Ký Ức về hai ngôi nhà ở Phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội

Ký Ức về hai ngôi nhà ở Phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội

Sài Gòn–Tuần trước Mừng Lễ thánh Têrêsa, tôi nhớ đến hai ngôi nhà ở phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội.

Năm 1984, lần đầu tiên tôi trở lại Hà Nội sau khi đi biệt 30 năm. Ngày ấy trước Đổi Mới, thành phố xưa không thay đổi mấy, chỉ cũ kỹ hơn và nghèo hơn. Lòng người không biết thế nào, nhưng phố xá còn giữ được cái vẻ yên tĩnh có phần trầm mặc tôi thấy rất gợi cảm. Một ngày cùng bạn  bè đi trên phố Nguyễn Thái Học, tôi để ý một ngôi nhà lớn,  trên mái có cây Thánh Giá. Ngày ra đi tưởng không bao giờ trở lại, tôi chỉ là một đứa trẻ ngu ngơ, đâu có biết gì về các cơ sở của Hội Thánh. Nay trở về thì đã có nhiều suy nghĩ. Tôi nghe nhiều, đọc nhiều về những gì xảy ra với Giáo Hội sau bức màn Tre, màn Sắt, sau đó lại còn cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc. Tin tức lọt ra ngoài cho thấy Giáo hội Miền Bắc ở vào tình trạng hết sức tiêu điều, xơ xác. Chuyến đi này tôi mong được thấy tận mắt. Và tôi cho rằng một điều học được trong chuyến đi là Đức Tin đã lưu  truyền như thế nào trong cảnh ngặt nghèo đó. Tôi hỏi ngôi nhà có Thánh Giá trên mái đó ngày trước là gì vậy, các bạn cho biết đó là Dòng Kín Cát minh xưa. Tôi hơi giật mình: thì ra đây là nơi 80 năm trước  thánh Têrêsa  đã muốn tìm đến vùi sâu  cả cuộc đời mình để thầm lặng hy sinh cầu nguyện cho nhiều người được biết Chúa. Xém chút nữa thi đất mẹ Việt Nam đã đón vào lòng mình một vị thánh  lớn.

Ngôi nhà thứ hai trên phố Nguyễn Thái Học có thể coi là láng giềng của Dòng kín Cát minh cũ. Từ chuyến đi năm 1984 ấy, tôi đã quen biết thêm và giữ liên lạc với một nhóm bạn trẻ Hà Nội và được nghe kể chuyện về cô gái ở trong ngôi nhà đó đã gặp Chúa như thế  nào. Đó là câu chuyện về một tai họa nhưng, như có lời đã nói, trong họa có phúc. Cô là con của một vị thứ trưởng, một thành phần được hưởng những ưu đãi về mọi mặt giáo dục, sinh hoạt, giao tiếp và tiện nghi vật chất mà tuyệt đại đa số thanh niên Việt Nam không thể mơ tưởng, đặc biệt trong hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn của miền Bắc thời ấy. Cuộc sống đang đẹp, tương lai đang hứa hẹn lộng lẫy, tuổi trẻ đang giầu những ước mơ trong tầm tay, bỗng đâu tai họa ập tới. Cô mắc phải căn bệnh không thuốc chữa, tay chân càng ngày càng co quắp lại, phải thở bằng máy, cổ phải đục một đường để đưa khí thở vào phổi, và cứ thế tê liệt đi dần dần tháng này qua năm khác. Có thể hiểu được với cô gái đang phơi phới thanh xuân và với cả gia đình, cái đòn định mệnh ấy nó khủng khiếp ra sao. Có thể mường tượng được những uất nghẹn, phẫn chí, tuyệt vọng… Thế rồi những đồ đệ trẻ của Chúa kín đáo, thầm lặng cũng có mặt trong nhóm bạn bè của Mai Trinh, (cô gái ấy tên là Mai Trinh). Cũng chẳng biết họ đã quen biết nhau thế nào, qua chuyện học hành, sinh hoạt…. Họ đã thì thầm chia sẻ tâm sự bên giường Mai Trinh. Họ chẳng qua những khóa huấn luyện giáo lý viên như ngày nay thường tổ chức, chỉ có tấm lòng thành, có sao nói vậy về ngọn lửa đức tin họ vẫn nuôi trong hồn giữa một môi trường nghịch cảnh. Tới một ngày đức tin ấy đã xuyên qua u ám đi vào lòng Mai Trinh.

Có một phép mầu đã xẩy ra: cô gái đau đớn uất hận trên giường bệnh đã thành một người đầy niềm vui bình an, và niềm vui bình an ấy ở lại với cô không đi nữa. Con sâu đã hóa bướm. Căn phòng và giường bệnh của Mai Trinh trở thành điểm hẹn cho một nhóm bạn trẻ rỉ tai nhau tìm đến chia sẻ nỗi niềm. Sự bình an của Mai Trinh lan ra cả gia đình. Cả ông bố thứ trưởng cũng được cô con gái cảm hóa. Ông cũng đã bị bệnh nặng và được chính con gái dội nước rửa tội cho trước khi qua đời. Tân tòng Mai Trinh đã được ơn làm người loan Tin Mừng của Chúa ngay trong gia đình ruột thịt bằng đời sống chứng nhân.

Trở lại Hà Nội vào đầu thập niên 90, tôi nhờ một bạn trẻ dẫn tôi đi thăm Mai Trinh. Chưa gặp mặt bao giờ, nhưng Mai Trinh nói chuyện rất chan hòa. Hình như chỉ cần chung nhau một hướng nhìn đức tin là người ta có thể nói với nhau rất nhiều điều. Câu nói của bà mẹ Mai Trinh cho tôi ấn tượng đậm đà về cả hai mẹ con. Bà nói: “Bây giờ tôi mừng lắm. Bao lâu cháu còn ở với tôi, tôi sẽ săn sóc cháu với tất cả tình yêu thương. Ngày nào cháu đi, tôi cũng sẽ an lòng, vì tôi biêt cháu đi bình an thanh thoát.”

Hai mẹ con khoe với tôi một bức tượng Đức Mẹ, nói là quà tặng của “bác Trần Xuân Bách”. Hồi đó dư luận xôn xao về việc ủy viên Trần Xuân Bách bị trục xuất khỏi Bộ chính trị. Đối với dân thường thì những việc ở Bộ chính trị lúc nào cũng được bao bọc bởi những tấm màn bảo mật rất thâm cung bí sử. Chỉ nghe loáng thoáng rằng ông Bách muốn làm Gorbatchev Việt Nam. Thất sủng vì bất đồng chính kiến ở mức độ đó trong một chế độ không chấp nhận đa nguyên tư tưởng thì đồng nghĩa với hoạn nạn lớn rồi.

Tìm hiểu thêm tôi lại biết ông quê ở Nam Trực, Nam Định, (hóa ra là đồng hương!). Vùng này mật độ và tỷ lệ dân Chúa khá cao. Trước đây ông lại từng giữ chức trưởng ban tôn giáo vận trung ương. Như vậy có thể đoán Giáo hội  đã phải chịu không ít khó khăn dưới tay ông. Nhưng cả đến một người vô thần gộc và quyền thế thì cũng chả  tìm được một món quà nào thích hợp để tặng cho Mai Trinh hơn là bức tượng Đức Mẹ. Thế là một lần đi công tác nước ngoài người vô thần xuất phát từ một vùng mộ đạo thỉnh Đức Mẹ về đem vui cho một cô  gái từ cõi vô thần mà lại phát hiện ra cánh cửa vào cõi Chúa. Thôi thì cũng là một lẽ đương nhiên, có những hoàn cảnh người ta chỉ còn giữ lại “điều duy nhất cần thiết”.

Tôi biết được thêm một điều: từ ngày chịu phép rửa, đã bốn năm năm rồi, Mai Trinh chưa bao giờ được dự một thánh lễ. Luôn luôn sống với một bộ máy thở, bình oxy cồng kềnh, dây nhợ linh tinh thì đến nhà thờ sao được. Hà Nội những năm đó rất thiếu linh mục, mỗi vị phải phụ trách mấy nhà thờ, chẳng thể cử hành lễ riêng cho ai. Tôi thì lại chẳng có việc gì làm,chỉ có thăm gia đình và đi chơi suốt, chứ không được tham gia mục vụ, đã có cảnh cáo rồi. Về Thái Hà thấy cha già Vũ Ngọc Bích sức đã yếu, mắt đã lòa mà ngày nào cũng bận bịu việc nhà Chúa, nhất là thứ bảy và Chủ nhật, rất muốn đỡ đần Ngài một chút mà cũng đành chịu. Tôi nảy ra ý định hay là dâng một thánh lể bên giường Mai Trinh?

Tôi lên tòa Tổng Giám mục trình bày sự việc và xin phép. Đức Giám mục Phạm Đình Tụng trả lời: “Tôi chỉ ngại cho sự an nguy của cha thôi. Nhưng nếu cha thấy làm được thì cứ làm đi.” Sự an nguy tôi lại không ngại, đã bàn với hai mẹ con Trinh rồi.

Tôi xem lại chương trình đi đây đi đó rồi chọn một ngày thuận tiện. Sáng hôm ấy tôi chỉ đi với một bạn trẻ và một túi đồ lễ đến nhà Mai Trinh. Tôi có tật hay lơ đãng không chú ý đến ngày tháng. Đến bên giường Mai Trinh mở sách lễ ra mới giật mình bỡ ngỡ: “Ô, hôm nay là lễ thánh Têrêsa Hài Đồng!” Mai Trinh chợt reo vui: “Thánh Têrêsa là thánh bổn mạng của con đấy!” Có một niềm vui bỗng nhiên vỡ òa. Bàn tay nào vô hình dẫn dắt chúng tôi vậy? Chúng tôi có định trước đâu? Thoáng cảm thấy thánh Têrêsa ở đâu đây đang mỉm cười. Chúng tôi mắc tội lơ đãng, nhưng chị thánh đã sắp sẵn cho cô em Mai Trinh một món quà lớn mừng lễ Bổn mạng. Ý cầu nguyện từ bao năm xưa của chị  cũng là của cả Hội thánh ngày nay vẫn nở hoa trên mảnh đất đã vắng bóng dòng Cát Minh trên phố Nguyễn Thái Học này! Tôi ở lại trong nhà Mai Trinh khoảng một tiếng, nhưng niiềm vui ấy theo tôi cả ngày.

Khoảng ba năm sau, Mai Trinh qua đời. Nhóm bạn trẻ ở Hà Nội xúm nhau lại tổ chức cho Mai Trinh một lễ tang thật ấm cúng, thật “hiệp thông”. Lần đầu tiên tòa Tổng giám mục cho phép cử hành thánh lễ an táng tại tư gia. Tôi ở trong Nam không ra dự được, nhưng các bạn Hà Nội cho xem những tấm ảnh Mai Trinh nằm rất bình an, rất đẹp trên giường đầy những cánh hoa tươi.

Ngày nay kiến trúc cổ của dòng Cát Minh Hà nội (1920) không còn nữa. Chính quyền đã cho phá đi rồi mặc dù tòa Tổng giám mục Hà Nội đã hết sức vận động yêu cầu giữ lại một mảng kiến trúc cổ nào đó mà người Công giáo nhìn về với những tâm tình thiết tha vì nó gắn bó với ký ức thiêng liêng về thánh Têrêsa. Thế gian này, và nhất là xã hội này, đã có quá nhiều tín hiệu về sự vô cảm của nó với những ký ức tâm linh đó.

Trong ngôi nhà gần đấy cũng chẳng còn Mai Trinh nữa, đã đi theo thánh Têrêsa rồi. Những người bạn trẻ của Mai Trinh thì vẫn còn đó, bây giờ đã đứng tuổi cả. Có người là nữ tu Dòng Mến Thánh Giá ở phố Nhà Chung, có người tham gia các công việc ở giáo xứ Hàm Long, có người làm trưởng ca đoàn ở nhà thờ Thái Hà, lại có người lang bạt sang tận nước Mỹ, năm ngoái tôi gặp ở Virginia và vẫn cứ lúi húi làm việc nhà thờ, và còn nhiều người khác nữa tôi không thể quen biết hay nhớ hết. Trong đời thường, họ sống vô danh với xã hội. Nhưng tôi cho rằng không chỉ có gạch đá hay kiến trúc mới tạo nên ký ức tâm linh cho Dân Chúa. Chính họ là những ký ức sống. Những ký ức nhỏ nhoi. Chẳng có gì để ghi vào sử sách, nhưng họp lại thành ra một dòng chảy triền miên, nó kết thành cái tâm, cái tình của người giáo dân trong Hội Thánh Chúa. Tôi nghĩ rằng nên góp phần vun trồng, gìn giữ những ký ức đó trong ngôi vườn Hội Thánh.  Đó là lý do tôi ghi lại câu chuyện này.

Một lý do nữa: đây không phải là chuyện riêng lẻ, nó nằm trong một chuỗi rất nhiều chuyện về những cơn “Mưa Hoa Hồng” mà Dân Chúa khắp nơi truyền tụng về thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, tạo nên một nét đặc sắc khiến cho bao nhiêu tâm hồn tìm đến với vị thánh rất đơn sơ mà lại rất diệu kỳ này. Từ rất lâu tôi đã muốn giới thiệu và đóng góp vào Ký ức lớn ấy mà mãi vẫn chưa làm. Có lẽ một ngày gần đây, tôi sẽ xin trở lại câu chuyện này, nếu Chị Thánh cho phép…..

Mathêu Vũ khởi Phụng, CSsR

T.B. Vừa định gửi bài về trang Chúa Cứu Thế thì được xem trên truyền hình KTO quang cảnh di cốt của thánh nữ Têrêsa và của song thân Người là hai vị Chân Phước Louis và Zélie Martin được tôn kính đặc biệt trong lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám mục ở Đền thánh Phêrô, Rôma và sau đó được rước về Đền Đức Bà Cả cho dân Chúa chiêm bái. Thượng Hội Đồng kỳ này bàn về đời sống các gia đình. Hội thánh tại gia là nguồn ân phúc nhưng cũng đang đối diện với  nhiều khó khăn thách thức. Đức Thánh Cha Phanxicô và các nghị phụ cầu mong sự hiện diện và hiệp thông của một gia đình thánh giữa Hội Đồng. Xin mong chờ nhiều Mưa Hoa Hồng trên các gia đình năm châu.

Chi Nguyen Kim Bang goi

Lời nào muốn nói nhưng chuốc sầu thêm thôi,

“Lời nào muốn nói nhưng chuốc sầu thêm thôi,”

Tình nào buông trôi, như nắng chiều lưng đồi!

Một ngày nắng ấm, xin chấp cánh bay cao

Ðể rồi mai sau, còn ai nói yêu nhau,

Nhạc tình phôi pha, còn ai thấy xót xa

Người về nơi đâu, thung lũng sầu thêm sâu.

(Nguyễn Trung Cang – Lời Nào Muốn Nói)

(Thư Phillíphê 2: 1-5)           

 Trần Ngọc Mười Hai

 Ấy đấy! Có những sự và những việc ở đời với con người, đều như thế.

Đúng vậy! Có nhiều điều, người đời lại những nói cho lung, cho lắm cũng chỉ “chuốc sầu thêm thôi”. Lại cũng có nhiều điều và nhiều sự trên đời, người đời đều nói hôm nay, có thể không chỉ là “nhạc tình phôi-pha”, cuộc đời “thấy xót xa”, mà vẫn cứ là “thung-lũng sầu, thêm sâu”.

Thế đó, là tâm-tình của nhiều người, trong đời. Còn đây, có lẽ cũng là tình-tự của nhiều người ở Nước Trời Hội-thánh, rất hôm nay?

Câu hỏi ở đây, đã và đang là vấn-nạn “khủng-khiếp” được đưa ra nhân có sự-kiện xảy đến ở khung trời biền-biệt bên ấy, rất trời Tây. Ở đây, là khung trời hăng say, nhộn-nhịp một tình-huống có đấng bậc chủ-quản có rất nhiều quyền-uy, quyết ra tay thực-hiện động-tác này nọ để đổi-mới Nước Trời trần-gian, chưa chấp cánh.

Vậy thì, chuyện phiếm hôm nay lại đã thấy ca-từ người nghệ-sĩ trẻ khi xưa, cứ hát rằng:

“Tình nào chấp cánh trên ngõ buồn mong manh?

Tình nào bay cao cho tủi hờn tuôn trào,

Ngại ngùng muốn nói thương nhau quá ai ơi.

Dù đời chia phôi yêu nhau mãi không thôi!

Ngàn trùng xa xôi thương nhau mãi không nguôi,

Trọn đời chưa vơi trong kiếp sầu buông lơi.

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Thế mới biết, hôm nay, ở trong Đạo hay ngoài đời, lại có những tình-huống khiến việc sống Đạo thêm khúc-mắc với hỏi-han, quyết tìm cho ra một đích-điểm khả dĩ khiến lòng người đi Đạo, sống hăng say, êm ả suốt một đời.

Thế mới hay, tâm-tư nhà Đạo nay vẫn “ngổn-ngang trăm mối” như đấng bậc chủ-quản Sydney hôm nào từng nhận ra nhiều điều, như trích-đoạn bên dưới đã bàn về Thượng Hội-Đồng Giám-mục Rôma 2015 đề cập đến “Hôn nhân”, “Gia đình”, cùng chuyện “Đồng tính luyến ái” như sau

“Có lẽ, sẽ không có gì thay đổi nơi giáo-huấn của Hội-thánh Công-giáo về chuyện đồng-tính-luyến-ái, chút nào hết; phi trừ và cho đến khi, ta có thay-đổi trước mắt nơi giáo-huấn về luật-lệ và luyến-ái giữa người khác phái.

 Lâu nay, nhiều cuộc bàn-cãi/tranh-luận vẫn lập đi lập lại rất nhiều lần trong phạm-vi Hội-thánh Công-giáo cứ bảo rằng: Thiên-Chúa tạo-dựng giới-tính con người vì hai lý-do: thứ nhất, mọi người coi đó như phương-tiện để Ngài đem sự sống mới-mẻ của con người đi vào hiện-thực (tức: việc sinh-sản/cùng Ngài tạo-dựng). Và, lý-do thứ hai, là: phương-cách để ta diễn-tả và bảo-đảm việc dung-dưỡng tình thương-yêu giữa các cặp phối-ngẫu (tức: việc thông-đồng/hiệp-nhất trong tạo-dựng).

 Từ đó các cuộc bàn-cãi/tranh-luận lại vẫn bảo, rằng: việc sử-dụng tình-dục là ‘thuận theo thiên-nhiên’ chỉ khi nào việc ấy là để phục-vụ cả hai mục-đích do Chúa ban. Và, cả hai mục-đích ấy thực sự chỉ có thật trong hôn-nhân mà thôi; và chỉ vào lúc ấy mà thôi, khi việc trao thân cho nhau là để mở ra sự sống mới mẻ. Thế nên, tất cả người nào khác nếu lại dễ-dãi trong ăn nằm xác thịt thì đó là điều sai trái về mặt luân-lý đạo-đức.

 Ngay từ đầu, ai cũng đều thấy: bất cứ hành động tình-dục xác thịt đơn-thuần thôi cũng phải mang nghĩa hoà hợp và sinh con đẻ cái, thì khó có thể là Hội-thánh Công-giáo sẽ chấp-thuận hành-động tình-dục xác thịt của người đồng phái-tính. Sách Giáo Hội-thánh Công giáo đề-cập đến vấn-đề này một cách vắn gọn lạ thường, khi bảo rằng: “Hành-động tình-dục giữa người cùng phái-tính đi ngược lại luật tự-nhiên. Nó đóng chặt hành-động tình-dục không còn nhận được quà tặng sự sống nữa. Hành-động ấy, không diễn-tiến từ sự tán-thành/đồng-thuận chân-phương về cảm-tính và dục-tình.

 Giả như đây là điểm khởi-đầu, thì sẽ có rất ít điều để nói. Thành ra, không gì có thể hiểu là sẽ có chuyện đổi-thay liên-quan đến các hành-động ăn nằm dục-tình giữa người cùng phái tính trong giáo-huấn này hết. Và, sẽ là chuyện phù-phiếm/vô bổ để mọi người tìm biết chuyện ấy. Bởi lẽ, chuyện ăn-nằm xác thịt giữa người đồng tính không có yếu-tố sinh-sản ở trong đó như Hội-thánh muốn. Và, nếu giáo-huấn về chuyện ăn nằm xác thịt giữa người đồng tính không bao giờ thay đổi, thì nền-tảng của giáo-huấn về tất cả các sự việc ăn nằm xác thịt phải thay-đổi trước nhất.” (Xem Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Sydnod – The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015, tr. 11-12)                    

     Nghe đấng bậc chủ-quản kể về câu chuyện đã và đang xảy ra nơi Hội-thánh Công-giáo rất nhiều lần, thế mà đấng bậc lại bảo, sẽ chẳng có sự gì xảy ra, sau các buổi bàn cãi với tranh luận. Nghe thế rồi, bọn tôi lại liên-tưởng đến câu truyện tiếu lâm chay/mặn về chữ “hỷ” được treo trong ngày cưới, tưởng chừng dễ hiểu, nhưng không phải. Truyện về chữ “Hỷ” hay yếu-tố đầu ở câu nói về mối thất tình những “Hỷ, nộ, ái, ố, ai, hoan, lạc”, rất như sau:

“Chú rể ngắm nghía phòng cưới xong xuôi, bèn có một nhận-định cũng khá là vội vã với anh bạn thân đang đứng gần rằng:

-Chữ “Hỷ” sao rắc rối thế nhỉ, trông cứ như trận đồ bát quái vậy!

-Rắc rối thế nào cơ chứ? người bạn ngạc-nhiên đáp.

-Thì…có nhiều đường ngang, ngõ dọc nhưng lại toàn là đường cụt không à!

-Cậu đây, đúng là người nhạy cảm. Thôi thì, để sau tuần trăng mật rồi, cậu sẽ thấy nhận xét đó rất đúng thật!”

 Nếu là người đời, để diễn-tả tình-huống sống trong đời hoặc tình đời xảy đến sau ngày vui, người người sẽ bảo: mọi chuyện trong đời đều mang tên của hai anh bạn: một là Vũ Như Cẫn, và người kia là: Nguyễn Y Vân, mà thôi.

Ở nhà Đạo cũng thế, nghĩa là: cũng có tình-huống rất tương-tự bánh xe lịch-sử. Thế nghĩa là, bánh xe cứ quay nhanh cho đến lúc quay về điểm cũ, rất giống hệt vòng đòi quay nhanh quay đều và quay mãi, mỗi thế thôi.

Giòng đời quay nhanh hay chậm, vui hay buồn, lại cũng có những tâm-tình như câu truyện kể rất đáng nể để rồi lại sẽ giúp bạn và tôi, ta suy nghĩ cho lung rồi sẽ thấy đúng. Truyện kể, đơn giản chỉ như sau:

Gurdjieff rất nhớ ông bố của ông. Bố ông chết khi Gurdjieff mới chín tuổi, và là người thân duy nhất của ông. Ông kể bố ông gọi ông lại gần và nói:

-Bố sắp chết, và bố không có gì để lại cho con. Bố bỏ lại con trong nghèo nàn và côi cút. Chỉ có một lời khuyên bố muốn cho con – đó là lời khuyên mà bố của bố đã trao cho bố. Bố đã thấy rằng lời khuyên đó là tài sản giầu có nhất mà bất kì người bố nào cũng có thể cho con trai của mình. Con còn trẻ, có thể chưa có khả năng hiểu được lời khuyên này nhưng hãy cứ nhớ nó đi; rồi con sẽ hiểu nó. Và dù con có hiểu nó hay không, hãy bắt đầu cư xử như thế. Con hãy chăm chú nghe và nhắc lại điều bố nói.

 Đó là lời khuyên rất đơn giản. Lời khuyên là: “Nếu ai đó xúc phạm con, làm bẽ mặt con, làm tổn thương con, con không nên phản ứng lại ngay lập tức. Con phải nói với người đó rằng: “Ông hãy đợi hai mươi bốn giờ, và tôi sẽ tới trả lời ông. Đây là chuyện thiêng liêng với tôi mà tôi đã hứa với người bố sắp chết của tôi.” Con hãy đợi hai mươi bốn giờ rồi mới đi tới người đó. Trong hai mươi bốn giờ đó con có thể thấy rằng người đó là phải, hay người đó không phải, nhưng điều ngu xuẩn nhất là lâm vào vòng cãi cọ. Hai mươi bốn giờ đó sẽ cho con cơ hội để mà tỉnh táo hơn. Mọi người phản ứng ngay lập tức sẽ không có đủ thời gian để nhận biết. Họ phản ứng chỉ như máy. Nếu con thấy rằng người đó là đúng, thì hãy đi và cám ơn người đó. Nếu con thấy người đó là sai, thì chẳng cần đi, hoặc nếu muốn đi, con có thể đi và nói : ‘Ông dường như hiểu lầm.’

 Và Gurdjieff thường nói: “Lời khuyên đơn giản đó của người bố sắp chết của tôi đã làm biến đổi toàn thể cuộc đời tôi vì nó đã cho tôi sự nhận biết nào đó, một thức tỉnh nào đó. Thế nên tôi đã không thể phản ứng bất kì gì ngay lập tức. Tôi phải đợi hai mươi bốn giờ. Và kết quả là bạn không thể nào vẫn còn giận-dữ trong hai mươi bốn giờ được.” (trích truyện kể chuyển ở trên mạng, cho mọi người).

Thế đó, là truyện kể ở ngoài đời, có vui có buồn lẫn lộn. Truyện kể ở nhà Đạo, nhiều lúc và nhiều người không kể cho nhau bằng dụ-ngôn, tâm-tình viết thành thư tín, như bức thư của bậc thày ở trường nọ gửi cho đấng bậc vị vọng rày quá cố, như sau:

“Ngài Thomas Merton thân mến,

 Tôi không rõ, mọi người trên ấy có tổ-chức cắt bánh sinh-nhật thiên-quốc hay không. Nhưng, hôm nay, tôi chúc ngài có được thật nhiều hạnh phúc đến với ngài nhất là vào ngày sinh thứ 100, trong năm nay. Tôi không nghĩ là năm tháng ngày giờ lại có nghĩa cũng khá nhiều ở nơi ngài đang hiện-diện như mọi người vẫn làm cho chúng tôi ở nơi đây, tức là nơi ngài cũng như tôi, ta bỏ ra chỉ mỗi 54 năm trời để sống trước khi quá vãng trong một tại nạn lạ kỳ, năm 1968.

 Trên thiệp cảm cảm ơn tôi gửi ngài không có chỗ cho tất những thứ ngài đem vào đời tôi. Tôi biết là mình đang nói thay cho cả ngàn người ở đây.

 Là thánh-nhân theo cách nào đó, cuộc sống của ngài rơi vào hai phân nửa đời người rất tuyệt-vời. Mãi đến tuổi 27, ngài lại đã tham-vọng và chộn-rộn. Sinh tại Pháp, tuy mồ-côi nhưng rồi học-hành tại Anh và sau đó ngài dạy văn-chương tại đại-học-đường Columbia ở New York. Chính ở nơi đó, ngài được mọi người coi là cây viết đầy hứa-hẹn.

 Nhiều lúc, ngài cũng tỏ ra không có trách-nhiệm, để rồi trở thành một người cha của đứa bé còn nhỏ mà lại không được ngài chăm sóc cho tử-tế để rồi lại đã bị giết chết trong lần máy bay oanh-kích hồi Thế chiến thứ hai. Ngài từng quen với sống phá-tán qua hành-xử. Kết-cuộc là, ngài lại rơi vào vòng tay yêu-thương Đức Chúa.

 Ở tuổi 27, ngài đã dấn thân vào đời sống khắc-khổ theo huôn thước của hội dòng Xitô ở đan-viện gọi là Gethsêmani ở bang Kentucky và trở thày dòng Lu-y. Ngài không chạy trốn đi nơi khác như nhiều người xem ra vẫn nghĩ thế. Thực tế, hành-trình đời tu của ngài lại khác hẳn. Linh-đạo của dòng Xitô thật rất đẹp dù khắc-khổ. Nó như thể ăn rau sống mà không trộn nước xốt: toàn cộng-đoàn dòng đều sống trong thinh-lặng triệt-để và tuân-thủ Luật Dòng do thánh Biển-Đức lập ra, là bộ luật tạo thế quân-bình nồng-nhiệt giữa việc nguyện cầu và lao-động. Và sau đó, ngài cảm thấy có tiếng mời gọi tiến xa hơn thế để đi vào đời sống chuyên-tu ở rừng-sâu như một ẩn-sĩ.

 Từ nơi ẩn-náu trong rừng sâu, ngài đã viết với giòng chảy sâu-sắc can-dự vào một số cuộc đấu-tranh cho công-bình hồi thập niên 1960 kể cả phong-trào đòi-hỏi dân-quyền, cùng trào-lưu chống chiến-tranh và đường-lối bất-bạo-động. Có lần ngài viết: “Thay vì ghét bỏ chúng-dân, quí vị lại nghĩ mình là người gây chiến, ghét bỏ những người đói ăn có xáo-trộn trong tâm-thân của quí vị, chính đó mới là nguyên-do tạo nên chinh-chiến. Giả như quí vị yêu hoà-bình, hẳn là quí vị sẽ ghét bất-công, hận chuyên-chế và chán-oán tham-lam, nhưng lại cứ oán-ghét những thứ và những sự tồn-tại trong chính mình, chứ không phải ai khác.

 Tôi đây gặp-gỡ rất nhiều người từng coi việc đấu-tranh cho công-bằng trở-thành công việc thay thế cho niềm tin, tức thứ gì đó họ rất tin-tưởng trong cùng một lúc vẫn rụt-rè xa lánh mọi quan-hệ với Thiên-Chúa. Ngài đã nhắc nhở chúng tôi rằng: đói công-bằng còn thực-tế hơn mọi thứ so-sánh nào khác; và, là việc bày-tỏ lòng tin chứ không phải là sự thay thế.

 Vào thời-điểm tôi đây vẫn kiếm tìm cuộc sống đơn-độc, có vị linh-mục trọng tuổi từng hối thúc tôi đọc cuốn sách thứ hai do ngài viết, tức cuốn “Dấu Chỉ của Giôna”, là sách dựa trên cuốn nhật-ký mà ngài gìn giữ trong cuộc sống ở Gétsêmani từ năm 1946 đến 1952. Theo tôi nghĩ, cuốn này trở-thành cuốn sách tôi vẫn đọc mỗi năm trong đời trong suốt 30 năm vừa qua. Với riêng tôi, đây là chốt-điểm của đời mình. Tôi ưa-thích cung-cách qua đó ngài phấn-đấu tìm cho ra đặc-trưng xác-thực của chính ngài.

 “Dấu Chỉ của Giôna” kết-thúc bằng một lời bạt có tên gọi là “Canh Lửa, hôm 4 tháng 9 năm 1952”. Vào một tối nóng-nực ngày hè năm ấy, ngài phải đi bộ vòng quanh khuôn viên căn nhà ván lá của tu-viện từ trên xuống dưới, xem có dấu-hiệu nào báo trước có cháy rừng thiêu-huỷ khu vục không.                          

 Và, khi ngào đi rà-soát một vòng như thế, mọi ngõ ngách của vườn dòng Gétsêmani lại là cơ-hội để ngài tưởng nhớ, nguyện cầu. Mỗi khi có thày dòng nào đi ngủ, đó là dịp thuận đầy ân-huệ, là việc diệu-kỳ cùng mê say, diệu cảm nữa. Có lần ngài từng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, đêm về là thời-khắc đểcon được tu-do tiếp xúc với Chúa. Theo tôi thì, ở đây, ngài muốn nói đến thời-khắc có được viễn-tượng được thấy các sự việc mà người bình-thường không thể thấy mắt thịt của mình.

 Và lần ấy, ngài lại tiếp-tục thưa cùng Chúa: “Chúa là Đấng ngủ say trong tâm can con, nên con không thể gặp Chúa qua lời nguyện-cầu, nhưng chỉ bằng sức sống trỗi dậy trong cuộc đời và cũng là sự khôn-ngoan bên trong mọi khéo léo, ngoan hiền. Con gặp Chúa trong hiệp-thông: Chúa ở trong con và con ở trong Chúa. Và Chúa ở trong họ cũng như họ đang ở trong con.”

 Ngài Thomas Merton thân thương,

Ngài từng dạy cho tôi biết: nhiều cơ-hội trong đó cần động-thái kiên-trì/bền đỗ hầu tạo được sự đổi-thay rất đích-thực. Và, ngài cũng đã khuyên tôi, rằng: công-bằng không thể do hoạt-động đơn-thuần mà ra dù vẫn xúc tiến không ngừng nghỉ. Những gì ta làm ra, lại ít quan-trọng bằng những gì Chúa cho phép ta làm. Chính đó, là điều tôi đây hằng tâm-nguyện.

 Cảm ơn ngài, hỡi đấng thánh Thomas Merton rất thân thương của tôi.

Michael McGirr”

(X. Michael McGirr, A Letter to Thomas Merton, The Australian Catholics Winter 2015 tr. 8)

Lời của dân con bình thường gửi đấng thánh ở trên lại vẫn nhắn nhủ bạn bè, như bạn và tôi, cũng để đưa dẫn chính tôi và bạn đi vào vườn hoa Lời Vàng có những dặn dò từ bậc thánh-hiền khi xưa vẫn nhắc-nhở và nhủ-khuyên như sau:

Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô

đem lại cho chúng ta một niềm an ủi,

nếu tình bác ái khích lệ chúng ta,

nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí,

nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau,

thì xin anh chị em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn,

là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,

cùng một ý hướng như nhau.

Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh,

nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.

Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình,

nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.

Giữa anh em với nhau,

anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.”

(Phillíphê 2: 1-5)      

Khi xưa, đấng thánh-hiền trong Đạo lại vẫn bảo ban mọi người trong/ngoài đời lời lẽ ân-tình, thật như thế. Và, người nghệ-sĩ ở đời lại cũng dùng lời ca/ý-nhạc khá đánh động, như sau:

“Lời nào muốn nói nhưng chuốc sầu thêm thôi,”

Tình nào buông trôi, như nắng chiều lưng đồi!

Một ngày nắng ấm, xin chấp cánh bay cao

Ðể rồi mai sau, còn ai nói yêu nhau,

Nhạc tình phôi pha, còn ai thấy xót xa

Người về nơi đâu, thung lũng sầu thêm sâu.

 Người xưa có quên chăng hay dỗi hờn ?

Người xưa vẫn tung tăng hay đã chợt sang ngang ??

Tình xưa đã chôn sâu trên lối sầu

Thời gian có bao lâu xin hãy đợi mưa ngâu

 Còn ai trong gió chiều?

còn ai thương nhớ nhiều?

Tình yêu cao ngất trời.

cho suốt đời đếm bước chơi vơi.

Còn đâu giây phút đầu?

còn ai nâng chén sầu?

Ðể ai quay bước về

cho ước thề buốt giá cơn mơ.

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 

Cũng hệt thế, trong gió chiều, “tình yêu cao ngất trời cho suốt đời đếm bước chơi vơi”. Cũng như vậy, lời thơ hay ý nhạc của nghệ-sĩ sẽ cùng với lời khuyên của bậc thánh-hiền đưa người đọc và người nghe đi mãi vào chốn êm đềm của tình “ngất trời”, vời vợi. Ở muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ý-tưởng

Tuy còn hời hợt, như cơn mơ

Những vẫn là những lời phiếm

Cũng rất chân tình

và thành thật

đến suốt đời.  

Rao rao gió thổi phương xa lại,

“Rao rao gió thổi phương xa lại”,

Buồn đâu say ngấm áo xuân ai.

Lay bay lời hát, ơ buồn lạ.

E buồn trong mỗng có đêm nay.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Đêm nay hay mai ngày, nhiều người vẫn buồn như thế. Nỗi buồn, như của người giàu có ở trình-thuật thánh Mác-cô hôm nay. Trình-thuật ở ngoài đời, lại cũng có những nỗi buồn ở đâu đó, cả trong Đạo lẫn ngoài đời, rất hôm nay.

John Calvin, người đầu sáng lập phong trào Thệ Phản, từng chống đối lập trường của Hội thánh Công giáo chủ trương coi luật lệ của Bí tích như phương cách cứu chuộc loài người: “Nếu anh biết giữ gìn luật pháp, thì pháp luật sẽ gìn giữ anh”.Ông có lý để phản bác đường lối rao giảng của một số linh mục, ngày hôm nay.

Ông chủ trương rằng Thiên Chúa định trước mọi việc. Ngài trao ban niềm tin cho ai thì kẻ ấy được cứu rỗi. Calvin biện luận rằng ai không được thế, sẽ bị thua. Chính vì thế, thật khó biết rằng ai là người nào. Chuyện này thật cũng khó.

Tuy thế, chỉ trong vòng vài năm sau đó, cộng đoàn kẻ tin theo ông ở Genève muốn biết làm thế nào để chắc chắn được rằng mình đi đúng đường. Để được rỗi. Và, đồ đệ của ông bèn phải giải thích là có hành xử cho đúng, cho phải lẽ mới hy vọng mình thuộc lớp người được Chúa thương cứu.

Hành xử cho phải, tức không say sưa, vui chơi cờ bạc, đàng điếm. Nhưng, biết làm việc cật lực, tiết kiệm tiền bạc và nhất mực tuân giữ mười điều giới lệnh, có thế mới được xếp vào hàng những người được tuyển chọn. Chẳng thế mà, sau khi Calvin qua đời, giới Thệ Phản đã tuân thủ luật đạo về luân lý rất nghiêm nhặt, thay cho 7 phép Bí tích, để nắm chắc con đường dẫn về Thiên quốc.

Người thanh niên trong Tin Mừng cũng nắm phần chắc là mình đi đúng đường, để được rỗi. Anh hiền lành. Là, dân con Do Thái tuân giữ mọi luật. Và, là người Chúa chỉ nhìn thấy đã chạnh lòng thương. Anh hy vọng luật lệ sẽ cứu rỗi anh. Bởi thế nên, anh vẫn chọn đường đến thiên đường bằng cách thức đúng nhất. Đúng thời. Đúng nơi. Nhưng Chúa đâu chối bỏ bất cứ một ai chỉ muốn sống đàng hoàng. Tử tế. Ngài hiến tặng thanh niên hiền phương cách hay hơn cả, là: chọn lựa tương quan đến với Chúa. Theo chân Chúa.

Bởi, nếu không quan hệ mật thiết với Ngài, thì lề luật và đạo đức chỉ là hình thức của bạo quyền. Không nên tin tưởng vào một Thần Linh đầy bạo quyền. Trái lại, chỉ nên tin Đấng từng đòi hỏi, thử thách mọi người ở những nơi mà người người dễ bị tổn thương nhất. Với người thanh niên trong truyện, của cải là chướng ngại lớn ngăn cản anh đến với Chúa. Khi quan hệ với Chúa, của cải tiền bạc và cuộc sống dễ dãi sẽ bị đặt vào tình thế có nguy cơ. Cần rời bỏ.

Với tín hữu thời tiên khởi, Tin Mừng nhấn mạnh vấn đề nghiêm trọng mà người người vẫn ưu tư khắc khoải: là: luật theo Chúa, phân chia giàu/nghèo, cộng đoàn quyết đi theo Ngài. So với tổ tiên, chúng ta cũng đã và đang thuần hoá tính triệt để của Tin Mừng hôm nay. Thuần hoá, vì thích thú nghĩ rằng luật lệ sẽ cứu được ta.

Trong khi Chúa lại bảo ơn cứu độ chỉ có được nếu ta biết quan hệ mật thiết với Chúa. Mật thiết, trong hy sinh suốt cuộc đời. Luật lệ chỉ hữu ích, tồn tại nếu chúng giúp ta đào sâu tương quan với Chúa, rồi từ đó biết phục vụ người anh em.

Cả luật đạo lẫn luật đời, nếu thực thi cho đúng cách, sẽ đem lại nhiều vấn nạn cùng thử thách có liên quan đến tính cách đạo đức của luật. Với thế giới, mà phần lớn tài nguyên phong phú đang nằm trong tay một số người da trắng trí thức, khuynh loát và, có đạo.

Thì, đòi hỏi của Tin Mừng nay sẽ trực chỉ và thử thách, như từng thử và thách người thanh niên giàu có nọ. Lời của Chúa còn đó, vẫn làm anh rất buồn:” Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.” (Mc 10: 21)

Lời Ngài, nay khuyên dạy ta hãy bỏ mọi sự giàu sang phú quý, để lại đó. Mà theo Ngài. Luật lệ và tiền của, tự thân, vẫn chỉ là những sự vật lưng chừng ở giữa. Cũng tốt. Cũng xấu. Đủ cả. Nhìn mặt xấu, cả hai khuyến dụ ta vào với kiêu căng, quyền lực nhiều ham hố. Về mặt tốt, chúng nâng đỡ phục vụ việc giải thoát hết mọi người. Giúp người người giải và thoát thế giới để họ trở thành nơi chốn phản ánh Vương quốc của nhân cách. Của công lý. Của đồng đều, Chúa vẫn dạy

Quan niệm rằng, mọi sự sẽ thành hiện thực, nếu có Chúa, với Chúa, ta hãy cầu và mong sao cho Tiệc Thánh hôm nay ta cử hành, sẽ giúp ta ngưng lại, không còn tìm cách thuần hoá Tin Mừng Chúa dạy ban nữa. Nhưng, ta sẽ để cho Tin Mừng Lời Chúa dẫn dắt ta đi sâu vào với tương quan mật thiết Chúa. Ngài vẫn đoái nhìn chúng ta, từng người một.

Ngài nhìn, mà chạnh lòng thương. Nhìn và mời ta cùng mọi người trong chúng ta hãy viết lên luật yêu đương. Viết sâu luật đó trong tâm can đọng lắng, theo qui cách nào đó để người người sẽ bày tỏ cho nhau công lý và hoà bình. Ở mọi thời. Mọi nơi. Trong cuộc sống.

Trong cảm-nghiệm cuộc sống có vui có buồn, ta lại ngâm lên lời thơ buồn từng bảo rằng:

“Nắng sao nắng đời xưa ấy.

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu.

Muốn gởi thương về người cổ độ.

Mà sao tình chẳng nói cho đau.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn Ở Đây)

Buồn ở đây hay ở đó, vẫn là nỗi buồn da diết, sầu thảm hoặc cay đắng khiến con người vẫn muốn vất bỏ, cả đêm ngày. Cầu mong sao, nỗi buồn người giàu kẻ nghèo sẽ không làm ta day dứt quên mất cốt lõi Tin Mừng muốn nói là: chỉ mỗi tình thương-yêu người đồng-loại mới là điều cần thiết hơn tất cả. Cả tiền bạc, của cải vật chất khiến thêm âu sầu nhiều ray rứt cả một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 10: 17-30)

 Một hôm, Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Giêsu đáp:“Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” Anh ta nói:“Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta:“Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau:“Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói:”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

Ông Phêrô lên tiếng thưa Người:”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Đức Giêsu đáp:”Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”

Đức Giáo Hoàng ‘dịu giọng’ về chủ nghĩa tư bản trong chuyến thăm Mỹ

Đức Giáo Hoàng ‘dịu giọng’ về chủ nghĩa tư bản trong chuyến thăm Mỹ

 VOA

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc diễn văn trước Quốc Hội Hoa Kỳ.

 

Nhiều người dự kiến Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ gây ‘bão dư luận’ khi đến Mỹ vì những chỉ trích chủ nghĩa tư bản mạnh mẽ của ông trước đây khiến một số người phản đối, thậm chí gán ghép ngài là ‘cộng sản’. Thế nhưng kết quả thực tế là ngài không những không gây xung đột, mà còn khiến giới nhà lập pháp Mỹ ở cả hai đảng xúc động mạnh mẽ. Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói Đức Giáo Hoàng đã không dùng ngôn ngữ của các chính trị gia mà là ngôn ngữ của Tin Mừng. Khánh An và thông tín viên William Gallo có bài tường thuật chi tiết sau đây.

Trước khi Đức Giáo Hoàng đến Mỹ, một số nhà phân tích dự liệu sẽ có một sự ‘bùng nổ’ trong chính trường và dư luận Mỹ vì sự kết hợp hoàn hảo của hai yếu tố: Một, Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nổi tiếng với phát biểu cho rằng chủ nghĩa tư bản là trung tâm mọi vấn đề bất bình đẳng, cội rễ của các căn bệnh xã hội. Hai, nước Mỹ là cường quốc thống lĩnh về kinh tế thị trường. Việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến Mỹ sẽ là cơ hội hội tụ đủ hai yếu tố gây ra xung đột.

Tuy nhiên, những bài phát biểu của vị đứng đầu Giáo hội Công Giáo, trong đó có bài phát biểu ở Quốc hội Mỹ, không những không gây ra xung đột mà còn đem lại kết quả ngược lại.

Điều này không có nghĩa là Ngài [Đức Giáo Hoàng] thay đổi thông điệp. Nó chỉ có nghĩa là Ngài quyết định nhấn mạnh những khía cạnh đức tin khác. Tôi nghi rằng là để không gây khó chịu cho chủ nhà và để hòa điệu tốt hơn với nhiều Mỹ nói chung.

Một số nhà phân tích nói ngôn ngữ ‘mềm mỏng’ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có tác dụng cân bằng giữa vấn đề tôn trọng nước Mỹ chủ nhà và điều mà Ngài xem là mối nguy của chủ nghĩa tiêu thụ quá đáng.

Ông Marian Tupy, nhà phân tích chính sách cấp cao của Viện CATO, nói: “Ngài chắc chắn sẽ phát biểu chống chủ nghĩa tư bản nhiều hơn trong những chuyến đi khác đến Châu Mỹ Latinh và các nơi khác. Nhưng ở đây tại Hoa Kỳ, Ngài rõ ràng là đã dịu giọng xuống, đặc biệt là tại Quốc hội. Đó giống như là một vị giáo hoàng khác vậy”.

Nhưng Giám mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy ban Công lý Hòa bình, thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam cho biết: “Mỗi lần thì Đức Giáo Hoàng có những đề tài riêng, như lần này Ngài nói về môi sinh, về gia đình. Thành thử đâu phải bài nào cũng nói về chủ nghĩa tư bản, trước đây Ngài đã nói nhiều rồi”.

Mặc dù được cho là ‘dịu giọng’ hơn, nhưng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không hoàn toàn bỏ quên những vấn đề kinh tế trong chuyến thăm Mỹ của Ngài.

Trong bài phát biểu ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Đức Giáo Hoàng đã chỉ trích ‘sự ích kỷ và ham muốn quyền lực và của cải vật chất vô hạn dẫn đến việc lạm dụng tài nguyên thiên nhiên và loại trừ người nghèo và người yếu thế’.

Trong bài phát biểu trước Quốc hội Mỹ một ngày trước đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô liên tục lặp lại từ ‘công ích’ và nhắc các nhà lập pháp Mỹ về trách nhiệm không chỉ là bảo vệ quyền tự do cá nhân, mà còn phải để ý đến những người bị thiệt thòi.

Đức Giáo Hoàng nói: “Ngay trong thế giới phát triển, những ảnh hưởng của các hành động và cơ cấu bất công là quá rõ ràng. Những nỗ lực của chúng ta phải nhằm mục đích khôi phục lại hy vọng, sửa chữa sai lầm, duy trì các cam kết và rồi thúc đẩy phúc lợi của cá nhân và của dân tộc. Chúng ta phải tiến lên cùng nhau, làm một, trong thần khí canh tân của tình huynh đệ và đoàn kết, hợp tác quảng đại vì lợi ích chung”.

Có một chi tiết thú vị, đó là có một phần trong bài phát biểu đã soạn không được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói tới khi Ngài đứng trước Quốc hội Mỹ. Đoạn này nhắc một chút về lịch sử chính trị của Mỹ và vai trò của tiền bạc trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Một trong những câu gây tranh cãi là: “Chính trị thực sự là để phục vụ con người, như thế nó không thể là nô lệ của kinh tế và tài chính”.

Quan điểm của Đức Giáo Hoàng là lấy Tin Mừng làm chính, thành ra ngôn ngữ, cách ứng xử, xử lý cũng dựa trên nền tảng của Tin Mừng. Thành thử ra là nói mà nói khéo, chứ không phải dùng ngôn ngữ của các chính trị gia, nhất là khi đang trong cuộc tranh luận… Chính vì vậy, nhiều người thấy đồng thuận và nhìn thấy nơi Đức Giáo Hoàng vai trò của một vị mục tử, một sứ giả của Tin Mừng, chứ không phải là người đến để gây chia rẽ.”.

Không ai biết tại sao Đức Giáo Hoàng lại bỏ qua đoạn này khi nói trước Quốc hội Mỹ, nhưng nhà phân tích Tupy nói ông ‘ngạc nhiên một cách phấn khởi’ vì sự thiếu vắng những lời lẽ chỉ trích chủ nghĩa tư bản mạnh mẽ của Đức Giáo Hoàng.

“Điều này không có nghĩa là Ngài thay đổi thông điệp. Nó chỉ có nghĩa là Ngài quyết định nhấn mạnh những khía cạnh đức tin khác. Tôi nghi rằng là để không gây khó chịu cho chủ nhà và để hòa điệu tốt hơn với nhiều Mỹ nói chung”.

Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết không phải lúc nào Đức Giáo Hoàng cũng nói nguyên văn bài phát biểu đã soạn.

“Khá nhiều lần Đức Giáo Hoàng không đọc hết mà lại nói thêm, chẳng hạn như nói với các giám mục hay nói ở những nơi khác, Ngài nói thêm nhiều điều mà không có trong bản văn chính thức”.

Với lối nói từ tốn, nhẹ nhàng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khiến cho nhiều dân biểu Mỹ xúc động. Người ta thấy Chủ tịch Hạ viện John Boehner liên tục lấy khăn lau nước mắt. Những nhà lập pháp ở cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã đưa ra những phản ứng tích cực về bài phát biểu của người đứng đầu Vatican.

Nhận xét về lối nói cũng như những phát biểu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong chuyến thăm Mỹ, Gíam mục Nguyễn Thái Hợp nói:

“Có thể nói và nói rất rõ là quan điểm của Đức Giáo Hoàng là lấy Tin Mừng làm chính, thành ra ngôn ngữ, cách ứng xử, xử lý cũng dựa trên nền tảng của Tin Mừng. Thành thử ra là nói mà nói khéo, chứ không phải dùng ngôn ngữ của các chính trị gia, nhất là khi đang trong cuộc tranh luận. Chuyện đó thì ta thấy rõ. Chính vì vậy, nhiều người thấy đồng thuận và nhìn thấy nơi Đức Giáo Hoàng vai trò của một vị mục tử, một sứ giả của Tin Mừng, chứ không phải là người đến để gây chia rẽ.”

Hoa Kỳ là quốc gia thứ 15 mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến thăm trong hơn hai năm trở thành giáo hoàng. Những điểm đến ưu tiên đã thể hiện rõ quan điểm đến gần những người bị gạt ra ngoài lề xã hội trong khẩu hiệu ‘Cảm thương và lựa chọn’ của Ngài.

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

 Trầm Thiên Thu

 Các thiên thần được đề cập hơn 300 lần trong Kinh Thánh, nhưng nhiều người vẫn biết ít về các thiên thần.  Thiên thần luôn ở bên chúng ta mà lại bị chúng ta “quên” hoặc “làm ngơ”, đó là Thiên thần Bản mệnh, cũng gọi là Thiên thần Hộ thủ – lễ ngày 2 tháng Mười.

 

Các thiên thần là các “đặc phái viên” (God’s emissaries) của Thiên Chúa, luôn ở bên chúng ta, mọi nơi và mọi lúc, để canh chừng chúng ta, bảo vệ chúng ta, chiến đấu thay chúng ta.

Năm 1985, sau khi thị kiến Thiên thần Bản mệnh, chị Vassula Ryden đã viết một cuốn sách về Thiên thần Bản mệnh, cuốn “Heaven is Real, But So is Hell” (Thiên Đàng Có Thật, mà Hỏa Ngục cũng Có Thật), phát hành ngày 16-3-2013, thuộc loại “bestseller” (bán chạy như tôm tươi).  Chị đã chia sẻ với hàng triệu người tại 80 quốc gia.  Sách của chị được dịch ra 40 thứ tiếng.  Trang Facebook của chị là “Jesus Is Returning” (Chúa Giêsu sẽ trở lại) đã có hơn 1 triệu lượt ghé thăm, trang Twitter của chị được hơn 200.000 lượt ghé thăm.

Đây là 9 điều chị chia sẻ về các thiên thần:

 1.     Thần tốt nhiều hơn thần xấu – Đạo binh thiên thần tốt lành của Thiên Chúa nhiều hơn hẳn về quân số và mạnh hơn hẳn so với tà binh.  Ma quỷ tức giận vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và nên chúng tìm mọi cách để hủy hoại chúng ta.  Tuy nhiên, chúng phải chịu “bó tay”.

 2.     Thiên thần nguyện giúp cầu thay – Vũ khí lợi hại nhất mà chúng ta phải sử dụng trong cuộc chiến tâm linh là cầu nguyện.  Chúng ta may mắn vì Thiên thần Bản mệnh luôn cầu thay nguyện giúp cho mỗi chúng ta.  Thiên thần Bản mệnh cầu nguyện cho chúng ta thay lòng đổi dạ và biết trở về với Thiên Chúa, giải hòa với Ngài sau khi chúng ta “nổi loạn”.

 3.     Thiên thần Bản mệnh luôn cận kề – Thiên thần Bản mệnh giống như “lính gác”, không bao giờ rời xa chúng ta.  Dù chúng ta đi đâu hoặc làm gì, Thiên thần Bản mệnh vẫn theo dõi, đồng thời Thiên thần Bản mệnh cũng vẫn luôn hiện diện trước Tôn Nhan Thiên Chúa.

 4.     Thế giới tâm linh bao quanh chúng ta – Xung quanh chúng ta có cả thiên thần và ma quỷ, ảnh hưởng mọi lúc trong cuộc đời chúng ta.

5.     Cuộc chiến rất dữ dội – Có những cuộc chiến tâm linh xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chính chúng ta vẫn tham chiến dù chúng ta có ý thức hay không.

6.     Không phải các thiên thần đều tốt – Các thiên thần sa ngã là ma quỷ.  Luxiphe và các ác thần bị Tổng lãnh Thiên thần Micae và các thần lành xua đuổi vì đã dám phản nghịch chống lại Thiên Chúa.  Ma quỷ luôn tìm các cám dỗ và hủy diệt con cái của Thiên Chúa, chúng ngăn cản để Ý Chúa không được thực hiện trên thế gian này.

 7.     Thiên thần bảo vệ chúng ta – Thiên thần bản mệnh bảo vệ chúng ta khỏi sự ác.  Một đêm nọ, chị Ryden thấy con rắn (ma quỷ) muốn hại chị.  Thiên thần Bản mệnh liền triệt hạ con rắn.

 8.     Thiên thần muốn tốt cho chúng ta – Khi Thiên thần Bản mệnh đến thăm chị Ryden, ngài cho chị biết tình trạng tội lỗi của chị.  Chị cảm thấy hổ thẹn lắm.  Chị buộc phải nhìn vào nội tâm và thấy những gì Thiên Chúa cũng thấy.  Thiên thần Bản mệnh an ủi chị, muốn chị trở về với Thiên Chúa, và Thiên thần Bản mệnh cho biết sẽ cầu xin Chúa cho chị.

 9.     Thiên thần và ma quỷ cùng hiện hữu – Một trong các mưu mô thâm độc nhất của ma quỷ là giả vờ như không hiện hữu.  Nhiều người không muốn nhắc tới ma quỷ, nhưng ma quỷ là có thật, chúng có thể ảnh hưởng tới chúng ta.

 Lòng sùng kính các Thiên thần Bản mệnh bắt đầu phát triển từ khi bắt đầu có truyền thống tu trì. Thánh Bênêđictô thúc đẩy việc này cùng với Bernard Clairvaux, nhà cải cách hồi thế kỷ XII và nhà hùng biện về Thiên thần Bản mệnh.  Lòng sùng kính các thiên thần có từ hồi đó.

 Lễ kính các Thiên thần Bản mệnh được cử hành lần đầu hồi thế kỷ XVI.  Năm 1615, ĐGH Phaolô V thêm lễ này vào lịch Công giáo Roma.

 Trầm Thiên Thu

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Những câu nói nổi tiếng của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu

Những câu nói nổi tiếng của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu

ThereseLisieux.jpg

  • Đức Tin của chúng ta thật hiển hách! Thay vì giới hạn các con tim, như thế gian mong muốn, Đức Tin lại nâng các con tim lên và gia tăng khả năng yêu thương của chúng.

– Xin nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với tình yêu.

– Vẻ rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.

– Hẳn là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.

– Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.

– Tin tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.

– Không nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé nhất và làm vì tình yêu.

– Đối với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui.

– Một lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một tâm hồn thất vọng.

– Bây giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về những nhân đức nhỏ nhất của họ.

– Niềm vui ấy ta không tìm được nơi các sự vật bao quanh ta, nhưng chỉ ở trong tâm hồn; và ta có thể sở hữu nó dễ dàng khi ở trong một nhà tù tăm tối cũng như khi ở trong dinh thự của một vị Vua.

– Con cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản với con.

– Nếu em không chỉ sống từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, hẳn là em đã không thể kiên nhẫn; nhưng em chỉ nhìn đến hiện tại, em quên đi quá khứ, và em quan tâm không chặn trước tương lai.

– Đừng sợ nói với Đức Giêsu rằng bạn yêu thương Người; cho dù không cảm thấy gì, đó là cách để buộc Người giúp đỡ bạn, và bồng lấy bạn như một em nhỏ quá yếu không thể bước đi.

– Sứ mạng của con – làm cho Thiên Chúa được yêu mến – sẽ bắt đầu sau khi con chết. Con sẽ sống trên trời mà làm điều thiện dưới đất. Con sẽ gửi đến một trận mưa hoa hồng.

– Đức Giêsu không cần sách vở hoặc các Tiến sĩ thần học để dạy dỗ các tâm hồn; là Tiến sĩ của các tiến sĩ, Người dạy dỗ không cần nói năng ồn ào.

– Điều duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.

http://conggiao.info/news/2108/18814/index.aspx

CHỈ LÀ MỘT

CHỈ LÀ MỘT 

LM Nguyễn Cao Siêu

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly”

Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.  Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?  Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng.  Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.

Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.  Trước câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ không?”  Đức Giêsu kiên quyết nói không.  Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.  Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.

    Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.  Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc.  Họ nói: “nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10).  Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.

 Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.  Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.  Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.  Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời.  Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.

 “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”  Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau.  Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên.  Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.  Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.

 Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.  Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe.  Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục…  Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó.  Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.

 Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn.  Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn, bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ, bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…  Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.

 

*****************************************

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,

những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương

những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,

những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,

những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ

từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,

từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thn Tình Yêu đem đến hnh phúc cho mi gia đình; nhưng xin cũng nhc cho chúng con nh hnh phúc luôn trong tm tay ca tng người chúng con.  Amen.

 LM Nguyễn Cao Siêu

Cảm động cảnh Giáo hoàng hôn lên đầu cậu bé bại não

Cảm động cảnh Giáo hoàng hôn lên đầu cậu bé bại não
Sáng nay 26/9, khi Giáo hoàng Francis đến Philadelphia- Mỹ, ông đã dừng xe và ra khỏi ô tô để đến hôn lên trán một cậu bé 10 tuổi bị bệnh bại não bên ngoài hàng rào chắn. Một hành động tình cảm và tinh tế của Giáo hoàng khiến người dân ra chào đón ông xúc động trào nước mắt.

Ngay khi thoáng thấy cậu bé Michael Keating đang nằm trên xe lăn phía sau rào chắn, ngài đã yêu cầu dừng xe rồi sau đó bước đến chỗ Michael, xoa đầu rồi hôn lên đầu cậu bé.

  
Giáo hoàng cho dừng xe khi thấy cậu bé nằm trên xe lăn sau hàng rào.

Giáo hoàng cúi xuống hôn và xoa đầu cậu bé.

Chị Kristin Keating, mẹ của Michael, đã khóc nức nở nói lời cảm ơn khi đức Giáo hoàng nắm tay chị và chồng chị, anh Chuck Keating.

Anh Chuck Keating vốn là trưởng ban nhạc trường Trung học Shanahan ở Downingtown. Ban nhạc này đã biểu diễn chào đón Giáo hoàng Francis khi ngài đến Philadelphia trong hành trình cuối cùng của chuyến thăm nước .

“Đó là cảm xúc không thể tin nổi” – Kristin chia sẻ về cảm giác khi được gặp Giáo hoàng và nói rằng chị cảm thấy đã được Giáo hoàng “yêu thương và ban phước lành”.


Kristin Keating, mẹ của cậu bé Michael, khóc nức nở khi nắm tay Giáo hoàng.

Cậu bé Michael Keating được chẩn đoán bị bại não từ khi mới 6 tháng tuổi. Cậu bé bị thiểu năng trí tuệ, có vấn đề về thị lực và thính lực và không thể tự chăm sóc bản thân mình.

Theo tường thuật của CBS News, Michael đã thức dậy từ lúc 2 giờ 15 phút sáng để cùng gia đình đến Philadelphia.

“Khi Giáo hoàng nắm tay con tôi, tôi thấy một nụ cười nhẹ trên gương mặt nó. Với tôi, trong khoảnh khắc ấy có lẽ thằng bé đã cảm nhận được mình đang được ban phước. Còn với cả gia đình chúng tôi, khoảnh khắc ấy thật đẹp và ý nghĩa”- Kristin kể thêm.


Kristin Keating kể rằng đã thấy con trai chị bình tâm và mỉm cười khi được Giáo hoàng ban phước lành. Ảnh: AP

Sau khi gặp Michael, Giáo hoàng Francis cũng đã tiếp tục đến thăm những trẻ em khuyết tật ở Thánh đường nhà thờ Thánh Peter và Paul.

Trong thời gian thăm Mỹ, Giáo hoàng cũng từng gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama và có bài phát biểu tại Tòa nhà Quốc hội Mỹ. Đã có một sự việc bất ngờ xảy ra khi hôm 24-9 vừa qua, hạ nghị sĩ đảng Dân chủ Bob Brady đã bị bắt gặp lẻn lên bục phát biểu và lấy trộm ly nước uống thừa của Giáo hoàng Francis đã dùng khi phát biểu trong khi những người khác không để ý vì bận tiễn Giáo hoàng.

Theo tờ Philadelphia Daily News, ông Brady đã cẩn thận mang cốc nước vẫn còn một nửa về văn phòng, uống rồi chia cho vợ và hai nhân viên. Sau đó, ông còn mời thượng nghị sỹ Bob Casey cùng thuộc đảng Dân chủ đến văn phòng mình. Ông Casey cùng vợ và mẹ mình đã nhúng ngón tay vào cốc nước. Sự việc này đã được văn phòng nghị sỹ Casey xác nhận. 

Chi Nguyen Kim Bang goi

Cầu nguyện

Cầu nguyện:
Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

 
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Cả gia đình dễ thương quá!

Cả gia đình dễ thương quá! Biểu tượng cảm xúc smile

Ảnh của Hành hương Công giáo.

Hành hương Công giáo với Nguyễn anh tuanNguyen Anh Tuan

“Các con đúng là một lũ điên” là lời mắng yêu cuả ĐTC với gia đình Zemborain, trong khi 4 đưá bé ôm chặt lấy Ngài, không thể rời ra được.
Gia đình anh Catire Walker và chị Noel cùng 4 đứa con đã thực hiện thành công một chuyến du hành dài 13 ngàn dặm (21 ngàn km, 14 lần chiều dài VN từ Bắc xuống Nam 1500km) từ Argentina tới Philadephia để tham dự Ngày Đại Hội Gia Đình Thế Giới. Cuộc du hành kéo dài 194 ngày, vượt qua 12 cửa khẩu biên giới, trên một chiếc xe ‘van’ Volkswagen đã cũ.
Anh Walker tạm nghỉ công việc tiếp thị thực phẩm cho các quán ăn cuả mình, dùng tiền tiết kiệm và vận động quyên góp thêm ở trên Mạng để trang trải chi phí cho chuyến đi. Trên đường, chị Noel lo dạy các đứa con tiếp tục việc học hành theo một chương trình trực tuyến cuả Argentina. Họ đã được hàng chục gia đình mời ở lại nhà.
DTC Phanxicô cho biết Ngài đã biết được chuyến đi cuả họ nhờ đọc bài cuả họ trên trang Facebook.

Trên trang Facebook cuả họ, họ viết như sau:
“Chúng tôi là một gia đình Argentina: Carmin (2 tuổi), Mia (5 tuổi), Dimas (8 tuổi), Cala (12 tuổi), Noël (38 tuổi) and Catire (40 tuổi). Vào tháng 3 2015, chúng tôi đã bắt đầu một cuộc hành hương (trên chiếc xe Kombi VW 1980) từ Buenos Aires, Argentina đi tới Philadelphia, USA, là nơi mà đại hội Gia đình Thế Giới sẽ họp có sự tham dự cuả DTC Phanxicô. Chúng tôi đã quyết định từ lâu là sẽ thực hiện dự án (project) mà chúng tôi mơ ước này khi các đứa con lớn đủ và để làm cho dự án trở thành một kinh nghiệm sâu sa về gia đình. Tại sao vậy?
Tán dương gia đình. Đó là một món quà mà chúng tôi muốn để lại làm gia sản cho các con cuả chúng tôi và để chia sẻ với những người khác. Chúng tôi không phải là đi dự một ngày lễ cũng không phải là tham gia một cuộc đua. Chúng tôi đơn giản chỉ muốn bước ra ngoài và gặp gỡ các gia đình khác. Nhận biết họ, chia sẻ một phần của cuộc sống của họ, tìm hiểu để nắm lấy sự khác biệt cũng như sự giống nhau của chúng ta và nuôi dưỡng linh hồn chúng tôi bằng những kinh nghiệm sống trên cuộc hành trình này.”
Mặc dù không có hy vọng được gặp riêng DGH, anh Walker cho biết họ nhận được một cú điện thoại vào lúc 06:00 sáng Chúa Nhật, cho biết DTC muốn gặp họ tại đại chủng viện Saint Charles Borromeo, nơi Ngài tạm trú.
“Chúng tôi không thể tin được điều đó. Họ gọi chúng tôi sáng nay (và), chúng tôi đã như bị một cú sốc,” cô Noel cho biết. “Nó giống như là gặp lại với một người bạn cũ,” cô kể lại về cuộc gặp. “Ngài thật là ấm áp. Ngài nói với chúng tôi, chúng tôi là một lũ điên. Ngài đùa như vậy.”
“Còn các đứa bé thì ôm chặt lấy Ngài thật là lâu. Không thể bỏ ra được. Không có lễ nghi gì cả, không có hình thức nào cả, giống như là với một người bạn vậy,” họ cho biết.

Gia đình Zemborain sẽ tiếp tục đi du lịch cho đến tháng mười, rồi sẽ bay về nhà từ Miami. Họ dự định gửi chiếc xe về bằng đường tàu thuỷ, nhưng đã có một người bà con tình nguyện lái chiếc xe từ Florida về Buenos Aires cho họ.

ÁNH SÁNG TRONG MẮT NGƯỜI MÙ

ÁNH SÁNG TRONG MẮT NGƯỜI MÙ

Trich EPHATA 660

httpv://www.youtube.com/watch?v=frtpyWhuWzg

 Tôi đến Nebraska vào đầu mùa Đông giá lạnh. Người đón ở phi trường là một người chưa bao giờ gặp mặt. Tên anh là Thomas. Một vài câu chào nhau lạnh lùng giữa mùa đông lạnh. 

 Lặng lẽ, anh dẫn tôi ra khỏi phi trường và lao mình trên chiếc xe truck trong cơn gió tuyết. Mùa Đông Nebraska quá khắc nghiệt hơn tôi dự đoán. Từng cơn gió tuyết réo rắt đến rợn người. Một màu trắng xoá trải dài, dài như vô tận. Những khu nhà thưa thớt của dân nghèo da đen gần phía phi trường phủ ngập tuyết. Tuyết phủ cao có khi lấp hẳn cả những chiếc xe nằm bất động bên đường. Không gian tĩnh mịch. Trong lòng đơn côi. Tôi hoang mang sợ hãi ! Không biết mình có vượt qua nổi mùa Đông khắc nghiệt này không ? Lần đầu tiên trong đời chạm trán với Mùa Đông Nebraska với mười mấy độ âm.

 Những ngày trước đây còn háo hức cho chuyến thực tập này bao nhiêu thì bây giờ cảm thấy ớn lạnh bấy nhiêu. Nỗi cô đơn xâm chiếm, một hoang mang vây quanh. Tại sao mình lại chọn mảnh đất xa xăm này ? Tại sao lại bỏ gia đình ấm cúng để đi vào trong chốn đơn côi ? Một hoang mang khơi dậy trong hồn.

Về đến nhà trời đã sẫm tối. Đón ở cửa là một người đàn ông mù trạc tuổi 60. Ông có mái tóc bạc trắng đều đặn và một khuôn mặt phúc hậu. Ông mở to đôi mắt, nhưng ông lại chẳng thấy. Lúc đầu chẳng để ý, nhưng khi nhìn ông quờ quạng chiếc gậy dành cho người mù bên cạnh, tôi mới biết ông ta mù. Cái tối ngoài trời, xen lẫn cái tối trong nhà, lại thêm cái tối của một người mù làm cho bầu khí thêm ảm đạm. Rồi một tiếng nói vọng lên trong góc tối và một bàn tay vươn ra để bắt tay: “Tôi là cha Gilick, rất vui được gặp anh.” Ngài tự giới thiệu và nở một nụ cười nồng ấm. “Con là Thảo Nam, rất hân hạnh được gặp cha.” – “Chúc mừng anh đến cộng đoàn này. Tôi là Cha Bề Trên ở đây và sẽ là linh hướng của anh trong thời gian anh ở đây. Hãy coi tất cả như người nhà nhé.” Ngài niềm nở tiếp đón.

  Tôi bối rối tự hỏi: Sao ông mù này lại là cha Bề Trên ở đây ? Chắc cái cộng đoàn này hết người sáng mắt hay sao mà lại đặt một ông mù làm Bề Trên của một cộng đoàn mắt sáng ?

 Thắc mắc. Nghi ngờ. Rồi bắt đầu đón nhận. Một hành trình mới đi vào thế giới người mù. Mỗi một người mù có lối sống đặc biệt của riêng mình. Đây không phải là lần đầu tiên tôi sống với Linh Mục mù. Trước đây tôi đã có dịp chung sống với hai Linh Mục mù khác, và đây là vị mù thứ ba. Chẳng hiểu có bí ẩn gì đây mà sao lại có duyên ‘‘làm bạn’’ với lắm cha mù như thế. Câu hỏi ấy vẫn mãi là một chuỗi suy tư.

 Những ngày ở Việt Nam, tôi giúp lễ nhiều năm cho một Linh Mục mù về hưu tại nhà riêng. Năm giờ sáng, ngài thức dậy. Quờ quạng. Cầu nguyện. Rồi dâng Lễ mỗi ngày. Ngài đã dâng Lễ đều đặn suốt hơn mười năm mù loà như thế. Thánh Lễ trong suốt mười năm là một Thánh Lễ duy nhất: Lễ về Đức Maria. Ngài đã thuộc lòng kinh tiền tụng, không cần sách lễ. Tôi dọn bàn thờ, chọn áo lễ và khoác cho ngài. Rồi hai cha con dâng lễ. Một Linh Mục, một tín hữu suốt bao năm dài đăng đẳng. Những Thánh Lễ êm đềm trong nắng ấm ban mai. Cô quạnh, nhưng cũng tràn đầy ủi an. Có mệt mỏi, nhưng có ân sủng đỡ nâng. Có những ngày muốn bỏ Lễ, nhưng rồi lại tiếp tục vươn lên. Tuổi già, lại thêm mù loà là một thách đố lớn cho đời Linh Mục. Tôi không dâng Lễ, nhưng cảm nghiệm nỗi mệt mỏi trong từng Thánh Lễ của người Linh Mục mù ấy. Tôi ngần ngại. Liệu sau này mình có rơi vào trong cảnh đơn côi này không ?

 Rồi những ngày đến Cali, tôi lại có dịp sống với Linh Mục mù thứ hai. Ngài không mù hẳn, nhưng mắt bị loà. Phải viết chữ thật to ngài mới đọc nổi, và ngài chỉ có thể nhận ra anh em trong nhà qua giọng nói.

Bây giờ, nơi vùng đất xa xăm của Nebraska, vị Linh Mục mù thứ ba này lại đến với tôi như một ngạc nhiên quá lớn. Sững sờ. Rung động. Ngỡ ngàng. Không ai cho tôi biết về người mù này trước khi đến, nên lần gặp gỡ bất ngờ này đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh, một xúc cảm nội tâm sâu xa. Ngài không mù vì tuổi già, nhưng mù từ lúc bé. Vào dòng chỉ ước mong đơn sơ làm ông thầy vĩnh viễn. Rồi tình yêu Chúa nhiệm mầu, lớn hơn cả lòng người ước mong, dẫn đưa ngài đến chức Linh Mục với đôi mắt mù. Ai có thể hiểu nổi những huyền nhiệm trong cuộc đời !

Cộng đoàn ở đây có chừng mười người. Một số cha dạy học, còn lại một số anh em vẫn cắp sách đến trường. Cha mù Bề Trên chuyên lo về linh hướng, chỉ đường thiêng liêng cho anh em sáng mắt. Chao ôi, người mù lại chỉ đường thiêng liêng cho người sáng mắt. Dẫn nhau đi trong u tối cuộc đời để vào ánh sánh huyền nhiệm. Mắt thể xác mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn thì sáng rực. Ngài còn làm Lễ tại Giáo Xứ, và đi giảng tĩnh tâm trên khắp nước Mỹ.

Có lần cha quản lý khuyên tôi: “Nếu có gì thắc mắc thì đến hỏi cha mù ấy, ngài mù nhưng lại thấy nhiều sự lắm.” Mù mà thấy nhiều sự thì chẳng phải là mù. Tật nguyền đôi mắt không làm cản ngăn lối bước đi về chân lý. Hành trình cuộc đời là hành trình tìm về chân lý, nhưng chân lý lại không phải vật chất để đôi mắt thể lý trông thấy, nên ánh mắt tâm hồn mới là đèn soi cho mọi khát khao kiếm tìm. Có đôi mắt sáng chưa hẳn là tìm được lối đi. Nhiều khi ta vẫn đi trong đêm tối tội lỗi với ánh mắt sáng ngời.

 Đã bao năm, tôi vẫn tự hào mình có đôi mắt sáng, nay đối diện với vị Linh Mục mù này tôi mới thấy mình mù loà và cần ngài hướng dẫn, chỉ đường. Cuộc sống vẫn luôn có những nghịch lý thú vị.

 Những ngày đầu gặp gỡ, tôi cảm thấy tội nghiệp và thương tâm cho Ngài. Những ngày sau chung sống, tiếp xúc và học hỏi, tôi lại thấy thương hại cho chính mình, vì mình có đôi mắt sáng mà chẳng thấy những gì cần thấy và đáng thấy. Trong khi vị mù này lại có thể thấy những điều từ đáy sâu thẳm của tâm hồn, thấy được ý nghĩa sâu xa của cuộc sống tâm linh và thân phận con người. Thấy Chúa trên cao. Thấy Chúa trong lòng cuộc sống. Thấy Chúa trong hạnh phúc cũng như trong từng nỗi đau. Mù mà thấy nhiều sự quá !

Văn phòng của ngài ở ngay trong trường đại học của Nhà Dòng. Phải mất khoảng mười phút mới có thể tản bộ tới đó; phải băng qua hai con đường xe chạy tấp nập. Vậy mà ngài đã đi qua về lại trên con đường ấy suốt hai mươi năm qua không hề hấn gì. Tôi vẫn thích tản bộ tới trường với ngài mỗi buổi sáng trên con đường ấy. Ngài vẫn thích có ai đi bên cạnh để chuyện trò, níu vai, để khỏi phải quờ quạng chiếc gậy.

 Có lần ngài nắm vai tôi vừa đi vừa nói: “Có cậu đi bên cạnh thì chiếc gậy mù này thất nghiệp !” Tôi cũng nhẹ nhàng đáp lại: “Vậy từ hôm nay con sẽ là cái gậy của cha mỗi sáng trên con đường này nhé.”

Trong thâm tâm, tôi không nghĩ mình giống chiếc gậy, nhưng giống những con chó đã được huấn luyện để dẫn dắt người mù. Công việc chút xíu như thế cũng có ích cho đời lắm chứ ! Và mình lại thấy vui với ý tưởng đó. Rồi quay lại với ngài tôi tiếp tục bông đùa: “Con thấy mình giống con chó dẫn dắt người mù hơn là chiếc gậy cha ạ, đời con bất tài nên làm công việc này chắc thích hợp đấy.” Ngài cũng tinh nghịch phản ứng: “Phải mất hai mươi lăm ngàn dollars mới huấn luyện được con chó đó, cậu có được bằng giá đó không ?” Rồi cả hai cùng cười khúc khích, biết đùa với nhau là cả một món quà.

 Sống với ngài được một tuần, ngài bắt đầu nhờ tôi chở đi làm Lễ ở một Giáo Xứ vào mỗi sáng Chúa Nhật. Lần đầu tiên ngài nói: “Ngày mai cậu chở cha đi làm Lễ nhé !” – “Thưa cha, Nhà Thờ ở đâu, có xa không ?” Tôi hỏi. “Chừng ba mươi phút lái xe.” Ngài đáp.

 Tôi bắt đầu do dự. Đường sá chưa rành, tuyết phủ khắp nơi, chở người sáng mắt thì người ta còn chỉ đường, chứ chở người mù chắc dẫn nhau ra nghĩa địa quá ! Trong đầu do dự, nhưng lại không muốn từ chối lòng tín nhiệm của ngài. Rồi tôi hỏi: “Cha có bản đồ không ?” Ngài trả lời: “Hình như không.” Hỏi xong tôi thấy mình ngớ ngẩn. Ngài đâu thấy đường đâu mà hỏi bản đồ, và nếu có bản đồ thì ngài cũng chẳng chỉ đường được.

Tôi quay lại nói tiếp: “Nhưng mà con chưa biết đường !” Ngài tự tin trả lời: “Lo gì ! Cha sẽ chỉ cho.” Tôi thấy nghi nghi trong lòng. Làm sao ngài biết đường ? Nhưng rồi tôi cũng đánh liều nhận lời.

Ngày hôm sau, lấy chìa khoá và đề máy xe. Trong lòng run lắm. Ngày Chúa nhật trong nhà đi vắng cả nên chẳng kịp hỏi ai. Lòng nghĩ thầm, ông cha mù này liều quá, dám nhờ mình chở đi đường tuyết phủ ở nơi lạ lẫm thế này.

Đề máy xong, ngài chỉ đường bằng miệng: “Con ra khỏi cổng, quẹo trái; đến stop sign đầu tiên quẹo phải; qua hai đèn xanh đèn đỏ, quẹo phải, rồi vào xa lộ. Và cứ tiếp tục như thế…” Tôi lái xe, ngài chỉ đường; qua bao con đường ngoằn ngoèo để đến Nhà Thờ. Tôi sửng sốt. Làm sao ngài có thể nhớ đường ? Rồi tôi tò mò hỏi: “Làm sao cha biết đường hay vậy ?” – “Cha có bản đồ.” Ngài vừa cười vừa đáp. “Sao cha nói với con là cha không có bản đồ ?” Tôi phản ứng. “Bản đồ ở trong đầu.” Ngài lại cười đùa giỡn. Thì ra, người mù lại có một bản đồ thật chính xác trong đầu.

 Giáo Xứ ngài đến dâng Lễ là một Giáo Xứ giàu. Ngôi Thánh Đường xây bằng gạch đỏ tươi trên một khu đất khá cao. Chung quanh là những khu nhà khá sang trọng, nên nó làm cho ngôi Thánh Đường thêm đẹp. Mùa đông không có những vườn cỏ, cây xanh hoa lá, nhưng nhìn cách chăm nom và trang trí khu vực Thánh Đường cũng đủ biết là dân có tiền nhiều.

 Có lần tôi tinh nghịch hỏi ngài: “Thưa cha, tại sao cha khấn khó nghèo mà cha lại đi giao du với dân giàu ?” Ngài vui vẻ đáp lại: “Có người giàu vật chất, nhưng tâm linh nghèo lắm. Phải học biết chia sẻ thì tinh thần mới giàu. Vật chất là ơn huệ Chúa ban. Biết chia sẻ nó tức là đã sống tinh thần nghèo. Cũng như đôi mắt là ơn huệ. Biết nhìn nhau trong yêu thương là đã mở lối cho chân lý đi về.”

 Rồi một chiều lạnh giá tuyết phủ, ngài đến bên tôi nhẹ nhàng đề nghị: “Ngày mai con chở cha ra phi trường nhé !” – “Cha đi đâu vậy ?” Tôi hỏi. – “Cha đi giảng tĩnh tâm cho một Giám Mục.” Ngài trả lời.

 Tôi sửng sốt tròn xoe đôi mắt nhìn ngài. Hoá ra, ngài vẫn thường xuyên đi giảng tĩnh tâm cho các Giám Mục và Linh Mục Hoa Kỳ ở nhiều Giáo Phận, vì thế sân bay đã trở nên quá quen thuộc đối với ngài. Sau chuyến đi này, sẽ có một Tổng Giám Mục Anh Giáo đến tại cộng đoàn này để xin ngài hướng dẫn cắm phòng. Vị Giám Mục này vẫn đến đây hàng năm để xin kẻ mù này soi dẫn, và họ đã trở nên bạn thân với nhau suốt bao năm qua.

Tôi lặng im. Một xúc cảm mãnh liệt dâng trào. Lạ quá, Chúa vẫn làm phép lạ hàng ngày trong những hạnh phúc đan quyện nỗi đau, trong những lãnh nhận và trong từng mất mát. Ngài vẫn hiện hữu trong từng đôi mắt sáng và trong những ánh mắt mù loà.

 Làm sao có thể nghi ngờ về sự hiện hữu của Thượng Đế khi tiếp xúc với những con người như vị Linh Mục mù này. Lòng tin của tôi thì yếu ớt, nhưng khi gặp Ngài, tâm hồn như được nung lên trong niềm tin. Tôi vẫn mãi suy tư, dưới một cái nhìn nào đó, Thiên Chúa đang dùng một người mù để hướng dẫn bao vị lãnh đạo mắt sáng….

 Hôm sau, tôi tiễn ngài ra phi trường. Ngài ra đi và rồi đã trở lại như bao con người bình thường khác. Dù thế, tôi vẫn cảm thấy có cái gì đó thật phi thường trong những cái bình thường ấy. Phi thường của tình yêu, sức mạnh, của ân sủng, của tất cả những gì mà Thiên Chúa có thể làm được cho con người và qua con người, ngay cả trong những con người tàn tật nhất.

 Sáu tháng ở Nebraska qua đi thật nhanh. Tôi phải chia tay ngài trong nuối tiếc, trong lòng kính trọng và yêu thương. Vẫn ước mong một ngày nào đó được ghé lại thăm ngài. Có lẽ lần tới khi trở lại, mình sẽ không còn hoang mang lo sợ như lần đầu mới đến, vì biết rằng nơi mảnh đất xa xôi đó, đang rực lên một tia sáng huyền nhiệm trong ánh mắt của một Linh Mục mù.

NGUYỄN THẢO NAM

Tranh luận giữa bà cụ và ba vị tiến sĩ về linh hồn

Tranh luận giữa bà cụ và ba vị tiến sĩ về linh hồn và sự sống sau khi chết

Buổi tuyên truyền thuyết vô thần chuẩn bị kết thúc trong sự thắng lợi, bỗng một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: “Tôi có thể hỏi thêm vài câu hỏi được không?” (Ảnh minh họa: Wiki)

bacu

Sau Thế chiến thứ nhất, một nước nọ muốn dùng phương pháp khoa học để tuyên truyền cho thuyết vô thần, họ mong muốn cả dân tộc thoát ly khỏi tôn giáo tín ngưỡng. Một lần chính quyền mời ba vị tiến sĩ lên thuyết giảng trước công chúng ở quảng trường.

Vị thứ nhất là tiến sĩ về Thiên văn, sau khi ông bước lên sân khấu lý giải vô số lý do về thuyết vô thần, cuối cùng ông hô to: “Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ hơn 20 năm nhưng chưa bao giờ trông thấy thần, vì thế chắc chắn không có thần thánh”. Sau câu nói ông nhận được tràng pháo tay của số đông công chúng.

Vị thứ hai là tiến sĩ Y học, sau khi nói rất nhiều đạo lý cho rằng con người tuyệt nhiên không có linh hồn, ông kết luận: “Tôi từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các bộ phận, thế nhưng không phát hiện có nơi nào để linh hồn gửi gắm. Trong tim à? Trong đầu à? Trong máu à? Tôi đều giải phẫu nhiều lần rồi nhưng không thấy gì, vì thế chắc chắn không có linh hồn”. Nói xong lại nhận được tràng pháo tay vang dội.

Vị thứ ba là một nữ tiến sĩ, một nhà luận lý học. Cô từ từ bước lên sân khấu rồi phát biểu: “Người chết giống như cái đèn bị tắt. Chết là hết, tuyệt đối không có cái gọi là Thiên đàng hay Địa ngục để phán xét. Tôi từng đọc qua các sách cổ kim đông tây nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này”.

Sau khi ba vị tiến sĩ thuyết giảng xong, người chủ trì hướng về phía công chúng nói: “Nếu trong tất cả mọi người có ai không thỏa mãn, hoặc muốn tranh luận, đều có quyền lên thảo luận công khai”.

Nhà Quảng Cáo

Sau một lúc lâu nhưng không có ai lên tiếng phản bác, buổi tuyên truyền chuẩn bị kết thúc trong sự thắng lợi. Bỗng một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: “Tôi có thể hỏi thêm vài câu hỏi được không?”

Vị chủ trì nói: “Rất hoan nghênh cụ!”

Thế rồi bà cụ nhìn vị tiến sĩ đầu tiên, hỏi: “Anh dùng kính viễn vọng nhìn được hơn 20 năm, thế anh có nhìn thấy gió không? Nó có hình dạng thế nào?”

Vị tiến sĩ trả lời: “Kính viễn vọng sao có thể trông thấy gió được thưa cụ?”

Bà cụ nói: “Trên thế giới có gió không? Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy gió, lẽ nào anh có thể dùng kính viễn vọng nhìn thấy thần? Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy thần thì có nghĩa là không có thần sao?”. Vị tiến sĩ chỉ biết im lặng không thể nói lại được.

Thế rồi bà cụ lại nhìn sang vị tiến sĩ thứ hai, hỏi: “Anh có yêu vợ anh không?”

Vị tiến sĩ kia thưa: “Dạ, có yêu thưa cụ”.

Bà cụ tiếp lời: “Vậy anh đưa con dao giải phẫu cho tôi, tôi thử mổ bụng anh xem thử cái gọi là ‘yêu’ đó nằm ở bộ phận nào? Trong gan? Trong dạ dày? Hay trong ruột?”. Bên dưới mọi người cười vang dội.

Tiếp tục, bà cụ lại nhìn sang nữ tiến sĩ hỏi: “Cô đã đọc quyển sách này chưa? Nó gọi là «Kinh thánh». Chẳng phải rõ ràng quyển sách này có nói mọi người sau khi chết đều chịu phán quyết sao? Cô đừng tưởng chết là hết, phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống rất nhiều! Khi cô còn trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng ‘không lâu nữa cô sẽ có mặt trên trái đất, có trời trăng sơn thủy, phải ăn cơm mặc quần áo’, cô có tin không? Thế nhưng hôm nay cô không chỉ tin mà còn thực sự đã đang sống trong thế giới này. Thế giới vĩnh hằng cũng là như thế!”

Theo secretchina

Tinh Vệ biên dịch