng người đáp lời đón chào hoan hỷ, ủng hộ việc làm của đoàn Việt Nam.

Sau khi tấm lụa in hình trống đồng được các thành viên nữ trân trọng dở ra khỏi mộ và bia, tiếng hợp ca của cả đoàn vang lên: Tôi yêu tiếng nước tôi…., giáo sư Hưng dâng hương trầm, hoa, bản in lại sách Phép Giảng Tám Ngày” và lần lượt từng người đặt một cành hoa hồng lên mộ. Cuối cùng các thành viên Công giáo trong đoàn cùng đọc kinh viếng mộ.
Sau buổi lễ chính thức hơn một giờ đồng hồ, từng người đều muốn ghi lại hình ảnh kỷ niệm để lưu lại cảm xúc của mình.

Nhân dịp, nghĩ cũng nên có đôi dòng sơ lược về hoàn cảnh ra đời chữ Quốc ngữ và cha Alexandre de Rhodes:

Từ năm 1615, thời Chúa Sãi, các thừa sai dòng Tên đến Đàng Trong để truyền đạo Kitô, những người đầu tiên được ghi nhận có linh mục Buzomi, linh mục Pina, linh mục Borri và tu huynh Diza thuộc dòng Tên Bồ Đào Nha. Các ngài học tiếng Việt và ký âm bằng mẫu tự La Tinh. Các ngài đã dịch sách giáo lý sang tiếng Việt bằng chữ Nôm với phiên âm bằng mẫu tự La Tinh. Năm 1624 linh mục Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong, học tiếng Việt với các nhà thừa sai nói trên và thầy giảng Andre Phú Yên.

Linh mục Alexandre de Rhodes từ công trình của các thừa sai đi trước, đã cho ra đời cuốn tự điển Việt – Bồ – La và sách Phép Giảng Tám Ngày song ngữ La Tinh và chữ Việt mới – chữ Quốc ngữ. Hai quyển này ngài hoàn thành và in ở Roma năm 1651, sau khi bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1645 do lệnh cấm đạo của chúa Nguyễn. Hai quyển sách này chắc chắn phải theo chân các thừa sai đến Việt Nam truyền đạo sau này. Chữ Quốc ngữ từ đó được phổ biến tại Việt Nam ta.

Dù rất muốn trở lại Việt Nam, nhưng vì án tử cho ngài còn treo ở Đàng Trong, Vatican không cho ngài trở lại. Năm 1654 ngài được đưa sang truyền đạo ở Iran (Ba Tư), năm 1660 ngài mất và được an táng ở nghĩa trang Công giáo Armenia, Isfahan Iran.

Phụ lục:

BÀI PHÁT BIỂU CỦA GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG

Thưa các bạn,

Vẫn biết lúc ban đầu các giáo sỹ cơ đốc chỉ muốn tạo dựng một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo, nhưng tính cách nghiêm túc và khoa học của công trình của họ đã cho ra đời một sản phẩm văn hóa tuyệt vời giúp cho người Việt có cơ hội nhanh chóng hòa nhập với thế giới văn minh, giúp các trẻ em Việt Nam có thể nhanh chóng biết đọc và biết viết, thoát ra những rối rắm của cách viết tượng hình vay mượn từ Trung Hoa.

Các chí sỹ yêu nước của các phong trào canh tân đất nước như Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… đã sớm ý thức được lợi thế này và đã chọn chữ quốc ngữ làm phương tiện truyền bá những tư tưởng dân chủ tiến bộ, mưu cầu giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.

Sự ra đời và phổ biến của chữ quốc có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, các cộng tác viên người Việt, các học giả người Việt: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…, các chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Lương văn Can, Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… các thành viên chủ chốt của Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ: Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Bùi Kỷ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang…. Họ đã là những nhân tố tích cực cho việc mở mang dân trí, phổ biến các tư tưởng tiến bộ cho toàn dân dẫn đến độc lập dân tộc và thông nhất đất nước Việt Nam.

Nhưng công đầu có lẽ thuộc về cha Alexandre de Rhodes.

Năm 1651 sau khi bổ sung và hoàn thiện các công trình tiếng Việt khởi đầu từ các công trình của các giáo sỹ Bồ Đào Nha (Francisco De Pina , Gaspar De Amaral, Antonio Barbosa) ngài cho ra đời tại Roma, quyển tự điển Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum), công bố khoa học đầu tiên về Tiếng Việt và cách viết dùng ký tự La Tinh.

Đây là cả một nỗ lực, khổ luyện cá nhân hiếm có. Cha Alexandre de Rhodes đã ghi lại:
“Khi tôi vừa đến đàng trong VN và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. ..”

Cha Alexandre de Rhodes đã góp phần to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam hòa nhập với thế giới văn minh trước hơn 350 năm so với các nước khác tại Á Châu!
Đây cũng là thành quả giao lưu văn hóa u-Á trong sáng và trường tồn vào bậc nhất của nhân loại. Có công trình giao lưu văn hóa nào ngay thế kỷ 17 mà đã có hợp tác của đông đảo các quốc tịch: Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Hoa, Pháp và Việt Nam… đế sáng tạo, hình thành và đạt kết quả mỹ mãn như Chữ Quốc Ngữ mà ta có ngày nay?

Hôm nay, chúng tôi, những người dân từ Việt Nam xa xôi, là hướng dẫn viên du lịch, là chuyên gia nhiếp ảnh, là nhà báo, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giáo sư đại học, đến từ Nam, Trung, Bắc, có người định cư ở nước ngoài hồi hương, chúng tôi vượt không gian trên 6000 km tụ tập về đây, nhân ngày giỗ thứ 358 của ngài.
Chúng tôi kính cẩn đặt bia tri ân, với tư cách là người Việt Nam, nói tiếng Việt và sử dụng mỗi ngày Chữ Quốc Ngữ.

Chúng tôi ghi rõ lòng biết ơn của chúng tôi lên bia đá:

“Tri ân Cha Alexandre de Rhodes đã đóng góp to lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ – chữ Việt viết theo ký tự Latinh” (We are very grateful to Father Alexandre de Rhodes who contributed greatly to the creation of Chữ Quốc Ngữ, Vietnamese script using the Latin alphabet).

Chúng tôi cũng mang sang đây một tấm bia ngắn, cho khắc in chân dung ngài và hình ảnh cuốn từ điển trứ danh của ngài.

Chúng tôi tin tưởng rằng từ nay, tấm bia đá lấy từ Quảng Nam này, nơi ngài lần dầu đặt chân đến học tiếng Việt, sẽ mãi mãi đứng dưới chân ngài, đem đến cho ngài hơi ấm của lòng biết ơn sâu sắc của người Việt chúng tôi!

Thật vậy, Chữ Quốc Ngữ đã quyện cùng tiếng Việt, thấm vào hồn người Việt và trong giai đoạn khó khăn đầy bất trắc hôm nay của đất nước, chúng tôi tin tưởng không gì có thể lay chuyển được được là Vinh danh Chữ Quốc Ngữ chính là bảo tồn tiếng Việt, chính là bảo vệ đất nước Việt Nam!
Xin cám ơn quý vị…

Sepas gozaram

GS Nguyễn Đăng Hưng

Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn Tiếng Việt
Đại học Duy Tân Đà Nẵng

BÀI PHÁT BIỂU CỦA NHÀ VĂN HOÀNG MINH TƯỜNG

Thưa Cha.

Ở Việt Nam có một đường phố mang tên Ngài, đường Alexandre de Rhodes, ở trung tâm Sài Gòn, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Trước đó cả thế kỷ, ở trung tâm Hà Nội, thủ đô của nước Việt, có một tấm bia vinh danh Ngài bên Hồ Gươm, tiếc rằng, do giặc giã, đã bị thất lạc.

Điều đó nói rằng, hơn ba trăm năm qua, người Việt Nam không quên Ngài, vẫn luôn nhớ Ngài như thuở Ngài sống và cùng các giáo sỹ Emmaanuel Fernades, Buzomi, Francois de Pina…cùng các con chiên người Việt góp phần sáng tạo nên chữ Quốc ngữ.
Và sự hiện diện của chúng tôi hôm nay, một nhóm người Việt nặng lòng với tiếng Việt, chữ Việt, tại nơi yên nghỉ của Ngài, đúng ngày giỗ lần thứ 358 của Ngài ( 5/11/1660 – 5/11/2018) nói rằng Ngài vẫn luôn sống trong tâm tưởng mọi thế hệ người Việt.

Có muộn quá không, đã 372 năm kể từ ngày Ngài xa nước Việt, nơi mà Ngài đã gắn bó suốt 20 năm, từ 1625 đến 1645, đã luồn rừng lội suối, cùng ăn cùng ở với người dân, nói thứ ngôn ngữ thuần Việt với con chiên, với Chúa, để rồi kết tinh nên bộ sách khai sáng Dictionarium Annamitium Lusitanum ed Latinum ( Từ điển Việt Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh, gọi tắt là từ điển Việt – Bồ – La) , in tại Roma, 1651.

Không quên, cũng có thể hiểu là không muộn, và có thể được thể tất, được xá lỗi, thưa Ngài.

Là một người gắn với nghiệp cầm bút, chúng tôi luôn coi Ngài và các cha Francois de Pina, Buzomi, Emmanuel Fernandes như những người Thầy khai sáng. Tôi nghĩ, rồi đến một lúc, các thế hệ hậu sinh nước Việt sẽ rước Ngài vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Thánh đường của đạo học Việt Nam để phối thờ cùng các đại sư biểu Khổng Tử , Chu Văn An… Người Việt chúng tôi từng có câu tục ngữ : Uống nước nhớ nguồn, chắc ngài đã biết từ ngày ở giáo đường Thanh Chiêm, xứ Quảng?

Nói vậy để thấy rằng, kể từ khi bộ Từ điển Việt – Bồ – La ra đời, và đặc biệt từ tháng 12 năm 1918, khi triều đình nhà Nguyễn chính thức quy định dạy chữ Quốc ngữ trong các trường học cả nước, thì không chỉ giáo dục, báo chí, văn hóa, mà tất các các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, đời sống của nước Việt đã đột biến phát triển lên một bước mới. Trong những thành tựu vượt trội, phải kể đến văn chương Quốc ngữ. Cùng với sự nở rộ của báo chí, bắt đầu từ Gia Định báo ra đời năm 1865 ở Sài Gòn, cùng với phong trào Truyền bá Quốc ngữ, phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, một dòng văn xuôi tự sự Quốc ngữ Nam Bộ đã gợi mở và đặt nền móng cho những trào lưu văn học Tự lực Văn đoàn, Thơ Mới sau này. Và tiếp theo là dòng văn học Hiện thực và văn học Hiện đại hôm nay… Nói không ngoa, một trăm năm qua là cuộc đại hợp thành của nền văn học hiện đại Việt Nam, là cuộc vật vã khai mở vào ngôn ngữ tiếng Việt của những phu chữ ( theo cách nói của nhà thơ Lê Đạt), để khởi sinh và phát triển một dòng văn học chữ Việt, ào ạt tuôn chảy, nhanh chóng chiếm lĩnh những đỉnh cao và sự toàn bích, đưa ngôn ngữ Việt, văn hóa Việt trở thành vi diệu , có khả năng giao hòa, khuếch tán vào nhân loại…

Xưa nay kẻ sĩ thường không thích nói về mình. Hẳn Ngài cũng như Đại thi hào Nguyễn Du, những người làm ra sản phẩm tinh thần, thường luôn nghĩ mình mong manh, luôn mặc cảm sợ người đời không hiểu mình, dễ lãng quên mình. “ Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” ( Không biết rằng ba trăm sau, Có ai là người khóc Tố Như (ta) không?)

Thưa Cha Alexandre des Rhodes, người Việt Nam chúng tôi không bao giờ quên những người tạo lập công đức và kiến tạo văn hóa, những Hai Bà Trưng, Ngô Quyền , Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… Và cả Ngài nữa. Ngài đã trở thành một người Việt viết hoa. Ngài đã tạo dựng Công đức, kiến lập Văn hóa với nước Việt.
Và hôm nay, tại đây, chúng tôi xin kính cẩn thắp hương tưởng niệm Ngài, xin tri ân với bạn bè nơi ngài an nghỉ, đã giành cho chúng tôi một chốn hành hương, như về với cội nguồn.

Hoàng Minh Tường
(Nhà văn)

BÀI PHÁT BIỂU CỦA TS NGUYỄN THỊ HẬU

Chữ quốc ngữ là chữ viết chung của cả nước. Trải qua gần một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt. Từ khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ X, các triều đại phong kiến nước ta đã mượn chữ Hán (còn gọi là chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật nhưng chữ Nho chưa bao giờ có vai trò là chữ quốc ngữ.

Từ thế kỷ XIII người Việt dựa trên chữ Nho để ra chữ Nôm nên muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán. Vì vậy cả chữ Hán và chữ Nôm đều không thể phổ biến trong dân chúng, do đó ít được sử dụng.

Từ thế kỷ XVI, các giáo sĩ phương Tây bắt đầu đến truyền giáo tại nước ta. Khi truyền đạo, các giáo sĩ không phải chỉ nói, mà còn dùng kinh sách để giảng giải. Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải học tiếng Việt và viết kinh sách bằng tiếng Việt. Từ nhu cầu đó nhiều giáo sĩ đã ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi dùng thứ chữ mới ký âm nầy để viết sách giáo lý bằng tiếng Việt. Sau đó tổ chức biên soạn từ điển và in kinh thánh, giáo lý bằng loại chữ mới này.

Từ thế kỷ XVII trở đi, nhờ dễ sử dụng bằng cách ghép chữ thành vần nên thứ chữ mới bằng mẫu tự Latin phổ biến hơn. Chữ quốc ngữ phát triển được là nhờ dựa trên nền tảng tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú, linh hoạt và biểu cảm. Từ góc độ lịch sử văn hóa, sáng tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây đặc biệt là vai trò của Ngài Alexandre de Rhodes. Bên cạnh đó không thể không nói đến sự đóng góp của nhiều nhà văn hóa, trí thức người Việt, đặc biệt giai đoạn từ nửa sau thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ XX.

Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện nhiều thành tố văn hóa mới: báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật, in ấn và xuất bản… chữ quốc ngữ càng có điều kiện phát triển rộng khắp, đồng thời tác động trở lại làm cho “văn viết” và “văn nói” của tiếng Việt có sự phân biệt. Từ sau 1945 có thể nói, bằng phong trào “bình dân học vụ” phần lớn dân chúng trước đây “mù chữ” đã biết đọc biết viết. Ngôn ngữ, văn hóa nhiều vùng miền đi vào chữ viết càng làm cho chữ quốc ngữ phong phú và tinh tế, nhiều sắc thái và giàu đẹp hơn.

Chữ quốc ngữ là một thành tựu văn hóa lớn, có ý nghĩa thúc đẩy văn hóa phát triển (văn chương, giáo dục, khoa học kỹ thuật…). Vì vậy, từ buổi lễ trang trọng hôm nay tại đây, chúng ta hy vọng rằng ngoài việc tôn vinh những ngươi có công lao sáng tạo và hoàn thiện chữ quốc ngữ – tiêu biểu là Ngài Alexandre de Rhodes – chúng ta sẽ đánh giá đúng vai trò của những nhà văn hóa Việt Nam, giá trị những địa điểm ghi lại dấu ấn hình thành và phát triển chữ quốc ngữ tại nước ta vì đó là xứng đáng trở thành di tích lịch sử – văn hóa của đất nước.

Trân trọng cám ơn giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, người khởi xướng và tổ chức hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa này. Chân thành cám ơn các vị khách quý đã tham dự buổi lễ. Xin cám ơn tất cả anh chị em trong đoàn!

Chúc tất cả quý vị sức khỏe và thành công!

Ts kc Nguyễn Thị Hậu.

(https://thanhlab24.blogspot.com/…/le-at-bia-tri-nguoi-sang-…)

KHÔNG PHẢI TỔNG THỐNG NÀO CŨNG LÀM ĐƯỢC ĐIỀU NÀY – PHÉP LẠ TẠ ƠN (TRÁI TIM TỔNG THỐNG).

Image may contain: 1 person, closeup

Nghia Do

KHÔNG PHẢI TỔNG THỐNG NÀO CŨNG LÀM ĐƯỢC ĐIỀU NÀY – PHÉP LẠ TẠ ƠN (TRÁI TIM TỔNG THỐNG).

Đừng bao giờ để người ta nói rằng Tổng Thống Trump không có trái tim.

Ông ấy ở Afghanistan hôm nay, thăm quân đội trong một chuyến viếng thăm bất ngờ, tất cả đều vui mừng khi thấy ông ấy.

Nhưng qua cả biển người với những khuôn mặt tươi cười, vui vẻ, phấn khích. TT Trump phát hiện ra một người lính với nét mặt ưu tư, không được vui .

Điều này rõ ràng liên quan đến Tổng thống, vì vậy ông đã sắp xếp một cuộc gặp riêng với người lính buồn bã đó để tìm hiểu vấn đề là gì?

Những gì được nghe, đã làm tan nát trái tim ông!

Có vẻ như “PFC – Hạ sĩ “Joe Barron gặp rắc rối ở nhà.

‘Bill – Hoá đơn’ y tế cho con trai ông đã tăng vọt trong thời gian gần đây, khiến vợ chồng ông không thể thanh toán các loại khác, sức khỏe của con ông quan trọng hơn bất cứ điều gì khác…

Món khác là tiền nợ nhà. Họ đã không thể trả tiền và ngân hàng đã quyết định tịch thu. Gia đình Barron sắp trở thành vô gia cư.

Tổng thống Trump, ngay lập tức thu xếp không chỉ trả các khoản thanh toán quá hạn của gia đình Barron bằng tiền riêng cá nhân của Tổng Thống, mà còn trả luôn toàn bộ số tiền còn nợ căn nhà của gia đình Barron.

Đây là kích thước của trái tim TT Trump. Như ông đã nói:

“Những thanh niên này ở đây, chiến đấu cho đất nước của họ. Tôi có trách nhiệm đảm bảo họ có thể làm tốt công việc của mình, mà không phải lo lắng về gia đình của họ ở quê nhà”.

Khi được hỏi rằng; tình huống của Barron không phải là hiếm và hỏi liệu TT Trump cũng sẽ làm gì đó để đảm bảo rằng điều này sẽ không xảy ra với người khác bằng cách sắp xếp chi phí y tế gia đình …

TT đã trả lời với một tiếng cười ròn rã:

“Haha! Haha! Tất nhiên là không! Đó sẽ là chủ nghĩa xã hội!”

Đó là Tổng Thống của chúng tôi, giúp đỡ binh lính và giữ gìn quê hương của Mỹ./-

By: ROD GOZINYA

Nhật bắt người Việt bị nghi đưa hối lộ – Tạp Chí Hoa Kỳ

Ở đâu cũng có…hay là chỗ đó…Made in Vi Na mà…

INS.TAPCHIHOAKY.COM
Duong Thi The, 34 tuổi, bị bắt hôm 2/12 với cáo buộc hối lộ nhân viên Tổng lãnh sự quán Việt Nam ở thành phố Fukuoka để làm giấy tờ cư trú. Duong Thi The, sống tại thành phố Kobe, bị cáo buộc trả tổng cộng 150.000 yen (1.370 USD) để nhân…

CUỘC SỐNG TẠI AUSTRALIA  


CUỘC SỐNG TẠI AUSTRALIA  

Đinh Tấn Khương

Nếu bạn chọn Mỹ để định cư thì có nghĩa là bạn đang đi tìm một “cơ hội”. Bởi vì nước Mỹ được gọi là vùng đất của cơ hội.

Sống và làm việc tại Mỹ, bạn có thể đạt được những địa vị cao trong xã hội. Nhưng để đạt được giấc mơ đó thì bạn cần phải luôn học hỏi, tư duy và phấn đấu liên tục.

Nếu bạn đứng yên thì có nghĩa là bạn đang bị thụt lùi. Chính vì vậy mà bạn phải “đấu tranh” cho đến khi mà bạn không còn sức lực nữa.

Nếu bạn chọn Úc để định cư thì có nghĩa là bạn đang đi tìm một sự “an nhàn”.

Sống và làm việc tại Úc không phải bon chen nhiều . Vì cho dù bạn có muốn bon chen đi nữa thì cũng không có cơ hội để đạt được những chức vị cao .

Nước Úc bảo thủ hơn nước Mỹ nhiều. Nước Mỹ không cần biết bạn đến từ đâu và thuộc thành phần giai cấp nào cũng như không quan tâm đến màu da của bạn, miễn là bạn phục vụ cho nước Mỹ. Chính vì thế mà nước Mỹ biết quí trọng và sẵn sàng cất nhắc những người có thực tài.

Nói như thế không có nghĩa là ở Úc bạn sẽ không đạt được học vị cao !

Người Việt tại Úc có tỷ lệ tốt nghiệp đại học khá cao. Trong số đó có rất nhiều bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, luật sư, kinh tế, kế toán, kỷ sư … Nhiều gia đình Việt Nam tại Úc có một vài bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ … thì không phải là hiếm.

Tại Úc bạn vẩn có nhiều cơ hội thành công. Nhưng so với nước Mỹ thì người Việt tại Úc ít có điều kiện tiến xa và nổi danh hơn.

Người dân Úc bản xứ chuộng cuộc sống an nhàn (đồng nghĩa với lè phè).

Nước Úc đất rộng người thưa (nguyên một châu lớn mà chỉ có chừng 22 triệu dân) 

Nước Úc được đãi ngộ với nhiều tài nguyên thiên nhiên và khí hậu không mấy khắc nghiệt.

Úc được đánh giá là một trong những quốc gia có cuộc sống “hạnh phúc” nhất so với những quốc gia khác trên toàn thế giới.

Giáo dục, y tế và an sinh xã hội là những điểm nổi bật của nước Úc.

GIÁO DỤC:

Giáo dục tại Úc, từ mẫu giáo đến hết bậc trung học đều được miễn phí ( ngoại trừ trường tư, nhưng chính phủ cũng phải phụ cấp cho các trường tư thục).

Riêng đại học thì phải vay một phần tiền học phí (chừng vài ngàn dollars mỗi năm, nhiều ít là tùy theo ngành học). Số tiền vay mượn nầy sẽ bị đòi lại một khi đã đi làm có mức lương quy định.

Sau khi ra trường mà không tìm được việc làm hay là làm việc với một mức lương thấp thì sẽ không bị đòi lại một xu nào cả.

Y TẾ:

1- Thẻ Medicare:

Tất cả mọi người dân Úc đều được cấp một tấm thẻ, gọi là Medicare. Thẻ này được cấp cho mỗi gia đình hay là cho từng cá nhân riêng lẻ.

Khi bị bệnh thì chỉ cần đưa thẻ Medicare là được bác sĩ gia đình khám bệnh miễn phí.

Có một vài nơi và một số bác sĩ gia đình tính tiền khám bệnh cao hơn số tiền qui định được trả bằng thẻ Medicare. Trong trường hợp nầy thì người bệnh phải trả số tiền sai biệt. Vùng có nhiều người Việt sinh sống thì bác sĩ thường chỉ thu khám phí qua thẻ Medicare mà thôi.

Nếu cần gặp bác sĩ chuyên khoa thì phần lớn người bệnh phải trả một lệ phí sai biệt.

Thường thì những người nghỉ hưu sẽ không phải trả số tiền sai biệt đó hoặc là được trả ít hơn so với những bệnh nhân thuộc các diện khác.

Tuy nhiên chính phủ có chương trình giúp đỡ qua “mạng lưới an toàn” :

Nếu tất cả mọi thành viên trong gia đình đã trả đủ 500 dollars cho số tiền sai biệt, thì kể từ đó Medicare sẽ bồi hoàn toàn bộ số tiền mà mình sẽ trả cho bác sĩ chuyên khoa trong những lần gặp sau đó.

Sự bồi hoàn nầy chỉ kéo dài cho đến ngày cuối của năm đó mà thôi. Qua năm sau thì được lập lại như cũ. 

  1. Thẻ mua thuốc giảm giá (Health Care Card, Pension Card) :

Những người thất nghiệp hay nghỉ hưu hoặc là những người có nguồn thu nhập thấp thì sẽ được cấp một thẻ mua thuốc giảm giá.

Người có thẻ mua thuốc giảm giá nầy, sau khi gặp bác sĩ và được ghi toa thuốc. Người nầy sẽ đến tiệm thuốc tây (tùy mình chọn) để mua thuốc.

Những món thuốc được trợ giá thì người có thẻ giảm giá chỉ phải trả có $5.90 cho mỗi món thuốc, cho dù giá thực của nó có thể lên đến từ vài chục hay vài trăm dollars (cũng có những món thuốc với giá bán vài ngàn dollars, chẳng hạn như những món thuốc trị bệnh ung thư). Số tiền chênh lệch sẽ được chính phủ bồi hoàn cho tiệm thuốc sau.

Những người không có thẻ giảm giá thì chỉ phải trả tối đa cho mỗi món thuốc là $30.00 (có nghĩa là những người nầy vẫn được trợ giá nhưng phải trả nhiều hơn so với những người có thẻ giảm giá).

Chính vì vậy mà có một số than phiền là tại Úc, những người có thu nhập thấp thì được ưu đãi hơn là những người có thu nhập cao !?

  1. Mạng lưới an toàn (Safety Net):

Khi mua thuốc người bệnh yêu cầu pharmacy lập thẻ “mạng lưới an toàn” cho gia đình mình.  Mỗi món thuốc trợ giá có toa bác sĩ thì được lưu giữ trong thẻ “Safty Net”.

Một khi tổng số tiền mua thuốc có trợ giá của tất cả mọi thành viên trong gia đình đã vượt quá 52 món cho những gia đình có thẻ giảm giá (Health Care Card, Pension Card).

Hoặc là vượt quá $500.00 đối với những gia đình có lợi tức cao, thì kể từ đó những người trong cùng gia đình này sẽ không phải trả một xu nào nữa cho những món thuốc có trợ giá mà được bác sĩ ghi toa.

Chương trình miễn giá nầy (khi đạt đỉnh mạng lưới an toàn) sẽ chấm dứt vào ngày cuối của năm đó. Năm sau thì lại bắt đầu như cũ.

Nếu phải nhập bệnh viên (công lập) thì tất cả mọi chi phí khám bệnh, xét nghiệm, điều trị… đều được miễn cho tất cả mọi người dân Úc.

AN SINH XÃ HỘI:

Những người không kiếm được việc làm hay là đang có việc làm mà bị cho nghỉ việc thì sẽ được lãnh tiền phụ cấp an sinh (chừng 300.00 dollars mỗi tuần cho mỗi người lớn cùng gia đình, con nít thì ít hơn).

Tiền phụ cấp nầy sẽ bị cắt một khi đã tìm được việc làm. Nếu chưa có việc làm thì vẫn được lãnh tiếp cho đến tuổi về hưu (chừng đó sẽ chuyển qua lĩnh tiền hưu, tiền hưu sẽ cao hơn tiền thất nghiệp).

Những người bị bệnh kinh niên mà không làm việc được hay là đang đi làm mà bị bệnh phải nghỉ việc thì sẽ được phụ cấp tiền bệnh. Tiền phụ cấp nầy cao hơn là tiền thất nghiệp và được lãnh suốt đời.

Nếu đến tuổi già mà không có quỹ hưu trí cao theo quy định thì được lãnh tiền hưu trí của bộ An Sinh Xã Hội ( khoảng 350 dollars mỗi tuần cho một người ) và nhiều thứ tiền phụ cấp về điện, nước, phụ phí di chuyển … khác nữa.

Những người thất nghiệp còn được trợ giúp thêm tiền để thuê nhà ở. Cũng còn được xét cấp nhà chính phủ với giá thuê rất thấp.

Có nhiều thứ phụ cấp khác dành cho người khuyết tật, bệnh kinh niên, người già …

Phụ cấp chăm sóc người bệnh, người khuyết tật … khá cao.

Bạn sẽ nhận được 5 ngàn dollars cho mỗi đứa con mà bạn mới sanh ra. Nếu bạn thất nghiệp thì sẽ được lãnh tiền phụ cấp an sinh xã hội cho đứa con ngay sau khi sanh, cùng với nhiều phụ cấp khác dành cho cha mẹ nuôi con.

Người ta thường nói, ở Úc khó có cơ hội làm giàu nhưng cũng khó bị đói khổ.

Đinh Tấn Khương (Australia)

From: TU-PHUNG

Đảng cộng sản Trung quốc ĐÃ ĐẾN ĐƯỜNG CÙNG.

Image may contain: 1 person, sitting and eyeglasses

Hoang Le Thanh

Đảng cộng sản Trung quốc ĐÃ ĐẾN ĐƯỜNG CÙNG.

Chia sẻ từ nội bộ ĐCSTQ: “Chúng tôi đã đến đường cùng”

Trí Thức VN 02/12/2019 •

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, chuyên gia Arthur Waldron về vấn đề quan hệ Mỹ – Trung tiết lộ, một nhân viên trợ tá cấp cao thân cận với lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Tập Cận Bình đã chia sẻ rằng: Chúng tôi đã đi đến đường cùng. Ông Arthur Waldron kiến nghị Ngoại trưởng Mỹ Pompeo và đội ngũ của ông ấy cần xem xét chuẩn bị cách ứng phó với vấn đề ĐCSTQ sụp đổ cùng việc quy hàng của những thế lực nội bộ ĐCSTQ.

Ảnh: Ông Arthur Waldon – Giáo sư Quan hệ Quốc tế và Lịch sử Trung Quốc tại Đại học Pennsylvania (Ảnh cắt từ video)

Hôm 29/11, trang Twitter GlobalHimalaya đã tweet một video phỏng vấn của “Kênh lãnh đạo tư tưởng Mỹ” (American Thought Leaders). Theo đó trong bài phỏng vấn chuyên gia Arthur Waldron – Giáo sư Quan hệ Quốc tế và Lịch sử Trung Quốc tại Đại học Pennsylvania (Mỹ), đã nhận định tình hình hiện tại của Trung Quốc: “Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đang bước vào thời kỳ tương tự như sự tan rã của Liên Xô trước đây. Vấn đề không phải một khi chế độ ĐCSTQ sụp đổ là đồng nghĩa sụp đổ của Trung Quốc, mà ĐCSTQ sụp đổ thì nước Trung Quốc vẫn còn đó, nhưng hệ thống chính trị thay đổi mà thôi.”

Chuyên gia Arthur Waldron cho rằng, vì thiếu hiểu biết đúng đắn thực tế, về cơ bản không biết gì về tình hình thực tế của người dân nên Chính phủ ĐCSTQ làm việc theo kiểu nghĩ đâu làm đó, rất tùy tiện và vô lối.

Ông nhận định rằng Chính phủ của ĐCSTQ hiểu rất rõ rằng ngày hấp hối đã cận kề. Ông tiết lộ thông tin một trợ tá cấp cao thân cận của ông Tập Cận Bình đã thẳng thắn chia sẻ với ông: “Arthur Waldron, chúng tôi đã đi đến đường cùng. Mọi người đều biết rằng thể chế này đã kết thúc. Những bước đi tiếp theo chúng tôi không biết phải đi như thế nào, vì giống như có mìn ở khắp nơi, bước sai một bước là có thể tan xương nát thịt.”

Ông chỉ ra vấn đề đau đầu thực sự là làm thế nào để thoát ra khỏi vũng lầy của chủ nghĩa cộng sản, qua đó đề nghị Ngoại trưởng Mỹ Pompeo và đội ngũ của ông ấy nên nghiên cứu cách đối phó khi ĐCSTQ sụp đổ, vấn đề quy hàng của các thế lực trong ĐCSTQ và chuyện chuyển đổi thể chế chính trị tại Trung Quốc

Nguồn: Trí Thức VN
https://m.trithucvn.net/…/chia-se-tu-noi-bo-dcstq-chung-toi…

Bị truy nã hàng chục năm nhưng vẫn leo đến chức chánh văn phòng tòa án!

About this website

RFA.ORG
Trong thời gian qua, báo chí phanh phui hàng loạt vụ việc ‘thật như đùa’ như tội phạm làm công an, sử dụng bằng cấp giả để leo lên những vị trí lãnh đạo cấp cao… Một vụ mới nhất là người có lệnh truy nã vẫn len lỏi lên đến…

11 công việc phổ biến ngày nay nhưng không tồn tại vào 20 năm trước

Trí thức Việt Nam
Công nghệ liên tục thay đổi cách chúng ta làm việc, sống và giải trí. Từ việc trở thành influencer (người có tầm ảnh hưởng) nhờ các mạng xã hội đến các chuyên viên nội dung, có rất nhiều công việc phổ biến ngày nay không hề tồn tại vào 20 năm trước.

 

M.TRITHUCVN.NET
Công nghệ liên tục thay đổi cách chúng ta làm việc, sống và giải trí, có rất nhiều công việc phổ biến ngày nay không hề tồn tại vào 20 năm trước.

 TIN NÓNG: ĐIỀU MÀ HỌ TẬP LO SỢ ĐÃ ĐẾN

https://www.facebook.com/jbnguyenhuuvinh/videos/2718516601576347/?t=4

JB Nguyễn Hữu VinhFollow

 TIN NÓNG: ĐIỀU MÀ HỌ TẬP LO SỢ ĐÃ ĐẾN

Ngọn lửa từ Hong Kong đã bén vào Đại lục và bùng phát tại Quảng Đông. Đây là điều mà Tập Cận Bình lo sợ trong sự kiện HongKong, Tập không ngại việc cho nghỉ việc mụ Lâm, cũng không ngại khi cần thịt mấy chú cảnh sát bạo lực HongKong để xoa dịu biểu tình.

Tập có thể tiến hành một Thiên An Môn mới tại HongKong, nhưng ngày nay đã khác xa với 30 năm trước, năm 1989 nên Tập càng khó xử, nhất là khi lão Trump mới ký ban hành hai Luật về HongKong.

Tập đe dọa lão Trump là sẽ trả đũa ngay lập tức và Mỹ chịu mọi hậu quả nếu ký 2 luật này. Và lão đã ký, và Tập đã đưa tín hiệu: “Em xin, đũa đâu ra mà trả”.

Điều tập sợ hơn cả, là không dẹp được HongKong, thì Đại lục và nhiều nơi như Tân Cương, Tây Tạng… sẽ không yên.

Và biết đâu, ở phương Nam, đàn bò đang ngủ trong chuồng yên chí có đảng lãnh đạo lại có thể rục rịch đòi ra khỏi cái lò tôn lão Trọng thì sao.

Và… lửa đang cháy.

Chúc mừng người dân Quảng Đông, cảm ơn người dân HongKong.

HỘI BẢO VỆ TRẺ EM ĐÂU?

Trẻ em sống ở Thiên đường XHCN Việt Nam
Image may contain: one or more people and outdoor
Lê Vi

HỘI BẢO VỆ TRẺ EM ĐÂU?

CÁC LỰC LƯỢNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI ĐÂU?
CÔNG AN PHƯỜNG ĐÂU?

Các trẻ em bị bọn chăn dắt phạt quì để trừng trị điều gì đó (có thể là vì đi ăn xin được quá ít tiền nên bị chúng phạt).

Hình ảnh được chụp tại công viên Lê Văn Tám, Q1, TPHCM.

Nguồn: Sai Gon Young.