THẾ GIỚI ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?

THẾ GIỚI ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Câu hỏi đặt ra không liên quan gì đến vấn đề chính trị, kinh tế,  quân sự  của thế giới , mà chủ yếu là suy tư về vấn đề luân lý và đạo đức ( moral & ethics) của thế giới hôm nay mà thôi

Thật vậy, những ai quan tâm đến luân lý , đạo đức thì phải ngao ngán trước thực  trạng suy đồi  nghiêm trọng về  cả hai mặt này  của thế giới hôm nay, đặc biệt là ở những quốc gia có truyền thống Kitô Giáo, như Ý , Đức, Pháp , Tây Ban Nha, Ái Nhĩ Lan ( Ireland) Anh Quốc,  Canada  và Hoa Kỳ. Đây là những quốc gia có đông người theo Kitô Giáo  ( Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo) nhưng nay lại sống phản Kitô giáo ( anti-Christianity) cách rõ nét  khi cho phép những thực hành vô luân vô đạo như  làm ngơ cho sách báo, phim ảnh  khiêu dâm  được tự do lưu hành, cho  li dị, phá thai và hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)

Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng xấu hổ cho những ai thành tâm muốn sống cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo và hãnh diện là tín hữu Kitô.(Christians)

Sở dĩ thế, vì  con người khác thú vật  nhờ  có đời sống tâm linh, có ý thức luân lý ,đạo đức,  khác biệt  với loài vật  chỉ có bản năng và hoàn toàn vô tri.Và đó là lý do tại sao vấn đề luân lý, vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra  riêng cho con người mà thôi.

Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, người ta phải đau buồn vì  các quốc gia  có truyền thống Kitô Giáo nói trên đang tiến nhanh, tiến mạnh   trên đường suy thoái đạo đức và luân lý,  khi họ làm ngơ –hay tệ hại hơn nữa-  là cho phép những thực hành  mà tự bản chất là phi luân, vô đạo,  như cho phép kỹ nghệ dâm ô ( pornography) tự do tung hoành, gây tác hại tinh thần cho giới trẻ và người lớn,  cho  phá  thai, li dị , và nay là  hôn nhân đồng tinh,  (same sex marriage) như một thách đố có tác dụng phá đổ nền tảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.

Gia đình -từ ngàn xưa-  là nên tảng của mọi xã hội con người, là hy vọng của mọi dân tộc, – và cách riêng- là  tương lai  của Giáo Hội. Gia đình chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi có người làm cha, làm mẹ, làm chồng làm vợ. Con cải phải có cha có mẹ thì mới  thực sự cảm nhận mình là con cái.

Vậy mà nền tảng gia đinh dựa trên những tương giao căn bản cần thiết nói trên đang bị các xã hội bệnh hoạn  trên đây phá đổ, khi họ cho  định nghĩa lại ý nghĩa và mục đích của hôn nhân để  cho phép hôn nhân đồng tính.

Điều này, trước hết,  hoàn toàn đi ngược lại mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ mệnh lệnh phải sinh sôi nẩy nở cho thật  nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. ( St 1: 28).

Đây là nên tảng luân lý, đạo đức và là mục đích của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ từ khi có con người trên mặt đát này.

Vậy mà nay các  xã hội bệnh hoạn  nói trên cho phép  hai người nam hay hai người nữ kết hôn, và gọi đó là hôn nhân như hôn nhân của một người nam và một người nữ từ xưa đến nay, thì làm sao chu toàn được mục đích nói trên của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa;  nếu các quốc gia có truyền thông Kito Giáo nói  trên  còn tin có Thiên Chúa là  Đấng tối cao, đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình  ?

Nếu tin có Thiên Chúa thì phải thi hành những gì Ngài mong muốn cho con người sống và làm để được chúc phúc ngay từ ở đời này trước khi được cứu độ để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.

Do đó, cho muc đích sống theo đường lối của Thiên Chúa, con người phải sống một đời sống luân lý và đạo đức, để phân biệt mình với những kẻ vô thần ( atheists), không tin có Thiên Chúa và luân lý phổ quát ( universal moral).

Liên can đến vấn đề hôn nhân đồng tính, nếu cha mẹ của những người đang tán thành hôn nhân đồng tính, cũng  là những người đồng tính,  thì làm sao sinh ra được họ,  để giờ đây họ nhắm mắt bịt tai  công nhận hôn nhân giữa hai người đồng tính ? cha mẹ của họ phải là một người nam và một người nữ kết hôn đúng nghĩa với nhau thì mới sinh ra họ, và xã hội con người ở khắp nơi mới tồn tại cho đến ngày nay.

Nay vì muốn chiều theo ý muốn ngang trái của một thiểu số người sinh ra với khuynh hướng bất thường về phái tính ( abnormally sexual tendency), người ta đã tán thành và cho phép hôn nhân đồng tính như một định chế tương đương với hôn nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, như thực trạng của xã hội loài người từ xưa đến nay.

Chúng ta không lên án những người sinh ra với khuynh hướng khác thường nói trên. Nhưng chúng ta không thể công nhận  việc công khai  sống chung của họ là  hôn nhân,  như đại đa số những người bình thường  khác , đã kết hôn cho mục đích duy trì nòi giống, và chu toàn trách nhiệm của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa,  là Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và đã se kết họ trong giao ước  hôn nhân để công tác với Chúa trong chương trình sáng tạo nhằm  có đông con người sinh ra trong trần thế này.

Chúa Kitô , khi xuống trần gian làm Con Người, cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ thật là Đức Trinh Nữ Maria, thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và có cha nuôi là Thánh Cả Giuse. Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse chắc chắn là những  người bình thường về mọi mặt như mọi con người khác.  Hai ông bà kết hôn vì phong tục tập quán của xã hội Do Thái và cũng vì thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa chọn cho Con Một của mình là Chúa Giê su- Kitô  sinh r a bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng trước mặt người đời, Mẹ Maria không thể có con mà không có chồng. Vì thế, Thánh Giuse đã được chọn để đóng vai người chồng của Mẹ Maria trước mặt người đời. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, hai ông bà đều là những người yêu mến đức đồng trinh và muốn tôn vinh Thiên Chúa với đời sống khiết tịnh vẹn toàn của mình.

Thánh gia thất Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh Giuse  là khuôn  mẫu cho mọi gia đình nhân loại. Gương mẫu cho mọi con cái , cho những người làm cha ,làm  chồng, làm  vợ  và làm  mẹ .Đây là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai được ơn gọi sống bậc hôn nhân để làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ để nuôi dạy con cái  là kết quả và là muc đích của hôn nhân thánh thiện theo kế hoạch của Thiên Chúa, được Chúa Giê su nâng lên hàng bí tích với lời dạy sau đây:

Để trả lời những người Biệt phái đến hỏi Chúa Giê su xem người ta có được phép li dị không , Chúa đáp: Các ông không đọc thấy điều này sao ? “Thuở ban đầu, Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : vì thế người  ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt . Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân li.” ( Mt 19: 4-6)

Trên đây là giáo huấn của Chúa Giê su mà Giáo Hội có bổn phận truyền dạy cho con cái mình  tôn trọng và thi hành để được cứu rỗi.Giáo huấn này không ai được phép  cắt nghĩa cách khác và thay đổi vì bất cứ lý do nào.

Mới đây, trong dịp tiếp kiến các Giám mục của Công Hòa Đô-mi-nícan  ngày 28 tháng 5 vừa qua , Đức Thánh Cha Phanxi cô đã nói với các giám mục như sau:

Chúng ta hãy tiếp tục phô bày vẻ đẹp của hôn nhân Kitô giáo : kết hôn trong Chúa là một hành động của đức tin và đức ái: qua đó người phối nhẫu với tự do ưng thuận, trở thành phương tiện chuyên chở  phép lành và ơn phúc của Thiên Chúa cho Giáo Hội và xã hội. ( Let us continue to present  the beauty of Christian matrimony : to marry in the Lord is an act of faith and love, in which the spouses- through their free consent , become a means of passing on the blessing and grace of God for the Church and society. ( L ‘Osservatore Romano , number 23, Friday , June 5, 2015)

Như thế, hôn nhân Kitô giáo không thể là hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ có khuynh hướng đồng tính được, mà phải là hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người có nam có nữ;  và cũng là truyền thống đã có từ bao thế hệ  qua trong mọi nền văn hóa, phong hóa của mọi dân tộc trên thế giới từ xưa đến nay.

Đây là vấn đề có liên quan mật thiết đến luân lý và đạo đức, là nền tảng của đời sống con người,  chứ không phải là vấn đề tôn trọng quyền sống của cá nhân  ai  như người ta đang nại ra để cho phép hôn nhân đồng tính.

Đó là vấn đề luân lý, đạo đức, vì luân lý phổ quát dạy mọi người là phái tính ( sexuality) chỉ tự nhiên giữa một người nam và một người nữ tự do kết hôn với nhau theo truyền thống và phong hóa của mọi dân tộc.

Dó đó, hai người nam hay hai người  nữ mà có liên hệ phái tính với nhau thì đây là điều trái tự nhiên ( unnatural) và vô luân ( immoral)

Tác giả Sách Lê vi đã lên án sự  phối hợp phái tính trái tự nhiên nói trên như sau:

khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm…” ( Lê vi 20: 13)

Như vậy, công nhận cho hai người đàn ông hay hai đàn bà kết hôn có nghĩa công nhận sự vô luân về phái tính;  hay nói khác đi, công nhận sự chung đụng xác thit giữa hai người nam hay hai người nữ  là  điều cũng tự nhiên như sự chung đụng của một người nam và một người nữ kết hôn trong mọi gia đình nhân loại từ xưa đến nay ?

Nếu thế thì những việc vô luân khác như thủ dâm ( masturbation) loạn dâm =loạn luân ( incest)  ấu dâm   ( child prostitution) và thú dâm (sodomy), thông dâm ( fornification)  ngoại tình ( adultery)…  đều không còn là những hành vi vô luân nữa, vì chúng đều xuát phát từ những khuynh hướng hay ước muốn vô trật tự và vô luân  ( inordinate, immoral))  của con người !, tương tự như huynh hướng đồng tính bất thường  mà người ta đang cho phép người có khuynh hướng này kết hôn, tức là công nhận việc ăn nằm của họ là không có gì ngăn trở về luân lý !!!

Đây rõ rệt là một suy thoái nghiêm trọng về luân lý hôn nhân, và luân lý phổ quát ( universal moral)  của các xã hội bệnh hoạn nói trên. Chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận loại  hôn nhân đồng tính này ,  vì nó vừa sai trái nặng về mặt  luân lý – và nghiêm trọng hơn nữa- là đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa về  ý nghĩa và mục đích của bí tích  hôn phối mà Giaó Hội có bổn phận bảo vệ và thi hành không chút nhân nhượng.

Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng đồng tính, nhưng không thể cho phép họ sống chung như vợ chồng được, vì việc sống chung này là điều trái tự nhiên và vô luân. Do đó, những ai đang sống trong tình trạng này thì không được đến  với hai  bí tích hòa giải và Thánh Thể, mặc dù họ vẫn có thể đến nhà thờ để cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ cùng với các giáo dân khác.

Sau hết, một điểm thắc mắc không thể bỏ qua là những đứa trẻ được các cặp hôn nhân đồng tình này nhận làm con nuôi, thì chúng sẽ nghĩ gì về việc chúng chỉ có hai bà mẹ hay hai người cha trong gia đình? Và gương xấu này sẽ tác hại  ra sao khi các trẻ đó lớn lên với hai người cha  hay hai người mẹ??? Nếu chúng cũng là những đứa trẻ sinh ra với khuynh hường tính dục khác thường như người nuôi dạy chúng, thì không nói làm chi. Những nếu chúng- mà đa số chắc chắn như vậy-  là những trẻ sinh ra với mọi khuynh hướng bình thường,  thì việc sống chung với những người bất bình thường kia  sẽ là một tai hại lớn cho chúng về mặt tình thần, tình cảm và luân lý. Như thế, những kẻ cho phép hôn nhân đồng tính sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về  những tai hại tinh thần, tình cảm và ý thức luân lý của các trẻ được nuôi dạy trong môi trường đồng tính.

Vây những kẻ đang nhắm mắt công nhân hôn nhân đồng tình sẽ trả lời thế nào về nan đề  nói trên, liên quan đến   các trẻ em được các người đồng tính nhận nuôi dạy trong các gia đình bất bình thường của họ ?

Tóm lại, định nghĩa lại hôn nhân để công nhận hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ là một suy thoái nặng nề về luân lý và đạo đức cần phải  quan tâm và lên tiếng trước thực trạng đáng buồn của thế giới tục hóa hiện nay.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở

“Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở”
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở.
Nhưng biết bao giờ,
Tôi mới được nói thẳng,
Những điều tôi ước mơ?”

(Thơ: Thích Nhất Hạnh – Phạm Duy phổ nhạc: Tâm Ca 1)

(Thư Galát 4: 18-20)

Tâm ca ư? Phải chăng là bài ca tâm-tình hát bằng cả con tim, đấy chứ gì! Vâng. Tim nào mà chẳng bảo: “Tôi vẫn sống”, “vẫn ăn” và “vẫn thở” hệt như lời của Lm Tiến Lộc, DCCT đã đàn hát trong đêm văn-nghệ bỏ túi nhân chuyến viếng thăm Gia-đình An Phong hôm 9.5.2015, chứ? Lời hát nào mà chẳng: “nói những điều tôi ước mơ” cũng rất nhiều!

Thế còn, những lời dưới đây thì sao:

“Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá.
Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Vâng. Tâm ca hay ca hát những tâm-tình của người nghệ sĩ từng hát ca hay viết nhạc vẫn là như thế. Còn, tâm-tình đầy ý-tứ lẫn ý-từ rất thi-phú của người thường ở đời thì sao? Thôi thì, xin mời bạn mời tôi, ta nghe thêm một lời kể về chuyện đời cũng đáng nể, như sau:

“Truyện, là truyện về hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos ở trời Tây, như sau.

Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.

Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..

Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.

Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.

Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.

Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.” (trích truyện kể do bạn bè gửi để kể cho nhau nghe đôi điều về cuộc đời, của con người.)

Truyện kể hoặc lời ca tiếng hát ở đời, lâu nay vẫn như thế. Nhưng, nếu kể về những chuyện nhà Đạo ở đây đó mà người nhà trời lâu nay vẫn gọi là chuyện thần-thông biến-hoá rất triết/thần thì, ôi thôi vẫn dài dòng vô số kể. Kể làm sao cho hết. Nói làm sao cho thông được chuyện thần-thông như thế được!

Thôi thì, hôm nay, bần đạo lại dám mời tôi/mời bạn ta đi vào khung trời mở rộng rất triết-thần để kể cho những những vấn-đề nghe rồi lại suy-tư/nghĩ ngợi đến nhức óc, rối bời một thời ở nhà Đạo cũng rất bạo. Truyện lan man, tản mạn không chỉ mỗi lý-luận hoặc tranh-luận đến đỏ mặt tía tai rất nhiều ngày, như những thứ và những sự được truyền-thông loan tải, như sau:

Truyện kể hôm nay gồm những mảng thông-tin lai rai, dài dài về nhiều thứ, trong đó có cả những những và những sự về cái-gọi-là “Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở”, ở cuộc đời đi Đạo, sau đây:

“Hôm 22/5/2015, truyền thông/báo đài đủ các loại có loan tải một tin tức từ châu Á, đã bảo rằng: “Trung Quốc lâu nay vẫn cứ bảo rằng: Tôn-giáo phải được tự-do không nên để mình bị ảnh-hưởng bởi các thế-lực bên ngoài. Đó là lời phát-biểu của vị Chủ Tịch Nước này yêu cầu các nhóm-hội/đoàn-thể các tôn-giáo hãy tuyên-thệ trung-thành với nhà nước.

Nói thế có nghĩa: tôn-giáo các loại phải nằm trong vòng ‘ảnh-hưởng’ của các bàn tay thuộc xã-hội chủ-nghĩa ở trong nước.

Được biết, Trung Quốc lâu nay vẫn nằm dưới sự thống-trị của Đáng Cộng-sản vô-thần và Bắc Kinh vẫn muốn tìm cách không-chế các tôn-giáo khác nhau để họ không thể phát-triển rộng rãi. Chính vì thế mà vị Chủ-tịch nước này, lại cứ tỏ-bày bằng lời lẽ cứng-rắn như sau:

“Chúng ta phải quản-lý tôn-giáo sự-vụ sao cho phù-hợp với luật-lệ của nước nhà ngõ hầu gắn bó với các nguyên-tắc độc-lập mà quản-lý các nhóm hội/đoàn-thể tôn-giáo theo sự đồng thuận của chúng ta… Mọi phần-tử trong nước cần phải cố-gắng không ngừng để tháp-nhập tôn-giáo vào với xã-hội vốn tuân theo chủ-nghĩa xã-hội, và như thế công-tác tôn-giáo vận của Đảng ta phải nắm vững là sẽ chiến-thắng trong chiếm-đoạt đầu óc cũng tâm-can của quần-chúng cho lợi-ích của Đảng…”(xem Sheila Liaugminas, MercatorNet 22/5/2015)

Vâng. Đối với các cụ và các vị còn sống dưới chế-độ Cộng-sản, thì ý-nghĩa của câu hát “Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở”, vẫn là như thế. Như thế, tức bảo rằng: mọi chuyện Đạo/đời đều phải tập-trung làm sao cho Đảng và nhà nước vẫn cứ ăn, cứ thở và cứ sống mãi trong lòng người, rất dân tộc.

Vâng. Với các vị và các cụ sống ở đời không cần nhờ cũng chẳng ỷ vào Đảng này đảng nọ, lại sẽ khác. Khác thế nào, ư? Đây, lại xin mời bà con mình nghe thêm đôi điều từ một “mảng” không-gian và thời gian, cũng rất khác, ở trời Tây, như sau:

“Các Giám-mục phải sống nhạy bén với Giáo-hội, tức tỏ ra quả-cảm trong việc phản-bác các ý-đồ mang tính-chất vănminh/văn-hoá xúc-phạm đến phẩm-cách con người. Đồng thời tin-tưởng vào các giáo-dân để họ có thể làm tròn trách-vụ được Chúa gọi mời thực-thi cho thế-giới. Trên đây, là lời phát-biểu của Đức Giáo-Tông Phanxicô nói với các Giám-mục nước Ý hôm 18/5/2015 vào lúc khai-mạc buổi họp toàn-thể hàng năm ở Vaticăng.

Nhạy-bén với Giáo-hội còn có nghĩa: tự-tạo cho mình động-thái từ-bi, khiêm-tốn, biết xót thương  cùng sự khôn-ngoan rất cụ-thể của Đức Kitô. Một phần của tính bén nhạy đối với Giáo-hội, còn là củng-cố vai-trò rất thiết-yếu của người giáo-dân những muốn nhận-lãnh trách-nhiệm được giao cho họ. Trên thực-tế, các giáo-dân từng được đào-tạo thành Kitô-hữu thực-thụ không cần sự lèo-lái của Giám-mục hoặc “Đức ông” hoặc hàng giáo-sĩ để thực-thi trọng-trách vốn dĩ trao cho họ ở bất cứ lãnh-vực nào cũng thế, như: chính-trị, kinh-tế, xã-hội đến luật-lệ. Thay vào đó, họ chỉ cần các Giám-quản mang tính-chất Mục-tử mà thôi.

Vào thời-điểm giai-đoạn lịch-sử khi mọi người chúng ta cứ bị thông-tin chuyên gây nản-chí, nản lòng vẫn vây quanh, hoặc hoàn-cảnh quốc-tế cũng như nội-địa khiến ta thấy sầu buồn/khổ-nãovốn dĩ không hỗ-trợ ơn gọi làm giáo-dân nhất là vào lúc cả giáo-dân lẫn các vị chủ-quản giáo-phậ phải đi người lại cơn nước ròng đang chảy xiết…” (xem Cindy Wooden, Call it as you see it, leave laity to do their job, pope tells bishops, The Catholic Weekly, 24/5/2015, tr 9, 29)

Vâng. Tôi đây với tư-cách là giáo-dân ở địa-phận nhà “vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở” như bao giờ. Nhưng hỏi rằng, lối sống ấy có là sống theo qui-cách như Đức Giáo Tông Phanxicô vừa nói hay không. Đó mới là vấn đề.

Vấn-đề của thành-viên “Nước Trời” ngày hôm nay, có thể là như thế, tức trong tình-trạng ba chìm bẩy nổi dù vẫn thở.

Vấn-đề của nhà Đạo hôm nay, vẫn cứ thế, tức như thể động-thái của ông cụ Vũ Như Cẫn, tức vẫn như cũ, suốt từ ngày Công Đồng Vatican kết thúc đến 50 năm sau.

Vấn-đề như của ông Vũ Như Cẫn nơi giáo-dân ở huyện nhà và huyện nào đó ở các nơi vẫn là chuyện cần đặt lại, không cần phải mở thêm một Công Đồng Vatican thứ 3 hoiặc thứ 4 nữa mà làm gì.

Vấn-đề của giáo-dân hay giáo-sĩ dưới sức đè nén của hàng giáo sĩ lẫn giáo-phẩm vẫn còn đó nỗi buồn ,rất thiên thu. Buồn như câu hát của nhà thơ và người viết nhạc vẫn từng bảo:

“Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Vâng. Không phải thế đâu. Không phải “Biết bao giờ” tôi mới được “nói những điều tôi ước mơ, ước mớ” như các nghệ-sĩ/thơ văn vẫn cứ nghĩ và cứ làm…

Vâng. Không phải thế đâu. Không phải “Biết bao giờ, tôi hay bạn mới nói được những điều mình mơ ước như thế đâu! Bằng chứng ư? Thì đây, một ý-nghĩ cùng tư-tưởng của người dân bình thường ở huyện đã từng viết và nói lên ước mơ nhỏ của mình qua câu truyện kể như sau:

“Truyện rằng:

Vợ của anh  đã qua đời được 4 năm, anh  không có cách nào có thể chăm sóc được cha mẹ nên cả thấy chán nản và mệt mỏi.

Một buổi tối khi anh trở về nhà, vì quá mệt mỏi nên anh chỉ chào hỏi đứa con ngắn gọn và không muốn ăn cơm, cởi xong bộ complet liệng lên giường nằm. Đúng lúc đó, ầm một tiếng, tô mì tôm làm dơ hết mền và ga trải giường, hóa ra trong mền có một tô mì tôm. “Cái thằng ranh con này”, anh ta liền vớ một chiếc móc quần áo chạy ra ngoài đánh cho đứa con trai đang ngồi chơi một trận

Đứa con trai vừa khóc vừa nói:
– Cơm sáng đã ăn hết rồi, đến tối con chưa thấy cha về, thấy đói bụng nên đi tìm đồ ăn, con tìm thấy mì tôm trong tủ bếp, muốn nấu mì tôm ăn nhưng cha dặn không được tùy tiện dùng bếp gas nên con lấy nước nóng từ trong vòi tắm pha mì tôm: con pha một tô ăn, còn một tô để phần cha. Sợ mì tôm bị nguội nên con mang vào giường ủ trong mền đợi cha về ăn cho nóng. Con mải chơi đồ chơi mới mượn được của bạn nên khi cha về đã quên không nói với cha.

Anh không muốn đứa con thấy mình khóc nên vội vã vào nhà vệ sinh, mở vòi nước và khóc. Khi đã ổn định tinh thần, anh mở cửa phòng con trai và nhìn thấy đứa con trai trong bộ quần áo ngủ, nước mắt giàn giụa và tay đang cầm bức hình của mẹ nó.

Từ đó trở đi, anh chăm sóc con trai tận tâm hơn, chu đáo hơn. Khi con trai mới vào học cấp I, anh đánh con một trận nữa. Hôm đó, thầy giáo gọi điện về nhà báo con anh không đi học. Anh lập tức xin nghỉ về nhà, chạy đi tìm con khắp nơi. Sau vài tiếng đồng hồ đi tìm anh đến một cửa hàng bán văn phòng phẩm nhìn thấy đứa con đang đứng trước một tiệm đồ chơi điện tử, thế là anh tức giận đánh con, đứa con không một lời giải thích, chỉ nói: “Con xin lỗi”.

Một năm sau, anh nhận được điện thoại từ bưu điện, nói con trai anh đã bỏ một loạt các bức thư không viết địa chỉ vào hộp thư. Cuối năm là lúc bưu điện bận rộn nhất nên điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho họ. Anh lập tức đến bưu điện, mang những bức thư đó về ném trước mặt con trai nói:

– Sao mày lại làm những trò tai quái thế này hả?
Thằng bé vừa khóc vừa trả lời:
– Đây là những bức thư con gửi cho mẹ.
Mắt người cha cay cay hỏi con:
– Tại sao một lúc gửi nhiều thư như vậy?
Đứa con nói:
– Trước đây con còn thấp nên không bỏ thư vào hộp thư được, bây giờ con lớn có thể bỏ thư vào được rồi nên con mang gửi hết những bức thư con viết từ trước đến giờ.
Người cha nghe xong, tâm trạng rối bời không biết nói gì với con. Một lát sau người cha nói:
– Mẹ con giờ ở trên thiên đàng, sau này con viết thư xong, hãy đốt nó đi thì có thể gửi thư cho mẹ được đấy.
Đợi đứa con ngủ, anh mở những bức thư đó xem đứa con muốn nói gì với mẹ, trong đó có một bức thư khiến anh vô cùng xúc động.
“Mẹ thân yêu của con: Con nhớ mẹ lắm! Mẹ ơi, hôm nay ở trường con có một tiết mục mẹ cùng con biểu diễn, nhưng vì con không có mẹ nên con không tham gia. Con cũng không nói cho cha biết vì sợ cha sẽ nhớ mẹ. Thế là cha đi khắp nơi tìm con, nhưng con muốn cha nhìn thấy con giống như đang đi chơi nên con đã cố ý đứng trước một tiệm đồ chơi điện tử. Tuy cha đã rầy con nhưng con đã kiên quyết không nói cho cha biết vì sao. Mẹ ơi, con ngày nào cũng thấy cha đứng trước ảnh mẹ ngắm rất lâu, con nghĩ cha cũng như con rất nhớ mẹ!

Mẹ ơi, con đã sắp quên giọng nói của mẹ rồi, con xin mẹ trong giấc mơ của con hãy để con được gặp mẹ một lần được không, để con nhìn thấy khuôn mặt của mẹ, nghe thấy giọng nói của mẹ, được không mẹ?
Con nghe mọi người ta nói nếu ôm bức ảnh của người mình nhớ vào lòng rồi đi ngủ thì sẽ mơ thấy người đó, nhưng mà mẹ ơi, vì sao con tối nào cũng làm như thế mà trong giấc mơ của con vẫn không gặp được mẹ?”
Đọc xong bức thư, người cha òa khóc Anh không ngừng tự trách mình: phải làm sao mới có thể lấp được khoảng trống mà người vợ để lại đây?

Chúng ta là những người cha người mẹ khi đã mang cuộc sống của đứa con đến với thế giới này có nghĩa là gánh trên vai trách nhiệm vô cùng to lớn. Khi đã là một người mẹ, không nên tăng ca quá nhiều; khi đã là một người cha, không nên uống quá nhiều rượu, đừng nên hút nhiều thuốc, phải chăm sóc tốt cho bản thân mới có thể yêu thương con hết lòng; tuyệt đối đừng nên vì muốn kiếm nhiều tiền mà hủy hoại sức khỏe của mình. Không có sức khỏe thì những danh lợi kia có nghĩa lý gì. Và cũng đừng nghĩ rằng đợi đến khi cha mẹ có nhiều tiền thì sẽ như thế này như thế kia: Nào ai biết sau này chuyện gì sẽ xảy ra, có thể sau một giây mọi chuyện đã khác?!

Những người cha người mẹ xin đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà dễ dàng ly hôn. Vì đau thương lớn nhất sau sự đổ vỡ đó không ai hết mà chính là thuộc về đứa con. Bạn đã kết hôn hay chưa kết hôn thì hãy nhớ một điều, xin hãy quý trọng “nó”. (Truyện kể lại cũng được trích từ mạng vi-tính rất vi-sinh)

Xin “những người cha người mẹ đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà dễ-dàng ly-hôn…” Đó, có thể là câu nói của người đời sống ở đời người. Với nhà Đạo, lại cũng có những câu rất tương tự của bậc thánh-hiền, bấy lâu nay cũng kêu gọi một lời tương-tự, rằng:

“Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều tốt,

miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp,

chứ không phải chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em.19

Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi,

mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa

cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em,20

tôi ước ao được có mặt giữa anh em lúc này,

để lựa lời nói sao cho thích hợp,

vì tôi thấy khó xử với anh em quá!

(Thư Galát 4: 18-20)

“Lựa lời nói sao cho thích-hợp”, lời khuyên răn và cũng là lời kêu gọi gửi đến mọi người rất hôm nay. Bởi, lời nói chính là nguyên-do của mọi thứ chuyện trong đời. Kể cả những lời thơ và ý-nhạc được nhà thơ cũng như người viết nhạc, cùng nhau hợp tác nhau trong bài hát ở trên, cứ hát hoài hát mãi, rất như sau:

“Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá.
Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn, mời tôi , ta lại nghĩ-suy những điều được trích-dẫn vẫn ở trên và ở trong mọi giòng chảy thơ văn, nơi đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn hát

Những lời ca tương-tự

ở cuộc sống rất đời thường,

nơi huyện nhà thân-thương

cũng rất Đạo.

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,

Tin Mừng (Mc 6: 30-34)

Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.

“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,”

“Để nghe dưới đáy nước hò reo”.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Nhà thơ hôm nay lại cũng bảo: chớ nói nhiều, nhưng hãy nghe. Nghe đây, không chỉ mỗi ” nước hồ reo”. Mà, cả tiếng mời gọi mọi người đừng quá chuyên chăm ăn/làm. Nhưng, còn biết ngơi nghỉ, “để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem trời giải nghĩa Yêu!” Ý-nghĩa của Tình-Yêu Chúa dặn dò, nhưng còn là Lời Vàng Ngài giải-thích.

Trong sống đời thường ở huyện, tôi biết nhiều người, làm việc rất vất vả. Đứng máy giây chuyền, hoặc ngồi bàn giấy công sở từ 8 giờ sáng đến 7, 8 giờ tối, không ngơi nghỉ. Linh mục chúng tôi, qua mục vụ, cũng gặp rất nhiều người trẻ chủ-trương sống đời đi Đạo cũng vẫn “làm việc và làm việc”. Họ trưng dẫn nhiều lý do nghe rất sôi nổi: những là: để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, bây giờ và mai sau.

Có bạn làm 60 tiếng, một tuần. Người khác, cày bừa ở sở chưa đủ, lại rủ bạn đem việc về nhà làm, chẳng quản-ngại thong-tầm, làm thâu đêm suốt sáng.

Bình tâm hơn, có bạn “nướng” thêm một ngày cuối tuần -khi xưa vẫn dành cho Chúa- để làm và làm, chẳng bối rối. Mới đây, qua khảo sát, tôi được kể là: nhiều tín hữu không chỉ hăng say làm việc tại hãng xưởng mà thôi, còn kéo nhau đi nhà hàng, tiệc rượu để rồi, hễ có điều kiện, là làm chết bỏ, chẳng giữ Đạo ngày của Chúa. Họ làm đến không kịp thở; kịp đến lúc ốm đau, gần kề nỗi chết, khi ấy mới lo tập thể dục, ăn kiêng. Sau đó, lại “làm đến tối tăm mặt mũi” như khi trước.

Có hai lý do cho thấy tại sao con người ngày nay lại có lối sống quái-dị như thế:

Thứ nhất, dường như người ta đua nhau kiếm tìm cho mình chỗ đứng vững-chắc trên thị-trường nhân-dụng.

Thứ hai, là vì lợi lộc tài-chánh mà chủ-nhân-ông vẫn muốn đưa ra để lôi-cuốn giới công-nhân/thợ-thuyền xả thân làm thí mạng. Vấn-đề là: chủ-trương “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” không thể là đường-lối/chính-sách tốt đẹp, khiến ta cứ thế kéo dài cuộc sống hoặc làm lụng để rồi lại sẽ làm đến hơi thở cuối cùng.

Mọi người hẳn đều công-nhận rằng: làm cho lắm, tắm táp vẫn…như con trẻ. Tuổi đời, vốn đà lận-đận, rốt cuộc vẫn thấy vận đen thăm viếng. Đôi lúc, còn bị giới làm ăn doanh-thương khai-thác sức lao-động của mình, chẳng kể gì lời khuyên-can từ Tin Mừng, Lời Chúa.

Lề-thói làm việc thật ‘siêu-tốc’/‘trối-chết’ như thế, không thể là đặc-trưng của thế-giới văn-minh, hiện-đại. Đành rằng, có người lại sẽ bảo: ở đất miền tự-do ăn làm, nơi đây nhiều vị siêng-năng, cần-mẫn cốt để đền-bù cho những người không mấy thích làm việc, hoặc không chịu làm. Lo chi chuyện người đời siêng-năng, rất hay làm?

Tuy nhiên, trong cộng-đồng tình-thương của ta, vẫn còn quá nhiều người tìm cách khai-thác thời-gian và năng-lực của người khác. Họ nào thiết tha gì nhu-cầu tinh-thần hoặc phần thưởng ở đời sau? Họ đâu lo-toan giúp-đỡ, đền-bù những người đã hết mình xả thân làm việc cho họ. Tức, lo sống xứng-hợp với luật đời đi Đạo.

Lâu nay, vấn-đề ‘cần có giờ nghỉ-ngơi’ vẫn là chuyện đặt ra cho Đức Kitô, lẫn môn-đồ của Ngài. Phúc-âm thuật lại: môn-đệ Đức Kitô, sau nhiều ngày rao giảng, đã nghe lời Thầy về quê nghỉ ngơi, cho đúng phép. Quả thật, các môn-đệ từng dấn bước theo Thầy, đã đi khắp nơi, lúc lên xứ Giuđa mạn Bắc, khi xuống miệt Galilê phía Nam, môn-đệ nào cũng đều cảm-nghiệm không ít thì nhiều thế nào lo làm việc, không có nhu cầu nghỉ ngơi. Chí ít, là việc ăn uống/bồi-dưỡng, nhiều lúc cũng không kịp hoặc chẳng thiết-tha gì nữa.

Tin Mừng mời gọi đồ-đệ Đức Kitô hãy lên đường đi đến miền xa, xứ lạ để rao-giảng cho người nghèo-khổ. Nghèo, vì công việc. Khổ, về vật-chất. Quả có thế. Tuy nhiên, là môn-đồ thời hiện-đại, ta vẫn nên bỏ giờ ra mà nghỉ ngơi, hầu có sức tiếp-tục những tháng ngày đang trờ tới.

Rao giảng say-mê/kiệt-sức không cần ngơi-nghỉ, tuyệt-nhiên không là lời khuyên tốt đẹp mà Đức Kitô chủ-trương. Đức Chúa không khai-thác sức lao-động của một ai. Tin Mừng, nay nhấn mạnh việc nâng cao nhân-cách của con người. Nhất thứ, con người đã và đang lao-động. Giáo hội cũng luôn đem đến cho lao-động, ý-nghĩa cao-sang đích-thực, vốn thường có. Giáo-hội, lại luôn coi lao-động như phương-tiện đạt cứu-cánh là hạnh phúc Nước Trời. Chứ, lao-động không thể là mục-đích của cuộc sống bao giờ hết, chí ít là cuộc sống của tín-hữu Đức Kitô. Giáo hội, xưa/nay vẫn tỏ-bầy lập-trường vững-chắc về lao-động.

Cụ thể hơn, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị đã từng đaị-diện cho Giáo hội khẳng định ý-nghĩa của lao-động như sau: “Lao động nâng cao phẩm-giá con người của chúng ta.” Xem như thế, thì giới cầm-quyền và chủ-nhân-ông không được phép đeo đuổi bất cứ triết-lý nào chỉ chuyên/lo đề-cao sức người làm việc, nhưng lại biến-giảm phẩm-cách con người, nhất thứ, khi người lao-động bị đối-xử tệ-bạc khác nào viên đốc-công luôn hối-thúc công-nhân/thợ thuyền dưới trướng nhất-định phải làm việc trối chết, làm ra thật nhiều việc để vừa lòng chủ-nhân-ông.

Nói tóm lại, công việc ta làm, dứt khoát để cải-thiện cuộc sống bản thân, cũng như gia-đình. Thế nên, ta chỉ nên làm việc theo cách nào đó cho phù-hợp với nhân vị/bản thể. Ta không được phép thôi-thúc con người trở-thành máy móc, hoặc loài thú chỉ biết những làm và làm.

Và, qua cung- cách lao-động, ta phải phát-huy tài-năng cũng như ân-huệ mình nhận lãnh từ Đức Chúa. Nhờ đó, ta có thể dựng xây một xã-hội lành mạnh hơn. Xã hội, biết đối-xử với tất cả mọi công-nhân lao-động xứng-đáng hơn, như mọi người mong muốn.

Tôn-trọng phẩm-giá con người, là vẫn lao-động như thường-lệ nhưng biết chọn lúc mà nghỉ-ngơi, giải trí. Phương-châm “ắt và đủ” vẫn có thể áp-dụng trong lao-động. Và, vẫn được liệt kê trong bí kíp thành tựu ở mọi địa-hạt.

Cuối cùng thì, công-nhân lao-động nào biết phân-chia ranh-giới giữa say sưa làm chết xác với lợi-dụng/khai thác người khác, mới là người sáng suốt, có làm và có nghỉ. Bởi, có như thế, mới mong tránh được nguy-cơ gây căng thẳng cả hồn lẫn xác. Có như thế, ta mới mong thực-hiện đúng phương châm “Tốt đời, đẹp Đạo”.

Phúc Âm hôm nay có thuật rõ: “Đức Kitô tỏ lòng ‘chạnh thương’ khi thấy đám đông dân chúng đang có nhu cầu.” Ngài hiểu rằng: nhu-cầu của họ vẫn là những thứ mà môn-đồ Ngài phải thực-hiện. Ngài khuyên các môn đồ -và qua đó, tất cả chúng ta- biết tạo sự cân bằng giữa nhu-cầu lao-động cần-mẫn và sự cần-thiết phải nghỉ ngơi.

Đây, là nhu-cầu của niềm Tin-Yêu. Điều này áp dụng cho hết mọi người, cả lúc làm việc tại nhà cũng như lao-động ở cơ-quan, công xưởng.

Tin Mừng hôm nay còn là tín thư mạnh mẽ đến thế giới mai ngày cứ chú-trọng quá nhiều vào lao-động đến cật lực. Một thế-giới luôn chủ-trương khai-thác quá mức sức lao-động của con người. Tín thư còn đó vẫn ghi chép: Ta phải lao-động thật cần mẫn, nhưng vẫn phải biết nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí.

Nghỉ-ngơi, là nhu-cầu bức-thiết không việc gì phải ưu-tư, sợ tội. Nghỉ-ngơi sau khi làm việc cần-cù vẫn là điều chính-đáng. Đây, không chỉ là nghĩa-vụ, mà còn là quyền lợi mà Đức Chúa tặng ban cho ta. Là tín hữu Đức Kitô, ta có bổn-phận phải phát-huy/duy-trì nghĩa-vụ và quyền-lợi ấy cho bằng được, ngõ hầu bảo-vệ phẩm giá con người, cách đúng-đắn.

Cầu mong sao, Tiệc thánh hôm nay giúp ta nhớ rằng: khi tạo cho mình công ăn việc làm khả dĩ đem lại thâu nhập/lợi nhuận, ta vẫn phải quan-tâm đến phẩm-giá con người.

Cầu mong sao, những ai đã có công ăn việc làm tạo cơm/bánh cho bản thân và gia-đình, biết cảm tạ Cha, bởi lẽ đó là điều rất tốt đẹp. Ai chưa kiếm được công việc để làm, cũng đừng nên lấy đó làm điều buồn bã cho chính mình.

Là thành-viên cộng-đồng tình-thương, ta luôn nhớ đến bổn-phận giúp-giùm/đùm-bọc và sẻ-san cho nhau của cải vật chất và công ăn việc làm. Không đố kỵ, khinh chê, ganh ghét người chưa có khả-năng ăn làm. Không coi rẻ người chưa kiếm ra được công việc nào hết. Ta dư biết: của cải trần gian hoặc công ăn việc làm hoặc lao-động đều là quà tặng do Chúa ban tặng.

Trong cảm-nghiệm sự-thật cụ-thể như thế, ta ngâm lại lời thơ rất chiêm-niệm, rằng:

“Hàng thông lấp-loáng đứng trong im,

Cành lá in như đã lặng chìm.

Hu-thực làm sao phân-biệt được,

Sông Ngân-Hà nổi giữa màn đêm.” (Hàn Mặc Tử – Đà-Lạt Trăng Mờ)

Thực-hư/hư-thực thật ra cũng tùy người. Tùy những người có mang nặng niềm tin vào Lời Vàng đấng thánh hiền từng nhắn nhủ, mà thôi. Nhắn và nhủ, vẫn là lời nhắc nhở mọi người ta về suy-tư chiêm-niệm một đời rất thánh-hiến, với mọi người.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, lược dịch

Suy Tư Về Việc Hoa Kỳ Chấp Thuận Hôn Nhân Đồng Giới

Suy Tư Về Việc Hoa Kỳ Chấp Thuận Hôn Nhân Đồng Giới

TRẦM THIÊN THU

Ngày 26-6-2015, Hoa Kỳ đã hợp pháp hóa việc hôn nhân đồng giới. Một tiếng sét ngang tai đối với người Công giáo. Chúng ta nên làm gì?

Hôn nhân truyền thống là điều tốt lành của Thiên Chúa, sự thiết lập này được thể hiện qua việc kết hợp của một người nam và một người nữ, nhờ đó mà xã hội phát triển. Nhưng người ta không tin như vậy. Đa số thất vọng với quyết định của Hoa Kỳ về việc chấp nhập hôn nhân đồng giới. Kinh khủng quá!

Cơn cám dỗ này là sự hôi thối sỉ nhục trong góc thánh thiện, là đào hố sâu dưới chân chúng ta, là cú đá ngược bất ngờ khiến chúng ta thất vọng. Nhưng chúng ta vẫn khả dĩ làm tốt hơn bằng cách ấp ủ Tám Mối Phúc:

Hãy vui mừng, không chỉ trong quyết định, mà còn vui mừng trong Chúa, và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chúa Giêsu nói: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11).

Vui mừng cái gì? Hãy chú ý những điều quan trọng: Thiên Chúa vẫn hiện hữu, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài làm ngơ và chờ đợi chúng ta ăn năn sám hối; sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô vẫn mãi là sức mạnh cứu độ đối với mọi người; Tin Mừng vẫn làn tỏa khắp nơi; Tòa án Tối cao hoặc Quốc hội Hoa Kỳ không thể chống lại Giáo Hội của Đức Giêsu Kitô, vì Ngài đã xác định với giáo hoàng tiên khởi: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16:18). Chắc chắn “không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô” (Rm 8:35). Nước Thiên Chúa sẽ ngự đến – và vẫn có những công việc để chúng ta làm trong Giáo Hội và trong xã hội ngày nay.

HÃY SÁM HỐI. Hiện nay một cơn cám dỗ khác đang nhắm vào các sức mạnh về chính trị, xã hội, triết học, tâm linh, để chống lại Giáo Hội và giáo huấn luân lý. Thánh Phaolô khuyên chúng ta khi tham gia cuộc chiến thiêng liêng: “Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phóđứng vững trong ngày đen tối” (Ep 6:10-13). Chúng ta nên làm gì và có thái độ thế nào khi xã hội loại bỏ các giá trị đạo đức? Hành động trái ngược đã bộc lộ nỗi sợ hãi và dịnh kiến. Đam mê của chúng ta có nguồn gốc từ tội lỗi liên quan tình dục, lãnh đạm với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, thói tham lam, thói giả hình, tính vị kỷ,… Tu thân rồi mới tề gia, sau đó mới khả dĩ trị quốc và bình thiên hạ. Bắt đầu là điều khó, bắt đầu từ chính mình lại càng khó hơn. Nhưng ai cũng PHẢI bắt đầu. Tu thân là sửa tính nết, canh tân lối sống, sám hối tội lỗi: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5).

HÃY SUY NGHĨ LẠI. Hãy suy nghĩ về những gì mình đã làm, đang làm và sẽ làm. Hôn nhân đồng giới là trái tự nhiên, là “cặp đôi KHÔNG hoàn hảo”.

Một vấn đề đòi hỏi suy nghĩ nghiêm túc là việc ly hôn, ly thân và tái hôn. Kinh Thánh nói nhiều về hôn nhân. Sách Khôn Ngoan cảnh báo: “Họ quả không coi trọng mạng sống và xem thường cuộc hôn nhân trong sạch. Người này giăng bẫy sát hại người kia, người ta giết nhau bằng thủ đoạn hoặc làm khổ nhau vì chuyện ngoại tình. Nơi đâu cũng hỗn loạn: đổ máu và giết người, cướp giật và lừa đảo, nhũng lạm, bất tín, bạo loạn, bội thề. Vàng thau lẫn lộn, bội nghĩa vô ân, tâm hồn nhơ nhuốc, dục tình đồi bại, rồi hôn nhân hỗn loạn, ngoại tình và phóng đãng” (Kn 14:24-26). Thiên Chúa quả quyết: “Ta ghét việc rẫy vợ, và kẻ lấy thói bạo tàn làm áo che thân. Hãy coi chừng và chớ phản bội!” (Mlk 2:16). Và Chúa Giêsu dạy: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19:6; Mc 10:9). Đó là Ngài nói về hôn nhân lưỡng tính (một nam và một nữ) chứ không là hôn nhân đồng tính (một nam và một nam, hoặc một nữ và một nữ). Thế nhưng người ta nới lỏng Luật Chúa và không tôn trọng lời thề hôn nhân. Người ta coi thường Thánh Ân nên không muốn tuân giữ Thánh Luật. Sự mâu thuẫn đã làm đảo lộn trật tự xã hội vì người ta muốn thoát ra khỏi Giáo Hội. Giáo Hội cấm ly hôn chứ không cấm tái hôn, nhưng chỉ tái hôn khi một người không còn (qua đời) chứ không tái hôn sau khi ly hôn.

Ai khao khát sự công chính thì sẽ được mãn nguyện: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6). Nhưng khao khát thì phải hành động chứ không “há miệng chờ sung rụng”.

HÃY SẮP ĐẶT LẠI. Chúng ta đang “sống lưu vong” và “lữ hành trần gian”. Một thanh niên Miến Điện đến Hoa Kỳ vài tháng trước. Anh ta nói rằng ở Miến Điện, các Kitô hữu bị hạn chế xây dựng nhà thờ và trường học. Hành vi thù địch về xã hội và chính trị đã khiến anh chống đối, anh phải trốn sang Indonesia. Tại đây, anh bị tù 7 tháng vì không có giấy tờ tùy thân. Nhờ tổ chức World Relief, anh được đến Hoa Kỳ, phải “vật lộn” với ngôn ngữ mới và văn hóa mới, trong khi phải nuôi sống gia đình với số lương bèo bọt. Nghĩa là anh ta phải sắp xếp lại mọi thứ để sớm thích nghi với hoàn cảnh mới với mọi thứ mới.

Đó là một dạng sống lưu vong, dù xã hội Hoa Kỳ vẫn cho phép tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, tôn trọng nhân quyền, cho phép công dân tham công việc gia quản trị. Tự do luôn có sẵn hầu như ở mọi nơi trên thế giới. Kiến tạo hòa bình là điều tốt chung: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9). Nói chung, chúng ta phải sắp xếp lại quan điểm và hoạt động chính trị.

HÃY VƯƠN XA. Vấn đề hôn nhân đồng giới đã được hợp pháp hóa ở Hoa Kỳ, chúng ta buồn nhưng chúng ta lại có cơ hội để xây dựng các mối quan hệ đơm hoa kết trái với những người ghét các Kitô hữu: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44; Lc 6:27). Về điểm này, người Công giáo chúng ta bị coi là mối đe dọa đối với chính trị. Chúng ta “mất mát” về vấn đề hôn nhân đồng giới, mối đe dọa đã không còn. Chúng ta hãy mong đợi những cơ hội mới để có dịp chia sẻ về Lòng Chúa Thương Xót: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Đó chính là Tin Mừng vậy.

HÃY TỰ HÀO. Thánh Phaolô động viên: “Hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2 Cr 13:11). Vả lại, chính Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta ngay trong bước ngoặt lịch sử này – Hoa Kỳ chấp thuận hôn nhân đồng giới. Trong quá khứ, Giáo Hội hồi thế kỷ IV có trách nhiệm suy tư vầ bản chất của Đức Kitô, Giáo Hội hồi thế kỷ XVI có trách nhiệm suy tư về mối quan hệ giữa đức tin và công việc, còn hiện nay, Giáo Hội có trách nhiệm suy tư về vấn đề giới tính. Điều chúng ta dạy và việc chúng ta làm trong thời đại chúng ta sẽ định hình tư tưởng của Giáo Hội và cuộc sống đối với các thế hệ tương lại.

Đây không chỉ là lời kêu gọi đối với các vị lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội, mà còn đối với mỗi gia đình Kitô giáo. Dù chúng ta có đi vận động hành lang ở sảnh Quốc hội hay không để xem việc buôn bán người hoặc dạy trẻ em về tặng phẩm tình dục quý giá thế nào, chúng ta vẫn đang củng cố và định hình giáo huấn của Giáo Hội về giới tính.

Chúng ta đang bước vào tương lai chưa biết sẽ đáng quan ngại hay hay không, nhưng cần có lòng khiêm nhu và tự tin: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5:4). Đức Kitô là Thiên Chúa Ngôi hai và vẫn là Hoa Tiêu điều khiển Con Tàu Giáo Hội. Phúc cho ai chân nhận điều này, vì họ sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp đời đời!

MARK GALLI

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ ChristianityToday.com)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

TGM Ngô Quang Kiệt

Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang.  Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều.  Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán.  Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi.  Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang.  Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người.  Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người.  Đây chính là hành trang quan trọng nhất.  Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình.  Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ.  Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người.  Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha.  Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa.  Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình.  Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa.  Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa.  Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi.  Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa.  Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn.  Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững.  Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ.  Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một.  Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng.  Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục.  Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin.  Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người.  Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ.  Phải liên đới với con người.  Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu.  Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương.  Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ.  Tức là đến với những người kém may mắn ở đời.  Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên.  Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương.  Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát.  Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc.  Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về.  Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa.  Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người.  Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ.  Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp.  Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại.  Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em.  Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa.  Liên kết mọi người trong tình yêu mến.  Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa.  Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

TGM Ngô Quang Kiệt

TẠI SAO GIÁO HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC HƠN ?

TẠI SAO GIÁO  HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC  HƠN ?

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ  biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm.  Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần  phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra  trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.

Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam  mê  về tiền bạc và của cải vật chất,tôn thờ khoái lạc ( hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm ( numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa  và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng  nhân đạo..

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng  “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng  dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.

Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo  đói, sống vất vưởng trên  hè phố ở các đô thị  lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải  đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú , tỉ phú không hề quan tâm đến họ.  Chính quyền liên bang cũng như  tiểu bang , cho đến nay,  vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý  là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù  dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! ( Irak và Afghanistan)

Trước thực trạng nói trên của Thế giới,  Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng,  đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải  làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa  nơi những người xấu số  này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.

Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi  và  nhất là tình thần và đời sống  khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh  em  để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8:9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô  muốn thực hành   phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi  noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để  nên  nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã  đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để  phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20: 28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y  ngày  13 tháng 1năm 2014 , Đức Thánh Cha Phanxicô  đã nhấn mạnh như sau :

“  cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion)  một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó  xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới  này với lòng khiêm cung,  giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.

Tai sao phải sống khó nghèo ?

Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo  ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như  nhà ở, cơm ăn  áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc  Mỹ và các quốc gia Âu châu , Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện.Nghĩa là không “lý tưởng  thiếu  thực tế” để chỉ  chú trọng  đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng  điều quan trọng nhất  là phải có  nhân đức  khó nghèo  và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô   đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. ( Mt 5:3; Lc 6 : 20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới  về phần xác như  đã nói ở trên   mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm  chóng qua ở đời này    đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến  không còn chú tâm  vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ  và  săn sóc về mặt thiêng liêng.

Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải  vật chất,  thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có  và không  sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.

Mặt khác,  sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những  giáo đường,  nhà  xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để  khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu  để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương  bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố,  trong khi rất nhiều người  vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ-  mà ham mê tiền của để đôn  đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận,  thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được  tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có  chỗ tựa đầu.” ( Mt 8: 20)

Thử hỏi Chúa có đóng kich “ khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không ?

Ai dám nói là có ?  Nếu vậy, thì Chúa quả  thực  đã  sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế  để nêu gương  nghèo khó trong tâm hồn  và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là  các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành  lời Chúa để đi tìm và  “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” ( Mt  6: 20)

Nếu người tông đồ  mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì  xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng,  thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm  sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai  tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và  xa tránh hay chống lại  những cám dỗ về  tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê,  cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và  nhiên hậu, cũng sẽ  không hơn gì bọn Biệt phái  và luật sĩ  xưa kia, là   những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón  tay vào.”( Mt 23: 4).

Như thế, không thể  làm nhân chứng cho Chúa  Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm  mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi  Người sinh ra cho đến khi chết đi  hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.

Nói rõ hơn, giảng  tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác,  mà chính mình  lại sống phản chứng  bằng cách chạy theo tiền của,  dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại  xe đắt tiền như  Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo  có ít tiền xin lễ, mà  chỉ nhận  lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính  mình không sống điều mình rao giảng.  Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi  linh mục, giám mục  nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể  nói chung vì “ con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.

Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó  theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực  sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta  coi khinh , coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn  của mọi vinh phúc giầu sang  vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn,  thì Giáo Hội mới có thể  để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và   của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể   thi hành có hiệu quả  sứ  mệnh thiêng liêng của mình là  rao giảng Tin Mừng  cứu độ  của Chúa Kitô và   sự giầu sang đích thực  là  chính Thiên Chúa , Đấng  đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta  hạnh phúc  mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều  Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. ( 1 Cr 2 : 9

Nghĩa là  phải yêu mến Chúa  hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng  phú quí  chóng qua  ở trần  gian này , thì  mới  có thể rao giảng Tin Mừng  Cứu Độ  cách hữu hiệu cho người khác được.

Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này,  không hề phục vụ cho  nhu cầu  tìm kiếm tiền bạc , danh vọng  và của cải vật chất hư hèn  mà  chỉ cho mục đích  kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi.  Lại nữa, không có  giáo sĩ và tu sĩ nào  có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa  là cội nguồn của mọi phú quý  sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có  kia  là  “ hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo , anh sẽ được một kho tàng trên trời , rồi hãy đến mà theo tôi.” ( Mc  10:  21)

Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng  soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ-  bước đi qua  bóng tối đen thui  của   tiền bạc  và của cải vật chất, là những quyến rũ  đã và  đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê  đi tìm kiếm và  tôn thờ,  thay vì  tìm kiếm và tôn thờ  một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi  phú quý  giầu sang đích thực mà thôi.

Chúa nói: “ ai có tai nghe thì nghe” ( Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Tin Chúa, con được gì?

Tin Chúa, con được gì?

Ơn-Ta-Đủ-Cho-Con

Trắc trở trong tình yêu, chị ở một mình nuôi con. Dù còn đó những dị nghị từ dư luận, chị bình an dấn thân vào cuộc mưu sinh. Khó khăn vất vả làm thuê kiếm sống cho mình và cho con, chị không than vãn nửa lời. Thế nhưng, chị ứa nước mắt khi thấy con mình từng ngày lớn lên trong môi trường đầy dẫy gương xấu, thiếu vắng gương lành. Chị mường tượng thấy một viễn cảnh không tương lai của con mình. Chị muốn, muốn lắm cứu vãn con mình khỏi cảnh sống ấy, để đưa nó vào một môi trường tươi sáng, tốt lành hơn. Nhưng chị nhận ra tay mình quá ngắn, sức mình quá bé nhỏ, trong khi môi trường đầy rẫy những lôi kéo bỏ bê việc học, đua đòi bạn xấu, nghiện ngập game, thuốc, sống bất cần đời,…

Chia tay anh lúc mới mang thai con, chị băn khoăn không biết nên giữ hay nên bỏ. Một thân một mình lại đèo bòng thêm con, không biết tương lai sẽ ra sao. Tăm tối, nhưng chị vẫn quyết định cưu mang mầm sống ấy, vì dầu sao đó cũng là con mình. Chị cũng tin rằng chỉ có Chúa mới có quyền quyết định về sự sống và cái chết của một con người. Niềm tin ấy cho chị thêm vững vàng để cưu mang và đón nhận đứa con chào đời, dẫu làm thế chị phải nhắm mắt bịt tai trước bao lời đàm tiếu, mỉa mai.

Ngày con cất tiếng khóc chào đời, chị vui buồn lẫn lộn. Niềm vui được làm mẹ thật lạ lùng, chị chẳng thể tả xiết. Nhưng niềm vui ấy không thuần khiết mà được bao bọc bởi nỗi buồn lo về tương lai. Đứa bé rồi sẽ ra sao khi không biết đến mặt mũi người cha! Vẫn cùng một niềm tin đã cho chị sức mạnh để đón nhận con, nay cho chị thêm hy vọng vào một tương lai. Nỗi buồn rồi cũng phôi pha khi chị trông thấy con từng ngày khôn lớn. Chị hy vọng về một tương lai tốt đẹp của con, dẫu trước mắt không thiếu khó khăn về kinh tế.

Gửi con lại quê cho ông bà ngoại đã cao tuổi, chị lên thành phố kiếm việc làm mong có thể xoay trở đủ tiền nuôi con ăn học thành người. Tràn đầy ước mong và hy vọng, chị chẳng ngại dấn thân lao nhọc. Chuyên chăm làm việc, chị có thể chu cấp cho con miếng ăn, cái mặc có thể nói là tươm tất. Nhưng con người sống đâu chỉ cần miếng cơm manh áo. Chị thầm hiểu điều đó nên dù xa con, chị vẫn đều đặn dành thời gian gọi điện về thăm hỏi, khích lệ. Nhưng hỡi ôi, nước xa đâu mong cứu được lửa gần. Tuổi thơ non dại, trong khi môi tường xấu lôi cuốn rủ rê, con chị đã dần bị tiêm nhiễm bởi thói sống bất cần đời, thả trôi đời mình theo các đam mê nghiện ngập.

Học hành chẳng thấy lợi ích gì, lại thêm mệt thêm khổ; rong chơi thoải mái, luyện game thú vị hơn nhiều. Với tư duy thực tiễn nhưng nông cạn và bồng bột ấy, con chị bị cuốn lao vào vòng đam mê chơi bời lêu lổng, game thuốc từ lúc nào. Trốn học đi chơi; cần tiền tiêu xài, tìm đủ lý do để xin; xin không cho thì trộm cắp. Ban đầu là những thứ lặt vặt, rồi đến những món tiền lớn hơn,… một lần, vài lần, rồi thành quen, khó bỏ, không bỏ được!

Thương con, chị bỏ công việc về quê, mong tìm cách cứu vãn tương lai con mình. Ban đầu chị khuyên bảo con, dùng lời ngon ngọt yêu thương. Con chị dạ dạ vâng vâng, nhưng thói xấu khó chừa, chứng nào tật nấy. Khuyên mãi không được, chị chuyển qua răn đe, kỉ luật. Mẹ con trở ra xung khắc. Đau lòng, buồn tủi, chị chẳng biết ngỏ cùng ai, cậy nhờ ai! Đời chị như bế tắc. Đến với Chúa, chị thở than:

Lạy Chúa, con đã tin Chúa, đã đón nhận cái thai, gìn giữ sự sống của đứa con và nuôi hy vọng. Con đã chẳng dấn thân hy sinh chăm lo cho con cái bao năm qua sao? Vậy tại sao con của con giờ lại ra nông nỗi này? Nếu con đã không tin Chúa và đã không để con của con chào đời, thì giờ đây con đâu phải chứng kiến cảnh thấy nó hư đi mà không biết phải làm gì để cứu vãn. Đời con đã quá cô đơn buồn khổ, con không than, cũng chẳng trách. Thế nhưng, giờ đây đời con của con lại đang dần đi vào ngõ cụt của khổ đau, bóng tối của sự dữ! Chúa đang ở đâu? Tin Chúa, con được gì?…Trong khổ nhọc, chị thiếp đi.

Thức tỉnh, chị thấy lòng bình an và thẳm sâu trong tâm trí chị thấy một nguồn hạnh, bởi chị nhận ra:

Tin Chúa, trước tiên chị được một niềm tin vững vàng, một niềm tin có thể ủi an nâng đỡ và thêm sức cho chị ngay giữa lúc tưởng như tuyệt vọng;

Tin Chúa, chị giữ được sự sống của con mình và chị được hiểu thế nào là sự quí giá nhưng mong manh của sự sống từ khi còn là bào thai trong dạ mẹ;

Tin Chúa, chị đã hạ sinh được một người con và chị hiểu ra thế nào là tình mẹ đích thật, là ân nghĩa sinh thành khi chính chị vì yêu thương mà hết tình chăm lo cho con;

Tin Chúa, chị được một lòng yêu thương dạt dào, dẫu lòng yêu thương ấy bị khổ đau che mờ khuất, nhưng nó vẫn còn mãi bất chấp khổ đau; nó thêm sức cho chị vượt qua biết bao nghịch cảnh;

Tin Chúa, đời chị không vắng bóng khổ đau, không thiếu những lúc tưởng như bế tắc, nhưng khổ đau ấy không khiến chị gục ngã không thể chỗi dậy, bế tắc ấy không là đường cùng. Chị được thêm hy vọng và sức mạnh để tiếp tục sống và cố gắng sống tốt hơn cho mình và cho con, vì chị tin vào lời Chúa: “ Ơn Ta Đủ Cho Con!”

Vinhsơn Phạm Văn Đoàn, S.J.

NHÌN SÂU HƠN

NHÌN SÂU HƠN

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Đôi khi bạn có thể thấy rất nhiều điều chỉ bằng một cái nhìn.  Đây là một trong những câu nói lừng danh của danh thủ bóng chày Yogi Berra.  Đây tất nhiên là một diễn đạt rất khéo, nhưng đáng buồn là, có lẽ gần như mọi chuyện lại trái ngược.  Hầu như chúng ta nhìn rất nhiều mà chẳng thực sự thấy được bao nhiêu.  Thấy có nhiều ý nghĩa hơn là có một thị lực tốt.  Đôi mắt chúng ta có thể mở rộng nhưng chúng ta cũng có thể chỉ thấy được rất ít.

Tôi luôn luôn suy ngẫm về hình ảnh thánh Phaolô trong kinh thánh nay sau khi ngài hoán cải.  Chúng ta luôn cho rằng thánh Phaolô bị mù vì thị kiến mình thấy, nhưng, theo tôi, bản văn kinh thánh còn ngụ ý xa hơn nữa.  Kinh thánh viết rằng Phaolô bò dậy với đôi mắt mở to, nhưng không thấy gì.  Điều này không nhất thiết phải là chứng mù thể lý.  Có thể ngài thấy được về mặt thể lý, nhưng không thể thấy được ý nghĩa những gì trước mắt mình.  Phải có người đến và mở mắt Phaolô, không phải chỉ để ngài lại có thể nhìn thấy về mặt thể lý, nhưng đặc biệt là ngài có thể thấy sâu hơn vào mầu nhiệm Chúa Kitô.  Nhìn thấy, thực sự thấy, mang nhiều nghĩa hơn là có đôi mắt lành lặn về thể lý và mở to.  Chúng ta tất cả đều thấy vẻ ngoài của sự vật sự việc, nhưng cái bên trong ẩn dưới đó, thì không tự động mà thấy được.

Ví dụ như, chúng ta thấy điều này trong các phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu.  Trong Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhiều lần làm phép lạ chữa lành.  Ngài chữa lành người què, người điếc, người câm, người cùi, và hai phụ nữ vì các lý do khác nhau mà không thể mang thai.  Điều quan trọng phải thấy nơi những phép lạ khác nhau này, là hầu như luôn có có một sự gì đó cao hơn sự chữa lành thể xác.  Chúa Giêsu đang chữa lành cho người ta theo một cách thâm sâu hơn, ngài đang chữa lành người què để họ có thể bước đi trong tự do và phụng sự Thiên Chúa . Ngài chữa lành người điếc để họ có thể nghe thấy Tin mừng.  Ngài chữa lành người câm để họ có thể mở miệng chúc tụng tôn vinh.  Và Ngài chữa lành những người son sẻ để họ có thể đem sự sống mới sinh sôi.

Chúng ta thấy điều này gần như rất rõ ràng những khi Chúa Giêsu chữa lành những người mù.  Ngài cho họ không chỉ là cái nhìn thể lý, ngài mở mắt họ để họ có thể nhìn sâu hơn.  Nhưng đây chỉ là một hình tượng.  Làm sao giải nghĩa cho thấu đáo đây?  Làm sao ân sủng và giáo huấn của Chúa Giêsu giúp chúng ta nhìn một cách sâu sắc hơn đây?  Tôi xin đưa ra một số gợi ý:

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua những gì quen thuộc đến nhìn qua sự kinh ngạc kỳ vỹ.

G.K Chesterton từng khẳng định rằng sự quen thuộc là ảo ảnh lớn nhất và bí mật cuộc đời là học biết nhìn vào những gì quen thuộc cho đến khi chúng trở lại thành không quen thuộc.  Chúng ta mở đôi mắt mình hướng đến chiều sâu khi mở lòng mình ra với kinh ngạc kỳ vỹ.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua hoang tưởng và tự vệ đến nhìn qua sám hối và vun đắp.

Không ngẫu nhiên khi lời đầu tiên của Chúa Giêsu trong các Phúc âm tóm lược là từ ‘sám hối’ một từ đối lập với ‘hoang tưởng’.  Chúng ta mở mắt mình ra hướng đến chiều sâu, khi chúng ta chuyển vần từ tư thế tự vệ đến một tư thế vun đắp.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua sự ghen tỵ đến nhìn qua sự ngưỡng mộ.

Nhận thức của chúng ta trở nên méo mó bất kỳ lúc nào chúng ta đi từ trạng thái hạnh phúc của ngưỡng mộ đến trạng thái bất hạnh của ghen tỵ.  Tầm nhìn của chúng ta được thoáng đãng rõ ràng khi chúng ta vui mừng trong ngưỡng mộ.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua chua cay đến nhìn qua đôi mắt được thanh luyện và mềm dịu bởi thương tâm.

Cội rễ của chua cay là thương tích và cách để thoát khỏi chua cay là thương tâm.  Nước mắt gột sạch tầm nhìn của chúng ta bởi nước mắt làm mềm đi trái tim bị chai cứng bởi tổn thương.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua ảo tưởng và ái kỷ đến nhìn qua cảm kích và cầu nguyện.

Một trong những chuyển vần then chốt trong đời sống tâm linh của chúng ta là sự chuyển vần từ ảo tưởng sang cầu nguyện, một chuyển biến tận cùng giải thoát chúng ta khỏi mong muốn nén vào bản thân mình tất cả những gì đẹp đẽ, nhưng biết cảm kích vẻ đẹp vì chính nó mà thôi.  Chúng ta chỉ có thể thấy và cảm kích vẻ đẹp khi ngừng ham muốn nó.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua tính toán đến nhìn qua sự chiêm ngắm.

Khát khao muốn được có vị thế khiến chúng ta nhìn ra thế giới với đôi mắt khắc khoải, bất mãn. Chúng ta chỉ biết để tâm và thấy được sự phong phú của thời khắc hiện tại khi sự bất an trong chúng ta được xoa dịu làm thinh bởi cô tịch.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua giận dữ đến nhìn qua sự tha thứ.

Không một điều gì làm hoen ố tầm nhìn của chúng ta cho bằng cơn giận.  Nó là thứ bệnh gây suy nhược nhất với mọi nhãn cầu.  Và không điều gì tẩy sạch tầm nhìn của chúng ta cho bằng tha thứ.  Không một ai mang ác cảm trong lòng mà lại nhìn cho công thẳng được.

• Bằng cách chuyển vần đôi mắt mình từ nhìn qua dục vọng và thèm khát đến nhìn qua lòng biết ơn.

Dục vọng và thèm khát bóp méo cái nhìn của chúng ta.  Lòng biết ơn phục hồi cái nhìn đó.  Lòng biết ơn cho cái nhìn thấu suốt.  Người có lòng biết ơn nhất mà bạn biết, có cái nhìn tốt nhất về tất cả những người mà bạn biết.

“Tình yêu là đôi mắt!” Vậy nên, lời khôn ngoan này của các nhà thần nghiệm trung cổ, có lẽ nên được thêm vào tự điển y khoa về khoa đo thị lực hiện thời.  Nhìn sao cho thẳng, cho đúng, cho thật, có nhiều chiều kích hơn chúng ta thường tưởng.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà.  Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện.  Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế.  Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường.  Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm.  Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn.  Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người.  Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa.  Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời.  Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.  Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt.  Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế?  Sao ông ta được khôn ngoan như vậy?  Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu?  Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon.”  Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu.  Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội.  Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu?  Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế!  Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.  Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài?  Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế?  Thân nhân bảo Ngài “mất trí.”  Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ.”  Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy.  Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh.”  Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào.  Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện.  Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời.  Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…

Dân làng biết Ngài khôn ngoan.  Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ.  Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong.  Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu.  Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài.  Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch.”  Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.”

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình.”  Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận.”  Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin.  Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay.  Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay.  Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy.  Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta cho rằng họ nói đúng.  Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì.  Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6, 23.26).  Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương.  Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái.  Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng.  Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận.  Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.  Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế.  Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết.  Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse.  Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng.  Họ coi thường Ngài.  Họ không tin Ngài.  Họ hất hủi Ngài.  Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở.  Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó.  Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh.  Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.  Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế.  Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn.  Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối.  Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta.  Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở.  Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng.  Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa.  Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại.  Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.  Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ.  Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương.  Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải,

Tin Mừng (Mc 6: 7-13)

Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.  Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Người bảo các ông:

“Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”

Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

“Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải,”

“Nhớ cho mình dáng dấp người yêu.

Lỡ giòng đời tóc điểm muối tiêu,

Còn giây phút chạnh lòng như…mới lớn.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Nhìn nắng trải” ở bờ sông, để “nhớ cho mình dáng dấp người yêu” tuy chỉ là lời nhắn của người đời. “Còn giây phút chạnh lòng, như mới lớn”, có thể là lời nhủ và khuyên, ở nhà Đạo.

Nhiều năm về trước, nhà Đạo mình  lại thấy Đức Giáo Hoàng nọ có quyết định, là: các đạo hữu gốc Do Thái nên rời Rôma, đi nơi khác mà sống đạo. Ngay khi ấy, đã xảy ra làn sóng bất bình giữa cộng đồng sắc tộc nhỏ bé này.

Thành thử lúc bấy giờ, Đức Hồng Y chủ quản đã phải ra tay dàn xếp. Ngài ngỏ ý, cộng đồng đạo hữu nên đề cử một vị đến tham gia tranh luận về tôn giáo với ngài. Nếu cộng đồng người Do thái thắng, họ ở lại. Nếu Ngài thắng, cộng đồng này phải xách gói ra đi.

Cộng đồng tôn giáo bạn thấy không còn chọn lựa nào khác, đành cử người tham dự cuộc tranh luận với Đức Hồng Y Chủ quản. Cuối cùng, người đại diện bên bạn chẳng là ai khác ngoài một lão ông chân phương, đơn độc mang tên Mô-Shê. Lão ông lâu nay giữ chức “ông từ” chuyên mở cửa cho đạo hữu đến cầu nguyện, mỗi thứ sáu.

Thoạt đầu, vào lúc khởi sự tranh luận, lão ông đề nghị: hai bên sẽ không phát biểu bằng lời nói, mà chỉ ra dấu thôi. Hiểu ý hay không, tuỳ tài trí thông minh của mỗi vị.

Ngày “N” đến. Đức Hồng Y và lão ông Môi-shê ngồi trực diện, hỏi đáp tranh luận nhau bằng dấu hiệu. Đức Hồng Y khởi sự trước. Ngài giơ 3 ngón tay ra dấu rất tự tin. Lão ông đáp lại, chỉ đưa duy nhất có một ngón.

Kế đến, Đức Hồng Y dùng tay vẽ đường tròn, ngay trên đầu. Lão ông lại trỏ ngón tay xuống đất, rất bất đồng. Đức Hồng Y bèn rút từ trong túi ra, những bánh và rượu, đầy đủ cả. Đáp lại, lão ông đem trình làng mỗi trái táo xanh, rất đơn giản.

Bất chợt, Đức Hồng Y đứng dậy nói: Thôi được, tôi chào thua. Người này quá giỏi! Được rồi! Các bạn cứ việc ở lại, đừng lo lắng.

Ít lâu sau, có người hỏi ý nghĩa cuộc đối thoại bằng tay vừa rồi là gì, thì Đức Hồng Y giải thích: tôi ra dấu 3 ngón tay tỏ ý: ta tin vào Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Thì, ông ta chỉ giơ có một ngón, ra điều nhắc nhở là: chúng ta đều cùng tin vào một Đức Chúa.

Thế rồi, tôi dùng tay để vẽ hào quang trên đầu, ý bảo rằng: Thiên Chúa đang ở quanh ta. Thì, ông ấy phản bác lại bằng cách ra dấu có một ngón, chỉ xuống đất. Ý chừng muốn nói: Đức Chúa của chúng ta đang hiện diện, ở nơi đây. Lúc này.

Kịp đến khi, tôi đem bánh và rượu ra, chứng minh: Chúa ban phép cho anh em mình cử hành Tiệc Thánh, để nhận lãnh Thân Mình Ngài. Thì, lão trự ấy rút ra quả táo xanh, có ý nhắc nhở ta về lỗi lầm muôn thưở; tức, tổ tiên cha ông ta đã phạm lỗi. Cuối cùng, lão ta tinh ranh hơn, giải mã được hết mọi chuyện chúng tôi ra dấu. Tôi còn biết làm gì hơn nữa, bây giờ?

Lúc ấy, lão ông Môi-Shê cũng giải thích cho đám kinh sư cứ nhao lên hỏi kết quả cuộc tranh luận, đối đầu. lão ta nói: Dễ hiểu thôi! Trước nhất, ông ấy bảo với tôi: Người Do thái mình chỉ còn độc nhất có 3 ngày để rời thành này. Tôi đáp ngay: không 1 người nào trong anh em chúng tôi đi đâu, hết.

Sau đó, ông nói: Toàn bộ thành La Mã sẽ biến sạch không còn bóng người Do thái nào hết. Tôi bèn đáp: chúng tôi vẫn cứ ở đây. Bây giờ và mãi mãi. Thiên thu. Bất tận. Thế là, đám kinh sư/thượng tế nhao lên: Ấy thế, kết cuộc ra sao? Lão ông trả lời: Tôi cũng chẳng biết. Có điều lạ, là: sau đó, ông ta đem bữa trưa của mình, ra ăn. Còn tôi, tôi cũng ăn đồ ăn của mình. Đơn giản chỉ có thế!

Xem ra, cuộc sống ở đời tùy vào cách thức ta đọc và hiểu các tín hiệu chỉ dẫn, đơn giản chỉ như thế.

Tin Mừng hôm nay, kể việc Đức Kitô răn dạy môn đệ: hãy biết trân quý 3 tín hiệu của cuộc đời, là: sống giản dị, sống quan tâm đến người khác; và, sống hiếu khách. Việc này xứng hợp đa số các sự việc xảy đến, qua thái độ sống của con người, ngày hôm nay.

Thời buổi này, thiên hạ chỉ thích chuyện giàu sang, phú quý. Người người chỉ muốn sống tách biệt. Chẳng đoái hoài một ai. Dường như, ai cũng muốn làm thủ trưởng, thủ lãnh ngồi trên đầu trên cổ người khác, thôi.

Với Đức Kitô, ai muốn làm môn đệ Ngài, đều phải nhớ: điều cao quý nơi con người, không là chuyện giàu sang, phú quý. Mà là: tư cách và thái độ biết quan tâm đến người khác. Dĩ nhiên, trong cuộc sống, của cải/vật chất đều rất cần.

Nhưng vấn đề là: ta có biết sử dụng của cải/vật chất mình kiếm được, mà phân phát/tặng ban cho những người thiếu thốn, cần hơn mình, không? Nói các khác, ta phải làm chủ đồng tiền, chứ đừng để tiền bạc/vật chất làm chủ, điều động ta.

Với Đức Kitô, dù là đá tảng hay hải đảo cách biệt, đây không là dấu hiệu của sức mạnh của uy quyền; mà chỉ là ưu tư vang vọng. Kéo dài. Tín hữu Đức Kitô có được sức mạnh quyền uy, phải là người biết vui, biết mừng khi hỗ trợ cho nhau. Cậy nhờ, nâng đỡ nhau. Ở mọi nơi. Vào mọi lúc. Thật sự cảm kích, biết ơn nhau vì đã tạo sự hiệp thông, hỗ trợ.

Với Đức Kitô, người tín hữu mang Danh Ngài, là người biết tạo dịp cho người khác không thấy có điều gì trở ngại khi ngỏ ý nhờ mình giúp đỡ. Hỗ trợ. Đặc biệt hơn, là những người có nhu cầu chính đáng, nhưng chưa được đền bù. Đó là tín hiệu giúp ta nhận ra Vương quốc Nước Trời, đang hiện hữu ở quanh đây. Bây giờ.

Sống đúng chức năng của Kitô hữu, điều quan trọng là: biết nhận ra tín hiệu thời đại. Thế nên, tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong cho tiệc Lòng Mến giúp ta nhận ra được tín hiệu: Chúa đang hiện diện nơi ta.

Cầu và mong sao, bánh và rượu ta dâng tiến, giúp ta thay đổi được cuộc sống. Cầu và mong, cho cuộc sống của ta sẽ thích nghi hài hòa với mọi người. Sống giản đơn, vui vẻ, đỡ nâng nhau để sống hân hoan hiếu khách, không câu nệ hoặc ỷ lại. Nhưng an hòa và biết đem thì giờ cùng khả năng và nghị lực của mình ra để xây dựng Nước Trời, ở nơi đây. Lúc này.

Trong suy-tư/niệm tình, ta cùng nhau ngâm tiếp câu thơ đời có nỗi buồn, vẫn bảo rằng:

“Mình hãy trách đời nhau nhiều hư-hỏng,

Rồi giận hờn, cho kỷ-niệm đầu tay.

Thu miên man, không thấy lá vàng bay.

Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng…”

(Nguyễn Tất Nhiên – Sầu khổ Dịu Dàng)

Sầu và khổ, chỉ dịu dàng một mầu trắng khi nhà Đạo mình không nhận ra những điều do đấng thánh hiền-lành từng khuyên-bảo hết mọi người ở Nước Trời, hôm nay và mai ngày, rất như thế.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, lược dịch

KHI NGƯỜI VÔ THẦN SÁM HỐI

KHI NGƯỜI VÔ THẦN SÁM HỐI

Trầm Thiên Thu

Tôi là người vô thần.  Tôi không tin Thiên Chúa và cố chứng minh rằng người ta thật ngu xuẩn khi tin vào Thiên Chúa!

Nếu bạn hỏi tôi rằng tôi có nghĩ “tội lỗi” hiện hữu hoặc tôi có bao giờ phạm tội hay không, tôi sẽ cười thật to. “Tội lỗi là khái niệm của Kitô giáo muốn quy kết các cảm giác tội lỗi về những sự tưởng tượng là xúc phạm ra tới một Thiên Chúa cũng do tưởng tượng mà thôi”, và thậm chí tôi còn có thể nói điều gì đó để châm biếm bạn.

Không, tôi chưa bao giờ phạm tội.  Nhưng, cũng như mọi người, đôi khi tôi biết mình làm những điều khiến người khác bị tổn thương.  Và sau đó, nếu tôi ngĩ về điều đó, tôi sẽ cảm thấy không ổn và thậm chí còn phải xin lỗi họ.  Có thể những cảm giác tội lỗi đó do di truyền từ nguồn gốc, hoặc được xây dựng mang tính xã hội, nhưng tôi không cố giải thích để biện minh hành vi xấu của tôi với cách duy lý hóa như vậy.  Cho dù tôi là người vô thần, tôi vẫn cảm thấy ý chí tự do hiện hữu và có các tiêu chuẩn luân lý khách quan rằng vượt quá giới hạn cho phép là sai trái.

Sau khi thua cuộc đối với sự rối loạn lo âu về xã hội, hoang mang, và trầm cảm, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn Kitô giáo bằng cách nhìn chân thật.  Tôi bỏ qua sự phản ứng với chữ “tội lỗi”, và cố gắng hiểu những gì mà Đức Tin Kitô giáo nói về nguyên nhân tội lỗi… và cách chữa trị.  Nhờ tôi cầu nguyện, và nhờ Đức Tin Thiên Chúa ban cho tôi, tôi nhận thấy điều xấu mà tôi đã làm không chỉ làm tổn thương người khác, mà còn chống lại Thiên Chúa tốt lành, Đâng yêu thương tôi và đáng được tôi yêu mến.

Chúng ta không ai lại muốn làm tổn thương người mà mình yêu thương.  Rất ít người yêu chúng ta trọn vẹn, vẫn có sự ích kỷ.  Khi tôi tin vào Đức Kitô, tôi nhận thấy rằng tôi đã làm tổn thương Ngài bằng tội lỗi, và làm Ngài đau khổ quá đỗi.  Nhưng liệu pháp còn lớn hơn: Lòng Chúa Thương Xót. Khám phá được Đức Kitô là tình yêu và lòng thương xót sẽ khiến người ta rơi lệ vì đau buồn và biết ơn.  Khi người ta có được “kinh nghiệm hoán cải” thì sẽ ăn năn và vui mừng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Suốt những năm sống vô vọng và vắng bóng Thiên Chúa, tội lỗi đè nặng trên tôi.  Nước rửa tội đổ trên tôi, và Hồng Ân Thiên Chúa đầy tràn trong tôi.  Bây giờ tôi mới hiểu dụ ngôn Chúa Giêsu nói về người đầy tớ không tha thứ cho người đã làm điều chống lại anh ta.  Tôi mong cho mọi người, nhất là bạn bè và gia đình tôi – những người chưa nhận biết Đức Kitô, sẽ trở về tin vào Ngài và đón nhận lòng thương xót mà Ngài luôn mong muốn trao ban cho họ.

Devin Rose (*)
Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

(*) Devin Rose là kỹ sư phần mềm, vô thần, rồi theo Tin Lành Baptist, cuối cùng lại gia nhập Công giáo.