Trên con đường một mình anh về

“Trên con đường một mình anh về”
nơi chốn tha hương.
Cơn đau xa người còn thấm môi hôn nhớ về ai.
Phút chia tay em nói lời tiễn đưa
Mắt anh buồn nhìn em, thôi đã mất.”
(Hoàng Trọng Thụy – Đoản Khúc Cuối Cho Em)

( Cv 3: 17-20)

Trần Ngọc Mười Hai

“Đoản khúc cuối cho em”, ư? Phải chăng, đây là lời nhắn gửi đến mọi người, hoặc muôn người? Chí ít, là những người lâu nay được đề-cao, nâng nhấc, kích bốc lên tận chín tầng mây trên đó, chốn đạo hạnh?
Sở dĩ bần đạo đây, hôm nay, nói lên những điều khó nói này là vì, vừa qua, bần-đạo đọc được “Bản Tin Giáo Xứ” của một họ đạo ở nước Úc, rất Sydney. Bản tin hôm ấy, tóm gọn chỉ mỗi lời nhắn không theo dạng “Đoản Khúc Cuối Cho Em”, mà là lời nhủ khuyên gửi đến các vị lâu rày lãng quên chuyện hỗ-trợ các bậc vị-vọng nay chìm vào chốn lãng quên, rất như sau:

“Hôm nay, ta thực-hiện quyên góp giúp các Linh mục về hưu có nơi ăn chốn ở, được chăm sóc sức-khoẻ bằng những hỗ-trợ cần-thiết để các ngài có cuộc sống xứng-đáng, khi về hưu.

Chúng ta mắc nợ các linh mục rất nhiều. Các ngài đã cống-hiến cả đời mình để phục-vụ Thiên-Chúa và nuôi dưỡng lòng tin của ta, cũng như đóng góp bằng nhiều cách cho cuộc sống cộng-đoàn. Hỗ-trợ Quỹ Tài trợ Linh mục về hưu, là cung-cách thực-tiễn qua đó ta chứng-tỏ lòng cảm-kích biết ơn các linh-mục thừa-tác từng cho đi chính đời mình hầu phục-vụ tha-nhân và cộng-đoàn niềm tin.” (X.Bulletin of Fairfield Parish 23rd Ordinary Sunday year B, 06/9/2015)

Lý-do khiến bần-đạo trích dẫn “Bản tin Giáo xứ” này, ở đây, không để nhắn bạn đạo nào ở đâu đó rằng: bà con ta đừng quên các linh mục già đầy tuổi tác đang sống ở viện dưỡng-lão đây đó, trên toàn quốc. Nhưng, vì lời lẽ “kích-bốc” theo kiểu “lời vàng” khá cũ của thời trước, nay lỗi thời.
Lỗi thời hơn, là quan-niệm của vị nào đó cứ coi các đấng-bậc thày cả như quan-viên sống trên đầu/trên cổ đám giáo-dân lúc này cũng đã biết nhiều và hiểu nhiều về những chuyện xảy ra trong/ngoài nhà Đạo, nay bê bết.
Lỗi thời mãi, lại là quan-niệm của một số vị cứ tâng-bốc các đấng bậc “thày cả” vẫn tự coi mình là “kẻ cả” có tư-thế và vai-vế hơn hẳn người dưới trướng trong Hội-thánh La Mã, rất Vaticăng.
Nay, quan-niệm “ở trên đầu/trên cổ giáo dân” đã mai-một không còn hợp thời và lẽ đạo nữa, đến độ Đức Phanxicô đã phải nhắn-nhủ con dân trong Đạo, những người vẫn đi đạo và giữ đạo nhưng không biết tình-hình trong Đạo. Lời nhắn-nhủ ấy như thế này:

“Các linh mục phải đồng-hành ngang hàng mọi người, chứ không thể ở trên hoặc ở trước họ.

Hôm 3/9/2015, Đức Phanxicô có chuyển đến các linh-mục thuộc Phong-trào Schoenstatt một lời nhắn cũng rất mạnh rằng: “Linh-mục ở Đạo ta không bao giờ nên ở trên hoặc ở trước mọi người. Thay vào đó, họ phải đồng-hành bên cạnh các vị ấy, mới được…

Thông-điệp, gửi các vị tham-gia buổi hội-thảo hàng năm của Phong-trào Schoenstatt này đây, hôm ấy, Đức Phanxicô có được sự đồng-thuận của những người trong cuộc, nên ngài đã mạnh-dạn trích-dẫn nhận-định của Lm Kentenich của Phong-trào, khi ông bảo: “Mọi người chúng ta, ai cũng nên mở tai mình ra mà đặt vào tâm-can của Chúa và đặt đôi tay lên nhịp đập của thời-đại… Đó là hai cột-trụ của đời sống linh-thao hôm nay, rất đích-thực.”

Đức Phanxicô, sau đó, đã rời buổi hội-thảo của Phong-trào nói trên nhưng không quên để lại đề-nghị khẩn-cấp để bảo rằng: “Chúng ta nên dâng-tiến chính mình để giúp đỡ các gia-đình, đặc biệt là gia-đình nào đang trong cảnh bức-bách, khó khăn, khổ sở. Đồng thời, cũng nên bỏ giờ ra mà ngồi toà cáo-giải nghe hối-nhân xưng-thú lỗi/tội của họ, đặc biệt trong năm thánh mừng vui này. Còn một điều nữa, cũng nên quan-tâm đến, là: ta hãy cầu-nguyện thêm cho Đức Giáo-Hoàng nữa.” (Xem News: Priests must walk alongside others, not in front: Pope”, trên tờ The Catholic Weekly ngày 13/9/2015 tr.10).

Đức Giáo-Hoàng nói thế, tức bảo rằng: nay là lúc con dân dưới trướng nên giúp giùm/đùm bọc lẫn nhau, chứ không nên kẻ trước/người sau, cứ thế mà giành nhau vị-thế trên dưới/trước sau, với người thường? Phải chăng, vì thế không nên cứ coi giáo dân như kẻ ở dưới trướng, cần đe nẹt?
Nói như Đức Giáo-Hoàng nhà mình, là nói theo kiểu nhà Đạo, lúc nào cũng hỗ-trợ nhau về mọi cách, chứ không thể đi đằng trước /bước lên trên rồi lại yêu-cầu người đi sau hoặc đi dưới cứ thế yểm trợ bằng công sức, tiền bạc và lời cầu nguyện kéo dài mãi không ngừng.
Nói như Đức Giáo-Hoàng, là cứ nói và nhớ lời bậc thánh hiền khi xưa từng nhủ khuyên/khuyên-nhủ các vị được đề-bạt hoặc thăng quan tiến chức, rất ở trên, bằng những lời rằng:

“Thưa anh em,
giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết,
cũng như các thủ lãnh của anh em.
Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện
những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước,
đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình.
Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa,
để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.
Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ đến,
khi Người sai Đấng Kitô Người đã dành cho anh em,
là Đức Giêsu.”
(Cv 3: 17-20)

Nói theo kiểu các đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo thì như thế. Còn, nói và hát theo kiểu con dân ngoài đời, rất nghệ-sĩ, thì như sau:

“Đêm hôm nào mùa trăng thu chờ em đến bên tôi
Vùi thân rã rời hình bóng em theo chăn gối này
Thoáng hương xưa thôi cũng đành
Nói cho nhau lời cuối cùng
Dấu chân em rời căn gác buồn tênh.

Và ngày em đi, anh đưa môi tìm lên môi son cũ
Dấu vết ái ân tan theo như lời nói khi lìa nhau
Bàn tay như cố kéo những ước mơ đã mãi xa rồi
Nhìn tháng năm tàn phai, hình bóng thôi còn ai.
(Hoàng Trọng Thụy – bđd)

Thật ra thì, làm đấng bậc thủ-lãnh trong Đạo, là phải sống như một Kitô-khác, tức: rất giống Đức Kitô là Đấng nhân-hiền thánh hoá. Chí ít, là đấng bậc “thày cả” của “cả-và-thiên-hạ”.
Thật ra thì, làm thủ-lãnh đấng bậc ở Đạo Chúa, tức: không những phải chối-từ chuyện ngồi chiếu trên hay luôn đi trước đám giáo-dân trong đó nhiều người còn rành rẽ, thánh-thiện và khiêm-tốn hơn cả “thày cả”, nữa.
Thật ra thì, làm thủ-lãnh đấng bậc trong Đạo, là bắt chước Đức Kitô và/hoặc tuân-thủ Lời Ngài khuyên-dạy để sống xứng-đáng chức-năng/vai-trò bé nhỏ mà Đấng bậc nọ ở Sydney mới đây lên tiếng bằng một nhận-định ngắn gọn, như sau:

“Khi xưa Đức Giêsu Kitô làm tất cả mọi việc và nói tất cả mọi lời, Ngài đều nói và làm qua câu hát.

Nhiều lần, Ngài ra tay chữa trị hoặc “chữa lành” người tật/bệnh, Ngài lại còn cất tiếng hát khe khẽ, nhẹ êm trong đó có lời ca toàn là những yêu thương, trìu mến rất đầy đặn.

Nhiều khi, Ngài kể cho những người đi theo Ngài đôi ba câu chuyện hay ho/nho nhỏ, Ngài cũng lại cất lên giai-điệu tuyệt vời, tức: thứ âm-giai nhẹ mà khi nghe rồi, người nghe sẽ không còn quên lãng. Đó, là giai-điệu mà ta thường ngâm-nga suốt ngày không cần biết mình đang làm gì, sẽ ra sao.

Rất nhiều lần, khi Ngài bênh-vực quyền-lợi của người thấp bé/nghèo-hèn, thì tiếng giọng của Ngài lớn mạnh đầy quyền-uy, cho đến đoạn cuối kết thúc bằng cái chết thập-giá, trên đó Ngài lại hát mạnh hơn đến độ tiếng giọng của Ngài ngân-vang cùng khắp xuyên suốt vũ-trụ.

Môn-đồ nghe Ngài hát, lại cứ nghĩ: đây là bài ca họ chưa từng nghe bao giờ hết. Và, khi Ngài về với Cha Ngài, họ cũng bắt đầu hát như thế cho hết mọi người trong/ngoài nhóm/hội của mình. Dù bắt chước Ngài nhiều lần và nhiều cách, môn-đồ Ngài lại cũng không hát được những lời Đức Giêsu khi xưa từng hát. Đôi lúc, môn-đồ Ngài quên cả lời ca cùng sức-lực đến bể giọng. Tuy thế, về sau này, đồ-đệ Ngài vẫn cố hát hết mình. Và dù tiếng giọng của họ có yếu đi nhiều, thì chúng-dân tuy không nghe rõ tiếng các vị hát, vẫn nghĩ rằng đó là bài ca hay nhất họ từng biết.

Bài ca do môn-đệ hát, vẫn lan-tràn từ Giêrusalem sang đất miền khác đến độ: các bậc mẹ cha ở đây đó lại cũng hát vang cho con mình; và cứ thế lan-truyền xuống thế-hệ kế tiếp suốt nhiều thời.

Nhiều lúc, trong cuộc sống của các bậc thánh-hiền lớn/nhỏ, rất nhiều bài ca được hát bằng tiếng giọng tuyệt-vời. Cũng có khi, các vị lại hát sai/hát quấy do bởi lời ca/tiếng nhạc ở trong đó mạnh đến độ nhiều vị sử-dụng sức mạnh của nó để ra đi gây chiến, đè bẹp và khuynh-loát nhiều người khác.

Thành thử, người ta lại cứ bàn-cãi, đấu-tranh, giành quyền sở-hữu bài hát ấy, rồi còn bóp méo và phủ lên nó bằng những tầng dầy do con người thêm-thắt vào. Và, con người dù có làm tất cả mọi sự để được thế, họ vẫn không bắt chụp được chúng-dân khi tính giản-đơn, mỏng dòn và nhẹ êm nơi bài ca cho phép họ hát mãi như thế, suốt mọi ngày.

Một trong những chốn miền mà bài ca đạt tới, là đất miền cùng tận ở phía Nam mang tên Úc-Đại-Lợi. Ban đầu, bài ca này được hát vẫn không đạt, bởi nét đẹp của bản ca bị nhận chìm bên dưới âm thanh mạnh bạo của lằn roi vọt đập lên lưng tội-phạm đến từ Anh-quốc và rồi, do tiếng than khóc của Thổ-dân thấp cổ/bé họng sống ở đây. Duy có bài ca còn cao cả hơn người hát, vẫn được ca và hát trong nhà ở hoặc nguyện-đường làm bằng gỗ, cùng thánh-đường nguy-nga, khi ấy lan rộng sang tận đất miền khô khan và rộng lan.

Cuối cùng, bài hát ấy đã đến với tôi theo cách nhẹ êm, yêu thương xuất từ miệng mẹ cha cùng người thân-thuộc. Giống nhiều triệu người sinh sống trước thời của tôi, cả tôi nữa cũng bị lôi-cuốn/mê hoặc bởi bài ca mà tôi vẫn muốn hát, muốn vui say/nhảy mừng với cả thân mình của tôi.

Bài ca nay không thể dừng lại ở thế-hệ của chúng tôi được nữa rồi. Đổi lại, chúng tôi cũng phải trao ban nét đẹp tuyệt-vời của nó cho những người đến sau tôi. Và khi làm như thế, chúng tôi sẽ luôn nhớ, rằng: bài ca này có hai đặc-trưng/đặc-thù, rất khác-biệt.

Thứ nhất, là: trong khi chúng tôi hát bài ca ấy một cách bết-bát/tệ-hại, thì dù gì đi nữa, ta vẫn hát cho hết khả-năng của mình. Và, người khác cũng sẽ nghe được dù không chỉ mỗi tiếng-giọng yếu-ớt của ta mà thôi, nhưng phía sau ta và ngang qua ta, họ sẽ còn nghe được tiếng giọng mạnh mẽ và chắc-chắn hơn, vì đó là chính tiếng giọng của Ngài, Đức Giêsu Kitô của ta.

Hai nữa, là: ta sẽ luôn hát hoài, hát mãi bài ca ấy cho hay-ho nhiều hơn nữa, mỗi khi ta học hát với nhau –không chỉ một tiếng giọng ở đây đó, mà sẽ cùng hát những lời khác hẳn giai-điệu ta từng hát trước đây, nhưng cùng chung một tiếng, một giọng, thế mới tuyệt. Bởi, rồi ra, toàn-thể thế-giới sẽ thực-sự biết rằng: vẫn còn bài ca đẹp đẽ, tuyệt-vời nhất mà họ chưa từng nghe biết.” (X. Gm Geoffrey Robinson, 2015 Synod, the Crucial Questions: Divorce and Homo-sexuality, ATF Press Australia 2015, tr. 6-8)

Vâng. Ở ngoài đời, cũng có bạn trẻ nọ từng nhận-định về chuyện hát hò ở trong đời, có những lời như sau:

“Cuộc đời, là những tiếng hát mà mỗi người chúng ta sẽ tự hát lên theo cách riêng của mình: có tiếng trong veo, vút cao, có tiếng khàn đục, trầm lắng. Cụ thể hơn, cuộc đời còn là sự song-hành của một chuỗi những buồn/vui, được/mất mà mỗi người sẽ tự hát lên, kể từ lúc bản thân mình bắt đầu nhận thức được về thế giới chung quanh, cho đến khi thấy mình nhẹ tênh như một chiếc lá lìa cành, tìm về đất mẹ. Và bên cạnh ngàn vạn tiếng ca với những âm-sắc bộn-bề buồn/vui, được/mất khác nhau ấy, ai cũng có một khoảng bình-yên ru hồn nương náu, nơi mà “địa đàng còn in dấu chân, bước quên”. (X. Anthony Trần, Du Ký Đi Tây Duc in Altum số 86 Quý 2/2014, www.giadinhanphong.com)

Chính thế. Cả đời ta và đời người, cùng đời của đấng bậc vị vọng là “thày cả” ở thế-giới này cũng như đám dân đen bên dưới rồi ra cũng sẽ hát lên bài ca yêu-thương đồng-hành cạnh bên nhau. Sẽ không còn cảnh trên dưới/trước sau nữa. Bởi, ta và người trước/sau như một, sẽ cùng ca và cùng hát chỉ mỗi bài ca yêu-thương, là tất cả.
Và tất cả, đều sẽ sướng vui với giai-điệu đằm-thắm ấy như bậc thánh-hiền xưa nay từng khẳng-định và nhủ-khuyên.
Để minh-hoạ điều này, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể có ý/lời sau đây:
“Truyện rằng:
Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe Roll Royce sang trọng dừng lại. Người tài xế tiến lại người giữ cổng và nói: xin anh giúp một tay cho người đàn bà này xuống xe vì bà ta yếu quá không đi được nữa. Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu và nói với người giữ cổng nghĩa trang:
– Từ hai năm qua, mỗi tuần, tôi là người đã gửi cho anh 5 đô-la để mua hoa và đặt trên mộ con trai tôi, nhưng nay các bác sĩ bảo rằng, tôi không còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đến đây để chào từ biệt và cảm ơn anh đã mua hoa giùm tôi.
Thế nhưng, người đàn bà không ngờ rằng người giữ cổng nghĩa trang trả lời như sau:
– Thưa bà, tôi lấy làm tiếc rằng bà đã làm công việc ấy!
Người đàn bà cảm thấy như bị ai đó vả vào mặt. Nhưng bà vẫn còn đủ bình tĩnh hỏi lại người thanh niên:
– Tại sao lại lấy làm tiếc về cử chỉ đẹp như thế?
Người thanh niên giải thích:
– Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì những người chết như con trai bà, chẳng bao giờ còn thấy được một cánh hoa nào nữa!
Bị chạm tự ái, người đàn bà liền cao giọng:
– Anh có biết anh đã làm tổn thương tôi không?
Người thanh niên bình tĩnh trả lời:
– Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi chỉ muốn nói với bà rằng có rất nhiều người đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là hội viên của một tổ chức chuyên đi thăm những người già lão, các bệnh nhân trong viện dưỡng lão, các bệnh viện. Chính họ mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta, họ có thể nhìn thấy và ngửi được cánh hoa ấy.
Nghe thế, người đàn bà ngồi bất động trên chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế mở máy. Vài tháng sau người đàn bà trở lại nghĩa trang. Nhưng lần này không cần ai giúp đỡ, bà tự động bước xuống xe với một dáng vẻ vui tươi nhanh nhẹn hơn, và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, một nụ cười rạng rỡ, bà nói với người thanh niên giữ cổng:
– Chú đã có lý, tôi mang hoa đến cho những người già lão, bệnh tật. Quả thật, điều đó đã làm cho họ được hạnh phúc. Nhung người thực sự hạnh phúc chính là tôi. Cac bác sỹ không biết được bí quyết làm tôi khỏe mạnh lại. Nhưng tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy, tôi đã tìm ra lẽ sống.

Và người kể, nay thêm đôi lời bàn Mao Tôn Cương, đã nói rằng:

“Giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình”. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Thượng đế “cho thì có phúc hơn là nhận lãnh”. Bởi vì, trao ban cho người tức là trao ban cho mình. Một ngạn ngữ Anh cũng nói một cách tương tự: “điều tôi tiêu đi là tôi có, điều tôi giữ lại là tôi mất, điều tôi cho đi là tôi được”. Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương thì con người mới thực sự triển nở, và tìm gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới biết vui sống, và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.

Kể thế rồi, nay mời bạn mời tôi, ta lại sẽ hiên ngang hướng về phía trước, cứ thế ngâm nga đôi lời ca được người nghệ-sĩ viết lên vào thời trước, những hát rằng:

“Trên con đường một mình anh về nơi chốn tha hương.
Cơn đau xa người còn thấm môi hôn nhớ về ai.
Phút chia tay em nói lời tiễn đưa,
Mắt anh buồn nhìn em, thôi đã mất.”
Đêm hôm nào mùa trăng thu chờ em đến bên tôi,
Vùi thân rã rời hình bóng em theo chăn gối này.
Thoang hương xưa thôi cũng đành.
Nói cho nhau lời cuối cùng,
Dấu chân em rời căn gác buồn tênh.
Và ngày em đi, anh đưa môi tìm lên môi son cũ.
Dấu vết ái ân tan theo như lời nói khi lìa nhau,
Bàn tay như cố kéo những ước mơ đã mãi xa rồi.
Nhìn tháng năm tàn phai, hình bóng thôi còn ai.
(Hoàng Trọng Thụy – bđd)

Hát thế rồi, nay mới thấy: cứ “nhìn tháng năm tàn phai, hình bóng thôi còn ai”, nay anh có đồng-hành ở bên trên hay phía trước hết mọi người, rồi ra cũng chẳng là gì hết. Bởi, nếu không cùng cất tiếng hát “Tình thương yêu mến mộ”, hoặc nếu không yêu thương, nhường nhịn và tương kính nhau, thì có giành giựt cho lắm từ danh vọng đến chức quyền đi nữa, tất cả cũng chỉ là phù-vân, chóng hết, rất tầm thường.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng có tâm-tư trầm lắng
Rất như thế.

Mãi vui tìm cành hoa trên cánh bướm

“Mãi vui tìm cành hoa trên cánh bướm”

Ai đưa ta lạc đến nước non này.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc tử)

Mai Tá lược dịch

Câu nhận-định trên cũng từa-tựa một nhận-định ở đây, lúc này, trong trình-thuật.

Trình thuật thánh Máccô hôm nay hẳn sẽ làm người đọc hài lòng, không ít. Hài lòng, theo cách thế mà con dân đi Đạo, vẫn kiếm tìm. Hài lòng, chẳng phải vì ta đã có được Lời vàng rất thánh, Ngài bảo ban. Mà, từ nay ta sẽ không đọc và hiểu Lời Ngài theo nghĩa đen tuyền, thể-chất nữa.

Bởi, nếu tất cả những người anh, người chị trong Giáo Hội chỉ biết đọc và hiểu Lời Chúa một cách đen tuyền thể chất như thế, ắt hẳn rồi ra ai cũng tự biết mình sẽ phải làm gì, khi đọc xong văn bản. Đọc Tin Mừng –như bài trình thuật hôm nay vừa kể- mà lại hiểu theo nghĩa đen, e rằng ai cũng sẽ phải móc mắt, chặt tay liệng bỏ mọi cơ duyên lòng-thòng tội lỗi, khiến cuộc đời trở nên ô-trọc.

Sự thật, không phải thế. Có điều chắc, là: người đời vẫn ngang-nhiên cứ muốn sống. Cứ yêu và thở, dù đã làm những điều quái gở, rất nhiều lần. Vẫn sống, mà chẳng thấy mối mọt đục khoét đôi bàn tay, hoặc cả chuyện lửa cháy đêm đen vùng luyện tội, cũng thế.

Làm con dân Đức Chúa, ta tin rằng Ngài mặc-khải cho ta nhiều sự việc, rất đích-thực. Ngài mạc-khải ơn cứu-độ. Mặc khải Tình thương-yêu dạt-dào, chứ không phải lời sấm quả-đoán, rất tương-lai. Quả thật, Đức Chúa quyền-năng là Đấng truyền-đạt hiệp-thông, rất khéo léo. Như bậc Thầy trên bục giảng, Ngài sử-dụng ngôn-từ, ảnh-hình để diễn-tả cảnh-tình, Ngài muốn dạy.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu sử-dụng hình-ảnh sự dữ/ác thần một cách nghiêm-chỉnh. Và, thánh Mác-cô còn viết về sự dữ/ác thần cứ quẩn-quanh bên Chúa như thể-chất, xuất từ bên trong con người. Và, cả những thành-phần hữu-thể, thoát xác ra bên ngoài, nữa.

Trình thuật hôm nay khuyên ta nên dừng lại. Biết chấm-dứt hành-vi xấu xa tồi-tệ, vẫn cản-ngăn ta về với tình thương-yêu Đức Chúa. Hành-vi lỗi-phạm thường rơi vào hai đặc-thù chính-yếu ở nhân-trần, đó là: lề-thói thân-quen và thói-tục o-ép, thúc-giục.

Lề-thói thân-quen là chuyện thường tình, dễ gặp. Cũng có thể, đây là thói thường tình mà ta năng gọi là: thói quen tốt. Có lề thói như thế, cũng chẳng có gì khiến ta bận-tâm. Tựa hồ như: biết nói lời “xin vui lòng” và  “cảm ơn”. Cũng có thể, là những tập-quán tốt, khi khởi-sự thì rất đẹp, rất có lý. Phải đạo. Nhưng đến hồi kết-thúc, vẫn thôi-thúc ám ảnh, khôn nguôi. Tựa hồ như: lề-lối trau-chuốt cho thân thể, rất hợp tình. Thói-tật thân-quen thường xảy đến, có thể là: hành-động dối-trá, bất lương hoặc trộm cắp, khó bỏ. Hành-vi này, thường dẫn đến kết-cuộc tồi-tệ, suy sụp.

Cùng một lúc, hành-vi o ép/thúc-giục, lại thuộc một trật-tự khác. Đây là những hành-vi lập đi lập lại, cứ thế không dứt. Như: cố tật cờ bạc rượu chè, chè chén say sưa, rong chơi mua sắm, hút sách bạo động. Mê làm việc, nhậu nhẹt phá phách. Chích choác kích-dâm, đỏ đen/cá độ hoặc chuyện trò trên mạng liên-hồi không dứt. Nhất nhất, đều là biểu-hiện thời thượng của hành vi o ép, thúc giục.

Các lề-thói nghiện-ngập nói trên, vẫn dày vò tâm-can con người thời-đại, không ít. Điều này chứng-tỏ, đã có ảnh-hưởng lên sự tự tin, lòng quả-cảm. Hoặc, bản chất di truyền, của bản thể. Một trong những câu nói diễn-tả trạng-huống khó tả của lề-thói o-ép, thúc-giục, là: tâm-tình hát lên thành tiếng “không biết vì sao tôi buồn”…Buồn tình, buồn đời nên vội tìm đến chốn không ngủ yên. Cứ thế bế-tắc rồi lại rơi vào bế-tắc, trầm-luân lại tìm chốn trầm-luân.

Chính vì thế, chẳng lạ gì khi có nhiều người tự thấy vẫn cô đơn, bơ vơ, đơn lẻ. Dù, trên thực tế, họ đang ở giữa chốn phồn-hoa, vui nhộn. Thậm chí, có người còn tìm cách phá hủy vài cơ phận trong người mình, để lẩn tránh cô-đơn. Không tìm ra đoạn kết, của mọi việc.

Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh, rằng: ta phải chấm dứt hành-vi tự-hủy và tìm đến giải-pháp chữa chạy, bằng ba phương-án tích-cực.

Trước hết, làm những gì có ích, có lợi để giữ mình. Có người lại tìm đến những giải-pháp khác thường. Quyết hàn-gắn cuộc đời bằng những gì thuộc phần sầu-lắng, nội-tâm. Khả dĩ sắp xếp lại mảnh vụn đời mình, về với nhau. Không cần biết việc ấy có được người khác chuẩn thuận hay không. Có thích hợp với niềm tin đi Đạo, hay không. Miễn là giải pháp ấy không đưa họ về với lề thói hủy hoại, là được rồi. Phương án này tựa như lập trường Chúa nói: “ai không chống ta là ủng hộ ta”. Ai không phản ta, là bạn ta.

Thứ đến, là phương-án chấp-nhận để người khác giúp mình. Chẳng ai lại có thể đơn-thương/độc mã, chiến-đấu mãi cả một đời người. Đây, là giải-pháp áp-dụng hiên-ngang 6 bước trong tiến-trình điều nghiên cai rượu, cai thuốc. Phương-án này được hiểu là thái-độ chia sớt gánh nặng. Để, chấm-dứt lề-thói không hay, của nhau. Bạn bè, người thân chẳng thể nào hiểu được hết những khúc-mắc nơi thái-độ của mình, nếu người ấy không có kinh-nghiệm chuyên-môn, để giải-quyết.

Bởi vậy, người mắc thói-tật nghiện-ngập vẫn cần lời khuyên thích-đáng của chuyên-viên, nhà nghề. Cũng cần nghe theo lời khuyên của những người có kinh-nghiệm chữa-trị. Và, sự giúp đỡ cũng như nương-tựa, đỡ-nâng nhận được từ người đạo-đức/chức-năng, rất chuyên-môn, như chén nước tươi mát được Chúa nói đến ở trình-thuật.

Thế kỷ 16, thánh I-Nhã thành LoyÔLa từng khuyên-dặn: nếu ta biết tự kiểm-điểm để xem tại sao, ở đâu, khi nào, làm cách nào và mình có thói-quen nào, hay theo ai, khiến mình dễ rời xa tình thương yêu của Đức Chúa, thì khi đó ta mới tìm được lý-do: sao ta làm thế? Và nhờ vậy, mới chuyển đổi thói quen đúc sẵn.

Thành thử, nếu cứ ngồi đó mà than “tình đời thay trắng đổi đen”, thì e rằng sẽ còn quá nhiều nước, để mãi mãi sẽ không kịp tát.

Và, nếu như ta cứ mải nói “không” với mọi chuyện, ta sẽ chẳng còn biết ra được chính mình, như là mình. Biết mình như là mình, hoặc biết mình là ai, chứ không phải: mình muốn mình là ai, mình muốn mình ra sao, cũng mặc!

Và, nếu cứ nóĩ  “không” với hết mọi chuyện, kể cả chuyện có được phương-án tích-cực, để giải-quyết yêu-đương hoặc thói-tật o-ép, ta sẽ không còn cơ-hội chọn-lựa cho cuộc sống được tốt hơn. Một chọn-lựa khả dĩ biết đặt sự sống lên trên mọi hủy-họai, chết-chóc. Và, cuộc sống sẽ đưa đời mình đi vào ngõ cụt khác.

Thành thử, vào với Tiệc thánh hôm nay, ta quyết-tâm tìm cho được phương-án tích-cực. Tích-cực hơn, để không còn nói  tiếng “không”, như thế nữa. Nhưng, sẽ tích-cực mà chọn-lựa cuộc sống, đặt lên trên hết mọi sự dữ/ác thần.

Trong cảm-nghiệm như thế, nay tạ hát lại lời thơ ngâm mãi vẫn ở trên, rằng:

“Mải vui tìm cành hoa trên cánh bướm,

Ai đưa ta lạc đến nước non này.

Mùi cỏ lạ thơm như mùi nhụy chớm,

Cùng tiếng tiêu đồng hợp-chất nồng say.”

(Hàn Mặc Từ – Duyên Kỳ-ngộ)

Duyên kỳ ngộ, hay “cành hoa trên cánh bướm, (đưa nhà thơ) lạc bước nước non này”, đều là tâm-tưởng của con người có được hạnh-phúc chốn nồng say, đầy những duyên. Vẫn mong rằng người nhà Đạo chúng ta cũng sẽ tìm được mối phúc hạnh ra như thế, ở trên đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 9:38-43, 45:47-48)

Khi ấy, ông Gioan nói với Đức Giêsu:

Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.

Đức Giêsu bảo:

Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

Văn Hào, SDB

Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế.”  Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục.  Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “Yêu thương để phục vụ”… nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.  Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.

Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9, 35).  Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).

Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức.

Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu.  Ngài nói: “Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn.”  Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người.  Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo.  Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất.  Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa.  Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa.  Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ.  Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng.  Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam.  Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân.  Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.

Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable).  Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó.  Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường.  Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5, 5-6).  Qủa thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).

Khiêm nhường: linh đạo Thập giá.

Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá.  Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34).

Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế.  Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá.  Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất: Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.  Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ.  Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt.  Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì.  Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên.  Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá.  Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37).  Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội.  Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ.  Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.  “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời.  Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18, 2-4).  Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến.  Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội.  Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ.  Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi.  Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.

Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu.  “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời.  Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại.”  Thánh Marcô xác nhận: “Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9, 32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan.  Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh.  Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu.  Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn.  Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào.  Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20).  Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay.  Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).

Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá.  Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài.  “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Đời tôi tiến bước như một con lừa.

Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình.  Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả.  Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa.”  Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh.  Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài.  Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón.  Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó.  Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi.  Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than.  Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần.  Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi.  Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy.  “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế.  Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình.  Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha.” Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)

Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo.  Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng  khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới.”  Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình.  Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục.  Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình.  Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân.  Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014).  Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.

Kết luận : Tôi tớ của các tôi tớ

Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu.  Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa.  Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình.  Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắngsự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu.”  Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ).  Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?

Văn Hào, SDB

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa, Con Đây!

Cao Gia An, S.J.

Lạy Chúa
mỗi khi có dịp bước chân vào nhà thờ
rất nhiều bạn bè không công giáo hay hỏi con:

Tại sao ở giữa lòng ngôi thánh đường đẹp đẽ như thế
lại là cây Thập Giá, treo một con người chết trần trụi?
tại sao ở nơi trang trọng và tôn nghiêm như thế
lại đặt hình ảnh tột cùng của sự khổ đau
của thất bại, của nát tan, của cái chết?…

Thập giá là hình ảnh lý tưởng
của một sự từ bỏ hoàn toàn và mất mát vĩnh viễn
của một lời một mời gọi và chất vấn không ngừng
cho những người dám bước theo Chúa.

Lạy Chúa, con đã làm gì, con đang làm gì,
và con sẽ phải làm gì cho Chúa?
Xin dạy con chiêm ngắm không ngừng
Đấng chịu đóng đinh trên Thập Giá
Đấng đã dám liều mình chết đi vì yêu con,
để từ nơi cội nguồn Thập Giá
con không chỉ học được cách sống
mà còn học được cách chết,
chết để cho nhiều người khác được sống.

Xin cho con đủ can đảm và trung thực để nhận ra:
nếu Thập Giá của Chúa không được đặt ở trung tâm
của trọn vẹn đời sống đức tin của con thì việc bỏ mình

vác thập giá mình mà theo Chúa chỉ là một lý thuyết

bóng bẩy và đẹp đẽ, nhưng lại chẳng có một âm hưởng thực tế nào!
Ước gì cách con đón nhận Thập Giá mỗi ngày
là một lời chứng sống động và hữu hiệu
về tình yêu, về giá trị cứu độ của Thánh Giá Chúa.

Cao Gia An, S.J.

ĐỨC MẸ SẦU BI

ĐỨC MẸ SẦU BI

LM Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

Hôm nay, chúng ta cử hành lễ nhớ “Đức Mẹ Sầu Bi”.  Như thế, trong đời sống của Đức Mẹ, cũng có những điều sầu bi, như trong đời sống của tất cả mọi người chúng ta.  Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ tôn vinh Đức Maria, Mẹ của chúng ta, nhưng hầu như luôn luôn là vì những ân huệ lớn lao Thiên Chúa ban cho Mẹ (chẳng hạn ơn vô nhiễm, ơn lên trời, ơn làm Nữ Vương…), hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ (Sinh Nhật, Truyền Tin, Thăm Viếng…)  Chính vì thế mà, lễ Đức Mẹ Sầu Bi là một ngày lễ rất đặc biệt, bởi vì lễ này mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Mẹ, với một khuôn mặt rất đời thường, và vì thế rất gần gũi với chúng ta: Đức Mẹ Sầu Bi, và chúng ta cũng sầu bi, không phải một lần, nhưng nhiều lần trong cuộc đời!

Vậy chúng ta đã có và đang có những sầu bi nào?  Tuy nhiên, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi hướng về Đức Mẹ và “suy chiêm” những đau khổ của Mẹ.  Bởi vì, những đau khổ của Mẹ sẽ làm cho chúng ta hiểu biết Mẹ hơn và như thế, yêu mến Mẹ nhiều hơn.  Ngoài ra, những đau khổ của Mẹ còn soi sáng và dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống đầy khổ đau này.

Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ

Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo Hội thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”.  Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta.  Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8).  Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:

1.     Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.

2.     Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)

3.     Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)

4.     Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)

5.     Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19, 25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.

6.     Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)

7.     Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)

Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.

Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ.  Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.

Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.  Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ.  Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn…, thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ.  Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?

Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài.  Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu.  Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi.

Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá

Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.

Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị.  Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững.  Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá.  Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi.  Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói:

–       Thưa Bà, đây là con của Bà.

Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái.  Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến.  Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.

Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh.  Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống:  Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc.  Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.

Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.

LM Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”

(14.9.2015 – Thứ Hai – Lễ Suy Tôn Thánh Giá)

Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
(Ds 21, 4b-9 và Ga 3, 13-17)

4 Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn.5 Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.”

6 Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết.7 Dân đến nói với ông Mô-sê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân.

8 ĐỨC CHÚA liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.”9 Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.

13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

BA CUỘC ĐỜI – BA CÁCH CHẾT

BA CUỘC ĐỜI – BA CÁCH CHẾT

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá.  Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau.  Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa.  Một người bên hữu được gọi là trộm lành.  Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ.  Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau?  Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh.  Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian.  Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu.  Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác.  Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng.  Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu.  Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu.  Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc.  Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai.  Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui.  Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ cho” người mình yêu.  Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua.  Ngài không hối hận vì việc mình đã làm.  Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu.  Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha.”

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân.  Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình.  Nhưng anh là một con người biết phải trái.  Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt.  Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân . Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác.  Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi.”  Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua.  Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình.  Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người.  Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng.  Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi.  Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng.  Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời.  Anh không oán trời, oán đất.  Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi.  Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân.  Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân.  Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ.  Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh.  Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá.  Anh đòi quyền sống.  Sống để hưởng thụ.  Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình.  Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình.  Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn.  Thập giá làm cho anh đau khổ.  Cái chết làm cho anh nổi loạn.  Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh.  Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình.  Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau.  Có người chấp nhận thập giá để đền tội.  Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân.  Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời.  Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta.  Nhưng dù con người có muốn hay không?  Thập giá vẫn hiện diện.  Thập giá của bổn phận.  Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường.  Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người.  Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân.  Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.  Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người.  Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa,
con hay có cái nhìn bi quan về cuộc sống.
Dù ở góc độ nào hay hoàn cảnh nào
con cũng thấy cuộc đời đầy những gam màu buồn
với những vệt mờ và bóng tối
những bế tắc và cùng túng
những rác rưởi và cặn bẩn…

Nhưng Chúa ơi,
là cuộc sống đã quá bẩn
hay vì ánh mắt con đã bị nhiễm bẩn quá nhiều
bởi những mặt trái của cuộc sống?
Là cuộc đời quá u buồn ảm đạm,
hay vì thói quen bi quan và yếu đuối
vốn đã là một phần cố hữu trong cái nhìn của con?

Nếu cuộc sống được con dựng nên như một pháo đài
rồi tự giam mình trong một góc cùng túng nhỏ hẹp
trong thái độ thụ động của cố chấp và bảo thủ,
nếu con đánh mất khả năng lắng nghe và học hỏi
chỉ biết xét đoán và kết án
chỉ biết thất vọng và bi quan,
thì không phải là con đang sống
nhưng là đang chết đi từng ngày…

Xin thánh hoá con từ trong cái hình
và thổi vào con tinh thần sống tích cực.
Xin dạy con thắp lên một điểm sáng cho đời
thay vì cứ bi quan và nguyền rủa bóng tối.
Xin tái tạo trong con thiện chí và niềm tin
để con đủ sức băng qua những hoang lạnh mờ tối
mà tìm về vùng trời nắng ấm của cuộc đời.

Tác giả: Minh Gian
http://dongten.net/noidung/52933

TƯỞNG LẦM

TƯỞNG LẦM

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

Trích EPHATA 658

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời.

Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu Thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc ? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc.

Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình.

Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật. Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc Nước Trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (2)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (phần 2)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Nữ Thánh Rita Cascia

(Nữ Thánh Rita Cascia)

Thánh Rita Cascia (1381-1457) 76 tuổi, người nước Italia (Ý), nữ tu Dòng Thánh Augustinô. Thánh Rita sinh năm 1381, tại thành Cascia thuộc tỉnh Umbria, nước Ý. Cha mẹ có tinh thần đạo hạnh, cảm ơn Chúa đã cho sinh con như món quà quí.

Cô muốn dâng mình đi tu, nhưng cha mẹ lại bắt cô lập gia đình. Ban đầu cô hơi bực mình, nhưng Rita hiểu đây là Ý Chúa, nên cô bằng lòng. Rita kết hôn năm 12 tuổi, với một thanh niên quý tộc. Anh ta là người khô đạo, thường xuyên hành hạ vợ mình. Tuy nhiên, với tâm hồn đạo hạnh, Rita vẫn yêu thương, làm tròn bổn phận của người vợ.

Cuối cùng, vì đức hạnh của Rita, người chồng đã thay đổi nếp sống và tận tâm yêu mến bà. Đời sống gia đình kéo dài được 18 năm. Chúa đã chúc lành cho Rita và cho bà sinh 2 con trai. Bà trở thành người vợ và người mẹ tốt lành tận tụy.

Vì có sự bất hòa trong đại gia đình dòng họ, một hôm, chồng bà đã bị kẻ thù giết chết, bà rất đau khổ, nhưng trong tinh thần Công Giáo, bà tha thứ cho kẻ thù đã giết chồng.

Hai con trai của bà khi đến tuổi được phép mang khí giới, không giống như mẹ, chúng quyết tâm nuôi mộng giết kẻ thù để trả hận cho cha mình. Bà lại đau khổ, khuyên can các con và vì biết không thể làm lay chuyển được kế hoạch giết người của chúng, bà đã ngày đêm cầu xin Chúa cất chúng về khi chúng đang còn trong ân sủng của Chúa và chưa phạm tội ác. Chúa đã nhận lời bà. Trong một năm, cả 2 đứa lìa đời.

Sau khi con chết, bà xin vào tu trong nhà dòng nữ Augustinô ở Cascia, nhưng nhà dòng đã 3 lần từ chối không nhận bà. Bà tha thiết cầu nguyện đêm ngày xin Chúa cho bà được thuộc về Chúa như người Bạn Trăm Năm. Sau cùng, 3 vị thánh (Gioan Tẩy giả, Augustinô, Nicholas Tolentino) hiện ra dẫn bà tới nhà Dòng Madalena, đưa bà vào trong, bà mới được nhận vào tu.

Trong 40 năm ở nhà dòng, bà sống trong cầu nguyện và chiêm ngắm, hầu hạ người bệnh và người nghèo, làm việc tay chân được bề trên chỉ định. Bà ước ao chia sẻ những khổ đau cùng Chúa Kitô nên sau 25 tu, Chúa đã ban cho bà được chia sẻ một chút là cho một cái gai trong mũ gai của Chúa cắm vào trán bà. Từ đó, trên trán của bà có vết thương rướm máu.

Các bề trên của bà nghĩ rằng đó là hiện tượng bệnh phong cùi, nên tách riêng bà ra khỏi cộng đoàn nhà dòng và cho bà sống trong một căn phòng nhỏ trong góc tu viện. Bà mang vết thương nầy trong 15 năm, âm thầm chịu đựng ngày đêm và cảm tạ những ơn Chúa Giêsu Kitô đã đặc biệt ban cho bà. Bà bị đau đớn khổ sở cho đến lúc nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng 5 năm 1457.

Người ta gọi bà Thánh Rita là “Người đem hòa bình, Thánh của những trường hợp vô vọng, Bà Thánh xin nhiều quá” (“Peacemaker”, “Saint of the Impossible”, the “Saint Who Asks Too Much”).

Năm 1900, bà được phong thánh, và được coi như “Viên ngọc quí của thành Umbria”. Lòng sùng kính Nữ Thánh Rita không những lan ra khắp nước Ý mà còn ra nhiều nước khác, nêu gương cho phụ nữ mọi thời, mọi nơi, qua nhiều giai đoạn…

III .- ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA

Ngoài những trường hợp đặc biệt như Thánh Sư Huynh André Bessette và Nữ Thánh Rita Cascia, những giáo dân bình thường như các NT DB, LVC và NĐN trình bày trên đây, đã được Chúa Quan Phòng an bài sống đạo trong cuộc đời thường theo đường lối của Ngài mà không ai hiểu được.

Tu xuất

Ba NT đó thuộc Hội CCSHHN. Ba Vị đã có một thời gian tu học ở Chủng Viện An Ninh thuộc Tổng Giáo Phận Huế.

Sau nhiều năm tháng tìm hiểu ƠN GỌI của mình, qua sự cầu nguyện và tự vấn lương tâm, cũng như nhiều buổi tham vấn với các linh mục linh hướng, quý Vị nhận rõ Thánh Ý Chúa  muốn quý Vị thay đổi hướng đi của đời mình nên đã hồi tục và sống đạo giữa giòng đời, làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

Vậy những giáo dân xuất thân từ những chủng viện hay những dòng tu thường được gọi là “tu xuất”. Từ ngữ nầy mang ý nghĩa “tiêu cực” hay “tích cực” tùy theo tầm nhìn khác nhau.

Theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và qua bí tích rửa tội, người tín hữu Chúa Kitô trở nên “giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa  để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh  em ra khỏi miền  tối tăm  vào nơi  ánh sáng diệu huyền. Xưa anh  em chưa phải là một dân. Nay anh  em đã là dân của Thiên Chúa; xưa anh  em chưa được hưởng lòng thương xót (của Chúa), nay anh  em đã được thương xót” (1 Pr 2: 9-10).

Và cũng theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Tuy nhiên, sống trong Giáo Hội, người tín hữu không có chung một chức năng và nhiệm vụ  như nhau. Ngược  lại, theo Thánh Phaolô,  thì  “anh  em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác…” (1 Cor 12: 27-28).

LM Ngô Tôn Huấn còn nhận xét:

Giáo dân là thành  phần Kitô hữu  đông đảo nhất trong Giáo Hội không thuộc về hàng giáo sĩ  hay tu sĩ, nhưng nhờ phép rửa “đã trở nên Dân Thiên Chúa  và tham dự vào  chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phần vụ riêng của mình” (Ánh Sáng Muôn Dân, 31)

Vì vậy, các giáo dân “tu xuất” mà trong phạm vi bài viết nầy là những Cựu Chủng Sinh, cách riêng các CCS Tổng Giáo Phận Huế, đang sống Ơn Gọi của mình theo nhiều cách thế khác nhau, theo “những đồng bạc” mà Chúa trao ban cho họ để làm sinh lợi.

Có người là Giáo Sư Đại Học, Khoa Học Gia. Có người là Bác Sĩ, Nhạc Sĩ, Văn Thi Sĩ, Kỹ Sư, Luật Sư, Bình Luận Gia…Có người chỉ là giáo dân tầm thường trong các Giáo Xứ, đảm trách những phần vụ như Giáo Lý Viên, dạy Việt ngữ hoặc thực thi công tác truyền thông trong Giáo Xứ, có khi trên bình diện quốc gia hay quốc tế…   Nói chung đại đa số sống đời sống giáo dân tốt đẹp để làm “Chứng Nhân cho Chúa giữa giòng đời” theo những ân huệ họ được nhận lãnh trong những năm tháng ở trong nhà Chúa! Họ là những cánh tay “nối dài” của các giáo sĩ.

Họ thực hành điều mà theo LN Ngô Tôn Huấn: “Tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm, nhưng cả bốn thành phần giáo sĩ, tu sĩ  và giáo dân (bậc độc thân và bậc có gia đình)  đều chung sứ mạng loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho những người chưa nghe biết, để tất cả đều được hy vọng cứu độ vì “Thiên  Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tim 2:4).

Gương Chứng Nhân của Song Thân Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Trong bài “Tựa” quyển sách “MỘT TÂM HỒN”, Kim Thiều viết tại Quần Phương, ngày 24/4/1948 như sau:

Tháng 9 năm 1843, trên con đường dốc và gồ ghề lên nhà Dòng Thánh Bernard xây trên ngọn núi, người ta trông thấy bước đi không nhọc, một thanh niên trạc độ 20 tuổi, dáng bộ rát tư lự và như đang mơ mộng đắm theo một lí tưởng cao khiết của đời sống, đôi mắt nhìn sâu và đượm vẻ rầu rầu, tỏ lộ một tính tình ôn tồn hoà nhã.

Phong cảnh đẹp oai hùng và tráng quan chiêm của dãy núi Alpes, làm nẩy nở trong tâm hồn người trai tráng hàng trăm nghìn tư tưởng quảng bác. Nguồn cảm dũng ứa lên như nước triều dâng, xúc động tấm lòng tri ân Đấng Thiên Chúa uy quyền phép tắc, người thanh niên tấm tắc khen ngợi….. phải dừng bước giờ lâu và để rơi những giọt ngọc… Rồi lại bước đi, đi tới ngọn non xây nhà Dòng. Nhà Dòng như ngọn hải đăng tung ra xa xa tứ phía ánh sáng hi vọng và bác ái.

Cha Bề Trên Dòng phải ngẩn lạ khi nhìn người khách trẻ trung đến thăm: hình dung đẹp oai, nét mặt thẳng thắn, tỏ rõ một linh hồn trung chính và to lớn. Cha tiếp đãi rất lịch thiệp. Cha vấn an quí thân phụ, quí quán và quí danh. Qúi danh cậu là Louis-Martin, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 ở thành Bordeaux nơi từ mẫu ở hồi hiền phụ sung chức Đại Uý trong đoàn quân pháo thủ binh giặc ở Tây Ban Nha. Hiện nay gia quyến ở tỉnh Alencon, mà cậu là trưởng tử.

(Chân Phước  Louis Martin – Thân Phụ Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Có phải vì muốn du lịch, muốn lên thăm nhà Dòng mà người trai anh tuấn kia bước đi đường miền cảnh đẹp như ru, nhưng xa xăm và hiểm trở? Từ Normandie đến Suisse nhiều lần phải chống gậy dò từng bước. Không, không phải người thanh niên ấy muốn du lịch, muốn đến xin tạm trú một đêm ở ngọn núi hiu quạnh này đâu. Người thanh niên muốn xin ở tu trọn đời.

Cha Bề Trên hỏi :

Cậu đã học mãn khoá La tinh chưa?

– Lạy cha, chưa.

– Đáng tiếc thật, đó là một điều kiện cốt yếu để nhận vào Dòng, nhưng cũng không lo, cậu về học thêm và sau đó chúng tôi sẽ hân hạnh được nhận cậu.

Người khách bất mãn của chúng ta lộn đường trở xuống. Ngày ấy cuộc đời cậu đáng gọi là cuộc lưu ly; nhưng trong tâm trí cậu đã cảm thấy rằng: Dòng Thánh Bernard chỉ là kỉ niệm êm ái trong cuộc đời cậu. Cuộc đời cậu, Đức Chúa Trời đã có một chương trình khác.

Cũng trong thành Alencon, mấy năm sau, một buổi sáng mát dịu dàng, trên đường phố trở lại Dòng thánh Vincent de Paul, ngọn cây, ngành cây hai bên vỉa hè rung rung theo gió, xô đi giồ lại như giùng giằng… ngần ngại… một thiếu nữ dáng thuỳ mị nết na, gương mặt tươi tỉnh gợn nhiều nét đoan chính và can trường, tên cô là Marie-Guérin (Marie-Azélie Guérin Martin), cùng với bà mẹ nhẹ nhàng gót sen bước lại phía nhà các bà Sơ (Soeur). Lòng thiếu nữ ôm đã lâu một chí tu tác, nhưng chợt trông thấy cô, bà Bề Trên được ơn soi sáng ngay, nên sau mấy lời niềm nở cười nói chào hỏi, bà trả lời dứt khoát rằng: Chúa không muốn.

(Chân Phước Marie-Guérin – Thân Phụ & Thân Mẫu Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Cô Marie-Guérin ngậm ngùi trở lại nhà, ở cùng chị cả và một em trai – người em trai này được nhắc đến nhiều lần trong Truyện Một Tâm Hồn.

Hiểu là việc tu không thành, cô thiếu nữ không nghĩ gì đến tu nữa. Ngày đêm cô thầm thì trong lòng lời cầu xin chất phác này:

“Lạy Chúa, con không dám làm bạn trăm năm Chúa như chị con, con vui lòng kết duyên trao ngãi với người thế gian đề hoàn thành ý Chúa. Trong bậc vợ chồng, xin Chúa cho con được sinh nhiều con cái: con sẽ cho đi tu hết.”

Chúa đã để dành cho cô một thanh niên xứng đáng trao gửi hồn xác mà chúng ta vừa đọc trên. Và một ngày đã định, ngày 13 tháng 8 năm 1853, trong nhà thờ Đức Bà thành Alecon, ngươi ta thấy cử hành trọng thể lễ cưới cô Marie-Guérin đẹp duyên cùng cậu Louis-Martin.

Chính chiều ngày lễ cưới, Louis-Martin đã tỏ ra lời tâm huyết cùng bạn trẻ: mình ước ao gìn giữ và chỉ yêu dấu bạn như em yêu dấu nhất thôi… Nhưng qua mấy tháng tâm tình trao đổi, Louis-Martin hiều thấu tâm ý bạn, mơ ước bạn, thì đã đồng tâm hiệp ý cùng bạn ước mơ thấy có đàn con nhởn nhơ nô chơi để vui ấm cửa nhà và rồi cho đi tu hết. Lúc ấy, như thánh Tobias, đã có thể cầu xin cùng Chúa:

Lạy Chúa, Chúa biết lòng tôi, tôi đi kết bạn chỉ vì ao ước có dòng dõi để chúc tụng Chúa đời đời

Tổ uyên ương ấy nở được 9 bông hoa trắng: 4 bông vừa nở, thiên-đàng ngắt ngay lấy đem về làm cảnh, còn 5 bông sau lần-lượt hái dâng cho hai dòng: Dòng Kín và Dòng Thăm-Viếng.

Têrêsa là út của 6 chị 2 anh: chị Louise, chị Pauline, chị Hélène sống có 4 năm, chị Céline, chị Mélanie-Thérèsa sống được 3 tháng. Hai anh: Louis được 5 tháng và Jean-Baptiste được 9 tháng thi mất cả.

……

(Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Về cô gái út này, một văn hào giá trị đã viết:

Têrêsa là một vị truyền giáo lạ lùng của đời này, có tiếng nói đanh thép và vô địch, có cuộc đời vui tươi và dịu ngọt mãi, linh hồn nào đã có lần được nếm mùi dịu ngọt ấy quyết không còn muốn giam cầm mình trong vũng nước bùn lạnh hôi tanh tội lỗi.”

Về cha mẹ của Têrêsa, một cha dòng Tên đã viết trên đầu cuốn truyện MỘT TÂM HỒN dịch sang tiếng Bồ Đào Nha trước nhất lời đề tặng này:

Muôn đời kính nhớ thân phụ phúc hậu chị Têrêsa Hài Đồng GIÊSU, đáng là mô phạm cho bậc làm cha mẹ trong các gia đình Công giáo”.

Câu đề tặng đó, đủ để khen ngợi quý thân phụ Têrêsa, khen ngợi cái tinh thần truyền giáo muôn cách cũng bằng khen ngợi cái tinh thần giáo hoá đàn con nên lành thánh.

Hai Ông Bà Louis và Marie-Azélie Martin được tuyên bố “Bậc Đáng Kính” ngày 26 tháng 3 năm 1994 bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Họ được phong Chân Phước ngày 19 Tháng 10 năm 2008: Đức Hồng Y Jose Saraiva Martins – Đặc Sứ của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – chủ sự thánh lễ phong Chân Phước trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Têrêsa ở thành phố Lisieux.

Ngày 27 tháng 6 năm 2015, tại một Hội Nghị Công giáo của các Hồng Y ở Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn nghị định phong Thánh cho Chân Phước Louis và Chân Phước Zélie Martin. Thánh Lễ phong Thánh sẽ được diễn ra vào Chúa nhật, ngày 18 tháng mười 2015 tới đây ở Roma.

Trong mọi hoàn cảnh, Kitô hữu phải luôn luôn tâm niệm Lời Chúa như dưới đây:

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Is 55, 8-9)

Vancouver BC Canada

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

(15/8/2015)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (1)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA ( phần 1)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy.

(Is 55, 8-9)

Hè về! Hè về!

Vào những thập niên 50 – 70, bài hát “Hè Về” của Hùng Lân trở nên quen thuộc mỗi độ Xuân tàn và Hè sang. Những câu hát dễ thương dưới đây thường vang vọng trên cửa miệng của đám học sinh non dại thời bấy giờ:

Trời hồng hồng sáng trong trong

Ngàn phượng rung nắng ngoài song

Cành mềm mềm gió ru êm

Lọc mầu mây bích

Ngọc qua mầu duyên

Đàn nhịp nhàng hát vang vang

Nhạc hoà thơ đón hè sang.


Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ

Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ

Hè về gieo ánh tơ.

Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh đo trời

Phân vân đôi mái chèo lữ thứ thuyền ai biếng trôi

Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo dốc chân đồi

Thanh thanh hương sen nồng ướp gió trắng khi chiều rơi.”

…….

Ở Bắc Mỹ, “hè về” là dịp cư dân miền Tây đi du lịnh miền Đông vì khí hậu mùa hè ở đây dễ chịu hơn thời tiết băng giá mùa đông!

Trong bối cảnh đó, mỗi dịp hè, tôi thường “thiên di” từ miền Tây sang miền Đông Canada để thay đổi không khí, đồng thời thăm viếng gia đình sinh sống nơi đây. Mùa hè nầy, tôi “thiên di” một tháng (giữa tháng 7 – giữa tháng 8/2015).

I.- THÀNH PHỐ MONTREAL

Thành Phố với trăm tháp chuông

Điểm dừng chân đầu tiên của tôi là Thành Phố Montreal, vốn rất thân quen với tôi. Từ thời xa xưa, Thành Phố Montreal được mệnh danh là “Thành phố với trăm tháp chuông” (Ville aux cent clochers), vì rải rác trong Thành Phố, xuất hiện rất nhiều ngôi thánh đường Công Giáo.

Montreal là thành phố thuộc tỉnh bang Québec – cái nôi của Giáo Hội Công Giáo ở Bắc Mỹ. Rất nhiều con đường ở Montreal còn mang tên các vị Thánh Công Giáo.

Đền Thánh Giuse Montreal và Thánh Sư Huynh André Bessette

(Đền Thánh Giuse Montreal)

Khi đến Montreal, du khách không thể không đi kính viếng Đền Thánh Giuse Montreal. Ngoài địa điểm du lịch, Đền Thánh Giuse còn là nơi linh thiêng để nhiều người đến cầu khẩn xin ơn với Thánh Giuse và rất nhiều người được toại nguyện, kể cả những người ngoài Công Giáo.

Ðền Thánh Giuse Montréal gồm nhiều kiến trúc khác nhau, tạo thành một ngọn đồi thánh thiêng chiếm lãnh trên 500 mẫu tây.

Ngay cạnh nhà tiếp đón du khách có một tháp chuông cao với một bộ chuông gồm 56 chuông lớn nhỏ khác nhau. Trọng lượng bộ chuông lên tới 11 tấn. Bộ chuông này do Chính phủ Pháp đặt làm để trang trí trên Tháp Eiffel tại Thủ Ðô Paris, nhưng vì lý do kỹ thuật, nhà sản xuất Paccard et Frères đã dâng tặng Ðền Thánh năm 1955, nhân kỷ niệm 50 năm xây cất Đền Thánh.

Bên cạnh đó là Nguyện Ðường Khấn Thánh Giuse với 8 phù điêu lớn do điêu khắc gia người Canada Joseph Guardo thực hiện năm 1948, theo TÁM tước hiệu mà truyền thống Công Giáo vẫn suy tôn Thánh Giuse: Ðấng Bảo Trợ các Gia Ðình, Bổn Mạng giới Thợ Thuyền, Đấng Bảo Trợ các Tâm Hồn Thanh Khiết, Bổn Mạng Người Chết Lành, Đấng Nâng Ðỡ những ai Ðau Khổ, Niềm Hy Vọng của Bệnh Nhân, Đấng Xua Đuổi thần dữ và Ðấng Bảo Trợ Giáo Hội.
Dọc theo hành lang nguyện đường, treo la liệt trên tường hàng ngàn chiếc nạng, và những bia đá cẩm thạch mà các người hành hương đã để lại hầu tri ân Thánh Giuse, vì họ đã được lành bệnh lạ thường nhờ sự chuyển cầu của Thánh Nhân trước tòa Chúa.
Từ hành lang nguyện đường nhỏ, tiến sang phía tay phải là ngôi mộ lớn bằng đá cẩm thạch màu đen huyền, nơi an nghỉ của Sư Huynh André. Vì có quá nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời chuyển cầu của thày André, nên Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn Thày lên bậc Chân Phước ngày 23 tháng 5 năm 1982. Và Đức Biển Đức XVI suy tôn lên hàng Hiển Thánh ngày 17/10/2010.

(Thánh Sư Huynh André Bessette)

Bên cạnh đó là Nhà Thờ Hầm (The Crypt Church). vì nằm dưới Vương Cung Thánh Ðường, có trên 1,000 chỗ ngồi, được xây cất năm 1916.
Chính giữa cung thánh là tượng Thánh Cả Giuse, cao 2m75, nặng 2, 3 tấn, do nghệ sĩ người Ý là ông A. Giacomini, đã tạc bằng đá hoa cương màu trắng rất quý hiếm gọi là carrara.

Trên những bức tường nhà thờ hầm là những tranh màu bằng kính (The Stained Glass Windows) mô tả những giai đoạn chính trong cuộc đời Thánh Cả Giuse. Ðây là công trình nghệ thuật của hai nghệ sĩ Canada – ông Perdriau và ông O’ Shea – hoàn thành năm 1919.
Từ nhà thờ hầm bước ra là cầu thang máy cuốn để lên trên lầu. Đây là phòng nghỉ chân cho khách hành hương. Bên ngoài là ban công khá cao, có thể phóng tầm mắt để nhìn bao quát thành phố Montréal trước mặt. Phía đối diện là trường trung học Notre Dame, nơi mà Sư Huynh André đã phục vụ như một người gác dan cổng trường trên 40 năm.
Sau đó lên lầu là khu triển lãm nhỏ về cuộc đời Sư Huynh André. Ngoài những bức tranh trên tường chụp căn nhà bé nhỏ tồi tàn Sư Huynh đã cất tiếng khóc chào đời, cho đến những tài liệu, những hình ảnh chụp lúc sinh thời và khi qua đời, người ta thấy có 4 phòng lớn:

– Phòng I mô tả cảnh thày André làm người gác dan suốt 40 năm tại cổng trường trung học Notre Dame (1870-1909).

– Phòng II là văn phòng nơi Sư Huynh đón tiếp và săn sóc các bệnh nhân.

– Phòng III là căn phòng ngủ đơn sơ, có một giường cá nhân, một bàn nhỏ và chiếc ghế, một cái dù (cái ô) đen treo trên tường.

– Phòng IV là một phòng nhỏ bằng sắt mạ đồng, có lan can chung quanh, chính giữa có đặt trái tim đã khô của Sư Huynh trong một hộp nhỏ bằng vàng. Ðây là truyền thống lâu đời của nước Pháp và nước Ý, thường lấy trái tim của các bậc vĩ nhân nổi tiếng để dân chúng tri ân và tôn vinh.
Bên cạnh phòng nghỉ chân là cả một khu vườn rất rộng, cây cối và hoa cảnh cắt xén mỹ thuật, do kiến trúc sư phối cảnh Frederick G. Todd thiết kế để dựng 14 chặng đàng Thánh Giá, với những bức tượng màu trắng rất mỹ thuật do hai nghệ sĩ Ercolo Barieri và Louis Parent tạc bằng đá cẩm thạch quý giá. Những bức tượng 14 đàng Thánh gia này với kích thước như một người trung bình được chiếu sáng ban đêm do một hệ thống ánh sáng do chuyên viên Jean d’Orsay nghiên cứu.

Tại khu vườn này có một tương Chúa Kitô Phục sinh, dưới chân tượng là một hệ thống phun nước khá lớn, giúp người hành hương có những giây phút trầm lặng suy tư về cuộc đời.
Kế đó là Bảo Tàng Viện chiếm cả một khu vực lớn cạnh Vương Cung Thánh Ðường với chủ đề Thánh Gia Thất Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse, chiếm cả hai tầng lầu mênh mông là một công trình thu thập các tác phẩm nghệ thuật quý giá, qua nhiều năm khác nhau, khởi đầu từ khi xây cất đền thờ nhỏ đầu tiên từ năm 1905.
Bước vào bảo tàng viện, người ta sẽ bị choáng ngợp bởi một bức tranh sơn dầu thật lớn do nghệ sĩ André Bergeron thực hiện cùng với rất nhiều tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ Canada và hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Có 2 khu vực khác nhau:

Bảo tàng viện bằng sáp do nghệ sĩ Joseph Guardo thực hiện năm 1955, gồm 10 cảnh sinh hoạt của Thánh Gia Thất, với 76 bức tượng bằng sáp, với kích thước giống như người thật.

Bảo tàng viện Giáng Sinh, bao gồm 330 máng cỏ do các nghệ sĩ của 130 quốc gia trên khắp thế giới thực hiện. Từ chủ đề Chúa Kitô Giáng Sinh, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể đã được các nghệ sĩ của các quốc gia Âu Châu, Mỹ Châu, Phi Châu, Á Châu và Châu Thái Bình Dương tìm nguồn cảm hứng và thể hiện bằng rất nhiều hình thức khác nhau…Những máng cỏ bằng gỗ, bằng pha lê, bằng kiếng, bằng vải, sơn dầu, tranh thủy mạc, bằng sứ, bằng sành v.v… đã nói lên tinh hoa và văn hóa của mỗi dân tộc.

Tại đây có hai bộ hang đá máng cỏ của Việt Nam: một bằng rễ cây đẽo gọt rất tinh vi mỹ thuật và một tranh sơn mài vẽ Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse dưới y phục và dáng vóc người Việt nam. Hai hang đá máng cỏ này do Nhà văn Phạm Ðình Khiêm, Sàigòn, kính tặng bảo tàng viện năm 1992.

Ngoài ra còn có các máng cỏ từng quốc gia như Nhật Bản, Phi Luật Tân, Tiệp Khắc, Pháp, Ðức v.v…

Điểm nổi bật nhất của Đền Thánh là Vương Cung Thánh Ðường kính Thánh Giuse, dài 105 mét, rộng 65 mét, chiều cao từ nền đến mái vòm 60 mét, nếu tính chung từ nhà thờ hầm đến chóp đỉnh thánh giá 319 mét, đường kính mái vòm bên trong 26 mét, mái vòm bên ngoài 39 mét.

Toàn bộ Vương Cung Thánh Ðường cao 263 mét sánh với mặt biển. Đây cũng là ngọn tháp cao nhất thành phố Montréal. Năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 100 năm khởi công xây dựng, chính phủ Canada đã ghi Đền Thánh Giuse Montreal vào sổ các Danh Lam Thắng Cảnh Lịch Sử Quốc Gia.

Quả thật Chúa Quan Phòng thật kỳ diệu, đã sử dụng những con người tầm thường, bé nhỏ, ít học, bình dân như Sư Huynh André – vị sáng lập Ðền Thánh Giuse Montréal – để thực hiện giữa trần gian những chương trình vĩ đại của Ngài.

Sống chứng nhân trong cuộc đời thường

Hai tuần lễ ở Montreal đã mang lại cho tôi một niềm thích thú lớn lao là được diện kiến hai Niên Trưởng (NT) của Hội Cựu Chủng Sinh Huế Hải Ngoại (CCSHHN). Đó là các NT DB và LVC. Hai Vị nầy đã ngoại bát tuần. NT DB tương đối còn khoẻ mạnh và minh mẩn hơn NT LVC.

Tôi gặp hai Vị ở nhà NT DB – một căn nhà khang trang – là nơi NT DB và Phu Nhân sinh sống. Hai Vị có 6 người con và 11 cháu gồm 8 nội và 3 ngoại.

Hằng ngày, các con gái hay con dâu mang thức ăn lại cho hai Vị. NT DB chỉ cắm nồi cơm điện là xong. Riêng Phu Nhân của NT phải ngồi xe lăn. Hôm đó Phu Nhân ngồi xe lăn ở trong phòng ngủ, nhìn ra ngôi vườn phía sau và tràng hạt trên tay. Mỗi ngày không biết Phu Nhân đã lần bao nhiêu tràng chuỗi.

NT DB cho biết hằng ngày con gái/dâu, có khi cả cháu nữa, phụ giúp Phu Nhân tắm rửa. Riêng mùa hè, mỗi khi tốt trời, chiều chiều các cháu nội/ngoại thay nhau đẩy xe lăn đưa Phu Nhân ra đường dạo chơi! Đó là cảnh tượng không phải mọi gia đình VN ở hải ngoại có thể thực hiện được. Tạ Ơn Chúa!

Đối với cả hai NT DB và LVC, tuy đã lớn tuổi, nhưng trang mạng CCSHHN là niềm vui của hai Vị và không ngày nào hai Vị không truy cập.

Riêng NT LVC rất vui mỗi khi vào trang mạng CCSHHN và NT đã đọc rất kỹ những tin tức cũng như những bài chia sẻ trên đó. NT đã đọc với niềm thích thú và ghi nhớ nhiều điều! Một điểm hơi buồn là sức khoẻ của NT LVC không được khả quan lắm: tai nghe không rõ, mặc dù có mang máy thính thị trên tai, đi đứng hơi khó khăn và phần nào hơi lẫn nên các con đã kiếm một viện dưỡng lão thích hợp để NT vào đó ở, kể từ sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, hầu NT được săn sóc chu đáo hơn.

II.- NEW JERSEY VÀ PHILADELPHIA

Trong hai tuần lễ ở New Jersey, Hoa Kỳ, tôi có dịp ghé thăm NT NĐN ở Thành Phố Philadelphia, tiểu Bang Pennsylvania, đồng thời kính viếng Đền Nữ Thánh Rita.

Sống đạo giữa giòng đời

NT NĐN thuộc Hội CCSHHN với 10 năm tù CS vì là một cựu sĩ quan cấp tá của Quân Lực VNCH. Trong lúc NT đi tù, Phu Nhân đã buôn bán tần tảo trong thời gian bao cấp, kinh tế khó khăn, để nuôi 11 người con – 5 trai và 6 gái còn nhỏ dại (không kể một cháu gái qua đời lúc mấy tháng tuổi).

Ngoài việc 7 người con vượt biên 3 lần từ trước, NT, Phu Nhân và 1 người con được qua Mỹ theo diện H.O. năm 1990. Riêng 3 người con đã lập gia đình phải ở lại chờ bảo lãnh và đến Mỹ đầu năm 2001.

Ngoài 11 con, hiện nay NT và Phu Nhân có 11 dâu/rễ, 30 cháu nội/ngoại, 7 cháu dâu/rễ và 7 chắt. Hiện NT có 3 gia đình ở 2 tiểu bang xa, còn lại 8 gia đình các con, 7 gia đình các cháu ở Philadelphia và New Jersey, cách xa nhau khoảng 30 phút lái xe. Con cháu chịu khó học hành và thành đạt.

Sau vài năm định cư tại đây, gia đình NT có ra một Tập san nội bộ “Gia Đình LÒNG MẸ”, tự thực hiện: từ chụp hình, viết bài, ghi lại những tin sinh hoạt gia đình trong tháng, sưu tầm các đề tài giáo dục, lay-out, in ấn và đóng thành tập khá đẹp, mỗi 2 tháng phổ biến 1 số, do NT và các con phụ trách, làm phương tiện liên lạc và giáo dục, đã ra từ số 1 đến số 100. Hiện nay vì NT tuổi già sức yếu nên bài vở liên lạc được thay đổi bằng những tâm tình và lời khuyên qua hệ thống e-mail trên cell phone, giản dị, tiện lợi và nhanh chóng hơn.

Hằng năm, vào những dịp Tết, Giáng Sinh hay sinh nhật của hai Vị, các con bàn bạc việc tổ chức những buổi họp mặt để chung vui cùng hai Vị. Ngoài ra mỗi năm vào dịp nghỉ hè, tất cả đều quy tụ về Philadelphia họp mặt thường niên và cùng nhau chia sẽ những biến cố vui buồn. Khi có việc cần bàn thảo, các con trai bàn việc với trưởng nam, còn các con gái bàn việc với trưởng nữ. Tất cả con cháu dâu rễ đoàn kết và rất thương yêu nhau. Đó là điều rất quí hiếm, một ân ban của Chúa!

Theo lời Đức Cha Giacôbê Giáo Phận Vĩnh Long lúc Ngài còn sống thì NT thực là cha xứ của một Gíáo Xứ thu hẹp, nhưng rất sống động. Đúng là một Giáo Hội bé nhỏ tại gia!

Đến nay được 15 năm, NT và Phu Nhân sống trong một căn phòng đôi thuộc cao ốc Seniors Housing của Chính Phủ Hoa Kỳ, ở tầng lầu 16, nhìn ra con sông Delaware thơ mộng mà bên kia là Tiểu Bang New Jersey.

Căn nhà của NT và Phu Nhân chẳng khác nào một phòng tu ở trong Đan Viện. Hằng ngày, ngoài việc lần hạt, hai Vị đều đọc Kinh Thần Vụ sáng, trưa, chiều và tối.

Riêng Phu Nhân là một thành viên Dòng Ba Cát Minh nên trước đây mỗi ngày Phu Nhân theo gương Cha Thánh Piô lần 40 chuỗi, nhưng nay vì tuổi già nên Phu Nhân chỉ còn lần 12 chuỗi thôi. Vào lúc 3 giờ trưa mỗi ngày, Phu Nhân quỳ gối dang hai tay lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa!

Hằng ngày NT và Phu Nhân tham dự Thánh Lễ ở Đền Nữ Thánh Rita. NT giúp lễ và làm thừa tác viên Mình Thánh Chúa: điều đó phụ giúp các cha ở đây rất nhiều.

Vào mùa hè, chiều chiều NT và Phu Nhân tản bộ nơi công viên gần cư xá, để tăng chất luợng cho sức khoẻ.

Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia

(Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia)

Tại Thành Phố Philadelphia, Tiểu Bang Pennsylvania, nước Hoa Kỳ, có đền kính Nữ Thánh Rita – một trong 3 địa điểm hành hương của Giáo Phận Philadelphia, xây từ năm 1907,  và do các cha dòng Thánh Augustinô trông coi.

Người khởi xướng là linh mục Villanova dòng Thánh Augustinô. Cha có ý định xây dựng ngôi nhà thờ cho giáo xứ 10 ngàn người Ý di cư tới Mỹ ở ngoại ô Thành Phố Philadelphia. Để đặt tên ngôi thánh đường, họ chọn Thánh Nữ Rita là người Ý, mới được phong thánh năm 1900. Các linh mục dòng tổ chức các tuần cửu nhật để giáo dân trong xứ cầu xin và tạ ơn.

Năm 1915, tầng trên Đền Thánh hoàn tất và đã trở thành Trung Tâm Tôn Kính Nữ Thánh Rita trên nước Mỹ.

Ngày nay, sau những thế hệ ban đầu, lòng sùng kính Nữ Thánh Rita vẫn còn tiếp tục và phát triển. Tại đền này, tầng lầu trên là nhà thờ, tầng dưới là đền kính Nữ Thánh Rita.

Hằng ngày có rất nhiều người tại địa phương cũng như từ phương xa đến xin bà Thánh Rita khẩn cầu cùng Chúa cho họ. Vì nhiều người đã nhận được ơn lạ nên Nữ Thánh Rita được mang danh hiệu là “Vị Thánh cầu bầu cho các hoàn cảnh vô phương cứu vãn.”

Nhiều gia đình Việt Nam ở Philadelphia cũng ở trong số những người được Nữ Thánh Rita cầu bàu cùng Chúa nhận lời họ kêu xin.

Địa chỉ của Đền Nữ Thánh Rita:Shrine of Saint Rita of Cascia 1166 South Broad Street, Philadelphia, PA 19146 .

Xin xem tiếp phần 2