Nhiều Cơ Quan Thi Hành Luật Pháp phớt lờ các nhà phê bình – công khai trưng bày hay dán hàng chữ “ Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa”

Nhiều Cơ Quan Thi Hành Luật Pháp phớt lờ các nhà phê bình – công khai trưng bày hay dán hàng chữ “ Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa”.(In God We Trust)

Giuse Thẩm Nguyễn

 

Trong những tháng gần đây, rất nhiều cơ quan thi hành luật phát đã dán hoặc treo câu phương châm “Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa” trên các xe cảnh sát tuần tra, gây lên sự quan ngại trong giới phê bình.

Theo một tường trình mới đây trên tờ New York Times, rất nhiều cảnh sát đã tự bỏ tiền mua và dán câu phương châm này trên các xe tuần tra của họ.

“Nếu tôi dùng tiền của mình để mua câu phương châm và câu này cũng có trên là cờ của tiểu bang, thì tôi có thể trưng bày câu phương châm ấy trên xe tuần tra của tôi,” Cảnh sát tuần tra, Johnny Moats, thuộc quận hạt Polk, người đã viết thư cho cảnh sát Georgia để ủng hộ việc đặt câu phương châm này trên các xe của cơ quan công lực đã nói như thế. “Hầu như mỗi ngày, tôi đều nhận được điện thoại của các cảnh sát tuần tra khác và nói rằng ‘Tôi đã làm xong rồi, hay bạn có thể gởi cho tôi bức hình xe tuần tra của bạn có gắn câu phương châm không ?’

Nhưng việc phô bày câu phương châm này đã bị chỉ chích dữ dội, theo đài truyền hình Fox 7 ở Austin, Texas thì Trụ Sở Cảnh Sát Chidress là một trong 57 sở cảnh sát đã nhận được thư khiếu nại của cái gọi là Nhóm Quyền Tự DoTôn Giáo có trụ sở ở Winconsin , yêu cầu tháo bỏ bảng phô bày mang tính tôn giáo này.

“Chúng tôi lấy làm quan ngại từ phía những người không tín ngưỡng trong những cộng đồng nhỏ bé hơn, nơi đó họ cảm thấy bị xúc phạm,” Cô Annie Laurie Gaylor, người cầm đầu nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo nói với đài truyền hình Fox 7 như vậy. “Những tuần tra viên và cảnh sát này nghĩ rằng họ nghe theo lời hướng dẫn của Chúa hơn là luật công dân của chúng ta và điều này làm chúng tôi sợ hãi.”

Cảnh Sát Trưởng của Sở Cảnh Sát Childress là Andrian Garcia đã gởi văn thư trả lời tới các nhóm chống đối và đăng trên phương tiện truyền thông xã hội. Vị cảnh sát bảo các nhóm chống đối rằng “ hãy đi chỗ khác chơi.”

Theo báo New York Times thì hiện tượng này đang tăng dần. Cảnh sát viên và trụ sở cảnh sát bắt đầu phô bày những bảng châm ngôn, trong khi nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo cho rằng việc trưng bày châm ngôn là vi hiến và cần chấm dứt. Cuộc tranh chấp gây chú ý và càng lúc càng nhiều cơ quan thi hành luật pháp tham gia.

Nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo đã vô tình làm cho việc trưng bày phương châm lan rộng ra. Cô Gaylor thú nhận “Tôi không nghĩ chúng ta có thể làm được gì,”

Nguồn gốc của phương châm “In God We Trust”

“Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa” là câu châm ngôn của quốc gia Hoa Kỳ, được sinh ra và gắn bó mật thiết với bản quốc ca của Hoa Kỳ “The Star-Spangled Banner” được sáng tác vào năm 1814 bởi Francis Scott Key và chính thức được quốc hội thông qua và trở thành quốc ca Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 3 năm 1931 dưới thời Tổng Thống Herbert Hoover. Chính trong lời ca của bài quốc ca cũng nhắc tới câu châm ngôn này. Câu này đã được khắc trên đá, trên tường của những tòa nhà thuộc cơ quan công quyền, nó còn được in trên tiền giấy và đúc trên tiền cắc lưu hành qua khắp nơi. Câu châm ngôn này cũng được khắc vào trong tim và được thốt lên từ miệng của hàng triệu người Mỹ yêu chuộng tự do. Khi một vị Tổng Thống hay một vị quan chức chính quyền nhậm chức, theo truyền thống họ đặt tay trên Thánh Kinh để tuyên thệ và trung thành với châm ngôn quốc gia “Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa.”

Những người Việt Nam khi mới đặt chân tới ngưỡng cửa Đại Học Cộng Đồng đều được học bài học đầu tiên này. Người Mỹ đến vùng đất này không phải vì lý do kinh tế, nhưng vì lý do tín ngưỡng. Niềm tin của họ bi bách hại và họ đến đây để được tự do sống với niềm tin của mình. Hằng năm, họ tạ ơn Thiên Chúa qua lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), họ tổ chức mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh (Christmass), họ kỷ niệm ngày Chúa chịu chết và sống lại bằng Lễ Phục Sinh (Easter)…

Qua thời gian, giữa một cái xã hội càng ngày càng xuống dốc về luân lý, có những kẻ vô thần đã muốn xóa bỏ câu châm ngôn đó nơi công cộng và cùng với chính sách mị dân của các viên chức dân cử, chúng đã thực hiện được vài yêu sách như chúng muốn.

Hôm nay phong trào dán, trưng bày câu phương châm trên các xe cảnh sát chỉ là sự về nguồn. Khi mà những nhân viên cảnh sát không chắc là mình có thể trở về nhà an bình sau một ngày công tác, thì họ còn biết trông cậy vào ai bây giờ… dĩ nhiên chỉ có Thiên Chúa mới chính là câu trả lời cho tất cả những vấn nạn trong đời họ.

XÂY NÚI CÚI ĐỂ LÀM GÌ ?

XÂY NÚI CÚI ĐỂ LÀM GÌ ?

 Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Được biết  ở một địa phận kia bên nhà, người ta đang có chương trình vĩ đại là xây NÚI CÚI tốn phí đến cả ngàn tỷ đồng VN để lôi cuốn du khách đến viếng thăm và cũng để chào mừng Đức Thánh Cha sẽ sang thăm Viê t Nam trong năm 2016 theo sự tưởng tượng vô căn cứ của họ.

Chúng ta nghĩ gì về công trình lớn lao mang tính chất phô trương  bề ngoài  trên đây  ?

Trước hết, phải hỏi xem Chúa và Đức Mẹ  có hài  lòng  được tôn thờ và tôn vinh với công trình hoành tráng và tốn phí trên hay không ?

Chắc chắn là không, vì Chúa chỉ muốn ngự trị trong tâm hồn của những ai thành tâm yêu mến Người,  chứ không vui thích  được tôn thờ ở những nơi sang trọng lộng lẫy bề ngoài. Vì thế  xưa kia,  để trả lời cho một phụ nữ Samaritana kia nói với Chúa rằng  “cha ông chúng tôi đã thờ phương Thiên Chúa  trên núi này”,   Chúa   Giêsu đã nói như sau:

  Nhưng giờ đã đến- và chính là lúc này đây-

Giờ những người thờ phượng đích thực

Sẽ thờ phượng  Chúa Cha trong thần khí và sự thật

Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. ( Ga 4: 23)

Về phần Đức Mẹ -vốn khiêm cung  và khó nghèo-, cũng sẽ không vui thích  được tôn vinh với công trình quá tốn phí bề ngoài như thế.

Do đó,  đáng lẽ phải xây đền thờ, xây  NÚI CÚI trong tâm hồn của mọi tín hữu cho Chúa và cho Đức Mẹ ngự trị, chứ không nên xây phô trương  bên ngoài cho thiên hạ chiêm ngưỡng để hãnh diện với họ về khả năng tài chính phong phú của mình, trong khi  thực tế, giáo dân  nhiều người còn túng thiếu, khó khăn với việc sinh sống, nên không có tiền để đóng góp vào công trình quá tốn kém này.

Nhu vậy, nếu dùng tiền xây cất quá tốn phí này để trợ giúp cho người nghèo khó thì chắc chắn hữu ích và có lợi hơn cho việc phúc âm hóa, tức mở mang Vương Quốc tình yêu, công bằng , bác ái và thánh thiện của Chúa trong tâm hồn mọi người để đánh tan bóng đen của  tội lỗi và sự dữ  gây ra  bởi  “văn hóa sự chết” đang bao phủ thế giới và tâm hồn của quá nhiều người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân, và vô nhân đạo ngày nay. Văn hóa sự chết thể hiện rõ nét ở lối sống tôn thờ tiền bạc của cải vật chất, tôn thờ khoái lạc ( hedonism) sa hoa ngạo nghễ và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ của biết bao người xấu số, nạn nhân của mọi bất công xã hội ở khắp nơi,

Như thế, thử hỏi :  việc xây công trình lớn lao trên  có cần thiết, có làm vinh danh Chúa, Đức Mẹ và có  lợi gì  cho mục tiêu tái  Phúc Âm Hóa -hay ngược lại-  là  phản  Phúc Âm hóa ( anti-re evangelization) của giáo hội địa phương ?

Phải nói ngay là không có lợi gì cho mục đích mở mang Nước Chúa vì thực chất sa hoa hào nhoáng bề ngoài không phù hợp với tinh thần nghèo khó mà Giáo Hội  phải sống  từ trong tâm hồn ra đến hành động bên ngoài để làm chứng tá  cho Chúa Kitô, Đấng đã nghèo khó đến nỗi   không có  chỗ tựa đầu, trong khi chim trời có tổ, cáo chồn có hang.” ( Mt  8: 20)

Chúa Kitô  đã thực sự  khó nghèo, sống lang thang như người vô gia cư ( homeless) trong suốt cuộc đời tại thế, từ lúc sinh ra trong hang bò lừa cho đến ngày chết trần trụi trên thập giá  chỉ vì muốn cho con người được cứu độ và vui hưởng sự sang giầu đích thực  của Nước Trời.

Trong bài giảng trên núi, Chúa đã nói rõ : “phúc cho ai có tình thần nghèo khó, vì  Nước Trời là của họ.”( Mt 5: 1)

Phải có tinh thần nghèo khó để không làm nô lệ cho tiền của khiến tôn thờ tiền bạc  ( cult of money)  như Đức Thánh Cha Phanxicô đã  phê bình thế giới tục hóa ngày nay. Phải có tinh thần nghèo khó để khinh chê những của cải phù du, nhứng tiện nghi sa hoa và hào nhoáng  ở đời này để dễ  nâng tâm hồn lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quí giầu sang và hạnh phúc đích thực..

Phải khó nghèo thực sự để không lãng phí tiền bạc vào những việc mà thực chất chỉ là phô trương , hào nhoáng bề ngoài , tuyệt đối không có lợi gì cho việc rao giảng Tin mừng của Chúa Kitô trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công với  đa số người dân-trong đó có  những giáo dân-còn nghèo nàn , chật vật với cuộc sống  bên cạnh môt thiểu số sang giầu tư bản đỏ và  đai gia  không hề có chút cảm thông bác ái đối với đa số quần chúng nghèo khó,  thấp cổ bé miệng, nạn nhân của bất công bóc lột

Trong một hoàn cảnh xã hội như vậy, người Tông Đồ của Chúa Kitô phải  đứng về phía những người nghèo khó theo gương Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô đang là chứng nhân hùng hồn, hay  đứng về phía những đại gia  và tư bản đỏ để thi đua với họ về  giầu sang hào  nhoáng bề  ngoài với những thánh đường lộng lẫy, nhà xứ và tòa giám mục sang trọng -và đặc biệt là xây NÚI CÚI tốn phí hàng  ngàn tỷ  đồng , một việc làm hoàn toàn không cần thiết để phúc âm hóa môi trường.

Rao giảng Chúa Kitô khó nghèo mà không sống khó nghèo thì sẽ không thuyết phục được ai tin lời mình giảng dạy, nếu không muốn nói là làm trò cười cho họ.

Nói khác đi, thi hành mục đích   tái phúc âm hóa thế giới mà Giáo Hội đã  kêu gọi từ mấy năm nay  có cần đến công trình xây cất quá tốn phí  kia  hay không , hay đây chỉ là sự phô trương  không cần thiết vẻ hào nhoáng bề ngoài, một việc hoàn toàn trái nghịch với tinh thần và đời sống  khó nghèo của Chúa Kitô, “  Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự  ý trở nên khó nghèo vì anh  em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có,” ( 2 Cr 8: 9)

Nếu Giáo Hội mà không sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô thì sẽ là nhân chứng cho ai ?  cho khát vọng được giầu sang phú quí đich thực trên Nước Trời hay cho sự sang giầu phù phiếm  chóng qua ở đời này ?

Lại nữa, việc làm trên cũng đi ngược lại đường lối sống và mục vụ  của Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã chọn Thánh Phanxicô khó khăn thành Assisi làm khẩu hiệu cho triều đại Giáo Hoàng của mình. Chắc chấn ngài sẽ không hài lòng về công trình phô trương quá  tốn kém trên  mà người ta đang phóng đại trí tưởng tượng về việc ngài sẽ sang  thăm ViêtNam trong năm 2016 để  moi tiền đóng góp của giáo dân trong và ngoài nước.

Và nếu quả thực Đức Thánh Cha sẽ sang thăm Viêt Nam như người ta đang  tưởng tượng vô căn cứ, thì chắc chắn ngài sẽ không đến chiêm ngưỡng NÚI CÚI mà sẽ đến thăm nhừng tù nhân, những người già yêu không có ai săn sóc và những trẻ mồ côi, khuyết tật, là những thành phần xấu số trong mọi xã hội mà ngài ưu tiên quan tâm đến họ, vì Chúa Kitô nghèo khó đang hiện diện trong những người xấu số này.

Vì thế, là nhân chứng cho Chúa Kitô khó nghèo, và là cộng sự viên đắc lực của Đức Thánh Cha yêu thương người nghèo, sống giản dị khó nghèo,  mọi người có trách nhiệm phục vụ cho Dân Chúa trong Giáo Hội phải sống tinh thần khó nghèo của Chúa và  gương mẫu phục vụ của Đức đương kim Giáo Hoàng để đời sống và việc làm của minh không mâu thuẫn với lời mình rao giảng cho người khác. Có như vậy thì việc phúc âm hóa, hay tái phúc âm mới có kết quả tốt đẹp mong muốn.

Ngươc lại, cứ lo xây nhà thờ cho sang cho đẹp, xây tượng đài tốn phí để phô trương và là lý do  để tiếp tục thi nhau ra nước ngoài xin tiền cho những nhu cầu bất tận,  thì mục tiêu phúc âm hóa sẽ không  bao giờ mang lại kết quả nào, nếu không muốn nói là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Trống đanh xuôi kèn thổi ngược vì trong khi giáo dân nhiều người còn nghèo túng, giữa một xã hội  đầy bất công và tụt hậu thê thảm về luân lý đạo đức, mà Giáo Hội lại kiêu hãnh với   những công trình hoành tráng , quá tốn phí như xây NÚI CÚI thì   quả thật là một mỉa mai trơ trẽn, một thất bại trông thấy  cho mục tiêu phúc âm hóa của giáo hội địa phương.

Ở những quốc gia giầu có như Hoa Kỳ, Canada, ÚC Châu, Pháp, Đức, ..người ta cũng không phô trương hào nhoáng với những công trình xây cất đồ sộ. Vậy tại sao ở một nước còn nghèo và lạc hậu như Viêt Nam mà giáo hội địa phương lại ngạo nghễ với công trình xây cất quá tốn phí  như  vậy, mà thực chất chỉ để phô trương  sự  phồn thịnh của giáo hội địa phương và phản tác dụng cho mục tiêu phúc âm hóa môi trường để mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin Chúa Kitô dể được cứu rỗi. Đây phải là sứ vụ quan trọng nhất của Giáo Hội ở khắp nơi.

Tại hại hơn nữa, việc xây cất kia còn vô tình đánh bóng cho chế độ cai trị, vô tình biện  minh  là có tự do tôn giáo, nên mới có công trình lớn lao tốn phí như vậy,  trong khi thực tế Giáo Hội  vẫn còn tiếp tục bị hạn chế  về  tự  do hành đạo , chưa đáng  được tiếp tay tô điểm qua việc làm phô trương hào nhoáng trên đây.

Đáng lẽ, cần thiết hơn cả là xây dựng niềm tin vững chắc trong lòng  người tín hữu  được trao phó cho mình coi sóc, để giữa một xã hội tụt hậu thê thảm về  luân lý đạo đức, họ sẽ là chứng nhân hùng hồn cho Chúa Kitô bằng đời sống công bình, yêu mến sự thiện hảo  và khinh chê sự giầu sang  hợm hĩnh  của những người không có niềm tin Chúa nên chỉ biết vơ vét của cải để làm giầu,  bất chấp công bình bác ái và nhân đạo.

Thêm vào đó, một nhu cầu quan trọng không kém là  đào  tạo hàng giáo sĩ cho có chiều sâu thực sự để họ biết  phục vụ hữu hiệu  và công bình trong thực tế. Cụ thể, phải  sửa đối cách phục vụ  để không bất công với người nghèo, không cho họ mang xác người quá cố vào trong nhà thờ, không cho cả thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ tang;  trong khi cho xác người giầu được đem vào trong nhà thờ và cho nhiều linh mục được đồng tế trong lễ tang,  như có nhân chứng đã kể lại.

Một điều bất công đáng nói nhất là ở các giáo phận bên nhà cho đến nay, các  linh mục chánh hay phó  xứ không được trả lương tối thiểu đồng đều, nên người coi xứ giầu thì được giầu có theo, coi xứ nghèo thì thiệt thòi hơn. Vì thế, mạnh ai nấy tìm cách ra nước ngoài để xin tiền cho những nhu cầu bất tận.

Thử hói giám mục có kiểm soát được các linh mục của mình ra nước ngoài xin tiền hay không , và có biết các linh mục kiếm được bao nhiêu tiền và đem về chi tiêu cho mục đích gì ?

Nếu không biết thì vô tình vẫn làm ngơ cho giáo sĩ, tu sĩ của mình thi nhau ra nước ngoài kiếm tiền bỏ túi hay chi phí cho những mục đích không ai biết.Chúa nói :   anh  em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.” ( Lc 16: 13)

Lời Chúa trên đây phải là đèn soi bước đi cho hàng giáo sĩ và tu sĩ cách riêng  ở khắp nơi trong Giáo Hội .Không ai có thể dạy cho người khác điều mà chính mình lại không sống để làm gương, và như vậy sẽ trở thành phản chứng thay vì là nhân chứng trung thực cho Chúa Kitô, Người  đã  nói:   ai có tai nghe thì nghe.” ( Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8).

Tóm lại, Giáo Hội không thể rao giảng hữu hiệu Chúa Kitô khó nghèo cho ai nếu đời sống và việc làm của mình lại mâu thuẫn với điều mình giảng dậy cho người khác.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

“Tình là một chuyện muôn màu”,

“Tình là một chuyện muôn màu”,
Tình là mình hạnh phúc thật mau
Tình là một bài thơ sầu
Tình là một niềm nhớ thương nhau.”

(Văn Phụng – Tình)

Trần Ngọc Mười Hai

(Phil 1: 7-10)

“Là bài thơ sầu”, “là mình thành nhớ thương nhau”, sao? Phải chăng, đó là thứ “Tình” của người mình, còn đó rất nhớ thương? Trả lời câu ở trên, bần đạo xin thưa như thế này:

Hồi còn nhỏ, bần đạo thích được các anh chị dắt đi phố Lê Lợi Sàigòn và cứ dừng lại xem chàng trai nọ đứng ở góc phố cứ chìa 3 cây bài “Tây-Đầm-Xì” tráo qua/tráo lại rất nhanh rồi đố người đi đường xem cây “Xì Cơ” trốn đâu rồi? Bần đạo đây, nghĩ mình tinh mắt bèn chỉ vào chỗ nó vừa hiện rõ mồn một, nhưng khi chàng trai lật cây bài ra xem, mới thấy trật-lấc, thế mới chết.

Kịp khi lớn lên, bần đạo lại cũng gặp một tay ảo-thuật sừng sỏ khác, là Lm Tiến Lộc CSsR chuyên làm trò tiểu xảo, cũng chìa ra cho mọi người xem nguyên bộ bài “cào”, xào qua/xào lại rồi bảo bé em gần đó rút bất cứ cây nào đưa cho ông để bỏ vào giữa. Bần đạo khi ấy lại thấy có em bé rút được cây “Xì cơ” rồi lật úp đưa cho nhà ảo-thuật tìm. Chẳng biết ảo-thuật-gia Tiến Lộc xào xáo thế nào rồi chìa cho người rút đúng cây bài giấu kín, là cây “Xì cơ” có trái tim cũng rất tình.

Kể chuyện trên, bần đạo muốn nói lên rằng: “Tình người” đầy trữ-tình gồm tóm nơi cây “Xì cơ” dù có là “chuyện muôn mầu”, “thơ sầu”, hoặc bài cào sao đó, vẫn là chuyện của người đời, rất mọi thời.

Kể thế rồi, nay bần đạo đây lại mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp câu hát khác, lại vẫn bảo:

“Tình đẹp tựa mùa thu vàng,

Tình mình nhiều mộng ước miên man.

Tình là một chuyện huy hoàng,

Tình mình là thành nhớ hoang mang.

Yêu nhau khi xuân tươi thắm,

Yêu nhau trong tiếng ca tiếng đàn.

Yêu nhau trong muôn tia nắng,

Yêu nhau trong ánh trăng mơ màng.

Yêu nhau khi sương thu rơi,

Yêu nhau khi hoa lá xanh tươi.

Yêu nhau khi mưa đông rơi,

Yêu nhau Yêu nhau mãi suốt đời.”

(Văn Phụng – bđd)

Có là chuyện gì đi nữa, thì “Tình Người” vẫn là thứ tình đời lúc này lúc khác, rất khác biệt. Có lúc, nó là tình-tự giữa hai người, mà thôi. Có khi, nó lại là thứ tình-tiết của hết mọi người, gửi đến muôn người. Có lần, nó lại là thứ tình phải có như người nhà Đạo vẫn bảo con dân dưới trướng, ở muôn nơi.

Là tình Đạo hay tình đời, cũng vẫn là giòng chảy tình người ở dưới thế, khác với tình của động/thực-vật xinh tươi, bền muôn kiếp.

Tình nhà Đạo hôm nay, gặp lúc có nhiều người thắc mắc hỏi han, để bề trên truyền-tải một định-nghĩa khá chắc nịch.

Nói về “tình muôn mầu” ở nhà Đạo, vừa qua bần đạo lại hân-hạnh được “dự giờ” buổi học tập/bàn luận về chi-tiết nghe hơi lạ. Nay, ghi lại đôi giòng để bạn và tôi, ta san sẻ cho nhau. Sẻ san, bằng những câu/những lời lẽ nghe mãi vẫn không quên/không chán. Chán và quên sao được, khi câu chuyện này lại liên-quan đến mọi người và chính mình.

Thế nên, trước khi đi vào chi-tiết về những tình-tự, mời bạn/mời tôi, ta thử bước vào vườn hoa truyện kể để minh-hoạ, cho nhẹ nhõm.

Truyện rằng:

Đệ tử đi một lúc lại quay lại hỏi Sư Phụ

“Một người đang có bà vợ xinh đẹp, nay bảo người ấy nhường vợ lại cho con có được không?”

Sư phụ trả lời “Không được!”

Đệ tử: “Tại sao?”

Sư phụ: “Vi` nếu được thì ta đã xin nhường trước rồi”.

Đệ tử chới với: “Vậy thì` phải làm sao?”

Sư Phụ điềm tĩnh nói “Con hãy kiếm một cô trinh nữ xinh đẹp hơn để xin hoán chuyển với vợ ông ta.”

Đệ tử suy nghĩ một lúc rồi nói “NO, NO, NO…Bộ tui ngu sao sư phụ?”

Sư phụ: “Thê’ thi` mày là Sư Phụ tao rồi. Dẹp đi con!”

Truyện kể rồi, nay ta đi vào vấn-đề chính là “Tình” của con người trong đó có phần diễn ý như sau:

“Về lịch-sử, và trên thực-tế vẫn thế, giòng đời nhân-loại thấy biến-hoá thứ tình người diễn-biến giữa hai nhân-vật mà Tạo-hoá đã tác-thành, là tình mẹ cha, tức tình mẫu tử và phụ-tử.

Dựa trên nền-tảng này, nhiều nền văn-minh/văn-hoá khác nhau lại đã dựng-xây đời người ở trong đó. Đây, không là chuyện ngẫu-nhiên, huyễn-hoặc mà là cung-cách thực-thụ mà thiên-nhân/vạn-vật đã tìm thấy cho chính nó. Chính phát-xuất tự thứ tình khác-biệt của mẹ cha, mà sự sống của trẻ nhỏ đã xuất-phát và san-sẻ.

Rồi từ đó, tình người phát-triển liên-hồi biến thành thứ tình khác phái này nọ nơi cung lòng của con người ở mỗi phía. Chính từ đây, nảy sinh sự khác-biệt và/hoặc tương-tự ở con người. Là người, mỗi phái-tính hoặc mỗi phía/mỗi bên đều giống nhau vì cùng là con người và cũng khác-biệt nhau qua tư-cách của con người.

Trước nhất, con người tăng-trưởng là do tình người thân-thương nơi tính-chất giống nhau, rất tương-tự về phái-tính, tức thứ tình cùng phái vẫn là chuyện tự-nhiên khi con người thương yêu/mến mộ nhau vì thấy người khác lại cũng giống như mình. Và rồi, theo bản-năng, lại cũng ghét bỏ các khiá-cạnh nào đó khác-biệt mình.

Thành thử, ngay từ buổi đầu đã thấy xuất-hiện sự thể các người anh/người chị một phần nào được xã-hội-hoá cả về tình thương. Con người thời đầu sống theo đoàn-lũ/đám đông, và rồi đoàn ấy lại giết đi vị lãnh-tụ (tức bậc cha/chú) để thay thế. Rồi từ đó, phóng ngoại thuyết tự kỷ của Narcisse chuyên chiêm ngắm nét đẹp của bản thân. Chỉ vào thời sau này, trong lịch-sử nhân-loại, mới có mối tình giữa người khác phái, đã trồi lên. Ở tình này, hàm-ẩn thứ tình-tự mà tiếng Đức gọi là “Aufhebung” (tức tình đậm sâu) xuất khỏi tình tự-kỷ rất Narcisse.

Tình khác phái, lại mới mẻ và chế-ngự thứ tình cùng phái tính, Nhưng, vẫn không hoàn-toàn loại bỏ nhau, dù nhiều người có cảm-giác là mình từng có hoặc phải làm như thế. Đây là thứ tình nào đó cần diễn-tả cho đủ sắc-thái, rất mỹ-miều.

Từ đó đã thấy rằng: Tình gia-đình như ta biết, chỉ phát-triển vào giai-đoạn muộn-màng từ “tình người khác phái” vốn phát-triển cũng khá chậm. Thành thử, tình mẹ/cha cũng như tình mẫu tử và phụ-tử đều ra như thế. Muốn hiểu biết về tình này, cần hiểu rõ tình phu-phụ là tình có cam-đoam/cam-kết sống cả đời. Đây, là cung-cách để ta tiếp-cận những gì khác-biệt với ta, vượt quá cuộc sống ngắn-ngủi của con người. Điều này còn có nghĩa: đây là phương-cách giúp ta giáp mặt được sự chết cũng như sự sống, rất khác-biệt.” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Between two wars, Australian Catholic University Workshop 22/8/2015, tr. 6)

Cuối cùng thì, có đồng ý hay không với thứ “Tình” muôn mầu/muôn sắc rất con người như thế không có nghĩa là: con người của ta sẽ cứ trẻ mãi/không già. Thế nên, lại có thắc-mắc những hỏi rằng “Tình người”còn giữ mãi muôn mầu/muôn sắc hay không, khi về già? Đó là đại-ý của nhận-định ở bên dưới, vốn dĩ cho thấy các sắc mầu thực-thụ của tình người khi về già như sau:

“Khi ta già, không phải già về hình dáng, tuổi tác mà già về nhận thức. Ta dần dần vô cảm với những vui buồn của cuộc sống, với những cuộc gặp gỡ, chia tay vì ta nhận ra đó là những vô thường của cuộc đời, thoáng đến rồi thoáng đi!

Khi ta già, ta không còn những ham muốn của trẻ con, thay vì muốn nổi trội, muốn người khác công nhận thì ta lại muốn tự mình thừa nhận chính mình!

Khi ta già,ta không còn thích so sánh mình với những người khác vì ta hiểu mỗi người luôn có những ưu, khuyết điểm khác nhau, ta sống thật với những suy nhĩ, cảm xúc của mình vì ta hiểu chỉ có ta mới biết ta muốn gì và ta cần gì trong cuộc sống này.

Khi ta già, ta không còn thích chạy theo những mối tình chóng đến, chóng đi, ta luôn muốn tìm một ai đó hiểu mình, một bàn tay luôn nắm lấy tay ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Khi ta già, ta không còn dùng từ ‘nếu mà, giá mà…’ vì ta hiểu có những thứ trong cuộc sống đã xảy ra thì không thể quay ngược thời gian lại, và ta phải chấp nhận, đối mặt với nó.

Khi ta già, ta không còn thích tranh luận vì những quan điểm sống khác nhau, vì ta hiểu mỗi người luôn có một đời để sống, ai cũng có quyền chọn lựa và đi những con đường khác nhau, chỉ cần mỗi chúng ta phải có trách nhiệm  với những gì chúng ta đã chọn và con đường đó không gây ảnh hưởng xấu tới ai.

Khi ta già, ta không nên vội đánh giá một người là xấu hay tốt, đúng hay sai, mà ta hiểu trước tiên là phải nhìn lại mình đã tốt hay chưa, đặt mình vào hoàn cảnh người khác, và ta nên nghĩ ta có quyền phê bình người khác hay không khi mà bản thân ta chưa thật sự tốt?

Khi ta già, nhìn thấy những lỗi lầm của người khác, ta không còn chê trách, chế diễu mà cảm thấy thương họ nhiều hơn và luôn muốn tìm cách giúp họ chuộc lại lỗi lầm. Và chính họ là những là những tấm gương giúp chúng ta phản chiếu, cảnh tỉnh lại chính mình!

Khi ta già, ta chợt nhận ra ý nghĩa của những cuộc gặp gỡ, chia tay, những mất mát, thất bại, thành công trong cuộc sống đều có ý nghĩa riêng của nó!

Khi ta già, ta càng nhớ về quá khứ, trân trọng những kỷ niệm đẹp mà ta đã có, những tình thương yêu mà người khác dành tặng cho ta, ta chợt nhận ra  đã có một thời  vụn vặt, trẻ con; nhìn lại những nỗi buồn với tâm trạng bình thản hơn.

Khi ta già, ta không còn dùng những từ ‘để mai nhé, để sau này’ vì ta hiểu cuộc sống nay không ai biết trước những gì mà ngày mai sẽ xảy ra, và ta sẽ trân trọng hơn những giây phút của hiện tại.

Khi ta già, ta không còn hứa nhiều như trước và không nên hứa khi ta chưa chắc đã giữ được lời hứa đó hay không vì ta hiểu mỗi lời hứa có thể mang lại hy vọng, niềm vui cho ai đó cũng như những nỗi buồn, thất vọng cho họ nếu những lời hứa không được thực hiện.

Khi ta già, ta chợt thấy bình yên khi nhìn nụ cười trẻ thơ,vẻ đẹp trong sáng mà một thời ta cũng vậy. Ta thích ngắm nhìn ngày mới lớn lên, những giọt sương đọng lại trên lá, những bông hoa mới nở, những tia nắng nhạt dần khi hoàng hôn buông xuống.

Khi ta già, ta thầm cám ơn những gì cuộc sống ban tặng cho ta, tình cảm thiêng liêng của gia đình, bạn bè, những người luôn nâng đỡ ta vượt qua những chông chênh của cuộc đời; những thất bại, khó khăn làm ta ngày một trưởng thành. Những người cần sự giúp đỡ của ta giúp ta thấy cuộc sống mình ngày càng ý nghĩa hơn!

Và khi ta thật sự già, ta biết rằng hạnh phúc là cho đi chứ không phải là nhận; yêu thương một ai đó là làm cho họ hạnh phúc, không phải là chiếm hữu. Ta nhận ra mỗi con người đều có những lỗi lầm riêng của mình. Và ta hiểu, tha thứ, khoan dung cho người khác cũng chính là tha thứ, khoan dung cho chính mình. Ta yêu hơn cuộc sống này, yêu thương mọi người cũng như yêu thương chính bản thân ta.”

Như thế là, già đâu không biết, chỉ biết có một điều, rằng: tình người, tình ta và tình của mọi người đối với nhau, sẽ không bao giờ già cả. Đó, là ý-tứ trổi-bật được người viết nhạc, ghi lại những giòng chảy đầy thương yêu rất hết tình, như ở dưới:

“Tình là một chuyện âu sầu
Tình là mình nhiều nỗi thương đau
Tình là một chuyện chia lìa
Tình là mình thổn thức -dêm khuya
Tình đẹp tưạ mùa thu vàng
Tình là mình lệ ướt rơi tuôn
Tình là một chuyện đau lòng
Tình là mình mỏi mắt chờ trông

Yêu nhau chi cho thương nhớ
Yêu nhau chi khiến đôi mắt mờ
Yêu nhau sao không đi tới
Yêu nhau sao đã quên nhau rồi
Yêu nhau chi cho tan mơ
Yêu nhau chi cho mắt hoen mờ
Yêu nhau chi cho thương đau
Yêu nhau chi cho mãi âu sầu.”

(Văn Phụng – Tình)

Tình người, thật ra cũng chẳng “âu sầu mãi” đâu. Bởi, khi đã “yêu nhau (rồi) sao (ta lại) không đi tới?”. Và, khi đã “yêu nhau (rồi) sao (cứ) quên mau?” Phải chăng, là vì quên-lãng nên người nghệ sĩ hôm nay mới nhắc nhở bằng câu hát:

“Đành rằng tình là âu sầu,
Đành rằng tình là nhớ là đau.
Đành rằng tình là chia lìa,
Đành rằng tình là khóc đêm khuya.
Đành rằng tình là ..đau buồn,
Đành rằng lệ mình ướt rơi tuôn.
Đành rằng tình là ..đau lòng,
Đành rằng tình là mãi chờ mong.
Nhưng sao ta mơ yêu mãi,
Nhưng sao ta vẫn thương nhớ hoài.
Mơ yêu đương trong tia nắng,
Say sưa trong ánh trăng mơ màng.
Bâng khuâng khi sương thu rơi,
Cô đơn khi hoa lá tơi bời.
Lang thang khi mưa rơi rơi,
Mơ yêu đương mơ mãi suốt đời……

(Văn Phụng – Tình)

Phải chăng, đó lại là và vẫn là thứ “Tình” cũng rất người, ở ngoài đời? Thế thì, tình người ở nhà Đạo, sẽ ra sao? Trả lời câu này, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên tìm vào vườn hoa đầy thứ tình ở Kinh Sách rất trong Đạo có những lời nhủ khuyên, như sau:

“Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em,

đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi.

Khi tôi bị xiềng xích,

cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng,

anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được.

Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi:

tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả,

với tình thương-yêu của Đức Kitô Giêsu.

Điều tôi khẩn khoản nài xin,

là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào,

khiến anh em được ơn hiểu biết

và tài trực giác siêu nhiên,

để nhận ra cái gì là tốt hơn.”

(Phil 1: 7-10)

Nghe lời nhủ khuyên như thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hăng say hát lại và hát mãi lời người nghệ-sĩ vẫn hát những ý/lời sau đây:

“Tình đẹp tựa mùa thu vàng,

Tình mình nhiều mộng ước miên man.

Tình là một chuyện huy hoàng,

Tình mình là thành nhớ hoang mang.

Yêu nhau khi xuân tươi thắm,

Yêu nhau trong tiếng ca tiếng đàn.

Yêu nhau trong muôn tia nắng,

Yêu nhau trong ánh trăng mơ màng.

Yêu nhau khi sương thu rơi,

Yêu nhau khi hoa lá xanh tươi.

Yêu nhau khi mưa đông rơi,

Yêu nhau Yêu nhau mãi suốt đời.”

(Văn Phụng – bđd)

Vâng. Cứ thế, mà yêu nhau. Yêu mãi yêu hoài thật đậm sâu, rất dài lâu. Yêu thế rồi, tự khắc sẽ thấy niềm vui lây lan đến với mọi người ở đời. Hết mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn nói lên

những lời yêu đương ấy

với chính mình.

Và mọi người.

“Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm”,

“Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm”,

Xuân đã hồng, thu biếc, tôi làm thơ.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch

Câu chuyện kể bên dưới, lại cũng giống như bài thơ yêu, lòng hoa thắm ở Châu Phi.

Tôi có quen vị linh mục nọ. Ông được cha chánh-xứ mời đến giảng vào buổi Tiệc Thánh, được cử hành tại giáo-xứ thánh Martin de Porres ở Soweto, Nam Phi. Ông là một trong hai người da trắng duy-nhất sống chung với sáu trăm giáo-dân bản xứ trong cộng-đoàn, ở đây. Ông thuật rằng: khi ông giảng, mọi người ở dưới vừa nghe vừa nhảy múa, còn hát vang, cười thích thú mỗi khi ông kể đôi ba chuyện khôi hài để minh hoạ cho đề tài thần học khô cứng, trong bài giảng.             Chia sẻ có đến mười phút, mà cử-toạ vẫn cố nài ông cho họ nghe thêm dăm ba phút nữa. Ông nói đó là lần đầu trong cuộc đời linh-mục, ông bị chê là giảng-giải ngắn quá sức. Ở Soweto, chia-sẻ Lời Chúa tối thiểu phải kéo ít nhất là 20 phút.Thật ra, thì sức sống và năng-lực của giáo-xứ đây, là chuyện thần-kỳ. Bài giảng dù có ngắn, nhưng thánh-lễ vẫn kéo dài đến hơn hai tiếng. Không ai đi trễ. Chẳng ai vội về sớm, để làm gì.

Hôm nay, Giáo hội mừng Chúa Nhật Truyền-Giáo. Theo truyền-thống, đây là ngày để ta suy ngắm về sứ-vụ rao-giảng Tin Mừng của Chúa, đến với mọi người. Nhiều năm về trước, mỗi khi nguyện-cầu cho ơn gọi Thừa-sai, giáo-hội ở đây thường lạc-quyên hỗ-trợ cho công-cuộc truyền-giáo ở các vùng sâu, vùng xa trên thế-giới.

Hy-vọng là, bằng vào nỗ-lực ấy, người dân ngoài Đạo sẽ hồi-hướng quay về cùng Hội thánh. Hẳn ta còn nhớ ở xứ xa xôi thời ấy, chỉ mất 10 xu thôi, ta cũng có thể cho máy bay được ở thêm 1 phút trên bầu trời ngời sáng. Và, chỉ mất một đô thôi, ta cũng có thêm được ít thuốc thang cho người bệnh, đến cả tuần.

Thiên-Chúa có cách riêng biệt của Ngài để đáp trả ý/lời nguyện-cầu, của mọi người. Ngài đổi ngược cảnh-tình thế-giới để cho thấy: ngày nay, nơi nào là xứ-sở truyền-giáo, mới đúng. Ai là người có nhu-cầu tâm-linh, hơn ai hết.

Không có gì để ngờ-vực nữa, các nước phát-triển nay có trách-nhiệm lớn về tiền bạc/tài chánh đối với người anh người chị, ở nước nghèo. Tính bình-quân, ta sở-hữu quá nhiều. Trong khi mỗi ngày, có đến 31,000 người đang chết dần chết mòn vì thiếu ăn, đói khổ. Ở các nước còn đang mở-mang, thì nơi đây, lại thấy sức sống của Giáo-hội triển-nở dồi-dào, mạnh mẽ hơn. Nơi đây, đang thấy sản sinh ra nhiều ơn gọi. Và ơn tử đạo.

Đến nay, người ta còn thấy quá nhiều quốc-gia đã trồi lên như ngọn nến sáng-soi niềm tin, cho thế-giới. Như Nam Phi chẳng hạn, có đến 80 % dân chúng ở đây, theo Đạo Chúa. Và 60 % dân-cư nơi này vẫn hiên-ngang cất bước đến nhà thờ, ngày của Chúa.

Với cộng-đồng người bản xứ thiếu nghèo đủ mọi thứ, ơn gọi lại cứ phát-triển. Và, con số ngôn-sứ tại xã-hội an-bình, công-minh, ít bạo-động, đang cứ thế dần tăng. Và số lượng các vị quyết sống chết vì đạo, không ngại-ngần hy-sinh cuộc sống của chính mình, để người người thấy được một xã-hội lành-mạnh như thế, đang thành hình.

Thế hệ trước, mỗi khi nói đến thừa-sai rao-giảng, ta thường nói theo giọng-điệu kẻ cả, cha chú. Nói, nhưng vẫn theo giọng/điệu tập-trung mọi sự vào Châu Âu. Để rồi, làm cách nào đó khiến nền văn-hoá bản xứ tàn-lụi dần, trong quên-lãng. Ngày tháng ấy, nay trôi dần vào dĩ-vãng. Hội thánh, nay không còn áp-đặt hình-ảnh một Đức Kitô da trắng nắng hồng khom mình trên các trẻ bé da màu, mà ban phát.

Nhưng, người người đều đã nhận ra rằng: Thiên-Chúa nay vẫn hiện-diện với mọi dân-tộc có bản sắc văn-hoá sáng-chói của một bình-minh đầy văn-minh. Những gì Hội-thánh toàn-cầu mang đến cho các Giáo-hội sở-tại, ngang qua tiền bạc và nhân-sự là để phục-vụ. Là, cơ-hội tốt để ta thực-thi những gì mình từng tuyên-xưng ở đây, nơi này. Ngày của Chúa.

Nếu ta chẳng quan-tâm gì tình-trạng đói-nghèo trên thế-giới, như thế là ta chưa nghe biết gì đến tín-thư của Tin Mừng, hết. Tín-thư ấy, nay là: ta phải “cho đi” mọi của cải riêng tư của mình, dù cần-thiết để sống còn. Cho đi, để tất cả con cái Chúa ở đâu đó, đất miền nghèo đói, có cơ may được học hành, được giúp-đỡ về phúc lợi. Và, được săn-sóc về y-tế.

Điều Chúa muốn, là dân con mọi người được sống có phẩm-cách. Hiểu như thế, thì Tin Mừng Chúa Nhật Truyền-Giáo mới có ý-nghĩa sâu-sắc, để đời. Bởi, đã lâu rồi, ta cứ tưởng rằng mình thuộc về Giáo-hội Công-giáo La-Mã tập-trung mọi sự dồn về cho Âu Châu. Hoặc, trời Tây phây phây, đầy đủ. Bởi thế nên, ta vẫn cứ xử sự theo cung cách của kẻ cả, đối với các Giáo hội sở-tại, còn thấp kém. Và từ đó, coi nền văn-minh khác với văn-minh của mình, như tôi đòi, ở dưới.

Rõ ràng là, văn-hoá rất “Tây” của ta, dù có đủ tính-cách tinh-vi phức-tạp, công-bằng và uyển-chuyển, xem ra đang mất đi thần hồn và thần tính, của chính mình. Các nước phát-triển, nay đã nhanh chóng trở-thành đất miền truyền-giáo rất mới, của thế-giới. Trong mai ngày, các nuớc chậm phát-triển, có lẽ sẽ giúp ta tìm lại được diện-mạo Đức Kitô, trong nền văn-hoá của chính mình. Và, một lần nữa như thế, sẽ giúp ta tìm được con đường. Sự thật. Và sự sống. Của Tin Mừng.

Các nước kém cỏi, cho ta thấy rằng, cả vào khi người người có nhu cầu thiết yếu để mưu cầu cho cuộc sống hằng ngày. Sống cho đúng với nhân cách của con người, dù đang ở vào tình cảnh khó khăn, nhưng yêu thương, để đứng vững trong niềm tin yêu, chung thuỷ. Dĩ nhiên là, việc này không đem đến cho ta cú sốc nào cả.

Bởi, như Đức Giêsu nói với ta hôm nay, -và đây mới là điều cần thiết- là: không ai, không có gì, và không nền văn-hoá nào được phép thống-trị người khác. Không được phép trở-thành cơ-chế độc-đoán, với bất cứ một ai. Chí ít là văn-hoá khác mình. Điều, làm cho cộng-đồng dân con Đạo Chúa trở thành những con người cao cả, là lòng khiêm hạ độ lượng. Độ-lượng, trong phục-vụ, khiêm hạ, cả trong lúc được người khác phục -vụ mình, nữa.

Trong cảm-nghiệm những điều như thế, nay ngâm nốt bài hơ còn ngâm dở, vẫn hát rằng:

“Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm,

Xuân đã nồng, thu biếc, tôi làm thờ.

Cửa phòng tôi giăng lưới nhện mong chờ,

Buồn phơ-phất mới trông chiều, ngóng gió.”

(Đinh Hùng – Xin Hãy Yêu Tôi)

Có lẽ, đó sẽ là và còn là sự khác biệt giữa người ở châu Âu, châu Phi và châu nào khác, trong yêu-thương, phụng thờ Đức Chúa, với tấm lòng trong trắng, cũng rất thơ. Đó, cũng sẽ là sự khác-biệt trong cảm-nhận tình yêu-thương nồng-thắm nơi dân con của Chúa, vẫn vui tươi trong thờ phụng và hăng say giùm giúp, đỡ nâng. Đó chính là tình yêu. Là, niềm tin đích-thực của mọi người. Trong đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn  –

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 10: 35-45)

Khi ấy, hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói:“Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi:”Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa:“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Đức Giêsu bảo:”Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp:”Thưa được.” Đức Giêsu bảo:”Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân.Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”

KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Tác giả:  Huệ Minh

Kn.7, 7-11; Dt.4, 12-13; Mc.10, 17-30

Ta vừa được nghe lại câu chuyện khá thú vị về cuộc gặp gỡ hay nói đúng hơn là cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên.

Thánh Máccô ghi lại rằng đây là chàng thanh niên nhưng có lẽ chàng thanh niên này lại là chàng rất đặc biệt. Đặc biệt bởi lẽ ở tuổi xuân thôi nhưng anh lại nghĩ đến đời sau. Chính vì thế, anh ta không ngần ngại hỏi Chúa Giêsu : “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”

Nghe câu hỏi thật lý thú, Chúa Giêsu không trả lời ngay câu hỏi của anh nhưng Chúa Giêsu trả lời khác đi một tí : “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”.

Nghe như vậy, chàng trai cũng hết sức thẳng thắn, chàng bộc bạch : “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.

Phải nói rằng, có lẽ Chúa Giêsu cũng khá sốc bới lẽ dường như chưa bao giờ trong đời mà Chúa lại gặp một chàng trai trẻ mà lại ngoan ngoãn đạo đức đến như vậy. Nhìn thấy anh và nhất là câu trả lời của anh để rồi ta nhìn thấy ánh mắt của Chúa Giêsu thật dễ thương. Thánh Máccô kể tiếp : Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.

Câu chuyện đang hay bỗng dưng kết thúc và theo như ngôn ngữ bình thường là kết thúc không có hậu bởi lẽ chàng thanh niên đã bỏ đi vì buồn. Không buồn sao được khi anh ta có quá nhiều của cải.

Thoạt đầu ta thấy anh ta khôn để hỏi về sự sống đời đời nhưng rồi sau đó xem chừng ra anh ta dại.

Ở đời, cần lắm sự khôn ngoan để minh định về cuộc đời, để định hướng cho mình một lối sống.

Trang sách Khôn ngoan mà chúng ta nghe ở bài đọc thứ nhất đó chính là lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời.

Nói về điểm này, ta thấy ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc “đông đúc”; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi.

Có thể nói rằng may mắn cho ông vì điều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.

Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu chuyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.

Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?

Đây là câu hỏi không dễ trả lời chút nào cả. Theo dõi sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này.

Và cuối, ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.

Qua đây, ta lại có cơ hội để nhìn lại mình để xem ta khôn ngoan ở mức độ nào và khôn ngoan như thế nào ? Ta khôn ngoan theo kiểu thế gian hay khôn ngoan theo kiểu người đời.

Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,

mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.

Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,

trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên ?

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 89, 10-12)

Cuộc đời con người là như vậy. Dù giàu dù nghèo và gia tài kếch xù như chàng thanh niên đi chăng nữa cũng sẽ phải ra đi, sẽ phải khuất chứ không thể nào lột da sống đời để hưởng thụ. Chính vì thế, ta lại cần đi tìm sự khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa đó là ta được mời gọi bán mọi sự để theo Chúa.

Vẫn là con người, vẫn mang trong mình những bám víu của trần gian. Ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta để ta từ bỏ những gì làm cho ta không thanh thoát, những gì làm ta không đến gần Chúa được.

Tác giả:  Huệ Minh

CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI

CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI

 ĐGM Gioan B Bùi Tuần

 Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.

Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.

Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.

Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến

Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.

Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.

Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.

Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín. Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.

Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.

Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo. Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.

Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ

Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.

Năm 1571, trước cơn đe dọa đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.

Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ, rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.

Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.

Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống.” Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.

Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.

Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.

Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.

Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ

Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.

Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.

Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.

Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau.” Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.

Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).

ĐGM Gioan B Bùi Tuần

LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG

LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG

 (Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (10, 17-30) trích đọc vào Chúa Nhật 28 thường niên B)

 Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là người nhìn xa thấy rộng. Tuy có đầy đủ tiền bạc của cải nhưng tâm hồn anh luôn khắc khoải vì có một khao khát chưa được lấp đầy: khao khát được sống đời đời. Vì thế anh tìm đến với Chúa Giê-su mà anh xem như một bậc Tôn Sư lỗi lạc, “quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Chúa Giê-su dạy anh phải giữ các giới răn. Anh đáp: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thuở nhỏ.”

“Bấy giờ Đức Giê-su nhìn anh và đem lòng yêu mến, Ngài bảo: “Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau  đó, hãy đến theo tôi.”

Qua lời dạy nầy, Chúa Giê-su đề nghị anh đánh đổi của cải phù du đời nầy để chiếm hữu kho tàng vô giá đời sau, nhưng khi “nghe lời đó, anh sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải” (Mc 10, 17-30).

Lời đề nghị với người thanh niên giàu có năm xưa lại được Chúa Giê-su gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải khôn ngoan đem những của cải tạm bợ đời nầy đổi lấy kho tàng vững bền trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là hãy “bỏ con tép bắt con cá”,  mà cá đây lại là cá voi, vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.

Phần thu lớn lao nầy đã được Chúa Giê-su xác nhận với thánh Phê-rô và các tông đồ: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời” (Mc10, 29-30).

Đổi tiền giấy lấy vàng

Vào khoảng năm 1975-80, kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng trầm trọng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá. Vì thế, không ai dại dột giữ tiền trong tủ. Khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả lượng vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế mới an lòng chắc dạ.

Đổi vàng và của cải để lấy công phúc

Những người khôn lúc đó đều có một chọn lựa sáng suốt là đổi tiền giấy lấy vàng. Thế nhưng vàng cũng không còn giá trị đối với người đã nhắm mắt xuôi tay, chẳng còn ích chi cho người đã lìa cõi thế. Do đó, một chọn lựa cũng rất sáng suốt cho chúng ta hôm nay là phải đổi tiền, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ “quý kim” muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.

Mai đây, cái chết sẽ thình lình chụp xuống. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người tay trắng, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!

Xét về một vài khía cạnh nào đó, mỗi người chúng ta đều là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng giàu thời giờ, giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ…

Thời giờ ta đang có sẽ trôi qua nhanh chóng như nước chảy qua cầu, hết phút nầy đến phút khác; Sức khỏe ta đang hưởng hôm nay cũng sẽ hao mòn theo năm tháng;

Của cải tiền bạc rồi cũng sẽ không cánh mà bay;

Khả năng làm việc cũng suy giảm dần dần…

Thế thì, tại sao ta không nhanh chóng đem những thứ “của cải tạm bợ” nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hao vơi trước khi chúng kịp bốc hơi?

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải phù du thành công đức bền vững cho mai sau.

Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ… để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội và phục vụ mọi người. Đó là những cách biến gia sản chóng qua đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.

 Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN

SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN

Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles.  Một chiếc nhẫn trị giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công nương trong đêm định mệnh.  Tai nạn bất ngờ sảy ra.  Diana đi về thế giới bên kia.  Không mang theo được đồng đô la nào.  Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.

Nằm trong quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương.  Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:

Kiếp ngắn dài, một mộ bia

Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian

Dừng chân đếm túi hành trang

Những gì còn lại, chuỗi vàng lời kinh?

(Lm. Trần Cao Tường)

Phải chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế gian… không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?

Hạnh phúc sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian.  Thánh kinh đã khẳng định điều đó.  Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên giàu có “chạy” đến.  Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: “Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp.”  Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt cho không ít người: cứ tưởng “có tiền mua tiên cũng được,” đàng này trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua được.  Đấy chính là một khát vọng vô biên.

Vì là khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian này có thể lấp đầy.  Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ gì… ngoại trừ Thiên Chúa.  Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người.  Chính Thánh Augustinô, sau khi trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng mình, đã thốt lên:

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi

Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.

Trước những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu như một cứu cánh.  Anh đã “chạy” đến với Ngài.  Chạy là thái độ của khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng quang, chẳng thiết tha.

Trước tâm tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, không…. Và người đó đáp lại: “Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ.”  Nghe thế Đức Giêsu bảo anh ta: “Ngươi còn thiếu một điều.  Có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ nghèo.  Đoạn hãy đến theo Ta” (Mc 10:21).

Thật kỳ lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công, không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ.  Chàng thanh niên giữ các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu.  Không biết đời tôi từng phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!

Thế nên không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời, chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu.  Nếu chỉ không điều này, không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa.  Theo vô vi cũng được vậy.  Song người ta cần phải có.  Đó là có yêu thương, có quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.

“Hãy đến mà theo Ta” cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến đời mình cho sự sống tha nhân.  Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.

http://tonggiaophansaigon.com/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Images/201210/lal301131.jpgNong nả đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu.  Thánh kinh cho biết “vì anh ta có nhiều của” (Mc 10:22).

Bước theo Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất.  Bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ.  Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.”  Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại, thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống.  Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến mình làm “con vật kinh tế,” thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt, chà đạp, sát phạt kẻ khác… vì đồng tiền.

Bao lâu chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi “sầm mặt xuống, buồn rầu.”  Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong tình yêu và tiếng cười.  Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở:  “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công.  Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó.  Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục.”  Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”

Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự.  Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen.  Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo.  Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.

Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự.  Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều.”

Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi.  Yêu thương san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có.  Đức Giêsu đã bảo: “Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ nghèo.” Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca, nụ cười….

Vậy nếu trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức Kitô- “Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời” – hay tôi sẽ cúi mặt, bỏ đi, buồn rầu.

Chọn lựa bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu.  Nhưng đó lại chính là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.

LM Phêrô Bùi Quang Tuấn

Cha mẹ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong thánh (18-10-2015)

Cha mẹ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong thánh (18-10-2015)
Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

(VATICAN CITY, 1-10). Chân phước Martin và Zélie sẽ là đôi vợ chồng đầu tiên đồng thời được phong thánh. Thánh lễ sẽ diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 2015 tại Vatican. Sự kiện này diễn ra trễ hơn ba tuần so với ngày lễ thánh mừng con gái của hai ngài là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, tiến sĩ Hội Thánh (ngày 01 tháng 10).

Đức Thánh Cha đã phê chuẩn các sắc lệnh cho phép việc phong thánh của ông bà Martin trong kỳ hội đồng giám mục tại Điện Tông Tòa ngày 27 tháng 6.

Ngày 18 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã công nhận một phép lạ của hai ngài.

Sau ba tháng quen nhau, ông Louis Martin và bà Zélie Guérin đã thành hôn (13-7-1858). Họ sống độc thân gần một năm, nhưng cả hai nhận ra ý Thiên Chúa muốn họ sống nghĩa vợ chồng và họ có chín người con. Bốn người chết ngay trong thời thơ ấu, trong khi năm cô con gái còn lại lần lượt vào Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng.

Zélie qua đời vì căn bệnh ung thư vào năm 1877 để lại năm cô con gái nhỏ cho Louis chăm sóc: Marie, Pauline, Leonie, Celine, và Têrêsa khi ấy mới lên bốn tuổi. Louis qua đời năm 1894 sau cơn đau đớn vì hai lần đột vào năm 1889, và suốt 5 năm đau bệnh trầm trọng kéo dài.

Cả Louis và Zélie được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phong chân phước ngày 19 tháng 10 năm 2008.

Việc phong thánh của cặp vợ chồng này sẽ trùng với Thượng Hội Đồng về gia đình được tổ chức vào ngày 4 tới ngày 25 tháng10. Lần gặp gỡ của các giám mục trong ba tuần này sẽ là lần gặp thứ hai và lớn hơn so với hai lần họp như vậy sẽ diễn ra trong suốt năm nay. Như năm 2014, trọng tâm của Hội Đồng Giám Mục năm 2015 là gia đình, với chủ đề: “Ơn gọi và sứ mạng của các gia đình trong Giáo Hội và thế giới hiện đại “

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn kính thánh tích Chân Phước Louis và Zélie trước Thượng Hội Đồng 2014 về gia đình, cùng với cặp vợ chồng khác: Chân phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi.

Công bố tại Tòa án phong thánh hôm thứ bảy rằng Chân phước Louis và Zélie được phong thánh cùng với hai người khác: Chân phước Vincenzo Grossi, một linh mục người Ý là đấng sáng lập hội chị em Tiểu muội và chân phước Mary of the Immaculate Conception (Maria Isabel Salvat Romero), người Tây Ban Nha bề trên tổng quyền của Dòng Các Sơ Thánh Giá.

Chúng ta hãy cầu xin với hai thánh nhân cùng với thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ban cho mỗi gia đình chúng ta thật nhiều phúc lành của Chúa!

Chuyển ngữ: Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

XIN VÂNG

XIN VÂNG

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ.  Hai tiếng “Xin vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.

Trước hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.

Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người.  Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người.  Chúa muốn con người được hạnh phúc.  Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người.  Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa.  Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa.  Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa.  Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.  Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ mà thành công.

Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người.  Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với Đức Chúa Cha.  Với hai tiếng “Xin vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.  Sau hai tiếng “Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.

Hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.

Hai tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ.  Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng.  Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận.  Thì này con đến để làm theo ý Cha”.  Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường.  Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này.  Nhưng xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.

Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa.  Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn.  Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập.  Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà.”  Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo.  Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.

Như thế, để nói tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình.  Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình.  Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé.  Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng.  Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.

Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta.  Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất.  Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được.  Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với Chúa.  Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.  Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa.  Hãy xin vâng khi vui.  Hãy xin vâng khi buồn.  Hãy xin vâng khi hạnh phúc.  Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn.  Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời.  Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.

Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ.  Amen.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chi Thu Mai goi

LỜI TRẦN TÌNH ĐÁNG SUY TƯ CỦA MỘT CỰU LINH MỤC

CAu nguyenLỜI TRẦN TÌNH ĐÁNG SUY TƯ CỦA MỘT CỰU LINH MỤC

 Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục.  Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô.  Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách.  Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên.  Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa.

Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý.  Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa.  Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này.  Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện họ lên tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài.  Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt.

Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó.  Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi.

Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con.  Con phó thác mọi sự trong tay Chúa.  Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì?”

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện.  Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa.  Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi.  Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân.  Siêu đẳng như tôi thì không cần.  Càng ngày tôi cũng càng ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên.  Chuyện gì đến cũng đã đến.  Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt.  Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này:  Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài.  Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện.”  Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha.  Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao.  Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính.  Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”: Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa.  Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí “dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn.

Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ.  Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng.

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.

Trích “Nên thánh trong thời đại mới”, Kilian Mc Gowan, C.P

Người dịch LM JBM Trần Minh Cương

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

  1. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

– Chúa ở cùng anh chị em.

Dừng lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ quá kỳ diệu.

Chúa ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại lời cầu chúc:

– Và ở cùng cha.

* * *

Nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói, nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo làm sao! Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.

Khi họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi EMMANUEL.

EMMANUEL là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để mất vẻ đẹp: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA?

* * *

EMMANUEL

– Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).

Khởi đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”

Kết thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về mình bằng lời chấm dứt như sau: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28:20).

Mở đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở cùng con người.

* * *

TÌNH YÊU VÀ Ở CÙNG

Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống.

Thiên Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên.

Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.

Trong cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe mạnh hơn, tôi vớt anh lên.

Màu nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.

Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên thương xuống?

Tại sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà lại là cùng xuống để nhìn?

Phêrô cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan. Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa. Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.

Ðời người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Ðể giúp người học trò tìm kiếm. Nhà đạo sĩ hỏi người học trò:

– Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?

Tình yêu không cứ là “doing”, mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở cùng – being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”, mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là có “doing” đó, nhưng vắng mặt của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con. Bà không “doing” được điều gì theo nghĩa sản xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó. Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”

Trong cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói rằng “anh ở cùng em.” Buổi chiều đó có thể trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà không có “being”. Trong nỗi đau, con người thường kêu:

– Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.

Họ muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! (Lc. 23:39). Con người thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền năng thoát khỏi cái chết này.

Tại sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà là chết cùng?

Trước khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học trò về một kinh nghiệm:

– Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau đó. Nhưng nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em. Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi không “doing” gì được. Ông ở nhà đi câu.

Hạnh phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.

Thiên Chúa ở cùng.

Ðó là ý nghĩa EMMANUEL, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như sau:

Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc 15: 37).

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:

Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).

Hai sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà ta phải kiếm tìm.

– Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi, cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như thế, tên gọi EMMANUEL, càng ngày theo chiều lịch sử cứu độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn màu bật tung lên trong thánh lễ.

– Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”. Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người. Ðáng nhẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu đuối nhất?

Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.

Ở cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở cùng.

Chiều sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho con?

Tại sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?

“Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu là ý nghĩa ở cùng?

Ðây là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.

Trời khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao. Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.

Vị tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại. Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng và bóng đêm của riêng anh.

* * *

Từ lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả tên gọi làm người của Thiên Chúa, EMMANUEL, Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:

– Chúa ở cùng anh chị em.

– Và ở cùng cha.

  1. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

(Trích tập suy niệm “KẺ ÐI TÌM”)

Anh chị Thụ Mai gởi