KHI KHÔNG CÒN GÌ CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC – Rev. Ron Rolheiser, OMI

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 Bạn sẽ làm gì khi một vết thương hay một mất mát khiến bạn tuyệt vọng đến tê liệt, và không có điều gì bạn có thể làm để thay đổi tình huống ấy?

 Bạn sẽ nói gì hay làm gì khi cố gắng an ủi một người đang bị tê liệt vì đau buồn?

Chẳng hạn, bạn sẽ nói gì với ai đó đang túc trực bên giường bệnh của người thân sắp qua đời khi tuổi đời còn quá trẻ?  Bạn sẽ nói gì với một người vừa mất người thân vì tự tử?

 Bạn sẽ làm gì hay nói gì khi bản thân hoàn toàn bất lực trong việc sửa chữa một tình huống đã đổ vỡ?

 Nhà thơ Rainer Maria Rilke từng nhận được một bức thư từ một người đàn ông vừa mất người thân, đang chiến đấu với tuyệt vọng, và tuyệt vọng tìm kiếm điều gì đó để trái tim mình khỏi tan vỡ.

 Rilke đã gửi lại cho ông những lời này: “Đừng sợ đau khổ — hãy lấy nỗi nặng trĩu trong lòng bạn mà trao lại cho sức nặng của trái đất; núi non thì nặng, đại dương cũng nặng.” (Sonnets to Orpheus).  Những lời này như vang vọng lời trong Sách Ai Ca (3,29), nơi tác giả linh hứng viết: “Có lúc tất cả những gì ta có thể làm là úp miệng mình xuống bụi đất mà chờ đợi.”

 Đúng vậy, đôi khi tất cả những gì ta có thể làm là úp miệng mình xuống đất mà chờ đợi.  Đôi khi, ta cần trao trả nỗi đau trĩu nặng của mình cho chính mặt đất.

 Thật kỳ lạ, chúng ta có thể chấp nhận những lời mời gọi này – và sự kiên nhẫn mà chúng đòi hỏi – khi nỗi đau chúng ta chịu là thể lý, chứ không phải tinh thần hay tâm lý.  Thí dụ, nếu bị tai nạn và gãy chân nặng, ta sẽ đành chấp nhận, dù khó chịu đến đâu, rằng mình sẽ phải nằm một chỗ trong vài tuần hay vài tháng, và chẳng có cách nào khác ngoài việc để thời gian và tự nhiên chữa lành.  Nhưng thật đáng tiếc là chúng ta không thường áp dụng được sự chấp nhận đó khi vết thương là trong tâm hồn.  Khi trái tim tan vỡ, chúng ta muốn có giải pháp ngay tức thì.  Ta không muốn con tim mình phải “chống nạng” hay “ngồi xe lăn” suốt nhiều tuần hay nhiều tháng.

 Dĩ nhiên, không phải mất mát nào hay nỗi đau nào cũng giống nhau.  Có những mất mát tuy đau đớn nhưng không khiến ta hoàn toàn tê liệt, vì trong đó đã có sẵn yếu tố của sự an ủi và chữa lành.  Chúng ta từng trải qua điều này khi dự tang lễ của một người thân yêu đã sống và ra đi trong bình an – dù đau lòng, sâu thẳm trong tâm hồn, ta vẫn cảm thấy sự thanh thản nào đó trong chia ly.

 Nhưng cũng có những mất mát mà trong một khoảng thời gian sau đó, không có lời an ủi nào – dù là lời đầy đức tin – có thể xoa dịu được nỗi đắng cay và đau đớn trong tim.  Chẳng hạn, tôi đã từng thấy điều này tại tang lễ của những người qua đời vì tự tử.  Trong giây phút tột cùng của đau thương, không có lời nào – dù đúng đắn, dù đầy niềm tin – có thể vực dậy trái tim tan vỡ của những người ở lại.

 Tôi nhớ một tang lễ mà tôi từng tham dự vài năm trước.  Người phụ nữ mà chúng tôi tiễn đưa vừa qua đời vì ung thư, còn khá trẻ, mới ngoài năm mươi.  Chồng cô, dĩ nhiên, vô cùng đau đớn.  Tại buổi tiếp khách sau Thánh lễ, một người bạn thân cố gắng an ủi anh bằng cách nói: “Cô ấy đang ở với Chúa, ở một nơi tốt đẹp hơn.”  Dù là một người có đức tin, và vừa bước ra khỏi nhà thờ nơi niềm tin ấy được cử hành cách công khai, anh chỉ đáp lại: “Tôi biết anh có ý tốt; nhưng đó là điều cuối cùng tôi muốn nghe hôm nay.”

 Những lời nói đầy đức tin mà chúng ta trao nhau trong lúc tang thương là những lời chân thật.  Người phụ nữ ấy, chắc chắn, đang ở một nơi tốt đẹp hơn.  Nhưng trong khoảnh khắc đau buồn tột cùng, những lời ấy không mang lại hiệu quả cảm xúc hay tâm lý như ta mong.

 Vậy, trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta có thể trao nhau điều gì?  Người khác có thể trao gì cho ta khi chúng ta tê liệt vì đau buồn?

 Ta có thể trao cho nhau chính sự bất lực của mình – sự thinh lặng, sự không thể làm gì hay nói gì có thể cất đi nỗi nặng trĩu.  Và có lẽ không điều gì có sức an ủi hơn trong những thảm kịch ngoài sự cảm thông phát xuất từ chính sự bất lực chung ấy.  Ta vẫn có thể thầm thĩ những lời của đức tin, nhưng cũng cần chấp nhận rằng hoa trái từ những lời ấy chỉ chín muồi sau này.

 Khi ta hiện diện với nhau trong thinh lặng, trong sự bất lực trước nỗi đau, chính sự hiện diện ấy đang nói lên điều mà cả Sách Ai Ca lẫn nhà thơ Rilke đã nói: Đôi khi tất cả những gì ta có thể làm là úp miệng mình xuống đất mà chờ đợi – và bằng cách đó, ta đang trao lại sức nặng của mình cho trái đất.  Một cách nghịch lý, chính việc chấp nhận nỗi nặng ấy lại có thể là điều duy nhất nâng đỡ được tâm hồn ta.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From: Langthangchieutim

Trái với quyết tâm của Tập Cận Bình, Trung Cộng không trở thành quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh

Bài của  AI và báo Thị Trường Ngày Nay
Giấc mơ “Trung Quốc hùng mạnh nhất thế giới” của Tập Cận Bình—hay còn gọi là “Giấc mơ Trung Hoa” (中国梦)—là kim chỉ nam cho chiến lược phát triển quốc gia đến năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhưng hiện tại, giấc mơ ấy đang đối mặt với nhiều thách thức nội tại và phản ứng quốc tế gay gắt.

không xác định

Khẩu hiệu “Giấc mơ Trung Hoa” với nội dung “đất nước hùng cường, dân tộc hưng thịnh, nhân dân hạnh phúc” tại Công viên Nam Hồ, Phan Châu, Quý Châu , tháng 11 năm 2019

 BÂY GIỜ KHÔNG THỂ TRỐN KHỎI BẮC TRIỀU TIÊN, TẠI SAO?

Thao Teresa

 

Bắc Triều Tiên là quốc gia duy nhất trên thế giới hiện nay cấm công dân rời khỏi đất nước mà không có sự cho phép trước từ nhà nước, và hành động này bị coi là phản quốc. Nếu bị bắt, người đó có thể bị phạt tù dài hạn trong trại lao động khổ sai hoặc thậm chí bị tử hình. Việc di chuyển trong nội bộ Bắc Triều Tiên cũng khó khăn và bị kiểm soát chặt chẽ, cần giấy phép chính thức để đi từ tỉnh này sang tỉnh khác. Bắc Triều Tiên được hầu hết các tổ chức trên thế giới coi là có hồ sơ nhân quyền tồi tệ nhất, không có quốc gia nào sánh bằng. Tất cả nam giới phải phục vụ ít nhất 10 năm trong quân đội, tự do ngôn luận không tồn tại, và mọi phương tiện truyền thông đều do nhà nước sở hữu. Theo Amnesty International, năm 2017, khoảng 200.000 tù nhân chính trị bị giam trong các trại, thường chịu lao động nô lệ, tra tấn và xử tử không qua xét xử. Ngoài ra, còn có các tù nhân vì tội không liên quan đến chính trị. Một người có thể bị tù chung thân chỉ vì liên quan đến người phạm tội, như trường hợp một đứa trẻ 2 tuổi bị kết án tù chung thân năm 2009 vì cha mẹ sở hữu một cuốn Kinh Thánh nhập lậu.

Mọi phương tiện truyền thông và nội dung nước ngoài bị cấm hàng thập kỷ, với hình phạt từ tù chung thân đến tử hình cho những ai bị bắt quả tang buôn lậu, phân phối hoặc tiêu thụ. Bắc Triều Tiên là một trong bốn quốc gia còn duy trì hành quyết công khai, cùng với Iran, Ả Rập Saudi và Somalia. Người nước ngoài rất khó được phép vào nước này, và khi được phép, họ bị giám sát chặt chẽ và chỉ được tham quan theo lộ trình do chế độ sắp đặt. Đôi khi, người nước ngoài vi phạm luật tùy tiện của chế độ còn bị giết, như trường hợp Otto Warmbier, một người Mỹ bị bắt năm 2016 vì cố lấy trộm áp phích tuyên truyền, bị kết án 15 năm lao động khổ sai, và được thả về Mỹ trong tình trạng hôn mê, qua đời ngay sau đó.

Do đó, Bắc Triều Tiên được coi là quốc gia cô lập và bí mật nhất thế giới hiện nay, khó khăn nhất để đưa người hay vật vào hoặc ra. Địa hình đặc biệt của Bắc Triều Tiên, với biển Nhật Bản và Hoàng Hải ở phía đông và tây, khiến việc vượt biên qua biển gần như không thể do thiếu thuyền và hải quân tuần tra liên tục. Biên giới phía nam với Hàn Quốc, khu phi quân sự (DMZ), là biên giới quân sự hóa nặng nề nhất thế giới, với hàng chục ngàn binh sĩ, hàng rào, dây thép gai và khoảng 2 triệu mìn. Lệnh bắn chết được áp dụng cho bất kỳ ai cố vượt biên. Với 750.000 binh sĩ Bắc Triều Tiên và 450.000 binh sĩ Hàn Quốc cùng 20.000 lính Mỹ gần biên giới, việc vượt qua DMZ để đến Hàn Quốc cực kỳ nguy hiểm.

Lịch sử cho thấy, con đường dễ hơn nhưng vẫn rất khó là vượt biên phía bắc vào Trung Quốc hoặc Nga. Biên giới với Trung Quốc dài hơn 1.300 km, đi qua sông Áp Lục và Đồ Môn, qua núi và rừng thưa thớt dân cư, trước đây tương đối dễ thâm nhập. Vào mùa đông, sông đóng băng, hoặc mùa hè, mực nước thấp, giúp người đào tẩu và buôn lậu dễ dàng vượt qua. Tuy nhiên, cả Trung Quốc và Nga đều có hiệp định dẫn độ với Bắc Triều Tiên, coi người đào tẩu là nhập cư bất hợp pháp và trục xuất về, nơi họ đối mặt với tù đày hoặc tử hình. Vì vậy, mục tiêu của người đào tẩu là đến các nước an toàn như Mông Cổ, Thái Lan hoặc Việt Nam, nơi họ sẽ được trục xuất đến Hàn Quốc, quốc gia coi tất cả người Triều Tiên là công dân của mình.

Từ những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ, kinh tế Bắc Triều Tiên suy sụp, nạn đói nghiêm trọng từ 1994-1998 khiến hàng trăm ngàn đến hàng triệu người chết. Điều này dẫn đến làn sóng đào tẩu tăng vọt, chủ yếu qua biên giới phía bắc vào Trung Quốc, rồi đến Thái Lan, Việt Nam hoặc Mông Cổ. Đỉnh điểm năm 2009, 2.914 người đào tẩu thành công đến Hàn Quốc. Tuy nhiên, sau khi Kim Jong-un lên nắm quyền năm 2011, ông siết chặt kiểm soát biên giới và buôn lậu. Thiết bị gây nhiễu tín hiệu, hàng rào, và tuần tra tăng cường ở biên giới phía bắc. Trung Quốc cũng tăng cường giám sát với hơn 620 triệu camera vào năm 2020, khiến việc đào tẩu qua Trung Quốc nguy hiểm hơn. Giá dịch vụ của các “môi giới” giúp đào tẩu tăng từ 2.000 USD năm 2007 lên 21.000 USD năm 2021.

Từ năm 2020, Bắc Triều Tiên đóng cửa hoàn toàn biên giới vì Covid-19, hủy mọi chuyến bay quốc tế và gần như toàn bộ thương mại. Với 42% dân số suy dinh dưỡng, quốc gia này lo ngại dịch bệnh, chỉ báo cáo 74 ca tử vong do Covid, nhưng ước tính thực tế có thể lên đến 45.000. Chế độ tận dụng đại dịch để củng cố cô lập, xây dựng vùng đệm và ra lệnh bắn chết bất kỳ ai vượt biên. Luật “Phản đối tư tưởng và văn hóa phản động” năm 2020 hình sự hóa việc sở hữu thông tin hoặc vật phẩm nước ngoài, với hình phạt tử hình công khai cho buôn lậu và 10 năm tù cho xem phim nước ngoài. Kết quả, đào tẩu giảm mạnh: chỉ 229 người năm 2020, 63 người năm 2021, và 67 người năm 2022 – mức thấp nhất trong lịch sử.

Bắc Triều Tiên trở thành “nhà tù” thành công nhất trong lịch sử nhân loại, với công nghệ số và luật khắc nghiệt cô lập hoàn toàn đất nước. Điện thoại do nhà nước cung cấp không kết nối internet, không gọi quốc tế, cài phần mềm giám sát không thể gỡ, tự động chụp màn hình, và bị cảnh sát kiểm tra bắt buộc. Điện thoại nước ngoài, từng là cách liên lạc với bên ngoài, giờ gần như không còn do biên giới bị khóa chặt. Hiện có khoảng 1.000 người đào tẩu bị giam ở Trung Quốc, chờ trục xuất về Bắc Triều Tiên, nơi họ có thể bị tù hoặc tử hình. Bắc Triều Tiên giờ như một “hố đen” trên bản đồ thế giới, gần như không ai ra vào được, nhờ địa hình, luật lệ tàn nhẫn, và công nghệ giám sát của chế độ Kim.

(Fb Chau Doan)


 

TÀU GIÊSU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”.

“Sự cứu rỗi tựa hồ việc Nôe mời một người ngoại giáo thời của ông – đặt niềm tin vào Lời của Chúa – đến và lên tàu. Vậy mà, sự cứu rỗi không phụ thuộc vào việc chúng ta ‘ghi tên’ lên tàu hoặc ngay cả việc ‘bám’ vào Chúa, nhưng tuỳ thuộc việc chúng ta được nắm lấy, ôm lấy bởi Chúa Kitô và trong Chúa Kitô!” – Harry Ironside.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng của Ironside được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay. Cứu rỗi không phải là chuyện số lượng, nhưng là đi đúng hướng, đúng cách, đúng lối. Lối ấy hẹp – lối Giêsu – lối tình yêu. Nói cách khác, cứu rỗi không nằm ở một “xa lộ” rộng thênh, nhưng ở việc được bước lên ‘Tàu Giêsu’, để được chính Ngài nắm lấy mà đi qua cửa hẹp để vào cõi sống.

Chúa Giêsu không ‘chào hàng’ với những hứa hão, “Vâng, đừng lo! Cứu rỗi? Thật dễ, một xa lộ đẹp với cánh cổng rộng cuối chân trời!”. Ngài nói đúng như thực tế của nó, rất hẹp! Theo nghĩa nào? Theo nghĩa, để tự cứu mình, người ta phải tin vào Ngài, sống lời Ngài, ‘được nắm lấy, ôm lấy’ bởi Ngài. “Cửa hẹp không nói về sự loại trừ, nhưng về lòng tận hiến – chỉ ai được Đức Kitô ‘nắm lấy’ mới đi qua được!” – John Stott. Cửa hẹp mở ra cho ai thực sự để Chúa Kitô chiếm hữu đời mình.

Nói về ‘lối hẹp’, Chúa Giêsu chỉ ra rằng, cứu rỗi cũng không là chuyện thừa kế hay một bảo đảm như đã có bảo hiểm; đúng hơn, là sự hợp tác tích cực của mỗi người với ân sủng, đó là nỗ lực để lên ‘Tàu Giêsu’ – yêu mến và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Làm theo ý Chúa là bảo đảm tốt nhất để chuẩn bị cho sự cứu rỗi. Là tin vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và gì nữa? Là làm cho Danh Cha cả sáng! “Cửa hẹp dành cho ai để ân sủng uốn nắn thành chứng nhân sống động của Danh Chúa giữa đời!” – Henri Nouwen.

Thánh Vịnh đáp ca nhắc lại điều này với lệnh truyền, “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!”; “Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta” – bài đọc một. Đúng thế, việc yêu thương tha nhân ý nghĩa nhất vẫn là trao tặng Giêsu và Tin Mừng Ngài. “Hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ!” – bài đọc hai. “Loan báo Tin Mừng chính là một kẻ ăn mày chỉ cho một kẻ ăn mày khác biết nơi có bánh!” – D.T. Niles. Chia sẻ Tin Mừng đơn giản là trao sự sống mình đã lãnh nhận.

Anh Chị em,

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”. Chiến đấu cho sự cứu rỗi chỉ bằng cách bước vào ‘Tàu Giêsu’, ‘được nắm lấy, ôm lấy’ bởi Ngài, đi vào ‘lối hẹp’ tình yêu Ngài đã đi. Không đạt được sự cứu rỗi vĩnh cửu, chúng ta trắng tay! “Hãy lo cho sự cứu rỗi của anh em trong sợ hãi và run rẩy” – Phaolô. Đó là điều bạn và tôi cần thực hiện với sự nghiêm túc tối đa; mỗi ngày, hãy xin cho được ơn bền đỗ đến cùng. “Ơn cứu rỗi là nhưng không, nhưng không hề rẻ – nó đòi ta dâng chính mạng sống để bước vào lối hẹp của Đức Kitô!” – Dietrich Bonhoeffer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi con lạc lối, những muốn tìm thuyền khác, cho con nhớ, chỉ con ‘Tàu Giêsu’ mới chở nổi sự mong manh của con đến bến bờ vĩnh cửu!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 13,22-30

22 Khi ấy, trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23 Có kẻ hỏi Người : “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : 24 “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

25 “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói : ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào !’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26 Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ 27 Nhưng ông sẽ đáp lại : ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !’

28 “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29 Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

30 “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”


 

VŨ NỮ CẨM NHUNG

Xuyên Sơn

Người Sài Gòn trước đây không mấy ai mà không nghe qua cái tên vũ nữ Cẩm Nhung (1940-2013) và vụ đánh ghen tạt acxit rùng rợn lần đầu tiên xảy ra tại Việt Nam. Cẩm Nhung là nạn nhân của vụ đánh ghen tàn khốc này khiến dung nhan của cô trở nên dị dạng, trở thành phế nhân tàn tật, suốt cuộc đời còn lại phải lê lết trên đường phố ăn mày ăn xin, cũng chỉ vì Cẩm Nhung là một “hồng nhan họa thủy”. ĐXGK mạn phép đăng lại bài viết sau đây của tác giả Trúc Giang MN tường thuật lại vụ đánh ghen kinh hoàng chấn động Sài Gòn đầu thập niên 60.

“khoảng 8 giờ tối ngày 17-7-1963, một phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà, tiến về chiếc taxi chờ sẵn, thì bổng nhiên một người đàn ông xuất hiện, tay bưng một ca acid tạt vào mặt người phụ nữ.

Thiếu nữ thét lên trong đau đớn: “Chết tôi rồi! Cứu tôi với”, rồi ôm mặt ngã quỵ.

Một người đàn ông chạy đến, bế cô lên chiếc taxi chạy vào bịnh viện Sài Gòn cấp cứu.

Sau đó được chuyển đến Bịnh viện Đồn Đất (Grall) vào lúc hai giờ sáng ngày 18-7-1963.

Cái tin vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt acid gây xôn xao trong giới thượng lưu thường lui tới các vũ trường.

Báo chí đăng tấm hình rất xinh đẹp của Cẩm Nhung đã gây xúc động và thương tiếc của người Sài Gòn và cả Miền Nam VN.

Đó là vũ nữ tài sắc vẹn toàn nổi danh là “Nữ hoàng vũ trường”, Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng tạt acid.

Hai người thân là mẹ và bà vú lần lượt ra đi. Tài sản cạn kiệt.

Không nơi nương tựa nên phải đi ăn mày.

Đặc biệt là người ăn xin nầy mang trước ngực tấm hình cô chụp chung với người yêu là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức.

Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội.

Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào Nam, và trở thành vũ nữ chuyên nghiệp năm 19 tuổi.

Con gái 17 tuổi mà trổ mã đều đặn, nói chung là rất đẹp và hấp dẫn.

Cẩm Nhung bỏ học.

Lén đi học khiêu vũ ở một lớp dạy tư, do hai nhạc sĩ và là vũ sư Nguyễn Tình và Nguyễn Thống phụ trách.

Hai nhạc sĩ nổi tiếng với ngón đàn hạ uy cầm (Hawaiian guitar), đã đào tạo hàng chục vũ nữ cho các vũ trường Sài Gòn thời đó.

Nhờ có năng khiếu, mới học được nửa khóa đã tỏ ra nghệ thuật nhảy múa rất xuất sắc.

Vũ sư Nguyễn Tình nói với người tài pán Marie Sang:

“Đôi chân của nó, thân hình gợi cảm của nó rồi đây sẽ có khối đàn ông ngã rạp dưới chân nó mà chết cho coi”.

Tài pán là người quản lý vũ nữ ở vũ trường, còn gọi là “cai gà”. Khách đi solo muốn nhảy với vũ nữ đều phải do người cai gà đó sắp xếp.

Phải mua ticket thời đó là 20$. Mỗi ticket chỉ nhảy được một vài bản mà thôi. Muốn bao thầu cả đêm thì phải mua trọn gói chừng 15 ticket.

Đối với “Nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung, thì khách phải lo lót chị tài pán.

Người nào cho tiền nhiều thì được cuộc. Muốn nhảy với kiều nữ suốt đêm, tới một hai giờ sáng thì khách phải mua trọn gói 15 ticket.

Khách sành điệu cùng vũ nữ rời vũ trường nầy, đến một vũ trường khác vừa khiêu vũ thoải mái, vừa giữ được tiếng tăm về đức hạnh của vũ nữ.

Nhảy được vài ba bản rồi rủ nhau đi ăn khuya như ăn cháo cá ở Chợ Cũ, cơm thố, cơm siu siu, hoặc mì La Cai…

Đó là xong phần một.

Phần còn lại do sự thỏa thuận của hai bên.

Khách nhảy phải típ cho vũ nữ, thời giá lúc đó là 500$.

Đêm vui trọn vẹn đạt “mục đích yêu cầu” thì tốn phí khoảng 1,000$, tương đương với mấy cây vàng. Cẩm Nhung đã qua nhiều vũ trường, và Kim Sơn là điểm chót. Nghe nói Trung tá công binh mua cho Cẩm Nhung một căn nhà trong hẻm bên cạnh vũ trường Au Chalet.

Từ đó, Cẩm Nhung đã bước vào con đường của định mạng, người tài hoa bạc mệnh.

“Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Vụ đánh ghen bằng acid diễn ra ngày 17-7-1963 tại Sài Gòn.

Đó được xem như vụ đánh ghen tàn bạo và rùng rợn nhất chưa từng có ở Việt Nam trước kia.

Sự việc gây chấn động cả Sài Gòn và Miền Nam trong một thời gian.

Báo chí nhận định vụ đánh ghen bằng acid là lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn. Nạn nhân bị đánh ghen bằng tạt acid là vũ nữ vô cùng xinh đẹp tên Cẩm Nhung của vũ trường Kim Sơn.

Báo chí thời đó hết lời ca ngợi nhan sắc và đôi chân dài điệu nghệ của cô vũ nữ gốc Hà Thành. Mệnh danh là “Nữ hoàng vũ trường”.

Tại vũ trường Kim Sơn, đường Tự Do, Cẩm Nhung phải lòng một khách nhảy hào hoa, dân chơi có tiếng tại các vũ trường là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức.

Việc ông Thức cặp kè với Cẩm Nhung đến tai bà vợ là Lâm Thị Nguyệt, biệt danh là Bà Năm Rado, vì bà chuyên bán đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Rado.

Máu Hoạn Thư nổi lên.

Người đàn bà dữ tợn nhất, độc ác nhất là lúc lên cơn ghen.

Thuở đó, ở Sài Gòn và cả Miền Nam chưa có vụ đánh ghen nào bằng tạt acid cả.

Thông thường thì đón đường chửi bới về việc giựt chồng, làm nhục nơi công cộng.

Bạo động hơn là “xởn tóc”, cao hơn nữa là “lột quần”.

Bà Lâm Thị Nguyệt thuê người tạt acid vào mặt Cẩm Nhung với giá hai lượng vàng.

Vụ đánh ghen bằng tạt acid diễn ra trong khi bà Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân, đang ở nước ngoài.

Nghe được tin, bà vô cùng tức giận. Ngay sau khi về nước, bà Ngô Đình Nhu đến Bịnh viện Grall thăm Cẩm Nhung.

Với tư cách là người lãnh đạo Phong Trào Liên Đới Phụ Nữ Việt Nam, binh vực quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, bà thúc đẩy điều tra và lập hồ sơ đưa ra tòa.

Vào tháng 10 năm 1963, tòa kết án Lâm Thị Nguyệt, vợ của Trung tá Trần Ngọc Thức và người đàn ông tạt acid mỗi người 20 năm tù.

Một người đàn ông liên hệ 15 năm.

Trung tá Trần Ngọc Thức bị cho giải ngũ.

Sau năm 1975, Đại tá Trần Ngọc Thức đi tù cải tạo ở Trại Z.30C, Hàm Tân.

Cẩm Nhung còn giữ được cái mạng nhưng dung nhan kiều diễm bị hủy hoại hoàn toàn. Tháng 9 năm 1963, Cẩm Nhung được đưa qua Nhật chữa trị, hy vọng phục hồi gương mặt như trước kia.

Bác sĩ Nhật bó tay.

Khi Cẩm Nhung về nước thì nền Đệ nhất Cộng Hòa đã sụp đổ.

Bà Ngô Đình Nhu sống lưu vong ở nước ngoài.

Người vũ nữ nổi tiếng một thời đã biến mất trong các sinh hoạt ở Sài Gòn.

Những biến cố chính trị dồn dập khiến cho việc đánh ghen dã man, tàn bạo rơi vào quên lãng và chìm trong quá khứ.

Từ địa vị của một nữ hoàng sống trên đỉnh cao danh vọng, rực rỡ dưới ánh đèn màu và điệu nhạc, phong lưu công tử bay bướm đa tình và các thương gia giàu sụ săn đón, bổng nhiên trở thành thân tàn ma dại, ngậm đắng nuốt cay cho số phận hẩm hiu,

Cẩm Nhung lao vào con đường đập phá, rượu chè, nghiện ngập, sa đọa…

Năm 1964 người mẹ qua đời. Cẩm Nhung sống với bà vú tên Sọ.

Tiền bạc, nữ trang lần lượt từng bước ra đi.

Bán căn nhà 200 lượng vàng và cùng với bà vú ra ở thuê nhà trọ. Bà vú Sọ qua đời.

Cẩm Nhung tật nguyền.

Không nghề nghiệp, không nơi nương tựa nên chỉ có con đường là đi ăn xin.

Trước Tết năm 1969, người ăn mày xuất hiện ở chợ Bến Thành. Mặt mày dị dạng, đeo trên ngực tấm hình chụp chung với người tình là Trung tá Trần Ngọc Thức. Cô lê bước trên các con đường Sài Gòn, trên hành lang của Thương Xá Tax.

Rồi đến những Chợ Bà Chiểu, Chợ Bình Tây…và sau cùng về Miền Tây ở bến bắc (Phà) Mỹ Thuận, Vĩnh Long.

Hành khách qua lại trên bến phà Mỹ Thuận cho biết Cẩm Nhung không còn mang tấm hình chụp chung với người tình nữa, mà chỉ mang tấm hình của bản thân người ăn mày.

Chuyện kể rằng, một hôm có mấy người lạ mặt đến trao cho người ăn xin một số tiền và giật lấy tấm hình chụp chung hai người.

Ở Sài Gòn xuất hiện bản nhạc “Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ” của hai nhạc sĩ Nhật Ngân và Duy Trung.

Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung.

Bài hát có đoạn:

Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người

Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi

Loài người vô tình giẫm nát thân em

Loài người vô tình giày xéo thân em

Loài người vô tình giết chết đời em…

Trong hồi ký “Đời 1998”, (nhà thơ) Nguyên Sa thuật lại nhiều lần ông và nhà văn Mai Thảo đến nhà chở Cẩm Nhung đi vũ trường Arc en Ciel, ăn kem và hóng mát ở Bến Bạch Đằng.

Lần sau cùng ông gặp Cẩm Nhung như sau:

“Lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, táp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur.

Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích.

Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.

Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm, tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn.

Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, sự va chạm của bàn tay vào những tờ giấy bạc cho nàng biết ngay là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế, nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”.

Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất.

Tôi chưa kịp nói thì Mai Thảo kéo tôi băng qua đường.

Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng.

Mai Thảo gật đầu.

Cẩm Nhung.

Tên người vũ nữ thay quần áo sau tấm bình phong mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs (Bến Bạch Đằng) hóng mát.

Cẩm Nhung bị tạt át xít trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.

Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

-Cẩm Nhung!

Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

-Nhung đấy!”

Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác và dân tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo.

Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa…

Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung, đã lừng danh ở nửa thế kỷ trước.”

Nguồn fb Thầy Lê Văn Thông


 

“TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH” ĐÃ CHIẾN THẮNG HẬN THÙ!- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 Lời biên tập:

Trần Hoài Lam – Tác giả của bài viết này từng là một sĩ quan QLVNCH,

đang cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20.

Ông nhớ về một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp của chính mình: Có một nữ chiến binh VC bị thương trong một trận chiến đẫm máu đã được ông cứu chữa.

Sau chiến tranh, người nữ chiến binh VC ấy đã vào tận trại cải tạo tìm thăm người cựu sĩ quan QLVNCH.

Khi được tự do, 2 người đã thành vợ chồng và họ sang Mỹ sinh sống…

Câu chuyện của 2 người lính từng một thời  là “kẻ thù” của nhau, ngỡ như chỉ có trong tiểu thuyết, thật cảm động, đầy tính nhân văn và vượt qua những bất đồng về lý tưởng.

Nó chứng minh một điều không phải ta dễ dàng nhận ra:

Trong chiến tranh, trái tim yêu thương sẽ chiến thắng sự hận thù, dù ở bên kia chiến tuyến!

*

Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với đối phương, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu.

Một đơn vị VC thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng đơn vị của chúng tôi cũng bị thiệt hại nặng nề không kém!

Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của đối phương.

Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ.

Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ.

Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ.

Chợt Kính giơ tay ra hiệu:

– Sếp ơi! Coi chừng, hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng trái nổ gài lại đó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Khẩu M16 lên đạn sẳn sàng. 

Kính theo kế bên hông.

Những tiếng rên nho nhỏ từ trong lùm cây rậm rạp, ngày càng nghe rõ dần…

– Một nữ “Vi xi”! – Kính nói nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống.

Có thể đối phương gài mìn bẫy xung quanh, hoặc giả vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại.

Giơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng.

Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái còn rất trẻ trạc độ 18 – 19 tuổi, tóc tết đuôi sam, nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước… Nước… Cho tôi miếng nước.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của cô địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu.

Tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương.

Đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người, tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ!

– Ông nhân từ quá, gặp em đi một mình là con nhỏ này tiêu đời! –

Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì.

Thằng Kính cũng có lý.

Những người lính ra trận làm sao tránh khỏi thương vong.

Liệu VC có nhân từ với những người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng nước.

– Đ. Mẹ … Câm miệng lại!

Kính văng tục và gầm ghè giận dữ.

Tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp chết, mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi!

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo (dấu hiệu nhận diện của đơn vị) thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái.

Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của nữ địch quân: khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc.

Dù trắng xanh vì mất máu, nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt…

Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô gái ngoan ngoãn nghe lời như một em bé, rồi thều thào:

– Cám ơn ông nhìều – Giọng cô nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi. Vả lại tôi cũng sắp chết…

– Tầm bậy, vết thương này đâu có gì nguy hiểm!

– Xin ông đừng an ủi như vậy.

Hồi nãy ông nói tôi sắp chết…

– Tại vì… Tại vì… Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói.

Lâu lắm cô lại thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi?

Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cấp trên của ông.

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước này. Ba má tôi đều đã chết vì bom đạn Mỹ. Hãy để thân xác tôi cũng vùi xuống đất mẹ quê hương.

Ông đừng giao tôi cho ai hết.

Tôi xin ông…

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà. Tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Cô cũng là lính, đã đánh trận bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô rên rỉ, nhăn nhó như…

– Sao không đau, ông muốn nói tôi như… khỉ chứ gì?

Cô cướp lời.

Tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi đứng dậy lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô. Những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại cô VC đang nằm.

– Này… Ông tên là gì vậy?

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này!

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó.

Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao.

Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước hoà bình, tiếng súng lặng im, những người từng là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác dù không bị trả thù, “tắm máu”, nhưng đều phải ra trình diện, rồi tập trung đi trại cải tạo…

Một ngày đẹp trời, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán.

Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ Quản giáo phân phát cho anh em.

Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư!

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ.

Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hoài Lam có thư!

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được. Thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng.

Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên.

Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi hồi hộp đến run rẩy mở ra đọc:

“Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:

Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra…

“Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện đã chiến.

Sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị thành phố để họat động…

Chính hành động của anh đã làm thay đổi quan niệm của em.

Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh.

Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với “kẻ thù”.

Dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của đối phương, mà có thể trong đó có cả em từng bắn ra.

Hòa Bình tái lập, nhưng em không vui vì nhiều người còn tư tưởng hận thù.

Em rất buồn vì biết anh đang đi cải tạo…

Nhưng em không thể nào quên anh.

Vì thế, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập.

Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không:

Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tránh được mũi tên hòn đạn”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh.

Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo.

Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi, cho tới khi tôi được tự do và làm thủ tục sang Mỹ sinh sống…

Tôi đã cầu hôn với Quyên và em đồng ý.

Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp.

Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái.

Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc.

Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”.

Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa.

Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác.

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cỡ muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ.

Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Tôi cảm động hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương mình đến như vậy:

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu.

Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại.

Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số.

Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm.

Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao.

Có lẽ bị chết không chừng. Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái.

Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy.

Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó.

Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương.

Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi,

Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Tình yêu và hạnh phúc của chúng tôi đã đi qua chiến tranh như thế!

Trần Hoài Lam


 

ĐỪNG CHỈ TRÍCH – HÃY CẢM THÔNG

Tu Le

Trong cuộc sống, thật dễ để ta nhìn thấy lỗi lầm của người khác. Một câu nói vụng về, một việc làm chưa trọn vẹn, một quyết định sai lầm – tất cả đều khiến ta muốn thốt lên: “Anh sai rồi”, “Em không biết làm gì cả”. Nhưng bạn có nhận ra không, càng chỉ trích, ta càng đẩy người kia rời xa mình.

Người bị chỉ trích hiếm khi thay đổi. Họ chỉ dựng lên bức tường phòng thủ, tìm cách biện minh, hoặc thu mình lại trong im lặng tổn thương. Còn ta, ngỡ rằng đã “nói thẳng để họ tốt hơn”, nhưng thực ra chỉ gieo thêm một khoảng cách lạnh lùng.

Chỉ trích không phải là chiếc gương soi sáng, mà là mảnh thủy tinh làm rách da thịt. Nó có thể làm người ta nhớ lâu, nhưng nhớ bằng nỗi đau chứ không phải bằng lòng biết ơn.

Ngược lại, một chút cảm thông có thể làm mềm trái tim. Khi ta chịu khó đặt mình vào vị trí của họ, ta mới thấy: ai cũng có lý do để hành xử như vậy. Người vội vã có thể vì áp lực, người nóng nảy có thể vì bất an, người vụng về có thể vì chưa từng được chỉ dẫn. Và ta sẽ bớt đi một câu trách móc, thay bằng một lời động viên:

– “Tôi nghĩ có cách này tốt hơn, bạn thử xem nhé.”

Một lời khen đúng lúc, một câu khích lệ chân thành có sức mạnh hơn mười lời phê bình. Nó làm người ta tự tin hơn để bước tiếp, và cũng khiến họ mở lòng hơn với ta.

Thay vì chỉ trích, hãy tìm điều tốt để khen ngợi. Thay vì oán trách, hãy chọn cảm thông. Thay vì than phiền, hãy bắt đầu bằng một nụ cười.

Ứng xử, rốt cuộc, không phải là tranh thắng – thua. Mà là cùng nhau giữ được tình cảm. Người khôn ngoan không phải là người luôn đúng, mà là người biết cách làm cho người khác cảm thấy mình quan trọng.

Hãy thử một ngày không chỉ trích, không oán trách, không than phiền. Bạn sẽ thấy, gương mặt người đối diện sáng hơn, và chính trái tim mình cũng nhẹ nhõm hơn.


TẦU KÉO HAY THUYỀN BUỒM? – Lm. Mark Link, S.J.

 Lm. Mark Link, S.J.

Chủ đề: “Mỗi người chúng ta phải tự quyết định xem mình là loại Kitô Hữu tầu kéo, thuyền buồm hay bè trôi sông”

Một thanh niên viết thư cho một linh mục.  Anh nói vị linh mục có thể tự do xử dụng lá thư của anh. Ngoại trừ một vài sửa đổi, sau đây là nguyên văn lá thư anh viết:

“Con là một trong những tay bơi lội có hạng ở Gia Nã Đại.  Một ngày kia, con để chúng bạn lôi con vào đường ma tuý.

“Con bị nghiện, và không lâu sau đó, sức khỏe tâm trí, thể xác và tinh thần đều xuống dốc cách thảm hại…  Đời con đảo lộn tất cả.  Con trở nên cô đơn và lo sợ khủng khiếp.  Con không thể nói chuyện được với ai.

“Tệ hơn nữa, con vẫn mắc nợ các tay đầu nậu trên $3,000. Con nghĩ, cách duy nhất để thoát khỏi là tự tử, do đó con về nhà và viết lá thư sau:

‘Cha mẹ yêu dấu,

‘Con xin lỗi đã làm cha mẹ đau lòng…  Xin cha mẹ đừng buồn.  Nếu con sống, con sẽ gây thêm nhiều đau buồn hơn là điều con vừa mới thi hành… Con thương cha mẹ và cả gia đình.

[ký tên] Kiệt’

“Con uống rượu để khỏi sợ hãi khi chuẩn bị kết liễu cuộc đời.  Và rồi, vào giây phút sau cùng, điều gì đó đã khiến con ngừng lại.  Con lấy điện thoại và gọi cho trung tâm giúp đỡ khi khủng hoảng.

“Lúc bấy giờ con không biết là mẹ con đã cầu nguyện cho con một cách cuồng nhiệt.  Một vài ngày sau, con nhập viện cai trừ ma tuý.  Không bao lâu con phục hồi sức khỏe thể xác cũng như tâm thần.

“Chính lúc bấy giờ con mới bắt đầu đọc Kinh Thánh.  Càng đọc con càng cảm thấy bình an và niềm vui.  Điều đó khiến con càng tin tưởng vào Chúa hơn nữa.

“Trong khi đó, con càng khao khát được biết Chúa Giêsu hơn.

“Thật buồn cười.  Con từng quỳ gối cầu nguyện tối thiểu trên mười lần – để xin Chúa đến trong đời con – trước khi con nhận ra rằng Người đã ở trong cuộc đời con từ lúc nào…

“Tất cả những điều này xảy ra cách đây chừng năm năm.  Kể từ đó, Thiên Chúa đã chúc phúc nhiều cho con.  Con dạy học trong một trường Công Giáo và tích cực hoạt động trong giáo xứ…

“Con cũng cố gắng mở lòng mình hơn nữa để đón nhận lòng thương xót và tình yêu của Chúa là Cha chúng ta.

Kính chào Cha

Kiệt”

 *******************************

 Lá thư trên cho thấy một trong những điểm của bài phúc âm hôm nay: Cửa vào nước Chúa thì quả thật chật hẹp.

 Trong trường hợp của anh Kiệt, dường như cửa ấy thật là hẹp.  Nhưng điều đó không làm anh nản lòng.  Anh đã cố gắng và cố gắng cho đến khi vào được.

 Tôi tự hỏi, không biết có bao nhiêu người cũng có can đảm để cố gắng như anh Kiệt.

 Có người nói rằng, Kitô Hữu có ba loại người: loại tầu kéo, loại thuyền buồm và loại bè trôi sông.

 Kitô Hữu tầu kéo là những người theo Chúa Giêsu không chỉ khi trời nắng đẹp nhưng cả khi trời giông bão.

 Họ là những người theo Chúa Giêsu không chỉ khi thuận chèo xuôi mái nhưng còn khi gió cả sóng to.

 Họ là những người tham dự Thánh Lễ không vì bó buộc nhưng vì Đức Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly, “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.”  Luca 22:19.

 Họ là những người giúp đỡ người khác không chỉ vì cảm tình mà vì Đức Giêsu đã nói, “Hãy thương yêu nhau, cũng như Thầy yêu thương anh em.” Gioan 15:22. 

Nói tóm, họ là loại người mà bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích chúng ta hãy trở thành. 

Kitô Hữu thuyền buồm, ngược lại, là những người theo Chúa Giêsu khi thuận buồm xuôi gió.  Nhưng khi gió ngược họ lại để xuôi theo chiều gió.

 Họ là những người tham dự Thánh Lễ khi gia đình và bạn hữu cùng đi.  Nhưng để họ tự do thì thường họ quên lãng.

 Họ là những người hay thắc mắc, “Tới mức nào thì được coi là tội?” thay vì “Tôi có thể làm gì vì yêu thương Thiên Chúa và tha nhân?”

 Nói tóm, họ là những người theo Chúa Giêsu qua cánh cửa rộng nhưng lại do dự theo Người qua cánh cửa hẹp.  Họ là những người theo đám đông hơn là theo Phúc Âm.

 Sau cùng, có loại Kitô Hữu bè lênh đênh.  Họ là Kitô Hữu chỉ có tên mà thôi.  Họ không thực sự theo Chúa Giêsu, ngay cả khi thuận chèo xuôi mái.  Nếu họ đi theo đường hướng của Người đó là vì có ai lôi kéo hay xô đẩy họ.

 Họ là những người thực hành đạo không phải vì họ muốn mà là vì ép buộc.

Nói tóm lại, họ là Kitô Hữu chỉ có danh mà không có thực.

 Điều này đưa chúng ta về với các bài đọc hôm nay.  Vấn đề được nêu ra cho chúng ta là: Chúng ta là Kitô Hữu tầu kéo, Kitô Hữu thuyền buồm, hay Kitô Hữu bè lênh đênh?

 Có phải chúng ta là Kitô hữu tầu kéo không?  Chúng ta có theo Chúa khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan không?  Chúng ta có đi với Người không chỉ qua cửa rộng mà còn qua cửa hẹp không?  Hay chúng ta là Kitô Hữu thuyền buồm?  Có phải chúng ta chỉ theo Chúa khi thịnh vượng thôi?  Có phải chúng ta chỉ theo Người qua cửa rộng?

 Có những câu hỏi mà các bài đọc hôm nay đặt ra cho chúng ta.  Không ai có thể trả lời thay cho chúng ta mà chúng ta phải tự trả lời.

 Các bài đọc hôm nay mời chúng ta đối diện với các câu hỏi này với cùng một can đảm mà anh Kiệt đã có được khi đối diện với các khó khăn của anh.  Nếu chúng ta đối diện với các vấn đề giống như anh, chắc chắn chúng ta sẽ có sự trợ giúp của Thiên Chúa như anh đã nhận được.

 Hãy chấm dứt với bài thơ của thi sĩ John Oxenham:

 “Mỗi người đều có một con đường trước mặt: đường cao, đường lưng chừng và đường thấp.

 “Một linh hồn cao quý đi theo con đường cao; và linh hồn thấp hèn đi theo con đường thấp; phần còn lại trôi dạt đây đó trên con đường lưng chừng mù mờ.

 “Mỗi một người đều có một con đường trước mặt: đường cao, đường lưng chừng và đường thấp.  Và mỗi một người phải quyết định cho mình một con đường để linh hồn đi theo.”

 Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

Sống trong bóng tối của tín dụng đen: Người phụ nữ Hà Nội uống 400 viên thuốc ngủ để tự sát

Ba’o DAT VIET

August 22, 2025

Trong một vụ việc gây chấn động dư luận tại Hà Nội, bà L.T.N.A, 41 tuổi, cư dân phường Văn Miếu – Quốc Tử Giám, đã uống hơn 400 viên thuốc ngủ để tìm đến cái chết sau sáu năm bị giày vò bởi các khoản vay nặng lãi. May mắn được phát hiện kịp thời và đưa đi cấp cứu, bà A. hiện vẫn sống, nhưng đang phải vật lộn với nỗi sợ hãi và áp lực tâm lý không dứt từ các chủ nợ.

Theo thông tin từ báo Thanh Niên hôm 21 Tháng Tám, bi kịch bắt đầu từ năm 2019, khi bà A. vay tiền của ông N.M.Đ, 31 tuổi, để kinh doanh. Tổng cộng bà vay 800 triệu đồng (khoảng $30,000), với thỏa thuận lãi suất 6,000 đồng (20 cent) mỗi triệu mỗi ngày – một hình thức cho vay ngắn hạn đầy rủi ro mà người dân quen gọi là “vay nóng.”

Tuy nhiên, mọi chuyện nhanh chóng mất kiểm soát. Khi không thể trả lãi đúng hạn, tiền lãi được cộng vào gốc, và số nợ cứ thế phình lên. Để đáo hạn, bà A. tiếp tục vay dưới hình thức “bốc bát họ” – một biến thể khác của tín dụng đen, với lãi suất cắt cổ 10,000 đồng (40 cent) mỗi triệu mỗi ngày. Mức lãi suất này tương đương từ 219% đến 635% mỗi năm – cao gấp nhiều lần giới hạn mà pháp luật cho phép.

Sau sáu năm quay cuồng trong vòng xoáy nợ nần, bà A. cho biết mình đã trả gần 58 tỷ đồng (khoảng $2.2 triệu) chỉ để trả lãi. Thế nhưng trong sổ nợ của chủ cho vay, bà vẫn còn bị ghi nợ tới 8.4 tỷ đồng (hơn $317,000) – một con số vượt xa khoản vay ban đầu gần ba mươi lần.

Không chỉ bị đẩy vào cảnh kiệt quệ tài chính, bà A. còn sống trong nỗi lo sợ thường trực. Mỗi khi chậm trả lãi, bà bị gọi điện đe dọa, chửi bới, thậm chí bị tạt sơn, chất bẩn vào nhà. Đỉnh điểm của áp lực là vào ngày 20 Tháng Bảy vừa qua, khi ông Đ. liên tục gọi điện khủng bố tinh thần, thậm chí chĩa mũi dùi sang người mẹ già mắc bệnh tim của bà.

Không còn lối thoát, ngày 24 Tháng Bảy, bà thuê phòng khách sạn và uống hơn 400 viên thuốc ngủ chứa chất Diazepam – một loại an thần gây buồn ngủ mạnh – với ý định chấm dứt tất cả. Nhưng bà được phát hiện kịp thời và đưa tới Trung tâm Chống độc, bệnh viện Bạch Mai để cấp cứu. Sau khi qua cơn nguy kịch, bà được chuyển về bệnh viện Thanh Nhàn để tiếp tục theo dõi.

Bà A. cho biết mình là con một trong một gia đình nền nếp, sống giữa khu phố nhiều định kiến. Trong sáu năm qua, bà đã gồng mình gánh nợ và chịu đựng sự khinh miệt, những lời bàn ra tán vào – tất cả chỉ vì sợ mẹ mình sốc và không chịu nổi áp lực dư luận. Bà nói rằng mình “biết rõ là nạn nhân của tín dụng đen” nhưng vì danh dự gia đình và nỗi sợ bị làm nhục, bà đã chọn im lặng.

Sau khi ra viện, bà đã lập vi bằng toàn bộ tin nhắn, file ghi âm, sao kê giao dịch với ông Đ. từ năm 2019 đến nay, với mục đích tố cáo hành vi cho vay nặng lãi và có dấu hiệu cưỡng đoạt tài sản.

Câu chuyện của bà A. không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là hồi chuông báo động về tình trạng tín dụng đen đang hoành hành khắp nơi. Giữa một hệ thống tài chính chính thức chưa đủ thân thiện với người dân có thu nhập thấp, các tổ chức tín dụng bất hợp pháp vẫn len lỏi, lợi dụng sự thiếu hiểu biết và tuyệt vọng của nạn nhân để trục lợi trắng trợn.

Và như thường lệ, hậu quả không chỉ là mất tiền, mà còn là mất nhân phẩm, mất danh dự và đôi khi là cả mạng sống.