PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MUU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?

PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MUU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Hỏi : xin cha cho biết phải sống Đạo cách nào để cho mình và giúp khác được cứu rỗi ?

Trả lời:

Là người có niềm tin Thiên Chúa, thì mục đích tối cao của đời mình  phải  là tìm Chúa để yêu mến Người trên hết mọi sự và ước muốn được cứu độ để vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên cõi vĩnh hằng mai sau.

Cho mục đích nói trên, thì người tín hữu phải thực tâm đầu tư tâm trí , khả năng và thì giờ vào việc tìm kiếm Thiên Chúa và yêu mến Người trong suốt hành trình đức tin của mình  trên trần thế này cho đến ngày nhắm mắt lìa đời.

Cụ thể, phải sống Đạo cách nào để nói lên khát vọng tìm Chúa và Vương Quốc bình an, hạnh phúc của Người ?

Có Đạo và sống Đạo là hai việc  nhìn qua có vẻ giống nhau , nhưng thực rất khác nhau về mọi khía cạnh.

Thật vậy, có Đạo có nghĩa là mình đi theo một tôn giáo nào đang có mặt trên thế giới như Đạo Công Giáo  ( Roman Catholicism), Chính Thông Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) Đạo Do Thái ( Judaism) Tin Lành ( Protestants)  Đạo Phật ( Buddhism), Đạo Ấn Giáo ( Hinduism) Đạo Khổng ( Confucianism), Đạo Lão, ( Taoism) Thần Đạo ( Shinto của Nhật bản)  Hồi Giáo  ( Islam). v..v..

Tin đồ các tôn giáo trên ở khắp nơi trên thế giới.Nhưng đông đảo nhất là tín đồ Kitô Giáo thuộc các Giáo Hội Công Giáo La Mã, Chính Thông Giáo Đông Phương ,  các nhánh Tin Lành, và Anh Giáo ( Anglican Communion) .Trong các Giáo Hội  và giáo phái  này , thì tín hữu Công Giáo chiếm đa số với trên một tỉ người đã gia nhập Giáo  Hội qua Phép Rửa.

Con  số thì  đông và cơ sở thì to lớn và đồ xộ với các Thánh đường nguy nga từ  giáo đô La Mã cho đến các điạ phương nghèo khó như các giáo xứ ở miền quê Việt Nam, nơi giáo dân phần  nhiều còn sống khó khăn về mặt kinh tế nhưng cũng xây được các nhà thờ rộng lớn và khang trang với vật liệu  mua từ nước ngoài như đá hoa cương, tháp chuông  và bàn thờ, đèn nến…

Nếu chỉ nhìn qua những kiến trúc bề ngoài thì người du khách phải trầm trồ thán phục Giáo Hội Việt Nam về sức sống Đạo phong phú hơn nhiều nơi trong khắp Giáo Hội hoàn vũ.

Ở nước ngoài như Hoa Kỳ, Canada, và Úc Châu, người Công giáo Viêt Nam cũng xây được những nhà thờ nhà xứ to và đẹp hơn nhiều nhà thờ ở địa phương.

Nhưng đấy chỉ là bề nổi , bề ngoài của việc sống đạo,  và vẻ huy hoàng  bề ngoài này không hẳn đã phản ảnh trung thực bề sâu và mặt chìm của lòng mộ đạo sâu sắc. Nghĩa là  phải sống Đạo cách đích thực có chiều sâu  để  khiến  cho Chúa Kitô không phải than trách như   Người đã  quở mắng bọn Biết phái xưa kia:

Dân này tôn tính Ta bằng môi bằng miệng

Còn lòng  chúng thì  lại xa Ta.”( Mt 15: 8)

Tôn kính bằng môi bằng miệng có nghĩa chỉ sống đạo cho có hình thức bề ngoài , như  vẫn  đi lễ ,đọc kinh, hành hương v.v nhưng  tâm trí còn  bám chặt những thực tại trần thế như  tiền của,  danh vọng phù phiếm  hư hèn đến mức  làm nô lệ và tôn thờ  chúng  cùng  với mọi thú vui vô luân vô đạo, thay vì  phải tôn thờ một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự chóng qua ở đời này.

Mặt khác, cũng phải sống Đạo cách nào  trước mắt người đời   để cho thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh  em làm mà tôn vinh Cha của anh  em , Đấng ngự trên Trời. Như Chúa Giê su đã dạy các  môn đệ và dân chúng xưa kia. ( Mt 5: 16).

Thật vậy, có tên là người Công giáo phải đi đôi hay gắn liền với lòng tin yêu Chúa cách sâu đậm  đích thực  thì mới có giá trị  thuyết phục  và hy vọng được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn cho hết mọi người chúng ta.

Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ( secularism) ngày nay, chủ nghĩa vô thần, vô luân, tôn thờ tiền bạc ( cult of money) và ham  mê khoái lạc ( hedonism) đang chi phối mạnh mẽ  để lôi  kéo con người ra  khỏi  mọi niềm tin tôn giáo, nhất là niêm tin có Thiêm Chúa là  Đấng trọn tốt trọn lành, đầy yêu thương và giầu lòng tha thứ. Chính vì Thiên Chúa là Đấng trọn  tốt trọn lành nên Người gớm ghét mọi tội lỗi và sự dữ,  như giết người, giết thai nhi để bán các cơ phận của thai nhi như mắt, tim phổi, thận  để làm giầu ,  khủng bố, bắt cóc  chặt đầu con tin, dâm ô, trộm cướp, gian ác, bóc lột, thù nghịch. ,nhất là  buôn bán phụ nữ và trẻ gái cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn  nạn…Do đó, muốn sống niềm tin cho có chiều sâu thực sự, thì người tín hữu Công giáo phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi  và sự dữ nói trên cùng với lối sống của  người đời không có niềm tin, hay có mà không sống niềm tin ấy cách cụ thể. Phải xa tránh tội lỗi và những  cách sống  thiếu niềm tin  của biết bao người khác  để nói lên lòng yêu mến Chúa thực sự , tức yêu mến sự thiện, sự tốt lành, sự trong sạch, sự khôn ngoan,  sự  công chính… là những đặc tính cản bản thuộc  về  Thiên Chúa cực tốt cực lành. Cụ thể,  yêu mến Chúa thực sự  đòi hỏi mọi người tin có Chúa trước hết phải tuân giữ mọi Điều Răn của Chúa  như  Chúa Giê su đã dạy:

Ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

Cha của Thầy và Thầy sẽ  đến và ở lại trong người ấy. ( Ga  14: 23)

Hay rõ hơn nữa

Nếu  anh  em giữ các điều răn của Thầy

Anh  em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy

Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy

Và ở  lại trong tình thương  của Người, ( Ga 15 : 10)

Giữ  lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã dạy , cụ thể  là  hai điều răn lớn và quan trọng nhất: đó  là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người khác như  yêu thương chính mình, như  Chúa Giê su đã nói với một luật sĩ kia. ( Mc 12: 28-31 ).

Tuân giữ các điều răn của Chúa không  phải để làm lợi gì cho  Chúa  mà vì  lợi ích của chính con người mà thôi.Chúa tuyệt đối không  được  lợi lộc gì khi ta tuân giữ các giới răn của Người.Chắc chắn như vậy.

Nói khác đi, nếu ai cũng được tự do cướp vợ  giật chồng của nhau, tự do chiếm đoạt tài  sản của người khác, tự do ăn gian nói dối và tự do giết người và dâm đãng  thì thử hỏi thế giới này sẽ đi về đâu ?

Xã hội có luật pháp và người tín hữu Chúa Kitô có các giới luật của Thiên Chúa , vậy mà vẫn còn đầy rẫy những  tội lỗi và sự dữ như  giết người, oán thù , giết thai nhi, trộm cướp, bóc  lột,  gian dâm và hiếp  dâm , bạo động và chiến tranh…Như vậy, thì thử hỏi :  nếu không có luật pháp xã hội và các giới răn của Thiên Chúa thì  đời sống con người và xã hội  sẽ  thê  thảm đến mức nào  ? Vì thế, tuân giữ luật pháp của xã  hội và các giới răn của Chúa chỉ có lợi cho con người chứ không có lợi lộc gì cho Chúa hết.Cho nên, ta phải cảm tạ Chúa vì Người đã ban  lề  luật cho ta tuân giữ để được  hạnh phúc ngay từ đời này, và nhất là đời sau.

Nói cách khác ,  nếu ai cũng biết tôn trọng mạng sống và danh dự của mình và của người khác, không ai thay vợ đổi chồng  vì ham vui bất chính, không ai lường gạt, bóc lột người khác, không ai tham tiền để mở sòng bạc, nhà điếm,  trồng cây thuốc phiện và cần sa , mở nhà tắm hơi  trá hình để hành nghề mãi dâm, không ai gian ác để giết người, giết thai nhi…thì  bộ mặt của thế giới này đã  không  quá tồi tệ  và ghê sợ như thực trạng  hiện nay.

Vậy, là người Công giáo – tức người tin Chúa Kitô- nếu  muốn sống đức tin cách cụ thể và có sức thuyết phục người khác,  thì   phải  tuân giữ các giới răn  về  mến Chúa, yêu người, yêu sự thiện và công bình, không gian dâm, trộm cắp, không oán thù và làm chứng gian, là những thói hư tật xấu của biết bao người không có niềm tin Thiên Chúa , hay có mà không sống niềm tin ấy cách cân xứng.

Chính việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa lánh mọi thói hư tật xấu của người đời không có niềm tin, sẽ giúp người có và sống  niềm tin  phân biệt mình với họ và nhiên hậu cũng có  sức lôi kéo , mời gọi người khác nhận biết có Chúa nhờ gương sống nhân chứng của mình.

Đây chính là sứ mệnh phúc âm hóa thế giới mà mọi tín hữu trong Giáo Hội có bổn phận thi hành để mang mang Nước Chúa và  góp phần  vào việc cứu rỗi người khác, vì   Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhân biết chân lý.( 1 Tm 2 : 4).

Nói khác đi, sống giữa  thế gian, người tin hữu Công giáo phải  cố thực hành điều Thánh Phaolô đã khuyên dạy tin hữu  Phi-lip-phê  xưa là :

“ …anh  em  hãy làm mọi vệc  mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh  em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì , và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh  em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” ( Pl 2:  14-15)

Thế gian với quá nhiều gương xấu, quá nhiều  quyến rũ về tiền bạc  của cải vật chất , danh vọng  và mọi thú vui vô luân vô đạo,  là một thách đố to lớn cho những ai muốn chọn  Chúa làm gia nghiệp để coi khinh , coi thường những  lợi lãi và danh lợi chóng qua ở trần gian này.

Với những ai đang ham mê chạy theo những lôi cuốn đó của thế gian, thì  Lời Chúa sau đây là một cảnh cáo và thức tỉnh cho họ và cũng cho tất  cả những ai có niềm tin Chúa :

“ …Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống ( mất linh hồn) thì  nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình.? ( Mt 16: 26; Mc 8:  36-37; Lc 9 : 25)

Thử hỏi : có ai được cả thế giới này làm lợi lãi đâu ? nhưng cho dù có chiếm được tất cả danh vọng và tiền bạc của trần thế này,  mà mất mạng sống  tức mất linh hồn thì  được ích gì ? và lợi lãi kia có thể  mua được phần rỗi của linh hồn hay không?

Đó là câu hỏi mà Chúa muốn mỗi người tín hữu chúng ta phải  luôn  suy nghĩ và hành động cho thích hợp.

Cũng cần nói thêm là , sống trên trần gian này, ai cũng phải lo cho mình và người thân của mình có được đời sống ấm no cho phù hợp với nhân phẩm.  Trong mục đích và giới hạn  này, Chúa không dạy chúng ta phải nghèo đói, rách rưới  và vô gia cư thì mới  được chúc phúc và cứu độ. Nghĩa là Chúa không cấm chúng ta đi tìm tiền bạc cho những nhu cầu chính đáng của thân xác  và giúp  thực thi bác ái với anh chị em kém may mắn vì  nghèo túng. Nhưng là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống  mai sau trên Nước Trời , thì  phải coi trọng phần rỗi của linh hồn mình hơn hết, dựa trên lời khuyên bảo sau đây của Chúa Giêsu: đó là :  “ hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách , một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời , nơi trộm cắp không bến bảng, mối mọt cũng không đục phá.” ( Lc  12: 33) . Nghĩa là tiên vàn ta phải tìm kiếm  “ Nước Thiên Chúa , còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” ( Lc  12: 31)

Các thứ kia là cơm ăn,  áo mặc, nhà cửa, xe cộ, bảo  hiểm sức khỏe…là những thứ cần thiết cho đời sống con người bao lâu còn sống trên trần gian này. Và cầu xin Chúa ban cho những phương tiện sống cần thiết đó là  điều chính đáng  và đẹp lòng Chúa.

Nhưng điều cần thiết và quan trọng hơn  là phải để hết tâm trí vào việc sống đạo  cho có chiều sâu thực sự, thể hiện cụ thể qua việc siêng năng cầu nguyện để nâng  lòng trí  lên với Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc và giầu sang vĩnh cửu. Tiếp đến , phải siêng năng lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải  tức là năng tham dự Thánh lễ để  tâm hồn được nuôi dưỡng  bằng lời Chúa và  Mình Máu  Chúa Kitô,  là suối nguồn thông ban ơn cứu độ của Chúa  cho ta  qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm mầu của Chúa Kitô trong trần gian.

Sau nữa, cũng cần thiết phải  luôn chạy đến với Chúa qua bí tích Hòa giải  để được tha thứ mọi tội lỗi vì yếu đuối con người , trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội  hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người.( Mc 3: 29)

Thêm vào đó, phải hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội thể hiện qua việc tuân thủ mọi giáo lý cúa Giáo Hội về hai lãnh vực rất quan trọng là tín lý và luân lý. Tín lý như tin có một Thiên Chúa với Ba Ngôi Vị, tin Chúa Ngôi Hai có hai bản tính là Thiên Chúa và là Con Người thật, tin Đức Maria trọn đời đồng trinh và lên trời cả hồn xác…Luân lý  như cấm phá thai, cấm hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)  cấm thụ thai nhân tạo, và không được ly dị, không được  mê tín dị đoan  cờ bạc và mãi dâm…

Nếu không cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các lợi ích thiêng liêng lớn lao qua các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải  và thi hành  giáo lý của Giáo Hội,  thì  đời sống đức tin sẽ không thể tăng trưởng  được. Và từ đó,  cũng không  giúp  gia tăng lòng yêu mến Chúa và khao khát những sự trên trời  mà hậu quả là  chỉ còn  mù quáng chậy theo những quyến rũ của trần gian với  đam mê tiền của và  mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt  thật của “văn hóa sự chết” đang  chi phối biết bao triệu con người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân và phi nhân hiện  nay.

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, tất cả đều được mong đợi  sống đức tin, đức cậy và đức  mến cách  thực sự có chiều sâu  để nói lên quyết tâm chọn Chúa  làm gia nghiệp , là ưu tiên  nhất cho cuộc sống trên đời này để  chống lại mọi  quyến rũ về tiền bạc, danh lợi và vui thú bất chính  của trần gian  hầu  được cứu độ, được sống hạnh phúc vĩnh  cửu  và  được   thông phần bản tính Thiên Chúa , sau khi đã thoát khỏi cảnh  hư  đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này. như Thánh Phêrô  đã khuyên dạy. ( 2 Pr  1 : 4).

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

NGHỊCH LÝ CỦA ĐỜI TU

NGHỊCH LÝ CỦA ĐỜI TU

Image result for linh måc

Nhìn từ bên ngoài, người ta luôn thấy đời tu rất đẹp, hệt như một Thiên Đường tại thế. Suốt ngày cất cao giọng hát ngợi khen Chúa, vui vẻ với những công việc tầm thường như việc cắt cỏ trồng rau, không một chút bon chen với cuộc đời, không phải lắng lo chuyện gia đình, con cái, không ganh đua với danh vọng cao sang. Nhìn những vị tu sĩ cao niên đắc đạo, miêng lúc nào cũng nở những nụ cười tươi, không quần áo sang trọng, không vàng bạc trữ kho, nhưng tâm hồn lúc nào cũng bình yêu thư thái, lối hành xử luôn chậm rãi khoan thai, không hờn ai, không trách cứ, đó quả thực là điều nhiều người ước mong. Rồi những tấm gương hy sinh cả một đời giúp đỡ những người cơ nhỡ, người nghèo, hay những ai bị cuộc đời ruồng rẫy, họ làm việc như thể đó là niềm vui, cho đi mà chẳng mong gì đền đáp, bao lụy phiền của nhân tình thế thái chẳng thể bám víu trái tim họ. Đời tu quả là tươi đẹp, là dấu chỉ của Nước Chúa hiện diện ở trần gian.

Thế nhưng, chỉ có những ai sống trong đời tu mới có thể hiểu rõ được sống đời tu thật không dễ tí nào. Để có thể trở nên một cây cổ thụ sừng sững uy phong, nó đã phải trải qua không ít những gian nan thử thách. Cây nào chịu đựng được thì lớn lên; cây nào không đủ sức thì gục ngã. Đời tu tuy đẹp đấy, nhưng để có thể sống trọn vẹn lý tưởng này, chẳng con người nào có thể tự sức mình mà sống được. Ấy là bởi vì sống đời tu là sống giữa nghịch lý vô cùng căng thẳng của kiếp người.

Người đi tu là người sống giữa thế gian nhưng không được để mình bị thế gian đụng đến. Họ người có đôi chân chạm đất nhưng đầu thì hướng thẳng về trời cao. Họ phải sống trong cuộc đời nhưng lại bị xem là người ở cõi khác. Họ chọn đời hiến dâng không phải để trốn đời, hận đời, nhưng là để vào đời và yêu mến đời nhiều hơn. Người đi tu cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp như ai kia, nhưng phải chọn lấy cho mình phần kém nhất. Họ phải trải rộng tình thương của mình cho người khác, nhưng lại không được để một người nào đó được phép yêu mình. Họ phải yêu người nhưng không được giữ lại riêng cho mình một ai. Họ yêu nhưng không được nắm giữ.

Ai cũng mong muốn mình có một bến đỗ dừng chân, nơi một mái ấm nhỏ, có tiếng cười của con thơ. Nhưng người đi tu thì phải vượt trên mong muốn ấy. Họ có đôi bàn chân không bao giờ ngừng bước. Họ như ngọn gió ngao du khắp núi rừng, băng qua biển khơi. Chẳng nơi đâu là nhà nhưng cũng chẳng nơi đâu là xa lạ. Nơi họ đặt chân đến là quê hương, là cuộc sống của họ… Họ không được đậu neo ở điểm dừng nào, không được để lòng lưu luyến ai hay bất cứ nơi đâu, nhưng phải thanh thoát và tự do với mọi sự. Nơi con tim của người đi tu chất chứa đầy những tâm tư sâu kín. Họ có yêu ai không, không ai biết; họ có ghét ai không, chẳng ai hay; họ có nóng giận, buồn phiền với ai không, không ai tỏ. Dù bên trong có thế nào, điều mà họ thể hiện ra bên ngoài phải là niềm hạnh phúc, phải là niềm vui, phải là dấu chỉ của Nước Trời.

Đó là lý tưởng đẹp, nhưng cũng là điều không phải dễ mà sống được. Sống giữa căng thẳng luôn làm người ta như muốn xé nát con người mình làm đôi. Làm sao giữa dòng đời vạn biến, tâm mình vẫn không động, vẫn yên vui? Làm sao giữa một thế giới đang hô hào chuyện hưởng thụ vật chất, sống trụy lạc và tự do cá nhân, mình lại chủ trương chọn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục người khác? Có những tu sĩ đã vì những xu hướng và thúc bách cá nhân đưa đẩy, lại thiếu đi sự kết hiệp với Chúa nên đã dần dần đánh mất đi lý tưởng tuyệt vời và cao quý của đời tu.

Trong giờ phút này, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện cho những vị tu sĩ ấy:

Trước hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai đang đứng trước chọn lựa giữa đời tu và đời sống bình thường. Xin cho họ được ơn soi sáng để có thể bình tâm chọn lựa điều nào hợp với thánh ý Chúa cho cuộc đời mình.

Chúng ta cũng xin Chúa đến kề bên và nâng đỡ những tu sĩ nào đang bị ngả nghiêng theo cơn gió cuộc đời. Xin cho họ biết chạy đến với Chúa khi tâm hồn có chút gợn sóng nhân gian để được ủi an và thêm sức, chứ đừng tìm bù trừ nơi những niềm vui thế tục, nơi những vật chất, tiện nghi. Xin Chúa giúp cho các tu sĩ biết tìm hạnh phúc nơi những hy sinh và thập giá, chứ không phải nơi bạc tiền và danh vọng.

Xin cho các tu sĩ nhận ra rằng biết bao linh hồn đang cần họ đi tới và chia sẻ; có rất nhiều người đang nhìn đến đời sống phục vụ vô vị lợi của họ mà thầm tạ ơn Chúa và nhờ đó có thêm nghị lực đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho họ đừng vì ích kỷ cá nhân và quên đi lời gọi mời cao quý Chúa đã dành cho họ.

Xin cho các tu sĩ, mỗi ngày nên giống Đức Giêsu Kitô vác thập giá – mẫu gương đời sống dâng hiến của họ hơn.

Chau Micae

“Hỡi ơi dâu bể mòn thương nhớ,”

Hỡi ơi dâu bể mòn thương nhớ,

“Gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi.

Lớp lớp biên cương tình chật hẹp,

Mùa xưa thông cảm đã qua rồi.”

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá, lược dịch

Người người khi xưa, “dâu bể mòn thương nhớ”, phận hèn nữ-phụ hôm nay những cảm thông. Thế giới hôm rày, vẫn tạo nơi nương náu cho nữ-phụ cùng con trẻ từng gặp cảnh thương nhớ/nhớ thương một cõi đời đầy phúc-hạnh, rất hoan-lạc.

Thế giới hôm nay, có rất nhiều cung-đường nương-náu dành cho phụ nữ và con trẻ vào những lúc căng thẳng, cả xác lẫn hồn. Cung đường này do hội Vinh Sơn thánh Phaolô thiết lập. Họ gọi đó là “Nhà tình nghĩa Manna”.

Tình nghĩa Manna, ư? Nghe như tin lạ được gợi hứng từ truyện vui thiên-thần rút trong kinh điển của Hội thánh. Truyện kể về Manna, bánh  hằng sống phản ảnh công tác thiện nguyện xuất từ lòng nhân hậu, đỡ nâng của những người rất nhiệt tình. Trải qua sau nhiều nỗi khiếp sợ, người phụ nữ và con trẻ bị hạch sách quấy nhiễu, hành hạ đủ điều, nay được đón tiếp ân cần nơi cung đường nương náu Manna, đầy tình nghĩa.

Ở đây, tuy là nơi tạm bợ sống qua ngày, nhưng đời sống gia đình của người gặp nạn được hàn gắn, chắp vá. Cả người mẹ lẫn con thơ, sẽ vơi cạn nỗi đớn đau/sầu buồn. Rồi từ đây, mẹ con thân yêu sẽ hồi sinh gượng dậy từ chốn gẫy đổ, để rồi sẽ lại tiếp tục cuộc sống mai ngày, đầy hiểm nguy.

Nơi nhà tình nghĩa đầy Manna ấy, sự đón tiếp ân cần đã đem đến cho người mẹ và đàn con gia đình nguồn sinh lực mới, rất đầy tràn. Tương tự như thế, lòng ân cần trìu mến cũng đến với chúng ta, ở đây, nơi bàn tiệc này.

Tham dự Tiệc thánh, chúng ta tạm dừng bước phong trần, bỏ ra một ít phút trong hành trình tin-yêu, nhiều hệ lụy. Dừng bước, để tin vào sự thiêng liêng, linh đạo. Dừng bước, để có thể yêu thương Đấng luôn ân cần chăm sóc ta suốt hành trình. Dừng bước, để được bồi bổ sinh lực, ngõ hầu ta ra đi đại diện cho cộng đồng dân Chúa, làm chứng tá cho sự hiện diện đầy thương yêu của Đức Chúa với thế giới, hiện thời.

Ở đây nữa, sống đời đi Đạo, ta vẫn cần tình nghĩa Manna. Cần cơm bánh từ trời, gửi đến từ nơi cao xa, chốn vĩnh hằng. Thứ tình vẫn đến, khi ta gặp thử thách. Xách nhiễu. Hành hạ. Cả về thể xác lẫn tinh thần.

Tôi thích những sự kiện cho thấy, với tư cách người Công giáo, ta tin Đức Kitô hiện diện khắp mọi nơi. Ngài hiện diện cả ở quà tặng mà ta nhận lãnh hằng ngày. Hằng tuần. Quà tặng ấy, niềm tin ấy, ta nhận được dưới hình thức bánh và rượu dâng lên Ngài, buổi Tiệc thánh. Ta không chỉ tin Ngài hiện diện lúc hừng đông, khi chiều chậm xuống. Hoặc, ở những nơi có vẻ đẹp thiên toà. Thảnh thơi, ngơi nghỉ thôi.

Ta còn tin Ngài đến với ta qua hình thức đặc thù. Độc nhất. Giản đơn. Ngài hiện diện với mọi vật bình thường. Trong đời. Mỗi người. Hiện diện qua cung cách ứng xử với quà tặng rượu bánh ấy, ta minh xác cho mọi người nhận thức về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng ân cần đỡ nâng mọi người. Vào mọi lúc. Ở mọi nơi.

Cộng đoàn tín hữu sơ thời chẳng gọi Tiệc Lòng Mến là tiệc bẻ bánh, đấy sao? Bánh được bẻ ra, là để sẻ san. Rượu được chuyền đến tay ta, cùng với lời đáp rất “Amen”, là bằng chứng khẳng định niềm tin: Đức Chúa đang hiện diện. Ở đây. Lúc này. Ta cần minh định với mọi người rằng: Đức Kitô hiện diện nơi ta, cả vào khi ta gặp tình huống khô khan. Sa mạc đời mình, đời người. Nhiều lúc nhớ lại, ta như thấy mình đang rong ruổi nơi đồng hoang chốn vắng, cứ muốn tìm cho ra dấu chứng xác nhận sự hiện diện của Chúa, vẫn khôn nguôi.

Đối với những người đang chịu cảnh vỡ đổ tâm thần hoặc thể xác, những người đang yêu thương đùm bọc kẻ khác, và những người hiệp thông nhận bánh tình nghĩa Manna hôm nay, thì đây là cơ hội tốt để ta gặp gỡ Chúa, tại nơi mình tham gia, hiện diện. Phải chăng đây chính là điều tuyệt vời, mỗi khi ta đến để dự Tiệc thánh, với đầy đủ ý nghĩa như thế?

Đành rằng, nhiều người sẽ chẳng nhận ra điều tuyệt vời ấy. Bởi, họ cứ nghĩ mình không tốt lành đủ để được phép, được ơn lành có mặt nơi đây. Dù với lý do gì đi nữa. Dù, là lâu nay Chúa vẫn thân mời họ đến dự để Ngài trao ban tình Manna ấy cho họ. Ngài vẫn luôn thân mời, để tặng ban cho họ nỗi niềm chăm sóc, ân cần lẫn đùm bọc.

Dù điều gì sẽ xẩy đến, Tiệc Thánh Thể vẫn là bữa tiệc rất quan trọng. Quan trọng, ở chỗ: ta không thể vì bản tính ích kỷ giữ chặt cho riêng mình, những gì mình nhận được, ở đây. Món quà quý báu ấy là Lời dạy thánh thiêng của Ngài. Là Nhiệm tích Thánh Thể Chúa tặng ban cho mọi người.

Có khiêm nhu nhận lãnh quà tặng cho mình và cho mọi người như thế, ta mới trở thành ngôn sứ. Thành Kitô khác. Tức Kitô trong Đức Kitô. Để, tất cả trở nên một. Một ngôn sứ. Một Hội thánh. Một Đức Kitô.

Tin Mừng hôm nay dẫn chứng Lời Chúa về sự kiện Chúa Cha thu nhận mọi người đến với niềm tin-yêu, của Đạo. Trong Đạo. Có thể là, nhiều khi ta rơi vào cạm bẫy đang chực sẵn khi ta nghĩ: điều mà mọi người gọi là niềm tin, chỉ là sản phẩm của tri thức. Có thể là, đôi lúc ta cũng võ đoán mà cho rằng: niềm tin-yêu chỉ như một vận dụng của trí óc. Không hơn. Không kém.

Có lẽ, ta cần suy tư cho đúng cách. Cần sức mạnh mà luận chứng cho vững chắc, hầu sự thật về niềm tin-yêu được tỏ hiện vượt lên trên cảm tính. Trực giác.

Chắc chắn là, rồi ra nhiều người cũng sẽ cảm nhận được sức mạnh của Tình thương yêu Chúa họat động qua cách thức ta sống đời sống giản đơn, trong cuộc đời thường nhật của mình. Đây là mấu chốt khả dĩ lôi cuốn được mọi người. Là cung cách thu hút nhiều người về với vấn nạn, hỏi rằng: điều gì đem đến cho đời tôi có được chất lượng, ý hướng, mục đích cũng như ý nghĩa đích thực của sự sống? Tin Mừng nay mang lại cho mọi người câu trả lời thật rõ nghĩa. Trung thực.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, cầu mong sao trạm nghỉ dưỡng ở cung đường Manna lành thánh, nơi hành trình tin-yêu, sẽ giúp ta rũ bỏ mọi hãi sợ. Giúp ta phục hồi sinh lực. Ngõ hầu hoàn thành công tác đang chờ ta, ở phía trước. Cầu mong sao Tin Mừng mọi người đọc ra, sẽ là cuộc sống của chính ta.

Và là, nhiệm tích duy nhất rất thánh thiêng mời gọi hết mọi người. Nhiệm tích thánh nơi Tiệc Lòng Mến, sẽ dẫn đưa mọi người về lại với Đức Kitô, Đấng công bình. Nhân hậu. Của chính ta. Là, niềm an vui cho mọi người.

Cảm nghiệm niềm an vui Chúa tặng, nay nhớ lời thơ day dứt xưa người vẫn hát, rằng:

“Qua rồi thuở ấy, tình sâu nặng,

Trăng mới cuồng si, nụ bán khai.

Ta nhớ tiền thân, phòng lại ngõ,

Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai.”

Gái Liêu Trai xưa ở truyện cổ hay người nữ-phụ ở đời người, vẫn là sự thật phũ phàng day dứt. Những mong rằng, Lời Chúa hôm nay là chút an ủi người chị người em trong Hội thánh Nước Trời rất thân thương, cần ghi tạc. Ghi tạc mãi, tình thương-yêu đùm bọc Chúa răn dạy. Để rồi, người người lại sẽ vui hưởng niềm an vui nồng thắm suốt một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 41-51)

Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.

Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Trên đồi xanh chiều đã xuống dần,

“Trên đồi xanh chiều đã xuống dần,”
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vang.
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời,
lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn…
(Nguyễn Văn Khánh – Chiều Vàng)

Trần Ngọc Mười Hai

Hát bài “Chiều vàng”, phải chăng người nghệ sĩ khi xưa muốn diễn-tả tình-cảnh có câu chuyện lình-xình với mối tình da diết của mùa thu? Không. Không phải thế đâu! Theo lời người dẫn nhập bản hát là đàn-sĩ Lê Văn Thụ Nhân trong chương trình “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney hôm ấy, 05/7/2015 có bảo rằng:

“Tác-giả bài “Chiều Vàng” cũng là tác-giả bài “Nỗi Lòng” diễn-tả cuộc tình đầy đau thương của mình qua bài hát. Tình-tự được diễn-tả là: mới chỉ xa cách nhau có 3 tuần, nhưng khi đến thăm lần đó ông được biết là người tình của ông nay đã chết. Trong tâm trạng buồn bã ấy, tác-giả đã viết lên nỗi buồn mênh mang, nhè nhẹ này bằng giòng chảy rất “Chiều Vàng.” (Trích lời phát biểu của người trẻ tên Thụ Nhân cùng với người điều-khiển chương trình là Uông Thế Công)

Chẳng biết người dẫn chương-trình hôm ấy nói có theo sách mách có dẫn-chứng hay không, nhưng nay vẫn cứ mời bạn và mời tôi ta nghe thêm đôi lời kể về buổi “chiều vàng” vẫn “buồn xa vắng buồn” như sau đây:

“Buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người.

Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta.

Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta,

Lời đó còn đâu?

Đường về lòng người tha phưuơng nhớ.

Chiều dần dần mờ cô thôn vắng.

Người yêu dấu ngàn đời thấu chăng?

Ta nén đau thương gắng bước hoài,

Thuyền chèo tới đâu chưa ngừng bến.

Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng.

Tình tràn đầy sầu chung non nước,

Hồn em có cùng người chứng minh.

Anh bước ra đi luyến tiếc hoài,

Đời còn có em nay mà thôi.

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

“Chiều vàng”, ở đời nào cũng có thể là như thế! Còn, chiều rất “vàng” ở nhà Đạo thì sao?

Với nhà Đạo, làm gì có “Chiều vàng”, hoặc “sáng trắng”, đâu cơ chứ! Sáng hay chiều, với người nhà Đạo, vẫn là chuỗi ngày dài trước sau như một, đầy yên vui, tâm tịnh cũng rất “thiền”.

Nói cách khác, sáng hoặc chiều nơi nhà Đạo, lại là những ngày tháng dân con Đạo mình vẫn tịnh tâm suy tư về nhiều thứ. Chí ít, là những thứ và những sự được nhiều người áp-dụng cho đời mình, như truyện kể nhẹ ở bên dưới để dẫn nhập, như sau:

“Tới chơi nhà người bạn già, chỉ thấy bà vợ ngồi trước hiên. Tôi bèn hỏi: “Ổng đâu bà chị?”
– Ngồi thiền rồi
Tôi ngạc nhiên: “Ây da, ổng tu hồi nào vậy bà chị?”
– Thì cách đây nửa năm một số người bạn quen biết rủ ổng đi chùa, rồi đi tham gia vào các đạo tràng, rồi tu học chèo thuyền thúng gì đó. Ổng về nói với tôi là ổng và tôi hết duyên, con cái chỉ là đống nợ, ổng muốn giải thoát, muốn được siêu thoát để đến cảnh giới niết bàn ghế gì đó…Tui chán, mặc ổng muốn làm gì thì làm. Cơm no bò cưỡi không muốn, muốn ăn chay, tiệt dục, ngơ ngơ ngẩn ngẩn chuyện tâm phào, đồ điên.
Tôi hỏi: “Thế thấy ổng có vui sướng không?”
Bả nhún vai ái ngại:
– Ái chà, sướng nỗi gì? Mở miệng ra nào thì đời là bể khổ hoặc ta chỉ là xác mượn. Hết biết!
“Khi nào ổng ngồi xong?” Tôi hỏi.
– Không biết, nhưng có lẽ xong rồi, để tui vào xem. Ông ngồi uống nước đợi chút nhé!

Chưa đầy 1 phút, một thân hình còm cõi vụt ra, hô to: “Ôi quý hóa quá, thiện nhân tới thăm”
Tôi mỉm cười: “Ai da, thiền nhân có khác. Tu tập tinh tấn có khác. Thế bác đang tu thiền, bác hiểu và cắt nghĩa cho tôi chữ thiền là gì được không?”
Bác Ba ngập ngừng: “Mới tập, chưa rõ lắm, chỉ biết là pháp môn của nhà Phật, con đường đi của đạo”
“Phương pháp như thế nào?” Tôi hỏi tiếp.
+ À, thì ngồi kiết già, nhắm mắt lại, không nghĩ ngợi. Tập trung nhất niệm: “Nam mô a di đà phật”. Khoảng 1 tiếng là được. Mà phải giữ thân sạch như ăn chay, diệt dục thì tâm mới thanh tịnh được nhé!”
* Vậy à, thế ông đã thanh tịnh chưa? Tôi nghe nói ngồi thiền sẽ bỏ và buông được cái tôi đúng không?
+ Ừ, mình thấy thanh thản lắm.
* À, nãy tôi tới thấy vợ ông nói là ông không cần bả nữa, bả đang làm đơn xin li dị thì phải? Ai dà, tôi lấy làm tiếc cho ông!
+ Hắn sững cồ: “Cái gì? Nó dám bỏ tao sao? Tao phải vào cho nó biết tay mới được!”
* Nhưng ông có nói là không cần vợ con mà, ông muốn đi tu và xa lánh đời
+ Đúng, nhưng… Nó không được bỏ tao!

Tôi thấy tình hình bất ổn nên vội xin phép ra về. Sau đó nghe đâu hai vợ chồng cãi nhau, bà vợ bỏ về nhà mẹ ruột ở.
Một hôm, tôi nhận được điện thoại của bác Ba: “Alô! Rảnh ghé uống trà chơi nghen!” “Ok, chiều mai 5h tôi ghé” Tôi hẹn lại.
Qua hôm sau theo đúng hẹn tôi tới nhà bác Ba. “Sao rồi, khỏe chứ bác Ba?”
Hắn ra đón tiếp với trạng thái mỏi mệt:
+ Ừ, đang bệnh cảm lạnh, mấy hôm bị sốt cao, mệt quá!
* Mấy hôm không thiền nữa à? Tôi hỏi.
+ Thân xác rệu rã, không khỏe nên tâm vọng vớ vọng vẩn. Mình không sao tập trung được. Chán lắm. À, tôi nhờ Dũng đánh lời cho vợ tôi bảo bả về nhà đi, tôi ở một mình chịu hết nổi rồi!
* Ủa, một mình thì càng thanh tịnh chứ sao?
+ Biết vậy, nhưng không tập trung được bạn ạ! Với lại mì tôm hoài ớn quá!
* Hahaha, muốn thoát tục thì phải trả giá chứ? Tôi chọc.
+ Ừ, tôi biết rồi. Cái giá đó đắt quá. Thôi cứ từ từ mà thoát tục cũng được. Dũng giúp giùm tôi nhé.
* Ok, nhưng chỉ một lần này thôi nhé. Thật ra nói cho bác biết, bác hành thiền chưa đúng pháp đâu?
+ ??? Vậy sao cho đúng?
* Thiền là một trạng thái đưa tâm hồn vào miền không buồn, không vui, không có sắc màu, không tranh chấp, không luận bình suy diễn, bình yên an lạc và ung dung tự tại. Thiền có trong việc đi – đứng – nằm – ngồi. Thiền có trong công ăn việc làm. Thiền là hơi thở của cuộc sống. Ông chỉ cần làm theo nguyên tắc sau là được:
– Luôn hài lòng và vui vẻ với tất cả sự việc hiện tại. Kể cả sinh lão bệnh tử, hãy xem đó là quy luật bất biến và tất có. Mở lòng đón nhận nó.
– Sống thật với chính mình
– Làm những chuyện có lợi cho mình, cho người, giúp đỡ khi người gặp khó khăn trong điều kiện của mình một cách tốt nhất
– Nói và làm phải song hành
– Làm cho tất cả những người xung quanh và quen biết mình được an vui và hạnh phúc.
– Nói tóm lại, “Thiền” cũng tương tự như ông đi xe máy. Khi ông đi xe máy ông phải biết mình đang lái xe và tập trung nhìn vào phần đường mình đang đi. Không được vừa lái xe vừa nghĩ về chuyện khác. Nếu nghĩ về chuyện khác, ông mất tập trung tất sẽ bị tai nạn ngay.

Vì vậy, ngoài việc tập trung để lái xe, ông còn phải khéo léo điều khiển xe sao cho không va đụng vào người khác và ông phải thực hiện và tuân thủ đúng một số quy định của luật an toàn giao thông. Điểm xuất phát thì ai cũng đều có, điểm đến thì tùy nơi ta muốn đến. Lộ trình di chuyển gọi là con đường (hay tạm gọi là Đạo). Cái xe ta điều khiển có thể gán cho thân xác. Tâm hồn hoặc sự suy nghĩ có thể gán cho ý thức. Luật giao thông có thể gán cho kinh sách. Ông sẽ thấy trên đường đi có rất nhiều người, bằng các phương tiện khác nhau họ đi với lộ trình khác ông. Vậy, lộ trình ông đi có đến được đích hay không là do ông quyết định. Mọi cái không có điểm dừng. Khi ta kết thúc một lộ trình, điểm dừng lộ trình này chính là điểm khởi đầu cho một lộ trình mới. Cứ vậy chẳng dừng. Khi ta chết, có thể một thế giới mới đang chờ ta.
+ Ôi, sao tôi thấy ông nói đơn giản mà dễ hiểu nhỉ. Không biết đúng hay sai, nhưng tôi cảm nhận được cái xe máy của tôi nó có lộ trình rồi. Thôi, để tôi qua tự đón vợ về. Ít nhất, tôi phải “tự” qua được “bên ấy” và “tự” giải quyết hậu quả do mình gây nên. Ây da, thì ra lâu nay nghĩ cao siêu quá, té ra đi xe máy cũng là “Thiền” rồi.
* Ừ, cứ vận dụng nhé! Khi đón bả về, có thể hiểu thêm “xe máy” cũng có thể là “bà xã” nhé! Vấn đề là lộ trình đi đến hạnh phúc phải tự mình quyết định. Kakakaka.”
(Truyện nhẹ do Hoàng Dũng Nha Trang kể)

Thật ra thì, có thuật truyện nặng/nhẹ về “thiền” hoặc về gì đi nữa, cũng chỉ để dẫn-nhập cho bạn và tôi, ta bước nhẹ vào hành-trình tư-duy có nhiều điều cần suy-nghĩ. Suy và nghĩ về những sự việc hoặc lập-trường/tư-tưởng của đấng bậc nhà Đạo đang diễn-biến trong/ngoài “Nhà Thờ”, cũng là điều rất đáng làm.

Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta đi thẳng vào câu chuyện thường ngày, ngay bây giờ. Truyện ở đây, không chỉ là truyện kể cho có lệ hoặc “kể cho qua ngày đoạn tháng”, có thế thôi. Nhưng, là chuyện thời-sự trong Đạo rất nên bàn, những bảo rằng:

“Buổi lễ đầu-tiên tổ chức ngoài trời, hôm ấy, ở Nam Mỹ, Đức Phanxicô đã thúc-giục các giáo-dân tham-dự hãy nguyện cầu cho “phép lạ” xảy đến với Thượng Hội Đông Giám Mục Rôma tháng 10 năm 2015 này. Ngài nói: Hãy cầu nguyện để Hội thánh ta tìm ra giải-pháp hữu-hiệu cho các vấn-đề khó-khăn đang xảy đến với các gia-đình của thời mình…” (X. Mục tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 12/7/2015 tr.12, Pray for miracle at synod, pope asks massive crowd)

Nếu bạn và tôi, ta hiểu ý/từ “phép lạ” vào thời-đại hiện-tại theo nghĩa hiếm-hoi, ít-ỏi hoặc khó lòng thấy được, thì chả chắc gì ta có được giải-pháp thoả-đáng nào cho các gia-đình đang bị các “cụ Đạo” hoặc đấng bậc cổ hủ vẫn định-nghĩa, định-hình hay định vị gì đi nữa.

Nói thì nói thế, chứ đấng bậc chủ quản giới truyền-thông thuộc Tông toà rất thánh lại nghĩ khác. Khác thế nào ư? Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm lời lẽ xác-minh sau đây:

“Lm Federico Lombardi, giám-đốc phụ-trách truyền-thông báo chí Hội thánh Công giáo La Mã, lại đã diễn-giải cho các phóng-viên có mặt ở lễ thánh hôm ấy, ý-nghĩa cũng khác nên mới bảo: “Lời của Đức-Giáo Hoàng phải được hiểu như một tư-duy rất thông-thường về công-việc mà Thượng Hội-Đồng Giám-mục bàn bạc hầu giải-quyết, chứ không phải để qui-chiếu một đề-tài nào mà các Giám-mục có thể bàn đến.” (Xem bài đã dẫn ở trên)

Tuy nhiên, hỏi rằng 500.000 người có mặt hôm ấy có thông-hiểu lời của Đức-Thánh-Là-Cha Phanxicô rất hiền-hoà như thế hay không, đó mới là vấn-đề. Hoặc, vấn-đề có thể là: vẫn còn nhiều ý-kiến rất khác biệt trong/ngoài Thượng Hội-đồng Giám mục, và cả ngoài lẫn trong Hội thánh, đó mới là điều cần-thiết.

Về ý-kiến của các đấng bậc lành thánh trong thánh-hội mỗi khi nhìn vào lập-trường bày-tỏ cho mọi người thấy vấn đề đang bàn lại khác nhau, rất nhiều. Trước nhất, phải kể đến đấng bậc rất “trong luồng” ở Sydney vốn dĩ là đấng-bậc từng giải-đáp nhiều thắc-mắc rất Giáo-luật lẫn giáo-điều, như sau:

“Về những điều được quyết-định, tôi nghĩ phần lớn cuộc sống của nhiều người trong chúng ta cũng sẽ tiếp-tục như những ngày xảy ra khi trước. Người nam cũng vẫn lấy vợ nhiều như họ vẫn từng làm khi trước. Chỉ một phần nhỏ số người cùng phái-tính mới làm chuyện lạ là lấy nhau thành vợ chồng cùng giống. Nhưng từ đó, sẽ có những hậu-quả nào đó, ta cần thận-trọng.

Khác biệt đầu-tiên xảy đến, chắc chắn là ý-niệm về hôn-nhân sẽ có thay-đổi. Cho đến nay, việc này chỉ xảy đến giữa đàn ông và đàn bà mà thôi. Nay, lại sẽ thấy sự việc ấy xảy đến với các cặp đồng phái-tính, nên có thể cũng sẽ có những liên-lụy này khác rày xảy đến…

Mặt khác, lại sẽ có những hậu-quả khó lường cho những ai từng chống-đối hôn-nhân cho người cùng phái tính. Ở Canada, là nước trong đó tôn-giáo dựa trên các dịch-vụ xã-hội, như tư-vấn và dịch-vụ nuôi con nuôi, nay đòi phải thích-hợp với luật lệ về hôn-nhân đồng phái-tính và tình-trạng miễn-trừ thuế xưa nay Giáo-hội được thừa-hưởng nay trở-thành vấn-đề cần xét-duyệt.

Ở trường/lớp, các giáo-chức cũng như cá-nhân buộc phải hỗ-trợ hôn-nhân đồng phái-tính và quần-chúng buộc phải ngưng việc chống đối sự việc này, cách công-khai. Do có sự than-phiền gửi đến Toà Hoà-giải Nhân-quyền British Columbia, chính-quyền ở đây loan-báo rằng giáo-án ở trườg/lớp đây đó từ Mẫu-giáo đến lớp 12 phải được coi lại để thêm vào đó các dẫn-giải tích-cực về hôn-nhân đồng phái-tính nữa…

Nói tóm lại, việc ban-hành đạo-luật hôn-nhân đồng phái-tính không chỉ liên-quan mỗi sự “đồng đều trong hôn-nhân” đối với nhiều người, thôi. Nhưng còn về cả một thế giới mới rất quả-cảm, nhìn về mặt tổng-thể.” (X. Lm John Flader, What difference will same-sex marriage have on our lives, The Catholic Weekly 12/7/2015, tr. 22)

Trong khi đó, có đấng bậc khác từng là chủ-quản Tổng Giáo-phận Sydney, lại có ý-nghĩ hơi khang khác, kèm theo lời dặn dò không giống nhiều vị vẫn theo “lề phải” ở Giáo Hội rất Rô ma, rằng:

“Tôi thật rất tiếc, hỏi rằng: Giả như Thượng Hội Đồng Giám mục Rôma đợt hai diễn ra vào tháng 10 năm 2015 quyết kiếm tìm lời đáp nào khác cho xứng-hợp, chắc các nghị-phụ mình phải nghiêm-túc nhìn vào giáo-huấn Hội-thánh liên-quan đến việc coi xem Hội thánh có cho phép mở “rộng cửa” cho các giải-pháp mục-vụ hay không. Đó là việc tôi đang kiếm tìm ở đây, trong tập sách này, không phải để áp-đặt một hiểu/biết, mà để cho thấy là: ta còn nhiều đề-tài để bàn-luận, chứ không chỉ mỗi hai điều duy-nhất là Gia-đình và chuyện Đồng-tính Luyến Ái chứa trong giáo huấn đầy tính khắc-nghiệt của Hội thánh, bấy lâu nay.” (X. Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod, The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015, tr. 2)

Thôi thì, trước khi đi tìm hiểu ý-kiến của nhiều vị khác, tưởng cũng nên quay lại với nhạc-bản ở trên để bạn và tôi, ta có đôi ba giây phút nhè nhẹ, lâng lâng mà ngẫm nghĩ, như sau:

“Sương chiều buông rơi mờ mờ rừng chiều dần dần tối.
Núi mây bốn phương giang hồ ngơi đi.
Thuyền lênh đênh trên sông Đà sóng, lướt lướt trên sông.
Nhìn chiều vàng đồi thông thưa vắng.
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng.
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân.
Năm tháng trôi qua sóng gió đời.
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.”

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Diễn-tả chuyện ở trên theo lời vàng từ các bậc thánh-hiền thường dặn-dò, sẽ phải diễn-tả như sau:

Thật vậy,

chính Người là bình an của chúng ta:

Người đã liên kết đôi bên,

dân Do-thái và dân ngoại, thành một;

Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách

là sự thù ghét;

Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật.

Như vậy, khi thiết lập hoà bình,

Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất

nơi chính bản thân Người.”

(Êphêsô 2: 14-15)

Và để diễn rộng tư-tưởng này, đấng bậc lành thánh khác, lại đã qui về lời lẽ rất như sau:

“Thánh Phaolô nói: Đức Giêsu nối kết người Do Thái với dân ngoại, là để tất cả chúng ta cùng nhau tạo thành gia đình thân thương. Đầm ấm. Thánh nhân quyết bẻ gẫy mọi rào cản gây phân rẽ các thành phần dân Chúa, trong cộng đoàn. Thánh nhân dùng hình ảnh bức tường ngăn cách, của đền thờ.

Quả thật, Đền Thờ là công trình xây cất có nhiều tường. Mỗi bức tường, làm thành rào cản ngăn cách, hạn chế mọi kết đoàn, hoà hợp. Bên ngoài tường, nhiều người không thể đến được. Có tường, chỉ dành cho dân ngoại. Có tường, cho phụ nữ. Có tường cho đàn ông thanh niên. Có tường chỉ để cho các vị mục tử. Thậm chí, có tường còn cản ngăn không để ta đến được với Đấng Thánh ở trên cao. Như nơi  dành cho vị Thượng tế cao vút, mỗi năm chỉ một lần.

Bằng vào cái chết trên thập tự, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi tường rào phân chia, ngăn cách. Tường, của hờn căm. Chia rẽ. Bằng vào việc sống lại, Ngài tạo ra Con Người Mới. Và, gia đình mới. Gia đình, không dựa trên máu mủ. Chủng tộc. Cũng không dựa vào dân tộc tính. Giới tính. Giai cấp. Ngài phá huỷ mọi tường thành ngăn cách. Tức, tường rào chỉ nhằm phân cách/rẽ chia nhóm này với nhóm khác.

Giáo huấn của Đức Giêsu nhằm đạt đến cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Cả nam lẫn nữ. Cả người công chính, lẫn phạm nhân. Nô lệ lẫn tự do. Người tật bệnh, lẫn kẻ lành lặn. Ngài gọi mời tất cả mọi người chúng ta hãy về cùng một gia đình, gia đình của Ngài. Gia đình của Ngài gồm có Chúa Cha và ở đó, tất cả thành viên đều là anh em, chị em với nhau. Rẽ chia, là tà thần/ác quỷ chỉ chực ngăn chặn mọi người đến với nhau, trong chung sống an bình và hạnh phúc. Rẽ chia, là kẻ thù ngăn chặn ý định của Chúa muốn thu thập mọi người về với gia đình với Thân Mình của Chúa.

Điều mọi người trong gia đình Chúa cần làm, là phải nói tốt cho nhau về các Giám mục/linh mục, cha mẹ hoặc thành viên trong gia đình, tạo bình an. Hãy phá bỏ mọi rào cản rẽ chia đem mọi người về lại với nhau trong tình thương, qua và nhờ Đức Giêsu. Vì, tất cả đều có cùng con đường. Cùng một Thần Khí để đến với Cha, như đoạn cuối bài đọc 2, đã nhắc nhớ.” (Xem Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài năm B, nxb Tôn Giáo 2011, tr. 180-181)

Cuối cùng ra, ta bàn chuyện “các gia-đình có vấn-đề” này khác, tưởng cũng nên quay lại với ý/tứ của Đức Phanxicô hôm ấy, có những lời như sau:

“Trong bài chia-sẻ vào thánh lễ Thứ Hai hôm ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có đề-cập đến điều mà ngài gọi là “phép lạ” tại tiệc cưới Cana, ngài có khuyến-khích cộng-đồng dân Chúa hãy theo gương lành của Đức Maria từng làm, rằng: “Mẹ dạy ta hãy đặt gia-đình mình trong tay Chúa, để rồi sẽ hiệp lòng cầu nguyện, nhen nhúm niềm hy-vọng cốt cho ta thấy rằng mọi ưu-tư của ta cũng là quan-ngại của Chúa”. Đức Giáo Hoàng lại cũng nói: “Gia-đình là bệnh-viện, trường/lớp gần cận nhất cho giới trẻ và cũng là mái ấm/cơ ngơi cho bậc cao-niên, nữa.”

Đức Phanxicô còn nhắc mọi người hãy nhớ rằng: Gia-đình là ‘Giáo-hội nội-địa’, nên vẫn cần ta nguyện cầu để có thể gỡ bỏ mọi ưu-tư, quan-ngại trong đời mình. Ngài lại thêm: “Cuộc sống gia-đình, giống như tại Cana, “phép lạ” luôn xảy đến khi ta sở-hữu ít sự vật. Thế nên, là tín-hữu, ta hãy giùm giúp các gia-đình nào đang rối-bời về nhiều thứ, cả những thứ, những sự như “người nhà hết rượu để đãi đằng”, giùm giúp những ai đang uống thứ nước của sự nản lòng, tuyệt vọng. Với gia-đình nào tuân theo hiệu-lệnh hoặc lời khuyên của Đức Maria và làm những gì Đức Giêsu truyền làm, thì chắc chắn rượu ngon sẽ có ngay cho họ, cho mọi người.” (X. Mục tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 12/7/2015 tr.12, Pray for miracle at synod, pope asks massive crowd)

Nói tóm lại, có bàn gì thì bàn, bàn về gia-đình thánh nho nhỏ của Giáo-hội, tưởng cũng nên hướng về gia-đình rộng lớn là Vương-Quốc-Nước-Trời từng được Đức Giêsu chủ-trương khi Ngài bảo ban dân con mọi người ở Do-thái.

Nói cho cùng, Vương-Quốc-Nước-Trời rất gia-đình ở thánh hội vẫn là và phải là như nhận-định của bậc thày dạy thần-học ở Đại-học De Paul, Chicago Hoa kỳ, như sau:

“Với Đức Giêsu, Vương Quốc Nước Trời được mô-tả bằng ảnh-hình của việc sửa soạn bàn tiệc có chỗ ngồi hẳn-hoi. “Tiệc Bàn Rộng Mở” không phân-biệt một ai, lại đã diễn-tả một xã-hội thu nhỏ không kỳ-thị. Và, quan-niệm cũng như thị-kiến này, trên căn-bản, đã chạm phải giá-trị nền-tảng của nền văn-hoá Địa-Trung-Hải, thời xưa cũ. Cũng không thể bảo: có thể cũng hơi sớm, nếu có ai đề-nghị ta nên nhận ra được sự giận-dữ kéo theo sau việc ‘ngồi cùng bàn’ còn mới mẻ, vào thời ấy. Đó, cũng là một trong các lý-do khiến họ bắt giam và xử trảm Ngài, không cho Ngài được hoạt-động giảng-rao/giùm-giúp người nghèo-khó/cùng quẫn nữa.” (Xem thêm John Dominic Crossan, Who is Jesus WJK 1996, tr.40-59)

Nói cho cùng, bàn về gia-đình mang tính-chất Vương-Quốc-Nước-Trời, trên thực-tế, ta cũng đừng nên quên những truyện kể nhè nhẹ có tính ‘tiếu-lâm-chay’ để mỗi lần nhớ, tôi và bạn, ta sẽ tủm tỉm cười vào buổi tuối, lúc khó ngủ cứ lấy sách “phiếm” ra đọ cho dễ ngũ, như sau:

“Truyện kể gia đình có vợ/chồng thuận-hoà vì luôn giữ bí-kíp sau đây:

Trên đời này, có hai việc khó nhất:

  1. 1. Là, nhét tư-tưởng của người này vào đầu của người khác.
  2. 2. Là, nhét tiền của người khác vào túi của mình.

Nếu:

1. Ai làm được điều số 1 thì ta gọi đó là …Thày

2. Ai làm được điều thứ 2 thành-công thì ta gọi đó là…chủ.

Nhưng, nếu có người làm được cả 2 điều nói trên mà thành-công thì ta gọi đó là…Vợ.”

Gọi gì thì gọi. Làm gì thì làm, hãy cứ làm và cứ gọi nhau trong tình thân thương của người anh người chị trong Vương Quốc Nước Trời, ở nơi đó mọi người vẫn cứ hát lên câu ca nhè nhẹ, rằng:

“Nhìn chiều vàng đồi thông thưa vắng.
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng.
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân.
Năm tháng trôi qua sóng gió đời.
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.”

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Hát thế rồi, nay bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang nhìn về phía trước rồi “đầu cao mắt sáng” sống xứng-đáng làm thành viên Nước Trời, ở đây, bây giờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn tâm-niệmn cuộc sống

Của mình và của người

Nên như thế.

KHÔNG. Bài suy niệm

KHÔNG . Bài suy niệm

Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa em ơi.

Tình đời thay trắng đổi đen.  Tình đời còn lắm bon chen.
Tình đời còn lắm đam mê.  Nên tình còn lắm ê chề.

Tình mình có nghĩa gì đâu.  Tình mình đã lắm thương đau.
Tình mình gian dối cho nhau.  Thôi đành hẹn lại kiếp sau.

Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa em ơi…..

Nguyễn Ánh 9

****************************************

Có lẽ không người Việt nào sống ở Sài gòn vào những năm 1969-1970 mà không biết đến nhạc phẩm “Không” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Bản nhạc ra đời như một câu trả lời cho thắc mắc của Khánh Ly: “Ông có còn thương người ấy?”  Người ấy là mối tình đầu khi nhạc sĩ mới 18 tuổi.  Hai người tình thơ trẻ bị cuốn vào niềm đam mê choáng váng và mãnh liệt.  Nhưng dường như là số phận, những mối tình quá đẹp, thường khó vẹn toàn.  Gia đình cô gái không đồng ý cho con mình yêu anh nhạc sĩ nghèo, sống lang bạt kỳ hồ.  Ngăn không được lòng đôi trẻ, cha mẹ cô dùng kế ly gián, gây nghi ngờ hờn giận cho hai người, rồi đưa cô gái sang Pháp sống, hòng ngăn cản mối tình “rồ dại” với chàng nhạc sĩ.

Năm 1965, người nhạc sĩ lập gia đình và tin tưởng những giông bão của mối tình đầu sẽ ngủ yên.  Nhưng thực tế, trái tim ông đã không còn cảm giác sau mối tình đầu, bởi tình yêu đã vĩnh viễn câm lặng.  Năm 1974, ông gặp lại người tình xưa khi cô về Sài Gòn, cô vẫn một mình, vẫn yêu ông và chẳng oán trách gì.  Đã lỡ làng, có xót xa thì cũng đành sống cho hết bi kịch một kiếp người.  Họ lại xa nhau, lần này là mãi mãi, để vùi chôn những dấu yêu xưa cũ vào đáy lòng mình, nhức buốt, cho tới hơi thở cuối cùng.

Ca khúc “Không” được Khánh Ly thu lần đầu trên đĩa nhựa Tình ca quê hương và cũng chính nhạc phẩm “Không” đã đưa Elvis Phương “lên sao” ở thập kỷ 70, sau đó nổi tiếng đến mức công chúng gọi Nguyễn Ánh 9 là ông “Không”.

****************************************

Ở hải ngoại, tôi thường được nghe bài“Không” đã được hòa âm (remix) lại sau này với điệu nhạc Disco giật gân, nhanh vui và dồn dập.  Trong đĩa video ca nhạc Asia, ca sĩ Mai Lệ Huyền đã lột tả tận chân chữ “không” của bài nhạc với khuôn mặt lạnh lùng, một cái ngoắt đầu qủa quyết, cái khoát tay mạnh mẽ, đôi môi mím chặt, thêm với ánh mắt hờn căm của kẻ bị tình phụ.  Tất cả được phụ họa thêm bằng những pha ánh sáng trắng đen chớp tắt liên hồi, tiếng trống chát chúa từng nhịp một.  “Không”, dứt khoát là không!  Không còn yêu thương, luyến tiếc!  Cũng chẳng tiếc thương chi mối tình đã lắm thương đau.  Dù chẳng biết ai gian dối với ai?  Dù chẳng hiểu mối tình đang đẹp sao trở thành “có nghĩa gì đâu”? Ai là kẻ bon chen và gây ra lắm ê chề?  Chẳng hiểu vì sao, người nghe chỉ cảm nhận được một âm điệu “không” dứt khoát và rõ ràng.  Một tiếng “không” chát chúa chói tai!  Một tiếng “không” lạnh lùng bẽ bàng!  Không là không!  Trăm lần không, ngàn lần không!  Đừng hy vọng đợi chờ!  Đừng năn nỉ luyến lưu….  Nếu có chăng, chỉ là kiếp sau!  Nghe tiếng “không” mạnh mẽ quyết liệt này, thì dù chưa muốn chia tay, dù còn vấn vương, người yêu cũng đành phải ngậm ngùi ra đi…

Trong một dịp tình cờ tôi được đọc một bài phỏng vấn của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 về tác phẩm “Không” bất hủ này. Thật ngạc nhiên khi khám phá ra cả một tâm tư thầm kín của tác giả gởi gắm trong hồn thơ nốt nhạc.  Đó không phải là một chữ “không” dứt khoát quyết liệt, bẽ bàng như người ta thường được nghe và hiểu sau này.  Bản nhạc nguyên thủy được soạn với điệu Slow Rock lả lướt, tình tứ du dương, tiếng nhạc réo rắt nhẹ nhàng diễn tả một chữ “không” đầy ẩn ý mời gọi.  Hiểu chữ “không” này như thế nào, điều đó tùy thuộc vào độ rung cảm của tâm hồn và nhịp đập của con tim.  Tim tôi và tim em, hai kẻ trong cuộc đã từng một thời yêu thương!  Với tác giả, đó là một chữ “không” giận lẫy, đầy trách móc nhưng không dứt khoát.  Một chữ “không” để hở!  Nói “không” nhưng không phải là “không!”. “Không” đó nhưng đầy hàm ý chờ đợi, đẩy em đi nhưng lại muốn kéo em về.  Mấy nốt cuối cùng của điệp khúc “tôi không còn yêu em nữa, em ơi…..” được kéo dài ra, luyến láy nói lên cái tâm tình xao xuyến chờ đợi, như dằng co, như muốn kéo áo người đừng đi.  Nếu tình đã gian dối, lắm thương đau, nhiều ê chề thì hẹn chi đến kiếp sau?  Mâu thuẫn!  Gian dối một kiếp, một đời chưa đủ hay sao?  Lúc giận nói thế, nhưng không phải thế!  Bởi còn yêu mới giận.  Nói “không” để lòng bớt đau, nói giận để lòng bớt thương, nói hận để lòng bớt nhớ!  Phủ định để tự khẳng định!  Người yêu có hiểu lòng kẻ nói “không”? Người đi có hiểu lòng kẻ ở?  Nghĩa chữ “không” vời vợi đầy đau khổ, tuyệt vọng nhưng vẫn chờ đợi, oán trách nhưng vẫn yêu đậm sâu.  Ai kia nếu có hiểu mới gọi là yêu!

Chữ “không” huyền bí của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 trong ca khúc “Không” đã được thế hệ sau hòa âm lại, hiểu theo nghĩa trắng đen của thời đại, nhưng lại lệch lạc với tâm tình của tác giả gởi gắm trong đó.  Cả một con tim sôi sục yêu thương được diễn tả bằng giọng hờn giận nhẹ nhàng của điệu nhạc Slow Rock tình tứ, trách đó nhưng yêu đó, giận đấy nhưng vẫn đợi đây đã được chuyển sang nhịp giật gân, dồn dập như hối thúc người ta đi cho lẹ, như muốn thanh toán mối tình cho xong để còn tính chuyện khác.  Cả một trời ẩn ý được che dấu dưới chữ “không” ai oán não nùng, nào có ai thấu hiểu nỗi lòng của kẻ nói chữ “không” nếu không được nghe chính tác giả tâm sự?

****************************************

Chữ “không” huyền bí nhiều ý làm tôi liên tưởng đến chữ “không” của Thiên Chúa.  Thưở ban sơ, Ngài đã nói “không”, con người sẽ phải chết và đuổi ra khỏi vườn địa đàng sau khi loài người phạm tội bất tuân.  Nhưng sau đó, Con Một của Thiên Chúa lại chết để con người được sống.  Quả là một chữ “không” mâu thuẫn!  Một cái chết ô nhục khổ đau trên thập tự đồi Golgotha năm xưa của Chiên Thiên Chúa đã nói lên bao điều.  Không những thế, Người Con Một đó đã đến thế gian truyền rao một thông điệp về tình yêu thâm sâu vô biên của Thiên Chúa Cha.  Rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Người Con Duy Nhất cho thế gian.  Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã dám thí mạng sống mình vì bằng hữu.  Ôi, một chữ “yêu” nhiệm mầu!  Một Thiên Chúa quyền năng sáng tạo muôn loài muôn vật từ hư không, nhưng lại bó tay “không” thể cứu chuộc con người nếu “không” có sự hợp tác của con người.  Một chữ “không” khó hiểu!

Thật không dễ dàng để đối diện với chữ “không” phũ phàng của Đấng mà mình đã đặt trọn tin yêu!  Đã bao lần, Thiên Chúa nói “không” với tôi trong cuộc sống này, mỗi khi tôi xin nhưng không được, tìm nhưng không thấy, gõ cửa nhưng không được mở.  Tôi phải hiểu nghĩa chữ “không” này như thế nào đây?  Xin thành công chỉ gặp toàn thất bại, xin Chúa chữa lành bịnh tật thì thấy bịnh nặng thêm, xin hạnh phúc lại gặp toàn khổ đau.  Xin cho đường đời êm ả bên những đứa con ngoan hiền thì gia đình tan tác, con cái vô đạo nghĩa.  Tại sao và tại sao?  Ngay cả khi tôi xin những điều tốt lành cho phần hồn mình và của những người thân thương, Thiên Chúa vẫn nói: “Không, chưa phải lúc!”

Thật không dễ dàng để thông hiểu chữ “không” đầy cay đắng của Thượng Đế quyền uy.  Tôi cần phải nhìn lên thập giá Giêsu, ngước mặt lên trời cao để nhìn thẳng vào ánh mắt của Đấng đã nói “không”, để hiểu tâm tình của Ngài đằng sau chữ “không” đáng ghét kia.  Thiên Chúa cũng đã từng nói “không” với Người Con duy nhất của Ngài trong vườn Cây Dầu.  Ngài đã “không” cất chén đắng cho Giêsu nhưng Ngài ban thêm sức mạnh và nguồn an ủi thiêng liêng cho Giêsu.

Trong phút giây đối đầu với sự chết, Giêsu cũng đã từng có tâm tình bị bỏ rơi bởi Người Cha yêu dấu, nhưng Ngài đã không bỏ cuộc và sau cùng Ngài đã chiến thắng.  Trong men cay chua chát của thất bại, lạ thay tôi nhận ra đức khiêm nhường trổ sinh hoa trái.  Trong thể xác ốm yếu bịnh hoạn, tôi thấy linh hồn mình tỉnh thức sống gần Chúa hơn.  Dãy dụa trong bể khổ, tôi thấy mình chán ghét thế gian hào nhoáng, lòng hướng về một hạnh phúc viên miễn hơn.  Đi trên đường đời gập ghềnh sóng gió, người mang đầy thương tích, tôi thấy mình bám chặt vào Chúa hơn và ngỡ ngàng nhận ra đức tin cậy mến của mình sáng rực như bó đuốc trong đêm đen.  Phải chăng qua chén đắng của chữ “không”, Thiên Chúa đang dạy dỗ tôi nhiều điều.  Ngài giúp tôi lớn hơn trong đời sống thiêng liêng và mở mắt tâm hồn tôi để nhìn thấy được những điều cao cả thuộc về thượng giới hơn?

Có lẽ khi chữ “yêu” kết hợp với chữ “không” sẽ giúp người trong cuộc hiểu rõ nghĩa từ thâm sâu huyền nhiệm của chữ “không” hơn.  Tùy theo mức độ “yêu” để hiểu nghĩa chữ “không”.  “Không” đi một mình thì thuần túy chỉ là “không” đúng nghĩa trắng đen, chẳng cần phải“yêu” cũng có thể hiểu.  Nhưng “không” đi với hơi thở của con tim, với ánh mắt tha thiết yêu thương, với độ rung cảm của linh hồn, chữ “không” chắc hẳn không còn là “không” nữa.  Người trong cuộc sẽ hiểu tại sao Thiên Chúa lại nói “không” với mình, khi Thiên Chúa đã dám cho đi cái qúy nhất của Ngài.  Chắc hẳn phải có lý do ẩn khuất đằng sau chữ “không” đắng chát kia.  Nghĩa chữ “không” vời vợi khó hiểu!  Có lẽ cần phải “yêu” nhiều hơn nữa mới có thể hiểu được chữ “không” của Thiên Chúa Tình Yêu.

Phêrô và Giuđa, cả hai cùng theo Thầy ròng rã ba năm trời, trực tiếp nghe những lời giáo huấn từ miệng Thầy, hiểu rõ tấm lòng yêu thương vị tha của trái tim Thầy.  Đến giây phút thử thách, cả hai cùng phản bội tình yêu của người Thầy yêu dấu.  Một người bán Thày cho các tư tế, còn một thì leo lẻo chối Thày giữa đám đông.  Với tình yêu, sự phản bội nào cũng xấu xa như nhau.  Cuối con đường, cả hai đã hoà âm lại chữ “không” theo hai nghĩa khác nhau.  Giuđa hiểu rằng Thầy đã nói “không” với mình.  Thế là hết, là xong mối tình thầy trò ba năm!  Không còn con đường nào khác cho kẻ phản bội, và ông đã đi đến ngõ cụt của chữ “không” lối thoát đó bằng cái chết thắt cổ của mình.  Phêrô thì can đảm hơn để nhìn lên ánh mắt của Thầy và đọc được một sứ điệp trái ngược.  “Không, cho dù con xấu xa phản bội, Thầy vẫn yêu thương con.  Không, đừng bỏ đi, con ơi!  Cho dù con vấp ngã chối Thầy nhưng Tình Yêu chấp nhận cái tốt lẫn cái xấu.  Không, con phải đứng lên bằng chính đôi chân của mình!  Cho dù con phản bội nhưng Thầy vẫn thứ tha và chờ đợi…  Không, con không được bỏ cuộc!  Thầy và anh em vẫn cần con và mong con quay về….” Thế là Phêrô cất bước trở lại với anh em, với sứ mạng Thầy đã giao phó và cuối cùng đã chết vì người Thầy mình đã một thời chối bỏ.  Phải chăng vì Phêrô yêu Thầy hơn Giuđa yêu Thầy, nên ông hiểu nghĩa chữ “không” đúng với tâm tình của Thầy hơn?

Hai cách hiểu chữ “không” khác nhau dẫn đến hai kết cục khác nhau.  Dù hai cách hiểu hay nghìn cách hiểu, ý tưởng của tác giả cũng chỉ có một.  Thiên Chúa là Đấng trung thành với lời hứa, với những gì Ngài đã nói.  Ngài hằng mong muốn nhân loại nhìn lên cái chết ô nhục đau thương của Người Con Một trên thập giá, để hiểu cho đúng ý nghĩa yêu thương của trời cao, để mỗi khi gặp phải chữ “không” lạnh lùng trong cuộc sống thì đừng vội tuyệt vọng chán nản, đừng vội bỏ cuộc và  đừng bao giờ diễn dịch chữ “không” cao siêu nhiệm mầu của Thiên Chúa theo ý phàm tục riêng mình.  Tác giả Nguyễn Ánh 9 trong bài phỏng vấn đã kêu gọi ca sĩ khi trình bày nhạc phẩm “Không”, hãy tôn trọng tâm tình của người viết nhạc và linh hồn bài hát.  Ca sĩ là người dùng nghệ thuật âm nhạc, giọng hát, cách diễn đạt để lột tả cho trọn vẹn ý tưởng của tác giả gởi gắm trong ca khúc đó chứ không phải phiên dịch lại theo ý mình.  Cùng là một thân phận nghệ sĩ, chắc hẳn Thiên Chúa cũng có một tâm tình như nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Mong sao thế nhân hiểu cho đúng, diễn tả cho trọn cái tâm tình của Thiên Chúa gởi gắm trong những tác phẩm nghệ thuật của Ngài, mà đỉnh cao của những tác phẩm nghệ thuật đó chính là cây thánh giá cheo leo trên đồi Golgotha năm xưa và Lời Yêu Thương được gói ghém trong cuốn Thánh Kinh.

Qua tình khúc “Không” của điệu Slock Rock, người nghe cảm nhận được nỗi đau, vị chát, men cay, sự thất bại ê chề của người nói chữ “không”, hơn là kẻ được nghe chữ “không”. Mâu thuẫn thay, tôi lại cảm nhận được nỗi tuyệt vọng cay đắng của người nghe chữ “không”, nhưng chưa bao giờ tôi thử tìm hiểu xem cõi lòng của Thiên Chúa ra sao khi Ngài phải nói chữ “không” với tôi!  Đến bao giờ tôi mới hiểu được tâm sự của người nói chữ “không“?  Chẳng biết tôi có thể hiểu được hay không, khi tôi cứ mãi gục xuống trong cơn đau của mình?

****************************************

Lạy Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu mọi sự, con viết bài này cho vơi bớt cơn đau,  cho quên nỗi ưu phiền vì Chúa cũng đang nói “không” với con trong lúc này đây.  Linh hồn con đang bên bờ tuyệt vọng vì không hiểu sao Chúa cứ mãi nói “không”! Con không muốn xin gì thêm nữa vì đã quá mỏi mệt, vì dư âm đắng nghét của chữ “không” vẫn còn đọng nơi đầu môi.  Con chỉ xin một điều duy nhất là cho con biết luôn cậy trông và phó thác vào tình yêu thẳm sâu nhiệm mầu của Chúa.  Gọi là nhiệm mầu vì đôi lúc con không hiểu được tình yêu đó.  Phần còn lại, Chúa muốn cho gì thì cho, vì Chúa đã trao ban Người Con duy nhất của Ngài cho con rồi thì chắc Chúa chẳng tiếc gì những thứ khác nữa.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên?  Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc?  Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó.  Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa.  Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa.  Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác.  Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được.  Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được.  Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh.  Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng.  Bánh ăn rồi sẽ lại đói.  Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu.  Ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham.  Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật,  và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường.  Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa.  Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên.  Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất.  Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất.  Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối.  Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc.  Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc.  Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được.  Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa.  Chính Chúa sẽ làm ta no thoả.  Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta.  Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Tôi có người em nhỏ

“Tôi có người em nhỏ”,

Xanh xanh đôi hàng mi

Môi hồng vừa đương độ

Chưa biết sầu biệt ly.”

(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – Người Em Nhỏ)

Trần Ngọc Mười Hai

(Êphêsô 5: 1-2)

Nghe anh hát, tôi lại bảo: có người Em nào mà chẳng nhỏ lại vẫn “xanh xanh đôi hàng mi” cơ chứ! Nếu không thì, ai ai cũng sẽ gọi người ấy là “em họ” hoặc “Em” theo nghĩa học trò, người xa kẻ lạ ít tuổi hơn. Ngôn-ngữ người mình văn-hoa là như thế. Văn hoa, có nghĩa như gió thoảng/mây trôi lại mang tính thi-ca, ngọc ngà ướt mượt. Chả thế mà, nghệ sĩ nhà mình lại sẽ hát thêm:

“Ngày tôi đi vàng nắng

Nghiêng nghiêng một hàng cau

Mai ta nhìn mây trắng

Gửi lời về thương nhau

Chiều nay buồn viễn xứ

Nhớ người em gái xưa

Tôi thấy phương trời cũ

Giăng giăng một hàng mưa.

Mơ về đôi môi thắm

Cười ngày tôi lên đường

Quê ta chừng xa lắm

Giờ em có nhớ thương.”

(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – bđd)

Hỏi rằng: “Giờ Em có nhớ thương”, hay còn hỏi gì đi nữa, cũng bằng thừa. Bởi, đã là người em rất nhỏ rồi, thì chắc hẳn ai cũng đều thương, đều nhớ. Thương và nhớ, cả một thánh hội toàn những người/anh người chị thân thương, đầy ý-nghĩa.

“Giờ Em có nhớ thương” hay sao đó, vẫn là nỗi nhớ niềm thương của người em hoặc anh hoặc chị cứ là dắt tay nhau đi vào vùng trời ở Vương Quốc Nước Trời nay gần gũi có những lời nhắn-nhủ, dài muôn thuở, như sau:

“Anh chị em hãy bắt chước Thiên Chúa,

vì anh chị em là con cái được Người yêu thương,

và hãy sống trong tình bác ái,

như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta

và vì chúng ta,

đã tự nộp mình làm hiến lễ,

làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.”

(Êphêsô 5: 1-2)

Hôm nay đây, người người trong nhà Đạo lại vẫn nhớ không chỉ mỗi lời nhắn của đấng thánh hiền tên gọi Phaolô mà thôi, nhưng còn nhớ cả những lời của Đức Giáo Tông Phanxicô hôm rồi gửi đến bà con, những lời như sau:

“Hôm 21 tháng 5 năm 2015, Đức Phanxicô có nhắn-nhủ bà con thân thuộc của vị sĩ-quan Cảnh Sát bị bắn chết hoặc bị thương trầm trọng, những lời như: Xã-hội hôm nay, còn mắc nợ gia đình ta sự thể là người thân của quí vị đây, đã sống đời chân-phương, ngoan-cường, trật-tự.” Đức Phanxicô lại đã ca ngợi các vị đang làm việc trong cơ-quan công-quyền vẫn có lòng quả-cảm giúp giùm người bị nạn cũng như đã ngăn chặn các can-phạm hùng hổ, tấn-kích người hiền ở xã hội. Các sĩ-quan đây như người thân của quý vị, đã không quản-ngại mọi hiểm nguy có thể xảy đến với mình, cả mạng sống có khi lại mất đi cũng không nản lòng trong khi thi-hành phận-sự trong công-quyền. Tiếc rằng, ở xã hội khác, nay lại để mất đi quyết-tâm quả-cảm ấy nên mới gây tai-hại cho mọi người…” (xem tin tức trong tuần trên The Catholic Weekly ngày 31/5/2015, tr. 3)

Lời nhắn nhủ, từ các đấng bậc ngoan-hiền ở thánh hội, lâu nay thì như thế. Trong đời đi Đạo của mỗi người và mọi người, chắc chắn việc này từng xảy ra cũng không thiếu. Bởi thế nên, nghệ-sĩ hôm nay lại có ý/lời ca-tụng những người “em nhỏ” trong đời những lời êm ái sau đây:

“Tôi có người em nhỏ

Xanh xanh đôi hàng mi

Môi hồng còn đương độ

Đã biết sầu biệt ly.”

(Nguyễn Hiền – bđd)

“Sầu biệt ly” đây, có thể là nỗi sầu cũng khó hiểu, do ngộ nhận hoặc sao đó. Nhưng, “sầu ly biệt” này có thể là thứ “sầu buồn” như nhận-định của đấng bậc chủ-quản ở chốn chop bu nhà Đạo khi ngài nói về tình-trạng của xã-hội hôm nay.

“Sầu biệt ly” hôm nay, không chỉ vì Facebook, Twitter, SMS hoặc nhiều thứ trên vi-tính hoặc điện-thoại khôn-ngoan từng đem lại cho cuộc sống vội vàng, chụp-giựt, lười suy-nghĩ.

“Sầu ly-biệt” hôm nay và mai ngày, còn là mối sầu khó tả cứ lai rai, trải dài nơi cuộc sống gia-đình không còn theo khuôn phép cũ/xưa, nhưng rất khác. Khác, về tập-tục lẫn lề-luật cùng cung-cách phụng-thờ, tin-tưởng, khiến nhiều bậc thức-giả trong Đạo, ngoài đời từng bận-tâm tìm nhiều phương-cách để giải-quyết.

Một trong các phương-cách rất thức-thời được đấng bậc chủ quản khi xưa từng tỏ bày bằng những ảnh-hình so-sánh cuộc sống có niềm tin với vụ nổ ở vũ trụ năm nào, như sau:

“Khoa học từng nói cho tôi biết thế giới hiện ta đang sống, lại đã bắt đầu bằng vụ nổ Big Bang từ lâu lắm. Trong khi đó, niềm tin đi Đạo lại bảo tôi, rằng: Big Bang, chính là vụ nổ do Thượng-Đế làm để tỏ-bày Tình Thương của Ngài đối với ta.

Tôi không có khả-năng đưa ra đây bất kỳ chứng-cứ nào mang tính tính khoa-học về niềm tin của ta, nhưng đó là một trong các giải-thích đem đến với mọi người sự thoả-mãn tốt đẹp nhất tìm thấy được ở quanh ta, cả vũ-trụ vật chất lẫn tâm-tư, cũng như tâm-can của chính mình.

Trước nhất, là lượng-mức lớn-lao vẫn trộn lẫn với nhau cách hài-hoà nơi nhân-sinh vũ-trụ, vạn-vật. Và rồi, qua khoảng cách thời-gian kéo dài tưởng chừng như vô-tận, nhiều sự-vật vững-chãi/chắc-nịch lại đã thành-hình như trăng, sao, tinh-tú, cùng các giải ngân-hà lại đã đi vào hiện-thực. Thề-giới vẫn được sắc-màu tuyệt-vời, lộng-lẫy; nhưng lại không có tư-duy, cảm-xúc nào thực-tế khả dĩ đáp trả lại tình Thương yêu Ngài từng tạo ra chúng.

Nhiềy tỷ năm qua, mãi cho đến thời mà hành-tinh địa-cầu mở rộng ra để đón chào mọi hình-thái của sự sống ban đầu mà hiện-hữu. Và rồi, từ biển-khơi, sinh-vật đủ mọi loại cũng từ đó bắt đầu chinh-phục đất liền. Và xảy ra, là: tất cả mọi loại-hình cây cối cùng loài thú, cứ thế phát-triển nhưng không một hữu-thể nào dù sinh-động cách mấy lại có được ý-thực ứng-đáp lại Tình Thương Yêu của Thượng Đế.

Cuối cùng thì, chỉ một số rất ít loài thú mới khởi-sự đứng trụ trên đôi chân hiền của mình mà phát-triển sự sống có ý-thức của chúng. Con người, cũng từ từ biến-hoá theo dạng-thức có tư duy, xúc-cảm để rồi cuối cùng cũng tự mình biết đáp-ứng với Tình Thương Yêu của Chúa Trời là Đấng tạo-dựng nên mình.

Từ vụ nổ Tình Thương Yêu rất Big Bang đến giai-đoạn đáp trả đầy ý-thức đối với Tình Thương Yêu của Chúa Trời lại đã kéo dài những 13,8 tỷ năm liền và ngang qua thời-gian dài đằng d0ẵng ấy, Chúa Trời vẫn cứ đợi và cứ đợi. Ngài vẫn đợi mãi, mà không xen vào mọi chuyện của bất cứ loài nào. Ngài vẫn kiên-tâm đến vô cùng vô tận, nên đã cho phép mọi sự được triển-khai theo nhịp-độ và cung-cách của chính nó.

Con người lâu nay, vẫn rắp ranh tìm-hiểu gốc-nguồn và ý-nghĩa của thế-giới, với thế-gian, mặc dù lần rắp ranh đầu thường chỉ dính-dự bằng truyện kể về các thần-linh tranh-chấp với các anh-hùng cùng siêu-nhân.

Và rồi, dân con Israel lại đã biết tin tưởng vào chỉ một Chúa Trời và phát-triển niềm tin-tưởng ấy viết lại cuộc hành-trình đầy đạo-đức lẫn tâm-linh của mình thành truyện kể. Hành-trình này khởi từ ý-tưởng về sự lớn lao/cao cả và trả đũa với hận-thù (Kn 4: 17-24), và rồi tuần tự dấy lên ý-tưởng tôn-trọng phẩm-cách của mọi giống nòi cùng quyền-lợi của loài khác từng tuôn chảy từ phẩm cách này như sách Xuất hành từng nói đến (Xh 20: 1-17). Rồi từ đó, lại có ý-tưởng diễn-tả đòi hỏi mọi loài phải yêu-thương kẻ đồng-loại cùng như phải yêu thương lẫn nhau như sách Lêvi còn viết dặn (Lv 19:18), và cả việc thương yêu Chúa Trời như Ngài từng yêu-thương hết mọi loài (ĐNL 6: 4-9); (Giôna 4: 9-11).

Từ đó đến nay, vẫn có những bước chân âm-thầm tiến về phía trước hoặc lui về dĩ-vãng, như truyện kể về sự tăng-trưởng đạo-đức cũng như tâm-linh phản ánh sự tăng-trưởng trong thiên-nhiên.

Có một vị tên là Giêsu, đến từ Đức Chúa, đã tiếp-nhận mọi sự tốt đẹp từ truyện này, nhưng Ngài còn đưa câu truyện tạo-dựng của Chúa Trời đi xa hơn bằng cách trưng cho thế-giới một mức-độ thương yêu từng phản-ánh từ vụ nổ tình-thương của Đức Chúa trong tạo-dựng. Ngài làm thế, để rồi có hy-vọng là mọi người và mọi loài lại sẽ noi gương bắt chước tình thương yêu này và phát-triển nó trong tăng-trưởng.

Đức Chúa xưa nay, vào mọi lúc, vẫn đợi chờ cho sự tăng-trưởng này được thành-tựu; và nếu cần, Ngài còn chờ, còn đợi mãi bao lâu kế-hoạch thiên-định được thực-hiện. Thiết tưởng, mục-tiêu tối hậu của kế-hoạch Ngài đưa ra là loài người sẽ phải tiếp-tục tặng-trưởng mãi cả về mặt đạo-đức lẫn tâm-linh, theo cách nào đó, cho đến khi biến thế-giới trở về lại với tình thương-yêu từ đó nó xuất xứ. Thật ra, chẳng ai biết được sự việc ấy mang hình-thức như thế nào, nhưng ai cũng tin tưởng là đó là mục-tiêu tối-hậu của loài người. Dù có trải dài thêm 13 hoặc 14 tỷ năm hoặc hơn nữa, cũng được đi, vì Đức Chúa đã biết chờ, thì Ngài sẽ còn chờ, còn đợi mãi cũng không sao.

Đức Giêsu khi xưa từng sống chỉ cách nay có hơn hai ngàn năm, tức một khoảnh-khắc rất nhỏ so với cả tỷ năm tạo-dựng. Và Đức Chúa vẫn cứ đợi cứ chờ bao lâu người theo chân Đức Giêsu cần phát-triển và áp-dụng ý-định của Ngài theo cách-thức nào toàn thể-thế-giới có khả-năng phát-triển cách an-toàn đi vào mục-tiêu tối hậu này.

Mọi chứng-cứ sẽ chỉ-dẫn để ta thấy rằng vào những ngày sớm-sủa nhất ở truyện kể của Đạo Chúa, như nó từng là thành-phần của truyện kể bảo rằng: thế-giới này sẽ quay về với tình thương-yêu là gốc-nguồn từ đó nó được sinh ra.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod, The Crucial Questions: Divorce & Homosexuality  ATF Press 2015, tr. 2-5)

Trích-dẫn nhận định của đấng-bậc chủ-quản từng chủ-trì Tổng Giáo-phận Sydney, hôm nay, chính là để bạn và để tôi, ta có một cái nhìn chín-chắn về sự tin-tưởng trong sống Đạo giữa đời, có nhiều lời bàn ra tán vào về nhiều thứ.

Trích và dẫn, không chỉ dẫn và trích những gì được nói hoặc được viết trên giấy trắng mực đen, thôi.

Trích và dẫn, còn là dẫn-giải về nhiều thứ chuyện trong đời của con người. Những sự và những việc có liên quan đến đời sống của nhiều người trong ngoài Đạo Chúa hay đạo Bụt, ở mọi nơi. Trích và dẫn, còn là cứ dẫn và cứ trích những sự vụ hoặc lời kể ở nhiều nơi, vẫn gửi vể để bà con ta có chút gì mà nhớ mà thương, như sau:

“Có 5 điều mà các bậc cha mẹ nên học từ các bạn bên đạo Bụt tiếp tục phát triển rộng ở nhiều nước bên phương Tây ít nhiều thì giáo lý của Đạo cũng đã và đang được đưa vào thảo luận quanh đề-tài “Làm sao Trở Thành Bậc Cha Mẹ Tốt. Các khái-niệm về Thiền, Từ Bi, và Chánh Niệm dễ dàng đi vào suy nghĩ của chúng ta; nhưng các khái niệm này thực sự có nghĩa gì trong thực tập?

Tác giả cuốn sách có tựa đề là ‘Brave Parenting’ (Bậc Cha Mẹ Dũng Cảm), lấy hứng từ đạo Bụt về vấn đề làm cha làm mẹ, đã vui thích kết hợp triết lý đạo Bụt với việc làm cha mẹ trong đời sống hằng ngày. Một trong những nguyên tắc rút từ phương pháp này là kích thích sự chín chắn nơi cảm xúc và khả năng tự lực cánh sinh của trẻ/bé. Trong khi đó, việc cha mẹ chu-toàn bổn-phận cũng ngày một dễ dàng hơn.

Tác-giả khẳng định điều đó không có nghĩa mình phải giữ yên tịnh và tĩnh tâm vào mọi lúc. Đây là việc chuyển hóa quan hệ đơn thuần của ta với con cái để có mặt thật sự với con mình. Đây còn trải-nghiệm các cấp-độ cảm xúc mà không tạo phản ứng.

Dưới đây là năm nguyên tắc căn bản lấy hứng từ đạo Bụt hầu giúp bạn trong hành trình sống:

1. Thấy được tâm định tĩnh là tâm vững vàng

Theo đạo Bụt, cuộc sống là một giòng chảy liên tục. Chính vì thế sự ổn định không có từ ngoại cảnh, mà từ cung-cách ta tiếp-cận với nó thế nào: ta có thể gieo trồng hạt giống của tâm định tĩnh.

Hầu hết chúng ta đều có trạng-thái tinh-thần hứng-khởi rồi huỷ-diệt trong các hoạt động thường ngày. Ta tiếp-cận chúng với động-thái xấu/tốt lẫn lộn. Chẳng hạn như, bằng cách ôm hôn, cười với con là đều tốt; cả khi bị kẹt xe và trễ giờ đi họp có thể là xấu. Đạo Bụt khuyên ta nên xem các sự việc ấy bằng tâm xả. Vạn vật đều như thế. Và chính mình cũng cảm nhận cách sâu sắc sức mạnh nằm ở việc chấp nhận như thế. Bạn có thể dạy con cái mình bằng tấm gương của chính mình. Thiền tập như thế là cách hay nhất để nuôi dưỡng hạt giống tâm-định rất tĩnh.

2. Mỉm cười với vô thường

Văn hóa của ta, phần lớn đều lo ngại do bởi ý niệm vạn-vật vẫn liên hồi thay đổi. Ta thích lề thói, tập quán và mọi sự vĩnh cữu. Nhưng, Bụt dạy: vạn vật vẫn liên-tục vận-động và hơn nữa, tất cả đều vô thường.

Ta không muốn bị bệnh tật hoặc chết chóc, nhưng chính những cái ấy là một phần của cuộc sống. Có sinh có diệt. Điều đó là chuyện tự nhiên của kiếp người, thôi! Ta có thể dạy con biết điều này không làm cho chúng sợ  mà cho chúng hiểu về quá-trình của kiếp sống: hoa cũng tàn, cây trái cũng có ngày bị hư hoại, lá vẫn rơi rụng vào mùa thu.

Trong cuộc sống hàng ngày, ta học cách chấp nhận hơn là lo sợ, đó là sự chuyển vận to lớn. Ta dạy cho con cái biết: thay đổi là việc tự nhiên. Và cách tốt nhất để am-hiểu lẽ vô thường nơi vạn-vật là thái độ cảm-hoá biết ơn vào mỗi ngày mình sống, bởi mỗi ngày đều duy nhất, rất khác biệt.

3. Hãy nói ‘Cũng tốt thôi!’ với những điều mình đang lo lắng

Người thường đều rõ biết, do tính vô thường mà nỗi-niềm lo lắng luôn tiềm-ẩn, tồn tại. Nỗi niềm ấy là dấu hiệu cho thấy có cái gì đó ‘không ổn’; nó là trải nghiệm của tình trạng sống trong thế giới vô thường này. Thế nên, đây không là những gì ta có thể tự ‘chỉnh sửa’ nơi người mình, cũng như nơi con em của ta. Nỗi-niềm lo-lắng là cảm xúc thường-tình mà mỗi người đều cảm nhận. Nỗi-niềm chịu đựng sự việc như thế sẽ chóng tiêu tan khi ta nhận diện và chấp nhận nó.

4. Biết quan tâm đến những cảm xúc của trẻ; các cảm xúc ấy được Đạo khuyến khích ta quan tâm ngang qua những thăng trầm của cuộc sống và nhận biết rằng ta đang trải qua giai-đoạn đó. Chính vì thế, mà mọi cảm xúc đều không xấu, không tốt. Người người nên nhận biết cho đúng cảm xúc ấy để hiểu được rằng: chúng là những ‘nhân tố’ báo cho ta biết tình trạng hiện thời của ta ra sao.

Hiểu được sinh khởi và hoại diệt của cảm xúc, ta sẽ dạy cho con cái mình biết đối diện với cảm xúc của chúng theo cách tự nhiên nhất. Đó là  bình-an trú-ngụ trong hiện tại và trải nghiệm được cảm xúc ấy cho tới khi chúng biến mất. Bậc cha mẹ không cần xen vào việc tiến-trình này để chỉnh-sửa hay chuyển-đổi cảm nhận của con cái.

5. Tin rằng con mình đủ sức tự lập

Trong đời sống hàng ngày, dĩ nhiên có mất mát và thất vọng. Các bậc phụ-huynh ngày nay thương yêu bảo bọc con em mình khỏi mặt trái của cuộc sống và đây là bản năng tất yếu, không thoát khỏi. Tuy nhiên, ta cũng thách-thức bậc phụ huynh để cho con mình tự giải quyết các vấn đề do chúng mắc phải.

Các vấn đề mà trẻ thường hay mắc phải là sự thất vọng trong sinh hoạt hằng ngày, chúng thấy khó khăn khi mang bài tập về nhà, hoặc cứ cãi vã với anh chị, bạn bè, hoặc chống-đối nội quy, công việc, v.v…. Khi con em được phép đấu tranh, chúng có xu hướng khởi-đầu giải quyết vấn đề và tập sống tự lực trước mọi khó khăn cũng như các thuận lợi của cuộc sống mà không cần cha mẹ giúp đỡ.

Đại sư Tịch Thiên từng dạy, là: ‘Đi trên đất với đôi chân trần bạn có thể bị đứt. Bạn có thể trải miếng da trên đường đi, hoặc bao bọc chân mình bằng miếng da gọi là giày dép.’

Làm cha mẹ, ta đang bọc lót các miếng da bảo vệ con cái mình, hơn là dạy chúng biết cách tự làm giày để chúng biết xoay sở trước những trở ngại và để chúng phát huy tính tự lực cánh sinh của chùng. (Theo mindbodygreen.com)

Kể thế rồi, nếu như bạn và tôi, ta vẫn chưa thấy thuyết phục cho lắm về các ý-kiến này, nay lại xin gửi đến tôi và đến bạn truyện kể mang tên “Kẻ lang thang muốn đổi chỗ cho Bụt ở Chùa, giống thánh hiền Đạo Chúa đứng ngồi như tượng thần, cũng rất thần và rất tượng như sau:

Có một kẻ lang thang, đi vào chùa, thấy Bụt ngồi trên Đài Sen nhận cúng bái của mọi người, anh ta vô cùng ngưỡng mộ. Kẻ lang thang nói với Bụt:

Tôi có thể đổi chỗ ngồi với Người một lát không?”

Bụt trả lời:

-Chỉ cần anh không mở miệng.

Kẻ lang thang ngồi lên Đài Sen. Trước mắt anh là cả một ngày hỗn loạn và ầm ĩ, người đến viếng hầu hết đều cầu điều này chuyện nọ. Anh vẫn cố chịu đựng trước sau không mở miệng. Một ngày nọ, có phú ông đến. Phú ông xin:

-Cầu Bụt ban cho con đức tính tốt.

Nói xong ông dập đầu, đứng dậy, ví tiền rớt xuống mặt đất. Kẻ lang thang vừa muốn mở miệng nhắc nhở, nhưng kịp nhớ đến điều kiện do Bụt đưa ra, nên lại thôi.

Sau khi phú ông đi, có người nghèo nọ bước vào, nói:

-Cầu Bụt cho con ít tiền. Người nhà con lâm bệnh nặng, đang rất cần tiền ạ.

Cầu xong ông dập đầu, đứng dậy, nhìn thấy một túi tiền rơi trên mặt đất. Người nghèo thốt lên câu:

-Bụt đây quả thật rất linh.

Ông cầm túi tiền cất bước ra đi. Kẻ lang thang muốn mở miệng nói không phải linh với hiển gì đâu, mà chỉ là đồ người ta đánh rơi, nhưng anh nhớ đến điều kiện do Bụt đưa ra, nên lại thôi. Lúc này, lại có ngư-dân bước vào. Ngư dân cầu xin cùng Bụt như sau:

-Cầu Bụt ban cho con bình an, ra biển không gặp sóng gió.

Đoạn dập đầu, đứng dậy, ông vừa muốn đi, lại bị phú ông túm chặt áo đòi lại túi tiền. Chỉ vì túi tiền, mà hai người đánh nhau túi bụi. Phú ông cho rằng ngư-dân này đã lấy túi tiền của ông, còn ngư-dân lại thấy oan-ức không chịu nổi. Kẻ lang thang, ngồi trên nhìn xuống không thể nhịn được nữa, anh liền hô to:

-Dừng tay! Nói thế rồi, anh đem hết câu truyện kể lại cho hai người hiểu. Nhờ thế, hai người này không còn tranh chấp, cãi vã hoặc đánh nhau nữa, nên đã yên.

Lúc ấy Bụt bèn nói:

-Ngươi thấy làm như thế có được không? Hãy tiếp tục làm kẻ lang thang đi mà sống đúng chức-năng của mình! Ngươi mở miệng, tự cho mình là công bằng, nhưng người nghèo vì vậy mà không có tiền chữa-trị người thân; người giàu không có cơ-hội tu-thân tạo đức hạnh; ngư-dân ra biển gặp sóng gió chôn thân dưới đáy biển. Nếu ngươi không mở miệng, mạng sống người nhà của kẻ nghèo sẽ được cứu; người giàu có tốn chút tiền thật đấy, nhưng lại giúp được người khác hầu tích đức; ngư dân cũng vì dây dưa không cách nào lên thuyền, tránh được mưa gió, bão bùng có thể còn sống sót.”

Kẻ lang thang im lặng bước ra khỏi chùa chiền, suy-nghĩ rất nhiều. Nghĩ rằng: nhiều sự việc trong đời, nó có thế nào vẫn là như thế. Cứ để nó tiến-triển theo luật tự nhiên, kết quả sẽ tốt hơn. Khi đối mặt với sự việc, ai biết được kết quả đem lại cho mình và cho người, chứ? Cứ yên-lặng theo dõi mọi diễn biến, đó chính là năng-lực có thực! Thuận theo luật tự nhiên, lại cũng là một loại hạnh phúc, ở trên đời! (truyện kể do Minh Quân dịch)

Truyện kể hay những đoạn trích-dẫn ở trên, vẫn dẫn đưa bạn và tôi trở về tình-huống có lời ca tiếng hát vẫn nhắc nhở mọi người, bằng ca-từ đầy ý-tứ như sau:

Ngày tôi đi vàng nắng

Nghiêng nghiêng một hàng cau

Mai ta nhìn mây trắng

Gửi lời về thương nhau

Chiều nay buồn viễn xứ

Nhớ người em gái xưa

Tôi thấy phương trời cũ

Giăng giăng một hàng mưa.”

(Nguyễn Hiền/Thiệu Giang – bđd)

Hát thế rồi, tôi và bạn lại cứ hiên ngang đầu cao mắt sáng cứ tiến thẳng về phía trước, không sợ đớn đau, sầu buồn hoặc trở ngại ở đâu đó, dù rất khó.

Hát thế rồi, nay xin bạn và tôi, ta lại sẽ triển-khai những gì học được từ đấng bậc rất hiền lành, ở trong Đạo hoặc ngoài đời, rất thức thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết tâm

Sẽ học mãi hết mọi người

Cả trong Đạo lẫn ngoài đời

Thì hai đứa còn đâu cơ hội nữa,

“Thì hai đứa còn đâu cơ hội nữa,”

“Tình đã đến trong những ngày nhuộm đỏ,

trong những ngày Thượng đế phải ra đi,

Trong những ngày giá-trị của lương-tri,

được thẩm-định bằng tín-điều duy vật!”.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Với nhà thơ, thoì như thế. Như những gì người đời vẫn nghĩ suy. Với nhà Đạo qua Tin Mừng thánh Gioan, thì lại khác. Trình-thuật nay vẫn kể dân con đồ đệ nghe Chúa nói chuyện và dẫn-giải , thường có thái độ rối như tơ lòng, nhiều giây nhợ.

Thật tình, họ ít khi hiểu rõ được ý nghĩa thâm sâu, Lời Chúa nói. Thái độ của họ, giống như cặp tình nhân nọ, đã ghé thăm vùng đầy tuyết ở Seattle, trong hai tuần. Để tỏ bày sự thân tình trìu mến, họ gọi nhau bằng vợ bằng chồng, thật gần gũi. Họ còn lên kế hoạch men theo Nam tuyến, đi xuống phía Florida, để có thêm chút ánh sáng mặt trời. Người chồng, ngưng mọi công việc từ ngày hôm trước, đã trực chỉ về hướng biển bờ Miami, nơi đó sẽ gặp vợ, ngày hôm sau.

Cả hai người, đều trông mong sẽ có được thời gian ở bên nhau, thật hấp dẫn để vui hưởng ánh nắng mặt trời, chói sáng. Nhưng không may, có một chuyện ngoài ý muốn xảy đến ngay ở cửa lên tầu, người chồng được bảo: có lẽ anh phải chờ qua đêm, vì món rượu mạnh đặc biệt.

Anh tìm cách khiếu nại lên vị thủ trưởng ở đó, nhưng vô hiệu. Vừa kịp đến khách sạn, vào hôm sau, anh bèn khám phá ra rằng Biển Miami vừa xảy ra cơn sóng mang giòng nước nóng, và thời tiết hôm ấy lên cao đến độ không thể chịu đựng được, ngược hẳn thời tiết quá lạnh, ở Seattle. người tiếp tân ở quầy cho hay, vợ anh sẽ kịp đến, như dự định.

Anh nóng lòng chờ đợi đến mức độ phải chay bay biến xuống khu vực hồ bơi, để lấy lại hơi mát cần có, và vội vàng anh gửi cho vợ, một điện thư. Thư diện của anh lại được chuyển đến nhà phu nhân của vị giảng thuyết có người chồng già vừa qua đời, chỉ một ngày trước đó. Khi vị phu nhân mở điện thư ra đọc, thoáng chốc bà nhìn vào màn hình nhỏ, bất chợt kêu lên một tiếng thất thanh, rồi gục đầu tắt thở, ngay tại chỗ.

Gia đình chạy vội vào phòng xem cớ sự, tức thì bắt gặp bức điện thư ngắn gọn từng chữ, mồn một ghi rõ trên màn hình, những giòng chảy:

“Gửi người vợ thân yêu nhất của anh, ra đi hôm qua như em biết đấy, vừa kịp đến mới xong phần khám xét. Đôi chút hiểu lầm ở ngang cửa. Khiếu nại bị bác bỏ. Vừa được xác nhận em sẽ đến đây vào ngày mai. Chồng yêu quý của em. Chú thích: Mọi sự không như chúng mình nghĩ. Em sẽ rất đỗi ngạc nhiên về sức nóng, ở dưới này.”

Theo sau việc phát thức ăn cho hơn 5000 người, dân chúng cứ tưởng rằng: khi Chúa nói Ngài là Bánh Sự Sống, tức là Ngài có ý nói đến nguồn cung cấp thức ăn cho buổi hôm sau. Nếu việc này quả đúng là sự thật, thì có lẽ phải ghi trên vòng quay số, đôi ba giòng chữ có nghĩa tương tự như khi người diễn trò sử dụng từ ngữ “quán cà phê Công Giáo”

Tuy thế, Đức giêsu chỉ muốn dẫn người nghe đến sự thể chính Ngài làm cho mọi người dịu mọi cơn đói. Vì khi ấy, ta sẽ chẳng bao giờ còn đói hoặc khát, nữa.

Đói, là chuyện rất quan trọng. Nó đòi ta phải thường xuyên chú ý đến. Đói thể xác, cho thấy ta cần được nuôi dưỡng. Ta cần có nước trong người. Cần luyện tập và ngủ nghỉ. Ta từng học cách thức đọc ra được các dấu hiệu của thể xác. Nếu cứ tảng lờ, ta sẽ chết. Ta cũng có cơn đói cảm xúc. Vào lúc đó, ta cần được yêu thương. Chấp nhận. Có đôi tai biết lắng nghe. Nếu cứ giả lơ giả tảng những dấu hiệu này, tâm thần ta sẽ trở nên tệ hại hơn. Và, chất lượng cuộc sống nơi ta, sẽ mai một.

Tuy là thế, Đức giêsu cũng cảnh giác ta về cơn đói thần thiêng. Đây chính là nhu cầu ta cần có đối với Ngài. Cần có mục tiêu  và ý nghĩa. Cần cho niềm tin. Cho Tình yêu. Hy vọng. Nếu cứ tảng lờ cơn đói này, ta sẽ để luột mất tầm nhìn về nơi ta xuất phát. Về lý do, tại sao ta hiện diện ở đây. Và về điểm đích, ta đi tới.

Chương 6 Tin Mừng thánh Gioan tiếp tục được diễn nghĩa, qua đó cho thấy Đức Giêsu càng diễn tả thật rõ nét hơn, về vai trò Ngài đến. Ngài đến, để làm cho người được no đầy. Kẻ khát, có đủ nước uống.

Và khi Ngài gỡ rối bòng bong cho dân chúng, họ lại cảm thấy như bị chạm nọc. Đức Giêsu, là Bánh Sự Sống. Ngài quan tâm nhiều đến chúng ta. Quan tâm trong việc giải những cơn đói lòng thể xác, xúc cảm và thần thiêng của ta, ở thế gian này. Giải cơn đói, theo cung cách thoáng nhìn thấy sự sống sẽ đến nơi Ngài. Ở sự sống ấy, mọi kẻ đói khát sẽ được tràn đầy, không thèm muốn.

Cầu mong sao Tiệc Thánh này chuẩn bị chúng ta cho ngày giờ khi việc ta ra đi khỏi thế giới gian trần sẽ trờ tới.

Cầu mong sao khi ấy, sẽ không có chuyện chộn rộn nơi cửa ngõ. Lúc đó, chẳng cần gì phải khiếu nại.

Cầu mong sao, ta được hiệp thông nối kết với những người mà ta hằng yêu mến. Để ta được sưởi ấm nơi tình thương yêu của Chúa. Để Ngài chỉ định chỗ ngồi nơi Bàn tiệc Vĩnh cửu, Ngài dọn cho ta. Bởi, nơi Tiệc ấy, không còn người đói kẻ khát, về mọi thứ.

Cảm-nghiệm điều ghi đậm nét như thế, ta ngâm tiếp lời thơ đời trắng trợn nhiều tình tiết, như:

“Có những điều ta muôn hôn em, rồi khóc,

Mùa bình-an nào chờ-đợi uyên-ương?”

(Nguyễn Tất Nhiên – Uyên Ương)

Uyên ương tình người, nhiều lúc cũng hơi khác. Khác, cả vào khi ta được dẫn-giải rất nhiều lần. Tình nhà Đạo, còn khác nhiều lời thơ đời. Khác, cả hình-thức lẫn nội-dung như nhiều người vẫn cảm-nghiệm trong đau thương, sầu buồn. Nhưng vẫn một lòng tìm đến với Đức Chúa để Ngài dẫn-giải ý-nghĩa của mọi sự-kiện diễn ra ở đời. Với con người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 14-25)

Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: “Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

Đức Giêsu đáp:”Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” Họ liền nói:“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giêsu bảo họ:”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”

MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN

MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN

Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler.  Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết.  Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này.  Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống.  Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì!  Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí.  Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống.  Nó là ranh giới giữa sống và chết”.

Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất.  Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời.  Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói.  Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống.  Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn.  Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể.  Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn.  Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu.  Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình.  Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều.  Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta.  Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.

Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh?  Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá.  Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé.  Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ.  Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana.  Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum.  Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.

Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con.  Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con.  Chúng con xin tạ ơn Ngài.

Noel Quesson

HÃY CHO HỌ ĂN

HÃY CHO HỌ ĂN

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 651

Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy ?” Bà bình thản trả lời: “Sang những người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói !” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng có thời gian cho người khác.

Cách đây một thời gian, tôi đã có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các em ! Hãy đem thứ này về cho các em !” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý giá mà em có.

Một bữa nọ, tôi nhận được mười lăm đôla từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.

Trao tặng là chia sẻ. Tôi không muốn bạn cho tôi thứ mà bạn đã bỏ đi, mà cho đi thứ bạn muốn, thứ bạn cần. Tôi muốn bạn cho đi bản thân mình. Tình yêu mà bạn đặt vào sự ban tặng là điều quan trọng nhất. Cơ hội chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác chính là một món quà của Chúa. ( Bích Nga, Ngọc Sáu, Hoa Phượng, Mẹ Têrêsa, Trên Cả Tình Yêu ).

Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng. Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ. Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.

Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương

Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Nhưng thấy đám người đông lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” ( Mc 6, 34 ). Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.

Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm

Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm” ( Ga 6, 5 ). Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi” ( Mc 6, 35-37 ).

Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai Thánh ghi chép Tin Mừng có khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng. Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.

Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại

“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” ( Ga 6, 9 ). Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc. Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.

Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa. Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu” ( Hs 6, 6 ). Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” ( Mt 9, 13 ).

“Kitô giáo là cho đi”. Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất. Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó. Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta. Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu: Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta” ( Mẹ Têrêsa Calcutta ).

Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu

“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” ( Ga 6, 11 ). Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa. Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu. Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng. Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai ( x. Mc 8, 1-10 ). Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta” ( Tv 103, 8-10 ).

Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể sau này. Các Tông Đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.

Chiếc bánh thứ năm: Công bình

“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người. Hết thảy đều no đầy phúc đức. Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm. Bởi vì “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” ( Mt 5, 45 ).

Con cá thứ nhất: Thanh bần

Trong tinh thần nghẻo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.” Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.

“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng” ( Đường Hy Vọng, số 412 ).

Con cá thứ hai: Thiên ​Quốc

“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình” ( Ga 6, 15 ). Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.

Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” ( Ga 6, 26 ). Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát. Bơi chưng, “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần” ( Rm 14, 17 ).

“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người. Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con” ( Đường Hy Vọng, số 824 ).

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

Thánh Giacôbê, quê quán tại Bethsaida, là con ông Giêbêđê và là anh em với thánh Gioan.  Ngài là một trong ba Tông đồ, ngoài những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa, còn được phúc chứng kiến sự kiện biến hình trên núi Tabor và thảm cảnh trong vườn Cây Dầu.  Lòng nhiệt thành của hai anh em đã khiến Chúa đặt cho cái tên là ‘Con Sấm Sét’.

Thánh Giacôbê đã tiến hành công cuộc tông đồ tại Giuđêa và Samaria.  Theo truyền tụng, thánh nhân đã đến rao giảng Phúc Âm tại Tây Ban Nha.  Khi trở lại Palestine vào năm 44, ngài đã trở thành vị Tông Đồ đầu tiên được phúc tử vì đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa.  Thi hài thánh nhân được cải về Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây đã trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời Trung Cổ, và là một đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.

Uống chén của Chúa

Khi đang đi dọc theo bờ biển Galilê, Chúa Giêsu nhìn thấy Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đang vá lưới, Người đã gọi họ, và đặt cho tên là Boannerges, nghĩa là “con của sấm sét”.

Mọi sự bắt đầu khi một số ngư phủ trên biển hồ Tibêria được Chúa Giêsu thành Nagiarét mời gọi theo Người.  Họ đã đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu, đi theo, và sống với Người gần ba năm trời. Họ đã chia sẻ đời sống thường nhật của Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho những lời cầu nguyện, cũng như lòng nhân lành và quyền năng của Người dành cho các tội nhân và những người đau khổ.  Họ chăm chú lắng nghe lời Chúa, những lời họ chưa từng bao giờ được nghe.

Suốt ba năm chung sống với Chúa, các Tông Đồ cảm nghiệm một thực tại rồi ra sẽ chiếm đoạt họ mãi mãi, đó là cuộc sống với Chúa Giêsu.  Đó là một kinh nghiệm phá vỡ nếp sống trước kia của họ; họ phải từ bỏ mọi sự – gia đình, nghề nghiệp, và tài sản của họ – để đi theo Người.  Tóm lại, họ đã được dẫn vào một con đường sống hoàn toàn mới mẻ.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu mời gọi Giacôbê đi theo Người.  Giacôbê là anh của Gioan, và là con của bà Salômê, một phụ nữ đã dùng tài sản để giúp Chúa Giêsu và sau cùng cũng có mặt trên núi Canvê.  Giacôbê đã biết Chúa Giêsu trước khi được Chúa gọi.  Cùng với Phêrô và em trai mình, Giacôbê được Chúa Giêsu yêu thương cách riêng.  Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Biến Hình trên núi Tabor.  Ngài cũng có mặt khi Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, và là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương khó.

Phúc Âm ngày lễ thánh Giacôbê kể cho chúng ta một biến cố lạ lùng trong đời Ngài.  Chúa Giêsu loan báo về cuộc Khổ nạn và cái chết sắp đến của Người: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các trưởng tế và ký lục, họ sẽ kết án tử và giao nộp Người cho dân ngoại chế nhạo, chúng sẽ đánh đòn và đóng đinh Người vào thập giá.  Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Chúa cảm thấy cần chia sẻ những tâm tình sâu lắng nhất đang chất chứa trong lòng cho các môn đệ. Khi ấy, bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu, và bà bái lạy và kêu xin Người một điều: Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang của Người sắp đến.  Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không. Chúa đề nghị họ hãy uống chung chén của Người.  Thời xưa, việc trao chén mình cho ai uống là một dấu chỉ của tình thân hữu.  Các vị liền đáp: “Thưa được!”  Những lời ấy nói lên một tấm lòng thuần thục và quảng đại.  Những lời ấy phản ánh thái độ của mọi người trẻ và của mọi tín hữu thành tâm, nhất là của những ai sẵn sàng làm tông đồ để loan báo Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp quảng đại ấy và phán bảo: ‘Chén của Ta, các con cũng sẽ uống”, các con sẽ chia sẻ những đau khổ của Ta, các con sẽ hoàn tất cuộc Khổ nạn của Ta nơi thân xác các con.  Không bao lâu sau đó, vào năm 44, Giacôbê đã bị xử trảm tử vì đạo.  Còn Gioan đã chịu bách hại đủ kiểu trong cuộc đời trường thọ của Ngài.

Kể từ khi Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta trên thập giá, tất cả đau khổ của các tín hữu là cùng uống chén của Chúa Kitô qua việc chia sẻ cuộc Thương khó, Tử nạn, và Phục sinh của Người.  Nhờ đau khổ, một cách nào đó, chúng ta hoàn tất cuộc Khổ nạn của Chúa, và kéo dài trong thời gian với những hoa trái của công cuộc ấy.  Những đau khổ nhân loại chỉ mang ý nghĩa cứu độ khi được liên kết mật thiết với sự khổ nhục Chúa Giêsu đã chịu.  Với lòng nhân lành, Chúa đã cho chúng ta chia sẻ chén đắng của Người.  Trước những khó khăn, bệnh tật hoặc đau khổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng nêu lên một câu hỏi: “Con có thể uống chén của Ta không?”  Nếu hợp nhất với Chúa, chúng ta sẽ tích cực đáp lại và chịu đựng tất cả những gian khổ về phương diện nhân loại vì danh Người.  Trong sự hợp nhất với Chúa Kitô, ngay cả những đau đớn và thất bại của chúng ta cũng sẽ biến thành niềm vui và bình an.  Cuộc cách mạng vĩ đại của Kitô giáo chính là việc đã biến đau khổ thành đau khổ hiệu quả, biến một điều xấu thành một điều tốt.  Chúng ta đã tước thứ vũ khí này của ma quỉ, và với thứ vũ khí này, chúng ta có thể đạt được sự sống vĩnh cửu.

Đừng chán nản trước những khuyết điểm bản thân – Hãy tìm sức mạnh nơi Chúa

Từ lúc Giacôbê bày tỏ những tham vọng không được cao thượng của Ngài cho đến khi được chịu tử vì đạo là một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài.  Sự nhiệt thành của Ngài trước kia chống lại những người Samaria không muốn tiếp đón Chúa Giêsu – dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem – nhưng về sau đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn.  Từng bước một, tuy không làm mất cá tính hăng hái, nhưng Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực hoặc chua chát. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi.  Thánh Clêmentê thành Alexandria kể lại khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo ngài sau đó đã đến xin ngài tha lỗi.  Thánh Giacôbê suy tư… và sau đó ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”.  Hai người sau đó cùng được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Khi suy niệm về cuộc đời thánh Giacôbê tông đồ, chúng ta được lợi rất nhiều khi nhìn thấy những khuyết điểm của Thánh nhân cũng như của các Tông đồ khác.  Các Ngài không can trường, không khôn ngoan, mà cũng chẳng đơn sơ.  Chúng ta thấy các ngài đôi khi rất ham hố, hay tranh cãi, và thiếu đức tin.  Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông đồ đầu tiên được tử đạo.  Như thế, hiển nhiên là sự phù trợ của Thiên Chúa cũng có thể thực hiện những phép lạ nơi chúng ta.  Ngày nay trên thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn ngài trên con đường khác với con đường ngài đã mơ tưởng trước đó.  Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và đầy yêu thương vượt quá trí tưởng của chúng ta.  Trong nhiều trường hợp, Người không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin, nhưng đó lại là điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.

Theo các trình thuật Phúc Âm, như các Tông đồ, Giacôbê cũng có những khuyết điểm rõ ràng và không thể chối cãi.  Tuy nhiên, bên cạnh những khiếm khuyết ấy, thánh nhân cũng có một tâm hồn và một con tim vĩ đại.  Chúa Giêsu lúc nào cũng nhẫn nại với Ngài cũng như với các Tông đồ khác. Thầy Chí Thánh cho các ngài thời gian để hấp thụ những bài học mà Người đã dùng sự khôn ngoan và tình thương để truyền dạy cho họ.  Thánh Gioan Kim khẩu viết: “Chúng ta hãy xét Chúa đặt câu hỏi tương tự như một lời mời gọi và một lời kích lệ như thế nào.  Chúa không nói: ‘Ngươi có thể chịu thất bại được không? Ngươi có dám chịu đổ máu không?’ nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống…’ Để khích lệ họ, Chúa còn thêm: ‘… chén Ta sẽ uống hay không?’  Tưởng nghĩ đến việc uống chính chén của Chúa đã đưa các Tông đồ đến sự đáp ứng quảng đại hơn.  Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ nạn của Người là ‘phép rửa’ để nhấn mạnh những đau khổ của Người sẽ là nguyên nhân cho cuộc thanh tẩy toàn thế giới.”

Chúa cũng đang mời gọi chúng ta.  Ước chi chúng ta đừng đầu hàng sự chán nản khi những khuyết điểm và yếu đuối của chúng ta trở nên rõ rệt.  Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin phù giúp, Người sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành dấn bước, bởi vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta thời giờ cần thiết để cải thiện.

Sưu tầm

Hạnh Phúc Thay Ai Kính Sợ THIÊN CHÚA, Ăn Ở Theo Đường Lối Ngài

Hạnh Phúc Thay Ai Kính Sợ THIÊN CHÚA, Ăn Ở Theo Đường Lối Ngài

Ngay từ thơ bé tôi được song thân giáo dục phải luôn luôn chú ý đến tha nhân, đặc biệt người nghèo

Bà Anna Maria Rizzante làm việc tông đồ với tư cách thừa sai giáo dân tại Amazzonia bên nước Ba-Tây thuộc Châu Mỹ La Tinh. Bà cùng với hiền phu Sandro và hai con – một trai một gái – dấn thân phục vụ người nghèo. Thời thiếu nữ, Anna Maria có ý định dâng mình cho THIÊN CHÚA trong Hội Dòng Đaminh thánh nữ Caterina thành Siena. Hội Dòng có một Cộng Đoàn tại Scandolara (Bắc Ý) nơi quê sinh của thiếu nữ. Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng định liệu cách khác. Không thực hiện được ước nguyện tu trì, Anna Maria dấn thân phục vụ người nghèo, những ai cần sự trợ giúp. Sau khi lập gia đình, bà tiếp tục lý tưởng tông đồ. Bà cùng chồng và hai con tình nguyện đi truyền giáo tại Ba-Tây với tư cách thừa sai giáo dân. Xin nhường lời cho bà Anna Maria Rizzante.

Chính Song Thân gieo vào lòng tôi thiện ý dâng hiến cuộc đời phục vụ anh chị em xa xôi và nghèo khổ. Trước tiên, Cha Mẹ tôi nêu cao gương sáng về cuộc sống vị tha xả kỷ. Ngay từ thơ bé tôi được song thân giáo dục phải luôn luôn chú ý đến tha nhân, đặc biệt người nghèo. Tâm tình trìu mến thương yêu người nghèo theo sát và đưa tôi đến Bologna rồi đến Roma. Nơi thủ đô Roma tôi trải qua 10 năm của thời thiếu nữ trong việc học hành, cầu nguyện và các công tác thiện nguyện. Đó là những năm tuyệt vời để lại nơi tôi những kỷ niệm khó quên.

Từ các năm tháng này, chín mùi nơi tôi ước muốn dấn thân hoạt động tông đồ. Quyết định chung kết đưa tôi từ Roma sang làm việc tại Amazzonia bên Ba-Tây, với tư cách thừa sai giáo dân. Cùng với các tín hữu Công Giáo tại địa phương chúng tôi dành ưu tiên cho các hoạt động nhằm thăng tiến cuộc sống nữ giới. Chúng tôi lắng nghe và chia sẻ cuộc sống của phụ nữ trong một xã hội có nhiều nghèo đói và bất công. Chúng tôi cố gắng làm sao cho cuộc sống của nữ giới có ý nghĩa, diễn ra trong tự do hoàn toàn và mang lại nhiều hoa quả phong phú.

Tôi kết hôn với Sandro và chúng tôi có hai con, một trai một gái. Chúng tôi sẽ hân hạnh trở thành ông bà nội ngoại của các cháu. Tôi là người mẹ người vợ Công Giáo may mắn. Bởi vì, cùng với hiền phu Sandro, chúng tôi chia sẻ trong mọi lãnh vực. Chẳng những chúng tôi hợp tác trên bình diện hôn nhân và gia đình mà còn chung mối hiệp thông sâu xa về lý tưởng và cuộc sống. Thật tuyệt vời! Niềm hiệp thông vợ chồng chúng tôi nhận lãnh với niềm tri ân chân thành như hồng ân cao cả đến từ THIÊN CHÚA. Niềm hiệp thông khuyến khích chúng tôi sống trung tín tình nghĩa phu-thê và trung tín với ơn gọi mà mỗi người được kêu mời thực hiện.

Nhưng trước hết và trên hết, chúng tôi thề hứa trung tín với THIÊN CHÚA của người nghèo và trung tín với người nghèo của THIÊN CHÚA, cũng như trung tín với đất đai của THIÊN CHÚA. Chính trong ý hướng sau cùng này mà chúng tôi dấn thân hoạt động trong lãnh vực Mục Vụ Điền Địa, trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Ba-Tây. Chúng tôi tranh đấu cho dân nghèo có cuộc sống xứng đáng hợp nhân phẩm, thắng vượt bất công, nghèo đói và đàn áp từ nhiều phía.

Tranh đấu của chúng tôi không đi theo chiều hướng chính trị nhưng nằm trong lãnh vực xã hội theo đúng tinh thần Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Hoạt động của các thừa sai giáo dân chúng tôi luôn luôn được Lời Chúa soi sáng hướng dẫn. Cuộc sống của chúng tôi không dễ dàng xuôi chảy nhưng tràn đầy khó khăn. Tấm gương của biết bao thừa sai bị giết vì các hoạt động tranh đấu cho dân nghèo luôn luôn ở trước mắt chúng tôi. Chúng tôi không nao núng sợ hãi. Đôi khi công việc hoạt động tông đồ của chúng xem như vô ích và thất bại. Nhưng chính lúc ấy, chúng tôi cảm nhận sâu xa quyền năng vô biên của THIÊN CHÚA. Chính THIÊN CHÚA sẽ ra tay can thiệp đúng thời đúng lúc. Chính Ngài giải phóng và cứu thoát dân nghèo của Ngài. Chúng tôi – đầy tớ của THIÊN CHÚA – chúng tôi hoàn toàn đặt trọn tin tưởng phó phác nơi Tình Yêu của Ngài.

… ”Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ THIÊN CHÚA, ăn ở theo đường lối của Ngài. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ôliu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc THIÊN CHÚA dành cho kẻ kính sợ Ngài. Xin THIÊN CHÚA từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Israel vui hưởng thái bình” (Thánh Vịnh 128 (127).

(”Allez, Allez Petites”, Quadrimestrale della Congregazione delle Suore Domenicane di Santa Caterina da Siena, Numero 3, Anno II, Santa Natale 2008, trang 13-15)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt